Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
09/09 Ý nghĩa ngày Sabbat
- Viết bởi Lc 6, 1-5
Ý nghĩa ngày Sabbat.
Thứ Bảy tuần 22 thường niên.
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Lời Chúa: Lc 6, 1-5
Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi”. Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Điều không được phép làm
“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”
“Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?”
“Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?”
Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao.
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa:
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát?”
Câu chuyện đơn giản như sau.
Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín.
Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn.
Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26).
Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm.
Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21).
Nhưng truyền thống đã dựng thêm một hàng rào bảo vệ,
bằng cách coi bứt lúa cũng là một hình thức gặt lúa.
Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát.
Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình.
Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh.
Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao.
Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”,
khi họ đến đền thờ Nốp, gặp tư tế Akhimêléc (1 Sm 21, 2-7).
Vị tư tế này đã cho họ ăn thứ bánh đặt trước nhan Đức Chúa (Xh 25, 30)
mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9),
khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát.
Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn.
Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật.
Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài,
dù nó không liên quan gì đến chuyện giữ ngày sabát.
Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật.
Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5).
Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài.
Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa.
Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu.
Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó,
sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe.
Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột.
Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13).
Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7).
Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời.
Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó.
Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu
để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người.
Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn?
Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu?
Cầu nguyện
Lạy Chúa,
con được no nê mà vẫn thiếu ăn,
vì bên con còn có người đói lã
Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran
vì bên con còn có người đang khát
Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi
vì bên con còn có người phiền muộn.
Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm
vì bên con còn có người mù tối
Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi.
vì bên con còn có người trần trụi
Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,
vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn.
(Myrtle Householder)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm 2: Phục vụ Tin mừng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa, phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Suy niệm 3: Ý nghĩa đích thực của lề luật
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.
Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra Suy niệm và thực hành:
"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
Suy niệm 4: Ý nghĩa của lề luật
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau:
Một hôm, có một quận công hỏi ông: - Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Ðavít Hume trả lời: - Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công hỏi lại: - Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia đáp: - Số lớn nhất là số một.
Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.
Suy niệm 5: Vì con người hay vì ngày sa-bát
Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: “Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?” (Lc. 6, 1-2)
Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.
Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.
Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.
Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.
GF
Suy niệm 6: Luật vì con người
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc môn đệ Đức Giêsu bứt lúa và ăn trong ngày Sabát. Thời điểm này vào khoảng tháng tư trong năm và rơi vào cuối mùa hạ.
Câu chuyện những người Pharisêu hôm nay lên tiếng khiển trách thầy trò đã đến mức căng thẳng. Họ cảnh cáo Đức Giêsu và các môn đệ không giữ Luật. Lý do:
1) Một là đi qua đồng lúa, tức vi phạm luật chỉ được đi 100 mét ngoài thành vào ngày hưu lễ;
2) Hai là bứt lúa rồi chà trấu trong tay để ăn, một hành vi tương đương với viêc gặt lúa, vậy là vi phạm luật cấm việc xác.
Khi cảnh cáo như thế, ngầm hiểu rằng họ đã ra “tối hậu thư” cho thầy trò Đức Giêsu, nếu còn vi phạm thì sự việc sẽ bị coi là cố tình trước mặt các nhân chứng và đáng chịu tử hình, vì coi thường ngày hưu lễ.
Đáp lại, Đức Giêsu đã lật ngược vấn đề và đặt ra cho họ câu hỏi: "Các ông chưa đọc điều Ðavít đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Hay như các tư tế trong đền thờ. Khi hưu lễ trùng với một đại lễ, các tư tế và các phụ tá phục dịch phải giết chiên nhiều hơn, thế mà vẫn không bị buộc tội vi phạm hưu lễ!
Khi nói như thế, Đức Giêsu mặc khải cho họ rằng: Ngài chính là đền thờ mới, là Con Thiên Chúa, có một quyền bính tự Trời ban cho. Vì thế, Ngài đến để lập lại trật tự nguyên thủy của Lề luật. Lề luật không thể có vai trò tuyệt đối. Nó chỉ được lập ra vì con người, chứ không được trở thành gánh nặng áp bức con người. Ngài đến với tư cách là Chủ của Lề Luật, có quyền ngang với Thiên Chúa, để hoàn chỉnh Lề Luật hoặc sửa đổi nó, một khi không còn thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy giải thoát khỏi tâm trí chúng ta một thứ ý thức hệ vụ hình thức, chuộng cơ cấu, cứng nhắc làm tê liệt tình yêu đối với Chúa và lòng nhân ái đối với tha nhân. Nếu cứ bán vào Luật thuần túy, hẳn không thể có một trái tim biết yêu thương nhạy bén với ơn Chúa và sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống cốt lõi của Luật. Biết dùng Luật như là phương tiện để giúp nhau sống tốt hơn chứ không phải dùng Luật để cưỡng ép nhau. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thương xót và cảm thông
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Theo gương Chúa Giêsu, hãy có lòng thương xót và biết nhìn bằng tinh thần cảm thông, tha thứ. Đừng nhìn nhau kiểu “bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì tội nguyên tổ mà tội lỗi đã tràn vào thế gian. Từ đó, lòng người trở nên nhỏ mọn, hay ghen tị và thích đè bẹp kẻ khác. Ca-in vì ghen tị mà nhẫn tâm giết em là A-ben. Con cái của Gia-cóp cũng vì ghen ghét mà bán em là Giu-se sang Ai-cập. Vua Sau-lê rắp tâm hãm hại Đa-vít cũng vì ghen tức. Các biệt phái theo Chúa và các môn đệ như một cái bóng để tìm cách bắt lỗi cũng vì ghen ghét Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã đến khai mở con đường yêu thương. Chúa đi tiên phong trên con đường đó và dạy con bước theo. Ai cũng có ưu điểm và có cả khuyết điểm. Chúa đã nhìn vào ưu điểm của mỗi người mà cứu vớt họ. Chúa đã gọi một Phê-rô chân thành, Chúa đã chọn một Mát-thêu dứt khoát. Chúa không ngần ngại đến nghỉ tại nhà ông Gia-kêu, Chúa không lầm khi tha tội cho người phụ nữ ngoại tình… Xin cho con có cái nhìn như Chúa. Xin cho con mạnh dạn bước theo Chúa trên con đường yêu thương.
Xin Chúa thanh luyện đôi mắt con để con nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em con. Xin Chúa hướng dẫn đôi tay con để con đối xử tử tế với mọi người. Xin uốn nắn miệng lưỡi con, cho môi miệng con bớt chua ngoa, chì chiết người khác, và thay vào đó bằng lời khích lệ nâng đỡ tha nhân.
Xin Chúa dìu con đi bằng ơn thánh của Chúa, để con đủ sức đi trọn con đường yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Suy niệm 8: Thực thi luật Chúa với tình yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trên đường trốn sự truy bức của vua Saulê, Đavít và các thuộc hạ đói không có gì ăn đã ăn bánh tiến (x. 1Sm 21,1-6), điều không được phép làm…, bánh tiến gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh (x. 1Mcb 2,34-38).
Suy niệm
Người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu và môn đệ Ngài, khi các môn đệ vì đói mà bứt bông lúa ăn trong ngày Sabát. Chúa Giêsu trả lời buộc tội của họ khi dẫn chứng vua Đavít đã vào đền thờ lấy bánh dành cho thượng tế để ăn cho đỡ đói. Qua đó, Chúa Giêsu nhấn mạnh giá trị cao cả nhất là hướng dẫn hành vi của con người vì con người chứ không cứng nhắc luật vì luật.
Như thế, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật như người biệt phái thường kết án Ngài, nhất là vi phạm ngày Sabát. Vào mỗi ngày Sabát, Ngài vẫn đến hội đường Do Thái đọc Kinh Thánh, như thế Ngài vẫn tuân giữ ngày Sabát, nhưng Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa cao cả. Vì thế với ngày Sabát, Chúa Giêsu đưa ra ba viễn tượng sâu sắc hơn luật về ngày Sabát của người Do Thái:
Chúa Giêsu xác nhận sự tôn trọng luật ngày Sabát. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh: Phải vượt trên cách thực thi luật pháp cứng nhắc của người Pharisiêu, khi chú ý đến ý nghĩa nhân văn của ngày Sabát. Trình thuật các môn đệ bứt bông lúa trong ngày Sabát mà Chúa Giêsu bảo vệ, giải thích Lề Luật dưới ánh sáng của thánh ý Thiên Chúa: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát”. Ngày Sabát nhắm đến sự sống viên mãn của con người (Mc 3,4; Mt 12,11-12).
Chúa Giêsu hoàn thành ý nghĩa ngày Sabát như Ngài đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17): Đó là ngày của tình thương và giải thoát con người khỏi sự dữ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sứ mạng của Chúa Giêsu được hoàn tất trong việc trao ban cho nhân loại ân sủng để thực hiện ơn gọi của mình, bởi ơn gọi đó mà Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy đã tạo dựng con người. Ân sủng được ban trước hết cho những người bị tổn thương nơi thân xác và linh hồn, đó là: Những người đau yếu bệnh hoạn, những người tàn tật, những người đui mù, những người tội lỗi. Đối với Chúa Giêsu, ngày Sabát là ngày của hành động giải thoát.
Chúa Giêsu là “Chúa” của ngày Sabát vì Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn, qua đó Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn, là cùng đích của giới luật ngày Sabát.
Trong ý nghĩa đó của ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bộc lộ sự tự do và cứu chữa trong ngày Sabát đến mức dường như các phép lạ thường tập trung vào ngày này: Sau việc bứt bông lúa trong ngày Sabát (x. Mc 2,23-28; Mt 12,1-8; Lc 6:1-5); Chúa chữa lành người bị bại tay (x. Mc 3,1-6; Mt 12,9-14; Lc 6:6-11), Chúa chữa lành người phụ nữ còng lưng (x. Lc 13,10-17) và người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Chúa chữa người bị bại liệt ở hồ nước tại Bếtdatha (x. Ga 5,1-18) Chúa cho sáng mắt người mù từ khi mới sinh cũng trong ngày Sabát (x. Ga 9,1-41).
Xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu biết tính tích cực của Lề Luật. Thực thi luật Chúa không phải là gánh nặng, nhưng với tất cả tình yêu thương như thánh Phaolô dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10)
Ý lực sống
“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Suy niệm 9: Môn đệ bứt lúa vào ngày sabát
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Ngày sabát nghỉ việc là để ghi nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi sau khi tạo dựng nên thế giới (Xh 20,8-11). Đồng thời nó cũng loan báo việc dân Thiên Chúa khi kết thúc thời gian, đi vào nơi yên nghỉ và bình an của Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát. Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án. Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay nói lên sự dị biệt của Chúa Giêsu và người biệt phái về ngày sabát, ví dụ như việc các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa ăn khi đi qua cánh đồng. Mọi sự việc tầm thường không đáng kể, nhưng cái tính hay ghen tương nghi ngờ, cái tính hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của những người biệt phái đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabát. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Ngày sabát, bứt mấy bông lúa như thế chẳng có lỗi gì, luật chỉ cấm cày cấy hay gặt hái, nhưng những người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm làm trong ngày sabát. Đây là tính hay xét nét, khắt khe, quét nhà ra rác... để sinh ra mất lòng nhau.
“Đức Giêsu trả lời: Các ông chưa đọc...”
Đức Giêsu bênh vực các môn đệ bằng cách giải thích cho họ nhớ lại những trường hợp được miễn giữ luật. Và Đức Giêsu đã rút ra từ Thánh kinh hai trường hợp được miễn giữ luật để minh chứng: 1Sm 21,1-6 và Ml 12,5-6. Ở đây Luca chỉ ghi lại trường hợp thứ nhất về câu chuyện vua Đavít cùng với thuộc hạ vì đói quá, nên đã ăn bánh trưng hiến trong đền thờ, thứ bánh mà chỉ dành riêng cho tư tế mới được ăn.
Nại đến bằng chứng này, Đức Giêsu muốn nêu lên rằng: được miễn giữ luật khi có việc tối cần, mà ở đây là trong lúc quẫn bách không có gì ăn cho đỡ đói ngoài thứ bánh trưng hiến (Lm. Trần Hữu Thành).
Đức Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5).
Trả lời phỏng vấn trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại Kohn, nước Đức, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 cho biết Ngài sẽ nói với các bạn trẻ khắp thế giới rằng: được làm người Kitô hữu thật tốt đẹp biết bao, bởi vì đây đó vẫn phổ biến một quan niệm rằng Kitô giáo chỉ gồm những luật lệ cấm đoán mà ta phải tuân giữ. Vị Đại Diện Đức Kitô cho thấy đời sống Kitô hữu có những luật lệ, nhưng đó là đôi cánh để đưa ta lên cao.
Hôm nay lời Chúa nói với chúng ta rằng Ngài là chủ của ngày sabát, nghĩa là Ngài có quyền qui định luật lệ cho ngày lễ nghỉ nói riêng và mọi luật lệ tôn giáo. Chính những luật lệ ấy nâng chúng ta lên cao khỏi những khuynh hướng thấp lè tè của bản năng, để đến gần và nên giống Đức Kitô hơn.
Đức Giêsu vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương; nếu không, việc giữ luật chỉ là việc đạo đức ở bên ngoài, mà bên trong không có thực chất. Giữ luật là thể hiện tình thương, không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Truyện: Giữ luật một cách máy móc
Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Suy niệm 10: Giữ luật theo tinh thần
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Những người luật sĩ và Pharisêu bề ngoài xem ra có vẻ rất tôn trọng luật pháp nhưng bên cạnh việc giữ luật như thế hỏi còn có một hậu ý gì khác nữa không? Chắc là phải có một cái gì đó, cho nên chúng ta mới thấy Chúa không ca tụng họ.
Một hôm, quận công Ressen hỏi triết gia David Hume:
- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Triết gia David Hume trả lời:
- Là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công Ganh Ressen hỏi lại:
- Vậy thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia liền trả lời:
- Số lớn nhất là số một.
Thực tế trong rất nhiều quốc gia, chúng ta thấy luật pháp được làm ra là chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Số lớn nhất thường là số một, chỉ là một thiểu số. Một thiểu số thủ lợi còn những người khác thì phải è cổ ra mà chịu. Luật pháp là của Chúa nhưng nhiều khi họ giải thích rồi thêm vào những qui định quá đáng để phục vụ quyền lợi cho phe nhóm, cho một thiểu số của họ.
Như vậy thì muốn việc giữ luật cho đúng thì phải giữ theo tinh thần của luật.
2. “Con người là chủ của ngày hưu lễ” (Lc 6,5)
Chúa vẫn là chủ của luật pháp. Vậy phải giữ ngày Sabat hay hưu lễ thế nào?
Có người kia lúc sinh thời rất tự hào về đời sống luân lý, liêm sỉ, chính trực của mình. Rồi một hôm ông bị bệnh nặng và qua đời, linh hồn ông bay thẳng đến trước cửa Thiên Đàng và xin được trình diện trước tòa Chúa.
Tới nơi, ông phủ phục thưa:
- Lạy Chúa, Chúa quá biết rõ đời con, suốt đời con luôn trung thành tuân giữ luật Chúa, không hề bỏ sót hoặc lỗi phạm điều gì bất lương bất chính cả. Này đây con xin Chúa thương nhìn xem bàn tay trong trắng của con.
Thiên Chúa nhân từ nhìn ông và nói:
- Con ơi, con nói đúng, hai bàn tay con trong sạch, không vướng mắc tội gì cả. Nhưng đáng tiếc con chỉ có hai bàn tay trắng, còn ngoài ra thì không có một việc lành phúc đức nào cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trong mỗi cộng đồng tôn giáo, bao giờ cũng có những người đạo đức rất khắt khe trong vấn đề giữ luật đạo. Họ lo giữ luật đạo một cách chặt chẽ chi li sao cho đúng việc, đúng thời gian, đúng truyền thống. Đối với họ giữ đạo là giữ lề luật.
Chính vì thế nên khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ luật như họ, thì coi đó là một điều thiếu sót đáng trách.
3. Chúng ta thấy, Đức Kitô không bao giờ chủ trương phá hủy lề luật: “Ta đến không phải để phá hủy luật pháp” – “Ta bảo thật các ngươi cho dù trời đất có qua đi nhưng một chấm một phết trong luật cũng không được bỏ qua”(Mt 5,18). Ngài vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương nếu không, việc giữ luật sẽ chỉ là việc đạo đức ở bề ngoài, mà bên trong không có thực chất.
Giữ luật là thể hiện tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Một người thợ xây đang ở trên giàn giáo cao bị xảy chân rơi xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”(Mt 5,38) của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa vốn từ lâu đã thấy những cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ rằng: Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta đúng bằng cách ấy, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn giáo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phán xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.
Mẹ Têrêsa nói: “Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối. Tình yêu Chúa Giêsu yêu chúng ta đã đưa Ngài đến chỗ chết.
Thiên Chúa quan tâm đến tình yêu của chúng ta.
Chúa chẳng cần ai, Ngài có cách làm được tất cả, Ngài có thể làm luôn cả công trình của những người tài năng nhất.
Chúng ta có thể làm việc đến cùng kiệt, có thể làm việc tới tuyệt mức. Nhưng nếu công việc chúng ta không gắn kết với tình yêu, sẽ là vô ích dưới mắt Chúa”.
Suy niệm 11: Con Người là chủ ngày sabát
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát:
- Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án.
- Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái đã quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày Chúa nhựt, nếu tôi chỉ biết nghỉ làm việc và đi dự lễ thì chưa chắc là tôi đã “thánh hóa” ngày đó theo đúng ý muốn của luật Giáo Hội. Tôi còn phải yêu mến Chúa nhiều hơn và quan tâm đến anh em tôi hơn.
2. Nếu tôi giữ luật chỉ vì đó là luật thì việc giữ luật của tôi không đem lại lợi ích thực nào cho tôi mà lại thêm nặng nề khó chịu. Nếu tôi buộc người khác giữ luật chỉ vì đó là luật thì cũng chẳng ích lợi gì cho người khác, trái lại càng làm cho người khác khổ sở thêm.
3. “Con Người là chủ của ngày hưu lễ”: Chúa Giêsu là chủ của ngày Chúa nhựt. Ngày Chúa nhựt tôi có quy hướng mọi sự về Chúa Giêsu không?
4. “Con Người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5)
Hồi bé, tôi luôn phải nghe đi nghe lại điệp khúc: “nghỉ chơi đi lễ, lễ xong về chơi chẳng muộn”. Vâng, tôi đã đi lễ, nhưng đi một cách miễn cưỡng. Giáo Hội thật “ác”, đặt ra bao điều phải theo.
Bây giờ tôi đến với thánh lễ không phải vì những luật lệ, những “điệp khúc” hồi bé, nhưng bằng chính tấm lòng, bằng sự khao khát của con tim, của tâm hồn muốn có được sự bình an vĩnh cửu. Nghĩ lại, tôi thầm cám ơn Chúa vì những luật lệ trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con đến với Chúa không phải vì lề luật đòi buộc, nhưng với cả tấm lòng của một người con. (Hosanna).
08/09 Bà sinh con trai.
- Viết bởi Mt 1, 1-16. 18-23
Bà sinh con trai.
Thứ Sáu tuần 22 thường niên – SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA. Lễ kính.
"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".
* Sinh nhật của Đức Maria vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gioan, vị Tiền Hô. Sinh nhật của Đức Maria loan báo Sinh Nhật của Đức Giêsu, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà Anna và ông Gioakim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.
Lời Chúa: Mt 1, 1-16. 18-23
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Bà sẽ sinh con trai--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Sinh nhật Đức Maria--TGM Giuse Nguyễn Năng
3. Ngày 8 tháng 9: SINH NHẬT ĐỨC MARIA
4. Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
5. Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
6. Sinh nhật Đức Maria--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
7. Sinh nhật Đức Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
8. Cuốn sách một chữ--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
9. Gia phả của Chúa Giêsu Kitô--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
10. Sinh nhật Đức Maria-- J.M
11. Sinh nhật Đức Maria--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
12. Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Enzo Lodi
13. Mẹ Maria là Evà mới--Jos.Vinc. Ngọc Biển
14. Mẹ thật diễm phúc--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
15. Lễ sinh nhật Đức Trinh nữ Maria--Lm Anphong Trần Đức Phương
16. Lễ sinh nhật Đức Mẹ--Lm. Giacobe Phạm văn Phượng, O.P.
17. Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
18. Noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay--Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm
19. Lễ sinh nhật Đức Maria-- Linh Tiến Khải
20. Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria--NguoiTinHuu.com
21. Có sinh nhật nhờ Chúa Giêsu
1.Bà sẽ sinh con trai--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét,
thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ.
Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng!
Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác,
bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao,
sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể.
Em bé ấy tên là Maria.
Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria.
Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng.
Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại,
vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao.
Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình.
Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ,
để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn.
Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi.
Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu.
Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do,
không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn,
dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse.
Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái.
Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người,
nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị.
Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài.
Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ.
Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng.
Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới.
Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường.
Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng.
Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội.
Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét.
Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình.
Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria.
Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy.
Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha,
và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng.
Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta.
Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi, để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
2.Sinh nhật Đức Maria--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Như Mẹ Maria, ta đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa vì Ngài luôn điều khiển mọi biến cố để thực hiện chương trình cứu độ loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín về sự khôn ngoan tuyệt vời mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa cho Mẹ được sinh ra và chuẩn bị cho Mẹ mọi điều thiện hảo, để qua tiếng xin vâng của Mẹ, Chúa nhập thể nơi cung lòng Mẹ. Chính Thiên Chúa đã can thiệp và khởi đầu công trình cứu chuộc loài người hoàn toàn tốt đẹp. Trinh nữ Maria đã trở thành người Mẹ hoàn hảo mà vẫn trong trắng vô ngần. Phần thánh Giuse, dù với bao lo lắng, ưu tư, đã nên công chính hơn nhờ sự quyết tâm thi hành mọi lệnh truyền của sứ thần. Con xin thờ lạy sự khôn ngoan và quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Mẹ Maria đã vâng nghe Thánh Ý Thiên Chúa, đã đón nhận và sống thân mật với Chúa cả xác hồn. Nhưng Mẹ không giữ hạnh phúc cho riêng mình. Mẹ đem Chúa và hạnh phúc đến cho mọi người: Mẹ đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét để trao hồng phúc cho cả nhà; tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ giúp cho buổi tiệc trọn niềm hân hoan…
Xin cho con noi gương Mẹ, biết đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, sống thân mật với Chúa, và hơn nữa biết giới thiệu Chúa và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Xin cho con luôn kết hợp mật thiết với Thánh Thể, luôn gắn bó với Lời Hằng Sống, để rồi chia sẻ hạnh phúc với mọi người bằng đời sống bác ái yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con luôn làm theo Ý Chúa để niềm tin của con như Mẹ Maria, được trọn vẹn và hân hoan trong Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần”.
3.Ngày 8 tháng 9: SINH NHẬT ĐỨC MARIA
Hôm nay chúng ta mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những trang đầu của Tin Mừng Thánh Matthêô. Qua những trang Tin Mừng đặc biệt này chúng ta có dịp suy niệm về Ơn gọi Thiên Chúa dành cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Thánh Sử Matthêô đã mở đầu chứng từ về Đức Giêsu Con Thiên Chúa với những lời sau đây: gia phả đức Giêsu Kitô, Con Vua Đavit, Con của Abraham..." (Mt l.l).
Đây là những lời loan báo về lòng từ bi Chúa đang và sẽ trải dài từ đời này sang đời khác, "vì lòng từ bi của ngài tồn tại muôn đời" (Cf Tv 100,5; l36).
Đọc lại đoạn Tin Mừng này hôm nay chúng ta thấy việc Chúa gọi Đức Maria để công tác vào chương trình cứu độ của Người thật là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này đã khởi sự và trải dài qua suốt dòng lịch sử của loài người.
1. Mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi.
Vâng điều đầu tiên chúng ta gặp khi đọc bản văn này là mầu nhiệm tiếng Chúa gọi. Sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương, không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí, và nhiều khi còn là điều gây gương mù nữa.
Chẳng hạn, trong sách gia phả Đức Giêsu Kitô, chúng ta thấy Abraham thay vì chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac, con của lời hứa, con của bà Sa-ra, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc lại chúc lành cho Gia-cóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Gia-cóp cũng không trực tiếp thông truyền sự nối dõi giòng giống dẫn tới Đấng Messia. Ông đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, người giỏi giang hơn tất cả các anh em, người đã tha thứ cho anh em mình và cứu họ thoát khỏi nạn đói ở Ai Cập. Nhưng lại chọn Giuđa, người con thứ tư, người đã cùng với các anh em khác chịu trách nhiệm về việc bán Giuse cho các lái buôn để họ đưa cậu sang Ai Cập.
Nếu việc Thiên Chúa chọn lựa các tiền nhân của Đấng Messia là một mầu nhiệm làm cho chúng ta chú ý thì việc Chúa chọn Đức Maria để cộng tác với Người lại càng làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn. Để chuẩn bị cho Con của Người nhập thể, Thiên Chúa đã không chọn những bậc cung vương quyền thế, đã không chọn những con người giỏi giang xuất chúng…. nhưng Người đã chọn một cô thôn nữ bình thường, một người con gái sống ở một nơi chẳng ai màng tới, một thiếu nữ nhà quê nghèo nàn lạc hậu. Vâng đó là công việc của Chúa.
Xét như vậy thì chúng ta thấy chẳng ai trên trần gian này xứng đáng để được Thiên Chúa chọn, chẳng ai được chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi của Chúa. Chúng ta hãy nghe lại lời của tiên tri Giêrêmia như một kinh nghiệm: Chúa đã nói: "Ta đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời" (Ger 3,1,3). Hay như lời tiên tri Isaia "Từ lòng mẹ, Chúa đã gọi tôi" (Is 49,1). Như vậy điều làm cho một thụ tạo hãnh diện, đó là ý thức mình được gọi và được chọn vì tình thương.
2. Mầu nhiệm của tội lỗi và ân sủng
Rồi nếu chúng ta đi xa hơn một chút nữa: khi xét tên của các Vua ở trong sách gia phả Đức Giêsu, chúng ta lại có thể nhận ra rằng chỉ có hai vị là trung thành với Thiên Chúa, đó là Ezechiel và Geroboam. Những vua khác đều là những kẻ thờ thần tượng, vô luân, sát nhân... Cả trong thời kỳ sau cuộc lưu đày, trong số các vua được kể tên, chúng ta chỉ thấy có hai người còn trung thành với Chúa, đó là Salathiel và Zorobabel. Những vua khác đều là những kẻ tội lỗi hoặc không được biết đến.
Riêng đối với Đavid, người nổi danh nhất trong các vua vì từ dòng dõi này Đấng Messia đã được sinh ra thì sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: Ngài đã công khai xưng thú các tội ngoại tình và sát nhân trong các Thánh Vịnh do Ngài viết. Hẳn anh chị em đã có lần nghe những lời được viết trong nước mắt và cay đắng trong Thánh Vịnh 50, một Thánh vịnh đã trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của Giáo Hội.
Cả những phụ nữ, những người mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động.
Tất cả họ đều là những phụ nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói "đó là vợ của ông Uria" . Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, từ dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác này đã phát sinh ra một nguồn nước trong, và khi càng đến thời gian của Chúa thì giòng nước ấy càng trở nên sung mãn. Đến Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia thì tất cả đã trở nên kỳ diệu đến lạ lùng.
Như vậy danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy phải tuyên dương mầu nhiệm từ bi của Thiên Chúa. Chúng ta thấy trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối Ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở nên những cột trụ của Giáo Hội. Chúng ta thấy ở thế gian này, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, thì họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng nổi danh, hoặc sự cao cả của mình... Còn đối lịch sử ơn Cứu độ thì đây quả là một trường hợp duy nhất, thật đáng ngưỡng mộ, khi thấy một dân tộc không hề muốn dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sự chính thức của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về những công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện giữa chúng ta đặc biệt qua việc tuyển chọn một người phụ nữ ở giữa loài người chúng ta để Người trở thành Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của cả loài người.
Với biến cố nhập thể, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm cho Nước của Người hiện diện giữa chúng ta. Và như Đức Giêsu đã nói Nước ấy đang tăng trưởng từ từ, âm thầm, như một hạt cải.. . Giữa sự viên mãn của thời gian và tận thế, Giáo Hội đang hành trình như một Dân tộc hy vọng.(HY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận)
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
Nguồn: tgpsaigon.net
4.Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria nhằm hướng tới ngày trọng đại: sinh ra Đấng Cứu Thế. Tiếp đến “Đấng được sinh ra làm con một người đàn bà và sống dưới Lề luật” (Gl 4,4) đã cho chúng ta được sinh lại làm con cái Chúa. Đức Maria sinh ra trong ơn thánh, không vướng mắc nguyên tội. Còn chúng ta được khỏi tội tổ tông nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được sự sống mới.
Chúng ta mừng Sinh nhật Đức Mẹ với niềm hạnh phúc vì luôn có Mẹ trong cuộc sống, như “Trong tiệc cưới Cana có thân mẫu Đức Giêsu” (Ga 2,1). Với Mẹ Maria chúng ta có được bông hồng cài áo. Đây là tập tục dễ thương của người Nhật, để tôn kính hiền mẫu, đã sớm du nhập vào Việt Nam.
Mừng Sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta cũng nhớ đến ngày sinh của chúng ta, để “Sao được cho ra cái giống người” (Tú Xương), hơn nữa cho ra người con Chúa. Cũng là lúc chúng ta nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, cố gắng làm vui lòng các ngài, như gương sáng của Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
5.Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria: Mt 1,1-6.18.23
* Lịch Sử
Thánh lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria xuất phát từ Giáo Hội Đông Phương, có lẽ từ thánh lễ cung hiến thánh đường dâng kính thánh Anna tại Giêrusalem; địa điểm của ngôi thánh đường được cung hiến được các tín hữu tin rằng đó là nơi sanh Đức Mẹ. Theo truyền thuyết khác thì Đức Maria được sinh tại Galilê.
Vào cuối thế kỷ thứ VII bên Giáo Hội Tây Phương, Giáo Hoàng Sergius (687-701) xác nhận có 4 thánh lễ được cử hành trong năm để kính Đức trinh nữ Maria trong phụng vụ Rôma:
- lễ Truyền Tin
- lễ Hồn xác về trời
- lễ sinh nhật và
- lễ “Gặp gỡ” (tức lễ nến ngày 2.2)
Từ ngày Sinh Nhật này (đương nhiên không có một chứng cứ khoa học nào cả!) người ta xác định ngày thụ thai là ngày 8.12.
Sự kiện cụ thể là thánh lễ này được cử hành long trong phụng vụ, cho chúng ta thấy rõ, các tín hữu lúc đó đã xác tín rằng Đức Maria khi được sinh ra đời không vương chút tội nào (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh).
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này (và toàn bộ Tân Ước) không cung cấp cho chúng ta những chi tiết cần thiết để chúng ta biết lý lịch của Đức Maria, chỉ có vài chi tiết liên quan tới Chúa Giêsu thôi:
- Người là Mẹ của Chúa Giêsu
- Người thụ thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần.
- Người được Thánh Giuse mang về nhà để chăm sóc.
Từ sự kiện Thánh Kinh không quan tâm tới lý lịch Đức Maria, chúng ta có thể hiểu rằng: Maria chỉ là một con người tầm thường, sở dĩ Người được nên cao trọng là hoàn toàn do vận mạng của Người đã gắn liền với vận mạng của Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Một khối đá chẳng là gì cả, nhưng nếu được giao trong tay một nhà điêu khắc tài ba thì nó sẽ trở thành một kiệt tác nghệ thuật. Con người cũng chẳng là gì cả nhưng nếu để cho Chúa hướng dẫn đời mình thì người đó sẽ trở thành một kiệt tác của Chúa. Đức Maria là như thế. Xin Chúa và Đức Mẹ giúp con biết để cho Chúa xử dụng con như xưa đã xử dụng Đức Mẹ.
2. Có những người sinh ra trên đời đã thực sự là một diễm phúc cho đời, chẳng hạn Đức Maria. Nếu không có Người thì công trình cứu độ của Thiên Chúa đã không được thực hiện. Có những người khác sinh ra chỉ làm hại cho đời, “thà nó đừng sinh ra còn hơn”.
Phần con, lạy Chúa, xin cho con biết việc con sinh ra trên đời này có đem lại lợi ích gì cho anh chị em con không, hay con chỉ làm chật đất, tốn cơm và khổ sở cho họ.
3. Trong đoạn Tin Mừng này, số phận Đức Maria đang như ngàn cân treo sợi chỉ: nếu thánh Giuse rước Người về nhà thì mọi việc khác được giải quyết êm thắm, nhưng nếu thánh Giuse tố giác Người thì Người sẽ bị ném đá. Thế mà chúng ta không thấy Người làm gì và nói gì cả. Người phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho Người mang thai Ngôi Hai thì Thiên Chúa sẽ lo liệu cho Người.
Lạy Chúa, xin thêm cho con tinh thần phó thác trong khi thi hành nhiệm vụ Chúa giao.
4. Một nông dân trồng bụi tre nơi góc vườn. Thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn, thẳng đuột. Ngày kia, người ấy đến nói với cây cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn. ”Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông”
- Được, ta sẽ xẻ anh ra làm đôi.
Nghe thế, cây tre phản đối:
- Xẻ tôi? Sao vậy? Trong vườn có cây nào đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng...Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra...
- Nếu không xẻ anh ra thì anh chả được việc gì.
Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông”.
Người nông dân nói tiếp: “Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi”
- Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế...
- Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.
Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi”.
Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn; nếu không, ta không thể dùng bạn”.
Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt, dùng tôi theo ý ông”.
Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và lóc ruột làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu. (Góp nhặt)
6.Sinh nhật Đức Maria--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha mẹ của ngài là thánh Gioankim và thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioankim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria đã chào đời là để thực hiện ý Thiên Chúa, Mẹ đã mở rộng cửa trời để đón nhận mọi người và lời xin vâng làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúng ta cử hành lễ sinh nhật Đức Mẹ, vì từ nơi ngài đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta (Ca nhập lễ, lễ sinh nhật Đức Mẹ). Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ, nhân loại được hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã ló rạng qua việc chào đời của người nữ tử Sion mang danh Maria.
Câu chuyện
Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, khách hành hương thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (x. Ga 5,1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của thánh Gioakim và thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra.
Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ từ thế kỷ VI. Đến thế kỷ X, lễ được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này… Khi canh tân phụng vụ, Đức Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám ngày và truyền lễ sinh nhật Đức Mẹ như hiện nay.
Suy niệm
“Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nảy sinh từ gốc Giêsê” (Phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Giáo hội Ðông phương).
Sự son sẻ được sinh con của Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ Isaac, Giacob và Giuse… Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi Thiên Chúa mà thôi. Sách Nguỵ thư của thánh Giacôbê có ghi: Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: Bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Maria trong đền thờ cho Thiên Chúa khi Maria được 3 tuổi, song thân dẫn Maria lên đền thờ tại Giêrusalem như một món quà dâng lên Chúa.
Đức Maria, người thiếu nữ Sion, một thiếu nữ Nadarét, qua lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay ai cũng biết Bà là Mẹ Đấng Cứu Thế (x. Mt 1,18-23). Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho sứ mạng trở nên Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Thế nhân gian. Ngài cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là con người trọn vẹn và Maria được chọn để làm người mẹ ấy. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao, ngày Maria chào đời chan chứa mừng vui và hy vọng.
Chính vì Maria là cung lòng, là ngai cho Con Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên thai nhi, Maria còn trong bụng mẹ được Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc Maria trong tình yêu: Được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Maria đã lớn lên thành một thiếu nữ, đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái: Lập gia đình khi đính hôn với Giuse. Tuy nhiên tình yêu và hôn nhân với Giuse mang ý nghĩa mới: Cộng tác vào chương trình cứu độ. Maria luôn đáp trả xin vâng và tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào thánh ý Ngài. Cuộc đời của Maria như một bài ca bất tận: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 13,6).
Chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria trong lời cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho nhân loại có một người Mẹ tuyệt vời, cùng hiệp lòng dâng lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ân phúc… “vì Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30).
Ý lực sống:
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).
7.Sinh nhật Đức Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ.
Lễ Sinh Nhật Mẹ đã được Đức Giáo Hoàng Sergiô I sống vào thế kỷ thứ VlI đưa vào trong Phụng vụ Giáo Hội. Cuộc đời của Mẹ Maria luôn luôn gắn liều với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Lúc bước vào thế gian với hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã là một khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Vì thế, nếu chúng ta vui mừng với biến cố Nhập Thể và Sinh nhật của Chúa Giêsu trong lịch sử nhân loại, thì chúng ta cũng phải vui mừng và sung sướng đón mừng ngày Sinh nhật của Mẹ Maria, một người phụ nữ đã được chào chúc là Đấng “Đầy tràn ơn sủng”, và luôn "được Thiên Chúa ở cùng".
Mừng sinh nhật có nghĩa là chúng ta mừng ngày Mẹ được Chúa cho sinh ra trên cõi đời này. Việc Mẹ được sinh ra xét về phương diện trần thế thì chẳng có gì khác với mọi người. Mẹ cũng được cưu mang, cũng cất tiếng khóc chào đời. Mẹ cũng được nuôi nấng và lớn lên từ những giòng sữa của người đàn bà. Đó là bà Anna. Điều khác ở nơi Đức Mẹ là vì Đức Mẹ đã được Chúa tiền định cho Mẹ có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Người.
Với hai tiếng Xin Vâng, Mẹ đã trở thành dụng cụ trong trong bàn tay kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã cho con của mình được trở thành một Con Người, một con người bằng xương bằng thịt giữa loài người. Mẹ đã dùng những dòng máu, và chia sẻ xương thịt của mình để làm nên xương thịt của Chúa Giêsu. Mẹ đã dùng những giòng sữa quí báu của mình để Chúa Giêsu được lớn lên. Bằng sự chăm lo của một người Mẹ dành cho một người con, Mẹ đã làm cho Chúa Giêsu được trở thành một Con Người, một con người như mọi người ở giữa, ở với loài người để rồi từ đó Chúa thực hiện chương trình cứu độ Chúa Cha trao cho Người.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã cho Mẹ được sinh ra làm người.
Chúng ta cám ơn Chúa đã chọn Mẹ Maria để cộng tác với Chúa trong chương trình Cứu Độ.
Chúng ta cám ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria thật nhiều đặc ân để Mẹ có thể chu toàn được sứ mệnh Chúa trao phó trong chương trình cứu nhân độ thế của Chúa.
Ngày nay Mẹ đã về trời. Mẹ được về trời với cả hồn xác nghĩa là Mẹ về trời bằng cả con người mà Mẹ đã sống trên trần gian. Mẹ về trời vừa để làm mẫu gương cho chúng ta, vừa làm Đấng phù trợ đắc lực và đầy uy quyền cho cả loài người.
2. Vậy nhân dịp mừng lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ hôm nay, một đàng chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Nhưng đàng khác chúng ta cũng hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được biết sống thế nào cho tốt để mai sau chúng ta được cùng với Mẹ hưởng hạnh phúc đời dời.
Thế nhưng phải sống thế nào đây? Đó là một câu hỏi mà mỗi người phải tự tìm ra cho mình một câu trả lời.
Vào thứ bảy 19/09/1989, ông John Ivan mừng lễ sinh nhật thứ 112, và người con trai duy nhất của ông lúc đó cũng đã 78 tuổi. Hai cha con sống yên lành tại một thành phố nhỏ Lancashire, miền tây Anh Quốc. Và nhân dịp mừng sinh nhật thứ 112 này, trả lời cho hãng thông tấn ASB đến phỏng vấn, ông John Ivan đã trình bày bí quyết sống lâu của ông bằng một bảng lề luật "bốn không một có". Bốn không là:
- Không hút thuốc.
- Không uống rượu.
- Không giận ghét chửi rủa kẻ khác.
- Không bài bạc gian tham.
Và một có là: Có tinh thần hòa hợp với mọi người.
Trước đó không lâu, ông John Ivan cũng đã lãnh được giải thưởng "người có quả tim vàng" vì lòng tốt đại độ của ông đối với mọi người xung quanh.
Nếu để kéo dài cuộc sống trên trần gian này dài thêm thì ông John Ivan vẫn phải thực hiện bí quyết sống "bốn không một có" như ông đã làm. Vậy thì thử hỏi nếu cuộc sống trên trần gian mà còn phải có những quy luật như vậy thì để được có sự sống đời đời chúng ta càng phải có những quy luật khắt khe như thế nào?
Chúng ta hãy nhớ lại câu truyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Anh ta đã đến hỏi Chúa về bí quyết để được sống đời đời: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Trước hết Chúa Giêsu nhắc lại cho anh ta những điều kiện căn bản, trong đó cũng bao gồm cả những bí quyết giống như bí quyết "bốn không một có" của ông John Ivan trên đây, đó là:
- Không gian dâm,
- Không giết người,
- Không làm chứng gian,
- Không làm hại ai
- và một có là hãy thảo kính cha mẹ.
Đó là bí quyết "bốn không một có".
Chàng thanh niên đã trả lời cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi đã giữ cẩn thận các điều ấy từ thuở nhỏ". Đối với cuộc sống ở đời được như vậy đã là quí lắm. Nhưng cuộc sống đời đời đòi hỏi một điều gì hơn nữa.
Tin Mừng Marcô ghi tiếp: "Bấy giờ Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh rồi bảo: anh còn thiếu một điều nữa là hãy đi bán tất cả gia tài và lấy tiền làm phúc cho kẻ nghèo khó, anh sẽ được một kho báu trên trời rồi đến đây theo Ta". Anh ta đáp lại thế nào? Tin Mừng ghi: "Nghe lời ấy anh buồn rầu và chán nản bỏ đi vì anh có nhiều của cải lắm". Anh ta đã chọn của cải trần gian hơn là chọn đi theo và sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Anh ta đã đặt giá trị vật chất lên trên cả việc đi theo Chúa để làm môn đệ cho Ngài.
Có thể chúng ta ngày hôm nay, nhiều người chúng ta cũng hành động giống như thế. Chúng ta không dám chọn Chúa và đặt Ngài làm chỗ nhất trong đời sống chúng ta. Và nếu không làm nổi việc này thì chúng ta khó mà sống an vui trên trần gian này và khó mà hưởng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, như Mẹ Maria thuở xưa, mỗi người Kitô chúng con đã được Chúa mạc khải cho biết bí quyết sống hạnh phúc, sống an vui, sống đời đời. Ðó là sống theo Chúa, kết hiệp với Chúa và sống như Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con thực hành điều Chúa đã truyền dạy và cố gắng sống như Mẹ Maria đã sống thuở xưa để mai ngày chúng con được về huởng hạnh phúc cùng Mẹ trên trời. Amen.
8.Cuốn sách một chữ--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát.
Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy?
Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
9.Gia phả của Chúa Giêsu Kitô--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Hôm nay, lễ sinh nhật Ðức Mẹ, quyển gia phả của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và trong ngày sinh của Ðức Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt. Quyển gia phả này được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất kể tên các vị tổ phụ, phần thứ hai nhắc đến các vua trước thời lưu đày bên Babylon, và phần thứ ba dành cho các vua sau thời lưu đày.
Tất cả những tên tuổi được nhắc đến trong quyển gia phả của Chúa Giêsu gợi lên cho chúng ta chương trình và sự lựa chọn vô cùng lạ lùng của Thiên Chúa.
Quả thật, gia phả của Chúa Giêsu như được thánh Máthêu dựng lại là một dòng sông lịch sử được dệt bởi rất nhiều tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại cũng là lịch sử của tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu cũng đã hành xử theo cung cách ấy của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Phêrô là kẻ đã chối Ngài, Ngài đã chọn Phaolô là kẻ đã bách hại Giáo Hội của Ngài.
Thông thường, khi viết về lịch sử của dân tộc, người ta thường che dấu những thất bại để chỉ đề cao những chiến thắng, các bậc anh hùng và những hành động lẫm liệt của họ. Lịch sử của ơn cứu độ đã không được viết như thế, Thiên Chúa đã viết thẳng bằng những đường cong, Ngài đã chọn viên đá bị loại ra làm viên đá góc tường, Ngài đã chọn những con người yếu đuối và tội lỗi để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi ấy mà Mẹ Ngài đã được sinh ra để chuẩn bị cho Ngài một chỗ trong lịch sử nhân loại. Chính vì là thành phần của một nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể sinh ra Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính vì sinh ra trong một gia đình tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với những yếu đuối bất toàn của kiếp người. Chính vì gắn liền với một lịch sử đầy những phản bội hất ngã mà Mẹ mới là nơi nương tựa cho những người tội lỗi. Còn lời kinh nào xứng hợp để dâng lên Mẹ trong ngày sinh của Mẹ cho bằng lời kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".
10.Sinh nhật Đức Maria-- J.M
Ma-ri-a là nguồn cậy trông vì lý do tối cao của Mẹ để sống chính là Thiên Chúa. Mẹ sống vì Chúa. Mẹ khao khát làm theo thánh ý Chúa “Này tôi là tôi tớ Chúa, mong sao lời Chúa đến với tôi”. Mẹ sống vì con để chia sẻ ước muốn của con cứu độ thế giới để giải thoát mọi người khỏi áp chế của sự dữ. Mẹ cộng tác vào sứ vụ của Con. Mẹ dâng lời cầu nguyện hiến lễ cho nước Chúa ngự đến. Mẹ kết hiệp những đau đớn của Mẹ với đau đớn của Con.
Thiên Chúa là nguồn hy vọng của Ma-ri-a
Ma-ri-a hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Mạnh mẽ hy vọng, Mẹ có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh đau khổ, dù thật bi đát. Mẹ chịu đau khổ khi Đức Giê-su bị hiểu lầm, bị oán ghét. Lòng Mẹ bị xâu xé, khi mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến con hấp hối.
Mẹ trong lòng lời trối cuối cùng của con khi Người phó Mẹ cho Gioan : “Thưa Bà, này là con Bà... Này là mẹ con...”
Trước xác con mẹ không một chút nghi ngờ lời Người đã nói : “Ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”. Con Mẹ đã sống lại và hằng sống ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Mẹ vui mừng về hạnh phúc và vinh quang của con Mẹ : “Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc”.
Hy vọng của chúng ta là gì?
Hy vọng của chúng ta bị suy nhược vì nó không đặt vững chắc trên nền tảng tốt lành và toàn năng của Thiên Chúa.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu mực của lòng trông cậy. Mẹ mời gọi chúng ta đặt tất cả nguồn trí tri của chúng ta, con tim của chúng ta, ý chí của chúng ta làm theo lời kêu gọi trở về với Chúa, nâng cao cái nhìn của chúng ta vượt trên trái đất này để đến với ánh sáng lời Chúa, đến với nguồn an ủi trong tình yêu của Chúa, đến với nguồn sức mạnh toàn năng của Chúa.
“Sống giữa trần gian đầy bất công, chia rẽ, đói khổ, người Kitô hữu cẫn phải trở nên niềm hy vọng cho trần gian. Đây thật là một thách đố lớn lao; thách đố quét sạch mọi hận thù. Sự hiện diện của người Kitô đem lại Tin Mừng xây dựng. Thách đố này đang thiêu đốt con tim đem yêu thương mạnh mẽ vào nơi thất vọng”. (Schutz R... Violence despacifiques P. 158)
11.Sinh nhật Đức Maria--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày lễ sinh nhật Mẹ Maria hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc lại gia phả của Chúa Giêsu. Ta thấy, trong suốt chiều dài lịch sử thấy Thiên Chúa đã tuyển chọn gia tộc cho Người cách đặc biệt.
Hình ảnh bốn phụ nữ được Kinh Thánh nói đến như là một tiên báo cách kín đáo về Đức Kitô, Đấng sẽ đến để cứu độ những người tội lỗi, và đón nhận mọi dân mọi nước vào vương quốc của Người. Việc tuyển chọn những nhân vật này không phải là điều đáng tự hào vì lý lịch của họ. Nhưng tiêu chuẩn của Thiên Chúa khác với con người. Người chọn sự yếu kém để nói lên lượng từ bi của Người.
Đây là "gia phả của đức tin và ân sủng". Vì cho dẫu gia phả này được đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót Chúa, được chính Thiên Chúa can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt, khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài, không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người. Chính vì một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã sinh ra để cưu mang Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta
Mẹ Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang lầm lỗi. Mẹ đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Mẹ Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Mẹ đã làm cho có sự sống viên mãn.
Hôm nay là lễ sinh nhật Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và là Mẹ chúng ta, chúng ta không thể không vui, và cùng nhau chúc mừng tuổi Mẹ. Ngày này phải là ngày vui chung của toàn thế giới, chứ không phải riêng cho một dân tộc hay một nhóm người nào. Bởi ngày sinh của Mẹ có liên quan trực tiếp đến biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Ngày Mẹ chào đời đánh dấu sự nối kết giữa Tân ước và Cựu ước, chấm dứt thời kỳ chờ đợi và những lời hứa, khai mở một thời kỳ mới, thời kỳ ân sủng và ơn cứu độ trong Đức Kitô. Mẹ thật xứng : "Đức Mẹ làm cho chúng con vui mừng".
Maria! Mẹ Ngôi Hai Con Chúa
Chúc tụng Mẹ! Mừng Sinh nhật hôm nay
Chúa thương Mẹ ban ơn phúc dư đầy
Hình ảnh Mẹ, ngàn đời con ca tụng.
Quả thật, ngày sinh nhật của Mẹ đã khai mở lời hứa của Thiên Chúa bước đầu thành sự, đồng thời, Mẹ là Nữ Tử Sion, là hy vọng của nhân loại. Mẹ ra đời để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có cuộc sinh nhật của Mẹ, mới có sự ra đời của Đức Giêsu, có Đức Giêsu mới có Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, ngày sinh nhật của Mẹ đã được đặt vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, cứu độ. Mẹ như Sao mai dẫn lối đưa đường, Mẹ chính là hừng đông, là ánh bình minh báo trước Mặt trời công chính là Đức Kitô.
Vì thế trong ngày Đức Maria chào đời Giáo Hội đã kêu lên : "Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường nay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh".
Thánh Gioan Đamatsô đã dâng lời ca tụng : "Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!"
Vậy, hôm nay, mọi loài trên trời dưới đất hãy cùng nhau hoan hỷ và đồng ca, nhảy múa biểu lộ niềm vui bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như ở trên trần gian hãy họp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.
Khi mừng sinh nhật nhau, chúng ta thường tặng nhau những bó hoa, những món quà. Mừng ngày sinh nhật của Mẹ hôm nay: "mãi mãi nhân loại sẽ khơng ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa:
Chúng con tại thế tưng bừng,
Cùng nhau ca hát vang lừng bốn phương.
Tạ ơn Thiên Chúa tình thương,
Chọn người Trinh Nữ ngát hương ngàn đời.
Chúng ta hãy quyết hái nhiều hoa xinh đẹp để dâng kính Mẹ, tỏ lòng mến yêu Mẹ bằng những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như : lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền tin, nguyện kinh cầu, một cách phi thường. Có nghĩa là miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Đức Giêsu cũng được thể thể hiện trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ. Với những lời chúc tốt lành nhất dâng về Mẹ cuộc sống hiện tại, quá khứ và tương lai làm món quà mừng Mẹ tuổi mới.
Mẹ sinh ra giữa muôn hoa hương ngát
Với màu sắc lộng lẫy đẹp đất trời
Mẹ rạng ngời trong hào quang vời vợi
Cùng Triều Thần con Chúc khen mừng Mẹ. Amen.
12.Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria--Enzo Lodi
1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Lễ Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria có liên hệ với việc cung hiến một đại giáo đường xây ở Jérusalem hồi thế kỷ V, tại nơi truyền thống vẫn xem là địa điểm nhà ông Gioakim và bà Anna, cạnh hồ tắm Bethzatha (Ga 5, 1-9). Từ thế kỷ XII, ngôi nhà thờ này, buổi đầu dâng kính Sinh nhật Đức Maria, được gọi là đền thờ thánh Anna. Lễ này, truyền sang phương Đông vào thế kỷ VI, được Đức giáo hoàng Serge I (+ 701) thiết lập tại Roma cùng với kiệu rước. Cuộc kiệu bắt đầu ở Saint-Adrien-au Forum đi đến đại giáo đường Libêrô, tức đền thờ Đức Bà Cả.
Tài liệu đầu tiên về lễ Sinh nhật Đức Maria có lẽ một bài ca vẫn còn của Romanos le Mélode (kh. 556), một bài thơ ca ngợi việc Đức Maria sinh ra, theo Ngụy phúc âm của thánh Giacôbê. Vào thế kỷ VII, thánh Jean de Damas đã có bài giảng lừng danh về sinh nhật Đức bà tại đại giáo đường thánh Anna. Có những cuốn ngụy thư khác kể về sinh nhật Đức Maria như Ngụy thư theo thánh Matthêu và phúc âm về sinh nhật Đức Bà, là tác phẩm sau này, được gán cho thánh Hiêrônimô. Ở phương Đông, lễ sinh nhật Đức bà mở đầu cho năm phụng vụ Byzantin bắt đầu vào đầu tháng chín. Tại Roma, lễ này có tuần tám ngày theo sau (quyết định của Đức Innocenl IV) và có lễ vọng (Đức Grégoire XI, năm 1378).
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả phụng vụ lễ sinh nhật Đức bà đều tìm cách tạo cho lễ một nền tảng Thánh kinh
Lời nguyện trong ngày đặt quan hệ giữa việc đức Maria sinh ra với tư cách Mẹ Thiên Chúa vốn là “khởi đầu sự cứu rỗi chúng ta”. Tư tưởng đó cũng đã xuất hiện trong Điệp ca mở đầu: chúng ta hãy hân hoan mừng sinh nhật Đức trinh nữ Maria; “qua Mẹ, Mặt trời công chính đã đến với chúng ta…”. vậy nên đối tượng của lễ là chính Đức Giêsu. “Chúng ta hãy mừng Đức Trinh nữ Maria: hãy tôn thờ Con của Người” (ca dẫn nhập). “Chúng ta hãy ca tụng vinh quang của Đức Kitô hết tâm hồn khi cử hành lễ Mẹ rất thánh của Thiên Chúa” (Điệp ca giữa ngày). Điệp khúc ca vịnh Zacharie cũng ca ngợi như thế khi dịch từ apolitikion trong kinh chiều theo phụng vụ Byzantin: “Ôi Maria, ngày sinh của Mẹi loan báo niềm vui cho thế giới. Từ nơi Mẹ mặt trời công chính đã mọc lên. Đức Kitô đã biến tội lỗi thành ân sủng, sự chết thành cõi sống vĩnh hằng”. Cùng với lễ sinh nhật Đức Maria, đã mở ra thời kỳ các lễ sinh nhật trên trời (Ga 3,7) mang lại bình an. Vậy nên chúng ta cầu xin cho lễ này “mang lại bình an sung mãn cho chúng ta” (lời nguyện trong ngày), bởi vì lễ này “mang sự cứu rỗi thế giới một cách âm thầm, máu Chúa Kitô cứu chuộc Mẹ / nhưng chính Mẹ là nguồn gốc” ( Ca vãn Phụng vụ bài đọc). Lời nguyện tạ lễ lấy tinh thần từ sách lễ Paris, cũng trở lại đề tài này: “sinh nhật Đức Maria là nguồn vui, vì chính Mẹ cho thế giới được cậy trông và là bình minh của sự cứu rỗi”.
Đức giám mục Gortine là André de Crête (kh. 660 – 670) trong bài giảng lễ sinh nhật Đức Bà (phụng vụ bài đọc) cho chúng ta hiểu ý nghĩa hân hoan của lễ hôm nay: “Mọi tạo vật hãy ca hát và nhảy múa, hãy góp mình hết sức mình vào niềm hoan lạc của ngày hôm nay. Tất cả những gì hiện hữu trong thế giới hãy cùng phối hợp vào bản hòa tấu ngày lễ này. Vì hôm nay thánh đài đã được tạo tác làm nơi Đấng sáng tạo vũ trụ sẽ ngự, đang tới: và một thụ tạo, do sự sắp xếp hoàn toàn mới mẻ đó, đã được chuẩn bị để dâng lên Đấng tạo hóa một nơi cư ngụ thánh thiêng”.
Tông Huấn Marialis cultus (số 7) xếp lễ sinh nhật Đức Maria trong số các lễ “kỷ niệm những biến cố cứu rỗi trong đó Đức Trinh nữ đã phối hợp chặt chẽ với Con mình”. Vì quả thực, việc Người sinh ra đã là “bình minh báo hiệu ngày sắp tới” (Thánh thi phụng vụ bài đọc).
13.Mẹ Maria là Evà mới--Jos.Vinc. Ngọc Biển
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”. Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng”. Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính... phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa. Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
14.Mẹ thật diễm phúc--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Bà Êlisabét hạnh phúc khi được Đức Trinh Nữ Maria tới thăm, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy bà Êlisabét vừa nghe lời Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc…” (Lc 1, 41-42). Việc bà Êlisabét tung hô mẹ Maria có một ý nghĩa rất đặc biệt. Mẹ là người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian này vì Mẹ đã đắc sủng nơi Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế và làm Mẹ của toàn thể nhân loại.
Thiên Chúa đã tô điểm cho công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài. Evà thứ nhất đã phản bội lại tình thương cao vời, tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi vườn địa đàng. Nơi vườn diệu quang này, đáng lẽ ông bà tổ tiên của nhân loại sẽ vô cùng hạnh phúc vì ông bà nguyên tổ luôn diện đối diện với Thiên Chúa, được Thiên Chúa trò chuyện mỗi buổi chiều. Nhưng rồi, cái tên Evà đã bị lu mờ vì tội sa ngã: ”ăn trái cấm do sự xúi giục của ma quỉ”. Evà đã mang sự chết vào trần gian. Tuy nhiên tình thương của Thiên Chúa vẫn vượt trội trên mọi sự, mọi việc ở trần gian này. Ngài lại tô điểm lịch sử cứu độ của Ngài bằng cách chọn lựa một người nữ có tên là Maria, Evà mới. Maria, Evà mới nói lên tất cả. Vườn địa đàng từ nay thuộc về người nữ tử Sion. Evà mới điểm tô cho vườn địa đàng mà bà Evà cũ đã làm hư đi. Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang sa cơn nguy lầm. Maria đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm cho nó bị hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Evà mới đã làm cho nó có sự sống viên mãn.
Trình thuật của thánh Matthêu 1, 1-16.18-23 nói về gia phả của Chúa Giêsu. Quyển gia phả ấy nói lên một lịch sử đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lịch sử này được đan kết bằng biết bao sự kiện, biết bao vụ việc vừa tội lỗi, vừa u tối, nhưng lịch sử ấy lại được chính Thiên Chúa ghé mắt đoái thương và can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt và khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài. Thiên Chúa đã không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người, của loài người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người một. Chính vì sống trong một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã cảm thông và hiểu được tình trạng của con người. Chính vì sống trong một thế giới u sầu vì phản bội mà Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu hoàn toàn giống như mọi người và đặc biệt ngoại trừ tội lỗi. Maria tên đẹp tuyệt vời gói ghém tất cả lịch sử loài người, Mẹ đã cảm thông với mọi yếu hèn, tội lỗi của nhân loại, của con người, nên Mẹ đã trở thành nơi nương tựa vững chắc của nhiều người.
Mừng lễ sinh nhật của Mẹ Maria, mãi mãi nhân loại sẽ không ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta luôn tôn kính, mến yêu Mẹ và những tràng hoa Mân Côi, những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Còn lời kinh nào đẹp bằng lời kinh kính mừng chúng ta dâng lên Mẹ: ”Kính mừng Maria đầy ân phước Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: ”Lạy Mẹ, Mẹ Thiên chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”.
15.Lễ sinh nhật Đức Trinh nữ Maria--Lm Anphong Trần Đức Phương
NGUỒN GỐC: Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, chúng ta thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (Gioan 5: 1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của Thánh Gioakim và Bà Thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra. Lễ kính Sinh Nhật Đức Maria có thể đã được mừng từ đầu thế kỷ thứ VI cùng với việc xây cất đền thờ gọi là Đền Sinh Nhật Đức Mẹ. Đền thờ này vào thế kỷ XII lại được đổi tên là Đền Thờ kính Bà Thánh Anna. Ngày nay, Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là “Lễ Kính” (có kinh Vinh Danh, có kinh Tiền Tụng riêng) trên toàn thể Giáo Hội.
Ý NGHĨA: Trong ngày Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, “chúng ta hãy hân hoan với tất cả tâm hồn, mừng kính việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Maria, từ nơi Người đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Ca nhập Lễ).
Câu xướng trước Phúc Âm cũng ca tụng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ diễm phúc, Mẹ xứng đáng mọi lời ca tụng; vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Theo Thánh Gioan Damascene, thì hôm nay chúng ta “muôn người như một, vui niềm vui của toàn thể nhân loại, ngày giao hoà của đất trời, ngày khởi đầu Ơn Cứu Độ nhân loại…”
Bài Đọc I trích trong sách tiên tri Mica (5: 1-4) nói đến thời một người nữ sẽ sinh ra… và cũng nói “hỡi Belem-Ephrata, ngươi là nơi thật nhỏ bé trong toàn cõi Giuđê, nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng Chăn Dắt Israel!” (Bài Đọc I cũng có thể lấy đoạn trích từ thơ Rôma (8: 28-30).
Bài Phúc Âm trích trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu (1: 1-16, 18-23) kể lại gia phả của Chúa Giêsu từ thời Abraham; đồng thời cũng kể lại việc Đức Maria chịu thai Chúa Giêsu (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần), và việc Thánh Giuse vâng lời Sứ Thần truyền, rước Đức Maria về nhà như người vợ của mình.
SUY NIỆM: Ngày mừng Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria cũng là dịp để chúng ta nhớ đến ngày sinh ra của mỗi người chúng ta, để chúng ta nhìn vào cuộc đời của chính mình, tự nói với chính mình : “Tôi đã mừng sinh nhật thứ bao nhiêu? Tôi đã sinh ra đời được bao nhiêu năm? Tôi đã sống thế nào trong những năm tháng vừa qua như những người con của Chúa, của Mẹ Maria trong việc thánh hoá bản thân, trong việc phục vụ gia đình, xã hội và Giáo Hội Chúa? Tôi đã chu toàn thế nào bổn phận của người chồng, người vợ, của người Cha, người Mẹ, của những người con hiếu thảo? Tôi đã sống thế nào để xứng đáng là những người đã được Chúa yêu thương, gọi và chọn vào hàng Giáo Phẩm, vào đời sống tu trì như những Linh mục, Tu sĩ nam, nữ?
LỜI CẦU NGUYỆN: Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khiêm tốn dâng lời cầu nguyện, xin Chúa thương thánh hóa đời sống mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết noi gương đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những Đấng đã luôn sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta có thể sống một cuộc sống cao đẹp, biết quên mình, khiêm tốn phục vụ Chúa qua mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin cho chúng ta luôn biết chung tay xây dựng gia đình, xã hội và thế giới, cũng như góp phần vào việc rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong cuộc sống.
16.Lễ sinh nhật Đức Mẹ--Lm. Giacobe Phạm văn Phượng, O.P.
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Maria. Có thể nói: ngoài sinh nhật Chúa Giêsu, không có sinh nhật nào quan trọng, cần thiết và ích lợi cho nhân loại bằng sinh nhật của Đức Mẹ. Tuy nhiên, sinh nhật của Đức Maria chỉ diễn ra âm thầm. Về ngày sinh nhật của Đức Mẹ, kinh thánh không cho biết gì, Thánh truyền cũng không ghi lại gì cả, chỉ có một câu chuyện do một vị ẩn sĩ kể lại, được Thiên Chúa cho biết ngày 8 tháng 9 là ngày sinh nhật của Đức Mẹ. Có lẽ Giáo hội đã dựa vào câu chuyện này mà mừng sinh nhật Đức Mẹ vào ngày 8 tháng 9 chăng?
Về giáo lý và lòng tôn sùng đối với Đức Mẹ, lễ sinh nhật Đức Mẹ nhắc nhớ chúng ta hai điều. Thứ nhất, sinh nhật Đức Mẹ là rạng đông cứu rỗi. Chúng ta biết rạng đông đi trước mặt trời và báo hiệu mặt trời đến. Rạng đông là một khoảnh khắc tuyệt vời trước khi mặt trời mọc. Chúa Giêsu là mặt trời công chính, Mẹ Maria là rạng đông báo hiệu và đi trước mặt trời cao cả ấy; nghĩa là ròng rã bao nhiêu thế kỷ, nhân loại còn ở trong tối tăm, cho tới khi Đức Maria sinh ra, báo hiệu hừng dông cứu độ đã đến, báo hiệu ngày cứu chuộc sắp tới. Vì thế, trong kinh nguyện hôm nay, Giáo Hội nói lên rằng : “Lạy Nữ Vương, sinh nhật của Mẹ loan báo niềm vui cho toàn trái đất, vì mặt trời công chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, đã từ lòng mẹ sinh ra”. Do đó, chúng ta có thể nói : cũng như khúc nhạc dạo trước một bài hát, sinh nhật Đức Mẹ là dạo khúc của sinh nhật Chúa Giêsu.
Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta hôm nay, là hãy sống khiêm nhường và âm thầm như Đức Mẹ. Chúng ta thấy, người đời tin rằng: mỗi khi có một thánh nhân ra đời, thường có những chuyện lạ, và người ta hay thêu dệt những chuyện ly kỳ chung quanh đời sống của một vĩ nhân anh hùng.
Thế nhưng, ngày sinh nhật của Đức Maria, một thánh nhân trên mọi thánh nhân, lại không có chuyện lạ nào xảy ra. Đức Mẹ sinh ra hoàn toàn âm thầm và bình thường như mọi người.
Vì thế, sinh nhật Đức Mẹ cũng như cuộc đời Đức Mẹ dạy chúng ta đức khiêm nhường và thầm lặng. Thánh lễ chúng ta mừng kính Mẹ hôm nay là lời mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, thầm lặng. Ai muốn là kẻ lớn trước mặt Thiên Chúa thì phải ở ẩn khuất trước mặt mọi người. Công việc thực hiện cho Thiên Chúa càng lớn nếu người ta càng làm trong thầm lặng. Đó là gương mẫu và là bài học khôn ngoan Đức Mẹ dạy chúng ta.
17.Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Viết về Mẹ, nói về Mẹ sẽ không bao giờ cạn vơi ý tưởng, sẽ không bao giờ ngập ngừng, miễn cưỡng. Mẹ trần thế là niềm an ủi cho cuộc đời của con người gian trần. Nhưng, người Kitô hữu luôn hãnh diện vì có một người Mẹ trên trời, Mẹ thiêng liêng mà gần gũi mỗi người, mỗi con người. Mẹ có tên gọi Maria. Cái tên sao êm dịu và dễ mến. Maria gói trọn cả ý nghĩa loài người. Mừng sinh nhật của mẹ Maria, nhân loại sẽ không ngớt lời ca ngợi Mẹ.
I.MARIA, NGƯỜI LÀ AI?
Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha của Người là thánh Gioakim, mẹ của Người là bà thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioakim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria là người con duy nhất của thánh Gioakim và thánh Anna. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, xứ Galilêa, thuộc mạn Bắc Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn, thì kết hôn với Giuse thuộc chi họ vua Ðavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét.
Chính trong thời kỳ đính hôn, sứ thần Gabrien thừa lệnh Thiên Chúa đến với Maria khi Maria đang trong phòng cầu nguyện. Thiên Thần loan báo cho Maria hay cô sẽ thụ thai và sinh ra Ðấng Cứu Thế. Dù đã đính hôn, nhưng Maria đã quyết dâng trọn cuộc đời cho Thiên Chúa, nên Maria rất bối rối vì cô không biết đến người nam. Trước lời giải thích của sứ thần Thiên Chúa rằng" Cô sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nên sinh con, cô vẫn trọn đời đồng trinh". Tuy chưa hiểu hết,nhưng Maria đã thưa với sứ thần Gabrien: "Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền". Và chính lúc ấy, Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong cung lòng Ðức trinh nữ Maria.
Maria là Mẹ Ðấng cứu thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu.
II. SINH NHẬT CỦA ÐỨC TRINH NỮ MARIA CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Dù Mẹ Maria được sinh ra trong một hoàn cảnh nghèo khó, tầm thường trước mặt người đời,trước mặt thế gian. Cuộc đời của Mẹ bao trùm bởi biết bao sự lạ. Maria đã được Thiên Chúa để ý, chọn lựa ngay từ trong cung lòng bà thánh Anna để sau này kết hôn với thánh Giuse, sinh ra Ðấng cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần, vẫn trọn đời đồng trinh và không bị người đời, xã hội nghi ngờ. Chính vì thế, ngày sinh ra của Ðức trinh nữ Maria là một ngày trọng đại, ngày vui mừng của toàn nhân loại, của thế giới, của lịch sử cứu độ. Hội Thánh đã cất vang lời chúc tụng Mẹ: "Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Ðức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu".
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong năm 1987 và năm 2002 khi về thăm quê hương Ba Lan của Ngài, thì cử chỉ đẹp nhất, đáng trân trọng nhất là việc Ngài viếng mộ song thân của Ngài. Viếng mộ song thân, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên tiếng nói thâm sâu hãy hiếu thảo với cha mẹ, hãy bảo vệ gia đình. Có cha mẹ, mới có con cái. Thế cho nên, bảo vệ gia đình, làm cho gia đình hạnh phúc là điều Ðức Thánh Cha kêu gọi. Qua cử chỉ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mọi người Kitô hữu trên thế giới hãy tỏ lòng biết ơn cha mẹ, đấng sinh thành nên mình và hãy bảo vệ gia đình, vì gia đình là nền tảng của xã hội và là Giáo Hội nhỏ. Con cái là hoa quả của tình thương yêu của cha mẹ. Cây tốt sinh trái tốt. Maria là hoa quả đầu mùa và quí giá nhất của hai thánh Gioakim và Anna.
Ngày sinh của Mẹ Maria là niềm vui, hạnh phúc của toàn thể nhân loại, mặc cho nhân loại ý nghĩa cứu độ và hồng phúc.
Lạy Ðức trinh nữ Maria đầy ơn phước, xin cầu bầu cho chúng con trước toà Chúa, để chúng con luôn một niềm trung tín và cậy trông vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con luôn biết nói lời xin vâng làm theo ý Chúa.
Xin cho chúng con cùng với Mẹ hát bài Magnificat ngợi khen Thiên Chúa.
18.Noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay--Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau khi họp Hội nghị thường niên tại Huế, đã công bố Thư mục vụ với đề tài : Sống đạo hôm nay. Thư mục vụ viết : “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em” (số 1). Chúng ta sẽ cùng nhau xem Đức Mẹ đã thực hành hai điểm đó thế nào và dạy chúng ta sống thế nào.
I. Gắn bó với Thiên Chúa
Đức Mẹ đã hết lòng gắn bó với Thiên Chúa, nghĩa là vâng theo ý Chúa Cha và sống với Chúa Giê-su.
1. Vâng theo ý Chúa Cha
a) Khi nghe thiên sứ truyền tin, báo cho Đức Mẹ là Đức Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà vẫn còn đồng trinh, Đức Mẹ đã bối rối. Nhưng khi được thiên sứ giải thích rằng đó là việc Thiên Chúa làm, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và thưa : “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói” (Lu-ca 1,28-38). Từ đó, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc đời, kể cả khi theo Con mình đến tận chân Thánh giá.
b) Chúng ta cũng phải noi gương Đức Mẹ để biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Như vậy chúng ta sẽ đáng được Chúa Giê-su khen là có phúc và nhận chúng ta là anh em của Chúa (Lu-ca 8,21; 11,28). Nhờ lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta đọc trong Kinh Thánh hoặc nghe đọc trong Phụng vụ, chúng ta sẽ có thể nhận ra ý Chúa muốn chúng ta làm gì trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời, và hoàn toàn vâng theo ý Chúa khi vui cũng như lúc buồn. Xưa trong tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đã nói với các gia nhân : “Ông Giê-su bảo gì, các anh cứ làm theo” (Gio-an 2,5); nay Đức Mẹ cũng nói với chúng ta như vậy : “Đức Giê-su bảo gì, các con cứ làm theo.”
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã vâng theo ý Chúa khi nào?
– Chúng ta nghe và tuân giữ Lời Chúa thế nào?
2. Sống với Chúa Giê-su
a) Từ khi thụ thai Chúa Giê-su trong lòng, Đức Mẹ đã luôn luôn gắn bó với Chúa Giê-su, sống với Chúa. Mọi suy nghĩ và việc làm của Đức Mẹ đều nhằm phục vụ người Con yêu quí, như sách Tin Mừng cho chúng ta thấy, nhất là trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê-su : Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su, đã dâng con trong đền thờ, đã đưa con trốn sang Ai-cập, đã ba ngày tìm con bị lạc trong đền thờ. Từ khi Chúa Giê-su ra giảng đạo, chúng ta ít thấy Đức Mẹ xuất hiện, có lẽ vì Đức Mẹ tôn trọng, không muốn gây cản trở cho hoạt động của Chúa Giê-su. Nhưng trong giờ hãi hùng nhất, là giờ Chúa Giê-su chịu thương khó, khi các môn đệ đã bỏ trốn hết, chỉ còn một mình ông Gio-an, thì chúng ta thấy Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá để cùng chịu đau khổ với Con (Gio-an 19,25-27).
b) Như vậy Đức Mẹ nêu gương cho chúng ta. Nhờ bí tích thánh tẩy, chúng ta đã trở nên một thân thể mầu nhiệm với Chúa Giê-su và được sống sự sống thần linh Chúa ban. Vì thế mỗi người chúng ta cũng có thể nói như thánh Phao-lô : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga-lát 2,20). Chúng ta cần ý thức điều đó để nhớ rằng : Có Chúa Giê-su luôn luôn ở với ta trong mọi giây phút cuộc đời, Chúa không bao giờ bỏ ta. Vì thế ta luôn sống với Chúa và có thể cầu nguyện với Chúa mọi nơi mọi lúc. Đặc biệt trong những giờ phút gặp khó khăn, đau khổ, ta biết rằng Chúa luôn ở bên ta, để ban ơn giúp sức cho ta vượt qua thử thách.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã sống với Chúa Giê-su thế nào?
– Chúng ta phải sống với Chúa Giê-su thế nào?
II. Đến với anh chị em
Đức Mẹ luôn gắn bó và sống với Chúa, nhưng vẫn sinh hoạt như bao người khác khi sống trong gia đình Na-da-rét, đồng thời để ý đem Chúa đến cho người khác.
1. Sống đời sống gia đình
a) Thánh Gia Chúa Giê-su, Đức Mẹ và Thánh Giu-se là một gia đình không như những gia đình khác. Thế nhưng tại Na-da-rét Thánh gia đã sinh hoạt bình thường như những người khác. Đức Mẹ là một người nội trợ; Thánh Giu-se là một người thợ, lao động để nuôi sống gia đình, và cũng đã truyền nghề lại cho con, nên Chúa Giê-su khi ra giảng đạo cũng được gọi là “bác thợ” (Mác-cô 6,3), “con của bác thợ” (Mát-thêu 13,55). Thánh Gia không sống xa cách với người khác, nên ai ai cũng biết (Gio-an 6,42). Đặc biệt, Thánh Gia chú trọng đến việc giữ đạo như lề luật Chúa dạy : khi sinh con được tám ngày thì làm phép cắt bì (Lu-ca 2,21); đến thời gian luật định thì đem con lên đền thờ để tiến dâng con cho Chúa và dâng lễ vật (2,22-24); khi trẻ Giê-su được mười hai tuổi thì cả gia đình đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem nhân lễ Vượt Qua (2,41-42). Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người thật, nên chắc hẳn Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã có vai trò quan trọng trong việc giáo dục Chúa Giê-su về mặt nhân bản và đạo đức (x. Lu-ca 2,51).
b) Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ để sống với Chúa trong đời sống gia đình và trong những liên lạc với người khác. Ngày nay có nhiều ảnh hưởng bên ngoài có thể gây nguy hại cho sự đoàn kết trong gia đình cũng như cho việc giáo dục con cái. Noi gương Thánh Gia, mỗi gia đình công giáo phải luôn luôn đặt ý Chúa trên hết, và như vậy giữ vững được tình yêu giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em chị em, đồng thời giáo dục con cái nên những con người tốt trong xã hội, những tín hữu tốt trong Giáo Hội.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Tại Na-da-rét Đức Mẹ đã sống đời sống gia đình thế nào?
– Mỗi gia đình chúng ta phải sống thế nào?
2. Đem Chúa Giê-su đến cho người khác
a) Đức Mẹ có Chúa Giê-su nhưng không ích kỷ giữ riêng cho mình, mà Đức Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Như khi thiên sứ truyền tin đã cho Đức Mẹ biết là bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng, tuy già rồi mà đã có thai con đầu lòng, thì lập tức Đức Mẹ đi đến miền núi xa xôi để thăm bà, chia vui với bà; Đức Mẹ cũng đem Chúa Giê-su khi đó còn đang ở trong lòng Đức Mẹ đến cho bà, khiến cho người con ở trong lòng bà đã nhảy lên vì vui sướng (Lu-ca 1,36-44). Rồi khi Chúa Giê-su sinh ra, Đức Mẹ cũng đưa Chúa ra cho các người chăn chiên và các nhà chiêm tinh bái lạy (Lu-ca 2,16; Mát-thêu 2,11). Sau khi Chúa Giê-su lên trời, chúng ta thấy Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ và một số người khác để trông đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như Chúa Giê-su đã hứa (Công vụ 1,13-14). Đây là lần cuối cùng Tân Ước nhắc đến “thân mẫu Đức Giê-su” : vào lúc Hội Thánh khởi đầu, Đức Mẹ có mặt, và chắc Đức Mẹ cũng đồng hành cách thiêng liêng với các tông đồ trong những bước đường truyền giáo, để cũng như Đức Mẹ, các ông đem Chúa Giê-su đến cho thế giới. Vì thế Hội Thánh quen kêu cầu Đức Mẹ là “Nữ Vương các thánh tông đồ”.
b) Đức Mẹ cũng là người hướng dẫn và đồng hành với chúng ta, để chúng ta ra đi đem Chúa Giê-su đến cho người khác. Ngày nay trên thế giới, và ngay bên cạnh chúng ta, vẫn còn vô số người chưa biết Chúa Giê-su. Chúng ta phải là những tông đồ làm chứng cho Chúa, đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ. Khi mỗi người chúng ta làm ăn lương thiện, biết để ý đến người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn, những người đau khổ về thể xác cũng như về tinh thần, khi mỗi gia đình chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau và cởi mở với những người xung quanh, là chúng ta làm chứng cho Chúa và làm cho Chúa hiện diện trong xã hội. Đặc biệt trong một thế giới đầy bóc lột, hận thù, khủng bố, người tín hữu phải làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã đem Chúa đến cho người khác khi nào?
– Ngày nay chúng ta làm chứng cho Chúa cách nào?
Bài này có lẽ hơi dài. Chúng ta (cá nhân, gia đình, nhóm nhỏ, giáo xứ) có thể đọc mỗi lần một phần, suy nghĩ, cầu nguyện, rồi trao đổi, tìm cách áp dụng cho đời sống.
Xin Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu hơn Đức Mẹ đã sống đạo thế nào, và xin Đức Mẹ giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay trong lòng xã hội Việt Nam. Như vậy chúng ta sẽ thực hiện như Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam mong ước, là “làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người” (số 11).
19.Lễ sinh nhật Đức Maria-- Linh Tiến Khải
Sau khi tìm hiểu lịch sử lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cũng đã tìm hiểu lịch sử và chỗ đứng của Kinh Mân Côi trong cuộc sống Kitô hữu, đặc biệt là trong cuộc đời các Thánh. Tiếp tục trình bầy các lễ còn lại về Đức Mẹ, hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ Sinh Nhật Đức Maria.
Liên quan tới biến cố Đức Maria sinh ra Đức Hồng Y Ildefonso Schuster, Tổng Giám Mục Milano, đã viết một trong những trang ý nghĩa như sau: “Như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, cũng thế Đức Maria tất cả rạng ngời sự sống và sự vô tội, sáng chói và vô nhiễm, bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đấng do công trình của Chúa Thánh Thần, như phụng vụ dậy chúng ta, muốn chính Người nhào nặn thân thể và linh hồn ấy một ngày kia phải dùng làm nhà tạm và đền thờ cho Người. Mẹ là bình minh loan báo ngày đã mọc lên đàng sau các ngọn đồi vĩnh cửu; Mẹ là chồi thần bí nảy sinh từ gốc Giêssê đáng kinh; Mẹ là con sông mới vọt ra từ thiên đàng và sắp tưới gội toàn thế giới; Mẹ là tấm khăn biểu tượng được trải trên mặt đất để đón sương điềm lạ; Mẹ là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống, mà trong ngày này sinh ra cho những kẻ đã có Evà như là mẹ của tội lỗi và của cái chết” (I. Schuster, Liber sacramentorum, Marietti, Torino. Edd. divv. VIII, in fine).
Đức Maria là “ngôi sao báo trước mặt trời và là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể”. Biến cố Đức Maria sinh ra được diễn tả một cách tổng kết trong điệp ca Benedictus Kinh Thần vụ của ngày lễ: “Việc Mẹ sinh ra, hỡi Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, đã báo trước niềm vui cho toàn thế giới: từ Mẹ đã sinh ra mặt trời công chính, là Chúa Kitô Chúa chúng con: Người đã cất án phạt và đã đem tới ân sủng, đã chiến thắng cái chết và ban lại cho chúng ta sự sống”.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là một thời sự gây kinh ngạc, bởi vì nó trực tiếp gắn liền với đề tài Chúa Kitô ánh sáng, là một đề tài rất cổ xưa (Giustino, Apl., I,57) và đã được phát triển sau đó, đặc biệt bởi các giáo phụ thuộc thế kỷ thứ IV. Và nó đã được đào sâu trong các tuần lễ phụng vụ quốc gia. Chẳng hạn tuần lễ phụng vụ tại Pescara, trung Italia năm 1977, về đề tài “Chúa nhật ngày của Chúa và Chúa của các ngày”. Kết qủa nó là một đề tài tu đức cũng như đề tài mục vụ, bởi vì nó gắn liền mật thiết với đề tài phục sinh. Hoc giả J. A. Jungmann so sánh cuộc sống của Kitô hữu, coi phục sinh như biến cố của qúa khứ, với một loại hiện hữu khó hiểu, trong đó các thực tại Kitô như bị che kín bởi một làn sương dầy đặc. Trái lại, cuộc sống của Kitô hữu đặt để mầu nhiệm phục sinh vào trung tâm sự hiện hữu của mình, học giả Jungmann so sánh nó với “một cuộc tạo dựng mới, bị xâm chiếm bởi ánh sáng rạng ngời của buổi sáng ngày phục sinh.
Trong phụng vụ lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ liên tục được đặt để trong tương quan với ánh sáng: nếu Chúa Kitô là “mặt trời công chính”, thì Mẹ Maria là bình minh, là ngôi sao báo trước mặt trời, là điểm khởi hành, là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể.
Lịch sử cứu độ có một “dẫn nhập” và đẫn nhập đó có tên là Maria: lời nguyện thánh lễ Sinh Nhật Đức Mẹ nói rõ điều đó: “Chức làm mẹ của Đức Trinh Nữ ghi dấu khởi đầu ơn cửu rỗi của chúng con”.
Chính ý niệm này về Đức Maria như là khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta đã khiến cho dân chúng đốt các đống lửa lớn trong đêm ngày mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 9, chẳng hạn như tại đền thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, để soi sáng các đường phố và quảng trưởng, hầu diễn tả niềm tin yêu của tín hữu đối với Mẹ Maria Ngôi Sao báo trước Mặt Trời, như ở Mitello Val di Catania, nơi có đền thánh kính Đức Bà Ngôi Sao.
Thế chúng ta có các dữ kiện lịch sử và thần học nào chứng minh cho ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ không? Cần phải nói ngay rằng khác với trường hợp của ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử Luca kể lại trong Phúc Âm chương 1,57-66, sách Phúc âm không cho chúng ta biết gì về ngày sinh của Đức Mẹ.
Tài liệu đầu tiên kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria là mạo thư “Phúc Âm của thánh Giacôbê”, cho biết Đức Maria sinh ra tại Giêrusalem, tại nơi, trên đó trong các năm 400 tới 600 người ta nói tới một vương cung thánh đường dâng kính Đức Mẹ gần hồ tắm Bếdatha có năm hành lang trong thành cổ, ở mạn bắc Đền Thờ Giêrusalem. Sau năm 603 Đức Thượng Phụ Sofronio khẳng định rằng đây là nơi Đức Mẹ đã sinh ra. Sau đó ngành khảo cổ đã xác nhận truyền thống này. Vương cung thanh đường được xây trên ngôi nhà của hai ông bà Gioakim và Anna, thân phụ và thân mẫu của Đức Mẹ, và là nơi Đức Trinh Nữ đã chào đời.
Lễ sinh Nhật Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria đã bắt đầu bên Đông Phương, và chắc hẳn là tại Giêrusalem vào thế kỷ thứ V, nơi lưu giữ truyền thống sống động tin rằng có căn nhà nơi Đức Maria đã chào đời. Ngày lễ hẳn đã nảy sinh từ việc thánh hiến một nhà thờ cho Đức Maria gần hồ Bếdatha có năm hành lang, để kỷ niệm biến cố này. Và các truyền thống này gắn liền với đền thánh hiện nay kính thánh Anna, thân mẫu Đức Maria.
Tại sao lại mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ vào ngày mùng 8 tháng 9? Lễ này được cử hành vào ngày mùng 8 tháng 9 chắc hẳn bởi vì Mẹ Maria giữ nhiệm vụ là khởi đầu công trình cửu độ, vì thế thật là thích hợp cử hành sinh nhật của Mẹ vào đầu năm của Giáo Hội theo tác phẩm Monologium Basilianum. Có một chuyện mạo thư tựa đề “De ortu Virginis” Về ngôi vườn của Đức Trinh Nữ, cho rằng thánh Anna thân mẫu Đức Maria thụ thai vào đầu tháng 5 và chỉ sau bốn tháng mang thai đã cho con chào đời.
Tài liệu đầu tiên về lễ sinh nhật Đức Mẹ xem ra là một bài thánh thi của Romano il Melode, là người chuyên chép thánh thi giữa các năm 536-566. Thánh thi kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ theo Phúc Âm thánh Giacôbê, và đề cập đến sự kiện ngày lễ được cử hành long trọng. Bên Đông phương lễ này mau chóng có tầm quan trọng lớn. Năm 701 Đức Giám Mục đảo Creta đã viết bốn bài giảng về lễ này (PG 97, 1046-1110).
Bên Tây phương lễ sinh nhật Đức Mẹ được du nhập vào hồi thế kỷ thứ VII. Bên Pháp chúng ta thấy lễ được nói đến trong lịch của Sonnatius là Giám Mục thành Reims giữa các năm 614-631. Tại Roma tác phẩm Sacramentario gelasiano (II, 54; ed. Mohlberg, nn. 1016-1019), ghi lại ba lời nguyện của thánh lễ. Tác phẩm Liber pontificalis (ed. Duchesne, I,376), thuộc hậu bán thế kỷ thứ VII, coi nó như đã có, và kể lại rằng Đức Giáo Hoàng Sergio I người Siro-siciliano, cai trị Giáo Hội giữa các năm 687-70i, muốn rằng lễ được cử hành với một cuộc rước kiệu đi từ nhà thờ thánh Adriano cho tới đền thờ Đức Bà Cả, y như cho các lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, lễ Truyền Tin và lễ Đức Mẹ ngủ.
Từ thế kỷ thứ XI lễ sinh nhật Đức Mẹ ngày càng có tầm quan trọng hơn nữa, đến độ có tuần bát nhật đi trước. Đây là điều đã được Đức Giáo Hoàng Innnocenzo IV thiết định năm 1243 theo sau một lời khấn hứa do các Hồng Y đưa ra trong Mật nghị Hồng Y đoàn năm 1241, khi các Hồng Y bị hoàng đế Federico II giam giữ trong vòng ba tháng trời. Năm 1378 Đức Giáo Hoàng Gregorio XI thiết định buổi canh thức vào hôm trước, sau này chính Đức Giáo Hoàng cử hành lễ trọng thể.
Song song trong lãnh vực nghệ thuật người ta cũng thường thấy có hàng loạt các bức khảm đá mầu diễn tả sinh nhật Đức Mẹ. Điển hình như loạt bức khảm đá mầu rất đẹp do ông Pietro Cavallini vẽ mẫu cho vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere ở Roma trong hai thế kỷ XIII-XIV, rồi bức tranh nổi tiếng “sinh nhật Đức Maria”, của vị thầy chuyên thực hiện các bức tranh về cuộc đời Đức Mẹ khoảng năm 1460, được giữ trong viện bảo tàng tranh ảnh ở Monaco.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đã được thiết định vào ngày mùng 8 tháng 9 trước thời Đức Giáo Hoàng Sergio I đã không bị điều kiện hóa bởi lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12. Vì ý niệm về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội đã chỉ có mãi sau này. Nhưng chính lễ sinh nhật Đức Mẹ lại điều kiện hóa lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12.
Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là lễ của sư tràn đầy và vơi nhẹ, vì nó được mừng bắt đầu vào mùa thu, nghĩa là sau cái nóng bức của mùa hè, khi khí hậu mát mẻ và dễ chịu hơn, và khi nho và nhiều thứ trái cây khác bắt đầu chín mọng. Do đó lễ Sinh Nhật Đức Mẹ diễn tả hai ý niệm rất đẹp: thứ nhất là ý niệm về sự “tràn đầy viên mãn của thời gian” và ý niệm sự vơi nhẹ mà Mẹ Maria đếm đến cho loài người. Là thụ tạo tuyệt vời được Thiên Chúa tuyển chọn từ đời đời để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế biến cố Đức Maria chào đời mở màn cho việc thực hiện công trình cứu cuộc của Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolo diễn tả thời điểm quan trọng biến cố Chúa Giêsu Kitô nhập thể như sau: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4). Nhưng trước khi Chúa Cứu Thế có thể sinh ra, đã phải có ngày Mẹ của Người là Đức Trinh Nữ Maria chào đời, đã phải có ngày Sinh Nhật của Mẹ. Vì vậy có thể nói thời gian viên mãn ấy đã bắt đầu với biến cố Đức Maria chào đời. Mẹ vào đời để bắt đầu hiện thực chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Mẹ là nước mát từ Trời đổ xuống trên trái đất khô cằn nứt nẻ vì tội lỗi của loài người, để cùng Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ lại biến nó trở thành vườn địa đàng, nơi ngày ngày Thiên Chúa gặp gỡ và chuyện vãn thân tình với con người.
(Thánh Mẫu Học bài số 375)
20.Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria--NguoiTinHuu.com
Giáo Hội mừng kính ngày sinh nhật Ðức Maria từ thế kỷ thứ sáu. Ngày sinh nhật được chọn trong tháng Chín vì Giáo Hội Ðông Phương bắt đầu niên lịch phụng vụ từ tháng Chín. Ngày mùng tám là vì lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội là ngày 8 tháng Mười Hai (chín tháng trước).
Kinh Thánh không đề cập gì đến việc sinh hạ Ðức Maria. Tuy nhiên, bản văn mà người ta cho là phúc âm nguyên thủy của Thánh Giacôbê có đề cập đến sự kiện này. Bản văn này không có giá trị lịch sử, nhưng nó cho thấy quá trình sùng đạo của Kitô Hữu. Theo bản văn, bà Anna và ông Gioankim vì hiếm muộn nên cầu xin cho được một đứa con. Họ được hứa cho một người con mà trẻ này sẽ giúp hình thành kế hoạch cứu chuộc trần gian của Thiên Chúa. Câu truyện trên (cũng như nhiều câu truyện khác trong phúc âm) cho thấy sự hiện diện quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời Ðức Maria ngay từ đầu.
Thánh Augustine nối kết việc sinh hạ của Ðức Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thánh nhân nói trái đất hãy vui mừng và bừng sáng vì việc sinh hạ Ðức Maria. "Ngài là bông hoa trong cánh đồng mà từ đó đã nẩy sinh hoa huệ quý nhất vùng châu thổ. Qua sự sinh hạ của ngài, bản chất mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ đã thay đổi."
Lời Bàn
Chúng ta có thể xem việc sinh hạ của mỗi một người là lời mời gọi đem hy vọng đến cho thế gian. Qua tình yêu, hai cha mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo. Họ có thể đem lại hy vọng cho một thế giới lao nhọc. Vì mỗi một đứa con đều có thể trở nên máng chuyển tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến cho thế giới.
Ðiều này thật đúng với Ðức Maria. Nếu Ðức Giêsu là sự biểu lộ tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa thì Ðức Maria là điềm báo của tình yêu ấy. Nếu Ðức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu chuộc thì Ðức Maria là bình minh hé mở của công trình ấy.
Việc mừng sinh nhật đem lại niềm vui cho chính cá nhân cũng như gia đình, bạn hữu. Ngoài việc giáng trần của Ðức Giêsu, việc sinh hạ Ðức Maria đã đem lại niềm vui lớn lao nhất cho nhân trần. Mỗi khi chúng ta cử mừng sinh nhật của ngài, chúng ta có thể hy vọng chắc chắn là sự bình an trong tâm hồn chúng ta và trong thế giới sẽ gia tăng.
Lời Trích
"Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse" (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
21.Có sinh nhật nhờ Chúa Giêsu
Phụng Vụ trong Hội Thánh chỉ có hai lễ Sinh Nhật của người được Chúa cứu độ: thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Ma-ri-a, còn các thánh khác, ngày Sinh Nhật được mừng khi các ngài mãn cuộc đời về với Chúa (xem Lời Nguyện Đầu Lễ của Các Thánh).
Lý do có lễ Sinh Nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong loài người, chỉ có ông Gioan lúc tượng thai cho đến chết có những điểm song đối với Đức Giê-su nhằm dọn đường cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế; còn lễ Sinh Nhật của Đức Ma-ri-a chỉ vì Mẹ đã sinh Chúa Giê-su. Từ thuở đời đời Chúa đã nhắm mời Đức Ma-ri-a cộng tác với Ngài thực hiện chương trình cứu độ loài người, bởi đó, sứ mệnh của Đức Ma-ri-a là :
- Mẹ thực hiện lời tiên báo Đấng Cứu Thế sinh tại Bê-lem.
- Con Mẹ thuộc dòng dõi vua Đavid.
- Con Mẹ đến xóa bỏ giai cấp.
- Mẹ là Trinh Nữ báo trước Hội Thánh là Hiền Thê Chúa Ki-tô.
- Mẹ là mẫu gương cho loài người biết nghe Lời Chúa.
1/ MẸ THỰC HIỆN LỜI TIÊN BÁO ĐẤNG CỨU THẾ SINH TẠI BÊ-LEM.
Qua lời ngôn sứ Mikha: “Phần ngươi hỡi Bê-lêm Ep-ra-tha, ngươi nhỏ nhất trong các chi tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Israel, nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa, vì thế Đức Chúa sẽ không bỏ mặc Israel cho đến thời Đẻ sinh con (bản dịch NTT: là Đức Ma-ri-a, là Hội Thánh)…Người sẽ đưa vào quyền lực Đức Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng đến toàn cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa bình” (Mk 5,1-4a: Bài đọc).
Vậy nhờ Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a nâng kẻ bé nhỏ lên hàng khanh tướng.
2/ CON MẸ THUỘC DÒNG DÕI VUA ĐAVID.
Đavid thuộc gốc tổ Giacop, chi họ Giuđa, là người đã được Giacop chúc phúc vì ông Giu-đa có công ngăn cản anh em không được giết Giuse, ông bày mưu để anh em bán Giuse cho người Ai-Cập với hy vọng Giuse thoát chết, bời vì các anh em ông đã quyết định giết em Giuse (x St 37,26-27). Chúa đã dùng miệng các ngôn sứ hứa cho nhà Israel một vị vua – Đấng Mêsia – là hiện thân vua Đavid. Đó là vị vua tài đức nhất trong các vua của Israel (x 2Sm 7,12; Ed 37,24-35; Is 44,28).
Để minh chứng Đức Giê-su thuộc dòng vua Đavid đến thực hiện lời hứa cứu độ, ông Mat-thêu mở đầu Tin Mừng giới thiệu Đức Giê-su là Con vua Đavid (x Mt 1,1: Tin Mừng), và kết thúc Tin Mừng, ông khéo léo nhấn mạnh vai trò quan trọng của vua Đavid mới là Đức Giê-su: Đó là lý do ba lần ông Mattheu nhắc đến tên Đavid bằng cách chơi chữ: 14 đời. 14 đời là tổng số 3 phụ âm của tên Đavid: DaWiD (D = 4; W = 6), như thế tên của Đavid viết bằng số là: 4a6i4 = 14 (x Mt 1,17: Tin Mừng).
Vậy những gì Chúa đã hứa cho chúng ta, không bao giờ Ngài quên thực hiện, như Lời Ngài đã nói: “Trời đất qua đi, nhưng Lời tôi nói không bao giờ qua” (Mt 24,35).
3/ CON ĐỨC MARIA ĐẾN XÓA BỎ GIAI CẤP.
Người Do-thái khinh dể phụ nữ, đến nỗi họ tưởng nghĩ phụ nữ là loài không có linh hồn, cho nên truyền thống của Do-thái khi viết gia phả của ai, không bao giờ người ta đưa tên phụ nữ vào danh sách đó. Thế mà ông Mat-thêu một người Do-thái, viết Tin Mừng cho người Do-thái, khi ông đề cập đến gia phả của Đức Giê-su, thì ông đã xé truyền thống Do-thái: tự đưa vào gia phả Đức Giê-su năm tên người phụ nữ: Bà Thamar, bà Rahab, bà Rut, bà Bat Shêba là vợ tướng Uria, và bà Maria là Mẹ Đức Giê-su (x Mt 1,3.5.6.16).
Vậy sống tâm tình con cái Thiên Chúa, không ai được khinh dể người khác. Thánh Phao-lô nói: “Trong Chúa không nam thì cũng chẳng có nữ, không nữ thì cũng chẳng có nam” (1Cr 11,11).
4/ MẸ LÀ TRINH NỮ BÁO TRƯỚC HỘI THÁNH LÀ HIỀN THÊ CHÚA KI-TÔ.
Ta biết truyền thống Do-thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một trinh nữ. Đối với họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giép-tê than khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù! (x Tp 11, 29-40).
Thực ra, lời ngôn sứ I-sai-a (7,14) theo nguyên bản bằng tiếng Hipri chỉ nói người nữ ấy là “Almah” có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định là còn hay mất trinh); nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy-lạp lại xác định người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giê-su và các Tông Đồ dùng bản văn này để giảng dạy, và sau này thánh Giê-rô-ni-mô dịch bản văn này sang tiếng Latinh, ông cũng xác định là Trinh Nữ như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a báo trước Hội Thánh là một Trinh Nữ, Hiền Thê của Chúa Ki-tô (x Mt 25,1t; Ga 3,29; 2 Cr 11,2).
5/ MẸ LÀ MẪU CHO LOÀI NGƯỜI BIẾT NGHE LỜI CHÚA.
Ta biết, Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Thiên Chúa trong một hoàn cảnh éo le, vì lúc ấy Mẹ đã đính hôn với ông Giuse, tuy chưa về chung sống một nhà, nhưng đã là vợ chồng chính thức trước pháp luật. Theo sách Ngụy kinh kể lại cho chúng ta: Cô Maria rất xinh đẹp và đầy nhân đức, cho nên chàng trai nào cũng muốn lấy làm vợ, vì quá đông các chàng theo đuổi, nên họ xin với vị thượng tế cầu nguyện, và chàng nào cũng mong mình trúng số lấy được cô Maria. Vị thượng tế có sáng kiến, bảo các chàng trai mỗi người cầm cây gậy và cùng đến cầu nguyện, gậy cậu nào nở bông là ý Trời muốn cậu đó se duyên với cô Maria. Thật là may mắn cho Giuse, gậy của ông đã nở hoa huệ. Cũng vì lý do đó mà hôm nay các tượng thánh Giuse, người ta thấy ngài cầm bông huệ. Thế mà khi Thiên thần báo tin cho Đức Ma-ri-a thụ thai, thì Thiên thần lại nói Mẹ Maria là một trinh nữ, có nghĩa là Maria không trở thành vợ của ông Giuse như những người phụ nữ khác có đời sống lứa đôi! Điều ấy có trái với định mệnh cho ông Giuse và Maria lấy nhau hay không? Vì gậy của ông đã được Chúa cho nở bông? Và như vậy Đức Ma-ri-a cũng đã xác định rằng: mình là vợ chính thức của Giuse, vì đã được tiền định, bây giờ không ăn ở với ông Giuse mà lại mang bầu, thì biết ăn nói thế nào với xã hội, và dù có tâm sự với Giuse, thì liệu ông có tin hay không? Chính ông Giuse khi biết Maria có thai, ông “đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (x Mt 1,18t: Tin Mừng).
Vậy Mẹ Maria vâng nghe Lời Chúa để sinh Con Đấng Tối Cao vào đời, đối với Mẹ là một đau khổ hơn là vinh dự, bởi vì Mẹ phải đối phó với bao nghịch cảnh luật Do Thái thời bấy giờ.
Đặc biệt hơn nữa là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su, tất cả lời Thiên Chúa hứa trong ngày Truyền Tin: “Con Bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài sẽ làm Vua, triều đại của Ngài vô cùng tận” (Lc 1,32-33), và “Bà là người có phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42). Chắc chắn những lời ấy đâm tim Mẹ Maria khi Mẹ đứng nhìn Con bị treo trên thập giá (x Ga 19,25). Cứ như suy nghĩ của người đời thì Thiên Chúa đã dối gạt Mẹ Maria, thế mà Mẹ vẫn vững tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đứng nhìn Con như một dũng tướng giữa chiến trường, Mẹ đứng lèo lái con thuyền Hội Thánh đang gặp sóng gió của niềm tin kinh hoàng nhất!
Bởi vậy Mẹ Maria là mẫu cho những người biết nghe Lời Chúa hầu được cứu độ, Mẹ là hình ảnh Hội Thánh viên mãn trong ngày cánh chung. Nhờ Con Thiên Chúa làm người, Ngài đến thực hiện những lời chúc phúc cho dòng giống của ông Abraham, mà trong gia phả Đức Giê-su, tác giả Mat-thêu đã ghi nhận, để Ngài làm cho chúng ta trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, cùng vinh hiển trong Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a (x Dt 2,11; Ga 6,57; Gl 2,20; 2Tm 2,10).
Thánh An-rê, Giám mục Cơ-rê-ta nói: “Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đem lại cho chúng ta hai mối lợi: Một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và lý do gì? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giới giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ”
Vì vậy, những người được Chúa cứu độ trong niềm hân hoan tạ ơn nói: “Tôi mừng rỡ muôn phần vì Đức Chúa” (Is 61,10: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Đức Ma-ri-a nói với loài người một lời duy nhất: “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)
07/09 Các on6ng đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người
- Viết bởi Lc 5, 1-11
“CÁC ÔNG ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
Hôm nay thứ Năm tuần XXII Thường niên, chúng ta bước vào Chương 5 Phúc âm Luca để được chứng kiến ƠN GỌI CỦA 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN.
Các ơn gọi đó được lồng trong bối cảnh PHÉP LẠ MẺ CÁ ĐẦY TẠI BIỂN HỒ GALILÊ.
Chính từ Phép lạ này đã tạo ra ấn tượng cực mạnh đối với 4 môn đệ đầu tiên, đó là:
+ Hai anh em ruột: Anrê và Phêrô.
+ Hai anh em ruột: Giacôbê và Gioan.
Như vậy Biển hồ Galilê này đã chứa nhiều kỷ niệm với các môn đệ thân tín với 2 phép lạ mẻ cá đầy.
Phép lạ mẻ cá đầy hôm nay đánh dấu thời khắc các ông được Chúa kêu gọi làm môn đệ.
Một Phép lạ mẻ cá đầy khác sau này được Thánh sử Gioan tường thuật, cũng tại Biển hồ sau khi Chúa phục sinh. (Ga 21, 1 – 14) đánh dấu giai đoạn các môn đệ chính thức bước vào cánh đồng truyền giáo.
Cả hai phép lạ giống nhau khá nhiều chi tiết:
+ Giống nhau ở đây, đó là sự thất bại của các môn đệ, sau khi vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào.
Các ông là những ngư phủ lành nghề, nhưng bây giờ lại phải nghe một BÁC THỢ MỘC góp ý.
Thợ mộc và ngư phủ là hai ngành nghề không liên quan gì với nhau. Nhưng khi ngư phủ chịu nghe lời một bác thợ mộc là Chúa Giêsu góp ý thì thành công sẽ ra ngoài sức tưởng tượng.
Như vậy sự thành công của mẻ cá đầy ở đây không do ở con người mà là do Chúa. Chúa muốn qua mẻ cá này làm cho các môn đệ hoàn toàn tin tưởng và đi theo Ngài, tức bị khuất phục hoàn toàn.
+ Trong Phép lạ ở Luca, Chúa phán:
“Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4).
+ Trong phép lạ ở Gioan, Chúa phán:
“Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” (Ga 21, 6).
Hai lời này sẽ mang ý nghĩa và bài học khác nhau:
1/. “RA CHỖ NƯỚC SÂU”.
Thường những con cá nhỏ tụ tập gần bờ, chỉ những con cá lớn mới ở chỗ nước sâu, chỗ nguy hiểm, tức giữa biển khơi.
Như vậy “ra chỗ nước sâu”, có nghĩa, các ông phải đưa thyền ra giữa biển, phải vào tận hang cọp mới bắt được cọp. Sau này các ông cũng phải đi đến những miền xa lạ, đầy nguy hiểm mới mong bắt được cá.
Còn truyền giáo mà cứ bám vào chỗ gần bờ, chỗ nước cạn, an toàn thì làm sao có cá.
2/. “THẢ LƯỚI XUỐNG BÊN PHẢI MẠN THUYỀN”
Theo Gioan, các môn đệ sau khi vất vả suốt đêm, tung hoành khắp Biển hồ mà vẫn không bắt được gì.
Thế mà bây giờ nghe Chúa nói: ““Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” (Ga 21, 6).
Bên phải mạn thuyền làm gì có cá, thế mà vì vâng lời Chúa, các ông đã bắt được mẻ cá đầy.
Vậy hóa ra cá đang ở đây mà các ông cứ thả lưới ở đâu đâu. Thật không thể tin nổi.
Đâu cần ta phải đi đây đi đó, đâu cần phải như thánh Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê đi khắp nơi truyền giáo. Mà Chúa muốn ta truyền giáo ngay tại đây, cứ thả lưới bên mạn thuyền, truyền giáo ngay trong chính gia đình mình, giáo xứ mình, khu xóm mình. Tại những chỗ đó hóa ra lại có rất nhiều cá.
Cả hai phép lạ Mẻ cá đầy đều giống nhau ở chi tiết cuối cùng.
Luca viết: “”CÁC ÔNG ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
Gioan viết: “Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21, 19)
““”CÁC ÔNG ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
Cụm từ “CÁC ÔNG” ở đây là 4 môn đệ đầu tiên: Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan”.
Cả 4 môn đệ này theo Thánh sử Gioan, họ đã được gặp Chúa tại sông Giocđan rồi, sau khi Chúa chịu phép rửa (Ga 1, 19 – 44).
Nhưng lần đó mới chỉ là gặp gỡ và tiếp xúc, chứ họ chưa đi theo .
Ngày hôm nay, với phép lạ mẻ cá đầy, Chúa mới chính thức kêu gọi các ông làm môn đệ.
“ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
Các môn đệ đã từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Các ông đã bỏ thuyền, bỏ lưới, bỏ vợ con, bỏ cha già. Nói chung bỏ tất cả những gì các ông đang có, một sự từ bỏ thật trọn vẹn và tận căn.
Trước đây các ông chỉ mong làm sao bắt được nhiều cá để có tiền nuôi sống gia đình. Thì nay vừa bắt được mẻ cá đầy, các ông cũng vội từ bỏ luôn để lên đường theo Chúa.
Câu kết thúc Bài Tin mừng, Luca viết:
“Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
“ĐỪNG SỢ HÃI”
Đứng trước mẻ cá này, Phêrô sợ hãi thật sự. Vì kinh nghiệm dày dặn của ông chỉ là con số 0. Ông và các bạn là những ngư phủ lành nghề, mà Biển hồ lại rất nhiều cá, thế mà các ông chẳng bắt được con nào.
Cái kinh nghiệm của ông chẳng là gì khi đứng trước quyền năng của Chúa. Đối với Phêrô, ông có thể nghĩ, chính Chúa có quyền năng ra lệnh cho các con cá phải chui vào cái lưới này.
Chính vì quá sợ hãi ông mới thưa với Chúa. Luca viết:
“Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”.
Đứng trước mẻ cá đầy, Phêrô đã nhận ra quyền năng của Chúa, đồng thời ông cũng nhận ra mình là con người tội lỗi.
Ngay từ đầu bài Tin mừng, Phêrô gọi Chúa Giêsu là Thầy, một vị Thầy đáng kính. Nhưng sau phép lạ, Phêrô đã thay đổi cách xưng hô, ông gọi Ngài là Chúa. Đó là một sự tôn kính cao nhất.
Như vậy đã có một sự biến chuyển thật rõ nét trong tâm thức của Phêrô.
Ông xin Chúa tránh xa ông, vì ở gần ông, sẽ thật bất xứng, vì làm sao một thụ tạo lại có thể đứng trước Vị Thiên Chúa.
Nhưng sao Chúa có thể tránh xa ông được, trái lại Ngài lại càng gần ông hơn bao giờ hết và kêu gọi Phêrô làm môn đệ.
Với phép lạ mẻ cá này, chúng ta có thể nghĩ: Chúa không cần các ông làm môn đệ, vì với quyền năng của Chúa, Ngài có thể làm cho mọi người trở về với Thiên Chúa, có thể biến những hòn đá này thành con cái Abraham, cũng như Ngài đã khiến các con cá phải chui vào cái lưới của Phêrô, thì Chúa cũng có thể làm cho mọi người trở về với Ngài mà không cần con người cộng tác.
Thế nhưng, đây không phải kế hoạch Chúa muốn, Chúa vẫn kêu gọi, vẫn mời gọi con người cộng tác, bằng chứng Chúa đã chọn các môn đệ và đã chọn các Kitô hữu chúng ta tham gia vào công cuộc truyền giáo.
Khi Phêrô và các bạn từ bỏ mọi sự, bỏ nghề nghiệp để đi theo Chúa, thì chiính Chúa sẽ làm cho các ông trở thành những ngư phủ lành nghề.
Nhưng chỉ có điều bây giờ các ông không còn đánh bắt cá nữa mà là LƯỚI NGƯỜI.
“TỪ ĐÂY CON SẼ LÀ KẺ CHINH PHỤC NGƯỜI TA”.
Câu nói của Phêrô sẽ còn vang vọng mãi trong Giáo hội hôm nay mà các môn đệ và các chứng nhân Tin mừng còn nghe rõ:
“Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”.
“VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”.
Các Kitô hữu hôm nay cũng có thể nói với Chúa câu này: “VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”.
Chúng ta hãy vì Lời Chúa mà đem tin mừng rao giảng cho muôn dân, vì chúng ta cũng là kẻ “đi chinh phục người ta”.
Đừng ngại nguy hiểm, đừng ngại vất vả và sóng gió, hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc khuyến khích con người tìm ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời.
TRONG BÀI ĐỌC I Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê, thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Colossê có đủ khôn ngoan và hiểu biết để am tường thánh ý Thiên Chúa, và có sức mạnh để thực thi thánh ý Ngài; vì hiệu quả của những người làm theo thánh ý Thiên Chúa là sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời này, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa ở đời sau.
Chỉ có những ai làm theo thánh ý Thiên Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời này, mà Thánh ý Thiên Chúa, đó là: các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân.
Và chỉ vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới và con sẽ có mẻ cá đầy.
Kitô hữu chúng ta hôm nay được đọc và suy gẫm ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, ta cũng hãy ý thức mình cũng là những môn đệ được Chúa mời gọi vào cánh đồng truyền giáo.
Ta hãy học nơi các môn đệ bài học:
“”CÁC ÔNG ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
Giáo hội hôm nay cũng đang rất cần các chứng nhân Tin mừng để làm cho Nước Chúa được lan rộng khắp nơi.
Ta có dám từ bỏ mọi sự để dấn thân vào công cuộc truyền giáo chưa, hay còn vì một cái gì đó đang níu kéo ta lại không cho ta dấn bước.
Chúa cũng không đòi ta phải ra CHỖ NƯỚC SÂU, đi đây đi đó như một lãng tử phiêu bạt truyền giáo, mà Chúa muốn ta hãy THẢ LƯỚI BÊN MẠN THUYỀN”, có nghĩa truyền giáo tại chính giáo xứ mình, ngay trong môi trường mình đang sống.
Với một vài suy niệm ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau bước vào Bài Tin mừng:
______________________________________________
II/. BÀI CHIA SẺ (Lc 5, 1-11)
“KHI ẤY, DÂN CHÚNG CHEN NHAU LẠI GẦN CHÚA GIÊSU ĐỂ NGHE LỜI THIÊN CHÚA, LÚC ĐÓ NGƯỜI ĐỨNG Ở BỜ HỒ GHÊNÊSARÉT”
Hôm nay Chúa Giêsu không giảng dạy trong hội đường như mọi khi mà Ngài giảng ở BỜ HỒ GHÊNÊSARÉT.
HỒ GHÊNÊSARÉT:
Theo Wikipedia:
Biển hồ Galilee, cũng gọi là Biển hồ Genneseret, Hồ Kinneret hoặc Hồ Tiberias, là một hồ nước ngọt lớn nhất ở Israel. Hồ có chu vi khoảng 53 km (33 dặm), chiều dài khoảng 21 km (13 dặm), chiều rộng khoảng 13 km (8 dặm), với diện tích tổng cộng là 166 km². Hồ có chiều sâu tối đa là 43 m. Hồ nằm ở độ sâu 209 mét dưới mực nước biển, là hồ nước ngọt thấp nhất trên Trái Đất và hồ thấp thứ nhì trên Trái Đất (sau Biển Chết, 1 biển hồ nước mặn).
Người ta không gọi HỒ mà là BIỂN HỒ, có nghĩa nó kết hợp cả 2 đặc tính: BIỂN & HỒ.
Nó là HỒ:
vì nó được nhận nước từ sông Jordan và chảy đi sang các miền khác
(trong khi Biển Chết, nó cũng là Biển hồ, nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó lại không chảy đi đâu, vì thế qua hàng trăm năm, nước trong Biển Chết rất mặn không có sinh vật nào sống nổi nên người ta mới gọi là Biển chết).
Nó là BIỂN:
Vì diện tích của nó quá lớn, so với diện tích của một cái hồ, nên dưới tác động quay của trái đất, nó cũng có sóng như một biển thực thụ.
Nhưng biển hồ Galilê lại là biển nước ngọt có rất nhiều cá, nuôi sống 9 thành phố chung quanh nó. Dân cư ở ven Biển hồ thường sinh sống bằng nghề đánh cá, họ là những ngư phủ lành nghề.
Có một đặc điểm nữa cần nói về Biển hồ Galilê, nó thường có những cơn phong ba dữ dội, bất ngờ không được báo trước, vì thế nó vô tình là cái bẫy nguy hiểm đối với các ngư phủ, nhiều người đã bỏ xác tại đó. Như trong bài Tin mừng Chúa Giêsu đi trên mặt biển là một minh chứng cụ thể.
“KHI ẤY, DÂN CHÚNG CHEN NHAU LẠI GẦN CHÚA GIÊSU ĐỂ NGHE LỜI THIÊN CHÚA”
Tại sao lại có cảnh chen nhau?
Vì dân chúng quá hâm mộ Chúa nên khi Ngài xuất hiện ở đâu họ liền lũ lượt kéo đến. Đó là hành động bộc phát của dân chúng. Mà khi nói đến bộc phát thì luôn kéo theo sự mất trật tự, bát nháo và lộn xộn.
Nếu theo dõi các sách Tin mừng, ta thấy có nhiều buổi giảng dạy của Chúa Giêsu còn đông hơn nhiều, có khi lên đến hàng ngàn người như trong 2 lần Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Trong những lần đó dân chúng rất trật tự, không có cảnh bát nháo, chen nhau xảy ra.
Vì sao?
Thưa vì những lần đó có Nhóm Mười hai tông đồ và Nhóm Bảy Mươi hai môn đệ. Họ là đội quân ổn định trật tự. Các ông phải làm việc hết công suất để buổi giảng dạy của Thầy được thành công tốt đẹp, ai cũng được nghe lời Thiên Chúa.
Hôm nay, do Chúa Giêsu chưa chọn môn đệ nào nên không có ai ổn định trật tự nên mới có cảnh chen nhau.
“NGƯỜI TRÔNG THẤY HAI CHIẾC THUYỀN ĐẬU GẦN BỜ; NHỮNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ ĐÃ RA KHỎI THUYỀN VÀ HỌ ĐANG GIẶT LƯỚI. NGƯỜI XUỐNG MỘT CHIẾC THUYỀN, THUYỀN ĐÓ CỦA ÔNG SIMON, VÀ NGƯỜI XIN ÔNG ĐƯA RA KHỎI BỜ MỘT CHÚT. RỒI NGƯỜI NGỒI TRÊN THUYỀN, GIẢNG DẠY DÂN CHÚNG”
Thật may mắn và trùng hợp có 2 chiếc thuyền đậu gần bờ, nó xuất hiện thật đúng lúc.
Chiếc thuyền cỏn con chẳng là gì, nhưng nó đã trở nên giá trị trong kế hoạch của Thiên Chúa. Nó chỉ là những tấm ván ghép lại. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính cái tầm thường đó để thực hiện những việc vĩ đại.
Luca chỉ mô tả: “NHỮNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ ĐÃ RA KHỎI THUYỀN VÀ HỌ ĐANG GIẶT LƯỚI”.
Luca không nói gì đến cá ở trong thuyền. Chắc không có, vì nếu có thì ai cũng thấy và Luca sẽ không bỏ qua chi tiết này
Tại sao lại phải giặt lưới?
thưa vì các ngư phủ đã thả lưới bắt cá suốt đêm nên phải giặt, nếu không sẽ làm hỏng lưới. “ Giặt lưới” nhưng lại không có cá. Như vậy ngư phủ của hai chiếc thuyền này đã thất bại.
Ngày hôm nay thật đen đủi, cá trong biển hồ rất nhiều, thế mà không bắt được con nào.
“NGƯỜI XUỐNG MỘT CHIẾC THUYỀN, THUYỀN ĐÓ CỦA ÔNG SIMON”.
Luca nói rõ Chúa xuống một chiếc thuyền và thuyền đó của ông Simon, sau này sẽ được gọi là Phêrô.
Như vậy, cái tên Simon đã được nhắc đến ngay câu đầu tiên của Bài Tin mừng. Ngoài Chúa ra, cái tên Simon sẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như báo trước vị trí quan trọng của ông sau này.
“VÀ NGƯỜI XIN ÔNG ĐƯA RA KHỎI BỜ MỘT CHÚT. RỒI NGƯỜI NGỒI TRÊN THUYỀN, GIẢNG DẠY DÂN CHÚNG”
Simon đã biết Chúa trước đây (theo thánh sử Gioan), như vậy khi được Chúa yêu cầu, ông liền làm ngay, ông cho thuyền ra khỏi bờ một chút. Trên thuyền này chỉ có Chúa Giêsu, ông Simon và vài người khác.
Chỉ xa bờ một chút thôi, đủ cho dân chúng nghe được lời Chúa nói, nhưng đó lại là khoảng cách cần thiết để làm giảm bớt sự cuồng nhiệt của dân chúng.
Luôn có một khoảng cách ngắn như vậy trong cuộc đời Kitô hữu. Chúa luôn hiện diện rất gần chúng ta, nhưng ta không thể chạm tới Ngài. Với khoảng cách như vậy đủ cho ta nhìn ngắm và nghe lời Ngài.
I/. ƠN GỌI CỦA PHÊRÔ – ANRÊ:
“VỪA GIẢNG XONG, NGƯỜI BẢO ÔNG SIMON RẰNG: “HÃY ĐẨY THUYỀN RA CHỖ NƯỚC SÂU VÀ THẢ LƯỚI BẮT CÁ”.
Luca không tường thuật bài giảng của Chúa. Ngài nói với dân chúng những gì ta không được biết. Luca không chú trọng điều này vì Bài Tin mừng chỉ muốn nhắm đến việc Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên.
“HÃY ĐẨY THUYỀN RA CHỖ NƯỚC SÂU VÀ THẢ LƯỚI BẮT CÁ”.
Như vậy Chúa biết rõ các ông đã thất bại, thả lưới suốt đêm mà không bắt được cá.
Không biết ông Simon sẽ nghĩ gì khi nghe Chúa nói như vậy, vì kinh nghiệm bao nhiêu năm ngang dọc trên Biển hồ này, ông biết rõ chỗ nào nước sâu, chỗ nào nước cạn. Vả lại bây giờ đã là ban ngày, trên Biển hồ làm gì có cá vì chúng đã đi ngủ. Chẳng lẽ tấm lưới ông mới giặt xong lại thả xuống biển nữa sao?
“ÔNG SIMON THƯA NGƯỜI RẰNG: “THƯA THẦY, CHÚNG CON ĐÃ CỰC NHỌC SUỐT ĐÊM MÀ KHÔNG ĐƯỢC GÌ HẾT; NHƯNG VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”
“NHƯNG VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”
Nghe Chúa nói, mặc dù vô lý nhưng Simon vẫn từ tốn trình bày cho Chúa nghe sự thất bại của mình: “THƯA THẦY, CHÚNG CON ĐÃ CỰC NHỌC SUỐT ĐÊM MÀ KHÔNG ĐƯỢC GÌ HẾT”
Nhưng ông vẫn tin vào lời Chúa, nên mới thưa lại: “VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”. Vâng vì lời Thầy con sẽ thả lưới.
Thái độ của Simon sẽ là bài học sáng ngời cho Kitô hữu chúng ta. Có nhiều biến cố, nhiều sự kiện xảy đến cho chúng ta, nó rất vô lý không thể chấp nhận được và ta muốn kháng cự lại, hoặc chạy trốn nó.
Nếu chúng ta thấm nhuần bài học của Simon, ta sẽ thưa với Chúa: “Vâng vì Lời Chúa, con xin chấp nhận”.
“CÁC ÔNG ĐÃ THẢ LƯỚI VÀ BẮT ĐƯỢC RẤT NHIỀU CÁ; LƯỚI CÁC ÔNG HẦU NHƯ BỊ RÁCH. BẤY GIỜ CÁC ÔNG LÀM HIỆU CHO CÁC BẠN ĐỒNG NGHIỆP Ở THUYỀN BÊN CẠNH ĐẾN GIÚP ĐỠ CÁC ÔNG. NHỮNG NGƯỜI NÀY TỚI, HỌ ĐỔ CÁ ĐẦY HAI CHIẾC THUYỀN, ĐẾN NỖI NHỮNG THUYỀN CHỞ NẶNG GẦN CHÌM.
Đây là kết quả lòng tin của ông Simon, vì đã tin lời Chúa nên ông đã bắt được mẻ cá đầy ngoài sức tưởng tượng. Chúa thực hiện phép lạ này để tạo niềm tin nơi các môn đệ đầu tiên trước khi Ngài kêu gọi họ. Để sau khi đã tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Giêsu họ mới dấn thân theo Ngài.
“CÁC BẠN ĐỒNG NGHIỆP Ở THUYỀN BÊN CẠNH ĐẾN GIÚP ĐỠ CÁC ÔNG”.
Như vậy trên Biển hồ vào lúc này vẫn có các ngư phủ đang thả lưới. Việc họ có mặt lúc này cũng nằm trong phép lạ Chúa thực hiện, vì thông thường mọi ngư phủ đã nghỉ ngơi hết, không ai lại đi bắt cá vào lúc trời sáng. Họ rất am hiểu Biển hồ này.
Luca đã mô tả phép lạ này bằng các cụm từ hết sức ấn tượng: “LƯỚI CÁC ÔNG HẦU NHƯ BỊ RÁCH” – “NHỮNG THUYỀN CHỞ NẶNG GẦN CHÌM”
“THẤY THẾ, ÔNG SIMON SỤP LẠY DƯỚI CHÂN CHÚA GIÊSU VÀ THƯA NGƯỜI RẰNG: “LẠY CHÚA, XIN CHÚA HÃY TRÁNH XA CON, VÌ CON LÀ NGƯỜI TỘI LỖI”.
Luca đã mô tả sự chuyển biến đột ngột trong tâm trạng của Simon.
Trước đó ông chỉ thưa: “NHƯNG VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”, có vẻ như một câu nói dỗi cho qua chuyện, chỉ vì nể Chúa thôi, có nghĩa còn hoài nghi gì đó.
Nhưng nay trước mẻ cá lạ lùng này, Simon đã bị phuất phục hoàn toàn, ông không còn gọi Chúa Giêsu là THẦY nữa, mà chuyển sang gọi là CHÚA.
Từ Thầy chuyển sang Chúa thật không dễ chút nào. Vì khi gọi là Thầy, dù có tôn kính thế nào thì đó vẫn chỉ là con người. Nhưng gọi là Chúa thì ta sẽ bước sang một lãnh vực khác, siêu vượt hẳn.
Vì là Chúa nên Simon mới SỤP LẠY DƯỚI CHÂN CHÚA GIÊSU. Và trước mặt Chúa Giêsu, Simon thấy mình thật bất xứng nên ông mới thưa: “LẠY CHÚA, XIN CHÚA HÃY TRÁNH XA CON, VÌ CON LÀ NGƯỜI TỘI LỖI”.
Chúa rất thích thái độ này của Simon, vì đó là thái độ khiêm tốn chân thành nhất của loài thụ tạo trước Thiên Chúa.
Sau này khi Chúa Giêsu phục sinh, cũng có một phép lạ MẺ CÁ ĐẦY TƯƠNG TỰ mà Thánh sử Gioan đã tường thuật (Ga 21, 1- 23) cũng bối cảnh ở biển hồ Galilê, cũng cảnh các ông thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào. “NHƯNG VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”.
Nhưng lần này Chúa chính thức giao cho Phêrô trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội.
Như vậy, Phép lạ MẺ CÁ ĐẦY đã đánh dấu 2 thời điểm quan trọng của Simon.
Lần đầu được Chúa Giêsu kêu gọi làm môn đệ. Lần sau Chúa giao cho ông trọng trách lãnh đạo Giáo hội.
Cuộc đời của Phêrô sẽ vang vọng mãi câu nói: “VÌ LỜI THẦY, CON SẼ THẢ LƯỚI”. Nó sẽ thể hiện vai trò của ông, Vị Giáo hoàng tiên khởi.
2/. ƠN GỌI GIACÔBÊ – GIOAN:
“ÔNG KINH NGẠC VÀ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI Ở ĐÓ VỚI ÔNG CŨNG KINH NGẠC TRƯỚC MẺ CÁ MÀ CÁC ÔNG VỪA MỚI BẮT ĐƯỢC; CẢ ÔNG GIACÔBÊ VÀ GIOAN, CON ÔNG GIÊBÊĐÊ, BẠN ĐỒNG NGHIỆP VỚI ÔNG SIMON CŨNG THẾ.
Luca cũng đề cập đến sự có mặt của 2 anh em: Giacôbê – Gioan, con ông Giêbêđê. Tất cả đều kinh ngạc trước mẻ cá đầy này.
Nhưng Luca không mô tả chi tiết về ơn gọi của Giacôbê và Gioan. Luca chỉ sử dụng cụm từ “CŨNG THẾ”.
Như vậy, các ơn gọi này đều có cùng mẫu số chung mà Luca không cần mô tả nữa.
“NHƯNG CHÚA GIÊSU PHÁN BẢO ÔNG SIMON RẰNG: “ĐỪNG SỢ HÃI: TỪ ĐÂY CON SẼ LÀ KẺ CHINH PHỤC NGƯỜI TA”. BẤY GIỜ CÁC ÔNG ĐƯA THUYỀN VÀO BỜ, VÀ ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”
Trước phép lạ Mẻ cá đầy, Simon và các bạn đồng nghiệp đều kinh hãi. Chúa liền trấn tỉnh Simon: “ĐỪNG SỢ HÃI”. Và Ngài cho Simon biết: “TỪ ĐÂY CON SẼ LÀ KẺ CHINH PHỤC NGƯỜI TA”. Có nghĩa từ việc đánh bắt cá, ông sẽ chuyển sang “đánh bắt người”, “chinh phục người khác”.
Nhưng không có gì đảm bảo từ “đánh bắt cá” chuyển sang “đánh bắt người”, vì đó là 2 công việc hoàn toàn khác nhau. Các ông có thể giỏi đánh bắt cá, nhưng đâu phải vì đó mà giỏi đánh bắt người. Thưa đó là việc Chúa làm, chứ không phải là việc của con người.
Mẻ cá đầy hôm nay là hình ảnh cho Giáo hội sau này mà vì vâng lời Thầy ông đã đánh được. Simon là con người đầy tội lỗi theo như lời ông nói, nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra, Đức Giêsu lại dùng chính con người tội lỗi này để làm việc cao cả. Sau này Ngài đã đặt ông làm Đầu Hội Thánh và cải tên ông từ Simon thành Phêrô, nghĩa là Đá tảng.
Luca kết thức Bài tin mừng bằng câu ngắn gọn:
“BẤY GIỜ CÁC ÔNG ĐƯA THUYỀN VÀO BỜ, VÀ ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”.
“CÁC ÔNG”,
Ý ám chỉ ngoài Simon, còn có Anrê, Giacôbê và Gioan.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là: “ĐÃ TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO NGƯỜI”, có nghĩa các ông đã bỏ thuyền, bỏ biển, bỏ nghề đánh cá mưu sinh, bỏ cha mẹ, bỏ vợ con, anh em họ hàng mà đốc toàn tâm toàn lực theo Chúa Giêsu để loan báo Tin mừng.
Các ông dám từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, tức “lao vào một tương lai bất định, bấp bênh.
Các ông không cần đặt vấn đề: rồi đây mình sẽ sống ra sao, làm gì mà ăn. Có lẽ không cần đặt ra những vấn đề như vậy, vì phép lạ mẻ cá đầy vẫn còn sờ sờ ra đấy, đủ cho các ông tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, từ đây các ông đã có Chúa là gia nghiệp rồi.
Chúa cũng đã kêu gọi ta như vậy, cho dù có theo hình thức khác, hoàn cảnh khác.
Nhưng:
Ta có dám dứt khoát theo Chúa như 4 môn đệ đầu tiên hôm nay không? Ta có dám xác tín Chúa là gia nghiệp trong suốt cuộc đời ta không? Đó là câu hỏi mà ta phải trả lời cho Chúa hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết trông cậy và phó thác vào quyền năng và tình thương của Ngài. Và lạy Chúa xin Chúa luôn che chở hộ phù chúng con.
Amen.
Giuse Vĩnh Tâm.
05/09 Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám.
Thứ Ba tuần 22 thường niên.
"Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Lời Chúa: Lc 4, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó.
Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Lời có uy quyền
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ,
diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31).
Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài,
bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32).
Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài,
vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập.
Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét,
chuyện chúng tôi can gì đến ông? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?”
Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện.
Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức.
Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai.
Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu.
Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét,
mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34).
Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền.
Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35).
“Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này!”
Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài,
vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá.
Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra.
Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa.
Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh.
Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ,
nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36).
Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe.
Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế.
Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người.
Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi.
Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách,
chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người.
Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay.
Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại.
Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng.
Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt.
Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu.
Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui.
Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta.
Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài.
Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do.
Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám.
Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy niệm 2: Tiến hành cuộc chiến đấu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ô nhiễm đang là một vấn đề lớn và nan giải. Từ ô nhiễm môi trường sống với nước thải, khói xăng, khí độc đến ô nhiễm thực phẩm với chất bảo quản, với phân bón và với cách chế biến thực phẩm. Nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự ô uế nơi tâm hồn con người. Đừng tưởng thần ô uế chỉ có thời Chúa Giêsu. Nó vẫn hiện diện thời chúng ta và đang tác oai tác quái. Con người bị ô uế từ trong tư tưởng với những ý đồ xấu xa trục lợi. Ô uế thấm vào cả trái tim với những ước muốn tội lỗi. Con người đang hít thở bầu khí ô uế, đươc nuôi dưỡng bằng những món ăn ô uế và còn dự tính mở rộng môi trường ô uế. Những nỗ lực ngăn chặn ô uế, thanh tẩy môi trường đạo đức hầu như vô hiệu. Con người bất lực. Chỉ còn trông chờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Có hai điều đáng sợ do ma quỉ lừa gạt. Điều thứ nhất ma quỉ trấn an chúng ta: “Không can gì đâu”. Ô uế không sao đâu. Tội lỗi không sao đâu. Điều thứ hai nó thấm nhập và trở thành một phần không thể thiếu của đời ta. Khi Chúa trục xuất thần ô uế, người bị quỉ ám ngã vật xuống như chết đi. Có những sự xấu như tiền bạc, danh vọng, chức quyền, lạc thú trở thành nhu cầu. Ta tưởng sẽ chết nếu thiếu chúng.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Tét-xa-lô-ni-ca hãy vào cuộc chiến đấu. Thần ô uế là bóng tối. Con cái Chúa là ánh sáng. Đi theo thần ô uế là ngủ mê. Đi theo ánh sáng của Chúa phải tỉnh thức. Sống theo thần ô uế là chiều theo dục vọng. Sống theo ánh sáng của Chúa là tiết độ: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (năm lẻ).
Đó chính là cuộc chiến giữa xác thịt và Thần khí. Ai sống theo xác thịt thì có sự khôn ngoan của trần gian để chiếm đoạt danh, lợi, thú của trần gian. Ai sống theo Thần Khí thì trước mặt thế gian bị coi là điên rồ, nhưng thực ra họ có sự khôn ngoan của Nước Trời: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (năm chẵn).
Cuộc chiến rất khốc liệt. Để dứt lìa thần ô uế ta phải đau đớn như chết đi, giống như người bị quỉ ám ngã vật xuống. Chúng ta chỉ thắng được nhờ sức mạnh của Chúa Ki-tô. Nhưng chúng ta chỉ có Chúa khi sống trong ánh sáng, khi đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Suy niệm 3: Bộ mặt đích thực của Giáo Hội
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khi Giáo Hội sống đúng ơn gọi và sứ mệnh của mình, Giáo Hội là một sức mạnh tinh thần khiến cho các chế độ chính trị phải trọng nể hay lo sợ. Sức mạnh ấy không tới từ thế giới hay những phương tiện Giáo Hội có trong tay.
Giáo Hội múc lấy sức mạnh từ chính uy quyền của Ðấng sáng lập là Chúa Kitô. Thật thế, Chúa Kitô đã hứa ngay cả cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúa Giêsu đã phú bẩm cho Giáo Hội uy quyền của chính Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi họ lắng nghe lời giảng dạy của Ngài và nhất là khi Ngài trừ quỉ. Họ thán phục vì Ngài giảng dạy như Ðấng có uy quyền.
Trong cách đánh giá thông thường, một người xem là có uy tín khi tài năng hay đức độ của người đó được nhìn nhận, lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác, việc làm có uy tín của một người có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo. Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Ðây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu khi Giáo Hội sống và rao giảng những gì Ngài đã sống và rao giảng. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình khi sống phục vụ mà thôi. Càng thể hiện được bộ mặt thật ấy, Giáo Hội càng tỏ ra là một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và sự dữ và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu có nghĩa vụ phải bày tỏ bộ mặt đích thực của Giáo Hội. Sức mạnh và uy quyền của Giáo Hội được thể hiện không phải qua con số các tín hữu hay qua các biểu dương của số đông mà thiết yếu qua cuộc sống có tính thuyết phục của các tín hữu. Giữa một xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức, các tín hữu Kitô phải thể hiện một niềm tin có sức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Giữa một xã hội băng giá về ích kỷ, các tín hữu Kitô cần phải sống một tình mến có sức sưởi ấm tâm hồn con người. Giữa một xã hội chao đảo về thiếu định hướng, các tín hữu Kitô phải bày tỏ một niềm hy vọng có sức soi rọi vào tăm tối của cuộc sống mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta.
Suy niệm 4: Lời nói và cuộc sống
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: - Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
Vị ẩn sĩ trả lời: - Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật. Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: "Từ khởi thủy đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể". Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: "Câm đi, hãy ra khỏi người này", thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi".
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
Suy niệm 5: Một người đầy uy quyền
Trong hội đường có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”quỷ vật người ấy xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. (Lc. 4, 33-35)
Ngay từ buổi đầu cuộc giảng đạo công khai, Đức Giêsu tỏ ra một người đầy uy lực. Lời và hành động của Người biểu lộ quyền bính phi thường.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đức Giêsu đã tỏ ra là bậc thầy dạy một giáo lý vững chắc có sức đáng động và gây ấn tượng mạnh ngay tại những người Do-thái chịu ảnh hưởng của nhiều trường luật sĩ giảng dạy rất đông đệ tử. Dân chúng say mê nghe lời Người. Không phải chỉ nhờ lời nói hay. Người còn liên kết sứ điệp của Người với quyền phép trừ quỷ bằng một sức mạnh làm những người chứng kiến kinh ngạc.
Từ hai ngàn năm, Đức Giêsu không bao giờ ngừng tạo thế lực vừa bằng đạo lý, vừa bằng hành động giải phóng nhân loại, không chỉ cứu thân xác bệnh hoạn mà nhất là cứu tâm trí con người được hạnh phúc. Ngày nay hơn bao giờ hết, Người lôi cuốn mọi người khám phá về Người. Không bao giờ người ta nói về Người nhiều như ngày nay, hoặc để thử loại bỏ Người, chối không có Người hoặc bảo vệ Người rất nhiệt tình. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách vở, nghệ thuật âm nhạc, quảng cáo đã thấm nhập về Đức Kitô và tuyên truyền làm cho người ta hiểu biết về Đức Kitô một cách tiêu cực hay tích cực.
Dù người ta nói gì, Người vẫn là một bậc Thầy vĩ đại trong các bậc Thầy cho mọi người trên trái đất phải suy nghĩ. Đúng như câu kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay:
“Tiếng đồn về Người lan ra khắp mọi nơi”. Và như ông Si-mê-on đã nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en, vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà,thì một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (Lc. 2, 34-35)
Suy niệm 6: Sự thật sẽ giải phóng chúng ta
Trong xã hội hôm nay, nạn nói dối đã trở thành “đại dịch” và không ít người đang trong tình trạng “nan y”. Trước diễn biến đó, nhiều người đã phải gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh tới mọi thành phần trong xã hội... Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đã “bó tay”, bởi vì nạn thành tích, hối lộ, gian tham đã trở thành “ung thư” đang dần gặm nhấm làm sói mòn lương tâm con người.
Vì thế, không lạ gì khi người ta chẳng còn tin tưởng lẫn nhau, bởi những món ăn người ta thiết đãi nhau lại toàn là: “Bánh vẽ" lẫn "thịt lừa”. Vì thế, như một hệ lụy, bây giờ tìm được một người tử tế thật thì quả là: “Mò kim đáy biển”!
Hôm nay, Đức Giêsu đã làm cho mọi người bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài giảng dạy không giống các Kinh Sư và Pharisêu. Mọi lời Ngài phát ra đều chân thật. Sự thật trong lời nói và hành động của Ngài đã trở thành một thể thống nhất, vì thế, đã làm cho người tiếp nhận phải suy nghĩ và tự cật vấn lương tâm.
Thật vậy, chỉ có sự thật mới giúp chúng ta trở thành người tự do đích thực. Chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta đối xử với nhau chân tình và mới giải phóng chúng ta cách trọn vẹn. Và, cũng chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta thành con Chúa đúng nghĩa.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa để chỉ cho ma quỷ thấy sự thật của nó là kẻ chuyên gây nên gian dối, đau khổ và chết chóc cho con người. Vì thế, chỉ một lời nói: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xảy ra. Đây là sự khác biệt giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ!
Thật vậy, nhờ sự thật trong quyền năng, Đức Giêsu đã giải phóng con người thông qua hình ảnh của những người bị quỷ câm ám. Qua phép lạ này, Đức Giêsu cho thấy, con người luôn bị sự gian dối cầm buộc. Cần phải giải thoát bằng sự thật, nếu không, con người vẫn mãi bị cầm tù trong những chuyện gian tham xảo quyệt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì phải “ly dị” sự dối trá trong tư tưởng, hành động, lời nói và việc làm. Không được sống tráo trở, dối trá, hai mặt... Nếu cứ an nhiên tự tại để sống trong sự dối trá, thì đương nhiên, chúng ta thuộc về thế giới của những kẻ gian dối, mà thủ lãnh của trong thế giới này là ma quỷ.
Điều mà chúng ta cần nhận ra hệ lụy nhãn tiền cho những ai ưa trò cầu thân nịnh bợ và sống giả tạo là: họ không có uy quyền và sức cảm hóa trong lời nói và việc làm. Đôi khi những việc đạo đức, lời nói thánh thiện của họ phát ra lại trở thành gương mù gương xấu và phản tác dụng, chẳng khác gì: “Gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”; hay như: “ngửa mặt... và nhổ nước miếng, đương nhiên nước miếng rơi chúng mặt mình???”. Mặt khác, lại là cớ cho người khác khinh bỉ, bởi vì họ đang ngu ngơ diễn xuất màn kịch vụng về đến nỗi trở nên lố bịch trên một “sân khấu ảo”.
Mỗi khi chúng ta sống như thế, hẳn chúng ta trở nên vô nghĩa với Thiên Chúa và vô dụng với tha nhân, bởi lẽ đây là hệ quả của con cái ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự thật mới đem lại cho chúng con hạnh phúc, bình an và có giá trị thực sự, bởi vì sự thật thuộc về Thiên Chúa. Gian dối thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chúa Giêsu Đấng quyền năng, giải thoát
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng quyền năng. Người đến giải thoát con người khỏi ách thống trị của quỷ dữ. Ta hãy để cho Chúa giải thoát ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không ai trong chúng con muốn đau khổ, nhưng nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình để được Chúa giải thoát, lại là một điều khó. Chúa nhìn thấy con đau khổ, tội lỗi, và Chúa muốn giải thoát con. Nhưng cũng như người bị quỷ ám xưa, con lại không muốn chấp nhận để cho Chúa giải thoát, con muốn cắt đứt mọi liên hệ với Chúa. Chính quỷ dữ lôi kéo con chạy trốn Chúa, thúc đẩy con xua đuổi Chúa để con ở lì trong tội lỗi và ngụp lặn trong bể khổ.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con mà chẳng cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không muốn. Hôm nay, con nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình, xin Chúa đến giải thoát con. Được thoát ách thống trị của quỷ dữ để phụng sự Chúa, đó là hạnh phúc. Được thoát ách nô lệ tội lỗi để sống đời tự do thánh thiện, đó là niềm vui của con.
Xin Chúa gìn giữ con luôn sống thánh thiện trong ân sủng của Chúa. Khi nhìn thấy Chúa trừ quỷ, người ta đã kinh ngạc và dần dần nhận ra uy quyền của Chúa. Khi nhìn thấy các Kitô hữu chúng con thánh thiện, thế giới hôm nay sẽ nhận ra quyền năng cứu độ của Chúa. Khi con không nô lệ đam mê tội lỗi và quỷ dữ, đó là dấu hiệu ơn thánh Chúa đã chiến thắng nơi con. Xin Chúa giúp con sống thánh thiện, để sự thánh thiện trở thành dấu hiệu chứng tỏ cho thế giới hôm nay nhận ra sự hiện diện quyền năng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Tôi biết Ngài là ai rồi, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.
Suy niệm 8: Đấng giảng dạy đầy uy quyền
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu có lập trường rõ ràng khi nghe giảng Lời Chúa: “Chúng ta chỉ có một việc là chăm chú nghe linh mục giảng”.
Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục, Linh mục là những người thay mặt Chúa để giảng Lời Chúa. Vì thế, khi nghe giảng Lời Chúa, chúng ta đừng để ý đến ai giảng, nhưng hãy chú tâm vào việc nghe Lời Chúa được rao giảng mà thôi.
Suy niệm
Lời giảng dạy của Ðức Giêsu luôn có sức mạnh và uy quyền. Dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Ngài chính từ lời Ngài có sức mạnh khiến thần ô uế phải nhào xuống và ra khỏi bệnh nhân. Ngài dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân bị ám. Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khuất phục ma quỷ, tà thần. Lời đó đã làm cho niềm tin của dân chúng đặt vào Ngài, Đấng giảng dạy đầy uy quyền.
Đấng uy quyền đó là người mà sách Đệ Nhị Luật 18,15-20 đã nói về lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân, đó là tất cả niềm hy vọng của họ: Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Thật thế, Người chính là Ðức Giêsu Kitô đã khiến cho người ta phải kinh ngạc.
Lời giảng dạy của Đức Kitô đầy uy quyền vượt trên cả lời giảng dạy của các vị ngôn sứ, thánh Cyrillô thành Giêrusalem cắt nghĩa: “Những vị ngôn sứ khi giảng dạy, nói rằng: “Thiên Chúa phán”, Đức Giêsu không nói như vậy; là chủ của Lề Luật, Ngài đề cập đến những sự việc cao cả của luật: giảng từ những chữ viết luật đến ý nghĩa thật sự của Lề Luật, từ hình thức luật đến thực tế. Lời của Ngài không bao giờ là lời nịnh hót, nhưng là một sự khuyến khích dẫn đến ơn cứu độ. Người ta tin rằng Đấng Mêssia là một vị ngôn sứ, và Ngài sẽ chỉ cho thấy những cao siêu nơi các vị ngôn sứ, cho nên dân chúng ngạc nhiên vì những chủ đề trong lời giảng dạy của Ngài”.
Như Tin Mừng ghi nhận lại, Lời Ngài uy quyền so với lời giảng dạy của các bậc thông thái trong dân, thánh Bède le Vénérable giải thích các bậc thông thái trong dân dựa trên luật và các ngôn sứ còn Ngài từ uy quyền của chính Ngài: “Những người biệt phái hay những vị tiến sĩ luật giảng dạy những gì đã được Môisê và các ngôn sứ ghi chép trong luật. Nhưng Chúa Giêsu giảng dạy như là một người thầy của Môisê và như là vị Thiên Chúa uy quyền, Đấng có thể thêm hay thay đổi luật nếu các điều đó tỏ hiện sự tốt lành”. Ngài uy quyền vì Ngài làm chủ Lề Luật, tạo Lề Luật để con người được hưởng về sự tốt lành, hướng về Cha trên trời.
Ngày hôm nay vẫn còn những thần ô uế và sự dữ. Chúng ta đến bên Ngài, không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, nhưng mở lòng đón nhận Lời quyền uy. Để Lời tác động xua đuổi mọi thần ô uế ra khỏi tâm hồn của chúng ta...
Ý lực sống
“Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát...
Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại,
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên...” (Tv 91,14-15).
Suy niệm 9: Chúa chữa người bị quỷ ám
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau khi rời bỏ quê nhà Nazareth, Chúa Giêsu tới Capharnaum, là thành phố nằm sát bờ biển hồ Tibêria, hôm nay thánh Luca giới thiệu cho chúng ta sức thu hút và lời uy quyền của Đức Giêsu. Trước lời giảng dạy của Đức Giêsu, dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Người. Cũng chính Lời Người có sức mạnh mà thần ô uế phải khuất phục và ra khỏi bệnh nhân. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Lời của Người có sức cảm hoá phi thường.
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân thành Capharnaum khi họ nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến việc Người xua trừ ma quỷ. Trong khi các luật sĩ chỉ nói suông trên toà và đặt gánh nặng lên vai người khác, thì Chúa Giêsu cư xử hoàn toàn khác: Ngài vừa giảng dạy, vừa làm phép lạ, vừa tỏ tình liên đới vừa chia sẻ với tất cả ưu ái, cảm thông. Sứ điệp của Ngài không chỉ là lời tuyên bố từ tòa cao, mà là tất cả con người Ngài. Uy quyền của Ngài phát xuất từ sự duy nhất giữa lời nói và hành động, và đó cũng chính là uy quyền của Thiên Chúa. Ngay từ trang đầu Kinh thánh, Thiên Chúa đã tự mạc khải như Đấng phán một lời liền có trời đất muôn vật. Lời Thiên Chúa là lời hữu hiệu, là lời đưa đến hành động (Mỗi ngày một tin vui).
Trong cách đánh giá thông thường, một người được xem là có uy tín khi tài năng và đức độ của người đó được nhìn nhận. Lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác; việc làm của một người có uy tín có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo.
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền, là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Đây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo hội. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu, khi Giáo hội sống và rao giảng những gì Chúa Giêsu đã sống và rao giảng. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình, khi sống phục vụ. Càng thể hiện được bộ mặt ấy, Giáo hội càng tỏ ra một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và xiềng xích của sự dữ, và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Nhiều người thán phục về những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa Giêsu, nhưng quyền uy đó không đến từ chiêu thức mị dân của các nhà chính trị: tung tiền bạc, cho cơm bánh để mua chuộc sự ủng hộ. Lời Chúa quả thật có sức mạnh xua đuổi được ma quỉ. Lời Ngài phán ra bệnh nhân được chữa lành. Ngay cả khi Chúa cho đám đông hàng nghìn người được ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài cũng đã rao giảng Lời Chúa cho họ, và Ngài còn cảnh báo họ đừng tìm kiếm Ngài để chỉ có của ăn mau hư nát, mà hãy đến với Ngài để lãnh nhận được Lời ban sự sống đời đời. Quả thật, Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Lời đã sáng tạo vũ trụ càn khôn, là Sự thật và là Sự sống dẫn đưa nhân loại đến với Chúa Cha là nguồn mạch của sự sống đời đời (5 phút Lời Chúa).
Một lần nọ, khi đi ăn với vài người bạn ở nhà hàng, tôi làm Dấu Thánh Giá theo thói quen. Hành động của tôi lọt vào mắt của họ. Ngay tức khắc, họ xôn xao bàn tán và hỏi: “Bạn làm gì đó, vẽ bùa hả?” Tôi cười và đáp: “Mình làm Dấu Thánh Giá”. Sau đó, tôi giải thích cặn kẽ ý nghĩa và giá trị cao quí của Dấu Thánh Giá. Thế là họ hiểu ra và không bàn tán nữa. Từ đó, mỗi lần đi ăn với họ, khi tôi làm Dấu Thánh Giá, họ im lặng tôn trọng.
Nhiều người tín hữu hôm nay xem nhẹ những kiểu tuyên xưng đức tin đơn giản như thế. Có lẽ vì họ ngại ngùng trước cái nhìn soi mói của người khác, hoặc sợ bị coi là lạc hậu, cổ hủ, hay mê tín, thậm chí, họ sợ bị “khen” là con chiên ngoan đạo nữa.
Tuy nhiên, với người yêu mến Thiên Chúa đích thực, việc tuyên xưng danh Chúa lại là một niềm tự hào: Tự hào vì có Chúa trong mình, tự hào vì là con cái Chúa (Học viện Đa Minh).
Truyện: Tìm người để phụng sự
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophorô là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất, để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được chủ theo ước nguyện.
Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần. Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỉ nữa, mà đứng lại trước thập giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một linh mục quản xứ nhà quê đi qua, ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh tẩy. Sau này, Christophorô đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách hại đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo, để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thuỷ chung của mình với Thiên Chúa.
Suy niệm 10: Đấng uy quyền trong giảng dạy và hành động
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong Tin Mừng Luca, đây là những hoạt động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, và những hoạt động này chứng tỏ Ngài là Đấng có uy quyền:
- Uy quyền trong lời giảng dạy, vì Ngài giảng dạy chính giáo lý của mình một cách tự tin, chứ không cần dựa vào uy thế của những bậc tôn sư tiến bối nào cả.
- và uy quyền trong hành động: Ngài đã khống chế sức mạnh của ma quỷ một cách rất dễ dàng và nhanh gọn.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng đầy uy quyền. Có lần, thính giả phải thừa nhận “Chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”. Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Con muốn được làm học trò trong trường của Chúa. Xin Chúa ngày ngày dạy dỗ con.
2. “Bấy giờ trong hội đường có một người bị quỷ ám”: người bị quỷ ám là người bị một thế lực xấu khống chế, người đó không còn tự do, người đó không còn là con người trọn vẹn.
Tôi có đang bị khống chế một cách nào đó không: bởi một tính xấu? những thói quen xấu? những đam mê lệch lạc? v.v. Ngày xưa Chúa đã giải thoát cho người bị quỷ ám. Xin Chúa cũng giải thoát con.
3. Nhận thấy rằng rao giảng bằng lời nói suông chưa đủ, Weizemann, thần học gia, mục sư, nhạc sĩ, bác sĩ đã dấn thân phục vụ những người nghèo nhất ở Châu Phi. Làm việc không biết mệt mỏi, trải qua bao nhiêu khó khăn, nhưng Weizemann vẫn không bao giờ mãn nguyện vì những hy sinh của mình. Năm 1952 khi được trao giải thường Nobel hòa bình, ông đã tuyên bố: “Không ai có quyền tự phụ mình đã phục vụ cho hòa bình quá nhiều, cũng không ai có quyền nói rằng mình đã mãn nguyện”. Gương phục vụ của Weizemann là một cố gắng họa lại cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng chỉ bằng lời nói, nhưng luôn kèm theo hành động, gương sáng và cả cái chết nữa. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Ngài xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát Ngài giảng dạy họ. Họ sửng sốt về cách Ngài giảng dạy, vì Lời Ngài có uy quyền” (Lc 4,31-32)
Thánh lễ là nơi tôi gặp gỡ Thiên Chúa, tôi thưa chuyện với Ngài và Ngài giáo huấn tôi. Trong thinh lặng và trong khoảng không gian thánh thiện của giáo đường, Ngài hiện diện một cách sống động và không ngừng tác động trên tôi. Lời Ngài cũng vang lên một cách huyền nhiệm nơi giáo đường. Nhờ Lời, tôi cảm thấy mình được biến đổi. Sự thanh thản, nhẹ nhõm, bình an đến với tôi mỗi khi tôi đến với Ngài. Lo âu, sầu khổ, chán chường, thất bại hay thành công của tôi đều được Ngài chia sẻ, ủi an. Đấy không phải là phép lạ, là uy quyền sao?
Như xưa Ngài đã làm cho dân miền Galilê sửng sốt thì Lời Ngài hôm nay cũng làm cho tôi phải ngỡ ngàng.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được quyền năng của Lời Chúa mỗi ngày một sâu sắc hơn trong đời con. (Hosanna).
Suy niệm 11: Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền.
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền.
1. Trước hết là uy quyền trong Lời giảng dạy.
Có lần thính giả nghe Chúa đã phải thừa nhận “chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”(Lc 4,32). Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài sống và sống trước những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài.
Người ta thường nói muốn cho lời rao giảng có uy quyền thì nó phải có lửa. Lửa đây chính là cuộc sống.
Uy quyền của Chúa Giêsu là điều hoàn toàn mới mẻ. Khi các Rabbit giảng dạy, họ thường củng cố lời nói bằng cách trích dẫn chứng cớ, họ luôn luôn nói: có lời rằng Rabbit nọ, Rabbit kia nói. Bao giờ họ cũng dựa vào một thẩm quyền nào đó. Khi các tiên tri lên tiếng, họ thường nói: “Chúa phán như vầy”. Uy quyền của họ là một loại uy quyền được ủy nhiệm, nhưng khi Chúa Giêsu phán, Ngài nói “Ta nói cùng các ngươi”, Ngài không cần dựa vào một uy quyền nào khác để nâng đỡ Ngài. Ngài không sử dụng một loại uy quyền ủy nhiệm nào. Chính ngài là uy quyền nhập thể. Đây là một sự mới mẻ. Đây là một người nói điều mình chắc chắn biết rõ.
Trong mọi lãnh vực của đời sống, nhà chuyên môn bao giờ cũng tỏ ra có uy quyền. Một nhạc sĩ kể rằng khi Toscanini bước lên bục chỉ huy, dường như uy quyền toát ra từ ông và cả dàn nhạc cảm thấy uy quyền đó. Khi cần một lời chỉ giáo chuyên môn thì chúng ta tìm đến một chuyên gia và chúng ta tin lời ông ta nói. Chúa Giêsu là một nhà chuyên môn về đời sống. Khi Ngài nói, người ta biết rằng lời Ngài vượt quá sự khôn ngoan của loài người vì Ngài chính là Thiên Chúa.
2. Thứ đến là uy quyền trên ma quỉ.
Ma quỉ có thật. Nhiều lần Chúa Giêsu đã xua trừ ma quỉ. Ma quỉ là một thế lực xảo quyệt tinh khôn, lợi dụng mọi dịp để tấn công chúng ta. Thánh Phêrô bảo: “Ma quỉ sẽ sàng anh em như người ta sàng gạo”. Chúng ta còn nhớ sau khi đã cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc và bị Chúa đánh bại, Tin Mừng nói rõ: chúng rút lui để chờ dịp khác. Ma quỉ không dễ dàng buông tha chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thấy quyền lực của Chúa Giêsu còn mạnh hơn, Ngài đã thắng cả ma quỉ.
Ngày xưa, có lần Napoléon cầm tấm bản đồ, chỉ tay vào nước Anh, nói với đám thủ hạ:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục trọn thế giới rồi.
Ma quỷ cũng chỉ tay vào Thập Giá và nói:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục cả thế giới rồi.
Như vậy, muốn thắng ma quỉ, chúng ta phải chạy đến với Chúa.
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophe là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được minh chủ theo ước nguyện. Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần.
Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập Giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập Giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỷ nữa, mà đứng lại trước Thập Giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một Linh Mục quản xứ nhà quê đi qua, Ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh Tẩy. Sau này, Christophe đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thủy chung của mình với Thiên Chúa.
Ngày nay, Giáo Hội tại một số quốc gia Châu Âu vẫn mừng lễ Thánh Christophe vào ngày 25 tháng 7 hằng năm, để nêu một tấm gương theo Chúa và phụng sự Chúa trọn vẹn cả cuộc đời.
04/09 Tin mừng của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 4, 16-30
Tin mừng của Chúa Giêsu.
Thứ Hai tuần 22 thường niên.
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Lời Chúa: Lc 4, 16-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Trả lại tự do
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Suy niệm 2: Chúa Kitô niềm hy vọng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có gì đó cay đắng và đau xót. Bao năm mòn mỏi đợi chờ Đấng Cứu Thế, nhưng khi Chúa Giê-su đến thực hiện lời hứa, ứng nghiệm những tiên báo trong Lề Luật và các Tiên Tri thì người Do thái không những không tin, thậm chí còn chối bỏ và muốn giết Người. Còn gì đau đớn hơn khi: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Chúa Giê-su đã dành hết tâm huyết cho quê hương. Loan báo lời I-sai-a ứng nghiệm. Loan báo chương trình cứu nhân độ thế khởi đầu. Công bố chương trình hành động của việc cứu độ. Nhưng chuyến trở về quê hương thật bẽ bàng. Có lẽ vì họ có thiên kiến Người xuất thân nghèo hèn, trong gia đình bác thợ mộc Giuse. Và họ đã lỡ cơ hội. Đánh mất niềm hi vọng.
Họ có ngờ đâu chính sự nghèo hèn, sự thất bại của Chúa Ki-tô, đặc biệt cái chết nhục nhã trên thánh giá của Người chính là cơ hội cho một đức tin chân thực hoàn toàn khác biệt với niềm tin dựa trên những giá trị trần gian. Chính vì thế, với giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Đó là một sứ điệp thô nhám, mộc mạc, không trau chuốt, tô vẽ. Nhưng đó là chân lý, là niềm hi vọng. Để những ai tin Chúa có một đức tin nguyên tuyền không dựa vào sự khôn ngoan của người đời. “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì hác ngoài Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá…Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (năm chẵn).
Chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô chịu chết và sống lại mà ta có niềm hi vọng. Vì ta cũng sẽ được sống lại với Chúa. Và cả những người thân yêu của chúng ta cũng thế. Vì thế thánh Phao-lô an ủi dân Tét-xa-lô-ni-ca: “Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su…. Rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (năm lẻ).
Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho chúng ta. Đó chính là niềm an ủi, là động lực giúp ta vượt qua quãng đường trần thế đầy chông gai thử thách. Đó cũng chính là đích tới của chúng ta những người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Quả thật Thiên Chúa đã dùng sự yếu hèn mà thắng vượt những sự hùng mạnh của thế gian. Dùng sự điên rồ của thánh giá mà thắng sự khôn ngoan của con người.
Suy niệm 3: Bụt Nhà Không Thiêng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
Suy niệm 4: Bí Quyết Nên Thánh
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Suy niệm 5: Không có thứ thanh niên đó nơi chúng tôi
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Chúng ta đối xử với họ thế nào?
GF
Suy niệm 6: Loan báo tin mừng cho người nghèo
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi Suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Người nhà không chịu tiếp đón Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian. Nhưng những người Do thái đồng hương với Chúa đã từ chối tiếp nhận Ngài, vì Ngài đã không thỏa mãn những tham vọng trần thế của họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con nhớ trong đoạn mở đầu Phúc âm thứ tư, Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ngài đến nhà mình nhưng người nhà đã chẳng chịu tiếp đón Ngài”.
Lạy Chúa, điều ấy đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi những người đồng hương với Chúa tại Na-da-rét, và ngày hôm nay cũng đúng với chính con nữa.
Vâng lạy Chúa, con đã không tiếp nhận Chúa. Con quên rằng Chúa là bạn của người nghèo, của người bệnh tật, của kẻ khổ đau. Vì thế con đã xua đuổi Chúa đi khi con hất hủi anh em, khi con nhẫn tâm từ chối giúp đỡ những người nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau, sa chân lỡ bước. Con đã không tiếp nhận Chúa, vì trong lời nguyện hằng ngày, con chỉ đòi hỏi Chúa ban ơn theo ý con mà không bao giờ xin cho con biết vâng theo Ý Chúa trong mọi nghịch cảnh cuộc đời. Con đã không nhìn ra Chúa thật gần gũi với con qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Con đã xô đẩy Chúa xuống vực thẳm khi con nhào xuống vực sâu tội lỗi.
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho con. Xin cho con nhận ra những ân huệ mà Chúa đã yêu thương phủ đầy đời con. Xin ban thêm đức tin, để con tin thật Chúa là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian và Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Xin cho con được sống mãi trong nhà Chúa, được luôn kết hợp với Chúa qua các bí tích, để con xứng đáng là người nhà và là người môn đệ trung thành của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”.
Suy niệm 8: Giải thoát trong tác động của Thánh Thần
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một linh mục truyền giáo tại Uganđa ở châu Phi, kể chuyện việc đi dự thánh lễ ngày Chúa nhật một cách kỳ lạ như sau: Hai vợ chồng Benedetto và Filomena bị mù. Họ sống cạnh một thiếu nữ bị bại hai chân, tên là Formosa. Mỗi sáng Chúa nhật, ba người này đi dự thánh lễ tại nhà thờ cách xa hai cây số.
Cách họ đi dự lễ như sau: Formosa thấy đường nhưng không đi được, nên phải bò hai tay. Filomena đui, đi sau Formosa, cầm chân của Formosa lên. Còn Benedetto thì vừa vịn vào vai vợ, vừa đi. Cả ba người, hai đui, một bại, giúp nhau đi dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật như vậy!
Suy niệm
Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử đã không đem lại sự tự do, công bằng hoàn toàn cho con người, có một người đã vượt lên trên tất cả, vượt trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại, đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn. Đức Giêsu với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại mà thánh sử Luca đã trình bày với lời của ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).
Ðức Giêsu được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo: những kẻ nghèo tiền nghèo bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói, nghèo cả trong thân phận cùng đinh của họ. Đức Kitô cũng được sai đến với những kẻ bị giam cầm: giam cầm bởi cảnh tù đày áp bức do chính anh em đồng loại gây nên, giam cầm trong chính bản thân mình do sự tự ti mặc cảm và loay hoay mãi để tìm lối thoát mà vẫn không tìm ra. Ngài đến trong đời để giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh tù đày: tù đày bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam. Ngài đem đến cho người mù niềm tin, người mù hy vọng, mù lý trí và ý chí được thấy ánh sáng trong tâm linh với niềm tin. Đức Kitô đem lại tự do cho người bị áp bức và cả người gây áp bức bóc lột bằng tinh thần hối cải trong đức ái. Những trang Tin Mừng đã chỉ cho ta thấy rõ sứ mạng giải thoát của Ngài, cùng với những lời rao giảng là những dấu lạ: người què đi được, người mù được thấy, kẻ tội lỗi được ơn trở lại…
Như Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21). Từ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại qua muôn thế hệ. Tác động giải thoát không phải trong bạo lực như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng mà là trong tác động của Thánh Thần.
Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác. Như thế, chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Ý lực sống:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta.
Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tối tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”. (Lc 1,78-79)
Suy niệm 9: Chúa Giêsu về thăm quê hương
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu về thăm quê hương với tình cảm thân thiện, chân thành; Người vào hội đường chia sẻ Kinh thánh với anh em đồng hương của Người. Qua đoạn sách tiên tri Isaia, Ngài thẳng thắn tuyên bố: lời sấm này đã ứng nghiệm nơi Người. Dân thành Nazareth rất thán phục ân sủng và sự khôn ngoan của Đức Giêsu với lời tuyên bố kia. Nhưng thực tế họ khó chấp nhận vì thân thế Người quá bình thường, hơn nữa khó do điều khiển được Người làm những điều họ mong muốn, họ đầy căm phẫn và định thủ tiêu Người.
Người đời vẫn nói: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương” hoặc “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn chứng minh rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương của mình, yêu nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương.
Còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu nói trong Tin mừng: “Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài, tại quê hương Nazareth của Ngài (Lm. Phạm Văn Phượng).
Sau hơn một năm đi giảng dạy nhiều nơi, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã vang đi khắp nơi và về tới cả quê hương mình, Chúa Giêsu trở về thăm quê hương là Nazareth. Theo thói quen Ngài vào hội đường cầu nguyện và nghe Sách thánh. Ngài được mời đọc Sách thánh và mở đúng đoạn sách tiên tri Isaia nói về vai trò và sứ mạng của người Tôi tớ Thiên Chúa... Ngài gấp sách lại và tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”.
Theo câu nói đó, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình một cách xa xa: Ngài là ai, là người được Thiên Chúa sai đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà mọi người đang trông đợi. Ngài hơn cả tiên tri Êlia và Elisê. Nghe Chúa nói vậy dân làng Nazareth hết sức tức giận, kéo Ngài ra khỏi hội đường, đưa Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết đi, nhưng giờ Ngài chưa tới, nên họ không làm gì được Ngài.
Tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giêsu, nhưng người Nazareth chỉ nhìn thấy một phương diện của Đức Giêsu là con ông Giuse, họ không thể nhận ra nơi Người, vị tiên tri cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ, tức là họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi lẽ họ đã có thành kiến với Ngài. Thánh Luca đã mô tả thái độ thành kiến của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Câu hỏi đó chứng tỏ bắt đầu họ hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ấy ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu mà lạ.
Hiểu rõ tâm trạng mù tối của dân nơi quê hương, Đức Giêsu đã diễn tả tâm tình ấy bằng kiểu nói vấn nạn: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình... Đòi hỏi này sẽ được lặp lại ở chân thánh giá rằng: “Nếu ông là Đấng Messia thì hãy tự cứu mình đi”. Đáp lại yêu sách này, Đức Giêsu trả lời bằng một câu tục ngữ: “Không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình”. Ý tưởng này cũng đồng nghĩa: “Bụt nhà không thiêng”.
Thành kiến được định nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn khó thay đổi về việc gì đó. Khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi”, lại còn úp lên đó cái khung cứng nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác như họ là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông”. Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính đen, để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những người đồng hương đương thời với Đức Giêsu đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà, chứ không thể đẻ ra công được. Với cái nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giêsu, mà họ vẫn tưởng là con bác thợ mộc Giuse lại là Con Thiên Chúa được (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Tránh thành kiến với người khác
Một hôm cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh tỏ vẻ khinh và nói: “Dở lắm”. Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bĩu môi nói: “Thơ mày là thơ thẩn”.
Tagore mới nghĩ ra kế sách. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích trong cuốn thơ cổ. Cậu ta lại quên đề tên của cuốn thơ cổ đó. Nhưng lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt! Tuyệt!” Rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này”.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt báo của ông... Bấy giờ ông anh cũng như thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia, để đối chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng báo.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cách dàn cảnh bịa đặt của cậu Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với ánh mắt thán phục và hối hận cho thái độ thành kiến của mình.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Bắt đầu từ hôm nay, Phụng vụ chọn đọc Tin Mừng theo Thánh Luca
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:
1. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
2. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
3. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Sứ mạng của chúng ta nối tiếp sứ mạng Chúa Giêsu, là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho mọi người. Nếu có ưu tiên cho ai, thì đó là những người nghèo khổ chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, chứ không phải là những người bà con bạn bè thân thuộc của chúng ta.
2. Thế nào là “loan Tin Mừng cho người nghèo khổ”? Những người nghèo khổ quanh tôi là ai? Tôi có quan tâm ưu tiên đến việc loan Tin Mừng cho họ chưa?
3. Hai chuyện Cựu Ước cho thấy các ngôn sứ Êlia và Êlisê ưu ái những người ngoại. Chúa Giêsu cũng thế. Còn tôi, hình như tôi xa lánh người ngoại, tôi e dè với họ, tôi còn giữ nhiều thành kiến về họ, tôi có thái độ tự tôn coi mình hơn họ v.v.
4. Đối với Chúa Giêsu, người dân Nadarét chỉ mong Ngài nể tình đồng hương mà ưu tiên ban cho họ nhiều đặc ân. Khi ước muốn đó không đạt thì họ quay mặt phản đối và trục xuất Ngài. Đó là một thái độ hoàn toàn vụ lợi. Phải chăng thái độ của tôi đối với Chúa cũng vụ lợi như thế?
5. Bài Tin Mừng này làm tôi nhớ đến quê hương, cha mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè v.v. Những người này thực sự là một nguồn an ủi và trợ lực cho tôi. Xin Chúa thay tôi đền ơn vì những điều họ đã làm cho tôi. Xin cho họ luôn là trợ lực chứ đừng bao giờ là trở lực cho sứ mạng Tin Mừng của tôi.
6. Trợ lực và trở lực: Hai thanh niên lớn lên trong gia đình với một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.
Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”
Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?” (Góp nhặt)
7. “Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19)
Tôi lênh đênh trên chiếc xuồng máy vào các xã vùng sâu của miền Đồng Tháp đã được nửa ngày. Là thành viên của đoàn công tác xã hội cứu trợ lũ lụt, hơn chục lần tôi phải leo lên bờ đất trơn tuột, sình lầy để vào những căn chòi phong phanh cũ nát. Không khí oi nồng và cảm giác chênh vênh trên mặt nước làm tôi nuốt không trôi mẫu bánh mì ăn trưa. Còn nửa trái quít, cảm thấy ăn không nổi nữa, tôi lén nhét vào tay một cậu bé ốm nhách, đen thui như cục than. Không hiểu vì vị ngọt không thể tìm thấy ở vùng đất khắc nghiệt ấy hay vì điều gì khác mà ánh mắt em nhìn tôi vui vui, thật lạ.
Một niềm vui bé con được thắp lên chỉ từ một hành động vô tình. Niềm vui ấy có lẽ sẽ được nhân lên gấp đôi trong tôi nếu tôi biết san xẻ cho em phần ăn với tất cả tấm lòng yêu thương, nhân ái.
Lạy Cha, xin cho con biết luôn luôn đem niềm vui đến mọi người, để niềm vui được nhân lên và trở thành hồng ân Chúa tuôn tràn trên nhân loại trong từng phút giây. (Hosanna).
Suy niệm 11: Người Nazareth nghe Chúa giảng nơi hội đường
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Bắt đầu từ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc Tin Mừng của thánh Luca.
1. Hôm nay, thánh Luca kể lại việc Chúa Giêsu trở về Nazareth để rao giảng cho những người đồng hương như một biến cố đầu tiên trong cuộc đời công khai của Ngài.
Theo thánh Luca, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và với việc chiến thắng sự cám dỗ của ma quỉ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại miền đất Galilê, sau đó Chúa mới về Nazareth để rao giảng Tin Mừng tại đó. Ngài về đó đúng vào ngày nghỉ Sabat và rao giảng nơi hội đường của làng.
Trong biến cố này chúng ta có thể để ý đến hai điều:
* Trước hết là là thái độ nội tâm của Chúa. Chúa ý thức rất cao về sứ mạng truyền giáo của mình.
* Thứ đến là những phản ứng của những người nghe Chúa rao giảng. Có thể nói đây là những khó khăn tiêu biểu trong việc truyền giáo của Chúa cũng như của các tông đồ sau này.
Chúng ta hãy nhìn lại những chi tiết thánh Luca dùng để mô tả lại những người Nazareth nghe Chúa giảng nơi hội đường của họ.
+ Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc đoạn sách của Isaia, theo lời thánh Luca thì mọi người chăm chú nhìn Chúa. Chi tiết “chăm chú nhìn” nói lên thái độ nội tâm đầu tiên của những người nghe Chúa hôm đó. Chăm chú nhìn có nghĩa là thích nghe Chúa nói. Nếu không thích nghe thì chắc chắn họ sẽ chẳng cần phải chăm chú nhìn người nói chuyện với mình. Chúa Giêsu đã gặp được thái độ khá sẵn sàng nơi dân chúng tại Nazareth.
+ Rồi sau khi nghe Chúa tuyên bố đoạn trích sách tiên tri Isaia ấy được ứng dụng nơi Ngài, dân chúng đã có thái độ hồ hởi. Từ thái độ chăm chú nhìn và lắng nghe Chúa nói, dân chúng đã tiến thêm một bước nữa là rất hồ hởi. Một bước tiến bộ thật đẹp.
+ Thế nhưng, thái độ hồ hởi này đã không kéo dài được lâu. Dân chúng không đủ kiên nhẫn và can đảm. Họ đã bị vấp phạm bởi khía cạnh nhân loại của Chúa Giêsu. Thánh sử Luca đã mô tả thái độ thụt lùi của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Họ bảo: ông này không phải là con ông Giuse hay sao?”(Lc 4,22) Ông ta không phải là con ông Giuse đó sao? Câu hỏi đó chứng tỏ họ bắt đầu hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: “Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu!”
Họ tưởng họ biết rõ Chúa, nhưng thật ra họ chẳng biết gì cả. Họ mới biết cái bề ngoài là con ông Giuse, nhưng họ chưa biết Ngài còn là Con Thiên Chúa.
Và rồi từ thái độ nghi ngờ này chẳng mấy chốc nó đã biến thành thái độ tức giận chống đối và cuối cùng là muốn thủ tiêu Ngài.
2. Còn Chúa thì sao?
Chúng ta hãy thử xem thái độ ứng phó của Chúa ra sao trước sự khước từ của những người đồng hương. Chúa đã không nao núng. Thánh sử Luca kết thúc bằng một nhận định gọn ghẽ nhưng rất ấn tưọng: “Chúa băng qua họ mà đi”(Lc 4,30). Cách nói băng qua giữa họ mà đi không có nghĩa như một sự tàng hình biến đi, nhưng nó nói lên một thái độ đáng nể phục: Chúa bình tĩnh tiếp tục chương trình của Ngài, không để cho những chống đối thù ghét cản trở công việc của Chúa.
Một tín đồ Ấn giáo xuống dòng sông Hằng để thanh tẩy và cầu nguyện.
Ông đang ngụp lặn giữa dòng sông, thì bỗng đâu rác rưởi tụ đến. Trong đống rác có con bò cạp đang chao đảo, chơi vơi giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung, ông chìa tay ra để cứu vớt con vật. Cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật chích. Nhưng ông không mất kiên nhẫn. Con vật càng hung hăng, ông càng chịu đựng để nó chích liên tiếp, miễn là cứu sống được nó.
Có người theo dõi cảnh tượng đó mới trách ông:
- Ông thật là mất thời giờ vô ích. Nó là con bò cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích thôi.
Người tín đồ Ấn giáo điềm nhiên trả lời:
- Bản chất của con bò cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất con người là cứu vớt.
Vâng, Chúa đã không ngã lòng trước sự khước từ của người dân. Nơi này không đón nhận, Chúa đi nơi khác và tiếp tục rao giảng. Như chúng ta biết, theo Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu đã xuống thành Capharnaum thuộc xứ Galilê để giảng dạy ở đó vào các ngày Sabat.
Chúng ta hãy đến với Chúa để học lấy sự kiên nhẫn của Ngài.
Shiela Murray Bethel nói: “Một trong những điều đáng khích lệ nhất mà bạn có thể làm là tự xác định chính mình - biết mình là ai, tin vào cái gì và muốn đi tới đâu”.
Xin Chúa cho chúng ta đừng quá thất vọng mỗi khi gặp khó khăn.
Xin cho chúng ta luôn biết vuợt qua những khó khăn để tiếp tục những nhiệm vụ mà Chúa trao phó.
Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Chúa, nhất là khi gặp những trở ngại trên con đường rao giảng Tin Mừng. Amen.
03/09 Từ bỏ mình
- Viết bởi Mt 16, 21-27
Từ bỏ mình.
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN năm A
"Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình".
Lời Chúa: Mt 16, 21-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu".
Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Gr. 20, 7-9; Rm. 12, 1-2; Mt. 16, 21-27
1. Nếu được cả thế giới--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
3. Mất trước được sau--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Thập giá và người môn đệ--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Từ bỏ--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
6. Thập giá--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Ý người và ý Chúa--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
8. “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
9. Đi theo con đường của Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Chúa nhật 22 Mt 16,21-27--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
11. Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá--Lm Đan Vinh
12. Đau khổ của người Kitô hữu--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
13. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
14. Dám lội ngược dòng--Lm. Xuân Hy Vọng
15. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
16. Tiền của--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
17. Trong họa có phúc--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Đau khổ và hạnh phúc--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
19. Từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau--Lm. Ignatiô Trần Ngà
20. Đầu tư cho cuộc sống mai sau--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
21. Học suy nghĩ và hành động theo Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
22. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
23. Từ bỏ vì Yêu Chúa—Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
24. Sống mầu nhiệm Thập Giá--Lm. Hồng Phúc
25. Vác Thập Giá--Lm. Trầm Phúc
26. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Trầm Phúc
27. Mất và được--‘tinmung.net’
28. Con đường ba (chữ) “phải”--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
29. Hiến mình vì người mình yêu--Lm. Anmai, CSsR
30. Từ bỏ--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
31. Con đường thoát tục tòng Thiên--AM. Trần Bình An
32. Theo Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
33. Theo Thầy Giêsu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
34. Mục đích của đời sống--Lm. Mark Link, SJ.
35. Đường lối Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
36. Nghị lực người công giáo phát xuất từ đâu?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
37. Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
38. Mất đi để được lại --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
39. Thập giá, biểu tượng của tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
40. Chúa Giêsu Kitô là ai?--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
41. Con đường khổ giá--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
42. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Thái
43. Hy sinh vì tình yêu--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
44. Lời khen chê của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
45. Phải lên Giêrusalem--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
46. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Jaime L. Waters
47. Ý nghĩa cuộc đời được đọc thấy nơi Đức Kitô--Lm. Antôn Hà Văn Minh
48. Thập giá, con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
49. Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
50. Thập giá: Con đường chúng ta đi--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
51. Hai con đường--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
52. Thọc gậy bánh xe--Hoàng Cát Minh, O.Carm
53. Đức Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất--Lm FX. Vũ Phan Long
54. Loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
55. Con đường dẫn đến sự sống--Fiches Dominicales
56. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Noel Quesson
57. Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá--Lm Trần Bình Trọng
58. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ--Jos. Vinc. Ngọc Biển
59. Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
60. Mất và được--Lm. Giusehepus Quang Nguyễn
61. Sống mầu nhiệm Thánh giá
62. Tại sao có đau khổ?
63. Thập giá
64. Từ bỏ mình, vác thập giá mình
65. Sống đức tin
66. Mất và được
67. Con đường thập giá
68. Điều kiện theo Chúa Giêsu
69. Xin Chúa thương
70. Đường xưa Chúa đi
71. Thập giá Đức Kitô
72. Từ bỏ
73. Con đường theo Chúa
74. Theo Thầy
75. Theo Thầy
76. Từ bỏ
77. Đánh đổi
78. Làm điều khó
79. Phải từ bỏ mình
80. Thà mất để được
81. Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu--Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
82. Vác thập giá đời mình--Huệ Minh
1.Nếu được cả thế giới--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong đời.
Cám dỗ bởi ma quỷ trong sa mạc.
Cám dỗ bởi đám đông đòi xem phép lạ từ trời.
Cám dỗ bởi nhiều người thách xuống khỏi thập giá.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
Đức Giêsu bị cám dỗ bởi chính Phêrô,
người mà Ngài đã đặt làm nền tảng cho Hội Thánh.
Cơn cám dỗ này nguy hiểm biết bao,
vì đến từ tình thương của một người môn đệ.
Phêrô không thể nào chấp nhận được chuyện
Đấng Mêsia phải chịu khổ đau và chịu chết.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này.
Ngài nói với ông như nói với Xatan trước đây:
"Xatan, lui lại đàng sau Thầy!"
Phêrô đã đi trước Thầy.
Ông quên mất vị trí đi sau của người môn đệ.
Ông không ngờ mình trở nên viên đá làm Thầy suýt vấp.
Lối nghĩ của Phêrô rất tự nhiên, rất "người",
nhưng đó không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa.
Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy
và dám mất tất cả vì Thầy.
Sống ở đời ai cũng tranh phần được, và sợ mất.
Vấn đề là phải xác định xem
đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn,
đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.
Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu,
vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời:
mất công, mất của, mất thì giờ, mất uy tín,
mất tương lai và mất cả mạng nữa.
Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả.
Mọi sự họ mất vì Thầy Giêsu, họ đều được lại.
Mất tạm thời để giữ được mãi mãi.
Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống,
đến nỗi dám chấp nhận cái chết.
Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình
hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Lắm người tưởng mình được, hoá ra lại mất
Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được.
Chúng ta cần suy nghĩ sâu về cái được, cái mất,
để không phải hối hận sau này.
Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả.
Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh,
dám vượt lên trên lối sống thực dụng, ích kỷ.
Không cần đợi sau cái chết, ta mới thấy mình được.
Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu thương
là những cái được ta có ngay từ đời này.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ đời. Ai cũng phải tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa để thắng được người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công giữa chợ đời không?
Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác thập gía. Có khi nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá nào hiện nay bạn còn sợ vác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúa đẵ chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện nếu
như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa,
mà là lối nghĩ của loài người” (Mt 16,23).
Thầy Giêsu đã mắng anh Phêrô như thế
khi anh muốn can ngăn Thầy chấp nhận cuộc Khổ nạn.
Lời can ngăn của Phêrô là một cám dỗ rất mạnh đối với Thầy,
vì đó là lời can ngăn của người môn đệ đầy mến thương:
“Xin Thiên Chúa thường đừng để Thầy gặp chuyện ấy !”
Để thắng được cơn cám dỗ mạnh mẽ này, đến từ Phêrô,
Thầy Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ không kém.
Ẩn sau lời của Phêrô, Thầy thấy có lời đường mật của Xa-tan,
lời mà Thầy đã nghe từ buổi đầu trong hoang địa.
Xa-tan đã rủ rê Thầy bái lạy nó để được mọi vinh hoa trần gian.
Nó muốn Thầy chinh phục thế gian bằng con đường tắt (Mt 4,9).
Thầy Giêsu đã cương quyết bảo nó cút đi.
Và bây giờ Thầy cũng đòi Phêrô trở về đúng chỗ của mình.
“Hãy lui lại đằng sau Thầy !”
Môn đệ phải là người đi sau Thầy, chứ không dẫn đường đi trước.
Thật ra Phêrô can ngăn Thầy là điều hiểu được.
Ông mới được Thầy khen, vì nhờ Chúa Cha, ông biết Thầy là Đấng Kitô.
nhưng khuôn mặt đặc biệt của Đấng Kitô ấy, ông chưa rõ.
Từ thời vua Đa-vít, Thiên Chúa đã hứa ban cho Ítraen một Đấng Kitô.
Đấng này sẽ là một vị vua thuộc nhà Đa-vít,
mà vương quyền và ngai vàng thì vĩnh cửu (2 Sm,11-16).
Trải qua cả ngàn năm, dân Ítraen vẫn chờ Thiên Chúa giữ lời hứa.
Vào thời Đức Giêsu, người dân vẫn mong có Đấng Kitô đến
để cứu Ítraen khỏi tay Rôma, và cho dân hưởng thái bình no ấm.
Ai cũng nghĩ Đấng Kitô phải là Đấng toàn thắng, mạnh mẽ oai hùng,
nên khi nghe Thầy Giêsu nói về thân phận khổ đau thất bại của mình,
Phêrô đã cho thấy ông không thể nào chấp nhận được (Mt 16,22).
Ông không thể chấp nhận hình ảnh Đấng Kitô bị hành hạ và bị giết.
“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa” (Mt 16,23).
Kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lối nghĩ của loài người.
Đức Giêsu Kitô không chỉ cứu dân Ítraen, mà cứu cả nhân loại.
Ngài không cứu họ khỏi nô lệ Rôma, nhưng cứu khỏi nô lệ tội lỗi.
Ngài không cứu độ bằng chiến thắng, nhưng bằng thất bại và cái chết.
Qua đó, Ngài hiên ngang bước vào vinh quang vĩnh cửu (Mt 16,27).
Ngài không phải chỉ là một người được Thiên Chúa xức dầu và sai đi,
Ngài còn là chính Thiên Chúa Ngôi Lời làm người.
Điều Thiên Chúa thực hiện vượt xa những gì Ngài đã hứa.
Ngài làm trọn lời hứa một cách khó hiểu và lạ lùng.
“Sự phong phú, khôn ngoan và tri thức của Chúa sâu thẳm biết bao!
Quyết định của Người khôn dò khôn thấu” (Rm 11,33).
Thầy Giêsu muốn các môn đệ thuộc mọi thời đại
tiếp tục đi sau Thầy, chia sẻ cùng một thân phận như Thầy,
từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất mạng sống mình vì Thầy,
coi cả thế gian nhẹ hơn cuộc sống đời sau.
Họ không lùi bước trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì họ tin Thầy đã được phục sinh và sẽ lại đến trong vinh quang
để thưởng phạt từng người tùy theo việc họ làm (Mt 16,27).
Lạ lùng thay con đường Thầy Giêsu và bao thế hệ môn đệ đã đi !
Chỉ mong chúng ta đừng nghĩ theo kiểu thường tình con người,
nhưng mỗi ngày chấp nhận sống những nghịch lý của Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó,
thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa, và thuộc về Chúa,
thì Chúa đã sống cho con,
và thuộc về con từ lâu.
3.Mất trước được sau--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bo. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?
4. Thập giá và người môn đệ--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.
Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu. Hơn nữa, trong Phúc Âm, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người. Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.
Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê và chịu đóng đinh trên cây thập giá đó. Con đường thập giá Chúa đã đi qua là con đường của sự nhẫn nhục, hy sinh vì tình yêu nhân loại. Con Thiên Chúa không dùng một phương tiện khác nhẹ nhàng hơn để cứu độ con người, mà lại dùng thập giá với những nhục hình đau khổ, và như thế, những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường ấy, nhờ đó mà bản thân họ được tinh luyện, đồng thời họ góp phần nâng đỡ anh chị em. Chúa có thập giá của Chúa và mỗi người chúng ta có thập giá của mình. Con người không chào đời bằng nụ cười, nhưng bằng tiếng khóc, và rồi suốt cuộc đời họ là những trăn trở triền miên, những lo toan cuộc sống. Họ luôn phải đối diện với bao khó khăn trong đời. Hành trình của người môn đệ là hành trình thập giá: “Ai muốn theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chúa nhấn mạnh đến “thập giá mình”, có nghĩa là gánh nặng và trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta, là điều không ai tránh khỏi trong kiếp người.
Thập giá là “định mệnh” chung cho những ai muốn dấn thân phục vụ cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Ngôn sứ Giêrêmia vì trung thành truyền đạt giáo huấn của Chúa mà bị những người đương thời ghen ghét và hành hạ vu khống. Ông đã trở nên trò cười cho thiên hạ. Có những lúc ông chán nản định bỏ công việc Chúa trao, nhưng mỗi khi ông định từ bỏ sứ vụ, thì ông lại thấy đau khổ vô cùng. Nhiệm vụ ngôn sứ như một duyên nợ với ông, rất khó khăn nhưng không dễ chối từ. Gặp nhiều đau khổ và chống đối, ông vẫn say mê Chúa. Dầu có những lúc chán nản, ông vẫn trung thành với Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia là hình ảnh Đức Giêsu chịu đau khổ (Bài đọc I).
Tuy nhiên, trong quan niệm chung của con người, thật không dễ dàng chấp nhận thập giá. Thánh Phêrô không thể hiểu và chấp nhận thập giá. Ông đã phản ứng trước lời tiên báo của Chúa về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. Trước đó, ông vừa tuyên xưng Đức tin vào sứ mạng thiên sai của Chúa và lời tuyên xưng này được Chúa khen ngợi. Ấy vậy mà khi nghe Chúa nói về khổ hình, ông vội can: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”. Suy nghĩ của thánh Phêrô cũng là lối suy nghĩ của khá nhiều người tín hữu chúng ta. Họ chỉ thích tin và theo Chúa để được những điều may mắn. Họ chọn lựa những điều luật mà họ cho là phù hợp và không liên lụy đến quyền lợi cá nhân mình. Khi gặp phải những gian nan, họ “rửa tay” để không dính dáng đến mình. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Bài đọc II). Quả vậy, không có sự thờ phượng nào tốt đẹp cho bằng một cuộc sống thánh thiện, thể hiện qua đức mến Chúa yêu người.
Có nhiều người thời nay đề nghị không trưng bày Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trong gia đình cũng như trong nhà thờ. Họ cho rằng hình ảnh này gợi lại sự hận thù và bạo lực. Tuy vậy, Giáo Hội trưng bày hình ảnh Đức Giêsu chịu khổ hình để giúp các tín hữu hiểu về tình thương bao là của Thiên Chúa thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu. Qua thập giá, chúng ta học được bài học của lịch sử. Hơn nữa, hình ảnh Đức Giêsu trên thập giá là lời mời gọi hãy loại trừ bạo lực và hãy tôn trọng phẩm giá của con người. Bởi lẽ thập giá và Chúa Giêsu đau khổ vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo đói, nơi những trẻ em bất hạnh, những nạn nhân của kỳ thị và áp bức chiến tranh. Cùng chung tay xóa bớt sự nghèo đói, thất học, cùng bênh đỡ những người bị xúc phạm nhân phẩm, là vác thập giá cuộc đời để đi theo Đức Giêsu. Khi nhìn lên thập giá, mỗi chúng ta được mời gọi hãy cố gắng để đừng tạo ra thập giá cho những người đang sống xung quanh mình. Ý thức và thực hiện được những điều này, cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao!
Sau cùng, đừng quên rằng thập giá chỉ mang tính nhất thời, vì sau thập giá là sự phục sinh. Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá không tồn tại mãi mãi. Nếu biết đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và hy sinh của Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ được tôi luyện và nên thánh.
5.Từ bỏ--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Như bài Tin Mừng vừa cho chúng ta biết: hôm ấy Chúa Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị giết rồi ngày thứ ba sẽ sống lại. Ðó là một mạc khải kinh khủng đối với các Tông đồ. Cứ nhìn vào phản ứng của Phêrô thì rõ. Tuy nhiên đó chỉ là những đau khổ động tới con người của Chúa Yêsu, chứ chưa phải là những đau đớn đổ xuống trên thân xác các môn đệ. Hôm nay, phụng vụ muốn nói chính bản thân chúng ta đây phải sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào? Và trước hết chúng ta có thâm tín như vậy không? Chúng ta có chắc rằng chúng ta, mọi kẻ theo Chúa đều phải khổ vì Chúa không? Nếu có, chúng ta phải đón nhận những đau khổ đó như thế nào? Thiết tưởng việc đọc lại các bài Kinh Thánh hôm nay sẽ có ích nhiều cho chúng ta.
A. Nhà Tiên Tri Ðau Khổ
Bài sách Yêrêmya vắn tắt nhưng lâm ly. Nhà tiên tri than thở với Chúa nhưng thực ra cũng muốn cho người khác nghe. Ông tóm tắt cuộc đời của mình trong những lời rất bi quan và đau xót. Lúc nào ông cũng phải la lối: "hành hung và bức hiếp", bởi vì ông được Chúa chọn để sai đi nói với dân: khủng khiếp sắp đổ xuống dân bội bạc, bất tín và dâm đãng này. Ðầu tiên người ta cũng giật mình, nhưng rồi bị thói quen lôi đi, phù vân hấp dẫn và được các tiên tri giả luôn luôn phỉnh nịnh, người ta đâm chán, đâm ghét và muốn xóa bỏ con người cứ liên tiếp đe dọa những tai ương, hình phạt. Có lần người ta đã bắt ông, tống giam và suýt nữa đập chết ông.
Bị kỳ thị tránh né, hiểu lầm, ghét bỏ, Yêrêmya suy nghĩ về cuộc đời của mình. Vì sao lại đâm đầu vào cái nghề tiên tri này? Và sao không bắt chước loại tiên tri kia cứ nói hay, nói tốt cho người ta để được yêu, được thích, được nhiều tiền nhiều của? Cớ sao cứ nói mãi những điềm dữ và tuyên bố kinh khủng sắp đổ xuống trên mọi người, để người ta phải tránh, phải sợ mình như sợ dịch?
Càng suy nghĩ, Yêrêmya càng hiểu rõ bản chất và ơn gọi của mình. Con người xác thịt của ông chắc chắn không muốn sống như xưa nay ông vẫn sống. Nếu cứ phải là tiên tri, chắc chắn nó muốn làm như bọn tiên tri giả, cứ phỉnh nịnh người ta là được chiều chuộng và sung sướng. Làm tiên tri thật, biết nói lên cái hay nhưng cũng không câm miệng trước cái dở của người ta, kể cũng đã khó... huống nữa là chỉ rặt kêu la: "hành hung và bức hiếp!". Lại nữa có chắc gì sẽ xảy ra như vậy? Yôna cũng có lần bị cám dỗ như thế. Ông được Chúa sai đi để cảnh cáo dân tội lỗi. Ông không muốn đi vì ông nghĩ Chúa nhân từ vô bờ, chỉ cần người ta quay đầu lại một tý là Người đã tha thứ và rút cánh tay đe phạt về. Nhưng tại sao Yêrêmya cứ cố chấp và còn nhiệt thành nữa trong việc rao truyền những hình phạt khủng khiếp sắp đổ xuống trên con cái Israel?
Cuối cùng Yêrêmya phải thốt ra những lời hôm nay chúng ta vừa nghe đọc. Không phải ông tự chọn cho mình ơn gọi này; không phải ông thích thú khi tuyên sấm bi quan khủng khiếp như vậy; không phải ông không biết những ê chề, đau khổ và nguy hiểm cho bản thân khi nói ngược với những sự chờ mong của người ta. Cực chẳng đã ông phải làm tiên tri. Không phải để dù sao cũng phải sống và phải có một nghề; nhưng nào ai hiểu được, chỉ để tuân lệnh Yavê!
Người ta bảo ông bị mê hoặc, lừa dối. Phải, nói cho cùng, ông thấy mình bị dụ dỗ thật sự. Nhưng không phải là bùa thiêng hay ma quỷ nào lừa đảo được ông; nhưng là chính sức mạnh của Thiên Chúa. Thần khí Người ập xuống. Ông bị uy hiếp và bị khắc phục, không phải một cách miễn cưỡng và khó chịu, nhưng êm ái và bình an. Thiên Chúa uy dũng đã chiếm đoạt lấy ông. Ông nằm trong tay Người như đứa con trên tay người mẹ: khoan khoái và tin tưởng làm sao! Gặp Thiên Chúa rồi, cảm tình yêu của Người rồi, Yêrêmya phó thác hoàn toàn tấm thân và đời sống nhỏ bé và mỏng manh của mình trong tay Người. Từ nay, Yêrêmya chỉ còn là khí cụ trong tay Ðấng điều khiển tất cả trời đất "vừa cương vừa nhu" (fortiter et suaviter). Ông không làm chủ đời mình nữa. Ông thấy thích thú sâu xa lạ lùng khi được sử dụng vào công việc của Thiên Chúa, cho dù xác thịt tự nhiên cảm thấy ngược lại.
Thế nên nói cho cùng những ê chề, đau đớn, khổ sở mà người ngoài nhìn thấy ở nơi ông và chính xác thịt ông cũng thấm thía thật sự, tất cả những sự ấy vẫn không động đến được ý chí và quan điểm của ông vì "nơi lòng ông như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt ông; ông hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được" bởi vì Thiên Chúa đã dụ dỗ và đang thắng ông.
Yêrêmya đúng là "Người của Thiên Chúa". Ông mô tả trước con người của Ðức Kitô. Ông nhắc nhở tất cả chúng ta về ơn gọi tiên tri của mình. Chúng ta đã lãnh nhận ơn gọi này khi chịu phép Rửa. Mỗi người chúng ta đã được Chúa đặt làm tiên tri để công bố đường lối chân thật của Người. Chúng ta không thấy vất vả vì ơn gọi đó sao? Hay là chúng ta không thi hành ơn gọi đó? Hoặc là chúng ta đang phàn nàn ta thán về số phận khó khăn của ơn gọi là Kitô hữu? Chúng ta chỉ tìm được bình an chân chính và sâu xa nếu chúng ta biết suy nghĩ và tìm ra sự thật như Yêrêmya trong bài Kinh Thánh hôm nay. VÀ bây giờ chúng ta được trang bị đầy đủ để đi vào hai bài Kinh Thánh khác.
B. Ðấng Cứu Thế Chịu Ðóng Ðinh
Sách Tin Mừng Matthêô kể: từ bấy giờ Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ hay "Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ...". Ðó là câu văn rất quan trọng. Nó đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời Chúa Cứu thế. Cho đến hôm ấy, Người chưa bao giờ bảo môn đệ biết những đau khổ đang chờ Người. Nói đúng hơn, cho đến bấy giờ Người thường đi giữa quần chúng và dạy dỗ họ. Từ nay Người sắp đi Yêrusalem với Nhóm môn đệ của Người. Như vậy hoạt động của Người như muốn thu nhỏ lại hơn, để có giờ đào tạo, huấn luyện, sát các môn đệ hơn. Làm cho họ hiểu Người và giống như Người hơn. Và vì thế Người bắt đầu tỏ cho họ thấy sứ mạng và vinh quang đích thực của Người: Người sẽ đi Yêrusalem, bị bắt, bị xử, bị giết và sống lại ngày thứ ba.
Ðó là chương trình đào tạo của Người kể từ hôm nay. Không phải chỉ là một bài học chỉ cần cắt nghĩa là môn đệ hiểu được. Nhưng là cả một nếp sống mà Người sẽ lần lần "tỏ" ra cho họ thấy, mặc dù chưa chắc họ đã hiểu. Nhưng dù sao cũng phải dùng lời nói để mô tả nếp sống ấy. Hôm nay Chúa Yêsu đã làm công việc này. Chẳng may Người gặp phải một phản ứng tức thời, phản ứng của Phêrô, kẻ mà Người mới đặt làm Ðá để xây lên Hội Thánh.
Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài: "Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!". Kể ra ông cũng rất tế nhị. Ông không dám thẳng thắn phản đối Ngài. Ông kéo Ngài ra để nói riêng, không muốn cho đồng bạn nghe thấy. Ông còn nại đến Thiên Chúa: Người tốt lành không thể để xảy ra như lời Ðức Yêsu đã nói.
Thế thì vì sao Ðức Yêsu lại như phẫn nộ đối với Phêrô. Người nói to không nể mặt: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta...". Có lẽ câu tiếp theo làm cho người ta hiểu ý của Người hơn, Người bảo: "Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Phải, hôm ấy Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy tương lai của Người; mà tương lai ấy đâu phải Người xây dựng, mà là chính Thiên Chúa vì Người đã nói rõ: "Ta đến không phải để làm theo ý muốn của mình, mà là ý của Ðấng đã sai Ta". Như vậy, cuộc Tử nạn Phục sinh của Người là kế hoạch của Thiên Chúa. Phêrô chưa nhận ra điều ấy. Ông tưởng đó là ý riêng của Ðức Yêsu. Thế nên ông tưởng có thể góp ý với Người. Và ý của ông cũng là ý của các môn đệ, là ý của quần chúng, của con cái Israel... và nói chung, của tất cả loài người. Ai ai cũng đang trông chờ một vị cứu tinh vinh quang, một Ðấng Cứu thế uy hùng, một Ðức Yêsu quyền phép sắp xây dựng Nước Trời trong huy hoàng, rực rỡ. Họ không biết, hoặc chưa biết "Con Người sẽ phải chịu đau khổ... Các lời tiên tri phải nên trọn... Người phải là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ... Và người Tôi Tớ của Thiên Chúa kể trong sách Isaia chính là Người". Phát biểu của Phêrô là tiếng nói của loài người. Hơn nữa phá kế hoạch của Thiên Chúa là ý muốn của Satan. Ðức Yêsu thẳng thắn vạch trần những bộ mặt ấy để từ nay người ta sống chân thật và tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý.
Tác giả sách Tin Mừng Matthêô có lẽ đã hiểu rõ ý Ðức Yêsu Kitô. Ông đính ngay vào đoạn văn trên những lời Chúa dạy dỗ môn đệ: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta". Ðó là bài học cụ thể phải rút ra sau khi đã thấy mầu nhiệm Thánh giá của Chúa. Là điều chúng ta phải ngẫm nghĩ khi muốn đi theo Người và làm môn đệ của Người. Phêrô và các Tông đồ khi đi theo Chúa cũng muốn tham dự vào công cuộc cứu thế của Người. Chúng ta còn hơn nữa, vì khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được sát nhập vào Thân Thể của Người. Chúng ta trở nên Kitô hữu. Chúng ta mặc lấy thân phận của Ðức Kitô. Người tuy là Cứu thế và hơn nữa chính để cứu thế, đã chấp nhận chương trình của Thiên Chúa là đi lên Yêrusalem để bị bắt, bị xử, bị đóng đanh và bị giết. Ðó là con đường cứu thế, con đường của Vua Kitô, con đường của những ai được xức dầu Vương giả của Người.
Hôm nay chúng ta không thể không suy nghĩ những điều ấy, để thấy không những ơn gọi tiên tri mà cả ơn gợi vương đế trong Bí tích Rửa tội đều thúc đẩy chúng ta phải đi vào con đường của mầu nhiệm thánh giá. Nếu muốn sống làm chứng nhân cho đường lối của Chúa, chúng ta đã phải sẵn sàng can đảm, thì muốn tham dự và tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, chúng ta không thể không muốn chấp nhận lấy thân phận của người Tôi Tớ Thiên Chúa. Lúc ấy chúng ta mới thấm thía lời Chúa dạy: ai muốn làm lớn hãy trở nên rốt bét... Hết thảy hãy học với Ta vì Ta có lòng khiêm nhường hiền lành... Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sự sống. Chỉ khi thâm tín những chân lý này, việc làm dấu Thánh giá và đeo ảnh Thánh giá trên mình mới có ý nghĩa. Ðó không phải chỉ là dấu hiệu nói rằng chúng ta đã thuộc về Chúa Yêsu Kitô Cứu thế chịu đóng đinh, nhưng còn là cử chỉ muốn đóng đinh xác thịt và đời sống của mình để cứu thế với Ðức Yêsu Kitô. Sống ơn gọi vương đế cũng phải vác thập giá và chết trên thập giá như khi sống ơn gọi tiên tri. Còn muốn sống ơn gọi tư tế trong Bí tích Rửa tội có như vậy không?
C. Anh Em Hãy Hiến Dâng Thân Mình Là Lễ Tế Sống
Ðoạn thư Phaolô hôm nay mở đầu phần khuyên bảo trong thư Rôma. Thánh Tông đồ thôi giảng về giáo lý và bắt đầu dạy dỗ tín hữu về cách ăn ở. Chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng sự tôn thờ chân thật mà Người muốn, không phải là kinh kệ hay lễ dâng bề ngoài, nhưng là lễ tế thiêng liêng.
Chúng ta hay hiểu lầm ý nghĩa của hai chữ thiêng liêng này. Chúng ta tưởng thiêng liêng là không hữu hình, không nhìn thấy. Và chúng ta nghĩ tôn thờ thiêng liêng không cần đến nhà thờ, bàn thờ, kinh kệ, nghi lễ, mà chỉ cần tâm hồn. Thế là vô tình chúng ta có thể rơi vào "duy tâm".
Nhưng không có tâm hồn ở ngoài thân xác. Và không phải tâm hồn hay thân xách chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa, mà là chính chúng ta là những con người có cả tâm thần và xác thịt. Thánh Phaolô nói chúng ta phải dâng thân mình làm lễ tế sống, tức là phải dâng chính chúng ta và tất cả chúng ta với những sự thuộc về chúng ta làm lễ tế sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Không phải chúng ta sẽ trói mình lại như Abraham bắt trói Isaac ném lên đống củi... Kiểu tế sống đó Thiên Chúa không muốn. Người không cho Abraham làm. Nhưng Người đã ban Con Một Người đi chịu chết. Và lễ tế sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, chính là lễ hy sinh của Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Thập giá. Lễ hy sinh này, Ðức Yêsu Kitô đã khởi sự hôm nay khi Người bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ đi lên Yêrusalem để chịu chết. Nói đúng hơn, Người đã bắt đầu tế lễ sống chính mình khi bước vào thế gian như thư Hipri nói: "Này Con xin đến để làm theo Thánh Ý Cha".
Mà ý của Thiên Chúa không phải ý của thế gian vàloài người. Thế nên thánh Phaolô diễn tả tư tưởng ở trên rằng: "Ðừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng, làm sao anh em thẩm định được Ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo".
Mọi chữ đều ý nghĩa. Chính đời sống không rập theo đời này, nhưng canh tân lương tri, biến hình đổi dạng, ăn ở theo giáo huấn của Thiên Chúa, là lễ tế sống, thánh thiện đẹp lòng Người. Như vậy đời sống tư tế của người tín hữu chẳng thuần túy thiêng liêng theo nghĩa vô hình và hoàn toàn nội tâm; bởi vì canh tân biến đổi đời sống cho phù hợp với Ý Chúa phải tác động đến thân xác và nếp sống hữu hình. Nhưng tất cả những kinh kệ và lễ dâng chỉ trở thành lễ tế thiêng liêng khi đó là những lời kinh và lễ dâng của con người đang kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá, là mầu nhiệm hiến dâng và trao ban cả thân mình cho Thiên Chúa và cho hạnh phúc của loài người.
Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm ấy nơi bàn thờ. Ước gì việc tham dự thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào sâu hơn ơn gọi của Bí tích Rửa tội, là bí tích biến chúng ta nên Kitô hữu, môn đệ của Ðức Kitô. Bí tích ấy xức dầu chúng ta nên ngôn sứ, vương đế và tư tế trong Ðức Yêsu. Người đã là Vị Ngôn sứ đau khổ hơn hết. Người đã làm Vua trên Thánh giá. Người đã tế lễ khi hiến dâng sự sống mình. Người đang kêu gọi và đòi hỏi chúng ta: nếu muốn đi theo Người hãy vác lấy thập giá của mình mà đi theo Người.
Quan điểm này phải canh tân lương tri và biến đổi đời sống chúng ta nên lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho mọi người hơn.
6.Thập giá--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Rôma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối người Hy Lạp, Thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai Cập thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ơn phúc. Các nước tiểu Á và Đông Á vẽ Thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
Nhìn chung nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ Thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ Thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau, nhưng khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là khổ giá, một đàng thương đau để được sự sống trường sinh nên được gọi là Thánh giá
Thánh giá này tiên tri Giêrênia như muốn từ chối vì nó nặng quá, sức ông đã kiệt quệ, không thể vác nổi, sức loài người quá yếu. Nhưng Thiên Chúa đã chiêu mộ ông, thiêu đốt ông bằng ngọn lửa cháy bừng trong lòng ông, âm ỉ trong xương cốt ông, làm ông vùng dậy la to, kêu lớn: “Bạo lực và tàn phá” cho những kẻ suốt ngày nhạo cười, phỉ báng ông. Họ muốn sống vinh quang, họ phải dẹp cái thói hung tàn, đàn áp đi, chớ liên minh với ngoại bang gây chiến, giết hại lẫn nhau: đó là thứ thập ác. Giêrênia đã vác Thánh giá để cứu dân thoát khỏi thập ác, nhưng dân vẫn lao đầu vào thập ác: chúng đã đốt con chúng làm lễ tế thần Baal (Cr. 19, 5) và hùa nhau: “Tố cáo ông, báo thù ông” (Ger. 20, 10).
Thánh giá này, Giêrênia vác không nổi thì Đức Giêsu đã đến vác trọn vẹn. Người long trọng tiên báo cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Phêrô nghe kinh khủng quá, kéo Thầy ra nói nhỏ, sao Thầy dại thế? “Xin Thiên Chúa thương cứu Thầy khỏi sự khốn đó”.
Thành thực muốn cứu Thầy, lại bị Thầy sửa lưng thẳng mặt: “Satan, xéo đi cho khuất, ngươi cản lối Ta, tư tưởng của ngươi không phải của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 23).
Đúng thế, Phêrô đã bị tính ích kỷ loài người, tính vụ lợi muốn được cả thế gian của satan làm hoen ố tinh thần hy sinh vác thánh giá theo Thầy. Muốn thoát khỏi vác thánh giá thì lại lao đầu vòng tròng thập ác của satan, của sự xấu, của tiêu diệt: “Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống”. Vì chỉ có Thầy “bị người ta giết chết, nhưng ba ngày Thầy sẽ sống lại”, chỉ có “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” “là sự sống lại và là sự sống muôn đời”. Chỉ có “Thầy sẽ ngự đến trong ánh sáng vinh quang”.
Phêrô đã quên niềm tin chân chính mà ông vừa mạnh mẽ tuyên xưng. Con người chóng quên quá! Con người yếu đuối quá! Con người phũ phàng quá! Chúa ơi!
Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Người vác khổ giá hay sao? Giêrênia đã từ chối, nhưng đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, Phêrô đã từ chối và đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, nhiều lần con đã từ chối vác khổ giá, xin cho con biết trở lại vác khổ giá theo Chúa, để khổ giá của con trở thành thánh giá cứu con và nhiều người.
7.Ý người và ý Chúa--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Dường như không ai không gặp sự dữ trên đời; và cũng chẳng ai muốn mình bị sự khó. Một số người tưởng lầm Thiên Chúa muốn con người phải sự khó và đau khổ. Thật sự, Thiên Chúa luôn muốn con người hạnh phúc; những đau khổ con người gặp phải hoặc bị, là do con người mà ra.
1. Điều dữ con người làm cho nhau
Đức Yêsu tỏ cho các tông đồ biết về tương lai của Ngài: Ngài sẽ lên Yêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Nghe vậy Phêrô lên tiếng với Đức Yêsu: Thiên Chúa không muốn Thầy như vậy đâu, không bao giờ điều dữ đó xảy ra cho Thầy đâu. Một điều chắc chắn: Thiên Chúa yêu Đức Yêsu vô cùng, nhưng Đức Yêsu vẫn gặp bao điều ác và Ngài đã bị chết nhục nhã trên thập giá.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không muốn ai phải chịu sự dữ, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người tự do; và nhiều người bị lòng ham muốn danh lợi chức quyền chi phối, nên thường làm khổ và gây hại cho nhau. Đức Yêsu chết vì người ta muốn giết Ngài, cho rằng Ngài lộng ngôn xúc phạm Thiên Chúa. Để giết Đức Yêsu, người ta đã tố cáo Ngài muốn nổi loạn chống đế quốc Roma đang cai trị, bằng việc xưng mình là vua. Nhiều khi người ta làm khổ nhau và thậm chí giết nhau, nhân danh điều tốt và công ích. Điều dữ con người làm cho nhau, vẫn thường xảy ra dù rằng Thiên Chúa không muốn.
Thiên Chúa không muốn điều dữ cho con người, nhưng vì con người tự do và cơ cấu thể xác, nên con người và Đức Yêsu vẫn bị khổ và bị giết. Chính con người làm khổ nhau, chứ Thiên Chúa không làm khổ con người. Ngay cả hoả ngục, nơi bất hạnh vĩnh cửu, cũng do con người tạo nên cho mình. Chính khi con người sống trong thù ghét oán hận, con người bất hạnh và đau khổ.
2. Ý của Thiên Chúa
Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc. Ngài tạo dựng con người để chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài cho con người. Ngài tìm mọi cách giúp con người sống bình an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau mà ngay cả ở đời này. Cả khi con người phạm tội, Ngài vẫn giúp con người hối hận trở lại để Ngài tha thứ.
Khi ai đó bị kẻ khác hành hạ và đàn áp bất công, thì Thiên Chúa vẫn giúp người đó bình an trong hoàn cảnh của mình, bằng việc nhận ra ý nghĩa và chấp nhận cảnh túng cực đó. Ngài cho họ biết rằng, cuộc đời này sẽ qua đi, và đời sau họ sẽ được đền bù những gì đời này họ bị mất. Một số người hiểu lầm giáo lý này, cho rằng đây là giáo lý làm con người yên tâm sống trong nô lệ và cam chịu người khác bóc lột. Thật ra Thiên Chúa không muốn con người bị bóc lột bởi bất cứ ai, Ngài không muốn con người làm khổ nhau. Nếu ai đó thấy cần phải nổi dậy chống cường quyền để thoát bất công, thì người đó cứ làm như họ thấy phải làm. Thiên Chúa vẫn nói với con người qua lý trí và lương tri mỗi người. Mỗi người phải sống theo lương tâm mình. Đức Yêsu là gương mẫu cho con người: Ngài nói điều phải nói cho dù nguy hiểm đến tính mạng, cho dù vì đó người ta ghét và giết Ngài.
Thiên Chúa ở với con người, muốn con người hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa muốn cả những người bị áp bức mà không thể thoát khỏi hoàn cảnh đó, cũng được hạnh phúc. Thiên Chúa muốn những người bị áp bức mà nổi lên chống lại cường quyền cũng được hạnh phúc trong việc phản kháng của họ. Với những người đang áp bức người khác, thì Ngài cho họ thấy: họ được gì nếu họ được tất cả ở đời này mà mất đời sau, phải khổ đời sau. Yêu thương và tôn trọng con người, mới làm con người hạnh phúc ở đời này, và cả ở đời sau.
3. Tôn thờ Thiên Chúa qua cuộc sống
Đức Yêsu vẫn làm điều Ngài phải làm, cho dù Ngài sẽ bị giết chết. Yoan Tiền Hô cũng đã làm điều phải làm, phản đối việc Hêrôđê lấy vợ người anh, cho dù vì đó Ngài bị ghét và bị giết. Yoan Tiền Hô vẫn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Cả tiên tri Yêrêmia cũng như vậy. Ngài được gọi làm tiên tri, để nói với dân những điều Thiên Chúa muốn, để họ bỏ đường tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Khi nói những gì Thiên Chúa truyền, là tiên tri phải loan báo những tai hoạ mà những người thời đó không muốn nó xảy tới. Và như vậy, tiên tri bị người ta ghét và hãm hại. Có nhiều lần Yêrêmia không muốn nói điều Thiên Chúa truyền, nhưng trong lòng tiên tri như lửa thiêu, và không thể nào cầm lòng được. “Lạy Chúa, Ngài đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ. Suốt ngày, khi nói, là tôi phải nói những lời về chém giết và điêu tàn.” Có lần tiên tri đã không làm theo Lời Thiên Chúa, nhưng rồi tiên tri lại được ơn trở lại, và lại làm theo điều Thiên Chúa muốn. Đức Yêsu cũng được ơn để sẵn sàng làm theo những gì Thiên Chúa muốn, cho dù bị người ta ghét và tìm cách giết Ngài.
Với những người chọn Thiên Chúa trên hết, sống lâu hay chết yểu không quan trọng. Điều chính yếu là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi làm như vậy, cả cuộc đời họ trở thành của lễ tôn thờ Thiên Chúa. Họ tôn thờ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của họ. Tôn trọng người khác, và làm theo điều mình được soi sáng, là thái độ sống của người đặt Thiên Chúa trên hết.
Hạnh phúc mỗi người nhận được trên đời này, phần nào qua chính hành vi sống của họ. Trong một xã hội dễ dàng về vật chất, con cái vừa là một vinh dự, vừa là mối bận tâm và lo lắng của nhiều người. Nếu cha mẹ chỉ lo kiếm tiền và không dành thời gian để sống với và giáo dục con cái, thì người cha người mẹ đó sẽ bất hạnh khi con cái họ hư hỏng. Nếu bậc cha mẹ vì sợ trách nhiệm không dám sinh con, thì họ cũng không có được niềm vui của một gia đình có con cái, không cảm được sự đầm ấm tươi trẻ và hạnh phúc khi có con có cháu. Con người phần nào cũng được lãnh những gì tốt đẹp mình dâng hiến và xây dựng ngay trong cuộc sống này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự dữ nhất mà bạn đã phải chịu, là gì? Xin bạn chia sẻ nếu được.
2. Sự dữ là do con người làm cho nhau, hoặc do con người mà ra. Câu này đúng hay sai? Tại sao? Nó có đúng với những tai ương thiên nhiên không?
3. Cuộc đời của bạn và cuộc đời của Đức Yêsu, cuộc đời nào bạn thích hơn? Bạn có dám chọn cuộc đời của Đức Yêsu không? Tại sao?
8.“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
1. Đức Giê-su mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua
Sau câu hỏi thâm sâu và riêng tư: “Anh em nói Thầy là ai?” (x. Mt 16, 13-20: bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước), Đức Giê-su bắt đầu dẫn các môn đệ đi sâu hơn vào trong tương quan “thuộc về nhau” với Ngài. Thật vậy, Đức Giêsu bắt đầu bày tỏ, nghĩa là mặc khải (thánh Mác-cô nói, Ngài dạy các môn đệ):
Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Đức Giêsu mặc khải, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức Ki-tô:
* Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.
* Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn chữa lành.
* Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.
* Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.
***
Như thế, tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, không phải chỉ là phát biểu chính xác, và đôi khi là “thuộc lòng”, căn tính thần linh của Người trong tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn là môt lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Thánh Phêrô đã không hiểu “bài học” của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận điều Đức Giê-su giảng dạy về con đường Ngài phải đi:
Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”
Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa, nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi không thuộc về Thiên Chúa.
Sau này, thánh Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó của Thầy Giê-su và đã đi đến cùng con đường thương khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường thương khó của mình, con đường thương khó của thế hệ mình. Con đường thương khó của chúng ta là ơn gọi trong một hoàn cảnh, một gia đình, một cộng đoàn, một Hội Dòng cụ thể mà tôi đang thuộc về.
2. Sequela Christi (đi theo Đức Ki-tô)
Sau khi mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ, các môn đệ đang hiện diện với Người và các môn đệ của Người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay:
Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (c. 24)
Như thế, như thánh Phê-rô và các tông đồ, khi chúng ta được ơn hiểu biết, yêu mến Đức Kitô và muốn đi theo Ngài, hay nói như ngôn sứ Giê-rê-mia trong bài đọc I: “Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Gr 20, 7), chúng ta được mời gọi đi cùng một con đường Đức Kitô đã đi.
Và đó là con đường vượt qua. Nhưng con đường vượt qua là gì? Là con đường của vất vả và khổ tâm, như chính ngôn sứ Giê-rê-mia đã kinh nghiệm: “Vì lời Đức Chúa mà con đây chịu sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20, 8); là con đường của dâng hiến và cho đi, như thánh Phaolo khuyên bảo:
Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. (Rm 12, 1)
Chúng ta hãy chiêm ngắm cách Đức Maria đón nhận, gắn bó và yêu mến Đức Kitô, để nhận thấy rằng, từ lúc thưa “xin vâng”, Đức Maria đã phải cho đi, dâng hiến, vất vả và “cực lòng” như thế nào. Thánh Giuse cũng vậy, vì để cho Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa cần tới hai lời “xin vâng”. Giống như trong đời tu, để cưu mang và làm chứng cho Đức Kitô, Chúa không chỉ cần lời xin vâng của bản thân chúng ta, nhưng của chị em, của anh em trong cùng cộng đoàn và Hội Dòng nữa.
Nhưng như chính Đức Giê-su mặc khải và ban cho chúng ta lời hứa, chính khi vượt qua vất vả và khổ tâm, vượt qua khó khăn lúc cho đi và dâng hiến, chúng ta được dẫn tới an nghỉ và niềm vui, tới hoa trái nhiều gấp trăm lần điều mà chúng ta đã cho đi, tới việc nhận lại sự sống hoàn toàn mới từ nơi Đức Chúa, là Thiên Chúa của sự sống và sự sống lại. Và có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm này: niềm vui của sự sống mới là ở bên kia sự chết, nhưng đã xâm nhập vào sự sống hôm nay của chúng ta rồi, vào chính lúc chúng ta cho đi và dâng hiến rồi. Như thánh Augustin nói, trong tình yêu thì không có vất vả, nếu có vất vả, thì vất vả này đã được yêu mến rồi. Và như thánh Phao-lô nói: “tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta”, đến những khó khăn vất vả, đến việc cho đi và dâng hiến, nhưng nếu vì lòng mến, lòng mến của Đức Kitô dành cho chúng ta, và lòng mến chúng ta dành cho Đức Kitô, chúng ta sẽ kinh nghiệm được niềm vui lớn lao và sâu xa, niềm vui đích thật và bền vững mà không ai hay hoàn cảnh nào có thể lấy mất được.
3. Qui luật muôn đời của sự sống
Lời mời gọi “Ai muốn đi theo Thầy” mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối, vì tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:
Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất;nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.
Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “Hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác; đó con đường của tấm bánh, phải được bẻ ra và nghiền nát để nuôi sống, thậm chí trở thành sự sống cho con người.
* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.
***
Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài.
9.Đi theo con đường của Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô. Theo ở đây không phải chỉ tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định như đi xem lễ và lãnh nhận các bí tích.
Theo Chúa là phải chấp nhận một số điều kiện khắt khe như Ngài đã đề ra và mời gọi:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, Ai muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình trong cuộc sống hằng ngày. Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt đòi chúng ta phải nỗ lực không ngừng, nhưng nó sẽ dẫn ta tới sự sống đời đời.
Như chúng ta thường nghe và cũng đã nói cái quí giá nhất của con người là sự tự do, nhưng kèm theo nó như hình với bóng còn có một điều hết sức quan trọng và mang đầy tính chất mạo hiểm: đó là sự lựa chọn theo nhận thức của mỗi người. Chính vì sự lựa chọn này khiến con người phải chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động mình. Do đó, khi dùng tự do có ý thức để lựa chọn, con người phải cân nhắc lựa chọn, theo đúng nguyên tắc luật lệ chính đáng, luân thường đạo lý và lương tâm ngay thẳng mới có thể tránh khỏi những sai lầm tai hại về tinh thần lẫn thể xác. May mắn thay cho chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta đã có Chúa hướng dẫn, ơn Chúa soi sáng giúp chúng ta dễ dàng trong việc chọn lựa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 20,7-9.
Tuy Giêrêmia là con người nhút nhát, nhưng Thiên Chúa cũng gọi ông làm tiên tri để tuyên bố những lời chói tai mà người ta gọi ông là “nhà tiên tri loan tin dữ”. Sứ mạng của ông gặp nhiều khó khăn: nguời ta chống đối, chế nhạo ông, thậm chí còn lên án ông nữa vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, lại còn loan báo án phạt của Thiên Chúa. Bị đau khổ tư bề , nhiều lần ông đã định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.
+ Bài đọc 2: Rm 26,21-27.
Lời khuyên nhủ của thánh Phaolô đối với tín hữu Roma cũng giống như lời Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Người theo Chúa là người từ bỏ cách sống theo thời của mình, và hơn nữa là từ bỏ chính mình, tự hiến toàn thân cho Chúa như một của lễ sống động dâng cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong thánh lễ.
Thánh Phaolô cho biết: làm như thế là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý và đáng trân trọng nhất.
+ Bài Tin mừng: Mt 26.21-27.
Đây là lần đầu tiên, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết là Ngài phải chịu bắt bớ, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Lời tiên báo này làm cho các môn đệ bỡ ngỡ , không hiểu nổi vì các ông vẫn còn cái nhìn và sự hiểu biết của con người, đến nỗi thánh Phêrô phải phản đối. Nhưng Chúa gạt ý kiến này đi và cho các ông biết chính các ông cũng sẽ phải đi theo con đường của Ngài.
Những ai muốn làm môn đệ của Ngài thì phải chấp nhận đi theo con đường của Ngài, con đường đó đòi hai điều kiện căn bản:
- Điều kiện thứ nhất là từ bỏ chính mình.
- Điều kiện thứ hai là vác thập giá của mình.
Ai thi hành hai điều kiện đó sẽ được phần thưởng:”Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Nếu muốn theo Chúa.
I. LỜI CHÚA MỜI GỌI.
Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai:”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16), Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ gây ra, bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở ra một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này Chúa muốn mạc khải về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài. Quả vậy, đây là lần thứ nhất trong ba lần (Mt 16,21; 17,22; 20,17) Ngài báo về mầu nhiệm đó. Mỗi lần loan báo như đánh dấu một chặng đường tiến về Giêrusalem. Việc loan báo như vậy cũng là để chuẩn bị đức tin cho các môn đệ có thể đương đầu với cuộc khủng hoảng sắp tới, khi Ngài bước vào cuộc tử nạn và phục sinh.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Trông thấy trước con đường khó khăn đang trải ra trước mặt các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khóat lập trường là có muốn theo Ngài nữa hay không? Câu hỏi và lời mời gọi này nêu lên tinh thần tự do đáp trả của con người hơn là sự đòi hỏi của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người như một món quà độc đáo và quí báu nhất.
THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải chỉ là mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài là làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào có thể làm cho họ lìa bỏ nhau
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
(Ca dao)
Trong lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai từ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, không có không được.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA.
Phân tích lời kêu gọi của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đưa ra hai điều kiện cho bất cứ ai, các môn đệ hay chúng ta, muốn làm môn đệ của Ngài phải thi hành:
- Từ bỏ chính mình.
- Vác thập giá mình.
1. Từ bỏ chính mình.
Đây là phương diện tiêu cực của việc theo Chúa. Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật... và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi...
Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.
Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ: Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch, rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật. Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xả thân thuộc trọn về Chúa.
Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa:”Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần”(Tv 68,10).
(Nguyễn duy Phượng, Thực yêu thanh bần, 1967, tr 124-125)
Truyện: Thánh Têrêsa chịu đựng.
Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể:”Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay... Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41).
Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc... nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.
2. Vác thập giá mình.
Đây là khía cạnh tích cực của việc theo Chúa. Quả vậy, theo Chúa thì phải nỗ lực, cố gắng trong việc sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng trong sự chịu đựng và kiên trì.
Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Roma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối với người Hy lạp, Thập giá trở thành hoa văn xin đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai cập, thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây ban nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ân phúc. Các nước Tiểu Á và Đông Á vẽ thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
Nhìn chung, nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là KHỔ GIÁ, một đàng thương đau để được sống trường sinh nên được gọi là THÁNH GIÁ.
Trong đời sống Kitô hữu. ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu , nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề.. Tuy nhiên, Thiên Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.
Truyện: Thánh giá vừa sức mình.
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:
- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
III. THEO CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta cần phải nhìn rõ vào gương tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để can đảm và sẵn sàng từ bỏ mình và vác thập gía mình mà sống theo Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Tại sao Chúa bảo chúng ta:”Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Bởi vì thánh Matthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC , nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống nhưng sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng... có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.
Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Chúa Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này:”Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì”.
Đứng trước thập giá, đứng trước đau khổ, chúng ta không thể hiểu , không thể cắt nghĩa được vì đó là mầu nhiệm. Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta có thể làm khi gặp đau khổ là tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán:”Bất cứ ai chấp nhận mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được sự sống ấy”. Trong cuộc sống, người ta luôn gặp thập giá, đau thương, gian nan thử thách... Tất cả những cái đó có thể làm nên những điều có lợi cho chúng ta.
Truyện: Biến bại thành thắng.
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này: Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn: Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh. Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một đoạn trong đó:
“Trên căn gác một nhà xưa cổ,
Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,
Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.
Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,
Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này,
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Tôi liền mở nó ra và đọc,
Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói:
“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu
Ta chỉ việc gấp lại và viết lên:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Rồi một ngày nào đó trên nước Trời,
Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói:
“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Amen.
10.Chúa nhật 22 Mt 16,21-27--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại. Nghe thế Phêrô vì đã ngăn cản Ngài. Sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường Thập giá mà Ngài sắp đi cũng là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”
Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”.
B.... nẩy mầm.
1. “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”: Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.
Nhưng vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì?”
2. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn ("Mỗi ngày một tin vui")
3. Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa.
4. Hai cách đi theo Chúa:
Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế !”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa)
5. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)
Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình Vtv1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.
Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã hủy mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.
Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được: Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna)
6. “Thánh giá là một dấu chỉ, một lời mời gọi và một mặc khải:
- Dấu chỉ rằng Chúa yêu thương ta
- Lời mời gọi ta hãy yêu thương như Chúa
- Và mặc khải rằng đã yêu thì nhất thiết phải chịu khổ” (Góp nhặt)
11.Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá--Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, thì Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người sắp đi lên Giê-ru-sa-lem để qua đau khổ thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh. Ông Phêrô lên tiếng khuyên can nhưng đã bị Người nặng lời quở trách, vì ông đã suy nghĩ theo kiểu loài người. Rồi Đức Giêsu dạy môn đệ phải làm theo thánh ý Thiên Chúa là từ bỏ bản thân, vác thập giá mình mà đi theo Người.
CHÚ THÍCH:
- C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giêsu mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa, tức là thành thánh Giê-ru-sa-lem, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Đức Giêsu lần lượt loan báo 3 lần về cuộc thương khó Người sắp trải qua để đánh dấu từng chặng đường tiến về thành Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ khỏi bị bất ngờ khi thấy sự việc xảy ra.
- C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!: Phêrô không muốn Thầy phải bị thua kẻ thù, để mặc chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã trên cây thập tự rồi mới phục sinh vinh quang! Tại sao Thầy không dùng quyền năng để chiến thắng kẻ thù ngay lập tức? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy!: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phêrô gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và khi xưa (x. St 3,4-5). Câu này tương tự như câu Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ cám dỗ sau khi Người ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giêsu chỉ buộc Phêrô lui lại vị trí người môn đệ, nghĩa là phải đi phía sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì lòng mến Thầy, Phêrô đã vô tình cản lối Người đi khi ông yêu cầu Người bỏ con đường cứu độ đã được Chúa Cha đặt định là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phêrô vừa được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị Thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây vấp ngã cho Thầy! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
- C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng cộng tác vào công việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giêsu là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Họ cũng phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, phải chịu đựng những nỗi vất vả và các cơn bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng ở đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn sống cuộc đời tạm này thế nào, để sau khi chết sẽ được sống lại và được sống đời đời. Đức Giêsu đưa ra con đường dẫn tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh thiệt thòi, ngay cả mất mạng sống của mình. Ngoài con đường này không còn con đường nào khác để đón nhận được ơn cứu độ.
- C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình và vác thập giá đi theo Chúa ngay đời này. Đức Giêsu quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay không làm khi còn sống.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giêsu phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem? Người tiên báo phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ba lần nhằm mục đích gì? 2) Tại sao tông đồ Phêrô lên tiếng can gián Thầy và ông đã bị Thầy quở trách như thế nào? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày đối với mỗi tín hữu hôm nay cụ thể là bỏ và làm những gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh của cây Thánh Giá
Một người đàn bà đạo đức kia phát hiện mình có khối u ở ngực nhưng lại không dám đến bệnh viện mổ vì sợ mình không thể chịu nổi cơn đau khi mổ. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà đâm hoảng mới chấp nhận mổ, hy vọng sống thêm được một thời gian. Bà có một cậu con trai trong tuổi thanh niên. Khác hẳn bà mẹ, anh con trai này tỏ ra khô khan các việc đạo đức và đã bỏ đến nhà thờ từ khá lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà mẹ yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được đứng bên giúp bà thêm sức chịu đựng cơn đau lúc đang mổ và yêu cầu của bà đã được bác sĩ chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua cơn đau khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con!”. Trườc cảnh tượng mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt ra những lời phàn nàn trách móc Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt và nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn nâng đã an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê, làm dịu đi cơn đau khủng khiếp mà bà đã và đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho con trai và dặn rằng: “Con ơi! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong cuộc đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông ơn Chúa giúp mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
2) Thánh giá Chúa ban hợp với khả năng mỗi người:
Cây thánh giá mà chúng ta phải chấp nhận mang vác trong cuộc sống đều hợp với khả năng của mỗi người chúng ta. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây nói lên điều này:
Có một người đàn ông kia tuy có đức tin vào Chúa nhưng lại hay than trách Chúa để mặc mình phải mang cây thánh giá quá sức chịu đựng là bà vợ luôn “lắm điều nhiều lời” của ông. Lúc nào bà vợ này cũng càm ràm chê trách ông chồng đủ điều. Vào một đêm kia, ông ta nằm mơ gặp một thiên thần hiện ra phán bảo: “Ta thấy con hay than thân trách phận vì phải mang vác thánh giá nặng nề vượt quá sức con. Vậy hôm nay con hãy theo ta vào trong nghĩa trang, nơi mà những người chết được chôn cất đều để lại cây thánh giá đời họ ngay trên phần mộ. Con hãy chọn một cây thánh giá khác phù hợp thay cho cây con đang phải mang”.
Ông ta liền vui vẻ mang theo cây thánh giá theo thiên thần vào nghĩa trang cách chỗ ở không xa, hy vọng sẽ kiếm ra cây thánh giá khác nhẹ hơn. Đến nơi, ông ta lần lượt đi đến các phần mộ người chết để thử hết cây này đến cây khác nhưng mãi vẫn không tìm ra cây thánh giá ưng ý. Vì cây nào nhẹ thì lại dài quá khổ; cây vừa vặn thì lại xù xì gớm ghiếc; còn cây trơn tru láng đẹp thì lại quá nặng nề… Cuối cùng ông đành thưa với thiên thần: “Thưa ngài. Con tìm mãi mà chẳng thấy cây thánh giá nào hợp với con cả. Con xin chọn lại cây thánh giá con đã mang từ nhà ra đây”.
Trên đường về nhà thiên thần đã nói với ông rằng: “Thiên Chúa luôn trao thánh giá cho mỗi người phù hợp với sức của họ và Người luôn ban ơn giúp họ vác thánh giá cuộc đời đến cùng”. Có điều lạ là từ ngày chấp nhận vác cây thánh giá là chịu đựng các thói hư của vợ, ông lại thấy bà không còn xấu tính khó ưa như trước. Nhờ đó cuộc sống chung giữa hai người hòa hợp hạnh phúc trở lại như hồi mới cưới.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Mát-thêu đã ghi lại con đường Người sắp trải qua như sau: “Con người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phêrô, một người vừa được Đức Giêsu khen có phúc vì đã tuyên xưng đức tin, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Nhưng ông đã bị Đức Giêsu nặng lời quở trách: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giêsu đã có phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phêrô khi xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ cám dỗ. Về sau Phêrô đã dần dần hiểu được thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng chấp nhận đi con đường thánh giá để được cùng chết và cùng sống lại với Thầy. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng cho biết điều kiện để trở thành môn đệ của Người như sau:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
1) Từ bỏ chính mình:
Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình, nghĩa là bỏ các trở lực bên ngoài như người thân, nghề nghiệp, nhà cửa, ruộng nương... và cả những trở lực bên trong như các thói hư, tội lỗi, lòng ham mê địa vị quyền hành, lòng tham lam của cải bất chính, thói xấu ích kỷ, thích phô trương thành tích để tìm tiếng khen nơi người đời... Đức thánh Cha Phao-lô VI trong buổi triều yết chung ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được ưa thích nhất trong đời sống công giáo là sự từ bỏ chính mình”. Từ bỏ chính mình nghĩa là phải loại bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua ý của cha mẹ trong gia đình, thầy cô giáo ở nhà trường, luật pháp trong xã hội, đặc biệt là gương sáng và lời dạy của Chúa Giêsu do các mục tử trong Hội thánh rao giảng.
Quan sát các nhà điêu khắc, ta thấy đàu tiên họ lựa ra một phiến đá cẩm thạch ưng ý rồi chọn kiểu mẫu và sơ phác trên phiến đá. Sau đó họ kiên nhẫn đục đẽo, mài dũa cho tới khi hoàn thành một bức tượng mỹ thuật. Cũng thế, trong việc từ bỏ bản thân, chúng ta cần phải loại trừ lòng tham lam ích kỷ, thanh luyện thói hư và những gì rườm rà để tập trung lo việc nhà Chúa như lời Thánh kinh: ”Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69,10).
2) Vác thập giá mình mà theo Chúa:
Đây là khía cạnh tích cực của việc đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Ngoài việc từ bỏ chính mình, chúng ta còn phải chấp nhận chịu đau khổ là vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Có hai loại đau khổ cần phải mang vác là thập giá và thánh giá:
Thập giá là khổ hình người Roma dùng để trừng trị nô lệ hay lê dân phạm trọng tội chống lại đế quốc. Đức Giêsu đã bị quan Tổng trấn Rô-ma là Pông-xi-ô Phi-la-tô lên án tử hình thập giá do bị áp lực của người Do thái. Đức Giêsu đã biến khổ hình thập giá trở nên thánh giá để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Người mời gọi các tín hữu chúng ta hãy vác cây thập giá của mình hằng ngày mà theo Người để được hưởng ơn cứu độ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sông với Người” (2 Tm 2, 11).
Ai trong chúng ta cũng đều phải vác thánh giá là các đau khổ gặp phải trong cuộc sống. Giáo lý Công Giáo dạy đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bắt đầu là tội Tổ tông và các tội riêng của loài người. Chẳng hạn: Uống rượu nhiều sẽ gây ra ung thư gan… Chúng ta có thể bị chấn thương sọ não trong tai nạn giao thông do tài xế ngủ gục đâm xe vào giải phân cách… Hoặc do chiến tranh đi đường bị trúng bom đạn hoặc do thiên tai như lũ lụt, lở đất, sóng thần… Tuy nhiên vấn đề nói đây là thái độ chúng ta phải có khi gặp đau khổ: Ta sẽ can đảm chịu đựng phấn đấu vượt qua cơn đau hay chỉ biết than thân trách phận?
3) Vững lòng cậy trông phó thác khi gặp đau khổ:
Các tín hữu thực sự tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau, thì sẽ sẵn sàng chấp nhận thua thiệt mất mát và ngay cả mất mạng sống ở đời này, vì tin rằng Chúa sẽ đoái thương bù đắp gấp bội là hạnh phúc Nước Trời đời sau. Một bạn trẻ muốn lên đại học, nhưng lại thi rớt, cũng đừng nản lòng thất vọng. Hãy chấp nhận thập giá là sự thất bại nhất thời và hy vọng Người sẽ ban một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Một người muốn có một gia đình hòa hợp hạnh phúc và làm ăn tấn tới, nhưng chẳng may gia đình luôn bất hòa và công việc làm ăn không mấy suông sẻ… thì cũng đừng nản lòng, vì Thiên Chúa cha giàu lòng từ bi thương xót có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Người luôn ban ban cho chúng ta những điều tốt lành như lời Chúa Giêsu: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
Thiên Chúa để cho chúng ta phải chịu các đau khổ trong cuộc sống là để thử thách đức tin của chúng ta. Người muốn chúng ta vui vẻ đón nhận những điều trái ý cực lòng để chúng ta học tập nơi Đức Giêsu: Luôn vâng theo ý Cha như Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Thánh Phao-lô tông đồ cũng chia sẻ kinh nghiệm chịu đau khổ như sau: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái “dằm” đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuôi, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).
4. THẢO LUẬN: 1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ hôm nay? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác theo chân Chúa là những gì? 3) Gặp một người đau khổ tuyệt vọng vì bị thất bại tán gia bại sản không còn thiết sống, bạn sẽ động viên họ thế nào để vui sống trở lại?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa luôn có thái độ bình thản trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến. Chúa đã vui lòng chấp nhận thua thiệt để nêu gương can trường cho chúng con. Hiện nay, vẫn đang có nhiều tu sĩ nam nữ tận hiến phục vụ những người bệnh tật, đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.
- Lạy Chúa Giêsu. Khi nhìn lại bản thân, chúng con cảm thấy xấu hổ khi thấy mình quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân và bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh gần bên. Xin Chúa giúp chúng con biết luôn “bỏ mình”: nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn, để khiêm tốn phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ. Xin cho chúng con chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và bước theo chân Chúa lên Núi Sọ, để cùng chịu chết, cùng được an táng với Chúa và ngày thứ ba sẽ được cùng sống lại với Chúa trong vinh quang.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.Đau khổ của người Kitô hữu--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Người ta vẫn cho rằng Kitô giáo thật là phi lý, thật là mê tín khi đi tôn thờ một người chịu đóng đinh trên thập giá. Tuy nhiên, còn hơn nữa, Chúa Giêsu còn bảo: “Ai muốn theo Thầy hãy vác Thập giá mình mỗi ngày mà theo Thầy” (Mt 16,24).
Phải chăng Kitô giáo là tôn giáo đề cao sự đau khổ?
Không, tuyệt đối là không có chuyện Kitô giáo đề cao đau khổ, kiểu tương tự như phái khắc kỷ. Họ cho rằng đời này, thân xác này là xấu xa, cho nên cần phải hãm dẹp nó, phải hành hạ nó.
Để trả lời trước hết chúng ta cần phân biệt có hai thứ đau khổ. Một thứ rất cần thiết và một thứ không cần thiết.
Thứ đau khổ không cần thiết, như đau khổ mà ta mang lại cho người khác do sự ích kỷ của chúng ta; như việc ta hãm hại người khác, gây đau khổ cho người khác. Cũng có thứ đau khổ không cần thiết cần xa tránh như do ta thờ ơ, lười biếng, ngu dốt. Chẳng hạn như cậu học sinh lười biếng không muốn học hành gây ra việc thi rớt; như người cứ sống hưởng thụ rồi gánh lấy hậu quả của nghèo đói bệnh tật.
Còn thứ đau khổ cần thiết như sự đau khổ cần có để tăng trưởng, để thành công. Đó có thể kể như sự khổ luyện để đạt tới một thành công nào đó. Chẳng hạn như, học sinh muốn thành tài, thì phải hy sinh những giờ chơi mà chăm lo học hành. Khi muốn phát triển tư cách, nhân đức, chúng ta phải tu luyện, hãm dẹp các đam mê, chiến thắng tính lười biếng, ích kỷ... Cũng có sự đau khổ cần thiết như hy sinh tiền bạc thời giờ để giúp đở người khác, để chu toàn bổn phận của mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến những đau khổ cần thiết liên hệ đến cả vận mạng cuộc đời chúng ta. Ngài dạy: “Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất và ai chịu mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sống” (Mt 16,25). Người muốn giữ mạng sống mình ở đây là người sẵn lòng chịu những đau khổ cần thiết, sẵn lòng chịu đến mức mất cả mạng sống đời này.
Điều mới mẻ và quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu hệ tại chính chữ "vì Thầy". Sự đau khổ mà ta sẵn lòng chịu đó là vì Chúa, vì Thiên Chúa. Đối với thế gian, người ta chịu đau khổ cần thiết để đạt được một thành công một hạnh phúc nào đó của thế gian, như quyền lực, tiến tài, danh vọng. Nhưng đối với Kitô hữu, sẵn sàng chịu đau khổ lại là vì Thiên Chúa, và vì cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
Người Kitô hữu được mời gọi vác thập giá là để theo Chúa Giêsu, như lời Ngài dạy: "Ai muốn theo Thầy, thì hãy bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,24).
Sau năm 1975, Việt Nam hết chiến tranh, một chú bộ đội, vốn từ hồi còn thanh niên sống trong núi rừng, bây giờ mới về thành thị. Chú vào nhà một gia đình Công giáo. Chú ngạc nhiên trợn mắt khi thấy ngay trên bàn thờ phòng khách một thánh giá to lớn. Chú hỏi: “Ông này có tội gì nặng mà bị hành hình dữ tợn như vậy. Ông bị treo lên, bị đóng đinh chân tay vào cây gỗ; đầu ông lại bị gai đâm sâu vào nữa chứ!” Vị chủ nhà trả lời: “Đó là Chúa Giêsu, chúng tôi tôn thờ”. Chú bộ đội hỏi lại hỏi: “Đạo gì mà lại tôn thờ một người bị xử tội như thế?”
Thế gian, sẽ thấy chúng ta mê tín, khi đi tôn thờ cây Thánh Giá. Chúng ta, thật ra, tôn thờ Thiên Chúa vì ơn cứu độ của Ngài thực hiện qua cuộc tử nạn trên thập giá. Chúng ta nhận ra vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá. Ngài đã chịu đau khổ đến tận cùng, trong sự chịu sỉ nhục tận cùng.
Tuy nhiên, người Kitô hữu không dừng lại ở việc chiêm ngắm, tôn thờ mà còn được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, tức là sống noi gương Ngài. Noi gương Ngài chịu đau khổ, chịu chết để dâng lên Thiên Chúa hiến lễ tình yêu.
Mẹ Têrêsa Calcuta và những vị thánh khác đã chịu nhiều khổ nhọc, hy sinh, để giúp đở những người yếu đau bệnh tật, bị xã hội bỏ rơi, là cũng vì Chúa, cũng vì muốn theo gương Chúa Giêsu. Và khi làm theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cảm thấy được hạnh phúc phát sinh. Những niềm vui hạnh phúc đã bắt đầu phát sinh ngay cả ở đời này khi ta chịu đau khổ vì tình yêu, khi ta muốn dâng hiến vì tình yêu.
Kitô giáo không phải là tôn giáo đề cao đau khổ, nhưng dạy đấu tranh chống đau khổ bằng sự chấp nhận những đau khổ cần thiết để xây dựng con người xây dựng cuộc sống, làm cho cuộc sống được tốt đẹp hạnh phúc hơn. Và hơn nữa, người Kitô hữu sẵn lòng chịu khổ hình là vì chính Thiên Chúa và sống theo gương Chúa Giêsu, và vì sự sống hạnh phúc muôn đời mà Thiên Chúa muốn dành cho con người chúng ta.
13.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Điều gì, cái gì, hay ai đang quyến rũ bạn và tôi? Tại sao lại đặt câu hỏi như vậy? Vì chúng ta biết, trong xã hội chúng ta đang sống, có quá nhiều thứ đang được “quảng cáo” để quyến rũ và làm mê hoặc chúng ta như: địa vị, danh vọng, quyền lực, sắc đẹp, tiền bạc, của cải,…không những thế, mưu mô của ma quỷ, thế gian và yếu đuối của xác thịt trong thân phận con người cũng luôn xúi giục và lôi kéo chúng ta. Nếu chúng ta chiều theo những thứ quyến rũ và cám dỗ đã nêu trên, thì hậu quả là gì nếu không phải là tội lỗi và sự chết. Thế nhưng, cũng có Đấng cũng đang muốn quyến rũ bạn và tôi đó là chính Thiên Chúa và một cách thức rất đặc biệt mà Chúa dùng để quyến rũ đó Lời Hằng Sống của Ngài. Vậy thì, khi chúng ta để cho “Thiên Chúa và Lời Hằng Sống quyến rũ”, đi theo và làm theo thánh ý Chúa, thì chúng ta sẽ được gì và sẽ trở nên như thế nào?
Trong bài đọc 1, Giêrêmia đã thốt lên “Lạy Chúa, Chúa đã quyến dụ tôi”. Thật vậy, Chúa đã quyến dụ Giêrêmia để ông trở nên ngôn sứ cho Thiên Chúa. Ngay từ ban đầu, khi được Chúa kêu gọi, ông đã không muốn và chẳng có gì hứng thú với lời mời đó cả; nhưng rồi Lời Chúa cứ rỉ tai và thúc giục, nên Giêrêmia đã miễn cưỡng nhận lời và nói “Chúa đã quyến dụ được tôi”. Khi đi làm ngôn sứ, dần dần trong sứ vụ, ông đã nhận thấy đây là một sứ mạng rất nặng nề, vì ông đã nếm và trải nghiệm không biết bao nhiêu là đau khổ, cho đến mức ông đã lên tiếng kêu trách Chúa. Tại sao Chúa dường như bỏ rơi Giêrêmia để cho người ta kinh bỉ và chống đối ông như vậy? “Suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi, Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo”. Có lúc tưởng chừng Giêrêmia cũng muốn bỏ cuộc và rút lui vì “lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa”. Thành quả sau hành trình phục vụ đạt được thì ngoài sức tưởng tượng, Giêrêmia đã trở nên một vị ngôn sứ thành công và vĩ đại, ông đã chu toàn sứ vụ và trọng trách mà Chúa trao ban, tất cả chính Thiên Chúa là Đấng đã ban cho ông sức mạnh.
Bài Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu cũng đang đưa ra lời kêu mời-quyến dụ chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”. Theo suy nghĩ thông thường của con người, khi Chúa Giêsu muốn kêu gọi và chiêu mộ người nào với cách thức như vậy, thì chắc chắn 100% là Ngài sẽ thất bại. Vì ai lại khờ dại đến mức để mà từ bỏ tất cả, rồi đi theo một người, và kết cuộc thì mình phải chịu đau khổ, chịu sỉ nhục, cực hình và ngay cả phải chịu chết? Vì con người, với bản năng sinh tồn, ai trong chúng ta cũng muốn tìm cho mình sự an toàn, tìm cho mình một chỗ đứng, địa vị, hay công ăn việc làm nào đó mà nó có thể đem lại cho chúng ta sự thoải mái, nhiều tiện lợi và có nhiều thứ ưu đãi tốt…Vậy thì chúng ta thử hỏi, tại sao Chúa lại đưa ra lời mời gọi và khuyến dụ này cho các môn đệ và cho chúng ta? Từ bỏ, hy sinh, chịu chết chính là Thánh ý Chúa, là con đường và là sứ mạng yêu thương, cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Kế đến, Chúa không khuyến dụ con người với những lời mời gọi hoa mỹ, những lời hứa ở trần gian để rồi con người phải thất vọng mà cho rằng mình bị Chúa phỉnh gạt hay lừa mình.
Để kêu mời-khuyến dụ chúng ta, Chúa Giêsu đã không chỉ mời gọi hay dạy dỗ, mà Ngài đã đi bước trước, nêu gương và thực thi cho chúng ta. Chính Chúa đã chọn con đường thập giá, hy sinh này để làm gương và trở nên mô phỏng cho chúng ta những ai muốn sống và trở nên giống như Ngài. Thật vậy, hơn hai ngàn năm qua lời kêu mời-quyến dụ của Chúa vẫn cứ đang rỉ tai và thúc giục nhiều người trong chúng ta. Thử hỏi, tại sao với “lời mời gọi-khuyến dụ điên rồ” cách khác thường của Chúa như vậy, mà vẫn có nhiều con người can đảm mau mắn đáp lại, dám hăng say dấn thân một cách không tính toán để đi theo và làm theo sứ vụ mà Chúa trao ban? Thật không thể hiểu được, tại sao Chúa lại chinh phục được chúng ta với những cách quyến dụ như vậy?
Đúng như lời Thánh Vịnh 62 đã xướng lên “Lạy Chúa, là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa”. Con người luôn khao khát Chúa và Lời của Ngài, vì chúng ta không bao giờ thỏa mãn với bất cứ hạnh phúc nào ở trần gian này cho đến khi chúng ta tìm gặp Chúa, sống và làm theo thánh ý cũng như sứ vụ Chúa trao; dẫu biết rằng theo Chúa là đối diện với bao nhiêu khó khăn, thử thách và ngay cả việc hy sinh chính mạng sống của mình. Các Thánh Tông đồ, các Thánh Tử đạo, và biết bao nhiêu vị Thánh, tất cả các Ngài đều đã bị Lời Chúa quyến rũ, chinh phục mà can đảm dấn thân theo Chúa để sống trọn vẹn với sứ vụ mà Chúa trao ban.
Thưa ACE, như vậy hôm nay khi nghe Lời Chúa mời gọi-quyến dụ mỗi người chúng ta, chúng ta có thể mau mắn đáp trả, hay còn chần chờ gì không? Nếu còn lưỡng lự hay chần chờ chưa dám dấn thân thì; Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã mời gọi chúng ta “Tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa”. Làm sao để chúng ta cũng có thể trở nên giống như Phaolô để có thể theo Chúa và sống trọn vẹn cho Ngài? Lời khuyên, kinh nghiệm và mẫu gương của Phaolô “Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo”.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con hôm nay khi nghe được tiếng Chúa kêu mời-quyến dụ, xin cho chúng con biết hăng say, can đảm dấn thân đáp trả và theo Chúa. Xin gia tăng sức mạnh ân sủng và tình yêu Chúa cho con, vì với ơn Chúa chúng con sẽ sống chu toàn sứ vụ Chúa trao với lòng tín thác và tin yêu. Amen.
14.Dám lội ngược dòng--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Nếu nói về khát khao, ước mong muốn theo thầy Giê-su, thiết nghĩ hầu như ai trong chúng ta cũng có, dù ít hay nhiều. Nhưng theo thầy Giê-su thật sự là thế nào thì không nhiều người biết. Và chính vì không nhiều, nên ít người thật sự bước theo thầy Giê-su!
Trong bài Tin mừng hôm nay, chẳng ngẫu nhiên mà Đức Giê-su đưa ra điều kiện như một khuôn mẫu hầu trở nên môn đệ của Ngài, đó là “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Dường như thứ tự này không thể đảo lộn: ước muốn làm môn đệ Giê-su, từ bỏ mình, vác thập mình, bước theo thầy Giê-su.
Mặc định, hầu hết chúng ta đều ước ao trở nên môn đệ Chúa. Như vậy, trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hành động từ bỏ mình. Như chúng ta biết, bỏ mình không phải đánh mất chính mình, đánh mất chính ‘bản ngã’ (ego) mà chạy theo làm hài lòng ‘trăm họ, vạn người’, cũng chẳng phải đánh mất căn tính, bản chất con người nơi mình, để cứ thay đổi theo thời thế, xu hướng, xã hội và người khác…Thật ra, chính nhờ ‘bản ngã’ đúng mực, ta mới có thể nói: tôi là ai, tên gì, làm gì, v,v…, và nhờ đó phân biệt được ‘người khác với tôi’, xác nhận ‘tôi khác biệt với muôn loài cây cỏ’ trong thế giới này. Tuy nhiên, nếu ‘cái tôi’ này thai nghén, và dần dần lớn lên to tướng thì có thể khiến chúng ta sẽ không nhận ra Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, không nhân ra tha nhân, và hơn thế, không nhận ra chính bản thân thật sự của mình! Giống như đứa trẻ không được đến trường gặp gỡ bạn bè, học biết sẻ chia, yêu thương, nhường nhìn…, mà cứ được bảo bọc trong bốn bức tường, thậm chí có đủ mọi thứ đồ chơi thô sơ đến hiện đại, thì nó sẽ chỉ biết thế giới này dường như tồn tại một mình nó, và nhỡ ai bước vào thế giới ấy, đụng vào thứ gì đó thì nó cũng cảm thấy khó chịu!
Vậy từ bỏ mình như Chúa mời gọi là sao? Hình ảnh tiên tri Giê-rê-mi-a và Phê-rô cho chúng ta lời giải đáp rõ ràng. Như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chịu chế giễu suốt ngày” (x. Gr 20, 8), chúng ta nhận biết: bỏ mình chính là chịu thiệt thua vì Chúa, vì Lời Chúa, vì Giáo hội, vì lý tưởng sống với tư cách người môn đệ Chúa, với tư cách con cái Chúa. Người ta thường nói “ở đời này, hiền quá sẽ bị bắt nạt, bị thiệt thân thôi!”. Nếu chúng ta ‘hiền lành’ như thầy Giê-su, như Cha chúng ta trên trời thì nên tự hào, thay vì sợ thiệt thòi, hay bị bắt nạt chứ! Hơn nữa, từ bỏ chính mình cũng như lời quở trách Phê-rô của Đức Giê-su “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16, 23). Thay vì can ngăn như Phê-rô - người chỉ nhìn theo lối suy nghĩ con người, bao gồm cả suy tính, thành kiến, quan điểm sai lạc, những đinh ninh cảm tính bất động, suy đoán cá nhân…, thì bỏ mình là lúc chúng ta mở lòng đón nhận Thánh ý Chúa nơi bản thân, qua đời sống, qua biến cố hằng ngày, qua mọi người bất kể thích hay không thích, yêu thương hay ganh ghét, hợp gu hay không, cùng thuộc một nhóm hay không…Trong tiến trình bỏ mình hằng ngày không thiếu những lúc chúng ta buông xuôi, nhục chí, hay bỏ mặc dù trong suy nghĩ như ngôn sứ Giê-rê-mi-a “tôi tự nhủ rằng: sẽ không nhớ đến Ngài nữa, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa…” (x. Gr 20, 9); nhưng thật ra, chúng ta không ‘đơn thân độc mã’, tự thân vật lộn với ý hướng ‘bỏ mình’ đâu, trên hết Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khuyến khích ta qua ơn thánh của Ngài như lời tự nhủ của tiên tri Giê-rê-mi-a “…lúc ấy lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (x. Gr 20, 9)
Một khi đã bỏ mình để trở thành người môn đệ của Chúa, chúng ta tiếp tục nỗ lực thực hiện hành động tiếp theo, đó là: vác thập giá mình. Ở đây, Chúa muốn chúng ta vác lấy chính thập giá của mình trước khi nghĩ đến thập giá của người khác, kể cả vợ chồng, người thân, hội đoàn, cộng đoàn. Thực tế, chúng ta thường xem người khác là thập giá nặng nề của bản thân, điển hình khi cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc “vợ/chồng là thập giá mà tôi phải vác dài dài, có khi cả đời”, rồi trong gia đình “con cái là thập giá nặng nề của bố/mẹ”, và trong cộng đoàn giáo xứ, hội dòng. Thập giá mà được đề cập ở đây có lẽ theo nghĩa rộng, chính là: những gì khó khăn, vất vả, gian nan, khốn khó, những điều trái ý ngược lòng chúng ta, những thử thách trong đời sống đạo, những giới hạn bản thân, những yếu đuối cá nhân đã biết hoặc chưa biết. Như vậy, vác thập giá mình là chấp nhận sự yếu hèn bản thân, đồng thời khiêm tốn đón lấy lời răn dạy, hướng dẫn của Chúa qua Kinh Thánh, qua giáo huấn Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức thánh. Hơn nữa, vác thập giá mình cũng chính là biết cảm thông với tha nhân như Chúa hằng cảm thông, biết quan tâm đến anh chị em như Ngài luôn chăm sóc, nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày qua Lời và Thánh Thể, biết đồng hành với mọi người như Chúa đồng hành với ta luôn mãi như cảm nghiệm sâu sắc của Thánh Phao-lô qua lời khuyên nhủ giáo đoàn Rô-ma: “vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12, 1).
Sau cùng, chúng ta bước theo Chúa Giê-su. Một khi cất bước ra đi làm môn đệ Giê-su, chúng ta đã phải từ bỏ mình hằng ngày, và vác thập giá mình mọi lúc. Ra khỏi con người ương hèn, ích kỷ, xu hướng đổ lỗi, than phiền, cũng như dám bỏ ‘căn phòng chăn ấm nệm êm’ cũng biết bao tiện nghi, thoải mái trong đời mình, là lúc chúng ta can đảm lội ngược dòng của một xã hội không dám bỏ cái tôi, bám víu vào lợi danh, chức tước, địa vị, tiền tài…; và cũng là lúc chúng ta dám trở nên khác biệt vì đức tin, đối lại một thế giới lẫn tránh ‘thập giá’, phê phán tha nhân chỉ vì ngôn ngữ, sắc tộc, màu da, hay không giống với triết lý sống của mình. Có thể chúng ta sẽ cảm nhận được như những gì ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã từng thốt lên “…suốt ngày tôi trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi” (x. Gr 20, 7); nhưng sâu thẳm trong ta, nơi tiếng lòng ta, Chúa hằng khuyến dụ và dẫn dắt ta. Vì vậy, khi bước theo Chúa, chúng ta không thể quên những lời mà Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ giáo đoàn Rô-ma: “…đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo” (Rm 12, 2). Thánh ý Chúa, những gì đẹp lòng Chúa và hoàn hảo không gì khác hơn đã được viết trong phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?” (Mt 16, 25-26).
Chúng ta cùng dừng lại thinh lặng chốc lát, và cùng nhau thầm nguyện rằng:
Lạy Chúa, bao lần con muốn theo Chúa
Nhưng cũng bấy nhiều lần con chưa từ bỏ mình.
Những lúc con muốn từ bỏ bản thân theo Chúa
Con lại chần chừ, chưa sẵn sàng vác thập giá mình.
Thoáng chốc con nhủ lòng vác thử thánh giá
Thế mà đôi chân cứ bất động chẳng bước theo Ngài.
Xin giúp con một lòng khát khao
Nên môn đệ tín trung chứ không thất tín
Nên người bỏ mình chứ không bỏ Chúa
Nên người can đảm vác thập giá chứ không than trách
Nên người hân hoan bước theo Chúa, chứ không chần chừ. Amen!
15.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A nêu bật một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người, vì thế người Kitô hữu phải có một lập trường dứt khoát là không chạy theo xu hướng thời đại, không tìm cách rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a vẫn nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, cho dù sứ điệp ấy ngược lại với bản tính của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Rô-ma sống giữa môi trường dân ngoại: “Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn Thiên Chúa”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô không thể nào chấp nhận ý định của Thiên Chúa theo đó Đấng Mê-si-a phải trải qua đau khổ và sự chết. Nhưng Đức Giê-su khẳng định với thánh nhân: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất.
1. Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị thiêu hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai quan tâm đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Ông trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam. Đó thật sự là một bi kịch diễn ra trong lòng của vị ngôn sứ.
2. Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn hôm nay trích từ “lời trần tình” hay lời tự sự của vị ngôn sứ ngỏ với Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn thống thiết nhất. Đoạn trích nầy nói lên tất cả tấm bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: lãnh nhận sứ vụ mà không thể thoái thác, phân biệt ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với ý muốn của phàm nhân, nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a phân trần với Thiên Chúa về ơn gọi bất khả kháng của mình:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con” (20: 7).
Vốn bản tính hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với con người của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông. Vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị các giới lãnh đạo cả đời lẫn đạo cũng như dân chúng sỉ nhục và chế giễu suốt ngày:
“Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (20: 8)
Đó thật sự là một sự thử thách nặng nề mà ông phải gánh chịu vì sứ mạng của mình. Đôi lần ông muốn thoái thác sứ mạng ấy:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (20: 9a)
Ông đã phải ra sức cố kiềm nén lại, nhưng vô ích, không sao cưỡng kháng được:
“Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc thần linh của nó, và đồng thời quyền năng của nó ngự trị tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về với Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Trong phần nầy, thánh Phao-lô vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế thánh nhân khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích dẫn hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên cô động của thánh nhân: “phụng thờ đích thật” và “đổi mới tâm thần”.
1. Phụng thờ đích thật:
Trong lời khuyên thứ nhất: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, thánh Phao-lô đối lập “của lễ sống động”, tức là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, với “của lễ chết”, tức là những tế vật được hiến dâng thành hy lễ trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ, đó mới thật sự là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính bản thân mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lo ám chỉ đến cái chết gần kề của mình khi viết: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Thiên Chúa, thì tôi vui mừng và chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2: 17).
Dâng hiến chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về từ ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp, được dùng để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.
2. Đổi mới tâm thần:
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần: “Anh em đừng có rập theo đời này, những hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”. Việc đổi mới tâm thần đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập khuôn theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người mình.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Kitô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma. Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Sau khi đã nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Chúa Giê-su loan báo cho chỉ một mình các môn đệ thân tín của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài luôn liên kết viễn cảnh Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây: “Người phải…”, không phải là cái tất yếu của một định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa).
1. Phản ứng của Thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Thánh nhân quan niệm về Đấng Ki-tô (Mê-si-a) vinh quang và toàn thắng. Trong tư tưởng của thánh nhân, những viễn cảnh về một vị vua Ki-tô trần thế bách chiến bách thắng chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phê-rô kéo Thầy mình ra khỏi các bạn đồng môn và nói riêng với Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi muốn lôi kéo cả Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của thánh nhân không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng gói trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chắc chắn chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ và phải chết.
2. Phản ứng của Đức Giê-su:
Tuy nhiên, thánh Phê-rô gặp phải một phản ứng quyết liệt của Chúa Giê-su. Trước đây, Chúa Giê-su đã phản kháng triệt để cơn cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa khi nó ra sức thuyết phục Ngài thực hiện sứ mạng của một Đấng Ki-tô đầy quyền năng chứ không một Người Tôi Trung chịu đau khổ: “Xa-tan, hãy xéo đi”, giờ đây Ngài cũng đáp lại thánh Phê-rô cũng tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”. Từ “Xa-tan” theo tiếng Híp-ri có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.
Với diễn ngữ: “lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống trong tư thế của người môn đệ chứ không tìm cách cản lối Thầy. Ngài muốn thánh Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, cuộc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân trọn vẹn vào trong cùng một vận mệnh với Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
2. Theo Đức Giê-su:
Sau nầy, mỗi lần gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết số phận của các môn đệ vào với vận mệnh Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
Khi sử dụng hình ảnh “thập giá”, không phải Đức Giê-su không gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của từ nầy sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình ảnh thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Hình phạt đóng đinh vào thập giá được chính quyền Rô-ma hành hình tập thể đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem rồi. Thánh Lu-ca, trong một bản văn đối chiếu, đã thêm diễn ngữ chỉ thời gian: “hằng ngày” vào diễn ngữ “vác thập giá” đem lại cho lời công bố của Đức Giê-su nghĩa bóng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23), nghĩa là chấp nhận mọi gian nan khốn khó xảy ra hằng ngày trong cuộc đời.
3. Bài học của mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh:
Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang sâu đậm như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của lời công bố này và ghi khắc lời công bố này vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không bao giờ là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống, bởi vì cuộc Tử Nạn và Phục Sinh là kế hoạch Chúa Cha hoạch định cho Con của Ngài để cứu độ muôn người, như chính Đức Giê-su công bố: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.
4. Đối lập giữa sự sống trần thế với sự sống Nước Trời:
Lời công bố của Đức Giê-su: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” để lại sự phân vân cho người đọc, bởi vì nó diễn tả điều quá thường tình. Tin Mừng không quen với những kiểu nói tầm thường như vậy. Có vấn đề về ngôn ngữ ở đây. Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”, như cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?”. Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn” gợi lên nhị nguyên thuyết Hy-lạp, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng “sinh khí” như trong sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh linh” (St 2: 7). Rõ ràng ở đây Đức Giê-su đối nghịch việc sở hữu của cải vật chất – mà diễn ngữ “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – với việc thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất “mạng sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh: “sự sống đời đời”. Vì thế, bản dịch sát ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”. Câu hỏi mà Đức Giê-su nêu lên: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”, cũng diễn tả theo cùng một tư tưởng: “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày Quang Lâm của Ngài: “Bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để sở hữu Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ - và sau họ, cho tất cả các Kitô hữu không gì khác ngoài việc noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời khẳng định nghiêm túc, không hoa mỹ, nhưng chan chứa niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.
16.Tiền của--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: "Có tiền mua tiên cũng được". Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại Niu-Gioóc, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội phạm tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.
Bức tranh trên đây không hẳn là số phận tất yếu cho sự giàu có nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tiền bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn, trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho cuộc đời, nghĩa là chúng ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, một lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở: "Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?", hoặc "Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích gì?". Qua những lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm lại, hãy dùng tiền của và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống hiện tại mà cho cả linh hồn và cuộc sống mai sau nữa.
Đối với sự vật, người ta có thể nhìn bằng hai cách khác nhau: người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thỏa mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa. Trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.
Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt họ vào. Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá hủy giá trị và ý nghĩa của chúng, đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình. Thực vậy, vì tiền bạc, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác; vì tiền bạc, người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm tiền bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những người anh em túng nghèo khốn khổ hơn.
"Được lợi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn thì ích gì?". Chúng ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó: không bao giờ được quên mối tương quan giữa của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao giờ được quên mới tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau: sẵn sàng hy sinh của cải vật chất để bảo đảm linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược lại: sẵn sàng hy sinh đời này chứ không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cữu. Chúa không cấm chúng ta làm giàu, không cấm chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, bằng một cuộc sống quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là cách đầu tư bảo đảm cho gia nghiệp đời mình mai sau.
17.Trong họa có phúc--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Được và mất là hai điều luôn song hành với nhau. Đây là chân lý của cuộc sống con người. Trong cái được luôn tiềm tàng cái mất; và trong cái mất luôn mở ra cơ hội để được. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ học cách chấp nhận để bình an hơn khi mất và học cách trân trọng những cái mình đang được.
Trong đời sống đức tin giữa đón nhận và từ bỏ luôn song hành. Đón nhận theo ý Chúa thì phải từ bỏ danh lợi thú trần gian. Giữa đón nhận và từ bỏ không phải lúc nào cũng dễ dàng chọn lựa. Vì nhận cái này phải bỏ cái kia luôn làm cho con người tiếc nuối. Thế nên, cần phải biết học cách khi nào đón nhận, khi nào từ bỏ để được bình an. Đón nhận hay từ bỏ chỉ bình an khi làm theo thánh ý Chúa mà thôi.
Có lẽ chúng ta đều từng đọc câu chuyện “tái ông thất mã”. Câu chuyện như sau:
Xưa có một ông già sống ở vùng biên giới phía bắc. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Một hôm ông phát hiện ra rằng con ngựa của ông đã chạy mất sang nước Hồ láng giềng. Hàng xóm cảm thấy tiếc cho ông nhưng ông già nói, “biết đâu nó lại là mang đến một điều phúc?”
Vài tháng sau, con ngựa đã mất tích của ông đột nhiên quay trở về cùng với một con ngựa quý nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông vì điều may đó. Nhưng ông nói “biết đâu nó lại mang đến tai họa?”
Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, và rồi một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và bị què. Hàng xóm đến an ủi ông nhưng ông lại trả lời “biết đâu nó lại mang đến điều phúc?”
Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang xâm lược, và tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân ra trận – kết quả là cứ 10 người đi thì 9 người tử trận. Con trai ông bị què nên được ở nhà và thoát chết.
Nhận có thể trở thành họa, và rồi mất đó lại có thể chuyển thành phúc. Sự chuyển hóa này là vô tận và sự bí ẩn của nó mãi mãi là điều huyền bí đối với nhân loại. Tuy nhiên trong đức tin thì mọi sự cần phải phó thác nơi Chúa. Thiên Chúa có thể rút ra một điều tốt từ cái xấu. Anh em nhà Gia-cóp đã bán em sang Ai-cập là điều xấu. Thế mà, Thiên Chúa lại dùng điều ấy để cứu dòng tộc Israel khi cho Giuse làm quan lớn trong triều đình Ai cập.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thanh. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Đôi khi chúng ta vẫn tự hỏi: tôi từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa thì tôi được gì? Tôi bước đi theo con đường của Chúa tôi sẽ được gì?
Thực ra, từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa không đương nhiên là nghèo khó mà chắc chắn là được Chúa chúc phúc đời này và cả đời sau. Vì ý Chúa luôn mời gọi con người hoàn thiện mình và sống có ích cho tha nhân. Vì ý của Chúa luôn mang lại niềm vui của tâm hồn an bình, thanh thản. Ý Chúa sẽ giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn trong cuộc đời của mình. Chính sự bình an, hạnh phúc mới là giá trị đích thực mà con người phải tìm kiếm. Nó có giá trị cao hơn hẳn những danh lợi thú mà lại không có bình an.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm từ bỏ con đường dễ dãi của bản thân để đi theo tiếng nói của Chúa dạy bảo qua lời Chúa và qua tiếng lương tâm. Xin đừng vì những danh lợi thú mà đánh mất hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.
18.Đau khổ và hạnh phúc--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời luôn có đau khổ và hạnh phúc. Hai trạng thái này luôn đan quyện vào một đời người. Con người vốn dĩ sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy đời người, còn hạnh phúc lại thật mong manh.
Phật Thích Ca khi nhìn vào cuộc đời chỉ thấy toàn là bể khổ. Sinh - bệnh - lão - tử dường như là định mệnh bể khổ dành cho con người. Phật Thích Ca đã đưa ra một con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ. Đó là con đường diệt dục. Diệt mọi lòng ham muốn mới mong tìm được hạnh phúc.
Biết bao nhà lãnh tụ các quốc gia luôn nỗ lực hạn chế nỗi khổ và gia tăng niềm vui hạnh phúc cho người dân.
Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giêsu đề nghị ta hãy đi vào đau khổ? Phải chăng Ngài chỉ muốn các tín đồ của Ngài sống trong đau khổ?
Nhìn vào cuộc đời của Chúa, đó là một cuộc đời đi vào đau khổ. Từ trời cao Ngài đã đi vào dòng đời trong thân phận con người. Sinh ra trong thân phận thấp hèn, nghèo khó, thuộc giai cấp cùng đinh và hòa lẫn trong giới lao động cùng khổ. Ngài đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là hiện diện cùng với những con người đau khổ. Suốt 30 năm sống đời ẩn dật trong một xóm nghèo lao động. Phải chăng Ngài đã phí thời gian khi ở với gia đình, khi cùng với cha mẹ lao động để kiếm sống như bao con người khác? Tại sao Ngài đã làm phép lạ hóa bánh nuôi trên năm ngàn người ăn mà lại phải chắt chiu từng hạt cơm, chén mắm từ công thợ khi có khi không?
Bài Phúc âm hôm nay còn cho thấy, khi danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Uy tín Ngài đã bao trùm mọi nơi. Khi mọi người chỉ còn chờ Ngài đi vào thành Giêrusalem là họ sẽ tung hô Ngài làm vua để giải thoát dân khỏi cảnh đói khổ lầm than. Thế mà Ngài lại nói đến đau khổ và sự chết. Ngài còn đòi hỏi các môn sinh của mình phải từ bỏ danh lợi thú để đi vào con đường thập giá, con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Ngài lại mời gọi đi vào.
Tuy nhiên, con đường Chúa Giêsu đi không dừng lại ở đau khổ và sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Ngài chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa mồ của sự chết sẽ khép lại toàn bộ sự nghiệp của Ngài đã vun trồng. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã đi qua sự chết để mở ra cánh cửa phục sinh vinh hiển. Giá trị đau khổ Ngài chịu đã đem lại niềm vui cứu độ cho toàn thể nhận loại. Sự chết của Ngài đã khai mở cánh cửa thiên đàng cho tất cả những ai tín trung theo Ngài.
Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ thiên tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình và với xã hội.
Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.
Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý thức và trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài sức và trí tuệ của mình để đem lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây Thập giá đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.
Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen.
19.Từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, dân chúng tụ tập đông đảo tại quảng trường để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết.
Mở đầu chương trình, Chúa Giê-su bước lên diễn đàn và được đám đông chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Phần đông trong họ đã từng nghe danh Chúa Giê-su nhưng chưa từng được diện kiến.
Sau khi giới thiệu cho mọi người về Nước Thiên Chúa, về điều răn trọng nhất… Chúa Giê-su cất tiếng mời gọi: “Có ai trong các con muốn theo Thầy không?”
Vì biết rằng Chúa Giê-su là Đấng cứu độ đầy quyền năng, ai theo Ngài sẽ được nhiều hồng phúc, nên mọi người đều hớn hở vui mừng, giơ tay cao và đứng lên hô lớn: “Con, con, con xin theo…”
Thế rồi, Chúa Giê-su lại nói tiếp: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi…”
Nghe nói đến việc “từ bỏ mình”, nhiều người cụt hứng, hạ tay xuống.
Để giải thích lý do tại sao phải từ bỏ mình, Chúa Giê-su nói: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”
Nghe nói đến “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, mọi người hụt hẫng…
Rồi Ngài thuyết phục: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Lời này khiến nhiều người suy nghĩ và phân vân, nhưng vẫn còn do dự, chưa quyết.
Chương trình được tiếp nối với bài nói chuyện của Thần Tài. Vừa thấy Thần Tài xuất hiện, đám đông hò reo tưng bừng và vỗ tay cuồng nhiệt.
Sau khi đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vinh quang của quyền lực, sự cuốn hút của lạc thú đời này… Thần Tài lên tiếng mời gọi: “Ai theo tôi sẽ được giàu có, quyền lực, hạnh phúc, lạc thú… ở đời này, chỉ ở đời này mà thôi!”
Thế là có đông người vỗ tay tán thưởng Thần Tài và hăm hở đi theo ông ta.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu chúng ta may mắn có mặt trong cuộc diễn thuyết hôm ấy, chúng ta sẽ theo ai?
Và hôm nay, khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê-su vọng lại qua trang Tin mừng này, chúng ta sẽ quyết định thế nào?
- Một là say mê theo đuổi danh vọng, giàu sang, lạc thú đời này bất chấp sự sống đời sau;
- Hai là liều mất mạng sống vì Chúa Giê-su để được tận hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Danh vọng, giàu sang, phú quý đời này có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nếu không phải là người có bản lãnh cao, nếu không phải là người khôn ngoan sáng suốt, thì khó thoát khỏi sự lôi cuốn của chúng.
Nghĩ cho cùng, nếu đời sống con người chỉ vỏn vẹn 100 năm trên dương thế này mà thôi, chẳng có đời sau, thì chọn theo Thần Tài, đua tranh tìm kiếm giàu sang, lạc thú đời này là điều chính đáng.
Tuy nhiên, so với đời sau thì cuộc đời này chỉ kéo dài trong gang tấc, còn cuộc sống đời sau là thiên thu vạn đại. Vì thế, mải mê tìm kiếm hạnh phúc thoáng qua đời này mà đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu mai sau thì thật là vô cùng đáng tiếc.
Nếu cuộc sống đời này có giá bằng một đồng tiền vàng thì giá trị cuộc sống đời sau phải tỷ lần cao hơn. Vì thế, ham muốn chiếm lấy một đồng trước mắt mà đánh mất tỷ đồng trong tương lai là sai lầm hết sức tai hại.
Như thế, lời dạy của Chúa Giê-su: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?” là một bài học khôn ngoan cần ghi tâm khắc cốt và phải là châm ngôn, là ánh sáng soi đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
“Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
Hôm xưa, Phan-xi-cô Xa-vi-e vốn là người ham mê tìm kiếm danh vọng đời này, nhờ được nghe lời dạy này của Chúa qua miệng thánh I-nha-xi-ô, nên đã từ bỏ vinh hoa phú quý, rời xa kinh thành Paris hoa lệ, vượt đại dương loan báo Tin mừng cho dân tộc Ấn-độ, Sri-lanca, Malaysia, Nhật Bản… nhờ đó, ngài đã đem ơn cứu độ cho muôn vạn người Châu Á và được toàn thể Hội thánh Chúa ca ngợi, tôn vinh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời vàng Chúa dạy, sẵn sàng hiến thân phục vụ Chúa và mọi người, chấp nhận từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau. Amen.
20.Đầu tư cho cuộc sống mai sau--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi nầy.
Cái tôi như một quả bong bóng mà cá nhân mỗi người cố thổi cho phồng lên tối đa.
Cái tôi như một trung tâm điểm mà tất cả mọi năng lực của bản thân đều quy về đó.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác...
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
8,766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.
Châm ngôn của người ta là: Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Người ta chăm lo vun quén cho thân xác thật sung mãn như những đứa bé thi nhau thổi ra những chiếc bong bóng xà phòng trông thật long lanh và hấp dẫn... nhưng rồi... bụp, bụp, bụp..., bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, đua nhau nổ tan tành chẳng còn chi.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực... đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:
"Trăm năm còn có gì đâu?
"Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!"
Tiếc thay, ngay nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giêsu dạy: "quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất"; và cho dù người ta có thu tóm "được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
* * *
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là "một nấm cỏ khâu" hay đơn giản hơn, là "một lọ tro tàn" thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai dại dột đến nỗi đầu tư kiểu đó không??
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị một giải pháp tốt. Người dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư theo hướng tâm linh, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.
"Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?"
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân quyết dồn mọi nỗ lực để phụng sự thân xác, muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: "Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
Anh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phanxicô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
"Từ bỏ chính mình" tức là đừng lấy thân xác làm mục tiêu cho mọi phấn đấu, mọi nỗ lực của ta; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
"Vác thập giá mình" là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác- sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương - để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Chúa Giêsu đã đầu tư đời Người theo hướng đó và Người đã đạt tới vinh hiển khải hoàn. Hôm nay, Người muốn chúng ta đầu tư theo hướng Người đã đầu tư, bước đi theo con đường Người đã bước, để chúng ta được chung hưởng vinh hiển như Người.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.
21.Học suy nghĩ và hành động theo Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm, một chứng nhân vĩ đại và là thầy dạy Đức tin có tên là Phêrô. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu. Thực sự, Phêrô không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, ông là con người bằng xương bằng thịt với những đức tính, khuyết điểm và yếu đuối như chúng ta. Có thế, ông mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng, tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Nếu như trong đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ông được khen là người "có phúc" (Mt 16, 16), kèm theo lời hứa: "Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời". Thì hôm nay, ông bị khiển trách nặng nề: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người " (Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa và bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế.
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
Học suy nghĩ và hành động theo ý Chúa?
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải "đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba" (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao "Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy" (Mt 16, 22). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận Thánh giá. Vì Thánh giá là biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Đúng là: "Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi" (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô.
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Chúa.
Học từ bỏ
“Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng … là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Vác thập giá để theo Chúa
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, chịu mất mạng sống là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
22.Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau lời tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) Simon con ông Giona được khen là người "có phúc" (Mt 16, 16), vì được Chúa Cha, "Đấng ngự trên trời mạc khải cho" (Mt 16, 16-17). Lời khen kèm theo lời hứa: "Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời". Nhưng liên sau đó ông bị khiển trách nặng nề vì đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người "(Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa.
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được ý tưởng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, họ thực sự không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, họ nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Vì đã đọc Tin Mừng, nên chúng ta thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia đến hiến mạng trên thập giá vì chúng ta như lời tiên tri Isaia đã báo trước. Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải "đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba" (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy" (Mt 16, 22).
Đúng là: "Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi" (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm"(Mt 16, 23).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không cho để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: " Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống" (Mt 16, 24).
Chúng ta tự hỏi: "Từ bỏ" mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Chúng ta đang sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đã đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ "điều chúng ta là", nhưng điều "chúng ta đã trở nên". Chúng ta là những hình ảnh Thiên Chúa, chính Thiên Chúa thầy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là "ảnh dưới đất", ngược với "ảnh trên trời", giống như Chúa Kitô. Do đó "từ bỏ chính chúng ta", là từ bỏ ý loài người mà mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra làm sao giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đanh. Con đường "đánh mất chính mình", để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường "đánh mất chính mình", là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình" (Đức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính minh, vác thập giá mình và theo Thầy" (Mt 16, 24). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, "đánh mất đi sự sống" là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: "Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo" (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
23.Từ bỏ vì Yêu Chúa—Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Ngày 04/09/2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và "Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội". Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26/8/1910 tại Nước Albanie (An-ba-ni). Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto (Lo-rê-tô) ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ. Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.
Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi”. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn, chọn lựa giữa tốt xấu, trắng đen của thiện ác. Nhà đạo thường nhắc đến 3 thù là Ma quỷ, thế gian và xác thịt. Ma quỷ có thể thắng lướt, thế gian có thể rời xa, nhưng thân xác thì luôn gắn bó đến hơi thở cuối đời, cùng với nhu cầu và những đòi hỏi không ngừng của nó. Nhà Phật đã chỉ ra tam độc của Tham, Sân Si. Còn các đạo vẫn thường nói về Danh, Lợi. Danh vọng, quyền lực, sắc dục luôn là những vấn nạn của muôn thuở nhân sinh. Nhưng chúng ta phải vượt qua được những cám dỗ bằng sự từ bỏ mình vì hạnh phúc cho chính mình và tha nhân theo mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu.
Cụ thể, chúng ta nhớ những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa: cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn (xác thịt): "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!" (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa. Rồi, cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi" (Đnl 6, 13). Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng "Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Nên hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi là vậy.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta vì như lời Ngài đã nói được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì. Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi từ bên trong ra bên ngoài hầu “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để chúng ta thờ phượng Người. Chúng ta đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người chúng ta bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo để chỉ vì yêu Chúa và mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Amen.
24.Sống mầu nhiệm Thập Giá--Lm. Hồng Phúc
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1, 24).
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
25.Vác Thập Giá--Lm. Trầm Phúc
Sau khi củng cố đức tin của các môn đệ ở Xêdarê-Philipphê, Chúa Giêsu dẫn các ông từ từ đi vào thực tế của sứ mệnh Ngài. Ngài phải làm công việc mà Cha Ngài đã định và các môn đệ cũng phải góp phần.
Ngài cho biết những gì đang chờ đợi Ngài: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết…”. Những lời tiên báo này đã được các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng không phải hoàn toàn là những lời tiên báo của chính Chúa Giêsu mà do thánh Matthêu và các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào sau khi Chúa đã sống lại. Nhưng việc tiên báo vẫn là của Chúa Giêsu, vì Ngài muốn chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ để họ khỏi ngạc nhiên khi mọi chuyện xảy ra. Chúng ta không cần phải đi vào chi tiết mà chỉ tìm hiểu xem Chúa muốn dạy chúng ta điều gì.
Đức Cha Fulton Sheen đã viết về cuộc đời Chúa Giêsu đã nói ngay từ trang đầu tiên: Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết. Chính cái chết của Ngài là nguồn sống của chúng ta. Chúa Giêsu có biết về cái chết của Ngài như thế nào không? Nhiều người bảo rằng Ngài chỉ biết mơ hồ thôi, nhưng nếu chúng ta đi vào những tường thuật của các sách Tin Mừng về cuộc tử nạn sẽ thấy rằng Chúa biết rõ và đã nài xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống chén và Ngài đã mướt mồ hôi máu khi nghĩ đến đó. Như thế chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ Ngài phải chịu khổ hình như thế nào và đã chấp nhận “không theo ý Con mà theo ý Cha”. Và Ngài cũng biết trước là Ngài sẽ sống lại. Vì thế Ngài luôn kèm theo lời tiên báo sẽ sống lại. Ba ngày là một thời gian không xác định mà chỉ hiểu là một thời gian ngắn.
Phêrô nghe Thầy báo trước như thế đã can thiệp. Ông không thể chấp nhận được Thầy phải gặp số phận đau đớn như thế. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì ông là người Do Thái. Đa số người Do Thái vẫn trông chờ Đấng Cứu Thế, một vị Mêsia oai hùng chiến thắng sẽ khôi phục nhà Israel, đem lại cho dân Chúa một vị trí hàng đầu trong thế giới. Ông vừa tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, thì tất nhiên trong trí ông, Thầy phải được vinh quang. Phản ứng của Chúa Giêsu thật mạnh và bất ngờ: “Xatan, lui ra đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người!” Xatan ở đây không thể hiểu là quỷ dữ mà là chướng ngại.
Tư tưởng con người bao giờ cũng nghĩ đến giàu có, vinh quang, thành công, sung sướng. Chúa Giêsu cho Phêrô thấy rằng thành công của con người không phải là ở trần gian này. Không phải chỉ có giàu sang mới là hạnh phúc.
Chúng ta cũng như Phêrô thôi. Chúng ta chỉ ham trần gian mà không nghĩ đến cái gì cao quí hơn. Chúng ta bảo vệ quyền lợi cá nhân của chúng ta mà quên đi những gì quan trọng hơn. Và vì thế, sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Đây là điều kiện của Chúa. Nhưng bỏ mình là gì? Rất nhiều chuyện phải nói về việc bỏ mình, nhưng chúng ta chỉ cần hiểu đơn sơ là không còn theo ý mình nữa mà theo ý Chúa, như Chúa Giêsu vâng phục ý Cha và làm theo ý Cha Ngài trong mọi sự, vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập giá. Đó là bỏ mình triệt để. Chúng ta có dám như thế không?
Một linh mục tâm sự: “Khi tôi mới chịu chức, tôi được nghỉ một tháng. Sau khi nghỉ, tôi đến dòng Thiên An, ở Huế tĩnh tâm ba ngày để chuẩn bị lãnh sứ vụ. Sau ba ngày yên lặng, tôi xin gặp cha tập sư là một cha người Pháp để xin ngài vài lời khuyên. Ngài ngồi trước mặt và hỏi: “Cha ở đâu và cha muốn gặp tôi để làm gì?” Tôi xin cha cho tôi một vài lời khuyên. Ngài nhìn thẳng vào mặt tôi một lúc rồi nói: “Cha sẽ được nhiều người thương mến… Bỏ mình! Bỏ mình! Bỏ mình!” Rồi ngài đứng dậy lẵng lặng ra đi. Ba tiếng đó đã khắc ghi trong tôi suốt bao nhiêu năm làm linh mục, và nó đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Chỉ cần bỏ mình vâng theo ý Chúa thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Chỉ một điều khó là chúng ta ngại bỏ mình. Chúng ta vẫn thương và cưng chiều cái tôi của chúng ta. Ai cũng phải theo định luật đó mới mong làm được một cái gì đó cho Chúa và cho anh em. Những người có gia đình càng phải bỏ mình nhiều hơn các tu sĩ vì phải làm cho gia đình hạnh phúc. Không biết bỏ mình sẽ không thể xây hạnh phúc.
Xem ra Chúa Giêsu mâu thuẫn. Bỏ mình là một mất mát lớn, nhưng lại là nền tảng cho cuộc sống. Sống là cho đi chứ không là chiếm hữu. Càng cho đi, chúng ta càng thấy sung mãn. Chúa Giêsu đã là một tấm gương không thể so sánh vì Ngài đã cho đi tất cả và trở thành căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta.
Chúng ta có muốn theo Chúa không? Theo Ngài phải vác thập giá như Ngài. Thập giá không phải chỉ là một cách nói, hay là một đồ trang trí mà là khúc gỗ mà tử tội phải vác đi đến nơi hành hình. Ngài biết rõ Ngài phải chịu treo trên thập giá. Trong câu chuyện với Nicôđêmô, Ngài đã nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời”. Nơi khác Ngài cũng nói: “Phần tôi, một khi đã được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi”. Vác thập giá để theo Chúa không là một trò chơi mà là một dấn thân triệt để đến chết. Vì thế Chúa nói với Phêrô: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chấp nhận mất đi để tìm được sự sống, không phải sự sống vật chất mà sự sống thật, sự sống không tàn phai theo ngày tháng mà sung mãn tràn trề hạnh phúc. Trần gian này có gì để chúng ta ham?
Thánh Phaolô nói: “Bộ mặt thế gian này qua đi”. Kho tàng trần gian có là gì, và “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì có lợi gì?” Có lẽ những người nhiều của cải trông cậy sẽ để lại cho con cháu hưởng nhờ, nhưng họ cũng phải qua đi, con cháu họ cũng sẽ qua đi. Thân phận tro bụi vẫn trở về tro bụi. Còn chúng ta, kho tàng chúng ta ở trên trời. Cuộc đời chúng ta không kết thúc trong hư vô mà trong vinh quang nếu chúng ta dám theo Chúa, tin vào Ngài thôi, dám bỏ tất cả vì Ngài. Các thánh đã làm như thế và các ngài đang vinh quang bên tòa Con Chiên.
Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố Ngài sẽ chịu nhiều đau khổ và bị giết, nhưng Ngài sẽ sống lại, “vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Chúa Cha cùng với các thiên sứ của Người và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”. Đây là những lời đầy hứa hẹn cho chúng ta, những người dám bỏ mình, vác thập giá theo Ngài. Nhưng chúng ta có dám theo Chúa không? Chúng ta dám bỏ mình không? Hãy nhìn Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta vào hạnh phúc mà chúng ta đang ước mong.
Đường còn dài, chúng ta ngại bước. Nhưng hãy nhớ rằng thánh Phaolô dạy rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta!” Thánh vịnh cũng dạy chúng ta rằng: “Gieo trong nước mắt sẽ gặt giữa ca mừng”. Chúng ta không phải là những trẻ mồ côi bơ vơ giữa chợ đời, nhưng là những đứa con yêu quí của Cha trên trời. Chúa Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ trên trời, vì Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó. Đó là lời hứa. Và mặc dù chúng ta đang sống cực nhọc hằng ngày nhưng luôn đầy tràn hy vọng, không chán nản. Hơn nữa, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng thịt máu Ngài, và đó là một bảo đảm chắc chắn. Chúng ta hãy bình thản vác thập giá theo Chúa hằng ngày, không sờn lòng rên siết, không sợ sệt vì chúng ta biết chúng ta đã tin vào ai.
26.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Trầm Phúc
Sau khi nghe Phê-rô tuyên xưng: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ…, sẽ bị giết…”
Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, nói: “Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết”. Ngài đến trong trần gian không phải để tạo một vương quốc cho Ngài, để hưởng thụ như các vua chúa trần gian. Ngài đến để cứu vớt trần gian để “ban mạng sống cho thế gian.”
Phê-rô, có lẽ đã không hiểu một cách rõ ràng những lời Thầy nói, lên tiếng: “Thưa Thầy, không thể như thế được! Thầy không thể như vậy đâu!” Có lẽ Phê-rô chỉ nhớ hai từ thôi: đau khổ và bị giết.
Hành động của Phê-rô cũng dễ hiểu. Theo ông, Thầy là một vị tôn sư cao cả, Thầy làm những việc phi thường và… Thầy lại là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà ông vừa mới tuyên xưng. Vậy thì Thầy làm sao có thể bị giết được! Thầy sẽ đạt đến đỉnh cao của vinh quang. Đó là cái nhìn thực tế của ông. Đi theo Thầy, sau này ông cũng sẽ được hưởng quyền tước nào đó.
Một lần nào đó, Phê-rô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì sao?” Nghĩa là chúng con sẽ nhận được những lợi lộc nào.
Những người theo Chúa nửa vời thường mang tâm trạng thực dụng đó.
Phản ứng của Chúa Giêsu thật bất ngờ và mạnh mẽ: “Santan, lui ra!”
Satan ở đây được hiểu theo nghĩa “chướng ngại.”
Tại sao Chúa lại tỏ ra cứng rắn như thế? Ngài giải thích: “Anh làm cho Thầy vấp phạm, vì anh không hiểu biết những điều thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết về những gì thuộc về loài người.”
Đối với Chúa Giêsu, Ý Chúa Cha là trên hết, dù biết rằng ý Cha sẽ đưa Ngài đến khổ nạn và cái chết, nhưng Ngài sẽ trung thành đến cùng. Vì thế, khi Phê-rô can gián Ngài, Ngài tỏ ra hết sức nhgiêm khắc. Thái độ cương quyết của Ngài là một bài học cho mỗi người chúng ta. Sống đạo chính là “hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa” chứ không theo ý chúng ta, nghĩa là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa, những gì đi ngược lại là Satan.
Sự cương quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, phải dứt khoát rõ ràng, không thể “làm tôi hai chủ”, không bắt cá hai tay.
Chúng ta luôn được đặt trước hai chọn lựa: Chúa hay thế gian. Phải dứt khoát không khoan nhượng.
Giữ đạo không chỉ chấp nhận một số luật lệ, một số bổn phận đạo đức, mà chọn một người chính là Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống: “Dưới gầm trời nầy không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Diễn từ của Phê-rô trước công nghị. Cvtđ 4,12).
Sự chọn lựa này quyết định tất cả cuộc đời chúng ta, tương lai của chúng ta.
Giữ đạo chính là chọn Chúa và theo Chúa. Theo Chúa, tức là cảm nghĩ như Chúa, nói năng như Chúa, hành động như Chúa.
Và Chúa Giêsu đã nêu lên những điều kiện đó: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta.”
Bỏ mình , thường được hiểu là chết. Một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến… Người Công giáo hiểu theo một nghĩa thiêng liêng. Bỏ mình là từ bỏ những gì là của mình để theo ý Chúa: bỏ những ý muốn riêng, những mơ mộng, chương trình, ý muốn thống trị của mình để sống theo ý Chúa. Hơn thế nữa, bỏ mình là trao quyền quyết định về vận mạng của mình cho Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu: Ngài đã bỏ mình như thế nào. Chúng ta có thể trả lời ngay: Ngài đã hoàn toàn bỏ mình. Nhập thể, xuống thế làm người, phải chăng đó là bỏ mình trọn vẹn?
Đó là giai đoạn khởi đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã hiểu điều đó một cách rõ ràng và thánh Phao-lô đã ghi lại một ca khúc xưa: “Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”
Chúng ta hiểu như thế nào?
Ngài đã bỏ mình triệt để. Thiên Chúa là Đấng vô hình, toàn năng hằng hữu, Ngài đã mang lấy thân phận con người. Có thể nói, Ngài đã rơi vào một vực thẳm không thể tưởng được. Chúng ta không thể hiểu được sự bỏ mình thẳm sâu của Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài cũng là một bỏ mình triền miên. “Ngài còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”. (Pl 2,6-8).
Vâng lời chính là từ bỏ ý riêng của mình để “thực thi ý Cha”. “Lương thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”.
Cuộc đời của Ngài chỉ có một nội dung: vâng phục.
Hãy nhìn Chúa Giêsu để thấy sự khác biệt giữa chúng ta với Ngài. Ngài đã vâng phục vì yêu mến Chúa Cha. Chúng ta vâng phục Ngài vì yêu mến hay vì một lý do nào khác? Hay chỉ vì không thể làm gì khác?
Theo Ngài là bỏ mình, là yêu Ngài hơn cả chính mình, là yêu đến quên mình. Sự vâng phục chỉ có nghĩa khi vâng phục vì tình yêu. Bỏ mình là yêu mến trọn vẹn. Chúng ta yêu mến Chúa được bao nhiêu phần trăm? Nếu tỷ lệ tình yêu của chúng ta thấp, làm sao bỏ mình? Vì yêu mới có thể bỏ mình. Hai người yêu nhau thực tình và tha thiết mới có can đảm lo cho người mình yêu. Tình yêu của chúng ta với Chúa được bao nhiêu? Sâu đậm đến độ nào? Chúng ta lo cho Chúa những gì? Chúng ta dám bỏ thì giờ, công khó (và nếu cần cả tiền bạc) để lo cho Chúa được yêu thương hơn không?
Điều kiện thứ hai Chúa Giêsu nêu lên là vác thập giá.
Lúc Chúa Giêsu nói đến điều nầy, Ngài chưa chịu tử nạn, Ngài chưa vác thập giá. Khi nói đến vác thập giá Ngài nghĩ gì?
Ngài liên tưởng đến cuộc tử nạn của Ngài mà Ngài vừa nói đến chăng? Hay đây chỉ là một điều các Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào và thánh Mat-thêu đã ghi lại?
Nếu Ngài nói đến vác thập giá có thể hiểu như thế nào?
Có thể hiểu là chấp nhận mọi đau khổ dù nó đến từ đâu; là chấp nhận thân phận yếu đuối của mình, là chấp nhận mọi nhục nhã và cả cái chết đau thương vì Chúa: “ Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.”
Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trên con đường thập giá. Cuộc sống trần gian của Ngài, phải chăng là một cuộc “vác thập giá” liên tục, từ khi mới sinh ra cho đến đỉnh đồi Can-vê?
Con người chỉ muốn sống nhàn hạ, không đau khổ. Chúa Giêsu hướng chúng ta về tương lai, một tương lai duy nhất là hạnh phúc trong Nước Tình Yêu của Chúa Cha. Hạnh phúc vững bền đó chỉ có khi chúng ta dám bỏ đi tất cả thế gian, liều mạng vì yêu mến Ngài, “cho không tất cả.”
Chúng ta dám tin vào Ngài đến nỗi “khóc lóc, hãy như không khóc, vui mừng như không vui, mua sắm như không có gì cả…” (1Cr 7,30-31).
Các thánh đều hiểu điều đó. Các ngài đã tin Chúa vô điều kiện. Các thánh tử đạo là những bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các ngài đã dám chịu mọi cực hình và đã trung thành đến cùng.
Còn chúng ta?
Chúng ta đang sống trong một thế giới giàu có, đầy tiện nghi, chúng ta dám “bỏ mình, vác thập giá” như Chúa không?
Chúng ta sống cho thế gian hay sống cho Chúa?
Con đường Chúa đi không có tiện nghi mà chỉ có thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”
Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta vào hạnh phúc của Ngài, chúng ta còn do dự sao?
Ngài không chỉ mời gọi. Ngài đến trên bàn thờ nầy. Ngài đến với chúng ta, tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào.
Ngài hoàn toàn bỏ mình vì chúng ta, đến nỗi trở nên của ăn cho chúng ta, bồi dưỡng nâng đỡ chúng ta, sống trong chúng ta…
Hãy nghe tiếng gọi tha thiết của Ngài và can đảm bước theo Ngài.
Hôm nay, Ngài đến dưới hình thức khiêm nhu, nhỏ bé, nhưng Ngài sẽ đến trong “vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả công cho mỗi người”, những người dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
27.Mất và được--‘tinmung.net’
Có câu chuyện kể như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
28.Con đường ba (chữ) “phải”--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.
Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chỉ có một con đường để đi, chỉ có một lối để thoát, chỉ có một giải pháp duy nhất, thì ta vẫn thường dùng chữ phải, chứ không dùng “có thể, có lẽ”. Anh phải đi. Em phải chết. Con phải lấy anh ta. Anh phải yêu em. Không còn con đường nào khác.
Hôm nay trong lúc quan trọng, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu hé mở cho các tông đồ biết con đường mà Chúa Giêsu phải đi, con đường ba chữ PHẢI. Chúa phải chịu đau khổ, phải bị loại bỏ, cuối cùng Ngài sẽ phải bị giết chết.
Trước khi chúng ta tìm hiểu con đường ba chữ PHẢI, tại sao Chúa phải đi con đường đó, chúng ta thử hỏi xem có thể có con đường nào khác không?
1. Có thể có con đường nào khác không?
Tông đồ Phêrô khi nghe Thầy mình loan báo con đường ba chữ phải này, thì kéo Chúa Giêsu ra nói nhỏ: Thầy không thể như thế đâu. Còn lý lẽ của loài người lúc nào cũng muốn gào to lên rằng: Chẳng lẽ không có con đường nào khác nhẹ nhõm hơn, dễ dàng hơn để cứu độ trần gian sao? Nếu để tạo dựng nên vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật, Thiên Chúa chỉ phán một lời là có mọi sự, thì tại sao để cứu chuộc, để hồi phục, Ngài không dùng con đường quyền phép đó: chỉ phán một lời mọi sự đâu vào đó.
Hoặc nếu cần, thì sai phái các thiên sứ Kerubim, Seraphim, hay cao hơn nữa, ra lệnh cho các Tổng lãnh Thiên sứ Micae, Gabriel, Raphael xuống trần gian để cứu chuộc. Vượt lên trên đó, Thiên Chúa đã chọn một con đường cực kỳ diệu là đích thân hoá mình làm người để xuống trần. Vậy là chưa quá đủ sao, mà lại còn phải chận bớt khoảng rộng để đi vào con đường quá hẹp hòi, gai góc là phải chịu đau khổ nhiều, phải bị loại bỏ, phải bị giết. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, toàn năng vô song muốn gì được nấy, lại nhân từ vô cùng, sao lại để Con của mình cũng là Thiên Chúa phải đi vào con đường khó hiểu như vậy, con đường chẳng có vẻ nhân từ chút nào, chứ chưa nói là con đường của Đấng nhân từ vô cùng.
Cũng vì vậy mà các Tông đồ vấp phạm vì con đường này, còn Phêrô, thì kéo Đức Giêsu về phía mình, một cử chỉ sỗ sàng song thành thực của một dân chài bộc trực như muốn ân cần săn đón, giữ gìn và giật người bạn, người thầy của mình khỏi hiểm nguy, kèm theo lời nói: Thầy đâu thể như thế được! Nhưng Đức Giêsu đã nổi xung thiên về lời nói đó của Phêrô bằng cách đuổi Phêrô đi cũng bằng một lời như khi đuổi ma quỉ cám dỗ trong sa mạc: Satan, hãy xéo đi!
Vậy con đường Đức Giêsu đi là con đường ba chữ PHẢI, chứ không phải con đường “có thể” để thay đổi, để can gián. Và vì nhất thiết phải đi con đường dẫn tới cái chết do người ta giết, nên ta thử tìm hiểu ý nghĩa con đường Chúa đi đó.
2. Tại sao Chúa phải đi con đường ba chữ “Phải” đó?
Trả lời dễ dàng nhất là chúng ta không trả lời được. Hay nói cách khác: ta không hiểu nổi tại sao Chúa phải đi con đường đó. Chữ PHẢI đây không phải là tất yếu của định mệnh: như nghèo thì phải khổ. Bệnh thì phải đau. Đói thì phải rách. Không học thì phải dốt. Nhưng PHẢI ở đây là điều cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa, ăn khớp với chương trình của Ngài trên nhân loại, mà chương trình và tư tưởng của Ngài thì vượt xa ý nghĩ của con người. Sách Isaia (55, 6-9) ghi: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Cách xa nhau như vậy làm sao ta hiểu nổi kế đồ của Thiên Chúa? Khi la Phêrô là Satan, hỡi Satan hãy xéo đi, thì Chúa cũng nói như vậy: vì ngươi chẳng hiểu biết gì những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ biết những gì thuộc về loài người.
Nhưng mà, chúng ta có Chúa Thánh Thần, có Chúa Phục sinh. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, còn Chúa Phục sinh giải thích cho ta như xưa Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai môn đồ trên đường Emmau (Lc 24,25): “Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó chịu chết rồi mới vào nơi vinh hiển sao?” Vậy thì Chúa Phục Sinh đã giải thích và Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho ta hiểu phần nào, tại sao Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết.
Càng dày lịch sử, càng lắm giải thích. Cho đến nay người ta ghi nhận ít là bốn giải thích này để trả lời cho câu hỏi Tại sao. Tại sao Chúa phải đi con đường đau khổ và chết? Mỗi giải thích là một cours thần học, nhưng chúng ta chỉ lấy kết luận thôi.
1) Chân lý được khẳng đình rõ nhất là bằng cái chết. Dùng cái chết để chứng minh, thì lời chứng đó hùng hồn nhất (Các thánh Tử đạo sẵn sàng chết để chứng minh Đạo mình theo là Đạo thật; vợ chàng Trương trầm mình chết để chứng minh mình ở nhà không phản bội chồng; các võ sĩ đạo Nhật sẵn sàng chết vì danh dự để chứng minh sự thật).
2) Chúa đi con đường đó không phải để đau khổ, để chết nhưng để diễn tả tình yêu cho đến cùng, “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết vì người mình yêu.” Mà Thiên Chúa là Tình yêu, yêu cho đến cùng! Cha mẹ đau khổ vì con, cha mẹ sẵn sàng chết vì con, không phải vì cha mẹ muốn đau khổ, muốn chết, mà là muốn biểu lộ tình yêu đối với con mình. Thiên Chúa là cha là mẹ.
3) Đức Kitô chết để làm giá chuộc cho chúng ta. Người mang thương tích để anh em được chữa lành. Người đã chết – để anh em được sống (x. 1Pr 2, 23-24). Thánh Phaolô nói: Anh em được chuộc bằng giá rất cao: giá máu Con Chúa. Chứng tỏ loài người chúng ta rất có giá, chứ nếu không, chỉ cần giọt mồ hôi của Con Chúa cũng đủ, đâu cần đổ tới giọt máu cuối cùng!
4) Để lại một mẫu mực cho chúng ta. Nếu Đức Kitô không đau khổ, không chết thì khi con người chúng ta bản tính là hay chết, thân phận là lưu đày đau khổ, chúng ta biết nhìn vào ai, soi vào gương nào để tiến bước khi gặp chết chóc khổ đau.
Cũng chính vì vậy mà trong Bài Tin Mừng hôm nay, sau khi vạch con đường ba chữ phải, Chúa Giêsu thêm: “Ai muốn đi sau tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo.”
Trong kinh Tin Kính chúng ta sắp xướng đây, chúng ta hãy cùng tuyên xưng, Đức Giêsu phải đi con đường thập giá và phải chết thời Phongxiô Philatô. Lời chúng ta tuyên xưng cũng là lời nhắc nhở, khuyến khích, nâng đỡ, an ủi chúng ta khi chúng ta bước theo con đường ba chữ phải của Ngài.
29.Hiến mình vì người mình yêu--Lm. Anmai, CSsR
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại thấy nó làm sao ấy? Đang vui vẻ với nhau vậy mà Thầy lại nói đến cái chuyện chết chóc rồi đến thập giá rồi đến chuyện vác thập giá rồi thêm nữa là thiệt mạng.
Thật ra, chẳng ai muốn nghe chuyện chết chóc và nhất các môn đệ nghe thầy mình báo trước một cái điềm "gỡ" mà chẳng ai mong đó là thầy mình phải chết trong đau khổ do các kỳ mục và thượng tế. Bởi vậy, Phêrô do yêu Thầy quá nên kéo Thầy riêng ra một bên và thỏ thẻ với Thầy: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy phải chết như vậy! Chúng con, những môn đệ của Thầy không thích và không muốn Thầy phải chết như thế đâu?". Nếu như chúng ta có mặt ở đó với Thầy Giêsu, chúng ta cũng sẽ làm như ông Phêrô vậy nhưng quê quá! Sau khi nói thế, tưởng Thầy sẽ khen nhưng ngược lại, Thầy đã mắng Phêrô. Sau khi mắng xong, Thầy lại nói thêm về chuyện vác thập giá. Thử hỏi ai trong chúng ta - những môn đệ của Chúa - mong vác thập giá không? Chưa dừng lại ở chỗ đó, Chúa Giêsu còn đòi hỏi mỗi người chúng ta, như các môn đệ phải đi thêm một bước nữa là phải hiến mạng sống mình. Phải nói thật với nhau rằng lời này nghe sao mà "chói" tai thế? Thế nhưng, chính khi sống những lời "chói" tai ấy mới đích thực là môn đệ của Chúa và được hưởng nước Trời như Chúa hứa.
Chúa Giêsu rất thẳng thắn: một là một, hai là hai chứ không lập lững trong lập trường về Nước Trời. Chúng ta còn nhớ: nào là không được làm tôi hai chủ, nào là thà cụt một tay một chân mà được vào Nước Trời và hôm nay Chúa mời gọi môn đệ của Chúa đi đến mức đỉnh điểm: Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?
Nhìn lại cuộc đời, nhiều lúc chúng ta lại bé cái lầm, chúng ta lại cứ muốn vun vén cho mình nhiều quá để rồi đánh mất đi cái điều căn cốt của cuộc đời. Chưa nói đến cái cùng đích của cuộc đời, chưa nói đến cái Nước Trời mai hậu, chỉ cần nhìn lại cái thực tại của cuộc sống ngày hôm nay chúng ta sẽ thấy được chúng ta là ai? Chúng ta sống như thế nào với anh chị em đồng loại?
Đời sống gia đình: là cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, ngày hôm nay chúng ta có thật lòng sống để hiến mạng sống mình cho gia đình nho nhỏ của chúng ta hay không? Chúng ta có dám dẹp bỏ cái tự ái, cái tôi của chúng ta để chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình hay không? Hay là chúng ta cứ khư khư giữ lấy cái ích kỷ của chúng ta để chúng ta phá vỡ hạnh phúc gia đình, phá vỡ hạnh phúc của "nước trời" trong trần gian này?
Ngày hôm nay, đời sống gia đình đã đánh mất đi cái nền tảng của nó là đơn hôn và vĩnh hôn. Vì sao? Vì lẽ mạnh chồng chồng sống, mạnh vợ vợ sống, không còn ai dám hiến mình cho nhau nữa. Cái ngày mà họ đưa ra nhà thờ cam kết, tuyên bố và thề hứa sao mà hay quá: "...Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương anh (em) suốt đời em (anh)" nhưng thử hỏi còn bao nhiêu gia đình sống đúng cái lời mà mình tuyên hứa trước mặt Chúa qua sự chứng kiến của Hội Thánh? Chủ nghĩa mackeno (mặc kệ nó) ăn sâu vào mỗi người để rồi chẳng còn ai dám hiến mình cho ai nữa.
Một gia đình nọ về đời sống kinh tế khá vững vàng, đời sống danh vọng tạm gọi là có tiếng và nhìn bên ngoài có vẻ đạo đức lắm vì vẫn còn trong vòng lễ giáo của cha mẹ hai bên, vẫn còn tham gia ban hát, ca đoàn nhưng bên dưới của nó đang dần dần rạn nứt và có thể đi đến chuyện ly hôn bất cứ lúc nào. Nguyên nhân? Nguyên nhân là vì hai vợ chồng chẳng còn ai sống cho nhau nữa, không còn hiến mình cho nhau nữa. Chồng đổ cho vợ, vợ đổ cho chồng. Chồng đổ cho vợ là suốt ngày chỉ ham đi kiếm tiền, cắm cúi đi kiếm tiền còn chồng thì đổ cho vợ là không lo cho gia đình, không lo cho vợ cho con. Xét ra thì ai cũng có cái lý cả, ai cũng cho mình là đúng cả nhưng thực tế thì vấn đề của gia đình này quá căng thẳng vì họ không biết hiến mình cho nhau. Đi sâu hơn một chút: họ không hiến mình cho con cái theo đúng nghĩa của nó. Đành biết đồng tiền rất cần cho cuộc sống nhưng đâu phải có tiền là có tất cả để rồi người vợ cứ cắm cúi đi tìm tiền mà không lo cho hạnh phúc gia đình. Lẽ ra hai vợ chồng phải tạm gọi là "dừng lại cuộc chơi" tìm tiền để mà lo cho hạnh phúc gia đình, lo hiến mình cho gia đình của mình. Không phải chị không biết hậu quả của việc lao đầu vào kiếm tiền, không phải anh không biết hậu quả của việc sống thờ ơ với việc bổn phận gia đình nhưng hình như hai người đã không tìm được tiếng nói chung: tiếng nói của sự hiến dâng cho nhau thật sự.
Nhìn vào hai đứa trẻ của gia đình ấy, tôi thật sự e ngại. Nếu như cha mẹ chúng không thay đổi lối sống, không thay đổi lập trường thì tương lai của chúng không biết sẽ đi về đâu khi cha mẹ chúng chia ly?
Đời sống tu cũng thế, người ta không còn biết sống hiến mình cho nhau nữa. Không phải là nhiều, không phải đi tu ai cũng thế nhưng có vài trường hợp đáng tiếc đã xảy đến. Một vị nữ tu tuổi đời mới ngoài ba mươi, được lợi thế hơn các "sơ già" một chút là được ăn được học và được học cái ngành "thầy cãi" nữa nên cãi lý rất hay. Chuyện đáng tiếc đã xảy đến đó là khi nghe "tin hành lang" là vị nữ tu ấy sẽ thay thế vị trí của vị bề trên đương nhiệm để rồi từ đó cách hành xử của vị nữ tu trẻ chẳng ra làm sao cả. Chịu không thấu, vị phụ trách đã trình bày với vị hữu trách và cuối cùng hậu quả vị nữ tu trẻ ấy phải rời cộng đoàn để về nhà Mẹ của Tỉnh Dòng!
Chắc có lẽ vị nữ tu ấy đã quên đi lời khấn hứa trong ngày khấn dòng, lời khấn hứa vâng phục bề trên, lời hứa sẽ cộng tác với chị em để phục vụ, để hiến mình cho người nghèo. Chính vì đánh mất tâm tình dâng hiến nên mới có trục trặc, có đổ vỡ trong cộng đoàn.
Bên cạnh những người quên đi việc hiến mình cho anh chị em đồng loại, cho chồng, cho vợ cho con trong gia đình chúng ta vẫn gặp đâu đó những hình ảnh đẹp chứ không phải là ai ai cũng ích kỷ cả! Trận động đất xảy ra cách đây hơn chục năm ở Ácmênia thuộc Liên Xô cũ chắc chúng ta còn nhớ, sau trận động đất tan thương đấy người ta lại phát hiện ra tình mẫu tử thật tuyệt vời. Dưới đống gạch vụn đổ nát bi thương của một toà nhà bị sập, người ta nghe được tiếng của một đứa trẻ oe oe khóc. Gỡ đống gạch vụn đó lên người ta thấy được một đứa bé đang ngậm tay mẹ của nó, nó đang mút từng giọt máu từ ngón tay của mẹ nó. Hoá ra là trước khi chết, mẹ nó đã khứa tay của mình vào mảnh chai để cho con mình bú những giọt máu từ tay của mình. Chính những giọt máu ấy đã cứu đứa bé sống sót cho đến lúc đội cứu hộ tìm thấy cháu. Một kỳ tích của tình người, một thiên tình sử của tấm lòng mẹ con.
Với tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ai ai cũng biết về Cha Thánh Lập Dòng của mình. Cha Thánh Anphongsô đã phải nhục nhã, cay đắng bị trục xuất ra khỏi tu viện mà chính mình sáng lập vì bị hiểu lầm, bị chà đạp. Ngài đã sống tâm tình "Hiến mình cho ơn cứu độ" một cách viên mãn. Vì Chúa, vì Nhà Dòng, vì anh em, Ngài đã hiến mạng sống mình cho đến chết.
Hiến mình cho Chúa, hiến mình cho ơn cứu độ, hiến mình cho nhau là cử chỉ rất đẹp, cử chỉ tuyệt vời nhất mà con người dành cho Chúa, cho anh chị em đồng loại. Cử chỉ đó được Thánh Phaolô nhắc cộng đoàn Rôma cũng như nhắc mỗi người chúng ta: "Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1a). Ngài còn kết luận một cách xác tín: Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người (Rm 1,1b). Hoá ra là cách thờ phượng xứng hợp mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đó là hiến dâng thân mình chúng ta cho Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa gần nhất đó là Thiên Chúa đang hiện diện nơi anh chị em đồng loại của mình.
Ngài quả quyết với chúng ta rằng: vì Thiên Chúa thương xót chúng ta. Nếu chúng ta thấy Thiên Chúa thương xót chúng ta thì chúng ta mới có thể hiến dâng cho Chúa cũng như cho anh chị em đồng loại được. Ngài còn nhắc chúng ta rằng: Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình (2 Cr 5,15).
Vấn đề còn lại là của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta cảm nhận, chúng ta xác tín rằng Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, chết vì tội lỗi chúng ta và chết để đền bù tội lỗi chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống cho chính mình nhưng chúng ta sẽ sống lại cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. Đấng đó đang ở đâu? Xin thưa: Đấng đó ở ngay trong gia đình bạn, Đấng ấy hiện diện ngay trong chính con người của vợ, của chồng, của con của bạn và Đấng đó đang ở trong cộng đoàn tu trì của bạn, là anh chị em cùng lớp, là anh chị em cùng trong Tu Viện, trong cộng đoàn của bạn.
Thử nhìn lại đời sống của chúng ta, chúng ta có hiến mình vì anh chị em đồng loại hay chúng ta lại bắt anh chị em đồng loại hiến mình vì chúng ta?
30.Từ bỏ--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy (Mt 16, 24). Từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ ý muốn riêng của mình. Từ bỏ thì không luôn dễ. Sự từ bỏ nào cũng cần có ý thức quyết định mãnh liệt. Chúng ta biết rằng trăm người thì trăm ý. Đôi khi, ai cũng nghĩ rằng ý của mình là hay và là tốt nhất. Bỏ mình thì phải hy sinh ý riêng của mình để chấp nhận ý của người khác. Vả nữa, mỗi người có cá tính riêng biệt, nên rất khó để nhường nhau. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy ghét tội, không ưa những sự gian dối và thói tục xấu xa, nhưng vẫn cứ muốn bám víu cầm chân. Khi chúng ta chìm sâu trong đường lầm, thì tội lỗi lại là những món hấp dẫn và cảm khoái. Miệng của chúng ta thì chê bai ghét tội đó, nhưng lòng lại cứ muốn chiều theo những đòi hỏi bản năng thấp hèn. Nói thật, chúng ta không muốn đi xưng tội thường, tại vì tiếc nuối từ bỏ thói hư tật xấu và tội lỗi. Người ta thường nói rằng bỏ thì thương, vương thì tội. Cho nên cứ lẩn quẩn dùng dằng trong chốn mê lầm.
Truyện kể: Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm, có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó cha giảng về đề tài ‘cách dùng của cải’. Ông rất chăm chú nghe. Trong bài giảng có bốn phần: 1. Hãy tìm kiếm cho được nhiều của cải. Bác nông phu rất hài lòng và nói: Hay quá, tuyệt quá. 2. Hãy tiết kiệm. Ông sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha. Ông nghĩ thật đúng quá, chính ông cũng chủ trương như thế mà. 3. Đừng xài hoang phí. Ông gật gù vui trong lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì ông luôn hành động như thế. 4. Hãy rộng rãi làm phúc và làm việc bác ái. Ông nhăn mặt khó chịu. Ông thở dài đứng lên bỏ về. Ở đời, nhiều người hành động giống như bác nhà quê này: Lý thuyết nhiều và thực hành ít. Chỉ mong tìm lời và thu quén cho mình.
Sự từ bỏ gồm về cả lãnh vực tinh thần lẫn vật chất. Khi chúng ta không có sở hữu tiền bạc của cải nhiều, thì nói đến việc từ bỏ xem ra dễ dàng. Nhưng khi chúng ta giầu có, thì thái độ lại khác vì đồng tiền nối liền khúc ruột, không dễ mà từ bỏ và chia sẻ đâu. Lý tưởng của cuộc sống là vươn lên mãi. Có, rồi muốn có thêm. Vì sống là sự phát triển không ngừng. Ai ai cũng cố gắng gia tăng thủ đắc cho mình nhiều thứ mới lạ mỗi ngày. Đúng thế, sống ở đời, ai cũng phải cố gắng trau dồi thêm tri thức, tập tành nhân đức, học hỏi thêm chuyên môn, lao động thêm giờ, đầu tư sinh lợi nhiều hơn, thu góp tiền của và vui hưởng cuộc sống hơn. Có nghĩa là ai cũng phải luôn phát triển và sinh lợi càng nhiều càng tốt. Đời sống là cuộc phấn đấu không ngừng để tiến thân. Nhưng muốn tiến lên, chúng ta lại phải bỏ bớt, thon gọn và thảnh thơi. Muốn vươn cao, chúng ta cần cắt bỏ những rườm rà níu kéo, giống như cây măng tre càng vươn cao càng nhỏ gọn.
Tiên tri Giêrêmia được Thiên Chúa chọn gọi từ trong bụng mẹ để thi hành sứ mệnh của Chúa. Ngay khi còn trẻ tuổi, ông đã được Chúa trao sứ vụ mời gọi canh tân khi lòng dân đang bị xa lạc đường lối Chúa. Ông sợ hãi và từ chối thi hành sứ vụ. Ông không muốn chuốc lấy sự khốn khó khi phải đối diện với nhóm dân bất tuân phục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu thiêu đốt trái tim nhiệt thành, ông không thể trốn lánh và chối từ. Ông đã tâm sự: Tôi nói rằng: Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa (Giêr 20, 9). Ơn Chúa đã thúc bách ông vượt qua mọi gian khó. Tiên tri Giêrêmia đã phục vụ trong sứ vụ gần 40 năm tại Giêrusalem (627-587 AD).
Ai cũng có kinh nghiệm, muốn từ bỏ một thói xấu, thật là không dễ chút nào. Những cám dỗ hướng về điều xấu trong tư tưởng, lời nói và việc làm luôn khêu gợi, thí dụ: Ước muốn nhục dục, tham lam tiền bạc, ghen tị, nóng giận, mê bài bạc, nghiện ngập hút sách, trộm cướp, chời bời trác táng, ăn nói tục tĩu và ngồi lê mách lẻo… Những thói hư tật xấu này đã nhiễm sâu trong lòng rất khó từ bỏ. Nó cần sự giác ngộ cao và có ý chí kiên cường tự thắng mình. Đôi khi có người đã không ngại thổ lộ rằng những thù hằn và ghen ghét trong lòng sẽ không bao giờ bỏ qua, nhưng sẽ ghi nhớ suốt đời để đem xuống nấm mồ. Những cách hành xử như thế là thiếu sự khôn ngoan, vì tự mình đã đeo thêm hòn đá nặng vào cuộc lữ hành trần thế. Không may, họ đang bị vuột mất sự tự do để vươn tới trên con đường trọn lành. Cũng có những người hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự nghiện ngập và mất đi tự chủ. Họ không thể vượt qua được sự yếu đuối của chính mình. Thật thế, sự từ bỏ về vật chất đã khó, từ bỏ về đời sống tinh thần còn khó hơn nhiều. Từ bỏ mình cần có sự khiêm hạ trong lòng. Từ bỏ là trút bớt những bận vướng cuộc đời. Càng từ bỏ, chúng ta càng được tự do và thanh thản hơn.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo (Rm 12, 2). Phaolô mời gọi chúng ta hãy canh tân lòng trí để tìm biết thánh ý Chúa. Ý Chúa cao vượt trên ý muốn của phàm nhân. Con người muốn hướng thiện cần thiết phải từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Biết rằng vâng theo thánh ý Chúa, chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Từ bỏ những sự mê lầm của tội lỗi, những thói đời xấu xa và dục vọng thấp hèn. Chúa Giêsu mời gọi rằng ai muốn theo Chúa, không những chỉ từ bỏ mình, mà còn vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Vừa từ bỏ, vừa lãnh nhận. Đã có rất nhiều người lắng nghe lời Chúa và thực hành trong đời sống. Trải qua lịch sử của Giáo Hội, chúng ta biết có rất nhiều người đã dám từ bỏ của cải và danh vọng thú vui trần đời để bước theo Chúa.
Trong môi trường huấn luyện, đặc biệt trong các Dòng Tu, đòi hỏi sự vâng lời trong việc từ bỏ ý riêng. Vâng Lời là một nhân đức. Vâng nhận ý của bề trên như là ý Chúa trong sứ mệnh phục vụ tha nhân. Vâng lời bề trên cũng là một thách thức trưởng thành. Dĩ nhiên trong cuộc sống chung, vâng lời không luôn dễ dàng, vì đôi khi có những cách hành xử quá ích kỷ, thiên vị và nhỏ nhen. Ngày nay, có nhiều trường hợp đôi bên đối thoại và thông cảm với nhau, hơn là kiểu vâng lời tối mặt. Trong Dòng Tu, đức Vâng Lời là một trong ba lời khấn trọng của các tu sĩ. Điều này nói lên sự từ bỏ ý riêng một cách cao thượng. Người khiêm nhượng là người biết vâng lời. Vâng lời là chấp nhận ý của người khác trọng hơn ý riêng mình. Đòi hỏi sự hy sinh hãm mình cao độ. Các tu sĩ đã tự thánh hóa cuộc đời tu trì của mình bằng các nhân đức tốt lành. Họ đã bước cao hơn một bậc trên đường trọn lành.
Ông Phêrô rất nhiệt tình trong sứ mệnh truyền rao Tin mừng. Đôi khi ông đã phạm lỗi lầm và suy tưởng theo sự khôn ngoan của người đời. Phêrô cũng muốn có những vinh quang trần thế. Chúa Giêsu từng bước mạc khải cho các môn đệ con đường mà Chúa sẽ đi qua. Con đường tình yêu của chông gai và đau khổ. Phải qua đau khổ thập giá mới có thể bước vào vinh quang chân thật. Chúa Giêsu đã quở trách ông Phêrô: Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô rằng: Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người (Mt 16, 23). Thánh ý và đường lối của Chúa khác hẳn ý muốn của con người. Chúa Giêsu chọn con đường khiêm hạ và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã từ bỏ mọi vinh quang để chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Chúa Giêsu đã hoàn tất hy tế thập giá bằng con đường hy sinh từ bỏ và vâng phục.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và con đường vâng phục tự hiến. Muốn vào qua cửa hẹp, chúng con phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh bận vướng cuộc đời. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.
31.Con đường thoát tục tòng Thiên--AM. Trần Bình An
Linh mục Tây Ban Nha Miguel Pajares, người đầu tiên được điều trị Ebola bằng vắc-xin Zmapp chưa thử nghiệm trên người, đã qua đời ngày 12-8-2014 ở TP Madrid, sau 5 ngày được đưa ra khỏi Liberia về Madrid bằng máy bay để được các chuyên gia chăm sóc. Vị linh mục 75 tuổi nhiễm Ebola khi đang điều trị cho các bệnh nhân ở Liberia.
Tình trạng sức khỏe của Lm Pajares được các chuyên gia điều trị mô tả là ổn định khi về tới Tây Ban Nha. Nhiều người cho rằng ngài được điều trị bằng Zmapp, một loại thuốc thử nghiệm được tin sẽ mang lại khả năng phục hồi “kỳ diệu,” do hai nhân viên cứu trợ người Mỹ mang đến. Được biết, thi thể vị linh mục đã được hỏa táng trong ngày 12-8 để tránh việc virus lây lan.
Lm Miguel Pajares đã nhiệt thành truyền giáo tại châu Phi suốt 50 năm qua. Ngài bị nhiễm virus Ebola trong khi chăm sóc những người bệnh ở vùng dịch tại bệnh viện Saint Giuseeph Hospital ở Monrovia, thủ đô Liberia, nơi nhóm từ thiện Công giáo của Lm hoạt động.
Linh mục Pajares được đưa về quê hương bằng một chiếc máy bay quân đội và bị cách ly sau khi phát hiện dương tính với virus Ebola. Các bác sĩ đã sử dụng một chiếc lồng vô trùng đặc biệt để di chuyển Lm Pajares nhằm ngăn ngừa virus có thể phát tán. Được đưa về Tây Ban Nha cùng Lm Pajares là một nữ tu sỹ khác, mặc dù không nhiễm virus nhưng cũng phải chịu cách ly.
Zmapp là một loại kháng thể được bào chế từ cây thuốc lá, có tác dụng thúc đẩy cơ thể sản xuất ra chất kháng lại virus Ebola. Thuốc do công ty của Mỹ sản xuất, chưa được thử nghiệm trên người, linh mục Miguel Pajares là người đầu tiên sử dụng và hiệu quả điều trị trong thực tế chưa được xác định. Sau cái chết của vị linh mục, mối lo ngại hiệu quả của Zmapp ngày càng tăng lên.
Hiện khoa học vẫn chưa tìm ra cách điều trị thông thường hoặc vắc-xin tiêu diệt virus Ebola nên sự chú ý dồn vào Zmapp. Được biết, loại thuốc này được sản xuất rất chậm và chỉ 12 liều đã được làm ra, nhà sản xuất cho biết nguồn thuốc dự trữ hiện đã cạn kiệt. (Reuters, AP, Daily Mail)
Linh mục Miguel Pajares đã hy sinh gần trọn cuộc đời, trung thành theo Chúa Giêsu, bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu sau khi trách mắng ông Phêrô, ngăn cản cuộc chịu nạn, Người tuyên bố điều kiện theo chân Chúa.
Xả kỷ vị tha
”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình,..” Hy sinh, không kể chi đến mình, quên mình, dấn thân, chuyên tâm phục vụ vô vị lợi người khác, giúp đỡ, chia sẻ, che chở, từ thiện, bác ái, an ủi những người nghèo khó, cô quả, khuyết tật, cơ nhỡ, không phân biệt thân sơ, bạn thù.
Tuy nhiên điều kiện tiên quyết theo Chúa là từ bỏ bản thân, xả kỷ, không thể nào dễ dàng, bao lâu chưa vượt qua, chưa chế ngự được bản thân trước bản năng sinh tồn lấn lướt, trước bản ngã vị kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, trước bản tánh chất chứa tam độc tham, sân si.
Thánh Phaolô thẳng thắn vạch trần nếp sống thực dụng, sa đọa, cám dỗ, ràng buộc, cản trở, khó dễ những ai muốn đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu: Có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: Chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. (Pl 3, 19-20)
Bĩ cực thái lai
”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.“ (Mt 16, 24) Đức Giêsu xuống trần không phải xua đuổi sự dữ ra khỏi thế gian, không tránh né, từ chối, mà chấp nhận, thánh hóa, coi sự dữ như là phương tiện hữu ích để rèn luyện con người trở nên tốt lành hơn, một sự chuyển hóa cam go, thầm lặng và hữu ích, sinh hoa kết trái gấp mười, gấp trăm. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga, 15, 2)
Sau bước tiên khởi từ bỏ bản thân theo Chúa, bước tiếp theo là chấp nhận, gánh vác trách nhiệm, bổn phận, dù khó khăn, khổ sở, thách đố, hiểm nguy. Đồng thời mạnh dạn dấn thân, xả thân phục vụ, như con đường Chúa đã đi trước làm gương. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là đề phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gia cứu chuộc muôn người.” (Mt 20, 28)
Những đau khổ thách đố lại là niềm vinh dự, vì làm con cái Thiên Chúa, tất cả tín hữu Kitô hân hạnh được “Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô, vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.“ (Rm 8, 17)
Thoát tục tòng Thiên
Trả lời cho ông Phêrô thắc mắc sẽ được gì khi từ bỏ tất cả để theo Chúa, Ðức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10, 28-30) Nghịch lý bỏ là được, mất là còn, chết là sống mãi luôn khó chấp nhận với thế gian, nhưng là chân lý độc đáo của người theo Chúa.
Chọn theo Chúa với thái độ dứt khoát đoạn tuyệt, từ bỏ, lánh xa nếp sống theo thế gian, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra, đâu là là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 1-2)
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
Đừng điều tra “tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó Chúa dùng thánh hóa con.
Đừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thể, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
Khi đã qua đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa luôn nhắc nhở chúng con biết từ bỏ bản thân, ý riêng, cùng những cám dỗ vị kỷ, tham lam, danh lợi, để có thế lắng nghe và can đảm thực hành Thánh Ý Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã biết xả kỷ, quên mình để nghe theo và thực hành Thánh Ý Chúa. Xin Mẹ dạy cho chúng con biết từ bỏ mọi sự để trung thành theo Chúa luôn mãi. Amen.
32.Theo Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Câu kết bài Tin Mừng tuần trước: “Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô”, thật ngạc nhiên! Sau khi Chúa chuẩn nhận lời tuyên xưng của thánh Phêrô, Chúa lại cấm công khai điều ấy.Tại sao? Thánh Matthêu không trực tiếp trả lời, nhưng kể tiếp “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Chúa bắt đầu một “chương mới” trong việc dạy dỗ các môn đệ. Bấy lâu nay, các ông chỉ thấy Chúa rao giảng và chữa lành, được đám đông tôn kính. Nay các ông đã nhận ra “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì “từ lúc đó Chúa bắt đầu tỏ” cho các ông biết con đường Chúa phải trải qua để lãnh nhận tất cả uy quyền và vinh quang của “ Đức Kitô Con Thiên Chúa” trong thân phận Con Người “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Phản ứng của các môn đệ như thế nào? Vẫn ông Phêrô bộc lộ thật mãnh liệt. Có lẽ những lời về đau khổ và cái chết làm cho ông ù tai rồi nên không nghe được lời cuối cùng. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy” Nhưng cái cách “ông kéo riêng Người ra” để nói nhỏ khiến Chúa phải làm toáng lên để khỏi các môn đệ khác ngộ nhận: “Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: Xatan. Lui lại đang sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ông Phêrô vừa được Cha trên trời mạc khải cho biết “tư tưởng của Thiên Chúa” về mầu nhiệm “Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, bỗng quay lại với tư tưởng của loài người và trở thành Xatan cản lối. [Cái tên Xatan trong tiếng Aram vốn có nghãi là kẻ chống đối, còn trong tiếng Hylạp “dia-bolos” là kẻ gây chia rẽ bằng cách quăng một vật gì đó vào giữa hai người đang đi với nhau để tách hai người ra. Đó là nghề của Xatan từ ban đầu và bao lâu còn có con người trên mặt đất thì nó vẫn chưa thất nghiệp: xúi giục sự chống đối để chia rẽ con người với Thiên Chúa, chia rẽ người nam với người nữ, chia rẽ anh em, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ cả trong Hội Thánh của Chúa, dù Chúa đã bảo đãm là nó không phá nổi, nó vẫn cứ vùng vẫy cho tới ngày bị “quăng vào hồ lửa và diêm sinh” (Kh 20,8; x.St 2-4) ]. Khi Xatan cám dỗ Chúa cách thô lỗ nhất là xúi Chúa bái lạy nó để được vinh hoa thế gian thì Chúa đuổi nó thẳng tay: “Xatan kia! Xéo đi” (Mt 4,10). Bây giờ ông Phêrô, môn đệ được tuyển chọn, lại muốn cản đường Chúa, khác nào tiếng vọng của Xatan, nên Chúa quay lại qưở trách ông, nhưng không đuổi đi mà chỉ đuổi ông về vị trí môn đệ: làm môn đệ thì đi đàng sau Thầy; Chúa không cần một “Tôn Ngộ Không” đi trước dẫn đường! Ông đã nhận ra Chúa là “Đức Kitô Con Thiên Chúa” thì đừng theo tư tưởng của loài người nữa. Chúa như nhắc lời sách Isaia: “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối các người không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi chừng đó” (Is 55,8-9). (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan, SJ.).
Theo “tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Thời gian ngắn trước đây Chúa Giêsu khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội khi trao “Chìa khoá Nước Trời” cho Phêrô và đặt ông làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội. Ngay sau đó, Chúa lại khiển trách Phêrô đã gây cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xảy ra cho Thầy. Khi Chúa Giêsu tâm sự cùng các ông là Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đinh, chịu chết trên thập tự, Phêrô nêu ý kiến can ngăn Chúa tránh xa thập giá. Chúa cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm: Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Thầy là chết cho người mình yêu và Phêrô cũng không thể mường tượng ra được hy sinh là dấu chỉ của tình yêu chân chính, đích thực.
Phêrô theo Chúa là hình ảnh tuyệt đẹp. Từ khi được Chúa gọi, Phêrô đã liên tục theo Chúa. Chúa đã tỏ ra là yêu thương Phêrô cách riêng nên trong tất cả các biến cố của cuộc đời Chúa: vui, buồn, lo âu, thất vọng, Chúa đều cho Phêrô tham dự vào cách tích cực nhất. Phêrô đã tỏ ra mẫn cán trong sự thương yêu này. Có những cuộc theo Chúa rất đáng khen như trường hợp khi Chúa tuyên bố về bánh hằng sống thì có một số đông các môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, trong khi đó Chúa đã hỏi nhóm 12 là: “Còn các con, các con không bỏ thầy sao?”. Phêrô đã tỏ ra rất ngoan ngùy và can đảm thưa với Chúa: “Bỏ Thầy con biết theo ai vì chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống”. Nhưng cũng có những lần vấp ngã trong việc theo chân Chúa như trong cuộc thương khó của Chúa. Kinh Thánh trong trường hợp này đã diễn tả việc theo chân Chúa một cách rất tiêu cực của Phêrô. Chỉ với lời hỏi han về mối liên hệ với Chúa, Phêrô cũng đã chối phắt đi là không quen biết Ngài, không phải là một lần mà tới ba lần. Cả sau này nữa, khi Phêrô xác nhận được Thầy mình đã sống lại, nhưng trước những cơn bách đạo dồn dập khốc liệt, ông đã quyết định bỏ thành Rôma để ra đi, và chính Chúa phải hiện ra buộc ông trở lại để theo chân Chúa đến cùng. Như vậy, cuộc hành trình theo chân Chúa chẳng đơn giản chút nào. Rất nhiều chướng ngại và thử thách đang chờ đợi người tông đồ.
Chúa không chấp thuận theo Chúa xa xa hay theo Chúa có điều kiện. Ngài muốn chúng ta theo Ngài thì phải triệt để, trọn vẹn và dứt khoát: “đã cầm cầy không có ngoái cổ lại”; “ai không sẵn sàng từ bỏ cha mẹ, anh em, ruộng vườn… thì không xứng đáng là môn đệ ta”; “ai không đứng về phe ta là chống đối ta”; “hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tất cả những điều này cho thấy Chúa muốn những ai theo Chúa thì quyết liệt thuộc về Chúa vì chỉ có Ngài mới có lời ban sự. Đó cũng là thái độ của các môn đệ Chúa sau này, sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Phaolô đứng trước công nghị không hề sợ hãi mà còn tuyên bố thuộc hẳn về Ngài dầu có phải chết, “chúng tôi không thể nào mà không rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh và đã sống lại”.
Con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Con đường “đánh mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết: con đường “đánh mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (x.Đức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Con đường Chúa đi không có tiện nghi trần thế mà chỉ có từ bỏ và thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và vâng phục tự hiến. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Amen.
33.Theo Thầy Giêsu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.
Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải "đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải "từ bỏ chính mình", tức là "tư tưởng của loài người", mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy "anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1).
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.
Từ bỏ là một quy luật.
- Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
- Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ... có thế mới phát triển dần thành người lớn.
- Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
- Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia... mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).
Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần "mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô khác" hoàn toàn.
Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.
Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản "mất mạng sống mình vì Thầy". Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng "nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là "mất mạng sống mình vì Thầy" (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: "Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng" (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để "ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ "tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25), vì Thầy là "sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là "con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau. Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Cầu nguyện
"Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen." (Mẹ Têrêxa Calcutta).
34.Mục đích của đời sống--Lm. Mark Link, SJ.
Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17 tháng Tám, 1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người.
Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.
Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh.
Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.
Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối.
Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó.
Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu.
Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.
Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào.
Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức.
Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất-vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi "game".
Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên.
Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là, "Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa." Ông Yuksel trả lời, "Bây giờ thì không còn quan trọng nữa, vì bây giờ mọi sự sẽ khác biệt."
Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: "Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy." Và rồi ông khóc. Giống như tiếng khóc của đứa bé mới lọt lòng mẹ.
Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.
Điều này đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Trong bài Chúa Giêsu nói rằng, "Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy."
Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: "Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ."
Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel. Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao.
Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.
Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta--tối thiểu cho một số người trong chúng ta. Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Satan hơn là của Thiên Chúa.
Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống. Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt.
Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời. Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các thập giá ấy trong tinh thần mà Chúa Giêu đã chấp nhận thập giá của Người.
Và đây là phần đáng kể. Một khi chúng ta bắt đầu sống như Chúa Giêsu đã dậy, chúng ta sẽ khám phá ra điều mà Yuksel đã tìm thấy.
Nó sẽ thay đổi mọi sự, và bỗng dưng, điều tưởng như một thập giá to lớn lại trở nên một ơn sủng lớn lao trong đời này và đời sau.
Hãy kết thúc với câu chuyện để nói lên điều chúng ta muốn nói:
Một vài năm trước đây, Gene Stallings đã huấn luyện đội banh trường đại học Alabama để thắng được 22 trận và được coi là trường đứng hạng hai về "football". Nhưng không phải biến cố này, mà là một biến cố khác, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời của ông. Đó là việc sinh hạ đứa con trai, Johnny.
Khi bác sĩ nói với ông Stallings rằng Johnny sẽ bị hội chứng Down (chậm phát triển) và có lẽ không sống lâu hơn bốn năm, ông đã ngất xỉu.
Ba mươi năm sau, Johnny vẫn còn sống. Nói về ảnh hưởng của Johnny trong cuộc đời, ông Stallings cho biết:
"Cháu rất đặc biệt! Tất cả sự yêu thương của cháu thì vô điều kiện. Cháu không đạt thành tích gì. Cháu hoàn toàn vị tha."
Trong rất nhiều dịp, ông Stallings tuyên bố rằng cho dù có thể đảo ngược mọi sự và bắt đầu lại với một đứa con không bị bệnh Down thì ông cũng không muốn như vậy. Ông nói, "Tôi cảm nhận được rất nhiều ơn lành."
Điều mà ông Stallings nghĩ rằng sẽ là một thập giá lớn lao trong đời thì lại trở nên một ơn sủng lớn lao-cả ở đời này và ngay cả ở đời sau.
Đây là Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay. Đây là Tin Mừng mà chúng ta cử hành trong phụng vụ này.
Đó là Tin Mừng khi chúng ta vác thập giá của mình và theo Chúa Giêsu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Nhưng nó sẽ đem lại một bình an và phước lành mà chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng ra hay hy vọng tới--và ngay cả dám mơ tưởng đến.
35.Đường lối Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
Phêrô muốn đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn nhưng khi Đức Kitô nói về những thách đố, chông gai trong việc bước theo Phêrô trở nên ngần ngại, lo lắng. Đức kitô cho biết để trở thành môn đệ chân chính, đích thực điều tiên quyết là phải chấp nhận ‘thí bản thân mình’ cho tha nhân. Chính việc ‘thí thân’ này làm cho Phêrô trở nên khắc khoải bởi ông không thể mường tượng ra được việc ‘thí thân’ đòi hỏi những gì. Đức Kitô nói rõ hơn đó là vác thập giá bước theo. Cùng tâm trạng với chúng ta Phêrô chân thành muốn theo nhưng lại sợ thử thách, chông gai và vác thập giá.
Không có thập giá, không có sự sống lại thì việc hy sinh bản thân trở nên vô nghĩa. Có sống tất nhiên có chết vì thế mỗi ngày đều có chết một cách nào đó. Chết đây không thuần nghĩa chết về thể xác mà chết bằng nhiều cách khác nhau dưới dạng hy sinh. Có thể là chết hay hy sinh những đòi hỏi bất chính, tham vọng hay ích kỉ cá nhân để mang lợi ích cho người khác. Có thể là hy sinh ước vọng hay suy tư riêng để mang bình an cho gia đình. Có thể là hy sinh tập quán, đam mê xấu để trưởng thành trong nhân đức. Có thể là hy sinh tính kiêu căng, tự mãn để tâm linh phát triển. Chúng ta tự do trong việc quyết định đi theo Đức Kitô hay theo đường lối riêng tự chọn, đường lối thế gian. Chọn theo đường lối thế gian cũng vẫn không tránh khỏi hy sinh nhưng những hy sinh đó sẽ chết vĩnh viễn; trong khi chọn hy sinh hiến thân chết theo đường lối Chúa thì những hy sinh đó sẽ được Đức Kitô làm cho sống lại muôn đời bởi Ngài sống lại từ cõi chết và không bao giờ chết nữa nên chọn hy sinh chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài kết hợp với sự chết của Ngài và khi sống lại Ngài cũng làm cho sụ chết của chúng ta sống lại vĩnh cửu.
Kitô hữu tin rằng sự sống vĩnh cửu quan trọng hơn cuộc sống tạm bợ thế trần. Một số người lại chối bỏ sự sống vĩnh cửu tin rằng không có sự sống vĩnh cửu. Điều họ khẳng định dựa vào khôn ngoan lí luận của con người. Kitô hữu tin vào sự sống vĩnh cửu bởi niềm tin đó không đặt trên quan điểm lí luận sản phẩm của khối óc mà đặt căn bản trên Lời Chúa, trên giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài phán:
Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin ta sẽ không chết bao giờ Gn 14,7.
Tuyên bố trở thành môn đệ Đức Kitô chỉ là bước đầu trong việc đi theo. Đi theo đòi hỏi phải đi theo đường lối Chúa. Đi là tiến tới, không phải tiến lui, giật lùi. Tiến tới đây là tiến tới trên đường nhân đức, tiến lên trong việc học nên thánh mỗi ngày trong cuộc sống. Đức Kitô tuyên bố Ngài là đường nhưng con đường đó không được vẽ ra rạch ròi như trên bản đồ mà là hướng đi. Bởi đi theo hướng nên rất dễ sai đường, trật hướng. Sai đường xảy ra khi ta quá tự tin vào khả năng chuyên môn của ta hay của tha nhân. Không những đã sai mà còn là vật cản, ngăn đường, chặn lối đường ta tiến đến với Chúa.
Mấy phút trước Đức Kitô khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội và trao chìa khoá nước trời cho Phêrô. Mấy phút sau Đức Kitô khiển trách Phêrô gây nguyên cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xấy xảy ra cho Đức Kitô. Khi Đức Kitô tâm sự cùng các ông Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đanh chết trên thập tự, Phêrô nêu í kiến can ngăn Đức Kitô tránh xa thập giá. Đức Kitô cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm. Thứ nhất Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Đức Kitô. Sứ nạng đó là hy sinh chết cho người mình yêu. Thứ hai Phêrô cũng không thể mường tượng ra được đòi hỏi chết bằng cách hy sinh của người lãnh đạo trong Giáo Hội Chúa. Chết bằng cách hy sinh không có nghĩa là trở thành cuồng tín tôn giáo mà là dấu chỉ cho biết tình yêu chân chính, đích thực gắn liền với hy sinh.
36.Nghị lực người công giáo phát xuất từ đâu?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Sau khi đã làm vài phép lạ lẫy lừng, trong đó có phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau lúc đã khiêu khích Phêrô tuyên bố: “Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho rằng các môn đệ đã có thể nghe được những lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn của Người, Người biết là các môn đệ sẽ không hiểu một cách rõ rệt, nhưng họ cũng sẽ nhận ra ý nghĩa các lời Người vừa đủ để hứng chịu một sự xung đột não trạng của họ, khiến họ trông cậy vào một Đức Kitô làm vua với nhiều đắc thắng trần thế. Não trạng ấy sẽ bám chặt lấy trí óc của các ngài cho đến ngày Chúa sống lại. Cần phải có ngày Hiện xuống để mở lòng họ, giúp họ nhận biết Chúa Giêsu cách đích thật. Trong lúc chờ đời, Chúa đã chuẩn bị họ đón nhận một sự mạc khải làm họ hoang mang nhiều nhất: Ngài, Đức Giêsu, sẽ chịu đau khổ, sẽ chết và sẽ sống lại, phản ứng tức thời của họ không có hơi hướng đề phòng. Họ đã phát biểu qua tiếng nói của Phêrô: ‘Điều đó, lạy Chúa, không thể nào có được’. Chúa Giêsu trả lời như Người đã trả lời với ma quỷ trong sa mạc: ‘hãy đi xa khỏi mặt Ta’. Chúa Giêsu nghĩ tới cái định mệnh sẽ dẫn Người đến thập giá, Người áy náy sợ hãi. Bởi lẽ Người sợ hãi nên Người cực lực bác bỏ những gì cám dỗ Người thay đổi ý hướng. Người nhất định gìn giữ nguyên vẹn sự gắn bó của Người với tư tưởng của Thiên Chúa, tức là với ý muốn của Cha Người. Tất cả những gì đi ngược lại hiện ra như một sự cám dỗ và Người cự tuyệt một cách dứt khoát. Trước lúc hấp hối trong vườn cây dầu Chúa Giêsu đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu trong bản tính nhân loại của Người. Đọc qua chúng ta nên lưu ý đến tính hay thay đổi của lòng người như các môn đệ đã cho thấy. Sau khi tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô”, các môn đệ đã từ chối không chấp nhận điều mà Chúa Kitô nói với họ.
1) Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra quyết liệt trước mắt các môn đệ là những người có ý ngay lành và lòng tốt nên tìm cách thay đổi ý hướng Người trên con đường đưa tới cuộc Khổ nạn? Bởi vì nơi Người là Con Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa khiến ý muốn của loài người vượt qua những giới hạn riêng của mình. Mầu nhiệm về con người của Chúa Kitô là Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, không thể nào chúng ta hiểu thấu được. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng cái nghị lực của Chúa do bản tính Thiên Chúa của Người đã hiến cho Chúa Giêsu một cường độ đặc biệt trong ý muốn nhân loại của Người, cũng như sự nhã nhặn thiêng liêng đã hiến cho cảm giác của Người một khả năng vô biên để chịu đau khổ. Không biết chúng ta có suy nghĩ cho đủ rằng sự trung thành với đời sống công giáo chỉ có thể có nếu chúng ta thông công với nghị lực thiêng liêng của Chúa Giêsu? Riêng chúng ta, chúng ta bị đặt trước mọi cơn cám dỗ, có những cơn cám dỗ gây ra do sự yếu đuối của chúng ta và những cơn cám dỗ từ bên ngoài vào kể cả từ phía ma quỷ. Chúng ta chỉ có thể xua đuổi một cách mạnh mẽ, nếu chúng ta thông phần vào sức mạnh của chính Chúa Kitô qua lời cầu nguyện, qua các phép bí tích và qua đức bác ái.
2) Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa nhưng là của loài người. Câu trả lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô làm chúng ta phải suy nghĩ. Nó đặt ra vấn đề đức tin xác thực. Thực vậy theo lẽ thông thường và cũng là điều Thiên Chúa mong muốn chúng ta phải suy nghĩ về đức tin. Một đức tin ý thức và sống động phải là một đức tin được đón nhận cách sáng suốt. Nơi nhiều người trong thế giới của chúng ta hiện nay, đức tin tiến triển trong sự tìm kiếm. Lúc đó một câu hỏi được đặt ra là liệu khi suy nghĩ về đức tin, chúng ta có khuynh hướng thu hẹp đức tin trong cách thức suy nghĩ của loài người hay là chúng ta biết lo lắng để uốn nắn cách thức suy nghĩ của loài người cho phù hợp với lời giáo huấn, với luật lệ và lý tưởng của đức tin? Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà ngay cả trong Giáo Hội người ta thích những tư tưởng của loài người, hơn là tư tưởng của Thiên Chúa. Xin cứ nhìn nhận đó là một sự cám dỗ muôn đời. Điều ấy có nghĩa là các Kitô hữu của mọi thời đại, kể cả các Kitô hữu ngày nay, đã và đang phải chống lại sự cám dỗ.
37.Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Người nào đã mua một bản bảo đảm chính trị hoặc ký kết một bản hợp đồng thì bản phải biết đọc kỹ mọi điều kiện, ngay cả những phụ chú chữ nhỏ nữa. Thiên Chúa đã ký kết hiệp ước với chúng ta và chúng ta gọi đó là một giao ước.
Hôm nay phụng vụ khẩn nài chúng ta đọc lại toàn bộ các điều kiện bản hợp đồng, nhưng bản hợp đồng này không có những phụ chú chữ nhỏ. Thánh Kinh kể lại những giáo huấn của Đức Kitô được trình bày trước mắt chúng ta bằng chữ in hoa, những gì chúng ta cần phải biết về giao ước của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ chú ý đến sự khác nhau giữa một bản hợp đồng với một giao ước. Một hợp đồng bị trói buộc bằng luật, một giao ước trói buộc bằng tình yêu.
Một cuộc hôn nhân hợp pháp là một bản hợp đồng. Bí tích hôn nhân là một giao ước. Một bản hợp đồng bị trói buộc bởi luật pháp. Giao ước thì trói buộc bằng tình yêu. Trong Giao ước mà Giáo hội bị trói buộc là tình yêu Thiên Chúa, vì giao ước ấy mà chúng ta trông mong đáp bằng tình yêu của chúng ta. Một bản hợp đồng, chỉ định bổn phận cho cả hai bên được in lên giấy, có hai bên cùng ký tên và đóng dấu. Giao ước của chúng ta được diễn ta trong một con người. Con người đó là Chúa Giêsu Kitô. Bên trong người là tình yêu của Thiên Chúa qua thần tính của Người. Cũng bên trong con người nhân loại của Người là tình yêu của chúng ta. Điều này có nghĩa là để hiểu biết Giao ước, trước tiên chúng ta phải nhìn lên con người của Chúa Giêsu Kitô.
Hôm nay trong Phúc âm, Chúa Giêsu chỉ định phần của Người trong giao ước. Người sẽ đi lên Giêrusalem. Ở đó Người sẽ chết vì chúng ta. Người sẽ đóng dấu giao ước, không phải bằng mực nhưng bằng chính máu của Người. Hãy chấp nhận tình yêu được diễn tả trong cái chết của Con Người, Thiên Chúa Cha sẽ đưa Người tới đời sống mới.
Còn phần của chúng ta trong giao ước là gì? Chúa Giêsu trình bày nó theo cách thế này: “Những người muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta”. Đây có vẻ như một loại tình yêu lạ lùng, phải vác thánh giá để đến chỗ viên mãn của đời sống, nhưng đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, dự định của người. Chúng ta gọi dự định của Người là mầu Nhiệm Vượt Qua.
Ngay cả nhà đại tiên tri Giêrêmia cũng phải tranh đấu dễ hiểu được sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài không do dự phàn nàn: “Ôi lạy Chúa, Chúa đã bịp con và con đã để cho mình bị bịp”, chỉ khi Thiên Chúa nhấn mạnh thì tiên tri Giêrêmia mới chấp nhận vai trò tiên tri của ông nhưng ngay khi ông nói tất cả sự thật thì ông liền bị chế nhạo và bắt bớ.
Thánh Phaolô được chúc phúc bởi một mạc khải đầy đủ, đã nắm bắt tốt hơn mầu nhiệm Vượt Qua này. Ngài khẩn nài những người Roma hãy dâng hiến thân xác mình như “một lễ hy sinh sống động thánh thiện và đáng cho Thiên Chúa chấp nhận”. Chính chúng ta được mời gọi tiếp bước theo sự khẩn nài này bởi việc tham dự thánh lễ của chúng ta. Trong lời nguyện Thánh Thể, đặc biệt là lúc thánh hiến, chúng ta hợp với Chúa Giêsu, vị linh mục của chúng ta trong việc hiến dâng chính mình trên thánh giá. Đó sẽ là cách thế của chúng ta để nói rằng, chúng ta muốn theo ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta, trong tất cả những gì cần thiết. Đó cũng là cách thế chúng ta củng cố giao ước của Chúa Kitô, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu.
Chúng ta phải tiếp tục suy niệm về những hạn từ của giao ước. Với đức tin và ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận được những hạn từ cách sung sướng, bởi vì bằng việc làm chúng ta hợp nhất chính mình với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn chúng ta tới sự viên mãn của tình yêu và tình yêu ấy là ý nghĩa thật sự của giao ước chúng ta với Thiên Chúa.
38.Mất đi để được lại --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Trên Internet có kể câu chuyện như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất tiêng líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô hay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tar a cô mới bang hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong long. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô , hót vang nhữngg giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thạt chặt. Trái lại, để giữ mãi ự yêu thương thì ta phải ân cần trao hco cuộc tình một đôi cánh tự do.
***
Cô gái chỉ “được lại” niềm vui khi cô bằng lòng chịu “mất đi” chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Cần phải “Mất đi” để “được lại”.
Người Kitô hữu chỉ thực sự thật hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người kito hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn long “mất đi” của cải phù vân đê “được lại” gia tài vĩnh cửu, “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải “mất đi” và cái gì sẽ “được lại” đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; nhưng cai mình dày công kiếm tìn, theo đuổi.
Đâu pahi dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về “cái được”, “cái mất” cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghĩ chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). “Theo thầy” là “phải từ bỏ chính mình” hẳn là không dễ dàng. “Theo Thầy là “vác thập giá mình mà theo” lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngày sau đó, Đếc Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).
Các tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Teresa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustino đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
***
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con biết cái gì cần phải “mất đi”, cái gì cần phải “từ bỏ”, để chúng con được nhẹ nhàng bước theo Chúa trọn con đường mà Chúa muốn chúng con đi.
Xin cho chúng con trung thành theo Chúa đến cùng, cho dù là chông gai, đau khổ, vì chỉ có Chúa mới là cùng đích cuộc đời chúng con. Amen.
39.Thập giá, biểu tượng của tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.
Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.
Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.
Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.
Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.
Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.
40.Chúa Giêsu Kitô là ai?--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về "Trang Giấy Gấp Lại". Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt, chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:
"Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá
Những giọt mưa trên mái lá.
Tôi vẫn mở những quyển tập cũ
Bất chợt cho tôi gặp thấy
Một trang tập đã bị gấp lại
Và bên ngoài tôi đọc thấy
Dòng chữ do chính tay tôi viết
Lúc còn thiếu thời như sau:
Thầy giáo chúng ta bảo ta rằng,
Hãy tạm gác lại vấn đề.
Vì ở đây ngay trong lúc này
Nó quả thật là khó hiểu.
Tôi mở trang tập bị gấp lại
Đọc vấn đề tôi đã viết,
Mỉm cười tôi gật đầu rồi nói
Đúng vậy, thầy giáo nói có lý
Bây giờ tôi mới hiểu ra.
Có nhiều trang sách của cuộc đời
Đã ghi lại thật khó hiểu.
Bây giờ ta hãy xếp lại đây
Và để lại nơi bên ngoài.
Thầy cao cả của chúng ta bảo
Hãy để những vấn đề này nằm yên,
Vì chúng thật khó hiểu,
Rồi ngày kia trên thiên đàng
Chúng ta hãy mở ra và đọc,
Rồi chúng ta có thể nói
Thầy cao cả thật là có lý,
Bấy giờ chúng ta mới hiểu.
Bài thơ này như là một kinh nghiệm sống, có những điều bây giờ trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên đàng, đọc lại chúng ta sẽ hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay quả thật là khó hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho chúng ta hôm nay khi phải đối diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong cuộc đời: "Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Thầy".
Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài Phúc Âm tuần trước (x. Mt 16,12-23) trả lời cho câu hỏi: "Các con bảo Thầy là ai?", thánh Phêrô đã nhanh nhẹn trả lời: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng không phải do tự sức người của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lúc đó đã khen Phêrô là kẻ: "Có phúc", vì được Thiên Chúa Cha chúc phúc mạc khải cho biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói chúa Giêsu đã lên chức cho Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo Hội của Chúa: "Phêrô con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và sống trọn vẹn điều ngài đã tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức tầm thường của con người, là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ nhục, bị giết chết trên thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài tại Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: "Lạy Thầy không thể thế được, Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu!". Nhưng Chúa Giêsu trách Phêrô là Satan, là kẻ cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại.
Con đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn vẹn con đường này và Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta". Thầy Cao Cả của chúng ta có lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu khi chúng ta được gặp Ngài trên thiên đàng như bài thơ đã nói: "Thầy Chúng Ta Thật Có Lý", khi chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những khó khăn, những thập giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con can đảm, trung thành cho đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người đi qua, con đường này không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với nhiều thập giá đau khổ.
Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12), thánh Phaolô Tông Đồ đã mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ sống động và thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ dâng hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
41.Con đường khổ giá--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều bị xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Một ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình ảnh của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống. Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã làm ông điên loạn.
Rồi một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt, ông cầm gậy đập phá tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, ông ta đành phải dùng lửa để tiêu hủy.
Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu rụi toàn bộ căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác ông trôi lềnh bềnh trên sông”.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, và Ngài mời gọi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy” là những yếu tố làm nên cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Thập giá mình đó là thập giá của một kiếp người,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị sự bỏ rơi và phản bội,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta.
Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận.
Cũng như nhân vật trong câu chuyện trên, nếu chúng ta không chấp nhận thập giá, thì chúng ta sẽ tiêu diệt chính cuộc đời chúng ta, vì chính những thập giá làm nên cuộc đời chúng ta. Chúng ta từ chối chúng, tức là chúng ta từ chối chính cuộc sống của chúng ta.
Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, nên cách tốt nhất là chúng ta chấp nhận nó như có câu chuyện kể rằng:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng.
Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác.
Rồi đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu: Đây là nữ thần Jupia giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên thập tự và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Đức Giêsu Kitô ". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một vị thì cất đi sự đau khổ, còn một vị thì giúp tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích vị nào cả. Thế thì tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên thập tự như vậy?”
Intyra giải thích: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa không tưởng, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống kiếp người hèn nhát. Dù tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né hết đau khổ, vì tránh được đau khổ này thì lại gặp một đau khổ khác. Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, cho nên tốt nhất là đón nhận nó. Amen.
42.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Thái
"Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy"
Trong cuốn sách "the 911 Handbook," Kent Crokett nói rằng ở bên trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định mạng sống của phi công.
Ngày 16-7-1999, John F. Kennedy Jf., con trai của cố Tổng thống John Kenndy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Matha's Vineyard, tiểu bang Massachusetts, gây tử vong cho vơlag Carolyn Bessette Kennedy và người chị vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sơng mù - haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thườn xảy ra trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị sưong mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất pía dới cần thiết để hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại cắm đầu đâm xuống biển.
Bài phúc âm hôm nay, Mt 16:21-28, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai phương hướng, Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa cha, sẽ đi lên Giêrusalem chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phero muốntheo phương hướng trần gian: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu". Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: "Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy... con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người". Rồi ngài dạy các môn đệ: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".
1. Từ bỏ chính mình:
Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ kiểm soát cuộc đời của mình. người ta thường nghĩ sẹ từ bỏ mình giống như việc hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹp, ăn kem, hút thuốc lá... những sự hy sinh hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà chúa Giêsu đề cập đến. Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chínhlà sự từ bỏ thực sự.
Năm 1991, Trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15 trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm - Bão sa mạc. Ngay đêm dầu tiên của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống những nhà máy chế tạp vũ khí hóa học ở phía bắc Irap. Ngày giờ của cuộc hành quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh cũng không bị theo dõi bởi dàn phòng không của Irap, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải hoàn toàn tùy thuộc vàonhừn dụng cụ máy móc điều khiể.
Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của patton đã bị "khóa chặt" bởi dàn ra đa chống hỏa tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vậy mãnh liệt để thoát ra khoi sự kiểm soát của ra đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời cao, nhưng khi kiểm soát lạinhững dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí ngĩ rằng phải điều chỉnh lại phi cơ về một hướng khác, thì nhừn dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm ngượclại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết địnhnhanh chóng tin vào phán đoán củạý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tùy thuộc vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bẩy lần lực hút của trái đấy, để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã quyết định đúng. Nếu ông hạu mũi phi cơ giống như điều đã nghĩ, pi cơ đã đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫnđã cứu mạng sống của ông. Mă2lc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu trỉoãn thêm ba giây nữa thôi, pi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định đúng, nhừn trễ cũng vẫn chết.
Trong cuộc hành trình tinh thần. Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta "những dụng cụ hướng dẫn". Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời sống thiên gliên (Pl 2:21). Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa như chính chúa Giêsu đã làm (Mt 26:39; Ga 3:14; Rm 6:13; 12:1; Gl 1:10) là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
2. Hãy vác thập giá:
đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh danh cho Thiên chúa và giúp xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu đề cập ở đây không phải là gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.
Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người cha, mẹ, chồng, vợ, con cái... trong gia đình, việc dậy giáo lý ngày Chúa nhật, viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.
"Theo luật Kanun, đối với nhiều sắc tộc miền núi phía BẮc Albanie thì nợ máu phải trả bằng máu. Cha Dionis Maka, thuộc dòng Phanxico, 92 tuổi, đã suốt đời tranh đấu, tận tụy khuyên nhu dân chúng từ bỏ tập tục ghe gớm đó vì nó gay nên nhiều thẳm trạng và hận thù không bao giờ chấm dứt. Đây là luật rừng trong những vùng Scutari, Dukajini, và Lezhe. Trong vùng xảy ra nhiều vụ ám sát thanh toán lẫn nhau để trả thù nợ máu.
Để tránh những cuộc trả thù đẫm máu, Cha Dionis đã phải tìm hiểu xem bạn bè của họ là ai để làm trung gian điều đình, đền bụ sự thiệt hại, và xin tha thứ. Cha phải hành động một cách bí mật và thận trọng để tránh làm cho đôi bên khó chịu bực mình. ngài đến gặp từng người một và yêu cầu họ giúp đỡ. Cám ơn Chúa, rất nhiều người đã không từ chối mà còn nhiệt tình giúp đỡ nữa.
Cuộc hòa giải có thể thu xếp được nếu kẻ sát nhân nhận lỗi và chịu bồi thường mười hai con bò cho gia đình người bị giết. Cha Dionis Maka đã làm việc tích cực để đưa tinh thần yêu thương của Tin Mừng đến với các sắc tộc này hòng thay đổi sự báo thù. (Viết theo tin của viet-cotholic news, ngày 22/7/2002).
Cha Dionis Maka đã vác thập giá. Trong nhiều cách khi ta phục vụ cho Thiên Chúa qua những người anh chị em mình vì tình yêu thương, ta vác thập giá với Chúa Giêsu như gương Mẹ Teresa Calcutta đã làm. Sách giáo lý công giáo sồ 618 đã nói: "Thập giá là hy sinh độc nhất của Chúa kitô 'vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loàingười' (1Tm 2:5). Nhưng, trong Ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, 'Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất với tất cả mọi người,' 'Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu nhiệm Vượt qua của ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết'. Ngài kêu gọi các môn đệ: 'Vác thập giá và đi theo Ngài', bởi vì 'Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo ngài' (1Pr 2:21).
3. Bước theo Thầy
Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, ta bước theo những vết chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động, qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần gíúp đỡ. (Pl 3:18-19; Gc 2:24-26; Tt 1:16; Rm 4:12; Ga 8:39). Chúng ta phai sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.
Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạc cứu chuộc của Thiên Chúa Cha trên trời: "Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc đời của Ngài, bơi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự Nhập Thể của Ngài" (GLCG #607). Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: "Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16:24).
43.Hy sinh vì tình yêu--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin Mừng Mt 16: 21-27: Để là Kitô hữu, phải chăng chỉ cần tuyên xưng như Phêrô về Chúa Giêsu Kitô: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Để là Kitô hữu, phải chăng chỉ cần tuyên xưng như Phêrô về Chúa Giêsu Kitô: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống". Nếu thế là đủ thì quả thật quá dễ dàng để mang danh hiệu cao quí: 'Kitô hữu'. Tuyên xưng bằng môi miệng không quan trọng bằng tuyên xưng bằng chính cuộc sống. Lời tuyên xưng ngoài miệng phải là kết quả của cả một tâm hồn, một định hướng, một lẽ sống theo Chúa Giêsu Kitô.
Tin bằng cả cuộc sống mới có thể đón nhận được sức mạnh và uy quyền của Người. Tin bằng cả cuộc đời dấn thân mới có thể vác thập giá theo Người trên đường khổ nạn.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Gr 20,7-9
Ngọn lửa Lời Chúa dày vò tâm can
Phải đương đầu với sự truy hại, Tiên tri Giêrêmia tự hỏi làm thế nào để có lòng can đảm để tiếp tục sứ mạng của mình? Ông thừa nhận, chính Thiên Chúa đã quyến rũ ông. Lời của Chúa là một ngọn lửa dày vò, thôi thúc ông. Ông không thể nào không loan báo Lời Chúa.
a. Làm thế nào mà một người nhát đảm như Giêrêmia lại dám lên tiếng công bố những điều khủng khiếp, khích động và chế nhạo những kẻ truy hại mình?
b. Chính Thiên Chúa đã chọn ông, đã quyến rũ ông. Thiên Chúa đã phá bỏ tính nhút nhát nơi ông, làm cho ông có khả năng chu toàn sứ mạng của mình cho đến cùng, đến độ tử đạo.
c. Đó chính là thái độ của Thiên Chúa đối với những người Ngài tuyển chọn. Ngài dùng họ, quyến rũ họ. Ngay từ lúc đó, Ngài giúp họ chiến thắng sự sợ hãi, làm cho họ can đảm bước vào một cuộc phiêu lưu lớn của một cuộc sống hoàn toàn cho đi.
2. Bài đọc II: Rm 12,1-2
Hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa
Thánh Phaolô khuyên dạy tín hữu từ bỏ những nếp sống theo thói đời để dâng hiến toàn bộ cuộc sống cho Thiên Chúa như một của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa.
a. Từ chương 12, (và thường phần cuối các lá thư của Thánh Phaolô) được gọi là phần khuyến thiện. Trong phần này, thánh nhân thường dùng để cầu nguyện, an ủi và khuyên bảo mọi người thực hiện những việc tích cực tốt đẹp trong đời sống.
b. Thiên Chúa tỏ lòng xót thương con người, để đáp trả đòi hỏi con người phải biết hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thánh Phaolô dùng từ ngữ 'hiến thân' để nói đến việc dâng hiến này. 'Thân mình' ở đây là toàn bộ cuộc sống, toàn thể con người sống động.
c. Của lễ dâng hiến Thiên Chúa không phải là lễ vật như của các tôn giáo khác là tiền của, vật chất… nhưng là chính bản thân, là cuộc sống. Của lễ đó sống động vì sống để dâng mình phục vụ Chúa trong anh chị em; của lễ đó thánh thiện vì được hiến dâng cho Chúa và của lễ đó đẹp lòng Chúa vì sẽ được Ngài đón nhận.
3. Tin mừng: Mt 16,21-27
Phải theo Đức Kitô lên đồi Canvê
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết về cuộc thương khó và tử nạn của mình, Chúa Giêsu báo trước cho các ông rằng chính các ông cũng phải theo Người trên đường thập giá.
a. Trong Tin mừng Matthêu, chúng ta thấy có ba lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Người (16,21; 17,22-23; 20,17-19). Sau mỗi lần loan báo đều có ghi lại phản ứng u mê, sai lầm và tiêu cực của các môn đệ trước lời loan báo này. Sau mỗi lần như thế Chúa Giêsu lại giải thích cho các ông hiểu thêm về sứ mạng của Người.
b. Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người cho các môn đệ. Người sẽ phải chịu những sự sỉ nhục và sự hành hình của thập giá trước khi đón nhận vinh quang phục sinh.
c. Khổ nạn là một yếu tố rất cần thiết trong công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Đây là phần mầu nhiệm nhất, thâm sâu nhất và mới mẻ nhất trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu. Đây cũng là cớ làm cho nhiều người vấp phạm, cớ vấp phạm cho dân Do thái, cho các Tông đồ và cho nhiều người qua nhiều thời đại. Qua cuộc khổ nạn của Chúa đã hình thành nên một qui luật chung cho những ai muốn làm môn đệ Người: Tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Ai muốn làm môn đệ Đức Kitô phải vác thập giá mình mà theo Người.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Thập giá - con đường Kitô hữu phải đi:
Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết về con đường khổ giá Người sẽ đi, đồng thời, mời gọi cũng như báo trước cho các ông biết các ông muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi vào con đường thương khó ấy. Chúa Giêsu loan báo và đã thực hiện trọn vẹn con đường thập giá với cái chết nhục nhã trên đồi Canvê. Đến lượt các môn đệ và mỗi Kitô hữu ngày nay cũng thế, phải đi vào con đường thập giá. Thập giá là cách thế Chúa Giêsu thực hiện công trình ban ơn cứu độ cho nhân loại thì thập giá cũng là cách thế để chúng ta đón nhận ơn cứu độ và thông chuyển ơn cứu độ cho con người và thế giới.
Cuộc sống con nguời vốn dĩ đã đầy đau khổ, thử thách. Đó chính là thập giá mà Chúa Giêsu đã vác và muốn Kitô hữu cùng vác với Người. Làm sao tránh khỏi khổ đau, gian nan, thử thách của kiếp người đầy tục lụy? Chả có cách nào từ chối chúng, vậy chi bằng hãy đón nhận trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Người đã đi trước, vác thập giá trước và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Kitô hữu cũng hãy vác thập giá với Người, chúng ta sẽ được biến đổi và nên hữu ích cho anh chị em chung quanh.
2. Thập giá - con đường chẳng ai muốn đi vào:
Sau khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, chính Phêrô, người trước đó đã mạnh miệng tuyên xưng đức tin của mình, vậy mà đã lên tiếng trước mọi người ngăn cản Chúa Giêsu. Mỗi người Kitô hữu cũng thế, cũng phản ứng như Phêrô ngại chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, bệnh tật, bị khinh miệt… rất nhiều những thâp giá giữa đời thường hầu như không thể chấp nhận được với mỗi người chúng ta. Không ai muốn mình phải khổ cả, Chúa cũng chẳng muốn điều đó. Tuy nhiên, lời mời gọi vác thập giá mang ý nghĩa hiện sinh và tôn giáo sâu sắc: Nếu tin vào Chúa thì không có gì phải lo ngại cả. Chúa Giêsu cũng có lúc muốn từ chối thập giá, nhưng rồi hoàn toàn phó thác trong tay Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha, để rồi đã hoàn tất công trình cứu độ yêu thương mang lại sự sống, tình yêu và hạnh phúc cho nhân loại.
Thập giá là con đường theo tâm lý thường tình thì không ai muốn cả. Nhưng trong niềm tin Kitô hữu can đảm bước vào, vì biết rằng đó là điều Chúa muốn, làm đẹp lòng Chúa và sẽ được Chúa tôn vinh. Kitô hữu chúng ta hãy can đảm vác thập giá theo Chúa Giêsu Kitô, không ngần ngại.
3. Thập giá - con đường đến vinh quang:
Khi loan báo về cuộc khổ nạn cũng như khi mời gọi các môn đệ vác thập giá theo mình, Chúa Giêsu cũng cho biết trước vinh quang phục sinh: ngày thứ ba Người sẽ sống lại; ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ được sống; Con Người sẽ đến trong vinh quang, trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm. Như thế, thập giá, cuộc thương khó không mang sắc thái bi quan, thất vọng, chết chóc nhưng lại mở ra một niềm hy vọng, niềm vui và sự sống tích cực. Sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tất cả giá trị, hiệu quả cao quí của mầu nhiệm thập giá. Qua thập giá đến vinh quang, đó là chân lý.
Trong cuộc sống đời thường có gì vinh quang, có gì thành công, có gì thành đạt mà không phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu nữa? Phải qua gian khó, thử thách mới tôi luyện con người nên trưởng thành; phải qua vất vả mới có thể thành công; phải qua thập giá mới đến vinh quang đích thực.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, con đường khổ giá chắc chắn không nhẹ nhàng, không thanh thản khi bước vào. Phải có ơn Chúa mới có thể đi trọn vẹn. Vậy giờ đây, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện xin:
1. Những sự chống đối từ bên ngoài, những trào lưu phi luân lý và những rạn nứt nội bộ luôn là những thập giá mà Giáo hội khắp nơi phải gánh chịu, phải đương đầu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội luôn mạnh mẽ tin tưởng vào Chúa, can đảm đấu tranh cho sự thật, gìn giữ và phát triển sự hiệp nhất.
2. Ngày nay biết bao người đã và đang phải đối diện với thập giá là nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh và biết bao sự khó khăn khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho đời sống của xã hội ngày càng gia tăng phát triển tình bác ái, sự hiệp thông chia sẻ giữa người giàu và nghèo; giữa các nước phát triển và chậm tiến để mọi người thực sự được bình đẳng, thụ hưởng tự do, hòa bình, ấm no và hạnh phúc.
3. "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta được tràn đầy ơn Chúa để tất cả luôn tin tưởng, cậy trông và vui nhận vác thập giá theo Chúa.
* Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu mến chúng con, Chúa đã can đảm chấp nhận thập giá, chịu chết để ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm theo Chúa, biết đón nhận và sống vì mọi người như là cách thế chúng con vác thập giá theo Chúa lên đồi Canvê. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
44.Lời khen chê của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Người đã khen ngợi ông. Tại sao Chúa lại khen? Tại vì Phê-rô đã biết để cho Chúa Cha soi sáng và hướng dẫn mình: “Si-mon, con ông Giô-na, con thật có phúc, không phải thịt máu mạc khải cho con biết nhưng là Cha Thày, Đấng ngự trên trời.”
Chúa không những khen mà còn gọi Phê-rô là Tảng Đá, trao chìa khóa Nước Trời và quyền cầm buộc tháo cởi cho ông nữa: “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày…”
Nhưng khi nghe thấy Chúa Giê-su loan báo một Đức Ki-tô chịu nạn chịu chết rồi mới sống lại để cứu chuộc nhân loại, thì Phê-rô đã lên tiếng can ngăn: “xin Thiên Chúa gìn giữ, đừng để Thày mắc phải sự ấy”.
Khác với lần trước, lần này Chúa Giê-su đã nặng lời khiển trách ông. Tại sao Chúa lại khiển trách? Tại vì Phê-rô đã để cho Sa-tan xui khiến, hòng làm cho Chúa Giê-su đi chệnh đường cứu độ nhân loại của Chúa Cha: “Sa-tan, hãy lui ra đàng sau Thày. Anh cản lối Thày, tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người.”
Từ những điểm trên, ta thấy Chúa Giê-su là Đấng rất ngay thẳng, biết khen chê đúng thời đúng lúc.
Là người ai cũng thích được khen thưởng, không muốn bị chê trách. Muốn được khen thưởng, thì phải chu toàn ơn gọi và sống đúng vị thế của mình:
Là phàm nhân, chứ không phải Thiên Chúa, thì không thể lấy tư tưởng của mình để áp đặt cho Thiên Chúa.
Là môn đệ Chúa phải đi theo Chúa, đứng đàng sau Chúa và để Chúa hướng dẫn mình, chứ không phải bắt Chúa đi theo sau mình.
Tiếc thay, nhiều người muốn được khen thưởng, nhưng lại không sống đúng vị thế của mình:
Là môn đệ mà lại đòi hướng dẫn thày, bắt thày phải đi theo mình.
Là phàm nhân nhưng lại muốn điều khiển Thiên Chúa.
Cổ nhân gọi loại người ấy là ‘trứng khôn hơn vịt’. Sống như vậy, người đời còn khiển trách phê bình, huống chi là Chúa, Đấng sẽ thưởng công luận tội ai nấy xứng với việc mình làm.
Lạy Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người là Chúa và là Thày của chúng con mà còn phải chịu tử nạn rồi mới phục sinh vinh quang để cứu nhân độ thế. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Chúa dạy mà sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo Chúa ở đời này, để mai sau chúng con được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời vinh quang. Amen.
45.Phải lên Giêrusalem--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Ngay sau trình thuật Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, các tin mừng nhất lãm đều đặt ngay sau đó lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu (Mt 16,21-28: Mc 8,31-33; Lc 9,22). Thánh sử muốn gắn liền Đức Kitô, Con Thiên Chúa với sứ mạng cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá; cụm từ “Con Người”, hyios tou anthrōpou, đóng khung đoạn lớn nầy (16,13-28). Sau đoạn 16,21-28 nầy là trình thuật Chúa Giêsu biến hình. Ngài bày tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài trước khi Ngài vào “trong Nước của Ngài” (16,28).
Đoạn 16,21-28 gồm hai phân đoạn bắt đầu bằng “Chúa Giêsu nói với các môn đệ”: – Loan báo cuộc vượt qua của Ngài (cc. 21-23); – Điều kiện của người muốn làm môn đệ Ngài (cc. 24-28). Các hạn từ liên quan đến cuộc vượt qua của Chúa Giêsu và sự từ bỏ để đi theo Ngài: – trong cc. 22-24: “lên Giêrusaelm”, “đau khổ”, giết”, “sống lại”; – trong cc. 24-28: “từ bỏ” “vác thập giá”, “đi theo”, “tìm – mất”, “lời lãi – thiệt mất”, “đến trong vinh quang”, “vào trong Nước của Tôi”.
Loan báo cuộc Vượt qua (cc. 21-24)
Về cấu trúc, đoạn nầy gồm một tuyên bố của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài (c. 21), tiếp theo là phản ứng của Phêrô trước lời tuyên bố (c. 22), và nhận xét của Chúa Giêsu về cách phản ứng của Phêrô (c. 23). Matthêô mở đầu đoạn bằng apototē, “Từ bấy giờ” để liên kết với đoạn trước. Thánh sử thay “Con Người” (Mc 8:31) bằng “Ngài”, auton, và thêm “đi lên Giêrusalem”. Lời tiên báo của Chúa Giêsu (c. 21) gồm “Ngài phải” và tiếp theo đó là 4 động từ ở thể nguyên mẫu: “đi lên”, “đau khổ”, “giết” và “chỗi dậy”, một chỉ dẫn nơi chốn là “Giêrusalem”, và “niên trưởng”, “thượng tế” và “kinh sư” là những người lãnh đạo tôn giáo tại Giêrusalem.
Sau khi xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu nói đến cuộc vượt qua của Ngài. Sứ mạng cứu độ nầy gắn liền mật thiết với tước hiệu “Đức Kitô”. Giêrusalem là nơi cuộc thương khó sẽ xảy ra, và các tác nhân chính là các lãnh đạo tôn giáo. Ngay khởi đầu tin mừng, Matthêô đã cho thấy Giêrusalem và nhóm những người nầy đã hoảng sợ với tin “Vua dân Do thái mới ra đời” (2,3-4). Họ sẽ chủ động trong việc giết Chúa Giêsu (27,1tt; 28,12).
Động từ dei, “phải”, chỉ một sự cần thiết vô điều kiện. Điều được nói ra với dei thường được hiểu như là chương trình của Thiên Chúa (x. Cv 5,29; 1 Thess 4,1; Rom 8,26; 1 Co 8,2; 1 Tim 3,2.7.15; Lc 13,14.16). Ở đây dei diễn tả ý muốn của Thiên Chúa về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ý thức chương trình nầy là của Chúa Cha. Ngài hoàn toàn tích cực tuân theo ý Cha trong cuộc thương khó sắp đến. Ý muốn của Chúa Cha được diễn tả cụ thể trong 4 động từ ở thể nguyên mẫu. Trước hết là “đi lên Giêrusalem”, việc nầy sẽ được thực hiện ở câu 20,18; rồi “đau khổ”, paschō, rất nhiều trong cuộc thương khó,“bị giết” bởi các lãnh đạo do thái, và sau cùng “được chỗi dậy”. Chính Chúa Cha sẽ làm cho Ngài sống lại, “sẽ được chỗi dậy” (x. Cv 2,22-4; 3,13-15; 4,10; 5,30-31; 10,36-40).
Trước lời tiên báo nầy, Phêrô phản đối Chúa Giêsu: “Xin Thiên Chúa thương Ngài”, nghĩa là “xin Thiên Chúa xót thương giữ cho Ngài khỏi điều ấy” (c. 22). Trong trình thuật trước, Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Dân chúng và các môn đệ đã chứng kiến tận mắt những việc Chúa Giêsu đã làm trong suốt thời gian sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Ngài đáp ứng trọn vẹn những nhu cầu thường ngày của mọi người: chữa bệnh, xua trừ ma quỉ, mở mắt người mù, làm cho người phung hủi được sạch… (x. 9,35; 11,5); và gần hơn với trình thuật nầy là việc Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều (14,13-21), và cứu các môn đệ khỏi sóng gió và Phêrô khỏi chìm 14,22.33). Phêrô cũng như dân chúng thời bấy giờ mong đợi một đấng thiên sai đầy vinh quang và quyền năng như thế. Vì thế ông không thể chấp nhận lời tiên báo chết chóc và làm thất vọng như thế được.
Khi ngăn cản Chúa Giêsu thực hiện điều Ngài tiên báo về cuộc thương khó, Phêrô phản đối Chúa Cha một cách gián tiếp. Chúa Giêsu ra một mệnh lệnh cho ông “Xéo đi sau Tôi”. Phêrô, thay vì đi theo đằng sau lưng Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bấy giờ ông vượt lên đứng trước mặt Ngài mà cản đường. Cách nói opisō mou, “theo sau Tôi” thường được dùng trong ngữ cảnh Chúa kêu gọi ai đó làm môn đệ (4,10; 10,38). Thầy đi trước, môn đệ theo sau. Làm môn đệ là đi theo sau lưng thầy và học cùng thầy. Phản ứng của Phêrô, ra phía trước Chúa Giêsu và ngăn cản Ngài, không phải là phản ứng của người môn đệ, mà là phản ứng của Satan. Chúa Giêsu gọi ông là “Satan”, thay vì “Phêrô” hay một tên nào khác, vì “Satan”đã đứng trước Chúa Giêsu và yêu cầu Ngài quỳ gối thờ lạy nó; nghĩa là thờ phượng và phụng sự nó (4,10). Phêrô đứng trước Chúa Giêsu và muốn Ngài làm theo ý của ông. Như Chúa Giêsu đã đuổi Satan biến đi, Ngài cũng đuổi Phêrô về lại đằng sau lưng Ngài.
Phêrô bị trách là không hiểu đường lối/tư tưởng của Thiên Chúa (c. 23). Các bản dịch khác nhau trong cách dịch cụm từ “ta tou Theou” và “ta tou anthrōpōv” nầy. Cụm từ ta tou Theou nầy gặp thêm một lần nữa trong 22,21, lúc nầy có nghĩa là “những gì thuộc về Thiên Chúa” (xem các cách nói tương tự trong Rom 8,5; Phil. 3,19; and Col 3,2). Theo văn mạch ở đây, Phêrô phản đối việc Đức Kitô phải chịu cuộc thương khó, cũng có nghĩa là ông phản đối “đường lối/cách làm của Thiên Chúa” trên Chúa Giêsu. Động từ phroneō, có nghĩa là “chăm chú vào”, “đặt tâm trí vào”. Như thế có thể hiểu là Phêrô đã không để tâm vào đường lối của Thiên Chúa mà chỉ vào đường lối con người, nên không hiểu điều ý muốn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitôđã để Thiên Chúa hành động nơi mình. Ngài vâng phục lên Giêrusalem và chịu thương khó, bị giết và sẽ được làm cho sống lại. Phêrô cản trở vì ông không hiểu cách làm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ giải thích rõ hơn cách làm của Thiên Chúa trong đoạn tiếp theo.
Điều kiện của người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (cc. 24-27)
Như phần trước, đoạn nầy cũng dẫn nhập bằng câu vắn “Chúa Giêsu nói với các môn đệ”, rồi một tuyên bố tổng quát về việc theo Chúa (c. 24), được giải thích trong ba trình bày “Vì…”, gar (cc. 25.26.27), và kết thúc bằng một loan báo dẫn vào bởi công thức long trọng “Quả thật, Tôi nói cho các anh biết….”, Amēn, legō hymin (c. 28). Phần nầy liên hệ với phần trên bằng từ nối “theo sau tôi” (cc. 23 và 24). Qua phản ứng của Phêrô, Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ về cách đi theo Ngài.
Làm môn đệ làđi “theo sau” Chúa Giêsu (c. 24). Đi “theo sau” Chúa còn có nghĩa là người môn đệ không đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đang đi. Chúa Giêsu đưa ra một câu điều kiện bắt đầu với động từ thelō, “muốn”. Trong câu nầy, điều kiện “đi theo Chúa” gắn liền với những hậu quả tất nhiên được trình bày trong vế thứ hai là “từ bỏ chính mình”, “vác thập giá” và “đi theo Chúa” (10,38; 27,32). Những hậu quả tất nhiên nầy được rút ra từ cuộc thương khó của Chúa Giêsu do Chúa Cha hoạch định (16,21). Trong cuộc thương khó của mình, Chúa Giêsu sẽ từ bỏ chính mình để làm theo ý của Chúa Cha (26,39), và chịu đau khổ và chịu chết trong nhục hình thập giá (27,32). Bởi đó, đòi hỏi của Ngài đối với người muốn làm môn đệ của Ngài không là gì khác ngoài việc muốn họ thực hiện ý Chúa Cha theo cách Ngài đã làm.
Câu giải thích thứ nhất theo cấu trúc đối đảo (c. 25): – a- cứu mạng sống mình; b- mất nó; b’- mất mạng sống mình; a’- tìm được nó. Cấu trúc nầy tập trung trên việc “mất mạng sống mình”. Hơn nữa trong về thứ hai (c. 25b), quan trọng hơn, có thêm yếu tố “vì Tôi”. Các động từ trong vế thứ hai đều ở thì tương lai, apollymi và heuriskō (c. 25) và ōpheleō (c. 26), chỉ hậu quả sẽ xảy đến sau nầy. Cụm từ “mạng sống mình”, psychē autou, được dùng 4 lần trong hai câu 25 và 26, có nghĩa là “chính mình”, heautou (Zerwick M., Biblical Greek, §212); “từ bỏ chính mình” ở câu trên (c. 24) được diễn tả ở đây dưới một dạng khác “mạng sống mình”. Psychē là tâm điểm của đời sống trần thế và siêu việt; nghĩa là tất cả gì làm nên một con người toàn diện. Khi kêu gọi các môn đệ từ bỏ “mạng sống mình”, Chúa Giêsu muốn họ đừng tìm sự bảo đảm nơi chính mình, nhưng nơi Thiên Chúa. Phêrô đã suy nghĩ theo cách của mình và cho là đúng nên đã ngăn cản Chúa Giêsu. Ngược lại, Chúa Giêsu mời gọi đặt “mạng sống mình” trong ý muốn của Thiên Chúa.
Rồi “Từ bỏ chính mình” được so sánh với “thế gian” (c. 26). Câu nầy gồm hai câu hỏi, và nội dung cũng liên quan đến cách đối xử với mạng sống mình. Các câu trả lời phải là “Không”. Như câu trước, ở đây cũng có các động từ đối nghĩa nhau: “kiếm được”, kerdainō và “thiệt mất”, zēmioō. “Thế gian”, kosmos, nầy là “nước trần gian và vinh quang của ma quỉ” (x. 4,8). Động từ kerdainō hiểu theo nghĩa đen (x. 25,14-30). So sánh nầy gợi đến câu chuyện người giàu có trong Luca 12,16-21. Linh hồn/mạng sống quý trọng hơn sự giàu có thế gian, và không gì có giá trị bằng sự cứu rỗi của linh hồn. Linh hồn là quý nhất.
Sau cùng, Chúa Giêsu nói đến việc Con Người đến trong vinh quang sau khi nói về việc “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá” của ai muốn đi theo Chúa (c. 27); giống như lời tiên báo về cuộc khổ nạn được kết thúc bằng loan báo sự phục sinh, “Ngài sẽ được chỗi dậy” (c. 21). Nội dung nầy sẽ được nói lại cho Phêrô khi ông đặt ra vấn đề phần thưởng bởi việc đi theo Chúa. Ngài hứa với ông việc sự phần của những người đi theo Ngài (19,28; 24,30; 25,31). “Vinh quang trong Nước của Ngài” sẽ được tỏ cho các môn đệ thấy trong việc Chúa Giêsu biến hình (17,1-9).
Con Người đến trong Nước của Ngài (c. 28)
Matthêô kết luận trình thuật nầy bằng một loan báo trọng thể bởi cách dẫn nhập “Quả thật”. Loan báo nầy liên quan đến các môn đệ đang nghe Chúa Giêsu giáo huấn, “những người đang đứng ở đây” (x. 16,24). Ngài hứa với họ là họ sẽ thấy Ngài “đi vào trong Nước của Ngài”. Điều nầy được thực hiện trong biến cố Ngài lên trời (28,17-18). Chúa Giêsu Kitô sẽ cho họ chứng kiến điều nầy như là một bảo đảm về chính Ngài là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). Ngài đi vào trong Nước của Ngài, cũng là vào trong “vinh quang của Cha” (c. 27); đồng thời cũng là một bằng chứng thật cho Phêrô và các môn đệ là những người “muốn đi theo Ngài” (c. 24). Nếu họ chấp nhận thực hiện ý của Thiên Chúa như Ngài là đi vào đường thương khó (c. 21; cc. 24-27, họ cũng sẽ được cùng Ngài dự phần sự sống vinh quang của Chúa Cha (c. 27).
Kết luận: Có một sự thống nhất giữa Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài là đi chung một con đường từ thương khó đến phục sinh. Những điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ và vác thập giá được rút ra từ cuộc thương khó của Ngài. Ai chấp nhận chương trình của Thiên Chúa trên mình, người ấy cũng sẽ được chung phần vình quang với Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
46.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Jaime L. Waters
(Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
ĐIỀU GÌ LÀM NÊN MỘT NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỐT?
Sự khôn ngoan của Giêrêmia, Phaolô và Đức Giêsu.
Chúa nhật XXII Thường niên hôm nay tiếp tục giúp chúng ta nhận biết người lãnh đạo tốt ở giữa chúng ta. Các bài đọc cho thấy những rủi ro khi lên tiếng về vấn để không liêm chính, tầm quan trọng của sự thận trọng, những nguy hiểm của sự hiểu lầm và sự cần thiết của tính vô vị lợi.
Nhiều lần, Giêrêmia đã than trách về tác vụ ngôn sứ của mình, nhất là vì phản ứng của cộng đoàn đối với lời rao giảng của ông. Ông kêu than rằng: “tôi đã trở nên trò cười cho thiên hạ, và mọi người đều chế nhạo tôi”, bởi vì dân chúng khước từ những lời ông tiên báo về sự tàn phá trong hiện tại và tương lai. Giêrêmia than trách ơn gọi của mình vì ông thấy rất khó để truyền đạt sứ điệp mà mọi người chẳng muốn nghe. Nguy cơ ấy vẫn tồn tại ngày nay. Nhiều người chỉ muốn nghe những sứ điệp tích cực, vừa ý, ngay cả khi cần phải nhắc đến và khắc phục những vấn đề khó khăn.
Trong khi Giêrêmia thỉnh thoảng phải miễn cưỡng đối với ơn gọi của mình ông cũng nói lên tầm quan trọng phải nói sự thật, và nhận ra rằng quả là đau khổ và mệt mỏi khi phải kềm hãm sứ điệp ngôn sứ của mình. Chúng ta có thể học hỏi từ cuộc xung đột nội tâm của Giêrêmia. Thật là cần thiết để lên tiếng chống lại sự thiếu liêm chính, ngay cả khi có nguy cơ làm mất lòng những người không muốn giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay.
Bài đọc hai trích từ thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma là một lời nhắc nhớ mang tính nhận định, phê bình. Thánh Phaolô nói với các tín hữu Rôma hãy thay đổi lối suy nghĩ của mình để nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Điều quan trọng là trở nên những người biết suy nghĩ có hiểu biết, nhất là khi chúng ta phải đưa ra những quyết định quan trọng trong tương lai gần.
Cuối cùng, Tin mừng hôm nay được xây dựng dựa trên chủ đề quyền bính. Tuần trước, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu trao quyền cho Phêrô vì ông đã nhận ra thiên tính của Ngài. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi nhận được “chìa khóa Nước trời”, Phêrô đã vấp phạm. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lần đầu tiên loan báo cuộc thương khó, cho biết Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị giết và rồi sẽ sống lại từ cõi chết. Phêrô tuyên bố rằng điều này không thể xảy ra. Mặc dù lời phản bác của Phêrô cho thấy sự nhiệt tâm của ông, nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc quở trách: “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Chúa Giêsu phê bình Phêrô vì ông đã không hiểu chương trình của Thiên Chúa. Giống như Giêrêmia, Chúa Giêsu đưa ra một sứ điệp khiến người ta cảm thấy bối rối và khó khăn khi xử lý. Phản ứng tức giận của Phêrô phản ánh thái độ của cộng đoàn Giêrêmia, vốn từ chối nhận ra sự tàn phá sắp xảy đến.
Sau đó, Chúa Giêsu giải thích những ứng dụng để trở thành một trong những môn đệ của Ngài. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhưng chính đáng, nó đòi hỏi sự quên mình và chịu đựng, nhưng đổi lại phần thưởng sẽ là sự sống đời đời. Từ bỏ chính mình thật quan trọng đối với các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu để họ có thể tự chuẩn bị trước những thử thách vì đức tin.
Các nhà lãnh đạo tốt cho thấy tính vô vị lợi khi họ đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của bản thân. Kinh thánh cho thấy tầm quan trọng của việc mở lòng lắng nghe sự thật và sự cần thiết của việc suy nghĩ với óc phê bình đối với người được trao quyền. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo nhận thức đầy đủ ý nghĩa việc ứng dụng chức vụ đang nắm giữ và là người cho thấy họ dấn thân phục vụ tha nhân trước khi phục vụ bản thân.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/07/17/what-makes-good-leader-wisdom-jeremiah-paul-and-jesus
47.Ý nghĩa cuộc đời được đọc thấy nơi Đức Kitô--Lm. Antôn Hà Văn Minh
Tôi sống trên trần thế này để làm gì và đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Đó là những băn khoăn của bao người về cuộc sống của mình. Và quả thật là không đơn giản khi đi tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó, bởi cuộc sống không do con người tạo ra, và sự hiện hữu của con người mang đậm sự huyền nhiệm mà trí khôn con ngừoi cảm thấy như bất lực khi đi tìm một giải đáp nhằm thoả mãn cho vấn nạn: đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống?
Trên con đường tìm kiếm có người đã vội cho rằng ý nghĩa của cuộc sống chính là tìm kiếm những thực tại trần thế. Vì thế hạnh phúc nằm ở những thành công đạt được, nhiều tiền nhiều bạc. Thế nhưng, như một bạn trẻ có nick name Vietyouth đã chia sẻ: cứ tưởng khi đạt được những thành công nếm được trái ngọt của bản thân là đạt được ý nghĩa của cuộc đời, thế nhưng sao những thành công qua đi nhanh chóng thế, huy chương không thể ở lại mãi với người chiến thắng, nó sẽ liên tiếp đi tìm những người giỏi, giỏi hơn, và giỏi hơn nữa. Không lẽ cuộc sống chỉ có ý nghĩa ngắn ngủi như thế?.
Có người thất vọng về những sự phù du và tỏ ra ngán ngẫm như Cao Bá Quát: Ba vạn Sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, để rồi đua ra chủ trương thực dụng như Nguyễn Công Trứ Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì tới nơi”. Cuộc sống như thế càng xô đẩy con người đến chỗ trống rỗng, và càng ngày càng cảm thấy sự vố lý của cuộc đời. Viktor Frankl, nhà tâm lý của người Áo đã nói: Cuộc sống sẽ làm ta đau đớn nếu con người cảm thấy trống rỗng trong sự tồn tại. Để ra khỏi sự trống rỗng, và để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, Nick Vujicic, một ngừoi đàn ông tật nguyền, đã mnói: Ý nghĩa cuộc sống không phải là khi đạt được sự hoàn thiện mà chính trên hành trình đi tìm sự hoàn thiện”.
Và đâu là sự hoàn thiện để con người đi tìm? Lời Chúa hôm nay đã chỉ cho chúng ta sự hoàn thiện và con đường đi tìm sự hoàn thiện đó. Vâng, chính Đức Kitô là sự hoàn thiện mà con người cần phải gặp được để thấy được ý nghiã của cuộc đời, bởi sự hoàn thiện chỉ có nơi Thiên Chúa, và Đức Kitô là hiện thân của sự hoàn thiện này. Ngài, vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vì yêu thương thế gian, nên đã từ bỏ ngai trời nhập thể làm người để đến trần gian mạc khải cho con người biết sự toàn thiện và chỉ cho con đường đạt tới sự toàn thiện.
Sự toàn thiện mà Đức Kitô mạc khải không gì hơn chính là nhận biết Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, và nhận biết mọi người là anh em để yêu thương. Đức Kitô là khuôn mẫu cho sự toàn thiện này khi vì vâng phục Thánh ý Cha Ngài đã chấp nhận hiến thân, và vì yêu thương nhân loại Ngài đã sẵn lòng hiến tế chính mình làm giá cứu chuộc cho muôn người. Sứ điệp của Người tỏ bày trong lời nói cũng như trong hành động là phục vụ mọi người trong yêu thương, là tỏ bày lòng nhân ái và quảng đại tha thứ, và như thế, ý nghĩa cuộc đời được tìm thấy khi hiến thân phục vụ cho tha nhân, khi mỗi người không sống kích kỷ, vun quén cho chính mình, nhưng biết mở rộng con tim và biến cuộc đời mình thành quà tặng cho tha nhân. Chính Đức Kitô đã tỏ cho chúng ta thấy sự toàn thiện nơi Ngươiì khi bị treo trên Thập Giá một cách bất công, Người cũng nguyền rủa kẻ hành hạ và kết án Người, trái lại Người còn mở rộng lòng bao dung khi van xin ơn tha thứ cho họ: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.
Để đạt tới sự toàn thiện, Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta phương thế: Từ bỏ chính mình, vác thập giá và bước theo Chúa Kitô. Sự hoàn thiện được dệt lên bởi một tình yêu hướng tha, một tình yêu quên mình, không vị kỷ. Vì không có sự hiến thân cho tha nhân, tình yêu sẽ trở thành giả dối và không thể nào làm nảy sinh sự sống, thì làm sao gọi là toàn thiện được. Vì thế, để đạt tới toàn thiện đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, từ bỏ tham sân si, để có thể tìm thấy ý nghiã đích thực cuộc đời qua những hy sinh vì thiện ích của tha nhân, Viktor Frankl đã khẳng định: “ý nghĩa cuộc sống không phải là thứ hàng có thể mua, đặt, hoặc trực tiếp hướng tới. Ý nghĩa là kết quả của việc thực hiện các giá trị tồn tại ngoài con người, vượt quá các mục đích và nhu cầu đơn lẻ của anh ta. Những hành động mà anh ta thực hiện, những tác phẩm mà anh ta sáng tạo, tình yêu mà anh ta trải qua và sự đau khổ mà anh ta chịu đựng với lòng can đảm và phẩm giá – tất cả tạo thành giá trị của con người, vượt ra ngoài lợi ích và sự hữu hạn của loài người”. Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Và chỉ có như thế, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa đích thực của sự hiện hữu chúng ta nơi thế trần.
Lay Chúa, Chúng con tạ ơn Chúa đã trao ban đức tin cho chúng con, để nhờ đó chúng con nhận ra rằng chỉ có Chúa mới là câu trả lời xác đáng cho những trăn trở thắc mắc của chúng con. Xin cho chúng con mau mắn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để chúng con có thể đạt tới sự toàn thiện. Amen.
48.Thập giá, con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử nhân loại ghi nhận nhiều cuộc cách mạng áp dụng những phương pháp đấu tranh đa dạng, phong phú, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, cứu một nhóm người, một dân tộc khỏi ách nô lệ, áp bức, bạo tàn.
Cho dù tôn chỉ và mục đích hành động có nhiều điểm tích cực, những cuộc cách mạng, không bao giờ giải quyết triệt để các vấn đề, ngược lại, còn tạo nhiều mâu thuẫn, rắc rối, phức tạp hơn.
Nguyên nhân bởi đâu?
Có nhiều lý do, nhưng trên hết phải kể đích danh, đó là: dùng bạo lực chống lại bạo lực. Bạo lực chống bạo lực, tất yếu, hận thù gia tăng, khổ đau chồng chất, không bao giờ chấm dứt, nhân loại chẳng bao giờ được hưởng nền hòa bình viên mãn.
Giê-su, được Cha sai đến, tái lập hòa bình bền vững, bằng cuộc cách mạng “mềm”, cách mạng của tình thương. Bởi vậy, thập giá chính là con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải hành động cứu độ phổ quát và vĩnh viễn của Thiên Chúa, được thực hiện trong thập giá Đức Giê-su.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mia, diễn tả tâm trạng của con người được Chúa lôi kéo và chiếm đoạt. Ngôn sứ dùng hình ảnh “như nhân” mô tả Thiên Chúa như một người phàm, dẫn dụ, thuyết phục, quyến rũ để người kia siêu lòng ưng thuận, đón nhận và thi hành ý muốn của Chúa.
Thật ra, cách trình bày của ngôn sứ muốn tuyên xưng một chân lý: “Con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa” (St 2, 27). Người đặt vào lòng họ khát vọng tìm về cội nguồn, khám phá chân lý.
Người ta luôn đặt ra cho chính mình những vấn nạn về nguồn gốc cũng như ý nghĩa cuộc đời. Chắc chắn, không ai có thể lẩn tránh câu trả lời vốn dĩ dành riêng cho mình.
Giê-rê-mia gọi là: “Chúa đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Jr 20, 7). Vị ngôn sứ tin, đón nhận và sống Lời Chúa, nên bị liên lụy với “Lời”: giằng xé nội tâm, bị người đời khinh khi, báng bổ. Nhiều lúc muốn chối bỏ “Lời” để được yên thân, nhưng không thể, vì lời Ngài cứ như lửa đốt, bùng cháy trong tim, âm ỉ tận xương tủy (cf. Jr 20, 9).
Sau này, Augustino cũng diễn tả tâm trạng tương tự: “Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa” (cf. Agustin, Confessions, I, 1,1).
Giê-rê-mia, trong bài đọc I, muốn nhấn mạnh niềm tin căn bản: tự thân mạc khải là thập giá và đồng hóa thập giá với sự sống.
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giê-su mạc khải thập giá: con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn.
Với Chúa Giê-su, tử nạn và phục sinh chỉ là tiến trình của biến cố cứu độ duy nhất. Hạt lúa mì gieo xuống đất, tất yếu phải thối rữa, mục nát, mới có thể nẩy mầm, thành cây, đơm hoa kết trái dồi dào, phong phú.
Qua thập giá, Giê-su bày tỏ tình yêu tự hiến và sự vâng phục tuyệt đối ý muốn của Cha. Chính nơi điều này, Người được tuyên bố là Con chí ái, Con đẹp lòng Cha mọi đàng và được Cha phục sinh từ trong cõi chết. Ngài trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho những ai tin và đón nhận Ngài.
Các môn đệ không hiểu và cũng không chấp nhận con đường cứu độ bằng thập giá, nên Phê-rô đã nhất mực can ngăn. Phản ứng của Phê-rô đặt chuẩn mực trên sự khôn ngoan thế gian, nên tự thân, đối nghịch với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su quở trách Phê-rô: “Xa-tan, lui ra đàng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì tư tưởng của con là của loài người, không phải của Thiên Chúa” (Mt 16, 23).
Bởi vậy, Giê-su nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem, chấp nhận chịu khổ hình, chịu chết và ngày thứ ba sống lại vinh quang. Chúa cũng mời gọi ai muốn theo làm môn đệ, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.
Đòi hỏi vác thập giá mình theo Chúa là rất quyết liệt, dứt khoát, rất hệ trọng, liên quan đến sự sống và đến phần rỗi đời đời: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ được nó cho sự sống muôn đời (Mt 16, 25).
Thật và rất thật, thập giá cứu độ đã phủ bóng khắp mặt địa cầu. Muôn vàn thế hệ kitô giáo minh chứng sức mạnh thập giá là vô địch và sự khôn ngoan của thập giá là vực thẳm khôn dò.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, tìm cách nội tâm hóa việc vác thập giá mình theo Chúa. Sự hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa là cách thờ phượng trong Thánh Thần.
Đoạn tuyệt với thói đời, khắng khít với những điều tốt đẹp, những gì hoàn hảo là mặc lấy Chúa Kitô, là đang vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa. Và đó là con đường cứu độ hoàn hảo và vĩnh viễn.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:
Một là: xác tín mạnh mẽ, xác tín vững vàng ngoài thập giá không có ơn cứu độ. Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta.
Thứ hai: sống mầu nhiệm thánh giá là nội tâm hóa thánh giá trong tâm hồn, là quyết tâm cởi bỏ con người cũ với những đam mê lầm lạc, mặc lấy Chúa Kitô, con người hoàn hảo, sống đạo đức thánh thiện, chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Loan báo đạo thập giá là thực thi giới luật yêu thương trong môi trường đặc thù của mình. Sống hiệp thông, liên đới, bác ái sẻ chia là cách tích cực làm dậy men Tin Mừng.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen.
49.Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người ta tìm thấy lá thư của một người tù Do Thái tại trại giam Auschwitz. Lá thư viết bằng máu, được nhét trong một lọ thủy tinh. Lá thư có nội dung như sau: Tôi là một người Do Thái, tôi tin vào Thiên Chúa của tôi, tôi yêu chuộng lề luật của Ngài. Làm người Do Thái thì khổ lắm vì đã nhiều lần bị Thiên Chúa của mình hành hạ gần như đến chết mới thôi. Thế nhưng, tôi vẫn tin và vẫn yêu mến Thiên Chúa của tôi. Tôi thượng tôn lề luật của Ngài, dù có những lúc Ngài đánh tôi, hất hủi tôi, nhưng tôi vẫn tin vào lề luật của Ngài, dù như có những lúc Ngài làm mọi cách để tôi từ bỏ Ngài, từ bỏ lề luật đáng kính của Ngài, nhưng tôi vẫn yêu Ngài, vẫn theo Ngài cho dù Ngài có bỏ tôi đi nữa….
Thưa quý OBACE, đọc tâm sự trong lá thư trên của một người tù Do Thái đang cận kề với cái chết trong trại tập trung kinh khủng nhất của nhân loại, mà ông vẫn thể hiện lòng tin và sự trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài như thế, quả là điều xúc động và đáng để chúng ta suy nghĩ. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta bị giằng co khi tin Chúa, theo Chúa. Nhiều người nghĩ rằng tin Chúa, theo Chúa là tìm kiếm một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống thoải mái, dễ dãi, hoặc nhìn Thiên Chúa không khác gì một người thủ kho hoặc người bảo vệ để canh gác và là người giải quyết những khó khăn khi cần, mà quên mất đòi hỏi của Chúa khi tin và theo Ngài. Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì? Chúa đòi chúng ta điều gì?
Tâm sự của Giêrêmia trong bài đọc một cho thấy ông đã bị cuốn hút, bị khuất phục bởi Thiên Chúa và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Tuy nhiên, ông cho thấy, theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Có thể nói rằng, trong tất cả các ngôn sứ, Giêremia là một trong những người khổ sở nhất: Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ nhạo báng. Vì Lời của Chúa mà con đây bị xỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có những lúc, vị tiên tri cảm thấy chán nản vì sứ vụ của mình và muốn bỏ cuộc: Tôi tự nhủ là tôi sẽ không nghĩ đến Người nữa, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa. Thế nhưng, Lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim, âm ỉ trong xương cốt khiến con phải hao mòn. Tâm sự của Giêremia có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người trong chúng ta khi thấy mình tin Chúa, theo Chúa, giữ lề luật của chúa mà dường như chỉ thấy gặp toàn điều xui xẻo; có khi còn rơi vào cảnh tù đày, bị hắt hủi, bị đề phòng hoặc rơi vào chán nản, thất vọng.
Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đến là để đem lại niềm vui, hân hoan và hy vọng cho cuộc sống này như khi Ngài hóa bánh ra nhiều, hoặc hóa nước thành rượu ngon, chữa lành người què khiến cho dân chúng vui mừng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không hề hứa hẹn, bảo đảm cho ai một cuộc sống dễ dãi, thoải mái ở đời này; trái lại, Chúa luôn đòi hỏi mọi người tin theo Chúa phải chấp nhận một sự từ bỏ dứt khoát để đạt được hạnh phúc và niềm vui Nước Trời. Điều này không hề dễ dàng để chấp nhận, ngay đến Phêrô cũng đã không muốn chấp nhận điều đó.
Câu chuyên trong Tin Mừng cho thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và ông đã được Đức Giêsu khen trước mặt mọi người. Phêrô nghĩ rằng, ông đang đi trên con đường thênh thang, chỉ cần tuyên xưng như thế là đủ mà không cần phải làm thêm việc gì nữa. Thế nhưng, Chúa Giêsu cho thấy việc tuyên xưng của Phêrô chỉ là khởi đầu của một cuộc hành trình theo Chúa cách quyết liệt, đó là phải cùng Ngài đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các kỳ mục gây ra, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Chính vì thấy không được như mong đợi, Phêrô đã muốn can ngăn Chúa, hay đúng hơn, ông muốn dắt Chúa đi theo suy nghĩ, con đường của ông và ước mộng của ông. Cho đến lúc này, Phêrô và các tông đồ vẫn nuôi một hy vọng hết sức trần thế, đó là nếu Thầy của các ông thành công thì chắc chắn các ông sẽ được chia sẻ quyền lực, danh vọng. Đi theo Thầy, các tông đồ muốn tìm vinh quang trần thế hơn là tìm chính Chúa. Vì thế, Phêrô đã đứng ra can ngăn Chúa, ông còn nhân danh Thiên Chúa để ngăn cản Thầy của mình: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.
Lần này, Chúa hết sức nặng lời với Phêrô khi mắng ông: Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Vì muốn một cuộc sống vinh hoa của thế gian, nên Phêrô không muốn nghe nói về đau khổ; vì muốn cuộc sống dễ dãi, Phêrô không muốn thập giá. Hơn nữa, vì không muốn theo ý Chúa nên Phêrô muốn Chúa theo ý mình, đáp ứng cho mình. Thấy được tư tưởng của Phêrô như thế, Chúa đã không ngần ngại gọi ông là satan, là kẻ cản đường. Lời trách mắng này muốn Phêrô tỉnh ngộ và trở về đúng với vị trí của mình là môn đệ của Chúa: Hãy lui ra đàng sau Thầy. Vì ông không thể cho mình là người dẫn đường cho Chúa, mà trái lại, Chúa mới là người dẫn đường, là người đi trước và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Chúa, thì phải đi sau Ngài và đi theo con đường ấy.
Con đường mà Chúa Giêsu muốn là con đường: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Đấy chính là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn theo Chúa. Chúa luôn để mở cho sự tự do của con người: Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo. Khi đã muốn, đã quyết định, thì phải chấp nhận hai bước quan trọng, đó là từ bỏ chính mình và kế đó là vác thập giá của mình và bước theo. Chúa không ép buộc bất cứ ai, Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do và chọn lựa của con người, ai muốn thì chọn và khi đã chọn thì chấp nhận tất cả những điều kiện kèm theo. Chúa cũng cho thấy những thử thách mà người theo Chúa gặp phải, đó là chịu thiệt thòi, mất mát ở đời này thì sẽ được hạnh phúc đầy tràn đời sau. Trái lại, nếu chỉ lo tìm kiếm vật chất đời này, tìm kiếm lợi lộc trần gian, thì sẽ đánh mất hạnh phúc Nước Trời.
Từ bỏ chính mình là từ bỏ những gì? Thưa, đó là từ bỏ bản thân, là cái tôi ích kỷ nhỏ nhen, là những dục vọng ham muốn, là những tham lam lợi lộc, là những bon chen thiệt hơn, là sự tự ái, tự cao…. Kinh nghiệm cho thấy, có những người có thể làm được nhiều việc to lớn, nổi danh nổi tiếng, nhưng lại không thể vượt qua được bản thân mình, không thể làm chủ được con người của mình, hay đúng hơn không từ bỏ được chính bản thân. Cái tôi hay còn gọi là bản thân mình là thứ virus ở sâu trong mỗi con người. Nó như một thứ nội thù nằm bên trong mỗi người. Một khi chúng ta không thắng nó, không từ bỏ được nó thì sẽ bị nó làm chủ và biến chúng ta thành nô lệ, và chúng ta không thể nhẹ nhàng để bước theo Chúa Giêsu được.
Vác thập giá mình hằng ngày là vác những gì? Chúa không đòi chúng ta phải vác thập giá của Chúa. Chúa cũng không buộc chúng ta phải vác thập giá cho anh em, nhưng Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình. Thập giá của ai, vừa vai người ấy. Thập giá của chính mình chính là những bổn phận thường ngày của mỗi người, là sự khiếm khuyết cùng với sự bất toàn, bất túc của con người. Thập giá của mình là những hoàn cảnh hiện tại của bản thân, của gia đình. Đó có thể là cái khổ của sự sung túc, bệnh tật, nghèo khó, hoặc là những trách nhiệm làm ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu cùng với khó khăn vất vả, mồ hôi nước mắt. Khi chúng ta đón nhận thập giá ấy với lòng yêu mến và vui vẻ bước theo Đức Kitô thì chúng ta mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.
Thưa quý OBACE, theo Đức Kitô luôn là một đòi hỏi và là một thách thức. Là đòi hỏi vì con đường này chắc chắn sẽ là con đường hẹp, đòi hỏi phải hy sinh, phải từ bỏ, chứ không phải là con đường dễ dãi, thoải mái. Theo Chúa là phải dám chấp nhận bước vào con đường của Chúa, không thể đi đường ngang hay đi tắt đón đầu, mà là một hành trình cố gắng bước đi từng ngày, theo sát Đức Kitô từng bước, nên giống Đức Kitô, sau cùng là chịu đóng đinh cùng với Đức Kitô. Theo Chúa luôn là một thách thức, vì không phải bất cứ ai cũng có thể bước theo, mà phải là những người được Chúa tuyển chọn, những người đặt niềm tin vào Chúa, cùng với sự cố gắng, quyết tâm vượt lên chính mình, làm chủ bản thân cùng những dục vọng trong con người của mình. Là một thách thức, vì khi theo Chúa, có nghĩa là bước vào một cuộc chiến đấu liên tục, đương đầu với ma quỷ dục vọng, thế gian là những kẻ thù khi ẩn khi hiện, là kẻ thù giấu mặt nguy hiểm.
Là những người được chọn để trở nên môn đệ Chúa Kitô, chúng ta không tìm kiếm lợi lộc của thế gian này làm gia nghiệp, mà là tìm Đức Kitô làm gia nghiệp, là hạnh phúc đời đời. Vì thế, chúng ta không thể tránh né thập giá, cũng không thể từ chối con đường của Đức Kitô. Chúa đang muốn các linh mục tu sĩ vác thập giá của bản thân và đi qua con đường tu trì tận hiến, tuân giữ những lời khuyên Phúc âm để bước theo Chúa. Chúa đang muốn các tín hữu khác đi qua con đường gia đình, tuân giữ giới răn lề luật của Chúa, bước theo Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đừng chần chừ, cũng đừng đứng đắn đo, mà hãy vui vẻ đón nhận hoàn cảnh và cuộc sống hiện tại của mình, chu toàn thật tốt đẹp nhiệm vụ là linh mục tu sĩ, là cha mẹ vợ chồng, con cháu, cùng nhau bước theo lời mời gọi của Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được niềm vui, và hạnh phúc cùng với sự sống đời đời Chúa ban tặng cho những ai đi trọn con đường Chúa muốn. Amen.
50.Thập giá: Con đường chúng ta đi--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẩm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là: “Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,-,24).
“Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc”. Giáo lý Hội Thánh Công giáo mở đầu bằng chân lý này và cũng là câu trả lời cho vấn nạn muôn thưở rằng ta sống ở đời này để làm gì. Kitô hữu vốn nằm lòng câu giáo lý của một thời: Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời. Như thế hạnh phúc đời đời hay sự sống vĩnh phúc chính là mục đích tối hậu của đời người. Khi sinh thời, để trả lời cho một chàng thanh niên đạo hạnh vốn đã giữ các giới răn từ thưở bé, muốn có sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói rằng hãy về bán tất cả của cải, phân phát cho kẻ khó, rồi đến mà theo Người. (x. Mt 19,16-22). Thế thì ta có thể khẳng định rằng theo Chúa Kitô là cách thế để có hạnh phúc vĩnh cửu. Hay nói ngược lại, muốn có hạnh phúc vĩnh cửu là phải theo Chúa Kitô. Và muốn theo Chúa Kitô là phải vác thập giá mình.
Theo Chúa Kitô là theo Con Đường Sự Thật, Sự Sống, và Tình Yêu. Nguyên chỉ với những thiện hảo chóng qua đời này cũng đòi hỏi phải trả giá. Tomas Edison, ông tổ phát minh bóng đèn điện đã khẳng định một tất yếu của cuộc sống: một lần thành công là kết quả của chín mươi chín lần thất bại. Để trung thành với sự thật và công bố sự thật, ngôn sứ Giêrêmia đã phải hứng chịu bao truân chuyên, khốn khó, và có khi, tưởng như sẽ bị mạng vong. Số phận các sứ ngôn khác và những người công chính cũng chẳng hơn gì (x. Mt 23,29-32). Để làm phát triển sự sống với hoa trái tốt xinh thì trước đó hạt giống phải chịu cảnh thối rửa đi (x.Ga 12,24). Để thực sự là yêu trong sự phục vụ người mình yêu đến cùng thì tất yếu phải bỏ mình, hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Những gì phải trả ở trên, đó chính là thập giá mà Chúa Kitô muốn đề cập.
Tuy nhiên, chúng ta cần ý thức rằng thập giá không phải là đối tượng ta muốn cách trực tiếp. Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.
Lật giở các trang Tin Mừng, chúng ta cần chân nhận sự thật này: Chúa Kitô không bao giờ trực tiếp kiếm tìm thập giá. Điều mà Người luôn kiếm tìm đó là thánh ý Chúa Cha. Ngay phút giây nhập thể vào đời, tác giả thư Do Thái đã cảm nhận tâm ý của Ngôi Lời: “Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,5). Lễ vật hy sinh thì Chúa Cha không muốn và Chúa Cha cũng chẳng thích gì khi Con mình phải đổ máu. Điều Chúa Cha muốn là Chúa Con nhập thể, tìm cách bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu bao la vô bờ và hoàn toàn nhưng không của Người.
Thập giá chính là đối tượng trực tiếp mà giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ kiếm tìm để đặt trên vai người mà họ cho là “phản động”, xách động quần chúng đi ngược với tập truyền tiên tổ, dám phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa duy nhất… “Chẳng thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 11,50), và bên cạnh đó, vị thế và quyền lợi của những bậc vị vọng như tư tế, biệt phái, luật sĩ cũng khỏi bị lung lay và sứt mẻ.
Thế mà Chúa Kitô vẫn không ngần ngại lên Giêrusalem để đón nhận khổ hình thập giá, không phải vì chính thập giá nhưng là để vâng phục Chúa Cha tìm cách bày tỏ cho nhân gian thấy tình yêu cua Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện và đến cùng. Cho dù các ngươi có đặt thập giá trên vai ta, cho dù các ngươi có đâm thủng trái tim ta, cho dù các ngươi có giết chết ta cách nhục nhã, thì ta vẫn không hề bỏ các ngươi mà còn đứng về phái các ngươi để cầu bàu cho các ngươi (x.Lc 23,34). Chúa Kitô đón nhận thập giá không phải vì thập giá mà là để mình chứng rằng không có gì có thể ngăn cản được việc Người yêu thương chúng ta (x.Rm 8,38-39).
Như thế thập giá không phải là đích đến, mà chỉ là một cái giá cần phải trả, một thách đó cần vượt qua của hành trình yêu thương. Khi ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Giêrusalem, thực ra Phêrô có ý tốt với Thầy. Thế nhưng, ông đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Tưởng rằng Phêrô bị quở trách nhưng không phải ông mà chính là Satan bị quở trách. Satan lợi dụng ý tốt của Phêrô để cám dổ Chúa Giêsu. Ma quỷ thật lắm tinh ranh. Chúng sử dụng cả những điều thiện hảo thường tình để cám dổ ta đứng lại và không đạt đến sự thiện hảo cuối cùng.
Dẫu biết rằng chẳng có một sự thiện hảo nào mà không đòi phải trả giá nghĩa là đòi phải có sự nỗ lực, gắng công. Thế nhưng thập giá vẫn mãi còn đó sự thách đố cho người tự nguyện sống đạo yêu thương, cho người can đảm làm chứng cho sự thật, cho người tích cực gìn giữ và làm phát triển sự sống. Nếu cứ chăm chăm dán mắt hay quy lòng vào sự khó khăn đầy nghiệt ngã của thập giá thì e rằng nhiều khi chân ta sẽ chùn bước. Ước gì Kitô hữu chúng ta trên đường theo Chúa Kitô biết ngước nhìn đến chân trời tươi sáng, nơi mà tình yêu, sự thật và sự sống hiển trị, thì sẽ có cơ may vượt qua các trở ngại cần phải vượt qua là thập giá, cho dù khó khăn, vất vả, đau thương vẫn có đó. Hiểu được sự thật này thì chúng ta không chỉ biết lắng nghe lời nhận định của Franklin: “Đường đến thành công không hề có bước chân của người ngại khó, sợ khổ”, mà cần phải xác tín rằng “đường đến Nước Trời sẽ chẳng hề có bước chân của người không quyết tìm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân”.
51.Hai con đường--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
(Bài giảng cho Thiếu Nhi)
Các con thương,
Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát Con đường đến trường: “Một chiều đi trên con đường này, hoa điệp vàng trải dưới chân tôi, ngập ngừng trong tôi như thầm hỏi, đường về trường ôi sao lạ quá…”
Ngoài con đường đến trường, mỗi ngày các con còn đi trên nhiều con đường khác nữa: đường đến nhà thờ, đường đi chơi, đường đến siêu thị… rồi mỗi đường có những đặc điểm khác nhau: đường nhựa, đường đá sỏi, đường rộng, đường hẹp, có đường sình lầy nếu đi không cẩn thận sẽ xuống ao!…
Tâm lý bình thường ai cũng muốn đi đường nhựa rộng rãi, thích đi trên những con đường bằng phẳng thoải mái. Còn những con đường chật hẹp sình lầy ai cũng ngán và sợ hãi. Vừa qua Cha và một số cha đi đến vùng sâu vùng xa, trên những con đường vừa chật hẹp vừa sình lầy trơn trợt, tí nữa là cả người lẫn xe xuống kinh uống nước chết rồi…
Các con thương, con đường ở trần gian là như thế, còn con đường về nước trời thì thế nào? Có phải thênh thang rộng mở nhiều người muốn đi, và con đường xuống hoả ngục thì chật hẹp ít người muốn đến? Lời Chúa hôm nay muốn các con đi con đường nào?
Trong bài đọc 1, các con nghe lời than van của ông Giêrêmia: vì làm tiên tri cho Chúa, ông phải chịu biết bao nhiêu gian nan khốn khổ, nào là bị người khác chế nhạo, nào là bị phản đối, bị khinh chê thậm chí ông bị mưu sát nữa.. Và đã nhiều lần ông không muốn đi theo Chúa làm tiên tri nữa, ông không muốn làm theo ý Chúa nữa… nhưng ông đã không thể bỏ sứ mạng đó được vì Chúa đã lôi cuốn ông…
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiên báo mình sẽ phải chịu khổ hình, chịu người khác bắt bớ thế nào “Người sẽ đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ… sẽ bị giết chết và ngày thứ ba thì sống lại. Và Ngài còn mời gọi con người theo Ngài, đi với Ngài trên con đường thập giá với điều kiện: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”
Các con thương,
Con đường của Chúa Giêsu là con đường thập giá, con đường hy sinh và đau khổ. Chúa Giêsu đã đi đường này ngay khi Ngài xuống thế: chấp nhận sinh làm người phàm; đi trên con đường sang Ai Cập tránh sự truy sát của bạo chúa Hêrôđê, con đường rao giảng rày đây mai đó, Ngài đi trên đường tới Giêrusalem, con đường thập giá tiến về núi Sọ- con đường cứu độ. Tất cả chuẩn bị cho con đường về trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Con đường đó các tông đồ và các thánh cũng đã theo, Giáo hội ngày hôm nay đang tiếp bước theo chân Chúa. Chúa Giêsu hôm nay vẫn mời gọi các con hãy đi theo Ngài. Chúa cho thấy rõ điều kiện của những ai muốn theo Chúa: “từ bỏ mình và vác thập giá mình”. Từ bỏ con người cũ của mình để mặc lấy con người mới, con người theo hình ảnh của Thiên Chúa dựng nên từ ban đầu. Chấp nhận bỏ mình đi đồng nghĩa với việc thay da đổi thịt, thay con người của ích kỷ nhỏ nhen, con người tội lỗi, của tính tự ái, kiêu căng tự phụ… từ bỏ hết để nhận thập giá của mình mà theo Chúa với lòng yêu mến.
Có một vị thánh đã tưởng tượng chuyện như sau: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Xin Chúa giúp các con đón nhận những hy sinh hằng ngày, chấp nhận đi trên con đường thập giá là những khó khăn, những mệt nhọc trong việc học tập và rèn luyện những nhân đức.
Xin giúp con ghi nhớ rằng công khó của học tập và rèn luyện hôm nay, chính là hoa trái của niềm vui và hạnh phúc mai sau.
Xin giúp chúng con trung thành theo đạo Chúa, giữ đạo Chúa cho đến cùng.
Xin giúp chúng con biết tiếp bước con đường thập giá của Chúa mỗi ngày với lòng quảng đại vì yêu mến Chúa.
52.Thọc gậy bánh xe--Hoàng Cát Minh, O.Carm
Lời tuyên xưng "Thầy là con Thiên Chúa Hằng sống" của Phê rô mới chỉ là chìa khóa đức tin, là đá tảng của đời sống Ky tô hữu. Là nền tảng đức tin của người Ky tô hữu vì nó là sự mạc khải từ Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, để sống với lời tuyên xưng đó là cả một thách đố cho cuộc sống Ky tô hữu và cả Giáo Hội khi xây dựng ngôi nhà đức tin đó. Sống đức tin là một cam kết vĩnh cửa với Đấng mà mình tin: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy." Theo con đường của đức Ky tô chính là theo con đường thập tự cho những ai cam kết sống trọn vẹn với lời tuyên xưng của mình để cùng sống, cùng chết và cùng sống lại với Ngài. Chính Chúa Giêsu đã đi tiên phong trên con đường tiến về Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ phải vác thập giá, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Con đường của Đức Giê su đi là con đường mang thân phận kiếp người nhưng do Thần Khí hướng dẫn. Cũng Thần Khí đó hiện diện tại sông Gio đan khi Ngài chịu phép rửa, dẫn Ngài vào hoang địa trong 40 ngày đêm chịu thử thách và dẫn Ngài vào con đường rao giảng Nước Trời.
Con đường thập tự là con đường đau khổ, bị nghi nghờ, bị lăng nhục, bị nhục hình và bị tử hình. Thập tự chính là biểu tượng nhục hình và tử hình để trừng phạt những kẻ nổi loạn chống lại đế quốc Roma, những tên trộm cướp giết người cướp của. Nhưng đó cũng là một cảm hứng cho người môn đệ bước đi theo chân đấng Cứu độ, là tự hủy mình đi cho người mình yêu. Cảm hứng đó không phải do con người, nhưng từ sự dẫn dắt của Thần Khí Thiên Chúa. Một khi đã được Thần Khí chúa dẫn dắt thì không ai có thể cưỡng lại được. Ngôn sứ Giê rê mi a đã cảm nghiệm và thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi." Dẫu cho Giê rê mi a suốt ngày bị trở nên trò cười, và bị mọi người đều chế nhạo; dẫu cho ngôn sứ phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho ông bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Ông cố quên đi vị Thiên Chúa đã dẫn dắt ông, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng ông lại hừng hực nóng bỏng như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt, khiến ông kiệt sức, khiên ông không thể chịu nổi nữa, để làm theo ý định của Thiên Chúa.
Thánh Vịnh gia cũng cảm nghiệm tự đáy lòng mình sự hấp dẫn của Thiên Chúa: "Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!" Những ai làm nghề nông có thể cảm giác được nỗi khao khát cơn mưa trong những mùa nắng hạn, ruộng đồng khô nứt.
Thánh Phao lô là người cảm nghiệm sâu xa nhất về con đường thập tự của Đức Ky tô khi người sống hoàn toàn lệ thuộc vào sự dẫn dắt của Thần Khí của Đức Ky tô. Thánh Phao lô cảm nghiệm được những đau khổ nơi trần gian mà người Ky tô hữu hứng chịu không thể nào sánh kịp với sự đau khổ Đức Ky tô đã gánh chịu cũng như vinh quang của Ngài tỏ hiện nơi những môn đệ tín trung. Thánh Paho lô được mệnh danh là môn đệ của Đức Ky tô bị đóng đinh vì người cảm nhận sự đau khổ mà Đức Ky tô tỏ hiện nơi người và những gì người đã can qua. Cảm nghiệm được vinh quang của Thiên Chúa, thánh nhân đã khích lệ cộng đoàn tín hữu Rôma của mình: "hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa." Đó là lời khíc lệ cho những Ky tô hữu tiên khởi ở Rôma một khi phải đối diện với thử thách và phải chọn lựa: tuyên xưng đức tin vào Đức Ky tô là con Thiên Chúa để rồi phải chịu nhục hình và tử hình hoặc tôn vinh Cesa là chúa để lãnh quyền tự do và trở thành công nhân hạng nhất thời bấy giờ.
Một khi được Thần Khí Thiên Chúa thúc đẩy, không ai trong chúng ta có thể cưỡng lại được. Người giáo lý viên có thể từ bỏ chút thời giờ riêng tư, nghỉ ngơi để đi dạy giáo lý; người thanh niên có thể từ bỏ gia đình để theo tiếng gọi làm linh mục, tu sĩ hay nữ tu; nhà truyền giáo có thể từ bỏ nơi ấm cúng của mình để đến một nơi xa vắng, nghèo nàn phục vụ những người nghèo; những người đấu tranh cho công lý và hòa bình phải chịu nhiều cảnh đau thương; những người giám nói lên tiếng nói ngôn sứ cho công lý dễ bị mất mạng; v.v...
Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và sáng tạo thế giới qua Thần Khí của Ngài để đem vạn vật tiến về tương lai tốt đẹp, tràn trề sự sống và đầy những ngạc nhiên. Chống lại công trình sáng tạo và tình yêu Thiên Chúa chính là chống lại Thần Khí, là "chọc gậy bánh xe" vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người và tạo vật. Với suy nghĩ và hành động của mình, Phê rô đã "chọc gậy" vào bánh xe tình yêu của Thiên Chúa một cách ngây thơ như thể để cản lại bước đường nguy hiểm mà Đức Giê su sẽ đến. Nhưng ông có ngờ rằng, hành động đó chỉ là những suy tư hợp lý của thế gian đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa. Kẻ luôn đi ngược lại ý định và đường lối của Thiên Chúa luôn là hành động thúc đẩy của Satan. Satan là kẻ đã thử thách Thiên Chúa trong sa mạc về: quyền lực, vật chất và vinh quang thế gian. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Satan vẫn là kẻ luôn "chọc gậy bánh xe" tình yêu của Ngài qua việc xúi dục con người nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Anh chị em hãy tự nghĩ mình là ai? Là kẻ trợ lực hay trở lực đối với Thần Khí Thiên Chúa?
53.Đức Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất--Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu trả lời của các môn đệ. Tâm trí của các ông hình như đang hướng về một lý tưởng thiên sai trần thế và có tính quốc gia. Lúc đầu Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c. 20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết sức khao khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược lại mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu …” được tác giả dùng hai lần để đánh dấu hai phần lớn của tác phẩm (4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc trong sinh hoạt của Đức Giêsu.
Trong phép rửa của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy Người là tôi tớ (3,17 dựa theo Is 42,2). Trong các cám dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người đi theo hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi giảng Bài Giảng trên núi, Người đã chúc phúc cho những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả, Người đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của người nghèo (11,5), của những người đau khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của sứ vụ Galilê không tiên báo một tương lai màu hồng. Nhưng các tông đồ không để ý đến các hoàn cảnh đó, cũng như không quan tâm đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố rõ ràng của Đức Giêsu. Các ông chờ đợi mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật sự. Các câu trả lời ở Xêdarê Philípphê cho thấy tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý tưởng vinh quang và uy hùng trần thế.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):
a) Khúc quanh quan trọng (c. 21a),
b) Mô tả chi tiết tương lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);
2) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):
a) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu (c. 22),
b) Đức Giêsu xác định vị trí của Phêrô (c. 23).
3) Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):
a) Quy luật tổng quát của đời môn đệ (c. 24),
b) Nghịch lý “cứu – mất” (c. 25),
c) Một suy tư mục vụ: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),
d) Một biến cố tương lai, “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang”: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 27).
3.- Vài điểm chú giải
- Từ lúc đó (21): Công thức này đánh dấu hai phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là 4,17–16,20 được dành để nói về Nước Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con Người trên đường đi tới Thương Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết” cho thấy tất cả mức hệ trọng của quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối nguy hiểm mà Người đang đi vào.
- tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng động từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi động từ này ưu tiên diễn tả giáo huấn luân lý.
- Người phải đi (21): Động từ “phải” (hy lạp dei = cần thiết) có ý nói đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc chương trình của Chúa Cha.
- đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21): Đức Giêsu mô tả chi tiết chương trình Người đang đi vào. Điều này cho thấy Người biết trước và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết (apoktanthênai, aor. inf. pass. apokteinô) và … sống lại (egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây là những động từ ở thái bị động cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.
- ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời gian ngắn.
- Phêrô liền kéo riêng … bắt đầu trách … (22): Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của sự khôn ngoan loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Vị tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới đây còn là gương mẫu của người tin (16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như Tên Cám Dỗ đã đề nghị (4,1-11).
- Anh cản lối Thầy (23): dịch sát “Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật ra, tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác thuyền chài Simôn, mà là niềm tin của ông đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất cả công việc của ông đều sụp đổ.
- từ bỏ chính mình (24): có nghĩa là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.
- đi (bước) theo (24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ.
- việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là “lối sống, lối cư xử”, hàm ý là có các kinh nghiệm nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể bởi vì ngữ cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi” (erga) hiện tại của người môn đệ, nhưng nói về sự đau khổ tích cực của họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)
Sau lệnh im lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành những người ở bên trong, có sự hiểu biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức Giêsu loan báo cho họ những dau khổ và sự phục sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu sự hiểu biết đặc biệt của các môn đệ.
Với công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu”, chúng ta hiểu rằng lời tiên báo Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một lời sấm biệt lập, nhưng là một chương mới mà Đấng Cứu thế đang mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng thế gian, một cung cách cứu thế vinh quang trần tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến chỗ quan niệm ngược lại. Tuy nhiên, Đức Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới. Người trình bày chi tiết: (“tỏ cho biết”, deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án tử hình phải chịu, những người sẽ xét xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Các động từ ở thái bị động (apoktanthênai và egerthênai) cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật cuộc Thương Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu cũng chủ động. Người đi theo con đường được chỉ định trong tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.
Qua phản ứng của các môn đệ mà đại diện là Phêrô, tác giả cho thấy sự vấp phạm của cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng trước chướng kỳ thập giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm 1,16).
* Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)
Phản ứng của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Mới trước đó, với lời tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô (= Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát biểu dưới ánh sáng mạc khải của Chúa Cha, Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá trị như thế! Ông không ngờ bây giờ ông đã trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản bước Đức Giêsu đi theo kế hoạch của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh thật mong manh nếu không tin tưởng cạy dựa vào Đức Giêsu.
Ở đây, còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa: Phêrôi là người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ, giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c. 16 với những lời lẽ của các môn đệ và lời tuyên xưng của Giáo Hội. vậy hẳn là Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau khổ của người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư cách là môn đệ, ông sống tình trạng nhị giá giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và sợ hãi hậu quả của lời tuyên xưng ấy, giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô chẳng xấu hơn các môn đệ vì ông đã phản bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không tốt hơn các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở 16,16-19.
Đức Giêsu đã phản ứng rất mạnh lại với lời can gián của Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy (Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại bỏ việc thống trị thế giới theo đề nghị của quỷ. “Anh cản lối Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy. Skandalon là một từ mạnh để diễn tả dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại với “tảng đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn bản giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban, Phêrô là một “tảng đá (xay dựng Hội Thánh)”; do chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá vấp”. “Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác định vị trí duy nhất được dành cho Phêrô.
* Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (24-27)
Quy luật sống của người môn đệ được tổng hợp trong ba điểm: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình” là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác; tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. “Vác thập giá mình” là chấp nhận bản án thập giá; tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và cả mạng sống mình vì muốn trung thành với Đức Giêsu và với sứ mạng của Người. “Bước theo” không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau khổ của Đức Giêsu và đời môn đệ với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có thể thực sự hiểu Đức Giêsu bằng cách bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.
Chương trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và can đảm. Người môn đệ sẽ bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy mạng sống mình khỏi những đau khổ và một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một ảo tưởng. Rõ ràng là đau khổ không phải chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một hình thái sống tích cực: “Nếu ai muốn… (ei tis thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp hiểu rằng nếu kiên trì trong đời môn đệ, người tín hữu có thể phải chết sớm nhưng sau đó sẽ được sống muôn đời; trái lại, nếu người ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc sống trần thế của người ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó sẽ kết thúc bằng một cái chết thật sự.
Một suy tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và “cứu” mạng sống. Viễn tượng được mở rộng ra nữa: Người ta có thể đạt được tối đa thành tích trần thế trong cuộc đời này, tới mức chinh phục được cả thế giới, nhưng nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân thật, thì tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích, bởi vì với các của cải trần thế đã tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể vớt lại được những gì đã mất và không thể chinh phục những gì họ không có.
Thế rồi, Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng sẽ đến với các thiên thần để xét xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối sống (praxis) của loài người mà tác giả sẽ mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc quang lâm của Đức Giêsu “Con Người” cũng nhắc nhở người ta biết chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giêsu, là “Con người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là Đấng đang ở cùng các môn đệ, để dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có phúc”, vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng được tôn vinh “cho đến tận thế” (28,20). Sự phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con Người đang được chờ đợi không là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh biết và Đấng xuyên qua dòng lịch sử đã đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài ra vị Thiên Chúa mà Người Con sẽ cho thấy vinh quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện của Hội Thánh.
+ Kết luận
Lời phản đối của Phêrô được dùng như một điển hình. Khi phải đối đầu với đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén. Các tiêu chuẩn này của loài người không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Các môn đệ phải chấp nhận công việc của Đức Giêsu và phản ánh lối sống và sự đau khổ của Người. Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức Kitô chính là nét tiêu biểu của đời môn đệ, của Hội Thánh.
Về phương diện Kitô học, tác giả đã diễn tả mầu nhiệm Đức Đức Kitô bằng cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” bằng một phân đoạn nói về Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.”Con Người”. Nếu với lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên xưng về “Con người”, mục đích là giới thiệu con đường mà vị Thầm phán thế gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và sự sống lại; các môn đệ thông phần vào tất cả các tình trạng này. Đối với tác giả Mt, điều đã rõ là không một văn phòng huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có thể là thẩm phán xét đoán tính đúng đắn trong lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con Người mới có thể xét đoán praxis của các môn đệ đang tuyên xưng người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Làm tín hữu là “bước theo Đức Giêsu”. Vừa chào đời, mạng sống của Người đã bị đe dọa; sau đó Người đã làm nghề thợ mộc ở Nadarét trong một thời gian dài. Khi bắt đầu cuộc đời trần thế, Người đã bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các môn đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng họ đang đi theo một vị Thầy đã chấp nhận một cuộc sống hiểm nghèo, thì mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.
2. Cuộc Khổ Nạn nằm trong chương trình cứu độ: đây là điều “cần thiết”, tức thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người. Đây là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ mạng Người. Nhưng đây cũng là lý do từ bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu nhiệm này vừa là cớ vấp phạm đối với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây thắc mắc cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy đã là vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày, Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của “đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân được tuyển chọn, dân của Thiên Chúa, làm đối tượng của tình yêu Người, nghĩa là gì? Nhờ mạc khải của Đức Giêsu, chúng ta thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại lệ (= đau khổ của người công chính), đã trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua Thập giá.
3. Kinh nghiệm của Phêrô rất quý cho chúng ta. Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại dễ ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải biết ngờ vực chính mình, đồng thời không thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra nơi bản thân.
4. Nên đề phòng một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau khổ trở thành mục tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một phương tiện, một con đường đưa tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng chỉ nói về hy sinh, từ bỏ, hãm mình, chứ không nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui thỏa (coi đây là những điều xấu!). Thật ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng “sự thiẹn Kitô giáo” cả. Bổn phận của người Kitô hữu không phải là dạy chịu đau khổ, nhưng là dạy sống; không phải là dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh, nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra những điều đó. Mục tiêu của con người là hạnh phúc, ơn gọi của con người là thực hiện một thiên đàng trên trái đất trước khi đạt tới thiên đàng trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là cái giá phải trả để có niềm vui mà người Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho được. Điểm nhắm của ngươi Kitô hữu thì ở trên cao, nhưng để đến được đó, phải chấp nhận vượt qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy sinh một cái gì đó để không đánh mất điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải đau khổ, nhưng Ngài có thể yêu cầu họ chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm phát sinh niềm vui cho kẻ khác.
54.Loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Tại sao Chúa Giêsu loan báo “từ bấy giờ” (c.21) cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người?
2. Làm sao Phêrô vừa là phát ngôn viên một mặc khải của Thiên Chúa (16, 17) vừa là khí cụ của Satan (16, 23)?
3. Các môn đồ phản ứng thế nào khi nghe loan báo ba lần cuộc Khổ nạn (16, 22- 23; 17, 23b; 20, 20- 23)? Có sự tiến triển trong ba cuộc loan báo đó không? Phải chăng Chúa Giêsu luôn đề cập đến sự Phục sinh của Người?
4. Đâu là ý nghĩa của các lời loan báo Khổ nạn này so với chính cuộc Khổ nạn? Phải chăng chúng chỉ là những sấm ngôn miêu tả một biến cố tương lai?
5. Đâu là chủ ý thần học của Mt trong việc móc nối chặt chẽ lời Chúa Giêsu khen Phêrô (cc. 17-19) và lời Người khiển trách ông liền sau đó (cc.22- 23)?
1. Trong Tin Mừng Mt, ta thấy có ba lời loan báo về cuộc Thương Khó (16, 21; 17, 22- 23a; 20, 17- 19) tạo nên ba cao điểm của một phần kéo dài cho tới trình thuật Khổ nạn. Sau mỗi lời loan báo đều có một nhận xét ghi lại sự u mê của các môn đồ (16, 22- 23; 17, 23b; 20, 20- 23). Đó là những nhận xét đơn sơ thuộc về ký sự, nhưng lại mang nặng một ý nghĩa thần học đối với cả Tin Mừng. Sau cùng, cứ mỗi lần như thế, Chúa Giêsu lại quảng diễn cho các môn đồ hiểu thêm ý nghĩa của sứ mệnh Người (16, 24- 28; 18, 1- 4; 20, 24- 28). Thành thử đây là một trình thuật được khai triển theo nhịp điệu tam phân.
Cũng nên ghi nhận có một sự tiệm tiến trong lời mặc khải của Chúa Giêsu và trong phản ứng của các môn đồ. Sau cùng phải lưu ý rằng Chúa Giêsu không ngừng nhắc đến cuộc Phục sinh. Người không chỉ nói tới Thập giá, nhưng bao giờ cũng là Thập giá và Phục sinh, là sự chết và sự sống, dù về chính bản thân hay về các môn đồ.
Tất cả điều đó thật đầu ý nghĩa. Ba lời loan báo như muốn dẫn vào trình thuật về cuộc Khổ nạn để chuẩn bị và giải thích nó một cách thần học. Cuộc Khổ nạn chẳng phải là một biến cố từ ngoài in vào định mệnh của Chúa Kitô, như kiểu một tai nạn phải chấp nhận. Không! Nó là thành tố và là cao điểm của định mệnh Người. Là đường đưa đến Phục sinh, mầu nhiệm này gồm hai phương diện, mà một có tính cách chung quyết: sự sống, niềm vui. Đàng khác, môn đồ và Sư phụ không thể tách rời nhau. Cả hai đều liên kết trong cùng một số phận.
2. Ghi chú thời gian “từ bấy giờ”, mà Mt rất nhấn mạnh, nhắm cho thấy đã đến giờ đề cập đến điều mới mẻ. Người ta đi từ mặc khải về Chúa Giêsu tới mặc khải về Con Người đau khổ. Song song bên đó, người ta cũng thấy phải đối đầu với một loại u mê cứng lòng tin mới, vốn không còn là của đám đông, song là của các môn đồ: họ nhận ra Đấng Messia, nhưng đồng thời từ chối việc Người phải chịu đau khổ. Tương ứng với việc đào sâu viễn ảnh thiên sai là việc nới rộng nhãn giới đức tin vậy.
Theo Mc và Mt (chứ không phải lẽ), Chúa Giêsu “bắt đầu” nói đến cuộc Khổ nạn của người. Viết như thế, hai ông muốn nhấn mạnh sự kiện có tiến triển trong lời mặc khải thiên sai. Dĩ nhiên, đấy chẳng phải là một tiến triển tâm lý trong tâm thức Chúa Giêsu (một viễn tượng ở ngoài đường hướng của các Tin Mừng), song là một tiến triển trong việc biểu lộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đồng thời đó cũng là khả định rằng “từ bấy giờ”, chủ đề Khổ nạn trở thành trọng tâm thường xuyên.
3. Bây giờ ta hãy xem tính cách “mới mẻ” của mặc khải thiên sai hệ tại ở chỗ nào. Nó không giản lược vào viễn tượng cuộc bắt bớ, mà Chúa Giêsu đã phần nào ám chỉ (10, 24 tt). Đúng hơn tính cách mới mẻ đó phát xuất từ chữ “phải” nghĩa là hệ tại sự kiện: đau khổ là thành phần của chương trình cứu chuộc.
Hạn từ dei ấy (phải), mà các nguồn liệu đều ghi lại cho ta, không chỉ diễn tả một xác tín thuộc bình diện lịch sử và tâm lý dựa trên các nhận xét Chúa Giêsu rút từ môi trường và hoàn cảnh của Người, nhưng còn biểu hiệu cái ý thức rõ ràng của Người về một sự cần thiết thuộc bình diện thần học.
Trong Kinh thánh, (đặc biệt trong Tân ước), động từ dei không còn chỉ một sự bắt buộc của định mệnh, nhưng được dùng để chỉ thánh ý của Thiên Chúa; đúng hơn, trong Tân ước, hạn từ này mang một giá trị cánh chung: nó diễn tả một sự tất yếu bắt nguồn từ chính bản tính Thiên Chúa và quy hương về việc thực hiện chương trình của Ngài trong các biến cố cánh chung. Từ đó, bản văn chúng ta không những muốn nói Chúa Giêsu loan báo về cánh chung, nhưng sâu xa hơn, còn khẳng định rằng chính số phận của Chúa Kitô, tức là cuộc tử nạn của Người, thuộc về cánh chung. Tóm lại, khổ nạn không phải là một sự kiện “ngoại lệ”, cũng chẳng có gì là một biến cố bất ngờ xảy đến trong sứ mệnh Chúa Giêsu, nhưng là nòng cốt của sứ mệnh Người. Điều mới mẻ là ở chỗ đó vậy.
4. Tuy nhiên phải đi xa hơn nữa. Bản văn không chỉ quả quyết là cuộc Khổ nạn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhưng còn khẳng định rằng Chúa Giêsu đã ý thức về điều đó. Thật không đủ tí nào khi bảo rằng việc Người quyết định lên Giêrusalem – cái quyết định tạo nên khúc quanh quan trọng của đời người – chỉ có mục đích duy nhất là đặt dân chúng đối diện với sứ điệp về Nước Thiên Chúa, vốn phải đến đó trong thành thánh, để mời gọi họ quyết định trong giờ tối hậu này. Đúng thế, nhưng còn hơn nữa. Chúa Giêsu đã đi đến cái chết “cách tự nguyện”. Người đã không tiên đoán cái chết hoàn toàn như người đời, như những ai đã thấy Người lên Giêrusalem (x. Mc 10, 32; Ga 11, 16). Không! Người đã nhìn nó rời ánh sáng chương trình của Thiên Chúa như là một việc phục vụ.
5. Mc dùng động từ “giảng dạy” (8, 31). Mt lại thích động từ “tỏ cho hay” (deiknuein). Một lần nữa, đây không chỉ là tiên báo tiên đoán cuộc Khổ nạn để rồi chuẩn bị các sứ đồ sống biến cố đó, nhưng là tỏ cho họ thấy nó ăn khớp với chương trình của Thiên Chúa, nó thật là tối cần. Phải chứng minh là nó cần thiết, vì nó không hiển nhiên, không là một biến cố mà người ta thay là bắt buộc. Chứng minh thế nào? Lc bảo phải đi từ Kinh thánh (24, 26- 27.46; coi Mc 5, 12).
Mt không nói rõ gì về vấn đề này. Nhưng trong thực tế, động từ dei bao giờ cũng hàm án một sự quy chiếu về Thánh Kinh để diễn tả việc hoàn tất Kinh Thánh (vd. Mt 26, 54). Vì chính trong Thánh Kinh mà người ta nhận ra chương trình của Thiên Chúa. Ở đây sẽ không ai phủ nhận rằng nền tảng Thánh Kinh phải tìm trong Is 53. Vả lại các sấm ngôn về cuộc Khổ nạn không xuất hiện như những bản văn lẻ loi – kiểu những phiêu nham – dọc dọc theo Tin Mừng. Chúng chèn vào trong đó như những biểu hiệu sáng tỏ ít nhiều của một tư tưởng bàng bạc và bao giờ cũng quy chiếu, nhiều lúc cách minh thiên về sấm ngôn người tôi tớ của Thiên Chúa.
6. Trước viễn ảnh cuộc Khổ nạn, Phêrô làm một cử chỉ thụt lùi và Chúa Giêsu phải nghiêm khắc sửa trị ông, dù người vừa mới ca tụng niềm tin của ông. Không phải vô tình mà Mt tường thuật kế cận nhau lời Chúa Giêsu ca tụng và khiển trách môn đồ mình. Tất cả mọi tác giả Tin mừng đều đặt tương phản sự yếu đuối của Phêrô với cái tên képha (tảng đá) của ông. Chính họ đã cố tình nhấn mạnh sự đối nghịch đó để cho thấy chính nhờ ân sủng, nhờ Thiên Chúa lựa chọn, chứ không phải nhờ các đức tính tự nhiên, mà ông là Tảng đá trên ấy Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người. Một cách tổng quát hơn và đi xa hơn trường hợp Phêrô, chính chủ đề đối nghịch giữa trình diện bản tính tự nhiên và bình diện ân sủng, xuất hiện ở đây. Chủ đề này – yếu đuối và ân sủng – thường có trong Thánh Kinh, được đặt nổi bật ở c.17, được ám chỉ ở c. 18 nếu đọc trong nhãn giới Is 28, 16), và lại được đề cập ở c. 22-23.
7. Trước khi nghiên cứu các khẳng định khác nhau của Chúa Giêsu ở cc. 21- 27 (được nhập lại nơi đây, nhưng có lẽ được công bố trong nhiều dịp khác biệt), nên nêu ra cái điểm chính liên kết chúng thành một: đó là sự quy chiếu về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chẳng có sự từ bỏ nào được đòi hỏi vì chính nó, nhưng vì Chúa Giêsu. Do đấy câu 24 thực sự là câu căn bản. Dưới một quan điểm khác, ta có thể bảo rằng rốt cuộc phải liên kết các lời nói ấy vào cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, là cái giải thích lý do nỗi đau khổ và từ bỏ của môn đồ, là cái làm cho ra thông thường sự từ bỏ và khổ đau ấy. Hơn nữa, mối liên hệ này còn cho thấy sự đau khổ của môn đồ là nơi mà số phận của Thầy lại được trở thành hiện tại.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Chúa sẽ có đâu như thế!": Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần" (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: "Nếu Ngài là Con Thiên Chúa...", “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ" (Mt 4, 5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa "Nếu Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô - điều đó không thể nào xảy ra được". Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
"Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc: "Xéo đi, Satan" (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
"Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa": Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7: "Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời ". Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. "Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
"Nếu ai muốn đi sau Ta": Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
"Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được ": Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.
"Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?": Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất "cần thiết". Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, "mới mẻ" nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự "công chính" của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.
2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.
Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. "Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại". Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.
55.Con đường dẫn đến sự sống--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Con đường của Con Người…
Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ "trong miền Xêrarê Philip" trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: "Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: "Từ thời gian này..." đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.
2. Thông báo lần đầu về khổ nạn
Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: "Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại."
Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông "kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường "cứu thế" theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong "Jesus, l'histore vraie" Centurion 1994, trang 334-335)
"Satan, lùi lại đàng sau Thầy". Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của "ý tưởng loài người", mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô ("L'evangile de Matthieu" (Centurion 1991, trang 181).
3. Đường của các môn đệ
Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập gia. "Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ "mạng sống" sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. "Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ - đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà "xác thịt và máu huyết" có thể nghĩ ra, hình dung được.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Theo Đức Giêsu (Mgr. Daloz trong cuốn "Le Règlle des cieux s'est approehé" desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của "sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính "người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. "Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình". Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. "Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình", thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân... cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi... Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: "Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.
2. Biểu trưng của thập giá (D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí "Le Monde de la Bibbe" số 97, trang 5)
Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người "phương Đông" ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: "Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người - Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống - nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.
56.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Noel Quesson
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được "mạc khải" ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó...
Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc "tuyên xưng đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.
Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.
Từ ngữ "Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư...", mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."
Phêrô bị kết án là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu "Xatan hư hại!"
Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.
Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua "quan điểm con người" để chấp nhận "quan điểm của Thiên Chúa".
Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ "giản lược" cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.
Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo..."
Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: "Tôi muốn sống đời sống của tôi! ".
Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: "phải từ bỏ chính mình". Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.
Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ "phải nộp thân mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải "mất" để “được".
Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa".
Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.
57.Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá--Lm Trần Bình Trọng
Đọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương, những cảnh khổ đau, buồn tủi của loài người. Mặc dầu loài người cố thoát khỏi đau khổ, đau khổ vẫn đến với loài người.
Phúc âm hôm nay, cũng như Phúc âm Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B theo thánh Marcô, và Phúc âm Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C theo thánh Luca có nội dung và lời lẽ giống nhau hầu như đồng nhất. Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, Đức Giêsu bầy tỏ cho thánh Phêrô và các tông đồ thấy điều nghịch lý của Kitô giáo. Chúa đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Phúc Âm mang ý nghĩa đối nghịch với những ai muốn biến đạo Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân bản. Kitô giáo không phải là đạo sống theo sở thích cá nhân và tìm thoả mãn tính ích kỷ. Để nhấn mạnh và bàn sâu rộng về mỗi ý tưởng của lời Chúa, vào Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B, ta sẽ suy niệm về ý nghĩa lời Chúa: Con Người phải chịu đau khổ nhiều (Mc 8:31). Sang Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C, ta sẽ suy niệm về lời Chúa: Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống mình (Lc 9:24).
Hôm nay ta cùng suy niệm về lời Ngài: Ai muốn đi theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Từ bỏ chính mình, vác thập giá là điều kiện để làm môn đệ Chúa. Ta không thể theo Chúa mà không từ bỏ. Vậy từ bỏ chính mình có nghĩa là gì? Đứng trước những lựa chọn, ta không thể chọn hết. Chọn vật này thì phải bỏ vật kia. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những xu hướng cá nhân và từ bỏ cái tôi. Từ bỏ cái tôi để Chúa có thể vào nhà mình. Khi cái tôi lớn quá thì không còn chỗ cho Chúa vào. Từ bỏ mình để Chúa được tăng trưởng như thánh Gioan tiền hô đã đề xướng: Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi (Ga 3:30).
Từ bỏ mình để có thể vác thập giá. Nếu không từ bỏ thì không thể vác thập giá. Vậy vác thập giá mình có nghĩa là gì? Vác thập giá là chấp nhận những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống vì yêu mến Chúa. Nói chung, vác thập giá là chấp nhận những giới hạn và hoàn cảnh mình đang sống. Có một câu hỏi mà người chịu khổ thường thắc mắc là câu hỏi tại sao? Tại sao Chúa để tôi chịu đau khổ? Tại sao Chúa gửi thánh giá đến cho tôi và gia đình tôi? Đa số lòai người, trừ trẻ nhỏ, phải mang những thánh giá của bệnh tật, đau khổ phần xác hay phần hồn, thánh giá của cảnh lo âu, sợ hãi, cô đơn, tẩy chay, thất vọng, thánh giá của cảnh gia đình đổ vỡ, chia ly, phân tán. Có những người phải mang thánh giá kéo dài suốt cả cuộc sống. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng..
Đức tin vào Chúa không bảo đảm cho ta một đời sống miễn trừ khỏi bệnh tật, đau khổ và thánh giá hay khỏi những khủng hoảng và trắc trở của cuộc sống. Như vậy thì người có đức tin hay không có đức tin cũng có thể phải mang bệnh tật và đau khổ như nhau. Điều khác biệt ở đây là: người có đức tin không chịu khổ vì khổ như một đường cùng không lối thoát. Họ có Chúa là bạn đồng hành trên đường đau khổ thánh giá. Người có đức tin chịu đau khổ, vác thánh giá vì lòng yêu mến Chúa để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúa không bảo ta đi tìm đau khổ và thánh giá. Chúa chỉ bảo ta vác thập giá mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi người ta tự chuốc lấy đau khổ và thánh giá cho mình. Ta phải mang bệnh tật đau khổ vì nghiện ngập, hút sách, không biết giữ gìn sức khoẻ hay không biết kiêng cữ. Ta phải chịu cảnh tù đày vì không tôn trọng luật pháp. Ta phải chịu đau khổ về tâm linh, về tình cảm vì tạo ra những mối tình ngang trái, tạm bợ. Và khi phải cắt đứt những mối tình tạm bợ và ngang trái, ta sẽ bị héo hắt tâm can.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Ta không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ và thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp bệnh hoạn tật nguyền, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi gặp đau khổ và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để chia sẻ vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ơn ích thiêng liêng. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về nỗi khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân, và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Lời nguyện xin cho được biết tử bỏ mình, vác thập giá:
Lạy Chúa, con xin cảm tạ đội ơn Chúa
đã đến chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người.
Xin tha thứ những lần con phàn nàn kêu trách Chúa
vì những đau khổ thánh giá con phải mang vác.
Xin ban ơn nhẫn nại để con biết từ bỏ mình, vác thánh giá.
Xin Chúa là sức mạnh và là niềm an ủi
khi con phải mang vác thánh giá của cuộc sống.
Xin dạy con thánh giá là dụng cụ biến đổi ở đời này
và là dụng cụ cứu rỗi đời sau. Amen.
58.Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”(Lc 16,24).
1. Từ bỏ mình, có mất tự do không?
Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?
Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.
Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.
Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.
Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ..., để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.
Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai... Con đường đó là con đường của từ bỏ: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?
"... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.
Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).
Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.
Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.
Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.
Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.
Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.
3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.
Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.
Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.
Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
59.Chúa Nhật 22 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Liền sau khi Phêrô tuyên tín rằng: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
Nghe vậy, Phêrô kéo Người ra và can ngăn Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (x. Mt 16,22). Phêrô cho rằng làm như vậy là đúng, là cần thiết, và chắc chắn sẽ được Thầy khen ngợi như lần trước. Nhưng không ngờ rằng, lần này chẳng những Thầy không khen mà còn quở mắng ông một cách thậm tệ: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Lần trước được Thầy khen “vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 16,17). Còn lần này bị Thầy quở mắng vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Qua lời răn dạy của Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn lại con người của mình, lắm lúc ý nghĩ của chúng ta chưa chắc là ý nghĩ của Chúa, thậm chí còn trái với ý nghĩ của Chúa (x. Is 55, 8). Cho nên, trong các sự việc hằng ngày chúng ta đừng vội làm theo ý riêng của mình mà cần phải tìm kiếm và tuân theo ý của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng đã luôn sống theo thánh ý Chúa Cha, Ngài khẳng định rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 4,34). Trong vườn Cây Dầu, trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Ý của Chúa được thể hiện qua Lời của Ngài, qua các Giới răn, qua các Bề trên hợp pháp, qua cha mẹ… Ý của Chúa còn được thể hiện một cách cụ thể qua lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Lời mời gọi này diễn tả hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực, đó là “từ bỏ mình”; khía cạnh tích cực, đó là “vác thập giá”.
“Từ bỏ mình” nghĩa là từ bỏ ý riêng của bản thân để tuân theo ý Chúa. Từ bỏ mình là từ bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới. Từ bỏ mình là từ bỏ những thói hư, tật xấu, những tham, sân, si. Từ bỏ mình là từ bỏ cả những cái thân thiết khi Chúa đòi hỏi như nhà cửa, ruộng nương, người thân. Từ bỏ mình là từ bỏ những thứ cồng kềnh khi chúng ta chấp nhận đi con đường hẹp. Đi con đường hẹp đòi hỏi phải hy sinh, phải “liều mất” để “được”. Đi con đường hẹp sẽ nên hoàn thiện, sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26).
Còn “vác Thập giá mình” là đón nhận những đau khổ trong cuộc sống một cách vui vẻ với niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc đời sau, giống như Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh:
Những đau khổ đó có thể do tội lỗi gây ra. Sau khi Adong phạm tội, Thiên Chúa đã cho ông biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19);
Những đau khổ đó có thể tự mình gây nên cho mình: Một sự thiếu tiết độ, một thói quen xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, không giữ luật giao thông nên gây ra tai nạn. Nghiện thuốc lá, nghiện rượu gây ra các chứng bệnh phổi, tim v.v.;
Những đau khổ đó có thể do chính con người gây nên cho nhau: Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị, ghen ghét, giết chóc, đàn áp, cáo gian, đánh đập, làm thực phẩm độc vv…Những đau khổ đó là do người thân, bạn bè, những người trong xã hội, những người ghét chúng ta gây ra;
Những đau khổ đó có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán, ôn dịch…gây ra biết bao đau khổ cho con người;
Những đau khổ đó có thể do chúng ta mang danh là kitô hữu: Các cuộc bắt bớ các kitô hữu qua các thời kỳ lịch sử cho chúng ta thấy điều đó. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Vì thế, để trung thành với luật Chúa và Giáo hội, người kitô hữu phải chấp nhận đau khổ.
Nhìn lại đời sống đức tin, để từ bỏ mình và vác thập giá mình đi theo Chúa một cách trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Có khi chúng ta cũng giống như Phêrô không sẵn sàng đón nhận những đau khổ xảy đến với mình, không đón nhận đau khổ trong niềm vui và hy vọng nhưng còn có thái độ gượng ép, thậm chí nhiều khi còn phàn nàn kêu trách Chúa. Người đàn ông trong câu chuyện ngụ ngôn sau đây có lẽ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta: Có một người đàn ông luôn than van về những nỗi khổ cực của mình gặp phải. Một hôm, thiên thần hiện đến nói với ông: “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, vì nơi đó người ta để lại thánh giá của cuộc đời mình. Con hãy mang thánh giá của con ra đó, và hãy lựa thánh giá vừa sức với con.”
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn một cái khác nhẹ hơn, nhưng ông tìm kiếm mãi mà không được: vì có cây quá dài, nhưng có cây lại quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng lại quá nặng, và sau cùng ông nói với thiên thần: “Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với sức của con thôi.”
Thiên thần trả lời: “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa với sức của con, con hãy vui lòng đón nhận mà vác đi trọn cuộc đời của mình, đừng than van gì nữa.”
Ước gì mỗi người chúng ta biết “từ bỏ mình và vác thập giá mình” trong niềm vui và hy vọng. Nhờ đó, khi Con Người ngự đến trong vinh quang, chúng ta được lãnh nhận phần thưởng xứng với sự cố gắng của chúng ta. Amen.
60.Mất và được--Lm. Giusehepus Quang Nguyễn
Tối qua 18/8, công an TP. Hà Nội cho biết, khoảng 17h50 chiều cùng ngày, người dân quanh khu vực ngõ 174 Trâu Quỳ, thị trấn Trâu Quỳ (huyện Gia Lâm, Hà Nội) đã phát hiện một cháu bé bị mắc kẹt tại khe tường giữa 2 ngôi nhà. Đội Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ Công an huyện Gia Lâm đã phối hợp với Công an nhanh chóng có mặt tại hiện trường tìm cách giải cứu bé sơ sinh. Đến 18h cùng ngày, Công an huyện Gia Lâm đã giải cứu thành công cháu bé. Nam thanh niên khoan tường giải cứu cháu bé mắc kẹt trong khe nhà. Người ta kể: "Từ khoảng 3h sáng, có mấy bạn nữ ở trên phòng đã thấy em bé khóc, chắc lúc đó bé mới được sinh ra. Buổi chiều, mọi người vẫn nghe thấy tiếng khóc thì mới tìm xung quanh và thấy em bé ở trong khe nhà. Ban đầu, mọi người lại tưởng là con búp bê kẹt trong khe. Sau nhìn lại thấy em bé giãy giãy nên mọi người mới biết là bé sơ sinh”. Ngày 21.8, theo thông tin từ Công an huyện Gia Lâm, sau 2 ngày tiến hành xác minh, sàng lọc, đã xác định được mẹ của bé sơ sinh bị bỏ rơi tên N.K.H. (20 tuổi, trú tại Kim Sơn, Ninh Bình) hiện đang là sinh viên học năm thứ 2 Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Theo thông tin, lý do H. vứt con sau khi sinh vì có thai ngoài ý muốn, do tâm lý lo sợ ảnh hưởng đến việc học nên đã giấu bạn bè và gia đình.
Theo tính toán cúa mình, mẹ của bé sơ sinh kia khi bỏ rơi bé thì mình được khỏi bị tai tiếng, khỏi phải khổ, không bị thất học và khỏe cái thân nhưng cô đánh mất rất nhiều: mất nhân cách, lương tâm, đạo đức, tình mau tứ và tính người, sự sống đời đời.… Cho nên, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời. Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn. Vì, đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi. Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác. Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau. Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời. Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm. Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội. Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc. Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh chị em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh chị em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của chúng con. Amen.
61.Sống mầu nhiệm Thánh giá
“Ai muốn theo Ta…”
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phí cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các Tiên tri”. Bỗng dưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ ra cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại”.
Mấy lúc gần đây, lời Tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bày tỏ rõ ràng những gì sp xảy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi ngài vừa tiết lộ tất cả những sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo Hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Thánh Phêrô. Phêrô không hiểu nỗi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải chết để cứu vãn nhân loại.
Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Thánh Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: Từ bỏ mình, vác Thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đu khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá mà theo Ta” (Mt 16,24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là Thầy, cả các môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1,24)
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương cùa nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6.000 được ghi lại, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận Thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
62.Tại sao có đau khổ?
Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ phải chịu đau khổ và người ta sẽ giết Thầy”. Xa hơn một chút, Ngài sử dụng những từ ghê gớm này là vì chúng ta: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất sự sống mình”
Chúng ta đừng thử thoát ra khỏi đó, lựa lọc Tin Mừng chính là từ chối Tin Mừng. Dầu vậy điều đó không có nghĩa là chấp nhận Tin Mừng một cách mù quáng nhưng trên lý thuyết mà thôi. Kẻ nào thực sự muốn đi theo Tin Mừng thì không ngần ngại đặt vấn đề để biết rõ phải đi đâu và tại sao phải đi.
Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cực hình Thánh Giá? Đối với Phêrô đây là điều không thể tưởng tượng được. Chúa Giêsu phản ứng nghiệt ngã bởi vì hình dung điều sắp xảy ra là điều khó chịu đối với Ngài. Trong khi đấu tranh chống lại sự âu lo, Ngài muốn hoàn toàn đi vào trong đường lối của Thiên Chúa, thế mà Phêrô kéo Ngài về lại đường lối của con người. “Hỡi Satan, hãy cút đi!”. Đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người. Điều này có nghĩa là Ngài phải một lần nữa xua đuổi cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế được toàn dân bỏ phiếu ủng hộ, một Đấng Cứu Thế tành công mà không phải đi qua con đường khổ nạn. Không, phải tới lúc Ngài sẽ bị lăng nhục và bị giết vì lòng ghen ghét. Đó là đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người.
Đường lối của Chúa sao? Đường lối của Chúa ở đây đối với chúng ta thật khó hiểu! Thiên Chúa muốn có sự đau khổ sao? Thật là phạm thượng. Chúng ta chỉ đoán thấy Thiên Chúa trao ban Con của Ngài để cứu chuộc chúng ta và điều này dẫn đến giờ phút âu lo này. Trong một thế giới bất công, bạo lực và theo đạo hình thức, Chúa Giêsu đã xử sự theo cách Ngài dứt khoát phải chết. Đó là điều giờ đây Ngài cảm nhận được. Chúa Cha không giao phó Ngài cho cái chết, Chúa Cha giao phó Ngài cho sự cứu chuộc mà sự cứu chuộc này phải kinh qua cái chết.
Vẫn còn mầu nhiệm. Nếu tôi tự hỏi: “Tại sao có đau khổ và chết chóc”, tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi đó, tôi không thể hiểu được ý của Chúa. Nhưng tôi có thể nhìn xem Chúa Giêsu nắm bắt được ý của Chúa như thế nào: “Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ”.
Tôi có quyền xem đây là điều kỳ lạ, cách mạng, miễn là tôi chấp nhận để cho gương của Chúa Giêsu dạy cho tôi môt bài học. Ngài đã không chấp nhận đau khổ một cách mù quáng. Ngài đã thấy đường lối này rồi, Ngài đã thấy rằng Ngài “phải” chịu đau khổ. Đàng sau Ngài, và đây là nghịch lý lớn của Kitô giáo, chúng ta tiếp tục tiến vước trong bóng tối nhưng cũng trong ánh sáng nữa. Do đó, khi chúng ta muốn “cứu mạng sống của chúng ta” bằng cách tách chúng ta ra khỏi Ngài (vì sợ đau khổ) thì chúng ta sẽ mất nó. Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn khẳng định của Ngài: “Kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”
Nhưng các tiếng này đối với chúng ta có vẻ như không thể hiểu được và khó nghe bao lâu mà chúng ta không biến chúng thành kinh nghiệm. Nếu vậy, không ai theo Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Trái lại, những ai không đọc Tin Mừng thì chắc hẳn những kẻ đó bị đóng khung trong những câu hỏi tại sao.
63.Thập giá.
Người môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay có thể trở thành một Satan, một thứ kỳ đà cản mũi không cho Ngài thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó như Phêrô ngày xưa.
Thực vậy, chúng ta thường hay quên đi một cách cố tình hay vô ý, lời mời gọi của Chúa Giêsu:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Chúng ta có thể dễ dàng loại bỏ sang một bên tư tưởng của Thiên Chúa để chạy theo tư tưởng của loài người, để rồi cuối cùng đánh mất bản chất người Kitô hữu. Môn đệ không trọng hơn thày. Nếu Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và thập giá vì trung thành với sứ mạng phục vụ con người trong sự thật và tình thương, thì người môn đệ của Ngài cũng phải dám liều mạng sống mình vì Ngài, cũng như vì anh em, thì mới hy vọng tìm lại được mạng sống mình.
Đường lối Chúa Cha đã chỉ cho Đức Kitô thực hiện dường như không đi đúng với cái lý luận thường tình của con người được phản ảnh qua thái độ của Phêrô. Con người dễ dàng chọn theo chiến thuật của Satan, mau mắn xử dụng của cải, danh vọng và quyền lực để thực hiện mọi ý đồ của mình. Và con người cũng dễ viện cớ phục vụ vinh quang Thiên Chúa: Xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, để xây dựng sự nghiệp của riêng mình.
Trái lại, qui luật sống của chúng ta, những người môn đệ Chúa, được thánh Phaolô xác quyết: vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Đừng lầm tưởng rằng đó là một tâm trạng bệnh hoạn, ưa chuộng khổ đau. Dù muốn hay không, thập giá vẫn có mặt trong cuộc sống con người, dưới những danh nghĩa khác nhau, như đau khổ, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… nhưng thập giá không chỉ là chịu đựng, chấp nhận một cách thụ động. Vác thập giá còn là một chọn lựa tích cực, như Chúa Giêsu đã từng tâm sự: Thày sẽ phải chịu một phép rửa và lòng Thày khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất. Phép rửa ấy chính là cái chết trên thập giá.
Thế nhưng trong cuộc sống, chúng ta có biết bao sự chọn lựa đi ngược lại với thập giá, tương tự như hành động của Phêrô lẩn trốn khỏi thành Rôma đang khi hoàng đế Nêrôn ra tay bắt đạo. Và trên đường, Phêrô đã gặp Chúa Giêsu đi ngược chiều. Phêrô lên tiếng hỏi: Quo vadis Domine. Lạy Thày, Thày đi đâu đấy? Chúa Giêsu trả lời: Ta đi vào thành Rôma để chết thay cho con.
Người môn đệ Chúa vác thập giá mình mà theo Chúa khi đứng về phía con người, phục vụ cho sự sống, cho tình thương, cho sự thật dù có phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Thập giá sẽ không đè bẹp con người đi theo Chúa, bởi vì chính Ngài tự nguyện làm một Simong ghé vai vác đỡ, đồng thời chính thập giá sẽ nâng chúng ta lên và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Bởi vì, thập giá đã được đóng lên từng việc làm, sẽ đảm bảo chất lượng yêu thương, đúng với nguyên mẫu của Chúa Giêsu.
64.Từ bỏ mình, vác thập giá mình
Đọc đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy tư tưởng chính yếu được đúc kết thành những chữ: từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu.
Thật vậy, cuộc sống hằng ngày cho chúng ta một kinh nghiệm quá quý giá. Đón là chọn lựa. Cuộc sống là một chuỗi những sự chọn lựa. Chọn lựa đi đôi với từ bỏ. Chọn lấy cái này thì đương nhiên chấp nhận từ bỏ cái kia. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Vì thế, chúng ta không cảm thấy ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu bảo chúng ta: chọn lựa theo Chúa thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình và đi theo Chúa. Xem ra ba điều kiện này hoàn toàn đi đôi với nhau. Cái này không thể thiếu cái kia và ngược lại. Chúng ta thử nghĩ xem: từ bỏ mình, vác thập giá mà không theo Chúa Giêsu cũng không được. Hay theo Chúa Giêsu mà không tử bỏ mình thì càng không được hơn nữa. Do đó cách tốt nhất cho người môn đệ là từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và đi theo Chúa Giêsu. Chúng ta xem xét những cụm từ này.
Trước hết, chữ từ bỏ mình nghĩa là từ bỏ những gì là của mình, từ bỏ những gì liên hệ thậm chí là gắn bó mật thiết với mình, nó là từ bỏ những gì trở nên chính mìn hay người ta gọi là cái tôi của mình. Để từ bỏ mình thì tôi phải biết mình, biết những gì làm cho tôi bám víu, trì hoãn, không phát triển được đời sống của mình. Lẽ thường, từ bỏ cho ta một cảm giác thật khó chịu, khó lòng và chắc chắn khó khăn. Khó chịu là bởi vì cuộc sống đã làm cho mình trở nên cái nếp, trở nên thói quen nên nếu có thay đổi thì làm cho ta khó chịu. Khó lòng là bởi vì những cái đi theo mình, những sản phẩm mình tạo ra mà lại từ bỏ à! Nếu không có ơn Chúa giúp, ta không muốn từ bỏ mình đâu! Hơn nữa, nếu từ bỏ những thứ đã có sẵn mà làm theo cái mới như Chúa Giêsu đòi hỏi thì quả thực là rất khó khăn.
Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay tôi sẽ thấy rõ điều ấy. Khi xem tivi, tôi muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, dùng cái Remote, khỏi mất công đi lại điều chỉnh. Hay nếu ngại nấu ăn thì đã có mì ăn liền, có cháo ăn liền, có cà phê uống liền khỏi mất công pha chế. Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng bậc vất vả...Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con người nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được...như thế là tôi còn quá ấu trĩ. Thỉnh thoảng, thậm chí là lâu lâu đi xưng tội một lần, cho ổn "tâm lý" mà thực ra chưa chuẩn bị kỹ càng, điều đó càng cho thấy đức tin yếu kém, không ý thức đó chính là bí tích, là sự sống đức tin, là niềm an bình hạnh phúc của người Kitô hữu.
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi tôi từ bỏ mình hay đúng hơn Ngài muốn tôi trở lại con người mình, nhìn thấy rõ thân phận của mình, thân phận là một con người, một người con đã được cứu chuộc. Một nhân vị cao quý lắm thay! Nhìn nhận để thay đổi lối sống, thay đổi thái độ ứng xử, thái đổi hành vi và tập quán, thay đổi thói quen ấu trĩ, sẵn sàng nghe và làm theo tiếng nói của Chúa, của lương tâm, của lề luật, của Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. và càng hơn nữa, tôi càng biết từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa Giêsu đã làm (Mt 26, 39). Đó chính là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
Kế đến, chúng ta nhìn xem thập giá mình. Mang thân phận con người, ai ai cũng có thập giá trong đời mình. Những trái ý, những thất bại...nó chi phối cuộc đời chúng ta. Có người nhìn những trái ý ấy chính là cái khổ, là nghiệp chướng,...Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhìn những điều đó chính là điều kiện tỏ lòng quý mến và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường vâng theo ý Chúa Cha, con đường vác khổ giá. Vì thế, người Kitô hữu không thể đi khác con đường Chúa Giêsu đã đi, phải bắt chước Chúa Giêsu, chẳng những chấp nhận vác khổ giá đời mình mà còn vui lòng vác khổ giá vì Chúa Kitô. Chúa Kitô đã qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Sau chặng đường vất vả khổ giá vì Chúa Kitô, chúng ta sẽ được vui sướng hạnh phúc giống như Ngài, vui bằng niềm vui của ngài, sống bằng sự sống chính Ngài đã khổ công, khổ nhọc đi qua và làm nên chứng tích tình yêu của mình.
Cuối cùng là bước theo Chúa Giêsu. Rõ ràng người kitô hữu được xác định phương hướng là bước theo Thầy. Hành trình trong cuộc đời này, tôi đi với Thầy Giêsu và đi theo Chúa Giêsu. Có Chúa cùng đồng hành, tôi sẽ bình an và vui vẻ tiến bước. Dù cuộc đời cò nhiều gập ghềnh sỏi đá, có nhiều thử thách, có nhiều cam go...nhưng lòng an vui vì tôi đang bước theo và bước với Chúa Giêsu.
Từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu là những yếu tố cấu tạo nên đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện mà Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện Ngài đề ra cho tôi. Thoạt nghe lúc đầu thì đây quả thật là những điều kiện không mấy dễ dàng thực hiện, tuy nhiên Chúa Giêsu loan báo khổ nạn và Ngài cũng loan báo phục sinh vinh quang. Và đó cũng là điều đã được thực hiện. Chắc hẳn ai ai cũng thích sống dễ dãi, tự do, hưởng thụ và theo lối sống của mình. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống cao cấp hơn, sống theo lời mời gọi tình yêu từ thượng giới. Đức Hồng Y Suhard đã nói: "Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa Kitô mà không có thánh giá và cũng đừng tìm thánh giá mà không có Chúa Kitô".
Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là mỗi lần tái diễn hy tế trên thập giá của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con, khám phá ra từ mỗi thánh Lễ mà chúng con cử hành, đó là mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc, đồng thời chúng con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu, để nhờ thập giá mà chúng con kết hợp với Chúa Giêsu hằng ngày giúp chúng con đến đích điểm của cuộc đời là được phục sinh với Chúa Giêsu Kitô. Amen.
65.Sống đức tin
Như chúng ta đã biết: Với lời tuyên xưng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tấn phong lên ngôi vị giáo hoàng đầu tiên, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm nền tảng của Giáo Hội: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời. Sự gì con cầm buộc ở dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, còn sự gì con cởi mở ở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở.
Thế nhưng cũng chính vị giáo hoàng đầu tiên này sau đó ít phút, đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu tại Giêrusalem, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy. Nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc nói với Phêrô: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta, bởi vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.
Thái độ nghiêm khắc của Chúa Giêsu làm cho chúng ta ngạc nhiên, thế nhưng biết đâu lúc này Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta như vậy. Bởi vì chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, trên môi trên miệng nhưng chưa thực sự sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta chưa được tôi luyện và trưởng thành trong đau khổ, trong gian nan thử thách. Chúng ta vui vẻ mở rộng vòng tay đón nhận hạnh phúc và may mắn, nhưng lại vội vã chạy trốn trước những khổ đau và bất hạnh. Đối với chúng ta thập giá không còn là một dấu chỉ của ơn cứu độ, nhưng là dấu chỉ của một sự điên khùng và dại dột, một cái gì cần phải xa tránh. Càng tránh xa được bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Bởi vì tư tưởng của chúng ta chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Thực vậy, tư tưởng và lập trường của Chúa Giêsu thật rõ ràng và dứt khoát: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta. Chúa Giêsu cũng đã đưa ra hai điều kiện và hai kết quả sóng đôi với nhau: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm thấy. Dĩ nhiên, đây không phải chỉ là sự sống phần xác, chúng ta có bổn phận phải duy trì, phải phát triển nhưng không được lạm dụng bằng những vui thú quá trớn. Mà hơn thế nữa, còn là sự sống phần hồn của bản thân chúng ta và của những người chung quanh chúng ta. Để sự sống ấy được phát triển, chúng ta phải tin cậy và phó thác vào Chúa, nhất là chúng ta phải thực thi những điều Ngài truyền dạy: Từ bỏ mình và vác thập giá là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
Tuyên xưng đức tin là một chuyện, còn sống đức tin là một chuyện khác. Giữa hai việc làm ấy là cả một con đường dài, nhiều cam go và thử thách. Thế nhưng chúng ta đã thực sự sống đức tin của mình hay chúng ta chỉ mới tuyên xưng trên môi trên miệng để rồi cuối cùng chúng ta sẽ bị Chúa Giêsu quở trách như Phêrô ngày xưa: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta.
66.Mất và được
Ông Vincio, người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán. Hôm đó ngày 23.12.1993 đang trên đường đi thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp. Ông xuống xe loay hoay thay bánh “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe, thì người đàn ông này kiếu từ phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của mình bị mất cắp một số đồ mắc tiền do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy. Ông buồn thở dài, nhưng ông thấy một vé số rơi xuống đường có lẽ của tên ăn trộm. Ông lượm bỏ vào túi. Dịp xổ số đầu năm 1994, ông mang vé số đó ra dò thì may quá vé số trúng 50 triệu lire tiền Ý tức khoảng 60.000 đôla, ai mà chẳng thích. Nhưng lương tâm ông Vincio áy náy vì vé số này không phải của ông. Lòng ông dường như đeo một tấn đá nặng nề. Ông bỏ tiền đăng quảng cáo để tìm ra chủ nhân của tấm vé số đó. Nhiều người tham tới nhận là của mình. Nhưng chỉ vài câu hỏi, ông biết là kẻ tham lam. Ba tuần sau, tên trộm đồ sửa xe điện thoại tới nhận và tả lại mọi chi tiết. Ông Vincio mang 50 triệu lire tới trả cho chủ nhân. Tên trộm quá cảm động, xin lỗi ông Vincio và nói vì anh ta đang thất nghiệp lại nuôi 2 đứa con thơ nên buộc lòng phải lấy đồ sửa xe bán lấy tiền. Tên trộm hỏi tại sao ông Vincio không giữ lấy 50 triệu lire mà xài vì có ai biết gì đâu. Ông Vincio trả lời, lương tâm ông không cho phép. Ra về, ông Vincio cảm thấy nhẹ nhõm tâm hồn hơn bao giờ hết. Mất đồ sửa xe, nhưng được tiền nhiều, được tiền đó nhưng lại mất bình an tâm hồn. Cái vòng mất - được đó cứ luẩn quẩn xoay tròn. Cuối cùng ông Vincio chấp nhận mất số tiền để được bình an tâm hồn.
Phúc Âm hôm nay cũng nói tới cái Mất và cái Được. “Nếu ai dám mất mạng sống mình ở đời này vì Thầy thì sẽ được nó ở đời sau”. Mất mạng sống tức từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa - được đời sau tức được nước thiên đàng, được Thiên Chúa, được hạnh phúc muôn đời. Như vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy mình mất những cái gì tạm thời để được những cái gì vĩnh cửu - mất những thú vui chóng qua để được hạnh phúc trường tồn, mất thân xác mục nát để được linh hồn bất tử, mất tội lỗi và hình phạt để được ân điển và phần thưởng, mất sự cắn rứt lương tâm để được bình an tâm hồn. Cái mất này so với cái được thì mất quá nhỏ nhoi, còn cái được thì bao la vô tận. Cái mất này là “tấm vé” vào Nước Trời. Nước Trời là thực tại không thể mua bằng quyền lực, tiền bạc, sống lâu, danh vọng, tài giỏi... Nước Trời chỉ có thể mua bằng việc dám mất mạng sống, dám từ bỏ mình.
Từ bỏ mình là khi chúng ta giữ 10 điều răn Chúa, là khi chúng ta yêu thương và tha thứ kẻ thù, là khi chúng ta chấp nhận cái nóng lạnh của thời tiết, là khi chúng ta chấp nhận những bệnh tật Chúa gởi đến, là khi chúng ta chu toàn bổn phận của cha mẹ hay con cái trong nhà, là khi chúng ta phục vụ những công tác của giáo xứ, là khi chúng ta dám bỏ giờ để thăm viếng bệnh nhân... Nói chung là khi chúng ta chấp nhận phải hy sinh hơn, phải vất vả hơn, phải thiệt thòi hơn.
Thiên Chúa không hứa hạnh phúc mau qua, Thiên Chúa không chiều chuộng để chúng ta hư đi. Nhưng Thiên Chúa nói thẳng và nói thật “Ai dám mất mạng sống thì người đó được lại”. Mỗi người chỉ sống một đời, đời đó lại rất cá biệt không ai thay thế được, cho nên chúng ta đừng dại mang đời mình ra chơi trò may rủi. Vì được lời cả thế gian mà sau này mất thiên đàng thì chúng ta còn gì mà chuộc lại. Cái chắc ăn nhất là dám chọn cái “mất” tạm thời để nhận cái “được” thiên thu.
67.Con đường thập giá.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta tiếp xúc với một khuôn mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô trong Chúa nhật tuần trước.
Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được Thiên Chúa mạc khải để ông nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa Giêsu ca ngợi, đặt làm nền tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút, Phêrô lại là người đầu tiên vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó.
Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ về cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau khổ, bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã xuất phát từ niềm tin của ông vào tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng cánh chim, từng bông hoa. Thiên Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt cho con cái. Một người cha thế gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó xin cái bánh, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm sao có thể xảy ra được.
Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được chứng kiến quyền năng của Thầy mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão táp, thì làm sao Ngài lại để cho mình gặp phải sự khốn khó?
Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời, vì ông đã đơn giản hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan. Thực vậy, khi Satan đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để chân Người khỏi vấp phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng trở nên một thứ phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù phiến của mình.
Sự thực thì đây không phải là một cơn cám dỗ đặt ra cho một mình Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã gặp phải. Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao Chúa không cho tôi trúng số để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời giờ làm những công việc đạo đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí. Tại sao Chúa không cho Giáo Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho Nước Chúa được mở rộng và danh Chúa được cả sáng.
Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để cứu độ trần gian là con đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội lại sứ mệnh của mình, và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và đối với bản thân chúng ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc phục vụ người khác, thì chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi riêng tư của chúng ta.
68.Điều kiện theo Chúa Giêsu
Con người bản năng dễ có khuynh hướng vỊ kỷ và tìm sự dễ dãi trong cuộc sống, không muốn cực khổ. Tuy nhiên lý trí và ý chí chúng ta lại có xu hướng vươn lên cao, muốn chinh phục cả những cái xem ra vượt quá sức mình, vượt qua mọi trở ngại và giới hạn của chính mình để đạt tới một tầm vóc cao hơn, siêu vượt thế giới vật chất đầy giới hạn này. Chúa Giêsu biết rõ bản tính con người với những ưu khuyết điểm, Ngài không đến để huỷ bỏ bản năng con người nhưng muốn chúng ta dùng lý trí hiểu biết và ý chí để làm chủ và thăng tiến bản thân, mỗi ngày một nên thánh thiện hơn, tương xứng với tầm vóc làm con Thiên Chúa. Để đạt được tầm vóc ấy, Chúa Giêsu đưa ra điều kiện: từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh.
Trước nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu là người vác Thánh giá đi đầu trong đoàn người tiến về nhà Cha. Mục đích Ngài xuống trần gian là để phục vụ loài người! Thiên Chúa mà lại hạ mình làm người để giúp đỡ, để cứu chuộc loài người khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và sự chết. Đối với tình yêu Thiên Chúa thì con người chỉ chỉ biết ca tụng luôn mãi mà thôi. Tình yêu Chúa ban cho chúng ta không có gì sánh bằng, nhân loại không thể làm gì để đền đáp tương xứng được. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì Chúa chỉ cần chúng ta yêu mến Ngài, thể hiện qua việc vâng phục, sống theo lời Chúa dạy để được ơn cứu độ. Chúng ta không được phí phạm ơn Chúa, nhưng phải cố gắng hết sức để làm phát triển những ơn ban của Chúa nơi cuộc sống trần gian này. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta quá đỗi, Ngài không chỉ đến ở với loài người mà còn hy sinh lãnh lấy tội của loài người nữa, bao nhiêu tội lỗi nặng nề Chúa chịu hết, bao nhiêu sỉ nhục con người đáng phải chịu thì Chúa Giêsu Kitô đã mang lên cây thập giá, không than trách mà bằng lòng chịu vì chúng ta cho đến chết!
Các môn đệ lúc đầu vì chưa hiểu nên còn tranh nhau những sự phù vân ở đời này, họ còn mong danh vọng và hạnh phúc chóng qua. Chúa Giêsu phải nhắc nhở họ, hướng họ đến thực tại cao hơn. Để được vinh quang thật sự, các môn đệ phải chấp nhận vác thánh giá, đi trên con đường hẹp dẫn đến Nước Trời. Đức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ biết: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra. Chúa Giêsu chịu thiệt ở đời này vì yêu chúng ta. Ngài đã chết để cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và chứng tỏ cho chúng con thấy giá trị thật của loài người, giá trị của hạnh phúc bất diệt đời sau.
Chúng ta không bám vào cuộc sống đời này: ngắn ngủi, mau qua, không bền vững. Chúng ta phải ý thức về sự thật này luôn luôn và chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Xưa kia Phêrô không chấp nhận sự hy sinh của Thầy ở đời này, ông đã ra sức ngăn cản nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông về tư tưởng phàm trần này. Ngài tiếp tục dạy cho các môn đệ biết đường về nhà Cha: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai dám liều mình vì Thầy sẽ được sống.
Người đời thường tham sinh huý tử nhưng người kitô hữu có niềm tin thì thắng vượt cái thường tình này, không cố bám víu cuộc sống này. Cuộc sống trần gian vốn bất toàn chóng qua chóng mất. Đó là qui luật của vật chất. Chúng ta không chỉ có thân xác vật chất, mà còn có linh hồn thiêng liêng bất tử, thân xác chúng ta chóng già cỗi nhưng linh hồn không như vậy. Vậy chúng ta phải làm sao? Chúng ta hãy làm theo lời dạy của Thầy Chí Thánh để tìm về căn nguyên của mình, cố gắng về quê thật của mình và sẽ được Cha chúng ta ban cho gia tài không thể tàn phai nhưng có giá trị vô cùng. Lúc đó, chúng ta được hạnh phúc tràn trề, không sợ phải đau khổ nữa. Từ hôm nay, tôi sẽ sống đúng lời Chúa dạy để tâm hồn luôn được an bình ở đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài sẽ thưởng phạt công minh xứng với việc chúng ta đã làm ở trần gian.
Lạy Chúa Giêsu, cách nhìn của chúng con còn đầy giới hạn, thiển cận, chưa biết bám vào Chúa, chưa đầu tư đúng mức cho cuộc sống mai sau. Xin Chúa thứ tha và mở trí cho mỗi người chúng con biết nhìn ra sự thật, dám bỏ mình, vác lấy Thánh giá Chúa trao mà bước trên con đường về nhà Cha, đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con trên Thiên Quốc và được cuộc sống viên mãn bên Ngài mai sau.
69.Xin Chúa thương
Sau khi thay mặt các Tông đồ trả lời rất đúng về Đức Giêsu là ai:" Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Phêrô được Chúa khen và được Chúa hứa sẽ đặt ông làm nền tảng để xây dựng Giáo hội của Chúa. Có lẽ vì đó mà Phêrô tự thấy mình có vai trò bảo vệ Thầy mình và cố vấn cho Thầy trong mọi sự. Hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các Tông đồ biết sứ mạng của Ngài và cách thức thi hành sứ mạng ấy: " Đi Giêrusalem, chịu đau khổ, bị giết nhưng sẽ sống lại." Phêrô không thể chấp nhận đường hướng đó nên "cố vấn" Chúa đừng đi vào con đường đau khổ đó:' xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy" nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông cách thẳng thừng: Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy!" vì quá nhiệt thành nhưng nông nổi và hàm hồ, Phêrô đã "dám" đi trước Thầy mình. Khi hành động như thế, Phêrô vô tình là viên đá cản lối Thầy, làm Thầy suýt ngã.
Cũng như bao nhiêu con người khác, Đức Giêsu bước vào cuộc đời này và gặp biết bao những cám dỗ vây quanh. Cám dỗ nào nghe cũng ngọt ngào, hấp dẫn. Ma quỉ cám dỗ Ngài trong sa mạc, trong suốt 40 đêm ngày; đám đông đòi Ngài cho xem phép lạ từ trời rồi thách thức Ngài xuống khỏi thập giá... trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Phêrô, người mà Ngài đã chọn làm nền tảng cho Hội thánh cám dỗ Ngài chọn lựa con đường dễ dãi để thực thi sứ mạng của mình. Cơn cám dỗ này có thể nói là cực kỳ nguy hiểm, vì nó đến từ tình thương chân thành của người môn đệ thân tín. Nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ ngọt ngào này. Ngài đã nói với Phêrô cùng một gịong điệu gay gắt như nói với Satan trước đây: " Satan, lui lại đằng sau Thầy".
Chuyện kể rằng, vua nước Thục bên Tàu có tính tham lam, ham mê của cải. Vua Huệ Vương bên Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu, rồi phao tin đồn rằng: " trâu đãi ra vàng". Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho 5 người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp nước Thục. Vua nước Thục vừa mất nước, vừa hại mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà mất cái lợi to lớn sao?
Sống ở đời này ai cũng tranh phần được và sợ mất đi quyền lợi của mình. Nhưng vấn đề là phải cân nhắc và xác định đâu là cái được thật sự, lâu bền và trọn vẹn, đâu là cái quan trọng tuyệt đối? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách thế để được trọn hảo ấy. nhưng trước hết người ta phải biết chấp nhận những cái mất tạm thời: mất công, mất của, mất thời giờ, mất uy tín, mất tương lai và kể cả mất đi mạng sống nữa. Nếu ai vì Đức Giêsu mà chịu mất tất cả những gì mình có ở đời này thì sẽ có lại tất cả. Mất những cái tạm để có được và giữ được những cái mãi mãi. Kitô hữu đích thực là những người say mê những điều vĩnh cửu, say mê một tương lai huy hòang do chính Thiên Chúa ban tặng. Các thánh tử đạo là những người say mê sự sống phục sinh đến nỗi dám chấp nhận cái chết, dám coi cái chết nhẹ như lông hồng.
Lắm người ở đời này tưởng mình được tất cả với những suy tính của mình nhưng lại mất đi tất cả. Câu chuyện của vua nước Thục trên đây là một ví dụ điển hình. Chúng ta hãy nghiêm túc suy nghĩ sâu sắc về cái được và cái mất để có những quyết định đúng đắn và kịp thời kẻo bỏ mất nhiều cơ hội và bỏ mất tất cả.
Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả. Đó là động lực, là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ và hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng và ích kỷ. người dám hy sinh và cho đi sẽ tìm lại bình an, niềm vui, tự do và yêu thương không phải sau khi chết mới thấy được nhưng sẽ được chúng ngay ở đời này.
Xin Chúa thương đến thân phận con người yếu đuối của chúng ta để ban sức mạnh giúp ta hòan thành ơn gọi của chúng ta theo đúng ý muốn của Thiên Chúa. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta biết chọn lựa và gắn bó với những thực tại bền vững trên trời ngay khi còn sống ở trần gian này.
70.Đường xưa Chúa đi
Nói đến con đường Chúa đã đi qua không ai dại khờ đến nỗi phải dành nhiều thời gian để hồi tưởng những nẻo đường Chúa đã đi mang tên gì, dài bao xa? Con đường Chúa đi ai cũng biết đó là con đường thập giá. Có nhiều con đường Chúa đi qua, nhưng quốc lộ của Ngài chính là con đường tiến lên đồi Golgotha để chịu án tử. Một con đường quyết định cho nhiều dự định. "Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo". Lời Chúa mời gọi sao nghe ngán ngẫm vô cùng cho những ai đã từng đi qua con đường thập giá.
Ai đã một thời nghêu ngao bài hát "Con đường xưa em đi" chắc hẳn sẽ thấy một sự đối lập giữa đường Chúa đi và đường em đi. Nếu "đường xưa em đi" ngập tràn thư tình và nắng ấm, thì con đường Chúa đi chỉ toàn là lời ngạo nghễ và lạnh giá của lòng người. Nếu "đường xưa em đi" hướng về một tương lai rạng sáng, thì con đường Chúa đi mỗi ngày như khép lại những lối bước mịt mờ. Dẫu nhiều người cho đường Chúa là mịt mờ, là đường chẳng mấy ai đi, nhưng Chúa vẫn không ngần ngại mời gọi nhiều kẻ bước theo Ngài. Bởi lẽ đường Chúa đi là con đường thật, là quốc lộ đưa đến hạnh phúc và sự sống đời đời. Con đường thập giá có nhiều hình ảnh để diễn tả. Trong bối cảnh Tin Mừng ta có thể diễn tả đường thập giá là con đường mang 3 chữ "T": Từ bỏ - Tự hiến - Tình yêu.
Đường thập giá là đường từ bỏ
Từ bỏ là chủ động đánh mất điều mình đáng được hưởng. Từ bỏ cũng có nghĩa là tự ý tách lìa những gì mình đang quyến luyến để được vươn cao tới sự sống mới. Không ai dại dột bỏ hết để rồi trở nên trống không. Từ bỏ cái cũ để được cái mới hơn, từ bỏ cái nhỏ nhen để được cái lớn lao. Vẫn có quy luật quân bình trong cuộc sống nhưng con người thật khó từ bỏ vì không ai chịu gạt bỏ cái mình đang sở hữu. Người ta vẫn nói cái sở hữu không lớn bằng cái đủ vì vậy mà ai ai cũng tranh nhau ra sức kiếm tìm. Ta vẫn thích chất chứa cho đầy, dự trữ cho nhiều để tìm cảm giác an thân. Nhưng rồi càng chất đầy thì càng thêm gánh nặng, càng tích góp thì càng bị oằn vai.
Từ bỏ mình đó là từ bỏ những toan tính của con người để sống theo tinh thần của Thiên Chúa. Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ. Phêrô muốn Thầy mình thực hiện như điều ông đã nghĩ. Oâng không muốn Thầy lên Giêrusalem, không muốn Thầy mình phải chết như thế. Ông muốn lèo lái Thầy mình đi theo con đường của ông. Nhưng đường lối của con người không phải là đường lối của Thiên Chúa. Tinh thần từ bỏ cao nhất chính là đi tìm và làm theo ý Chúa.
Đường thập giá là đường tự hiến
Đỉnh cao của sự từ bỏ là tự hiến chính mình. Từ bỏ những thứ của mình thật là đáng khen, nhưng từ bỏ ngay chính mạng sống của mình quả là điều đáng nễ phục. Chúa Giêsu thực hiện ý định Chúa Cha cách trọn vẹn chứ không theo kiểu nửa vời. Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tự hiến của Chúa đã khai mở sự sống cho nhiều người. Giá trị của sự tự hiến là tìm được sự bình an cho tâm hồn, niềm vui cho trái tim, niềm xúc cảm trong từng hơi thở.
Lịch sử phải biết ơn những con người đã mạo hiểm, những người dám giã từ cuộc sống yên ổn để dấn thân phục vụ lợi ích cho nhân loại. Nếu không có những người dám liều mình thì những phương thuốc chữa bệnh đã không thành tựu. Nếu không có những bà mẹ sẵn sàng liều mình thì chẳng có đứa trẻ nào được chào đời. Có nhiều của dâng tiến, nhưng của dâng duy nhất có giá trị hơn hết vẫn là sự sống của mỗi người.
Đường thập giá là đường tình yêu
Tự ban đầu thập giá là dấu chỉ của khổ hình ô nhục. Nhưng thập giá có Chúa Giêsu giờ đây đã trở thành thánh giá cho cuộc đời. Một con người luôn từ bỏ và tự hiến cho nhân loại đã biến khổ nhục thập giá thành biểu tượng cho tình yêu. Một tình yêu cao cả nhất trong mọi thứ tình yêu. Chúa Giêsu đã chọn sự ô nhục nhất của con người làm phương thế minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa. Chính tình yêu đã làm cho sự từ bỏ và tự hiến một giá trị cứu độ. Nếu không có tình yêu thì tôi sẽ không đi hết con đường Chúa đã đi. Không có tình yêu, con đường thập giá sẽ trở nên vô nghĩa.
Văn hào Victor Hugo đã khẳng định: "Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt". Khi nhìn lại thập giá đời mình, có khi ta lấy làm tự hào vì đã được đồng hành cùng khổ nạn với Chúa. Có khi ta cuộc đời như tắt lịm vì thánh giá cứ vây quanh. Sự chối từ, ngán ngẫm không phải vì thánh giá quá nặng nhưng chỉ vì ta thiếu tình yêu.
Trên thánh giá máu và nước chảy ra, là dấu chỉ ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại. Từ trên thánh giá hận thù đã xoá bỏ. Từ trên thánh giá tội lỗi con người đã được tha. Từ trên thánh giá Chúa Giêsu gọi mời mỗi người cùng chia sẻ nỗi đau và sứ mệnh với Ngài, bằng cách vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài.
Đường xưa Chúa đi khó khăn không phải vì ngăn sông cách núi nhưng vì đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Trong đó tinh thần từ bỏ, tự hiến và con tim đong đầy tình yêu là điều kiện không thể thiếu. Dù ta có tự hào hay ngán ngẫm thì Chúa vẫn luôn gọi mời hãy vác thập giá mỗi ngày mà bước theo. Lạy Chúa, con biết con không thể làm anh hùng trong phút chốc. Xin cho con biết khiêm tốn với chính mình để tập bước đi trên con đường xưa Chúa đã đi.
71.Thập giá Đức Kitô.
I. ĐẠI DIỆN ĐỨC KITÔ HAY PHẢN NGHỊCH ĐỨC KITÔ (16, 21-23)
Trên đây, Đức Kitô vừa được các môn đệ nhìn nhận như Đấng phải đến để thực hiện một khúc rẽ trong lịch sử. Vì thế, mặc dầu dân Do Thái không nhận biết Chúa, các môn đệ vẫn tin nhận Ngài như vị Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Thánh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin này. Nhờ thế, Ngài đã được Chúa trao quyền thủ lãnh cùng với chìa khoá nước trời. Nền móng đầu tiên của Giáo hội đã được thiết lập, căn cứ trên sứ mệnh của vị Tông đồ. Quyền lực ma quỷ cũng không nổi lên chống lại được. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu vừa mới quyết định hoàn tất việc kỳ diệu này, thì bóng đen hoả ngục đã bắt đầu quấy rối. Bối cảnh bỗng thay đổi đột ngột.
1) Cảnh tương phản:
Chính Đức Kitô không ngần ngại loan báo, Ngài sẽ bị thất bại, chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại. Đó thực là một tương phản ghê sợ: Ngài là vị Cứu tinh, Con Thiên Chúa, sử dụng vương quyền Thần Linh, thiết lập một cộng đồng mới cho Thiên Chúa, thế mà Ngài sẽ bị kết án, bị xử hình do chính dân Ngài chọn. Nếu ngay từ bây giờ, Ngài rời bỏ dân Israel và các thủ lãnh, họ cũng chẳng thay đổi ý kiến để cứu Ngài. Ngược lại, sự xa cách này càng làm họ ngoan cố từ chối Ngài rồi tăng thêm lòng căm thù. Có ba tầng lớp được dân tín nhiệm: Bậc Lão thành, đại diện giai cấp lãnh đạo, các Tư tế coi việc Phụng tự trong đền thánh, các Luật sĩ, chuyên viên luật pháp. Tất cả các tầng lớp đều kết án Ngài. Chúa Kitô bị chối bỏ nhân danh dân tộc , Đền thờ và luật pháp. Than ôi, tình cảnh đó đã là một thảm trạng không phải cho Chúa Giêsu nhưng cho dân Do thái.
Chúa Giêsu đã tiên báo định mệnh của Ngài quá đột ngột, khiến cho các môn đệ xúc động không còn nghĩ đến biến cố Phục sinh nữa. Sự Phục sinh đối với họ có lẽ quá khó hiểu. Các bản văn tiên tri ám chỉ những đau khổ của tôi tớ Giavê vẫn là những giòng chữ chết, vô nghĩa trước mắt họ. Họ không nghĩ tới mầu nhiệm Thập giá.
2. Đối với Phêrô, Phêrô cũng cảm thấy một tương phản như thế:
Chúa là người được chọn, được đặc ân, nắm trong tay vương quyền tối thượng siêu nhiên, thế mà bỗng nhiên bị lao xuống vực thẳm. “Cút đi Sa-tan”. Lời Chúa có vẻ thô bạo. Nhưng hình thức đó nói lên tầm nghiêm trọng của vấn đề. Đường lối do Chúa Cha chỉ định sẽ đưa đến Golgotha. Ai muốn Ngài xa khỏi đường lối này, là kẻ nuôi những tư tưởng hoàn toàn phàm tục để cám dỗ Chúa. Thánh giá là tột đỉnh của đời Chúa Giêsu, là bí mật đích thực và là mầu nhiệm chân chính của ơn cứu chuộc. Nhờ sự chết của Ngài, chúng ta sẽ được sống nhờ việc Ngài tự huỷ, chúng ta sẽ được Phục sinh.
Đối với Phêrô, lời Chúa dạy thực là khẩn thiết. Vì yêu mến Chúa, Phêrô can ngăn Chúa. “Thầy đừng chịu như thế”. Hình như đó là lời can ngăn phát sinh do tình yêu giả trá, vì tình yêu chân chính đưa đến Thiên Chúa. Tình yêu đó nhận biết rằng Thánh ý Thiên Chúa là tình yêu, nên tất cả những gì không tùng phục thiên ý, chỉ là vẻ nhiệt thành bên ngoài, chứ không phải lòng mến thực sự. Thánh Phêrô đã có đức tin đảm nhận tất cả để đáp lại lời Chúa. Ngài còn phải học để biết tin tưởng và yêu mến một cách trung thực. Người sẽ phải chu toàn phận sự theo tinh thần Thiên Chúa chứ không phải theo quan niệm nhân loại. Người phải đổi cách sống và suy nghĩ. Người phải biết đòi hỏi đó. Ngài và những người kế vị phải chấp nhận như thế.
Kết quả ra sao sau lời can ngăn của Phêrô? Chúa Giêsu đã khiển trách “cút đi Satan”. Chúa khiển trách vì Phêrô đã nuôi những tư tưởng phàm tục do ma quỷ xúi dục. Thế là đấng mà Chúa Giêsu tuyển chọn làm kẻ đại diện, đã vô tình biến thành kẻ phản nghịch. Lời Luther sau này ám chỉ Giáo Hoàng là địch thủ chí tử của Đức Kitô, hình như vô tình đã có một vài dấu vết nơi vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Nhưng chớ vội lầm tưởng! Tin Mừng đã đổi giọng điệu! Chắc hẳn Người sẽ là địch thủ của Đức Kitô nếu Người đã ngoan cố theo cách suy nghĩ riêng: “Như thế, người ta sẽ thấy rõ vẻ mâu thuẫn giữa chức vụ và tinh thần của Người”. Song không phải như thế. Trong các đoạn Tin Mừng kế tiếp, ta thấy rằng chính Thánh Phêrô được Chúa dẫn lên núi biến hình cùng với Thánh Giacôbê và Gioan. Người đã được chiêm ngắm Chúa trong vinh quang. Lời Chúa tiên báo cách nghiêm trọng sự phục sinh của Ngài lúc đó rất dễ hiểu với Thánh Phêrô. Trong chương mười bảy Tin Mừng Matthêu, Chúa đã dùng một phép lạ đặc biệt, giúp Phêrô được hiểu biết chắc chắn về chức vụ là con Thiên Chúa của Ngài. Trong chương 19, chính Phêrô đã nói nhân danh anh em đồng viện, rồi cũng chính người cùng với hai con ông Giêbêđêô đã gần Chúa trong vườn Cây dầu. Sau đó, người đã chối Chúa, lao sâu xuống vực thẳm lần thứ hai. Nhưng khi Chúa đã sống lại, theo Tin Mừng Thánh Gioan, Ngài đã trao phó cho Thánh Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên. Công vụ sứ đồ mô tả Phêrô là người hướng dẫn và là thủ lãnh của Giáo Hội sơ khai. Quả thực, trong khoảnh khắc, Phêrô đã nghĩ lại. Ý tưởng nhân loại do ma quỷ xúi dục đã nhường chỗ cho ý nghĩ do Thiên Chúa linh ứng. Môn đệ đã qua ngưỡng cửa Thánh giá. Người đã chấp nhận tinh thần của Thầy Chí Thánh. Chức vụ trong Giáo Hội phải nhằm mục đích phục vụ Thánh giá. Các viên chức trong Giáo hội không được ích kỷ, không được để bị lôi cuốn bởi tính yếu đuối và lòng đạo đức sai lạc trong các quyết định. Vị đại diện Đức Kitô phải theo tinh thần Đức Kitô chu toàn nhiệm vụ đã nhận lãnh. Chỉ khi nào biết mặc lấy tinh thần Đức Kitô, nhận lãnh chức vụ nơi Ngài, hoàn toàn giống như Ngài, được niêm ấn bằng Thánh giá, bấy giờ họ mới không phải là địch thủ của Đức Kitô.
Vậy ngay từ khi bắt đầu huấn luyện tông đồ, Chúa đã nói về Thánh Giá. Người ta không xứng đáng với danh hiệu tông đồ, nếu không yêu thích Thánh Giá. Đó là chân lý không những có giá trị đối với Phêrô, nhưng còn đối với chúng ta.
II. BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ (16, 24-28)
Không phải chỉ có Chúa Giêsu và Thánh Phêrô mới được mời gọi chịu đau khổ, nhưng tất cả các môn đệ của Chúa cũng đều phải chịu đau khổ.
Ở đây không mập mờ “Nếu ai muốn làm môn đệ của ta hãy bỏ mình”. Phải từ bỏ những nguyện vọng, chương trình, tư tưởng riêng để hoà hợp với nhãn quan Thiên Chúa. Vì tư tưởng loài người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Về vấn đề này, lời Chúa nói với Phêrô rất rõ ràng. Kitô giáo không phải để mỗi người tôn vinh chính mình theo chiều hướng nhân loại, nhưng Kitô giáo đòi phải thực hiện một bước tiến mới mẻ tuyệt đối: Phải chết đi để được sống, từ bỏ để lãnh nhận, từ chối để quyết đáp.
Tự thâm tâm phải từ bỏ để vác thập giá mình theo Chúa. Đó là một tâm tình sẵn sàng chịu chung số phận với Chúa Giêsu, chịu bách hại và lùng bắt. Thánh giá là sự hành quyết nhục nhã dành cho những tên nô lệ. Phải biết chuẩn bị chịu khổ hình này. Phải liều chịu như vậy. “Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì ta, sẽ cứu được”. Ở đây không những chỉ nói về lợi lộc và thua thiệt đối với của cải tạm thời, nhưng đối với chính mạng sống để bị thua thiệt hoàn toàn hay được lợi lộc hoàn toàn. Phải từ bỏ cả vũ trụ hư nát hơn là đánh mất linh hồn hay làm hại linh hồn bất diệt. Cuộc sống vĩnh cửu thực là vô giá. Lấy gì đền bù lại linh hồn. Vậy ta phải có mục đích duy nhất là bắt chước Đức Kitô. Tôn giáo không phải chỉ là một lãnh vực hoạt động trong hoạt động khác của cuộc sống. Kitô giáo cũng không phải chỉ là một hỗ trợ phụ thuộc, ngược lại, Kitô giáo đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt để trở nên con người hoàn toàn mới mẻ.
Sở dĩ Chúa Giêsu đòi hỏi như thế là vì một nguyên do rất đặc biệt “Con Người phải đến trong vinh quang Chúa Cha với các Thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự nghiệp của họ”. Sự kiện ấy đem lại một viễn tượng mới về cùng đích tối hậu trường tồn và vĩnh cửu: Ta phải từ bỏ để chuẩn bị ngày Chúa đến. Tất cả những gì thuộc về dương thế và thời gian đều có tính cách chuẩn bị và tiên phong. Mục đích thực sự của chúng ta là Thiên đàng vĩnh cửu. Đức Kitô đã đến lần thứ nhất để hoàn tất thực tại này. Nhưng thực tại ấy vẫn còn bí ẩn nhiệm mầu để chỉ hiển hiện khi Chúa bày tỏ vinh quang rực rỡ trong lần tái giáng. Như thế người công giáo nhìn về một vũ trụ khác mà ngay từ bây giờ họ có thể hướng tới. Thế giới hiện tại tạm thời cũng có đôi chút hấp dẫn. Những ai đứng bên ngoài Kitô giáo không biết đến thực tại khác ngoài thế giới này, thì họ cho thái độ của Kitô giáo là một thái độ mơ mộng đầy ảo tưởng, không biết lợi dụng thế giới và thời gian. Ngược lại người công giáo lại gọi kẻ dấn thân hoàn toàn vào trần thế mà quên đi thực tại siêu việt, là kẻ mù quáng thiển cận và suy bại. Đó là những lập trường không thể đội trời chung. Một đàng quá ích kỷ vụ lợi, một đàng đòi xả kỷ hy sinh; một đàng thích hưởng thụ, một đàng thích dâng hiến cuộc sống. Để đáng được làm môn đệ của Chúa Giêsu, phải nắm vững lập trường: Sẵn sàng chịu thua thiệt để được lợi lộc. Thái độ chấp nhận này sẽ biến đổi tất cả đời sống. Không gì nguy hiểm hơn việc tối thiểu hoá tinh thần bắt chước Đức Kitô. Dù sao, không thể vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về ma quỷ. Thiên quốc vinh quang của Thiên Chúa thực bao la! Được vĩnh viễn tham dự vinh quang này là một ơn huệ cao trọng, vì thế ta sẵn sàng bỏ những gì khác để đền đáp ơn huệ này. Đó là một thái độ đáp trả vô điều kiện, phát xuất từ một tâm hồn vui vẻ, bằng lòng bước theo đường Thánh giá, chịu vác Thánh giá hằng ngày. Chết là điều kiện tiên khởi và tuyệt đối để được sống lại. Chỉ có ai hiểu được điều ấy mới là người Công giáo.
72.Từ bỏ.
Caretto là chủ tịch Công giáo Tiến hành thuộc nước Ý. Ông là một nhân vật nổi tiếng được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới. Đi tới đâu, ông cũng mang theo một cuốn địa chỉ dày cộm, để liên hệ với nhiều người và nhiều tổ chức. Thế rồi, một hôm ông chợt tỉnh và thấy rằng mình chỉ là một kẻ sống bằng nghề buôn bán tư tưởng đạo đức. Thế là không đầy 24 tiếng đồng hồ, ông đã từ bỏ tất cả để vào Dòng Tiểu Đệ, sống một nếp sống nghèo hèn và khiêm hạ. Tại đây, người ta đòi hỏi ông phải từ bỏ mọi sự để bắt đầu thời kỳ tu tập. Ông trả lời: tôi đã từ bỏ tất cả rồi. Người phụ trách cho biết: anh chưa từ bỏ hết đâu. Ông suy nghĩ một lát và nhận ra mình còn giữ cuốn địa chỉ. Thế là ông ta bèn đốt cuốn đó đi và cảm thấy thực sự nhẹ nhõm. Ông đã viết như sau: Ôi, tôi thật hạnh phúc đến nỗi có thể lăn lộn trên cát và tôi thưa lên: Lạy Chúa, con thực sự yêu mến Chúa.
Trường hợp của Caretto tuy độc đáo nhưng cũng chỉ là một cách áp dụng lời Chúa Giêsu phán dạy: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn như những níu kéo của tiền bạc, của danh vọng và ngay cả của những người chúng ta thương mến. Con đường vào nước trời là một con đường nhỏ bé gập ghềnh, chúng ta không thể mang theo những dụng cụ lỉnh kỉnh, như nồi niêu xoong chảo, củ hành củ tỏi. Chúng ta giống như người leo núi, để chinh phục một đỉnh núi cao, chúng ta chỉ được phép mang theo những dụng cụ thật cần thiết mà thôi.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta như lời Ngài đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có cả chỗ tựa đầu.
Và thánh Phaolô đã diễn tả về sự từ bỏ ấy như sau: Là ngôi vị Thiên Chúa, Ngài không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã tự hủy mình đi, mặc lấy thân phận con người, trở nên giống chúng ta ngoại trừ tội lỗi, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Để trở nên môn đệ của Chúa, chúng ta có thực sự sống tinh thần từ bỏ chưa? Nếu có thì chúng ta đã từ bỏ được những gì?
73.Con đường theo Chúa
Anh chị em thân mến,
Một người bên lương nhìn lên thấy cây thập giá có tượng Chúa Giêsu treo trên đó; bức tượng này về mặt mỹ thuật khá đẹp, diễn tả được phần nào đau khổ Chúa phải chịu, anh ta liền nói với người bạn cũng là bên lương: "Nè anh, cái ông này làm gì, phạm tội gì mà phải bị đóng đinh ghê gớm vậy, trộm cắp hay cướp vợ con người ta?" Bạn ông nghe vậy liền la lên: "Đừng nói bậy! Đó là Chúa Giêsu của người công giáo. Tôi không hiểu lắm, nhưng tôi nghe người công giáo nói: ông là Chúa, là nguời tốt lắm. Ông không có tội gì cả, nhưng đã sẵn sàng chết để đền tội cho mọi người. Cái chết của ông chính là cái chết vì tình yêu; vì tình yêu mà ông đã chết cho nhân loại, để mọi người biết yêu thương nhau, tha thứ cho nhau..." Câu chuyện của Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn nói lên điều đó: con đường của Đức Kitô đi qua, chính là con đường thập giá. Và người kitô hữu khi muốn theo Chúa Kitô cũng phải đi qua con đường đó... Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Bài Tin mừng hôm nay nằm ở vị trí quan trọng trong Phúc âm, đồng thời cũng là chủ đề then chốt của Tin mừng. Tuần rồi Chúa tự mạc khải cho các môn đệ biết bản tính siêu việt của người: bản tính Thiên Chúa; rồi Người lại nói cho họ rõ hơn nữa; sứ mạng của Người (dù là Thiên Chúa) là phải trải qua đau khổ, phải chấp nhận con đường thập giá. Đó chính là con đường cứu rỗi nhân loại, vì yêu thương. Các môn đệ lúc đó đã không hiểu được lời nói của Chúa Kitô. Họ không hiểu con đường đó cũng chính là con đường họ phải đi..,
b/. Đức Kitô đã đi qua con đường nào, người kitô hữu cũng phải đi y con đường đó: Đó chính là con đường thập giá, con đuờng đau khổ. Trước hết phải xác định: Chúa Kitô hay người công giáo không yêu thập giá, yêu đau khổ, vì đau khổ tự bản chất là điều xấu. Trên đời này có ai không muốn được sung sướng, hay không muốn tránh đau khổ? Nhưng rõ ràng đau khổ là một sự thật gắn liền với thân phận con người, không thể tách rời. Vậy chối bỏ đau khổ, hay diệt khổ là một chuyện không thể làm được. Ngược lại, Chúa Kitô sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tình yêu, và biến đổi nó thành niềm vui, thành hạnh phúc. Vì vậy dù là vô tội, Người lại tự chấp nhận đau khổ để đến nỗi phải chết trần trụi trên thập giá. Thật là một mầu nhiệm! Nếu không phải vì yêu, Chúa Kitô sẽ không chấp nhận con đuờng thập giá đâu... Vì thế người kitô hữu khi muốn bước đi với Đức Kitô, sẽ không thể chọn con đường nào khác hơn...
Thánh Phanxicô Xavier tháng 09 năm 1549 đã đem Tin mừng đến cho người Nhật. Vậy mà 40 năm sau, đã có trên 200.000 người tin Chúa Kitô. Năm 1597, một cuộc bắt đạo dữ dội xảy đến. Số người bị bắt trước tiên là 26 vị: có 6 tu sĩ Phanxicô; 3 tu sĩ dòng Tên và 17 giáo dân. Trong số đó có 3 em giúp lễ và thầy Phaolô Miki, 33 tuổi. Nhà vua ra lệnh cắt tai, cắt mũi các ngài, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá tại Nagasaki. Thấy các ngài bị gông cùm, mà mặt mày đầy máu không ai là không thương cảm. Phaolô Miki truớc khi chết, thầy được một thị kiến. Thầy nói: "Tôi là người Nhật, thuộc dòng Chúa Giêsu. Tôi bị án tử hình vì đã rao giảng Tin mừng. Tôi vô cùng cám ơn Thiên Chúa vì đã ban cho tôi ơn cao trọng này." Đó là câu chuyện thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, lễ kính ngày 06. 02 hàng năm. Các thánh thực sự cũng đã chọn và đi qua chính con đuờng Đức Kitô đã đi.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Con đường của Đức Kitô đi qua chính là con đường đau khổ, con đường thập giá. Dĩ nhiên đó không phải con đường trơn tru, dễ dàng; ngược lại nó đầy chông gai thử thách, đòi hỏi nhiều hi sinh. Chúa Kitô đã đi con đường đó. Vậy những ai muốn theo Chúa, sẽ không có thể chọn lựa con đường nào khác. Chúng ta là kitô hữu, chúng ta có tin nơi Chúa không? Chúng ta có sẵn sàng theo Chúa bằng con đường này không?
74.Theo Thầy.
Trong cuốn sách “The 911 Handbook”, Kent Crockett nói rằng ở bên trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định mạng sống của phi công.
Ngày 16.7.1999, John F. Kennedy Jr., con trai của cố tổng thống John Kennedy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Martha’s Vineyard, tiểu bang Massachusetts, gây tử vong cho vợ là Carolyn Bessette Kennedy và người chị vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sương mù – haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thường xảy ra trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị sương mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất phía dưới cần thiết để hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại cắm đầu đâm xuống biển.
Bài Phúc âm hôm nay, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai phương hướng. Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa Cha, sẽ đi lên Giêrusalem chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phêrô muốn theo phương hướng trần gian: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy... con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Rồi Ngài dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.
Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ kiểm soát cuộc đời của mình. Người ta thường nghĩ sự từ bỏ mình giống như việc hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹo, ăn kem, hút thuốc lá... Những sự hy sinh hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà Chúa Giêsu đề cập đến. Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chính là sự từ bỏ thực sự.
75.Theo Thầy
Năm 1991, trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15 trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm – Bão sa mạc. Ngay đêm đầu tiên của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống những nhà máy chế tạo vũ khí hoá học ở phía bắc Iraq. Ngày giờ của cuộc hành quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh không bị theo dõi bởi dàn phòng không của Iraq, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải hoàn toàn tuỳ thuộc vào những dụng cụ máy móc điều khiển.
Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của Patton đã bị “khoá chặt” bởi dàn ra-đa chống hoả tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vẫy mãnh liệt để thoát ra khỏi sự kiểm soát của ra-đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời cao, nhưng khi kiểm soát lại những dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí nghĩ rằng phải điều chỉnh lại phi cơ về một hướng khác, thì những dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm ngược lại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết định nhanh chóng tin vào phán đoán của lý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tuỳ thuộc vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bảy lần lực hút của trái đất, để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã quyết định đúng. Nếu ông hạ mũi phi cơ xuống giống như điều đã nghĩ, phi cơ đã đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫn đã cứu mạng sống của ông. Mặc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu trì hoãn thêm ba giây nữa thôi, phi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định đúng, nhưng trễ cũng vẫn chết.
Trong cuộc hành trình tinh thần, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta “những dụng cụ hướng dẫn”. Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh Kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời sống thiêng liêng. Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa Giêsu đã làm là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
Đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh danh cho Thiên Chúa và giúp xây dựng vương quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu đề cập ở đây không phải là cái gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.
Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người cha, mẹ, chồng, vợ, con cái... trong gia đình, việc dạy giáo lý ngày Chúa nhật, viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.
Sách Giáo lý Công giáo số 618 đã nói: “Thập giá là hy sinh độc nhất của Chúa Kitô vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng, trong ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất với tất cả mọi người, Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết”. Ngài kêu gọi các môn đệ:”Vác thập giá và đi theo Ngài”, bởi vì Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo Ngài.
Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, bước theo những vết chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động, qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần giúp đỡ. Chúng ta phải sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.
Carol Kent, trong cuốn “Detours, Tow Trucks, and Angels in Disguise” đã chia sẻ câu chuyện của một người đàn bà tên là Katherine. Chồng của Katherine đã ra đi, bỏ bà và đứa con trai 11 tuổi tên là John. Vài năm sau, John đòi dọn vào ở với cha nó. Nhưng rồi người chồng cũ của Katherine cũng bỏ rơi John luôn. John phải ra sống ở ngoài vỉa hè đường phố. Một ngày nọ, Katherine đã nhận được một cú điện thoại cho biết con trai của bà đang bị giữ trong trung tâm cải huấn của tiểu bang vì tội sử dụng thuốc phiện.
Sau cùng John đã được phục hồi, trở về nhà, làm lại cuộc đời, trở nên một thanh niên tử tế. Nhưng một số người hàng xóm vẫn từ chối cậu vì tiếng xấu của cha cậu. Quá đau khổ, một ngày kia, John phải la lên với mẹ mà rằng: “Tại sao người ta lại cứ luôn luôn so sánh con với cha con? Con sẽ kết thúc cuộc đời giống như cha con sao?” Katherine ôm lấy con vào lòng và trả lời: “Johnny, con có tới hai người cha cơ. Con phải chọn lựa xem theo người cha nào”.
Phải, chúng ta có hai cha, một người cha dưới đất và người cha trên trời. Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa Cha trên trời: “Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc đời của Ngài, bởi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự nhập thể của Ngài”. Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.
76.Từ bỏ
Có hai vị ẩn sĩ lên đường hành hương. Một vị chủ trương cần phải có tiền bạc và những phương tiện vật chất đầy đủ, thì mới bảo đảm được cho đời sống tu trì. Còn vị kia thì luôn tin tưởng vào tinh thần từ bỏ và sự quan phòng của Chúa.
Vừa đi hai vị vừa tranh luận với nhau mà chẳng ai thuyết phục được ai. Khi họ đến bên bờ một dòng sông thì trời bắt đầu tối. Vị có tinh thần từ bỏ liền đề nghị:
- Vì không có tiền, chúng ta không thể thuê được đò. Nhưng thôi, tại sao chúng ta lại lo lắng quá nhiều đến thế. Chúng ta hãy nghỉ đêm ở bên này và dâng lời chúc tụng Chúa. Sáng mai thế nào chúng ta cũng tìm ra người giúp chúng ta qua sông một cách an toàn.
Thế nhưng, vị tin tưởng vào sức mạnh của tiền bạc và những phương tiện vật chất liền quả quyết như sau:
- Ở bên này sông thì không có làng mạc và thú dữ sẽ tấn công chúng ta bất kỳ lúc nào. Hơn thế nữa, làm sao chúng ta chịu đựng nổi cái lạnh của đêm nay? Bên kia sông, chúng ta sẽ nghỉ đêm an toàn trong một quán trọ. Tôi có mang theo tiền và chúng ta hãy thuê người chèo đò qua sông.
Khi hai người đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của mình như sau:
- Anh đã thấy được ích lợi của việc giữ tiền trong túi chưa? Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?
Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống tinh thần từ bỏ liền mỉm cười và nói:
- Chính tinh thần từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta. Anh đã không tiếc tiền để thuê người lái đò là gì? Hơn thế nữa, mặc dù không có một đồng xu dính túi, nhưng tôi cũng vẫn được qua sông, vì Chúa lo liệu cho tôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy rất nhiều lần Ngài đã đề cập tới tinh thần từ bỏ.
Lần kia Ngài đang đi đường thì có một người đến và thưa:
- Tôi xin theo Thày bất cứ nơi nào Thày đi.
Và Ngài đã nói:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có lấy một nơi tựa đầu.
Lần khác Ngài nói với một người:
- Hãy theo Ta.
Nhưng người đó thưa lại:
- Xin cho tôi được về chôn táng cha tôi trước đã.
Và Ngài bảo:
- Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi, hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Rồi Ngài kết luận:
- Ai cầm cày mà còn quay trở lại thì không xứng đáng làm môn đệ Ta.
Và qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài còn xác quyết:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.
Như thế, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ dứt khoát, không thỏa hiệp, không lửng lơ, không bắt cá hai tay. Bởi vì giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa, không thể nào đội trời chung với nhau.
Thế nhưng, trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta đã thỏa hiệp với tội lỗi, với những ước muốn riêng tư, mặc dầu những ước muốn riêng tư ấy đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Và tệ hại hơn nữa, nhiều khi chúng ta đã đầu hàng tội lỗi, chúng ta làm điều xấu, cho dù chúng ta không muốn.
Chúng ta giống như một người tân tòng khi được dìm xuống nước, cứ nhất định giơ một cánh tay lên, để cánh tay đó mai mốt có đi ăn trộm thì không có tội vì đã không thuộc về Chúa.
Thế nhưng, nếu chúng ta nói rằng: Chúng ta dâng cho Chúa tất cả, mà chỉ dừng lại một xó góc nhỏ bé của con tim cho tội lỗi, thì đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta dâng gì cho Chúa.
77.Đánh đổi
Trong bài Tin Mừng của thánh lễ Chúa nhật tuần trước ta thấy ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa hằng sống. Mà theo suy nghĩ của người Do thái nói chung và của các Tông đồ nói riêng thì Đấng cứu thế sẽ là Đấng giải phóng dân bằng uy quyền và sức mạnh, bằng quân đội và vũ khí. Do đó, khi Chúa Giêsu loan báo cho các Tông đồ về cuộc khổ nạn và cái chết Người sẽ phải chịu, các ông không thể chấp nhận được.
Ông Phêrô đã kéo Chúa Giêsu ra một nơi và can gián Người: “Thưa Thầy không thể thế được. Thầy chẳng phải chịu như thế đâu”. Nói câu đó, ông Phêrô đã bày tỏ lòng thương mến và lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Vì thương mến Chúa Giêsu nên ông không muốn Người phải khổ. Vì tin tưởng Chúa Giêsu nên ông nghĩ rằng không lẽ gì Người đầy quyền năng như thế mà lại phải chịu để cho người ta bắt bớ, hành hạ và giết đi. Nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người thôi”.
Thì ra giữa tư tưởng của Thiên Chúa và tư tưởng của con người có một khoảng cách và khác biệt rất lớn.
* Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay ta sẽ thấy rõ điều ấy.
- Khi coi truyền hình người ta muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, khỏi mất công đi lại điều chỉnh.
- Nếu ngại nấu ăn thì đã có mì, có cháo ăn liền, có cà phê uống liền khỏi mất công nấu nướng, pha chế.
- Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng bậc vất vả…
Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con người. Nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được.
Với một lề lối suy nghĩ và một cách sống như thế, con người không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn con đường thập giá, con đường đau khổ để cứu độ con người. Tại sao Người không chỉ phán một lời tha tội cho con người có phải dễ dàng hay không?
+ Cho dù con người suy nghĩ thế và muốn thế nhưng Thiên Chúa thì khác. Người vẫn chọn con đường thập giá, chọn những hy sinh, chọn những thống khổ, chọn cái chết để cứu độ con người. Và Người kêu gọi những ai muốn tìm hạnh phúc, tìm niềm vui, tìm sự sống, tìm Nước Trời cũng hãy biết và hãy dám chọn lựa như Người. “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”.
Chúa chọn con đường khổ giá không phải vì Người thích đau khổ. Chúa muốn con người từ bỏ bản thân và vác thập giá không phải vì muốn đày đọa con người. Nhưng đau khổ chính là thước đo của lòng yêu mến, bởi vì chỉ khi yêu nhau thật lòng người ta mới dám hy sinh cho nhau, mới dám chịu khó, chịu khổ vì nhau. Điều quan trọng là tình yêu được biểu lộ qua những đau khổ ấy.
Hạnh phúc không bao giờ là một món quà được cho không, biếu không, nhưng phải mua bằng chính những nỗ lực, những hy sinh của mình.
Hạnh phúc Nước Trời là một món quà quí giá nhất và to lớn nhất. Nếu phải mua nó bằng những vất vả hy sinh, bằng những từ bỏ đau đớn thì đó cũng là điều dễ hiểu thôi.
78.Làm điều khó
Năm 1962, học sinh lớp thi tốt nghiệp ở trường Trung học Glen Arbor, Michigan, đã dành tiền để đi tham quan Washington. Số tiền để dành càng nhiều và càng gần đến ngày lên đường đi về thủ đô. Bất thình lình họ biết rằng một người bạn cùng lớp, Duane Richardson, bị mắc chứng bệnh ung thư, việc điều trị bệnh này rất tốn kém. Những bạn trẻ này đã quyết định chuyển giao số tiền chi phí cho cuộc du lịch để giúp thanh toán phí tổn của người bạn học, dẫu rằng làm như thế là họ bỏ mất chuyến đi tham quan.
Lời đồn về hành động của họ lan ra. Thế là họ nhận được rất nhiều tiền giúp đỡ từ nghiều phía, đến nỗi cuối cùng có thể thực hiện được điều ước mơ. Tất cả 33 người, gồm luôn Duane Richardson, đã làm cuộc hành trình về thủ đô nơi họ được vinh dự đặc biệt.
Đó là bằng chứng về điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”. Thật vậy, những học sinh quảng đại đã không hiến mạng sống cho người bạn của họ, nhưng họ sẵn sàng cho đi phần đời sống họ, một phần rất vui sướng. Họ đã sẵn sàng tử bỏ chính mình, và họ đã được trả lại ngay trong đời sống này.
Là những người tin theo Chúa Kitô, tất cả chúng ta cũng phải từ bỏ mình, phải làm một vài hy sinh. Điều chúng ta từ bỏ để nên người thực sự tin theo Chúa Kitô, có lẽ không đáng loan truyền như hy sinh quảng đại của các học sinh trong câu chuyện trên, nhưng Thiên Chúa sẽ trả công cho mỗi người theo việc họ làm.
Như đến tham dự thánh lễ sáng này, các bạn đã thực hiện một ít cố gắng. Sự ý thức, tích cực tham dự Thánh lễ đòi hỏi một ít cố gắng. Điều đó còn dễ dàng hơn là cầu nguyện trước khi vào giường ngủ, còn dễ hơn ngồi ăn mà không xin Chúa chúc lành. Thức dậy và đi làm cũng không luôn dễ dàng.
Hàng chục lần mỗi ngày, người mẹ phải quên đi những mệt mỏi và an nhàn và lo lắng cho những người thân yêu trong gia đình. Cha mẹ phải từ bỏ nhiều điều để chu cấp cho sức khỏe và hạnh phúc của con cái. Còn các học sinh lại thường không thích đi học. Đó là Thánh giá nhỏ của các bạn.
Mỗi người chúng ta, ít nhất là thỉnh thoảng cũng phải nỗ lực hơn để làm một vài điều gì khác với những điều phải làm luôn mãi. Đây là thánh giá nhỏ mà Chúa Giêsu nói tới.
Chúa Giêsu đã làm nhiều điều khó. Ngài đã vác nhiều thánh giá nhỏ, trước khi vác thánh giá lớn. Ngài đã cầu xin để Ngài khỏi phải vác lấy nó. Tuy nhiên, Ngài đã cúi mình vâng theo ý Chúa Cha, như chúng ta cầu nguyện trong bài tiền tụng của Kinh nguyện Thánh Thể II: “... để chu toàn thánh ý Cha... Ngài đã giang tay chịu khổ hình trên thánh giá”. Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta cầu nguyện “ý cha thể hiện”, mà Ngài còn tỏ cho chúng ta biết cách thi hành ý Chúa Cha, không có khó khăn gì.
Chúng ta hãy đem tất cả những thánh giá nhỏ của chúng ta, và cả thánh giá lớn nữa, và bỏ tất cả vào chén Thánh với Máu châu báu của Chúa Giêsu, rồi tất cả chúng ta linh mục và giáo dân, dâng chúng cho Thiên Chúa làm của lễ cao cả nhất. Chúa Giêsu xin chúng ta vác lấy thánh giá của mình, thực hành một vài hy sinh như các bạn trẻ học sinh trong câu chuyện. Chắc chắn Ngài sẽ giúp các bạn vác thánh giá đó, các bạn hãy cố gắng lên. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
79.Phải từ bỏ mình
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi các tông đồ: "Người ta bảo Con Người là ai?", và Chúa Giêsu hỏi chính các tông đồ; "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?", Phêrô đại diện cho các tông đồ tuyên xưng đức tin: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống".
Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó là con đường khổ nạn mà Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại can ngăn Chúa: "Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng Chúa Giêsu quở trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo Chúa: "Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà mất lình hồn thì được ích gì!".
Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ về cuộc đời của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có hai con người: Một con người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người chấp nhận cộng tác với ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ vững đức tin của mình. Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó cần phải thanh tẩy để mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.
Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về đề tài này, về đời sống của người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một câu chuyện vui như sau:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên Thập tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Kitô". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, anh Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng lại sao giờ đây anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên Thập tự như vậy?”
Anh Intyra giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp hèn tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ. Vì tránh được sự đau khổ này thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.
Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người Kitô chấp nhận đau khổ vì người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời gọi hiểu ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ, thì niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất này. Đó là lý do tôi cảm thấy lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập giá và muốn làm môn đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người Kitô sống để được trở thành người Kitô.
Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận theo làm môn đệ, Ngài không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: "Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá hằng ngày mà theo Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống muôn đời".
Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà có thể nhiều người hay mỗi người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích lợi gì, chúng ta cần phải sống và thực hành những chân lý ấy
Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ Makia còn một đoạn kết thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào làng của người Công giáo thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây thì có nhóm những người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp giết nhau, nơi công cộng thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà đạo sĩ: "Đây là đâu vậy?" Đạo sĩ Makia trả lời: "Đây là làng của người Công giáo". Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ: Chúng ta hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô nữa.
Nếu chúng ta chỉ nói: "Lạy Chúa, Lạy Chúa" ngoài môi miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình, có thể chúng ta sẽ rơi vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên. Chúng ta nói mình sẵn sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận những hy sinh, chấp nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng ta có thự hành điều này hay không?
Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự sống những gì mỗi người chúng ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không phải để khoe khoang, nhưng để góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta đang sống, góp phần giúp anh chị em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta là người đầu tiên phải đi trên con đường này để đến với Chúa trước tiên, thì mới có thể hy vọng giúp anh chị em đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
80.Thà mất để được
"Thả con tép, bắt con tôm" dường như là cách sống của nhiều người qua nhiều thời đại. Nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay, người ta lại càng thích theo cách sống này hơn. Người ta sẵn sàng hy sinh cái nhỏ hơn để được cái lớn hơn. Dầu vậy, dường như người ta chỉ quanh quẩn bên những gì chóng tàn. Người ta quên rằng cho dù được cả thế giới này đi chăng nữa rồi cũng có ngày tiêu tan.
"Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?" , có thể nói đây là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu muốn nói với tất cả chúng ta. Cách riêng là với những ai chỉ biết quanh quẩn với những gì chóng qua ở đời này. Chắc hẳn lời cảnh báo này ít nhiều gì cũng làm cho ta suy nghĩ.
Nhìn lên Chúa Giêsu ta sẽ thấy chỉ vì yêu thương mà Người sẵn sàng chịu mất tất cả. Là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng Người đã tự nguyện từ bỏ để đến sống trong thân phận con người hèn yếu. Để rồi Người đành chịu mất vinh quang mà chọn lấy thập tự giá. Quả thật, không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi sự hy sinh cao cả đó. Bằng chứng là Phêrô đã đứng ra can ngăn không cho Người lên Giêrusalem.
Chúa Giêsu đã chịu mất tất cả cho ta được hưởng nhờ sự sống. Phần mình, chúng ta có dám chịu mất tất cả vì Chúa chăng? Nếu đã thật sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ dám hy sinh vì Chúa.
Đúng ra những gì chúng ta để mất chỉ là những gì không có lợi cho ta. Sở dĩ, một cô gái dám từ bỏ những chàng trai khác theo đuổi mình để chọn lấy một người ăn đời ở kiếp với mình chỉ vì cô muốn mãi mãi được sống bên người mình yêu. Thánh Augustinô đã nói: " Lạy Chúa, tâm hồn con băn khoăn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa". Hạnh phúc thật là được sống trong tình yêu của Chúa. Muốn được như vậy không cách nào khác là ta phải đành chịu mất những gì khiến cho ta không được sống mãi trong tình yêu của Chúa.
81.Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu--Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thày gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thày! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ:”Ai muốn theo Thày phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì. Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình. Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
SUY NIỆM: CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ
1. CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LÀ CON ĐƯỜNG VÔ CÙNG KHÓ KHĂN:
Trong thần học và mục vụ Ki-tô giáo ngày nay, “tính cách môn đệ” hay “môn đệ tính” (discipleship) được Giáo Hội xem là tính cách quan trọng nhất của người Ki-tô hữu. Bất cứ ai: giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được mời gọi trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô. Và để trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô, người ta không có con đường nào khác ngoài con đường hẹp, Con Đường Thập Giá, bỏ mình vì Thày, bỏ mình theo Thày. Bỏ mình càng nhiều chúng ta càng trở thành môn đệ của Thày.
Bài học Thập Giá mà Chúa Giê-su đưa ra không dễ hiểu, dễ nuốt chút nào. Tông Đồ Trưởng Phê-rô vừa mới hôm trước nhận được mặc khải từ Thiên Chúa mà tuyên xưng một cách long trọng: “Thày là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” thì hôm sau đã bị Chúa Giê-su quở trách nặng nề khi ra sức cản ngăn Người đi vào thập gía mà Người đã chọn: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thày! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Mà không chỉ có một mình Phê-rô mà toàn bộ Nhóm Mười Hai đều không muốn chấp nhận Con Đường Thập Giá là con đường từ bỏ! Chúng ta đọc kỹ các trang Phúc Âm tường thuật ba lần giáo huấn về con đường thập giá và tường thuật về chuyến lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su và các môn đệ lần cuối cùng thì thấy ngay điều ấy. Hơn nữa, Con Đường Thập Giá, chẳng những Chúa Giê-su đã chọn cho riêng mình, mà Người đã chọn cho tất cả những ai muốn theo Người: “Nếu ai muốn theo tôi, thì...”
Kinh nghiệm tâm linh của mỗi người cũng cho chúng ta thấy rằng con đường hy sinh, từ bỏ là con đường vô cùng khó khăn. Thông thường, chúng ta muốn được hơn là muốn mất; thậm chí nhiều lúc chúng ta chỉ muốn được mà không muốn mất!
2. TẠI SAO CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LẠI ĐẶT ĐIỀU KIỆN KHÓ KHĂN NHƯ VẬY?
Chắc có nhiều lý do giải thích tại sao Chúa Giê-su lại đặt điều kiện khó khăn như vậy cho những người muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người. Trong giới hạn của bài viết này chúng ta hãy suy nghĩ về hai lý do, một có tính nhân bản, một có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo:
Lý do có tính nhân bản: Con người chỉ có thể phát triển và trưởng thành qua rèn luyện, tu dưỡng, tập tành. Nếu không chịu khó đi học và học bài, không ai trong chúng ta có thể trở thành một người có học thức, văn hóa. Nếu không chịu khó tập luyện gian khổ, không một cầu thủ bóng đá nào có thể trở thành một cầu thủ có đẳng cấp trong làng bóng đá. Chúng ta có thể áp dụng quy luật ấy cho mọi lãnh vực của cuộc sống con người.
Chỉ có hy sinh, từ bỏ, rèn luyện, tu dưỡng con người chúng ta mới phát huy những khả năng tiềm ẩn trong mình và mới loại bỏ được những tính xấu có sẵn trong người. Vì thế việc Đức Giê-su đòi các môn đệ phải hy sinh từ bỏ, đi vào con đường hẹp của thập gía, của khổ chế là một đòi hỏi lành mạnh, đầy tính nhân bản. Cha ông ta thường dạy: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”: Có khổ luyện thì con người mới thành người!
Lý do có tính thần học và tư đức Ki-tô giáo: Ngoài lý do có tính nhân bản trên, còn có lý do có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo nữa. Lý do này quan trọng hơn lý do trước gấp triệu triệu lần. Chỉ có con đường khổ luyện mới là con đường giúp chúng ta trưởng thành về mặt tâm linh. Trong chúng ta có nhiều khuynh hướng xấu cần phải thay đổi. Lý do sâu xa nhất là khi chúng ta đi vào con đường thập gía là chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su Ki-tô. “Hai người yêu nhau thì nên giống nhau”
Đó là qui luật tự nhiên và cũng là qui luật siêu nhiên. Trong lãnh vực thiêng liêng, nên giống Chúa Giê-su Ki-tô là chúng ta đạt tới sự thánh thiện Ki-tô giáo. Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy một số vị thánh (như cha Pi-ô mới được phong thánh, như thánh Phan-xi-cô At-xi-di) được in năm dấu thánh trên ngực và trên hai bàn tay hai bàn chân y như những vết thương của Chúa Giê-su khi Người bị đóng đinh và bị lưỡi đòng thâm lủng ngực trên thập gía xưa. Đó là dấu chứng của một Tình Yêu tuyệt đỉnh của Chúa Giê-su Ki-tô dành cho các vị ấy!
3. ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Để hiểu và can đảm chấp nhận Con Đường Thập Giá mà Chúa Giê-su Ki-tô mời gọi, chúng ta phải thực hiện một số việc sau đây:
Trước hết chúng ta phải xác tín rằng chỉ có con đường hy sinh, từ bỏ mới đưa chúng ta đến cuộc sống tốt đẹp thực sự và trường tồn.
Thứ đến là chúng ta phải ra sức rèn luyện, một cách kiên trì và liên tục. Không ai mới bước vào nghề mà đã thành thợ giỏi. Chúng ta cũng chỉ có thể đi vào con đường thập giá nếu mỗi ngày chúng ta bước một hai bước vào con đường ấy, bằng những hy sinh, từ bỏ tự nguyện.
Sau cùng là chúng ta phải cậy dựa vào sức mạnh của Chúa vì không có Ơn Chúa chúng ta sẽ không làm được gì và nếu có Ơn Chúa chúng ta sẽ làm được những việc vĩ đại, như chính Chúa Giê-su đã nói trong Phúc Âm. Muốn có Ơn Chúa thì mỗi ngày chúng ta phải nài xin Người. Xin Ơn gì thì không biết chúng ta có được Chúa ban hay không, chứ nếu chúng ta xin Ơn thấu hiểu ý nghĩa Thập Giá và Ơn đi vào con đường ấy, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta. Vì xin Ơn như thế là chúng ta xin Ơn nên giống Chúa mà cha mẹ nào mà lại không muốn con cái nên giống mình.
Lạy Chúa Giê-su, đọc Tin Mừng Mc 10, 46 - 52, chúng con thấy anh mù Bác-ti-mê ở Giê-ri-khô, sau khi được Chúa cho sáng mắt, đã đi theo Chúa trên con đường Chúa đi, tức đã đi theo Chúa trên con đường Chúa tiến về Giê-ru-sa-lem để bị bắt, bị tra tấn, bị kết án và bị giết trên thập giá. Xin Chúa ban cho chúng con Ơn Sáng Mắt, Sáng Lòng, Sáng Trí và Ơn Sức Mạnh để chúng con hiểu được bài học mà Chúa dạy chúng con hôm nay, để chúng con bước đi theo Chúa, trở thành môn đệ và chứng nhân của Chúa trong gia đình và Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Amen!
82.Vác thập giá đời mình--Huệ Minh
Kính thưa Cộng đoàn,
Người Công giáo của chúng ta, có thể có một lý do nào đó, chúng ta đi vào chùa và ngược lại, chúng ta thấy có những người không phải là Kitô giáo vẫn đi đến nhà thờ.
Và nếu như một người Công giáo đi vào chùa, mà để ý một tí xíu! Ở trong những cái ngôi chùa mà theo phái Bắc Tông đó, thì trong chùa đó chúng ta thấy có thờ hai cái vị thần là: Thần thiện và Ác thần, thì dân gian vẫn gọi là ông Thiện, ông Ác. Thiện thần là cái vị thần mà khuyến khích người ta làm điều thiện, ủng hộ chống lại cái sự tham lam và rồi Ác thần là vị thần Ác bắt phạt những người có ác tâm phá hoại Phật pháp, những người tu hành.
Trong thực tế thì kinh điển Phật giáo chỉ nhắc đến phần hộ pháp mà thôi! Và có thể nói, đây là hình thức giáo dục con người. Khuyên răn con người nên ăn ngay ở lành, không có dã tâm làm hại người khác, khiến cho ai đau khổ. Những người làm việc lành, thì vị thần Thiện ủng hộ, còn những người làm việc ác thì sẽ bị trừng phạt. Và đó là một cái quan điểm nhắc nhở mọi người sống có cái thiện tâm. Và chúng ta thấy rằng, nó rất là gần gũi với cuộc đời của mỗi người chúng ta. Trong chúng ta lúc nào nó cũng có hai cái xu hướng đối lập nhau: “thiện và ác”, “dữ và lành”!
Ngày hôm nay, trang Tin mừng rất là phong phú. Nhưng mà, con chỉ muốn dừng lại, và gợi lại, cùng với Cộng đoàn chúng ta, suy nghĩ về khuôn mặt của một người rất đặc biệt, và rất quen thuộc với chúng ta đó là: thánh Phêrô.
Không biết trả lại Lời Chúa lại cho các cha, hay là mang về nhà để mà suy niệm. Tuần trước không biết ai nhớ là mình đi lễ, rồi nghe đoạn Tin mừng gì? Không biết Cộng đoàn có ai nhớ không?
Thôi thì xin phép nhắc luôn: Tuần vừa rồi thì chúng ta vừa thấy được cái hình ảnh rất đẹp của thánh Phêrô.
Các môn đệ nói thầy là ngôn sứ, thầy là ông Êlia, thầy là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng chỉ một mình Phêrô trả lời với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Thế nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta thấy bi đát lắm! Khi mà Phêrô, vì thương thầy quá nên đã cản thầy không có cho thầy đi lên Giêrusalem để mà chịu chết. Khi mà Phêrô kéo riêng thầy ra thầy thì Chúa Giêsu lại quở mắng:
- Satan, lùi lại đằng sau thầy! Anh cản lối thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.
Tội nghiệp Phêrô, lúc thì được đưa lên đến đỉnh cao:
- Này anh Phêrô anh có phúc vì được Thiên Chúa mạc khải.
Còn bây giờ bi đát quá! Ở trong 9 tầng sâu của địa ngục, tướng quỷ là Sa tan.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu trách móc Phêrô và chúng ta thấy quả là một con người mâu thuẫn. Vừa được lên thiên đàng rồi xuống hỏa ngục.
Và hình ảnh đó cho chúng ta thấy nơi bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đó! Hình ảnh của Giêrêmia, Giêrêmia giằng co, rồi nhiều lúc cảm thấy mệt mỏi, nhiều lúc cảm thấy buồn chán. Bạo tàn, bạo tàn vì Lời Đức Chúa mà con đây chịu sỉ nhục. Có nhiều lúc con tự nhủ: - Thôi con không nghĩ đến Người, chẳng nhân danh Người mà nói nữa! Nản! theo CHÚA mà quá vất vả!
Giêrêmia cảm thấy muốn buông xuôi. Rồi Lời Ngài cứ như ngọn lửa bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt một tâm tình giằng co và rồi Giêrêmia thắng được sự cám dỗ buông xuôi, để rồi Giêrêmia đi theo CHÚA cho đến cùng. Tâm can ông như bừng, như lửa ông trở về với Chúa.
Thật sự ra, chúng ta thấy không quá khó hiểu, bởi vì cái hành trình theo Chúa. Bước theo Đức Kitô là một cái hành trình mà luôn luôn đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn. Đặt ra cho chúng ta sự quyết định theo Chúa, vác thập giá đời mình, như CHÚA nói, hay là bỏ tất cả mọi sự , không còn lòng trí đi theo Chúa nữa. Và chính điều này: bỏ Chúa hay theo Chúa, vác Thập Giá hay bỏ thập giá! Đòi hỏi chúng ta trở về với chiều sâu nội tâm trong lòng mình. Để chúng ta khám phá cái con người thật của mình. Để chúng ta cân chỉnh cái con người thật của chúng ta.
Mỗi một con người chúng ta, đều có thiên thần và có ác quỷ. Nhưng rồi để chúng ta làm gì đó, sống như thế nào đó, tập luyện như thế nào đó, để ngày mỗi ngày: khuôn mặt của chúng ta sáng hơn, khuôn mặt của chúng ta giống như thiên thần hơn, giống như Thiên CHÚA hơn. Và để làm được điều đó, chúng ta phải làm gì?
Chúng ta thấy các loài động vật xung quanh chúng ta, đặc biệt là con khỉ. Nó rất khôn, nó rất lanh và nó có thể bắt chước được tất cả những hành vi của con người. Gần nhà thờ con ở, có một con chó mà người ta nói rằng: đốm lưỡi một tí là đã khôn lắm rồi mà hai con chó này nó đốm luôn cả hai cái lưỡi. Nó khôn lắm! nó nhìn và nó xin, lúc nào mà cho nó ăn thì thôi, rất nhạy bén. Nhưng nó không bao giờ, nó nhìn thấy được nó và nhất là nó không thấy được tâm hồn của nó.
Còn con người của chúng ta, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta một cách rất đặc biệt. Chúng ta có thể nhìn thấy đối phương. Chúng ta có thể nhìn thấy đối diện. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy chính trong lòng của chúng ta. Nếu ồn ào quá! Nếu náo nhiệt quá!
Và nếu như chỉ sống bề ngoài, chúng ta rất dễ nghe theo những lời của người đời:
- Ối giời ơi, hôm nay nhìn trông bác đẹp quá! Hôm nay nhìn bác xinh quá! Hôm nay nhìn chị có cái nhẫn hột xoàn đẹp quá! Cuộc đời Bác thành công quá! Bác vinh quang quá! Bác tài quá!
Nhưng tất cả các điều đó, nó chỉ ở bên ngoài. Và những điều đó đã lấp đầy con mắt chúng ta để chúng ta không khám phá ra con người thật của mình.
Và nhìn thấy những cô gái. Chúng ta thấy là đàn bà con gái thì, chúng ta biết rồi, phái đẹp mà! Có cô gái nào không soi gương không?
Có chứ, có soi chứ. Mà giả như thấy một cái vết nào đó trên gương mặt của mình, dám để cái vết đó để mà đi nhà thờ không?
Không có đâu. Có lẽ, trể lễ một chút xíu, nhưng mà lấy cái bản chà, chà cái mặt mình lên một tí, và trét lên một tí phấn cho nó đẹp mới đi nhà thờ chứ!
Đặc biệt, còn đi ăn tiệc, tội nghiệp quá nhiều khi mấy cô mất mấy tiếng đồng hồ trang điểm chỉ đi ăn tiệc hai tiếng đồng hồ.
Và chính cái thái độ nhìn mình để soi mình trong gương và cân chỉnh cái khuôn mặt của mình, đó là: Nếu mà theo tiếng nhà đạo của mình gọi là “Linh Thao” (Exercise Spiritual). Con thì không giỏi ngoại ngữ lắm nhưng mà nhưng tạm thời cái từ đó gọi là tập luyện, tập luyện tâm hồn của mình.
Ngày hôm nay, chúng ta thấy có nhiều phong trào: đi tập thể dục, đi tập điền kinh, đi đánh cầu lông, đi đánh tennis, để làm gì? Để cho cơ thể nó đẹp. Điều đó cũng đúng thôi! Bởi vì ngày hôm nay ăn nhiều quá mà cơ thể ít vận động! Nên người ta tập luyện. Tập luyện để cho cơ thể người ta đẹp. Người ta khỏe. Người ta sống với nhau. Nhưng mà nhiều lúc người ta chú trọng cái bề ngoài, cái thể lực, cái thể xác, mà người ta quên đi cái tập luyện để sống, để luyện cái tâm hồn đó là để sống Linh thao.
Linh thao là gì? Linh Thao là cái thời gian tập luyện, để cho mình nhìn lại chính mình, để mình cân chỉnh cuộc đời của chính mình.
Có một số người đạo đức quá! Kỳ này, thưa cha: con sẽ cố gắng, con bỏ luôn cái tật xấu đó!
Nghe thấy cũng hay lắm! Nhưng mà thật ra khó lắm! không đơn giản đâu! Bởi vì, mình dứt điểm cái con người của mình, đoạn tuyệt với cái tội của mình không phải dễ.
Chỉ cần xin: một tháng, hai tháng, ba tháng, mình bỏ đi cái tật xấu đó! Ví dụ như là: trong tháng này mình quyết tâm đi làm đúng giờ! tháng tới mình quyết tâm đi lễ vô nhà thờ. Tháng tới nữa, mình sẽ quyết tâm mình tập trung nghe Lời Chúa hơn, thì may ra còn được. Chứ còn bảo là mình quyết tâm: ngày nào cũng đi nhà thờ, ngày nào cũng đi Chặng Đàng Thánh Giá. Khó quá! Và chính trong cái nội tâm mà mình cân chỉnh đời mình,
Trong cái “Linh thao” đó, chúng ta khám phá ra được, Lời Chúa ngày hôm nay: Mời gọi chúng ta từ bỏ chính mình để vác thập giá mình mà theo.
Mà nghĩ tới đây, thì thấy Chúa Giêsu thất bại. Làm ăn coi như thất bại. Làm giám đốc thất bại. Khi người ta tuyển nhân viên đi vô công ty của mình, thì người ta hứa hẹn. Khi người ta lên làm tổng thống người ta hứa hẹn sẽ mang lại thái bình, thịnh vượng, thịnh trị cho đất nước. Khi mà lãnh đạo cho anh chị em, cái này cái kia!
Mà đi theo Chúa Giêsu được cái gì?
“Ai đi theo tôi, phải vác Thập Giá đời mình mà theo” Nản quá, xin lỗi! Lỡ đi theo đạo rồi, lỡ đi tu, lỡ làm cha rồi! nên phải vác Thập Giá theo Chúa thôi! Mà nhìn vậy chứ: Lời mời gọi đó, là chịu chết treo trên thập giá, Xin lỗi! cũng đáng đời, cũng đúng thôi! Cô đơn một mình trên thập giá cũng đúng thôi!
Bởi vì, chẳng ai trên cuộc đời này thích vác thập giá cả! Ai cũng muốn đi trên con đường tơ lụa! Thế nhưng, nhờ cái lối sống, cái cách sống phản tỉnh của mình, mà nhờ vào cái đời sống tập luyện thiêng liêng.
Không ai là thánh cả, không dễ!
Đời sống thiêng liêng, đời sống tâm hồn của mỗi người chúng ta cũng phải tập luyện giống như chúng ta tập thể thao. Con người chúng ta khỏe, để tâm hồn chúng ta khỏe, để chúng ta có một đức tin vững chắt! Chúng ta cũng phải tập luyện. Để cho ngày mỗi ngày đời mình mỗi ngày vác thập giá!
Vác thập giá theo chân Chúa không phải là vác một cây thánh giá gỗ 5, 3 chục ký. Nhưng mà, vác thánh giá theo Chúa đó là chấp nhận từ bỏ những tính hư nết xấu nho nhỏ của mình ngày mỗi ngày, và có khi đến chết vẫn chưa bỏ được tính xấu đâu!
Ngày mỗi ngày, chúng ta cùng vác thập giá theo chân Chúa bằng cách chúng ta từ bỏ những cái yếu điểm của mình: Những cái lời ăn tiếng nói làm phiền lòng người khác. Những cái làm tổn thương người khác.
Ngày mỗi ngày, mình tập một chút và hy vọng đến ngày mình gần chết, mình được thanh thoát để diện đối diện, mình ra gặp Chúa.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Để ngày mỗi ngày, mỗi đêm, khi đêm về chúng ta nhìn lại chính mình.
Chúng ta soi mình, không phải là soi trong cái gương, để chúng ta nhìn khuôn mặt mình đẹp. Nhưng chúng ta soi tận đáy lòng mình, để chúng ta nhìn, chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta bớt đi tất cả cái tham, sân, si của đời mình để chúng ta vui vẻ và hăng hái lên đường, vác thập giá đời mình theo Chúa, cho đến cùng. Amen.
02/09 Trung tín và sáng kiến
- Viết bởi Mt 25, 14-30
Trung tín và sáng kiến.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 21 thường niên.
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.
Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Vào mà hưởng niềm vui
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.
Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,
một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.
Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,
tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.
Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.
Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),
ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.
Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).
Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.
Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.
Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.
Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,
chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.
Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.
Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.
Anh được một yến cũng đi,
nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).
Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.
Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.
Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,
ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:
“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!
Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).
Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,
đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.
Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.
Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng
để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).
Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.
Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).
Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,
được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.
Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)
để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.
Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.
Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.
Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.
Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.
Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.
Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.
Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Suy niệm 2: Tự hào trong Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dụ ngôn những nén bạc thật quan trọng. Nói lên nền tảng của đời sống con người. Nền tảng đó là mọi sự ta có đều là của Chúa. Hiện hữu ta là của Chúa. Ta là hư vô. Chúa đã kéo ta từ hư vô vào hiện hữu. Sự sống ta là của Chúa. Chúa ban cho ta tất cả. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Kể cả linh hồn. Kể cả thiên đàng. Sau sự sống là tất cả. Sức khoẻ. Trí tuệ. Tài năng…
Vì tất cả mọi sự là của Chúa nên ta phải làm việc cho Chúa. Nén bạc Chúa trao phải được sinh lợi. Thân xác ngày càng mạnh khoẻ. Trí tuệ ngày càng thông minh. Linh hồn ngày càng thêm đức hạnh. Phải làm việc để thăng tiến bản thân, thăng tiến gia đình, thăng tiến xã hội, phát triển thế giới trong trật tự, hoà bình, thịnh vượng. Đó là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ dân thành Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. Hãy gắng giữ hoà khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em” (năm lẻ).
Sau khi làm việc cho Chúa ta đặt tất cả thành quả dưới chân Chúa, Chúa lại ban tất cả cho ta. Vì thế Chúa bắt ta làm việc để chính mình được hưởng. Những ai không chịu làm việc. Muốn khẳng định mình không thuộc quyền Thiên Chúa. Muốn chiếm đoạt những gì của Chúa thành của riêng mình. Cho rằng mọi sự là của mình. Mình có quyền tự quyết. Trước mặt người đời họ được xưng tụng là khôn ngoan thông thái. Nhưng trước mặt Chúa họ thật khờ dại. Vì Chúa sẽ lấy lại những gì của Chúa. Họ chỉ còn là hư vô. Là xấu xa. Là nghèo túng.
Những ai khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ trở thành khờ dại trước mặt Chúa. Những ai tưởng là khờ dại trước mặt người đời thực ra là khôn ngoan. Vì họ nhận biết nền tảng của mình ở nơi Chúa. Mọi sự là của Chúa. Như lời thánh Phao-lô dạy: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt người…Ai có tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (năm chẵn).
Người tôi tớ bị phạt vì muốn chối từ quyền làm chủ của Chúa. Muốn tự mình làm chủ đời mình. Nên anh trở về đúng tình trạng của mình là không có gì hết. Vì chính sự sống của anh là của Chúa. Từ chối Chúa là mất tất cả.
Suy niệm 3: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Ðã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc; ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đầy tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.
Ðiều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ; điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái phải thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con: bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.
Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhớ cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Ðịnh mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tâm hồn con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.
Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: "Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.
Suy niệm 4: Cộng tác với ơn Chúa (Mt 25,14-30)
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao lại cho mỗi chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Ðấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài. Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến và thanh toán sổ sách. Kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh", vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao với hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ nhưng phải để được sinh lợi, phục vụ anh em.
Vậy mỗi chúng ta hãy cố gắng sống trung thành và trọn vẹn với những gì mình đã lãnh nhận, tức là chúng ta tích cực cộng tác với ơn của Chúa, với tinh thần trách nhiệm để làm cho những ân huệ, những khả năng Chúa ban và ngay cả sự hiện hữu của ta được sinh hoa kết quả trong cuộc sống hàng ngày, là thời gian dường như Chúa vắng mặt. Chúng ta không nên có thái độ như người lãnh một nén, xem Chúa như người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, nên đã lo sợ và đem chôn giấu nén bạc dưới đất, để rồi đến lúc đem trả lại y nguyên. Chúa sẽ trách chúng ta như ông chủ trong dụ ngôn trách người đầy tớ biếng nhác: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác, anh đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi sổ bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu hồi của thuộc về tôi cùng với số lời chứ. Vậy, các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người có mười nén". Chúng ta không nên nghĩ xấu cho Chúa để rồi sống mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ Ngài. Nhưng hãy sống đơn sơ phó thác như con thảo đối với cha mình và yêu thương anh chị em. Khi sống trong tình thương và gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy sợ hãi nhưng là luôn sống tích cực trong phận vụ của mình trong sự cậy trông và tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin ban cho chúng con một đức tin vững bền để chúng con trung thành với ơn mình đã lãnh nhận là làm phát sinh những điều thiện hảo, nhờ đó mọi người sẽ được hưởng niềm vui của ngày Chúa đến trong vinh quang.
Suy niệm 5: Sau một thời gian
Đức Giêsu nói: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến, mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người.” (Mt. 25, 14-15)
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc nhở chúng ta là: trong suốt đời sống của chúng ta không phải chỉ có trung tín làm theo ý Chúa mà còn phải biết sáng kiến và làm theo những điều Chúa mong đợi mỗi người chúng ta.
Tùy theo phương tiện mỗi người.
Điều đáng chú ý là Chúa không đòi cái gì quá sức chúng ta, quá khả năng chúng ta. Không thể đòi ta phải làm cho ta lớn lên một tấc! khi người ta đòi phải “ vượt mức chỉ tiêu” thì đó chỉ là đòi theo sức tương đối không hiểu như một bổn phận. Cũng thế, Chúa đòi ta phải đổi mới con người, có ý nghĩa là sửa chữa, đào tạo, giáo dục con người đã dựng lên và con người tạo vật của mình.
Chúng ta được biết rằng chủ sẽ về sau một thời gian. Chúa cho chúng ta thời gian để thực hiện đời sống mình và sống theo thánh ý Chúa. Nếu chúng ta làm những điều xấu, sống trong lầm lạc, Chúa không đến treo giò không kết án ngay đâu.
Chúa cho chúng ta thời gian làm cho sinh hoa kết quả những ơn mà Chúa cho chúng ta mượn để rồi lại ban tất cả cho chúng ta. Ngài nắm giữ thời gian, Ngài để cho chúng ta bắt tay vào việc. Đầy tớ trung tín lo làm trọn điều mình phải làm, chủ có thể về tùy theo lúc chủ muốn, chủ sẽ vui mừng khi ý chủ đã được thực hiện, mọi sự đều tốt đẹp.
Lòng yêu mến nồng nàn.
Khi ta trung thành vui vẻ theo ý Chúa, Ngài có thể đòi hỏi ta tùy lúc Ngài thỏa lòng, Ngài mong chúng ta luôn sẵn sàng.
Vậy mọi sự đều tùy thuộc lòng mến của ta.
Đầy tớ xấu thì sao? Tại sao nó không được thưởng? Nó không làm gì, chẳng yêu ai, chỉ biết đổ lỗi thất bại cho người khác: “Thưa ông, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không vãi...”. Ai đáng trách? chủ hay đầy tớ lười biếng vô dụng? Ai trong chúng ta đáng trách? nếu chúng ta từ chối Thiên Chúa và thánh ý Ngài?
Ước chi chúng ta can đảm một chút để nhận lỗi, hãy chân thành thú nhận những ti tiện của mình.
JM
Suy niệm 6: Hãy sinh lời thêm
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được thuộc về Chúa, trở thành công dân Nước Trời. Khi trở thành con cái trong nhà, chúng ta được Thiên Chúa tin tưởng và trao cho chúng ta trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài. Đây chính là nén bạc Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh của người làm kinh tế để nói về việc sinh lời nén bạc tinh thần. Nếu ông chủ trao cho đầy tớ những nén bạc và nhủ hãy đi sinh lời thêm, thì Thiên Chúa cũng vậy. Ngài trao ban cho chúng ta những nén bạc là Lời Chúa, là những "ơn ban...” và không ngừng mời gọi chúng ta sinh lời ra nhiều, để làm vinh danh Chúa và giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.
Thật vậy, mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy vào khả năng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó cho đúng mục đích cách trung tín và khôn ngoan hay không mà thôi.
Người khôn ngoan là người biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Người quản lý trung tín là người biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Biết đón nhận đau khổ và sẵn sàng hy sinh vì mối lợi đời sau. Biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ đói khát...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự đặt mình trước mặt Chúa để cật vấn mình rằng: Chúa đã đầu tư cho tôi những nén bạc như sức khỏe, tài năng và nhiều ơn ban khác..., nhưng tôi có thực sự sinh lời ra thêm bằng việc tạ ơn Chúa, sẵn sàng giúp đỡ anh chị em mình và có biết dâng những hy sinh đau khổ, thất bại trong cuộc đời lên Chúa để xin Chúa thánh hóa, hầu sinh ích cho mình và tha nhân hay không?
Nói chung, tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Hay tôi lo chôn giấu cho thật kỹ trong sự ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và hận thù?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban, đồng thời, xin cũng cho chúng con biết sinh lời những nén bạc đó bằng những nhân đức trong đời sống hằng ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Sức khoẻ, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, là những nén vàng Chúa trao
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Sức khoẻ, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, đó là những nén vàng nén bạc Chúa trao cho đời ta. Ta hãy sinh lời bằng việc sử dụng những món quà đó cho đẹp lòng Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm con, ban cho con sức khoẻ, thời giờ, tài năng, và muôn ngàn ân huệ, như những nén vàng nén bạc. Vốn liếng đó Chúa mong con phát huy thành mối lợi thiêng liêng. Chúa sẽ vui lòng biết bao khi thấy con biết tận dụng thời gian để làm những điều đẹp lòng Chúa. Con biết dùng sức khoẻ, khả năng và các ơn Chúa ban, để phục vụ Chúa và giúp đỡ anh em, đó là con biết sống xứng đáng với lòng thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là Chân Thiện Mỹ, Chúa đã chẳng tiếc gì khi chia sẻ điều tốt lành cho con, nhưng với mục đích để con sử dụng các ân huệ ấy mà cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa.
Tuy thế, con biết Chúa ban cho mỗi người những ân huệ và với mức độ khác nhau. Chúa chỉ cần con sử dụng các ân huệ ấy hết khả năng của con. Ai được ban nhiều, Chúa đòi sinh lời nhiều, kẻ được ít, Chúa đòi ít hơn. Xin cho con đừng ghen tương phân bì với số phận anh em con.
Khi con được năm nén, xin đừng để con kiêu căng tự đắc, nhưng xin cho con biết tạ ơn Chúa: tạ ơn bằng cách quảng đại phục vụ chứ không phung phí ơn Chúa. Khi con được hai nén, xin cho con cũng biết quảng đại phục vụ với khả năng nhỏ bé của mình. Và nếu con được Chúa ban một nén, xin đừng để con vì vậy mà lười biếng, tự ti mặc cảm, than trách phận mình và oán than cả Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
Suy niệm 8: Dụ ngôn nén bạc
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đọc dụ ngôn nén bạc chúng ta thấy: Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người sử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”. Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lợi. Làm cho chúng sinh lợi không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
2. Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài, Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.
Sau một thời gian lâu dài, ông chỉ đến và thanh toán sổ sách, kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén, vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao bằng hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ nhưng phải để được sinh lợi (R.Veritas).
3. Ông cố của vị linh mục vừa qua đời. Có rất nhiều người đến viếng thăm với hoa, nến và nhiều kinh nguyện khác. Một em bé đến nói với vị linh mục: “Thưa cha, con không có hoa, nến, cũng không thuộc nhiều kinh. Con chỉ đọc cho ông cố một kinh Lạy Cha mà thôi”. Vị linh mục trìu mến trả lời: “Con đừng lo. Lời kinh đơn sơ của con cũng có giá trị cao quí như các kinh nguyện của những người khác”.
Đức Giêsu cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã trao cho mỗi người những nén bạc, tức là những tài năng, kẻ nhiều người ít. Điều Đức Giêsu muốn nhắn gửi, đó là mỗi người phải sử dụng những “nén bạc” là những tài năng Chúa ban, để “sinh lời” cho Chúa. Phần “lời” này không hệ tại ở số lượng nén bạc được gia tăng, mà phụ thuộc tấm lòng của chính chúng ta. Chúng ta có siêng năng làm việc để phát huy tài năng hay không, hay chúng ta lười biếng như đầy tớ vô dụng đã đem chôn bạc xuống đất?
4. Tất cả chúng ta cũng là đầy tớ được Chúa ủy thác cho những nén bạc khác nhau. Từ sự hiện hữu đến những ơn lành đều là những nén bạc Chúa ban cho chúng ta để phát triển và mang lại kết quả. Chắc chắn Chúa sẽ không đòi những gì quá sức chúng ta. Nếu Chúa chỉ ban cho chúng ta hai nén, Ngài không đòi chúng ta phải làm ra năm nén. Điều quan trọng là chúng ta phải tận dụng ơn lành Ngài ban một cách cụ thể trong việc phụng sự Thiên Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Chúng ta sẽ chiếm trọn gia sản Nước Trời, nếu biết khôn khéo sử dụng nén bạc đã được giao cho. Và đó là điều chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
5. Chúng ta phải cám ơn Chúa từng giây phút trong mỗi ngày, vì dù mình có tài hèn sức mọn, Chúa vẫn tin tưởng trao gửi cho chúng ta những nén bạc của Ngài để chúng ta sinh lợi cho Chúa. Chúng ta hãy bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai: siêng năng, chăm chỉ làm việc và làm lợi cho chủ, chứ đừng theo người đầy tớ thứ ba: lười biếng, không chịu làm việc. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không. Tóm lại, chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, ân lộc Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp tin yêu trên Nước Trời.
6. Truyện: Biết làm sinh lợi cho Chúa.
Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.
Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:
- Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này?
Cô bé trả lời:
- Con đến để yên ủi mẹ bạn ấy.
- Nhưng con thì làm được gì?
- Ba ơi, con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.
Lúc đó cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”.
Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười
để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người.
Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại
Tách cà phê tôi pha cho bố mỗi sáng
Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ
Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị
Những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ
Tôi đã làm tất cả hết khả năng và nhiệt huyết của mình.
Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.
Lạy Chúa!
Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao,
biết trung thành với bổn phận hằng ngày (Hosana).
Suy niệm 9: Cách thế mỗi người xử dụng những nén bạc Chúa trao
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Dụ ngôn các nén bạc:
- Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít.
- Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”.
- Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
B.... nẩy mầm.
1. 3 người đầy tớ trong dụ ngôn này không hề so đo phân bì với nhau vì tại sao kẻ thì được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.
Tôi cũng đừng so đo với người khác về những khả năng Chúa ban cho tôi; kiêu căng đối với kẻ ít khả năng và đố kỵ đối với kẻ nhiều khả năng hơn mình. Tôi chỉ nên nghĩ tới Chúa thôi: Chúa mong chờ gì nơi tôi khi trao cho tôi những khả năng đó?
2. Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu: ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt. Hình phạt của hắn là một lời cảnh giác cho tôi.
3. “Người có sẽ được cho thêm và sẽ được dư dật”: Lời hứa này là một sự khuyến khích rất lớn cho tôi. “Có” gì và “được cho thêm” gì? Thưa: cầu nguyện, tinh thần kết hợp với Chúa, sức sống thần linh của Chúa, ơn Chúa v.v.
4. Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. (Chờ đợi Chúa)
5. Ông chủ nói với người đầy tớ: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)
Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.
Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:
“Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này?”
Cô bé trả lời: “Con đến để an ủi mẹ bạn ấy”.
- Nhưng con thì làm được gì?
- Ba ơi con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.
Lúc đó, cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”.
Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười
để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người.
Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại
Tách cá phê tôi pha cho bố mỗi sáng
Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ
Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị
những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ
Tôi đã làm tất cả với hết khả năng và nhiệt huyết của mình.
Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.
Lạy Chúa! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao,
biết trung thành với bổn phận hằng ngày. (Hosanna)
Suy niệm 10: Nén bạc Chúa trao phải sinh lời
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Qua bài Tin Mừng này, Chúa nhắn gửi mỗi người chúng ta hiểu hai điều:
1. Thiên Chúa trao cho mỗi người một số nén bạc.
Những nén bạc, thường được hiểu như là những khả năng của mỗi người, cũng có thể hiểu là thời giờ hay chính cuộc sống của chúng ta.
Mỗi nén bạc thời bấy giờ là 6.000 đồng bạc, bằng giá của 6.000 ngày công. Một giá trị lớn.
Chúa lại trao không đồng đều, kẻ nhiều người ít.
Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là mỗi người sử dụng những nén bạc đó ra sao. Bởi thế, người đã lãnh 5 nén bạc và người lãnh 2 nén bạc mà sử dụng tốt thì cũng được thưởng như nhau.
Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời.
Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc nhiều hay ít, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Bởi vậy, mỗi người phải cám ơn Chúa, vì dù mình có tài hèn sức mọn, Chúa vẫn tin tưởng trao gửi cho chúng ta những nén bạc của Người để chúng ta sinh lợi cho Chúa. Năm nén, hai nén hay một nén…không quan trọng. Điều quan trọng là sinh lợi. Cuộc sống phải sinh lợi cho nước Chúa và cho anh em như nén bạc phải sinh lợi cho chủ.
2. Thiên Chúa muốn cho mỗi người sinh lời cho Chúa.
Ba người đầy tớ trong dụ ngôn hôm nay không hề so đo phân bì với nhau tại sao kẻ được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.
Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu: ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt.
Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy những người đã có, thì họ lại chịu khó làm ăn, chính vì thế mà cuộc sống của họ ngày càng tốt đẹp hơn. Ngược lại, những người đã không có, thì lại hay lười biếng và có được đồng nào thì xài hết đồng đó. Chính vì vậy mà chẳng bao giờ có thể ngóc đầu lên nổi.
A.R.Wells có thuật lại câu chuyện này: Có một trang chủ làm chủ một trang trại lớn. Một bữa kia ông giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa cho ông một khúc cây.
- Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.
- Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi cưa sắc bén hơn rồi tôi cưa. Và anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh cũng nghỉ.
- Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh cũng nghỉ.
- Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công tác được giao. Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa.
Nếu được phép áp dụng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay thì chắc là ông chủ sẽ nói với người đầy tớ cuối cùng rằng: "Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,23).
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen. (Rabboni).
01/09 Chờ đợi Chúa Giêsu
- Viết bởi Mt 25, 1-13
Chờ đợi Chúa Giêsu.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 21 thường niên.
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Vừa mang đèn, vừa mang dầu
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau
trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi.
16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996),
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Suy niệm 2: Dầu đèn và cơ hội
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hạnh phúc Nước Trời được Chúa Giê-su diễn tả bằng một hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng: cầm đèn đón rước chàng rể. Bóng đêm làm cho đám rước tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng. Bóng đêm làm cho đèn càng sáng hơn, giá trị hơn. Nhưng bóng đêm tạo nên bất hạnh cho người không có đèn hay có đèn mà đèn không sáng. Hai yếu tố quan trọng trong cuộc đón rước là dầu và cơ hội.
Đám rước ban đêm cần có đèn. Đèn cần có dầu để sáng. Vì đêm quá dài nên phải chuẩn bị dầu cho đủ. Nếu đèn là ánh sáng đức tin thì dầu chính là việc làm biểu lộ đức tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu đèn là ánh sáng thánh thiện thì dầu là cuộc sống trong sạch, không vương ô uế. Thánh Phaolo trong thư 1 Tét-xa-lô-ni-ca cho rằng đó là sống đẹp lòng Thiên Chúa. Mà “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”. Và ngài cắt nghĩa nên thánh là sống trong sạch, “xa lánh gian dâm… không buông theo đam mê dục vọng” (năm lẻ).
Việc sống trong sạch, không chiều theo đam mê dục vọng, có thể bị người đời cho là khờ dại, và người thời nay cho là không chấp nhận được. Đó thật là đóng đinh vào thập giá, là sự điên rồ. Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (năm chẵn).
Cơ hội gặp Chúa chỉ có một lần trong đời. Ngàn năm có một. Cơ hội đã qua không bao giờ trở lại. Đó là lý do khiến ta không bao giờ được lơ là trong việc tỉnh thức chờ đợi và không bao giờ quên sắp sẵn dầu trong bình. Chính vì thế thánh Phao-lô tuy khen ngợi dân Tét-xa-lô-ni-ca sống tốt, nhưng vẫn nhắc nhở họ phải phấn đấu hơn: “Anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa”.
Cơ hội chỉ có một lần trong đời vì thế phải hết sức cảnh giác và tăng cường ngày càng tỉnh thức hơn. Cơ hội qua đi không bao giờ trở lại. Trong chớp mắt số phận phân đôi. Kẻ nắm được cơ hội đi vào hạnh phúc. Kẻ lỡ cơ hội suốt đời khóc lóc. Nhưng khi ta biết thì đã quá muộn. Cửa thiên đàng đã đóng lại thì người lỡ cơ hội chỉ còn đi trong bóng đêm.
Tôi có chuẩn bị dầu đầy đủ. Và có quyết tâm không lỡ cơ hội?
Suy niệm 3: Tích cực sống đức tin
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.
Suy niệm 4: Ánh lửa huy hoàng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thầy Rabbi dạy các học trò của mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều gì đó. Một học trò hỏi lại:
- Thưa thầy, một chuyến xe lửa đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?
Thầy bảo:
- Nó dạy ta rằng chỉ trong một phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.
Kinh nghiệm của thầy Rabbi có thể giúp chúng ta hiểu Lời Chúa hôm nay hơn. Có thể nói chỉ vì một chút thiếu cảnh giác vì ngủ quên hay vì không mang dầu mà các cô dại khờ đã không gặp được chàng rể. Hệ quả là các cô đã bị loại trừ vĩnh viễn. Ngày nay, mỗi chúng ta là những trinh nữ đương thời, đang trông chờ chàng rể là Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong cuộc giáng lâm vinh hiển của Người. Trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm vào giờ phút cuối cùng của lịch sử, mỗi người đồ đệ được Chúa viếng thăm hàng ngày trong Lời Chúa, trong các bí tích và trong những biến cố, sự kiện, xảy ra trong cuộc sống thường nhật. Thử hỏi, chúng ta có đủ tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra những lần Chúa viếng thăm này không?
Kinh nghiệm của thầy Rabbi là mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy chúng ta đôi điều gì đó và chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả. Chỉ trong một phút giây cũng dạy cho chúng ta bài học khôn ngoan để luôn tỉnh thức và sẵn sàng như các trinh nữ khôn ngoan trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Mỗi giây phút trong cuộc đời ta đều có tính quyết định cho cả cuộc đời.
Hãy sẵn sàng có nghĩa là mỗi giây phút sống và là giây phút chúng ta sống tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất, bình an nhất, trọn vẹn nhất, tưởng chừng như đó là phút giây cuối cùng của ta trên cuộc đời lữ hành trần thế, là giây phút chàng rể đến, giây phút chúng ta chờ đợi đã đến, giây phút chúng ta được gặp Ðấng là nguồn ánh sáng. Chúng ta sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn khi chúng ta đem ánh lửa của mình hòa nhập vào nguồn ánh sáng để nó được bừng lên trong ánh sáng huy hoàng.
Vì thế, chúng ta hãy tích cực cộng tác với ơn Chúa, hãy giữ lấy ngọn lửa đã được thắp lên trong lòng chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích thánh tẩy, để cho lòng chúng ta lúc nào cũng bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng được gặp Chúa Kitô, chàng rể. Khi chúng ta chắc rằng chúng ta luôn đầy tràn dầu của tình yêu và nhiệt thành, chính ngọn lửa ấy sẽ soi rọi mọi nẻo đường chúng ta đi. Dầu của tình yêu và nhiệt thành sẽ làm cho ngọn lửa hy vọng được tỏ rạng giúp chúng ta nhận ra ý định của Thiên Chúa nơi thế giới quanh ta và ngay cả những gì thuộc về mình. Trong một tầm nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ đọc được những dấu chỉ của thời đại, chúng ta có thể thức tỉnh khi lòng chúng ta luôn sẵn sàng để lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua những dấu chỉ đó và chúng ta sẵn sàng đáp trả ở mức độ trọn vẹn nhất.
Ước gì chúng ta đừng để cho mỗi một giây phút nào qua đi mà không giúp chúng ta nghe rõ tiếng của chàng rể, là Ðấng mà ta hằng mong đợi và là niềm hạnh phúc viên tròn của cuộc đời ta. Chúng ta hãy gặp Người trong từng phút giây của cuộc đời ta, rồi giây phút trọng đại diện đối diện ấy cũng sẽ đến, đó là lúc chúng ta đã sẵn sàng được theo chàng rể vào dự tiệc cưới.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin ban cho chúng con ân sủng, sức mạnh và lòng nhiệt thành để mỗi giây phút sống là mỗi giây phút chúng con kết hiệp thân tình với Chúa và sống trọn vẹn cho anh chị em.
Suy niệm 5: Nhìn xa trông rõ
Đức Giêsu nói: “Bấy giờ Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn các cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt. 25, 1-4)
Kết thúc bài giảng trên núi, Chúa đã so sánh hai hạng người một khờ dại, một khôn ngoan. Kẻ khờ dại đã xây nhà trên cát, kẻ khôn ngoan xây nhà trên đá. Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy sự đối nghịch giữa khờ dại. Những kẻ khôn ngoan thì nghe lời Tin Mừng và đem ra thực hành. Những kẻ khờ dại nghe Tin Mừng mà không sống theo.
Dàn cảnh.
Những cô trinh nữ theo cô dâu ra đón chàng rể và các cô đưa dâu về tới nhà chàng rể để dự tiệc cưới.
Điều đáng chú ý trong câu chuyện dụ ngôn kể hoàn toàn hợp lý, không tìm thấy một chi tiết nhỏ nào bị thay đổi. Nhưng bản văn tin mừng nhấn mạnh hơn đến ánh sáng đức tin. Mỗi Kitô hữu đều biết rõ ai là chàng rể, những ai là cô khờ dại hay cô khôn ngoan, đám cưới có ý nghĩa gì và cổng đóng lại tượng trưng cho sự khủng khiếp nào.
Hình ảnh và sự thực.
Trong những dụ ngôn này của Đức Giêsu luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều này: dầu đầy bình, áo cưới khi dự tiệc cưới, xây nhà trên đá đều làm nổi bật một đời sống độc nhất đó là đời sống đức tin sẽ được Đấng phán xét đón nhận.
Chúa còn muốn dạy chúng ta một bài học khác nữa: đó là chúng ta tự do làm điều ta muốn, và không phải Chúa từ chối, chính chúng ta không sẵn sàng tiếp nhận Ngài hoặc tiếp nhận Ngài, nhưng đòi Ngài phải theo điều kiện mình, phải theo tính nông cạn của chúng ta. Có khi ta sẵn sàng đi theo một bước nào đó, trong đường lối của Chúa, nhưng chúng ta lại không chấp nhận đi đến cùng đường với Ngài! như vậy, chúng ta đều là kẻ khờ dại. Bao giờ chúng ta là những kẻ khôn ngoan.
JM
Suy niệm 6: Sẵn sàng đón đợi Chúa
Là con người, ai cũng phải chết, đây là quy luật sinh tử của kiếp người. Tuy nhiên, không ai trên trần gian này biết trước giờ chết của mình. Ý thức được như vậy, chúng ta sẽ dễ hiểu bài Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu kể dụ ngôn: “Mười trinh nữ”.
Toàn cảnh dụ ngôn là câu chuyện tiệc cưới. Tuy nhiên, ngang qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến cuộc giáng lâm lần thứ hai của Ngài trong ngày cánh chung.
Vị hôn phu chính là Đức Kitô. Mười cô trinh nữ tượng trưng cho Giáo Hội. Hành vi ra đón chàng rể là hình ảnh ngày chết của mỗi người.
Chàng rể chậm trễ một phần muốn nói lên sự bất ngờ, phần khác muốn nói đến sự kiên trung, nhẫn nại và sẵn sàng mà mỗi người cần có...
Đèn còn dầu và hết dầu nơi các cô trinh nữ nói lên sự sẵn sàng, tỉnh thức, hối cải, nhạy bén hay không!
Được đưa vào phòng tiệc là hình ảnh được cứu độ.
Cửa đóng lại muốn nói lên sự quyết liệt, dứt khoát trong ngày chung thẩm.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy cho người đương thời và mỗi người chúng ta bài học về tinh thần trách nhiệm trong đức tin và tự do. Đồng thời, nhắc cho chúng ta về sự tỉnh thức, sẵn sàng để đón đợi Chúa bằng những việc bác ái, hy sinh, tha thứ, yêu thương... như năm cô khôn có dầu dự trữ mang theo. Không ai trên trần gian này có hai cuộc sống cũng như hai cái chết! Vì thế, phải sẵn sàng.
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay làm cho mỗi người chúng ta suy nghĩ đến cái chết của mình để chuẩn bị cho xứng đáng. Bởi vì biết suy nghĩ đến cái chết hằng ngày là người khôn ngoan.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết kiên trì, trung thành và bền đỗ đến cùng trên hành trình tin và theo Chúa. Xin cho chúng con biết chuẩn bị chu đáo cho ngày chết của mình, để Chúa đến với chúng con bất cứ lúc nào, chúng con sẵn sàng ra đi đón Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Dự tiệc cưới Nước Trời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Được mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời, cần phải tỉnh thức và chuẩn bị bằng cả đời sống của ta. Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sẵn sàng và chuẩn bị chu đáo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua hình ảnh tiệc cưới, Chúa cho con hiểu tình yêu nhiệm mầu của Chúa. Ai trong chúng con cũng đều được Chúa mời tham dự bữa tiệc trọng đại đó. Phần con, con sẽ được đón nhận hay bị từ chối là tùy ở con có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi đó hay không.
Và khi đã được mời, con còn phải chuẩn bị sẵn sàng để vào dự yến tiệc. Năm trinh nữ khôn ngoan với dầu đèn đầy đủ, sẵn sàng, đã theo chú rể vào dự tiệc cưới. Con hiểu rằng dầu đèn ở đây là đức tin và lòng mến Chúa, là sự hy sinh quên mình, là trung tín trong việc bổn phận, là lòng bác ái vị tha. Xin giúp con chuẩn bị dầu đèn của đời con luôn cháy sáng để con được vào dự Tiệc Thánh trong Nước Chúa.
Năm trinh nữ dại khờ mất phần dự tiệc vì tính lơ đãng, vì dầu đèn không đủ cho cuộc đón rước trọng đại này. Con sẽ bị từ chối vào dự tiệc trong Nước Chúa nếu cuộc sống hôm nay của con chỉ là sống cho mình, việc đạo đức không có chiều sâu, không đủ sức giúp con tránh xa dịp tội, và thiếu ngọn lửa mến Chúa yêu người. Nhưng may mắn bội phần cho con, vì năm trinh nữ dại khờ kia không còn cơ may nào để chuẩn bị. Còn con, thời giờ và cảnh đời của con vẫn còn đó. Chúa còn cho con cơ hội để gom góp hy sinh, lặp lại những cố gắng và làm cháy lên ngọn lửa đức tin, đức ái đến trót cuộc đời con.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn thức tỉnh và cậy trông. Amen.
Ghi nhớ: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”.
Suy niệm 8: Hãy nuôi trong lòng ý nghĩ yêu thương, tinh thần sẻ chia
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
“Dưới cái nắng 12 giờ trưa, tôi hối hả đi bộ từ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ra Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường, một cô bé chừng 16 - 17 tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ”. Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ mua bán gì”. Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này.
Nhưng, tôi cũng cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…”. Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy.
Vậy mà tôi vô cảm... (Theo Tuổi Trẻ Online).
Suy niệm
Người phú hộ không làm gì sai trái, không vi phạm đức công bằng: Ông không gian tham của ai, không trộm cắp của người và không bớt xén tiền bạc của tha nhân. Với Ladarô khốn khó, ông đâu có khinh miệt và sai gia nhân xua đuổi nhưng tội của ông là không quan tâm, hững hờ trước tình trạng bi đát của Ladarô, người nghèo khó và bệnh tật bên hiên nhà mà chính ông gặp hàng ngày. Trong khi người phú hộ áo ấm, dư thừa “ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19), còn Ladarô “thèm được những mảnh vụn trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho no” (Lc 16,21). Ladarô không chỉ đói vì thiếu cơm bánh mà còn đau đớn hơn khi anh thiếu tình thương của đồng loại. Chẳng ai quan tâm đến anh “chỉ có bầy chó đến liếm láp”. Người phú hộ không có tội gì khác, chỉ có tội hững hờ vô cảm trước tha nhân và sống chỉ cho riêng mình. Tội của ông ta là dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Ladarô thống khổ đang cần sự giúp đỡ.
Ngôn sứ Amos đã tuyên sấm trước hậu quả với những người phú quý giàu sang rằng vì họ xưa kia đã được sung sướng no đầy nên nay phải bị lưu đày (Am 6,1a.4-7): “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6,1a). Ăn uống no nê nhưng lại hững hờ với sự đau đớn của dân tộc: “Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6,6). Cho nên, hậu quả là họ lãnh nhận kiếp vong quốc lưu đày: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày” (Am 6,7). Lời tuyên sấm này được làm trọn vẹn nơi giáo huấn của Đức Kitô qua dụ ngôn người phú hộ sang trọng và Ladarô nghèo khó: Kẻ hững hờ trước nỗi đau của anh em sẽ như số phận người phú hộ: Sự giàu sang mà vô cảm với anh em đã trở nên khốn khổ trong ngày sau (x. Lc 16,23).
Với hình ảnh của người phú hộ, sứ điệp Tin Mừng chuyển tải đến tôi và bạn: Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với tha nhân. Khi mắt tôi và bạn không để ý sự đau khổ, tâm hồn chúng ta không chút xót thương đến những số phận đen đủi, lòng trắc ẩn không hề rung động trước cảnh bi đát của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố sâu ngăn cách giữa người và người như sự ngăn cách giữa người phú hộ và Ladarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được, dù sống sát bên nhau hàng ngày. Chính vì không thể qua bức ngăn trong cuộc sống hàng ngày, cả cuộc sống mai sau cũng ngăn cách sâu thẳm (x. Lc 16,26).
Hãy nuôi trong lòng mình ý nghĩ “yêu thương” tinh thần sẻ chia. Trong tình thương không bao giờ tồn tại sự so đo, tính toán: Yêu thương hết mình, chia sẻ hết tình khi người anh em tôi có nhu cầu cần đến bàn tay tôi giúp đỡ. Hãy để con tim luôn sẵn sàng: Chia nụ cười, sẽ nhận về vô số niềm vui… Chia vòng tay, sẽ nhận về mênh mông ấm áp… Chia quan tâm - sẽ nhận về bao la yêu thương… Chia yêu thương, sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc…
“... Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ ” (Nhã Nam, Cuộc đời có bao điều mà…, Nxb Trẻ 2009), mong con tim tôi và bạn mang nhịp đập yêu thương, luôn nhạy cảm với nỗi đau của người anh em!
Ý lực sống
“Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức,
và ban cho những người đói được cơm ăn”. (Tv 146,7).
Suy niệm 9: Dụ ngôn mười cô trinh nữ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới, mà trong đó chỉ những ai có thái độ tỉnh thức và sẵn sàng, mới có cơ hội được chú rể là Đức Giêsu dẫn vào đồng bàn với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Hình ảnh năm cô khôn và năm cô khờ cùng cầm đèn đi đón chàng rể, nhưng khác nhau ở chỗ là cô khôn mang đèn mang thêm dầu, còn cô dại thì mang đèn không dầu, là hình ảnh tiêu biểu của hai kiểu sống đạo của chúng ta hôm nay. Chúng ta cùng chung đức tin (là cùng tin có Chúa và Chúa sẽ đến) như ai cũng mang theo đèn, nhưng khác nhau ở chỗ có thực hành đời sống đức tin hay không, hay là tin nơi đầu môi chót lưỡi, còn cuộc sống thì vô thần, tựa như cái đèn rỗng ruột, không còn tỏa sáng mà đã tắt ngấm tối thui từ khi nào.
Chúng ta có thể hiểu qua dụ ngôn này: Chàng rể đặc biệt chính là Chúa Kitô, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời vào dự tiệc cưới Nước trời, dầu và đèn là các điều kiện cần có để tham dự tiệc cưới. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người khôn, có người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không.
Năm cô khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ, nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.
Chúng ta cũng thấy Đức Phật dạy các môn đệ mình: “Phải trấn tĩnh cho tâm thanh tịnh để mà giác thức”. Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có một tâm trạng an tĩnh để mà suy xét mọi điều, bởi vì có rất nhiều mối bận tâm, lo toan, tính toán đang xâm chiếm tâm trí ta hằng ngày. Trong câu chuyện Tin mừng hôm nay, đang khi các trinh nữ ngủ thiếp đi, thì có tiếng hô to: “Chú rể kia rồi, ra đón đi”. Thế nhưng trong số mười cô chờ đợi chàng rể, chỉ có năm cô đem đủ dầu mà thôi. Năm cô này được gọi là “những người khôn ngoan”, vì họ đã biết lo liệu, tính toán trước sự việc.
Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy luôn sống với thái độ sẵn sàng, vì Người có thể đến bất cứ ngày nào, giờ nào. Như năm cô khôn ngoan đã chuẩn bị đầy đủ dầu, chúng ta hôm nay cũng được mời gọi chuẩn bị tâm hồn đón Chúa bằng đời sống đức tin, đức ái và đầy công phúc.
Trong bài Tin mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp, thế mà lại không chia sẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không? Thưa, nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời, nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bởi vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi, thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh ta lắm, nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san sẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh (Giải thích của Lm. Carôlô).
Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời, bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết, để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm, bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ (Mỗi ngày một tin vui).
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về giờ của từng cá nhân mình phải ra trước toà Chúa. Đó là lúc được phân định dứt khoát và vĩnh viễn, nên không còn cơ hội để lựa chọn về phần rỗi của mình nữa. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, bởi sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta có thể bắt đầu lại và có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong giờ cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại và lúc đó sẽ hư mất đời đời.
Truyện: Thái độ của mỗi người
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó chính là câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường, và có kết quả:
20% được hỏi liền trả lời: Chúng tôi sẽ dùng thời giờ còn lại, để uống say sưa, hút ma tuý, để vui chơi cho thoả thích. Cuối cùng một nữ sinh 18 tuổi trả lời rằng: Tôi sẽ dùng thời gian còn lại, để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng, để gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ.
Suy niệm 10: Sẵn sàng như đèn đầy dầu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Dụ ngôn một cô phù dâu tiếp tục dạy về sự tỉnh thức:
- Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (chàng rễ) đến.
- Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô đến.
- Tỉnh thức là lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).
- Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.
B.... nẩy mầm.
1. 5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.
2. Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.
3. Dầu mà tôi phải luôn chuẩn bị đầy đủ cho cây đèn linh hồn tôi là những gì?
4. Trong bài Tin Mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp thế mà lại không chia sẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không? Thưa nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bời vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh tôi lắm nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san xẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh.
Bởi vậy, mỗi người tự gánh tránh nhiệm về cuộc đời mình, tu thân tích đức thì mình nhờ, chuốc lấy tội lỗi thì mình chịu.
5. Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")
6. “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả:
20% được hỏi liền trả lời: “Chúng tôi sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích”.
Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ”.
Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó? Hay chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến gọi ta.
Lạy Chúa Giêsu, bao giờ Chúa đến gọi con, hôm nay hay ngày mai? mùa thu hay mùa xuân? Xin Chúa giúp con để con luôn tỉnh thức chờ ngày đó. (Hosanna)
Suy niệm 11: Tỉnh thức đón chờ Đức Kitô
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Dụ ngôn mười cô phù dâu dạy chúng ta về sự tỉnh thức:
1. Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (= chàng rể) đến.
Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô xuất hiện.
Tỉnh thức là lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).
Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.
5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà vẫn được coi là có thái dộ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị những thứ sẵn sàng cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Mà tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền được nghỉ ngơi.
Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, đó là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.
Nước Hy Lạp có vị vua tên là Philipphê thân sinh ra Alexandre…
Một hôm, sự chết đã tìm đến với ông. Ông không muốn đi với nó, nhưng nó không cho phép ông từ chối. Đến lúc đó ông nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên đời. Tới lúc này ông mới thấy chúng chỉ là hư không. Đời người thật ngắn ngủi. Ông cho gọi người nhà đến mà trăn trối rằng: “Sau khi tôi chết đi, hãy khoét hai cái lỗ ở hai bên quan tài. Rồi khi để tôi vào đó, hãy để cho hai bàn tay của tôi xỏ qua hai lỗ đó mà chìa ra ngoài, rồi đưa quan tài tôi đi vòng qua các đường phố để thức tỉnh và kêu gọi mọi người để họ biết rằng, tôi đã tay trắng mà đến trần thế này, rồi cũng trắng tay mà ra đi. Tất cả những vinh hoa phú quý, hoàng cung mỹ nữ, vàng bạc châu báu, danh thơm tiếng tốt, một chút nhỏ cũng không mang theo được”.
2. Bên cạnh 5 cô khờ dại thì dụ ngôn cho chúng ta thấy có 5 cô khôn. Khôn như thế nào thì dụ ngôn đã cho chúng ta thấy một phần. Đó là họ sống một cuộc sống với một tinh thần trách nhiệm cao, luôn làm tròn bổn phận được trao phó cho mình, sống với những giây phút hiện tại cho thật xứng đáng. Đó là cách sống khôn ngoan nhất. Trong cuốn “Chí khí người thanh niên” người ta đọc được những dòng chữ này:
“Dĩ vãng đã qua, tương lai chưa tới,
Hiện tại là lúc bạn đang làm chủ.
Phút hiện tại ấy thuộc về bạn, bạn hãy dùng cho hết.
Làm điều có đức sẽ được thưởng, làm điều ác phải chịu phạt.
Đó là tất cả những cái gì làm sống lại”.
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nghe nói xong, thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không.
Cũng như lần trước, thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài
Lời cầu nguyện vừa dứt, thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi! Sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn chu toàn bổn phận hằng ngày trong tất cả mọi việc Chúa gửi tới như một người đầy tớ trung thành. Amen.
31/08 Tỉnh thức và sẵn sàng
- Viết bởi Mt 24, 42-51
Tỉnh thức và sẵn sàng.
Thứ Năm tuần 21 thường niên.
"Các con hãy sẵn sàng".
Lời Chúa: Mt 24, 42-51
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.
"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy sẵn sàng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Châm ngôn của hướng đạo sinh là Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng.
Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo
có được gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.
Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm ngôn của mọi Kitô hữu,
từ những Kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21 và cho đến tận thế.
Hãy sẵn sàng vì từng Kitô hữu cũng như cả Kitô giáo
vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.
Ngài đã đến làm người cách đây hai ngàn năm,
Ngài đã cứu độ nhân loại bằng cuộc sống và cái chết trên thập giá,
Ngài vẫn đang ở với Giáo Hội nhờ Thánh Thần,
nhưng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang như Đấng phán xét cả thế giới.
Đó là điều chúng ta chờ mong, điều duy nhất Ngài chưa thực hiện.
Nếu chủ nhà biết canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ canh thức,
không để nó khoét vách nhà mình (c. 43).
Còn người Kitô hữu, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa trở lại,
nên họ phải canh thức luôn luôn, phải sẵn sàng liên lỉ.
Canh thức không phải là không ngủ.
Canh thức là sống đời sống Kitô hữu của mình cách trung tín, quảng đại.
Canh thức không làm chúng ta bị căng thẳng thường xuyên,
vì thấy mình như bị đe dọa bởi một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúa cũng không cố ý đến bất ngờ, để ta không kịp trở tay.
Đơn giản là chúng ta biết chắc chắn Ngài sẽ đến,
nên chúng ta luôn sẵn sàng.
Chuyện khi nào Ngài đến, không làm chúng ta lo âu và sợ hãi nữa,
vì cả cuộc sống của chúng ta đã là một chuẩn bị, một đợi chờ.
Canh thức cũng có nghĩa là làm tròn phận sự được Chúa trao.
Ông chủ đi vắng nên trao cho người đầy tớ quyền cấp phát lương thực.
Đó là quyền hành mà cũng là phận sự trên các gia nhân.
Nếu khi trở về, ông chủ thấy người đầy tớ ấy đang phục vụ nghiêm chỉnh,
thì phúc cho anh ấy, vì anh sẽ được coi sóc toàn bộ tài sản của ông (c. 47).
Nhưng nếu anh ấy nghĩ rằng ông chủ sẽ về muộn,
anh còn nhiều thời giờ để vui chơi hơn là chu toàn bổn phận.
Nếu anh ấy lạm dụng quyền lực trong tay để đánh đập các đầy tớ khác,
nếu anh ấy nhậu nhẹt với bọn say sưa, nên không còn tỉnh thức đủ,
thì ông chủ sẽ về bất ngờ, vào ngày và giờ sớm hơn anh nghĩ.
Lúc ấy khuôn mặt thật của anh sẽ lộ ra, khuôn mặt giả hình.
Và anh sẽ chịu chung số phận với những người đạo đức giả (c. 51).
Anh đầy tớ xấu xa nghĩ chủ sẽ về trễ, nào ngờ chủ về sớm.
Kitô giáo đã chờ Chúa quang lâm từ gần hai mươi thế kỷ.
Có người nản lòng, nên cho rằng chắc còn lâu lắm mới đến ngày đó.
Có người đồn thổi lung tung về ngày tận thế sắp đến tới nơi rồi.
Cả hai thái độ đều không đúng.
Điều quan trọng đối với người môn đệ là trung tín chu toàn công việc.
Tỉnh thức và sẵn sàng giúp ta luôn bình an, dù ngày mai tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Suy niệm 2: Trung tín và khôn ngoan
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su cho ta biết mỗi người đều là quản gia của Chúa. Mỗi người được Chúa trao cho một số tài sản và một số nhân sự để ta chăm sóc phục vụ. Theo Chúa, người quản gia tỉnh thức phải là người trung tín và khôn ngoan.
Trung tín là biết rằng mọi sự ta có là của Chúa, nên không được dùng theo ý riêng. Phải dùng mọi của cải Chúa ban để phục vụ Chúa và phục vụ anh em. Người đầy tớ xấu xa lạm dụng quyền thế, thay vì phục vụ thì lại áp bức hành hạ anh em. Người này cũng lạm dụng của cải của chủ, thay vì dùng cho lợi ích chung thì lại vun quén cho bản thân trong việc chè chén say sưa.
Khôn ngoan cho bản thân là biết lo xa, phòng ngừa, không để bị bất ngờ bằng cách tỉnh thức lúc nào cũng sẵn sàng, lúc nào cũng chu toàn nhiệm vụ, dù chủ có về bất ngờ cũng đang nghiêm chỉnh thi hành nhiệm vụ. Khôn ngoan trong nhiệm vụ với anh em là biết đúng giờ đúng lúc phân phát lúa thóc. Phục vụ anh em đúng người, đúng việc, đúng lúc. Đây là điều khó đòi hỏi phải rất tỉnh thức đối với từng người, từng việc và thời cuộc. Người không khôn ngoan tưởng thời giờ còn dài nên sinh ra ăn chơi hưởng thụ và sẽ bất ngờ bị chủ trở về trừng phạt.
Thánh Phao-lô tỏ ra là một người quản gia trung tín và khôn ngoan. Nhận biết mình được tuyển chọn để rao giảng Tin Mừng, ngài đã trung tín với nhiệm vụ cho đến cùng. Được Chúa trao cho các giáo đoàn, ngài trung tín với họ. Khi ở gần, hết lòng rao giảng, dậy dỗ, khuyên bảo, sửa trị. Khi đi xa thì viết thư thăm hỏi và tiếp tục giáo huấn. Và mong ước được gặp gỡ để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ: “Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa cho được thấy mặt anh em, và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em”. Trung tín nên luôn gắn bó với giáo đoàn đến nỗi giáo đoàn trở thành lẽ sống, thành niềm an ủi của ngài: “vì anh em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống khổ gian truân chúng tôi phải chịu” (năm lẻ).
Khôn ngoan nên ngài hiểu biết rõ mặt mạnh mặt yếu của từng giáo đoàn mà uốn nắn họ. Sửa chữa những lầm lỗi, nhưng khen ngợi và khích lệ những ưu điểm: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, vì ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Giêsu Ki-tô”. Khôn ngoan nên ngài luôn hướng lòng các giáo đoàn về ngày cánh chung: “Thiên Chúa sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa” (năm chẵn).
Tôi có là người quản gia trung tín và khôn ngoan của Chúa không?
Suy niệm 3: Tỉnh thức chờ Chúa
Các nhà chú giải thường đề nghị đọc và Suy niệm những dụ ngôn của Chúa Giêsu về việc Chúa trở lại trong vinh quang trên hai bình diện: Kitô học và Giáo Hội học. Trên bình diện Kitô học nhấn mạnh đến việc Chúa trở lại vào cuối lịch sử như một quan tòa xét xử mọi người. Trên bình diện Giáo Hội học nhắc đến thời giờ của Giáo Hội trong thời gian, từ khi Chúa lên trời cho đến lúc Ngài trở lại; trong thời gian này, mỗi Kitô hữu phải tích cực chờ đợi và chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.
Thật không dễ dàng mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Ðó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo: "Thưa anh em, về ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào".
Sống chờ đợi Chúa lại đến không phải bằng thái độ thụ động, nhưng bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô mô tả thái độ đó như sau: "Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ".
Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Suy niệm 4: Người quản lý trung tín
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: Phần thứ nhất là lệnh truyền của Chúa là hãy sống tỉnh thức; và phần thứ hai là câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nói về người quản lý trung tín, để chỉ cho chúng ta phải biết sống tỉnh thức như thế nào.
Sống tỉnh thức, chờ mong Chúa đến không có nghĩa là án binh bất động, không làm gì cả, chỉ ngồi yên mà chờ. Ðây là một thái độ tỉnh thức thụ động không được Chúa Giêsu khuyến khích qua dụ ngôn người quản lý trung tín. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một thái độ tỉnh thức tích cực, luôn sinh động, thực hiện công việc Chúa muốn chúng ta thực hiện với hết khả năng của mình. Chúng ta biết rằng tất cả những gì Chúa ban cho ta là bảo chứng cho sự tốt lành và tình thương của Ngài, đồng thời cũng là lời nhắc nhở chúng ta nhớ đến Chúa và gắn bó với Ngài. Ðó cũng là phương tiện để chúng ta tự hoàn thiện bản thân và đạt được cùng đích cuối cùng là Nước Trời. Hơn nữa, những gì Chúa ban cho chúng ta không chỉ nhằm sinh ích cho chúng ta, mà chúng ta còn phải chia sẻ cho anh chị em chung quanh. Những gì Chúa ban cho chúng ta đều do lòng quảng đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta một cách nhưng không, và đến lượt chúng ta, chúng ta có bổn phận phải sẵn lòng chia sẻ những điều tốt lành ấy cho anh chị em chung quanh một cách quảng đại.
Vai trò của chúng ta như Chúa muốn thì chúng ta là những người quản lý trung tín và tốt lành, là những người quản lý ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa trong thời gian chúng ta chờ đợi Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta chia sẻ cho anh chị em, chúng ta phải luôn ý thức rằng chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm trong vai trò của một người quản lý và phân phát, rồi hãy để cho Chúa được tỏ lộ. Tất cả những gì chúng ta làm phải được định hướng và làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Xác định mọi sự là của Chúa, còn mình chỉ là người quản lý và phải làm người quản lý trung tín và khôn ngoan thì sẽ bảo quản những gì Chúa trao cũng như coi sóc gia nhân và cấp phát lương thực cho họ đúng giờ, đúng lúc. Hơn nữa, khi ý thức mình là người quản lý thì cũng sẽ cho đi một cách khiêm nhường và vị tha như Chúa đòi hỏi, chúng ta sẽ không thể có thái độ kẻ cả hay coi thường người khác.
Khi tiếp xúc với những người mà họ chưa biết Chúa, chưa biết Tin Mừng Chúa, chưa nhận ra ân sủng và tình thương của Chúa, chúng ta không được hành xử như người quản lý xấu xa trong dụ ngôn trên là đánh đập các đồng bạn và chè chén với những bọn say sưa. Mỗi chúng ta hãy luyện cho mình có được thái độ sống, sống cho tròn bổn phận Chúa đã trao cho chúng ta như một người quản lý tốt lành và khôn ngoan, luôn thức tỉnh, sẵn sàng bảo quản ân huệ Chúa ban để không hao hụt mà còn biết sinh lợi và chia sẻ với anh chị em. Thái độ đó sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn hơn, dám đi ra khỏi chính mình, luôn hăng say và nhiệt thành đến với anh chị em ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, để gặp gỡ, chia sẻ tình thương, ân sủng và tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta. Nhờ đó chúng ta và mọi anh chị em sẽ được lãnh phần thưởng muôn đời mà Chúa đã hứa cho những ai trung thành.
Lạy Chúa,
Mọi sự con có là của Chúa, xin ban cho chúng con luôn sống đúng vai trò người quản lý trung tín của Chúa, để qua chúng con, mọi người sẽ nhận ra lòng quảng đại và yêu thương cũng như sự tốt lành của Ngài.
Suy niệm 5: Khi nào chủ về?
Đức Giêsu nói: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt. 24, 43-44)
Người ta đặt tên cho những dụ ngôn này là tỉnh thức: hôm nay bàn về người quản lý, mai là mười cô trinh nữ, thứ bảy đến những nén bạc. Người ta nói toàn bộ chương này là tối tăm nhất của sách Tin Mừng, nhưng may thay chương này không phải là chương quan trọng nhất.
Phải, khi nào?
Trước hết câu dụ ngôn nói: “Anh không biết bao giờ chủ về”. Vì thế, cần phải thỉnh thức, phải canh gác luôn luôn. Đức Giêsu nói thêm: “Con Người sẽ đến vào giờ người ta không ngờ”. Vậy phải canh thức thật đặc biệt, nếu người ta không muốn bỏ lỡ giờ này. Sự canh gác này không chỉ có nghĩa đến ngày tận thế, còn hiểu là giờ chết mỗi người chúng ta. Không ai biết ngày giờ nào mình chết, không ai có thể tính toán, thấy trước lúc nào mình chết, chuẩn bị chết cũng là chuẩn bị ngày giáng lâm của Chúa.
Nếu ta không ngừng chuẩn bị đón Chúa đến, ta sống với thái độ Công giáo chân thành để đón rước Chúa.
Người đầy tớ trung tín
Những câu dụ ngôn này rõ ràng liên quan trước nhất đến những người có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội. Phải truyền lại cho tín hữu những của cải bởi trời mà họ có bổn phận phải phân phát. Sự trung tín này và để xứng đáng với sự tin cậy chứng tỏ họ sẵn sàng luôn luôn với chủ nước trời đang trông đợi họ. Sự tỉnh thức của họ chứng tỏ lòng trung tín hăng say phục vụ Ngài. Sự phục vụ này, quả thật không để cho họ có thể lo nghĩ đến thân phận mình; Hằng ngày, họ được hướng dẫn tới mức chỉ chuyên cần thi hành trách nhiệm họ đã nhận.
Ngược lại, thật kinh khủng cho kẻ phí phạm thời giờ, thật kinh khủng cho kẻ bỏ bê nhiệm vụ đã được trao phó, thật kinh khủng cho kẻ sống bê bối, buông thả và lạm dụng những người đồng nghiệp. Nó bị đồng hóa với những kẻ giả hình và sẽ bị trừng phạt dành sẵn cho nó. Một đời sống đào sâu cái hố giữa lời nói và việc làm, giữa dáng vẻ bên ngoài với thực thể con người đều bị xét xử.
JM
Suy niệm 6: Tỉnh thức và sẵn sàng
Trong xã hội hôm nay, tình trạng trộm cắp diễn ra nhan nhản. Kẻ trộm lấy cắp ban ngày, ban đêm, buổi sáng, buổi tối. Chúng lấy của người ngoài, người giàu, người nghèo và đôi khi nó lấy luôn của người thân.
Như vậy, tình trạng trộm cắp diễn ra thường xuyên, nhanh nhạy và nhiều thủ đoạn, nên khó mà lường trước được!
Hôm nay, Đức Giêsu ví giờ Chúa gọi mỗi người chúng ta chẳng khác gì kẻ trộm. Thiên Chúa không giống như kẻ trộm, nhưng Ngài đến gõ cửa và mời gọi chúng ta ra khỏi thế giới này rất bất ngờ, nhanh nhạy và sắc bén như kẻ trộm. Vì thế, phải tỉnh thức.
Tỉnh thức là người luôn sống trong ân sủng của Chúa. Luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến bất cứ lúc nào...;
Tỉnh thức là luôn biết hồi tâm để nhận ra cái sai cần sửa, để ngày càng đẹp lòng Chúa hơn;
Tỉnh thức là luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống;
Tỉnh thức là người luôn cầm đèn sáng trên tay với đầy đủ dầu, để khi Chúa đến, họ sẵn sàng ra đi đón Ngài.
Ngược lại với người tỉnh thức là những kẻ ngủ mê.
Vì ngủ mê nên nghĩ đời mình vẫn còn dài, chưa vội dừng cuộc chơi, phí đời trai trẻ;
Ngủ mê là những người không nhận ra tội của mình mà sửa sai;
Ngủ mê là những người luôn kết án kẻ khác, trong khi bản thân mình lại dung túng cho những sự xấu xa lên ngôi.
Và khi giờ đã đến, “Ông Chủ” hiện diện, người tỉnh thức thì hân hoan ra đón, còn kẻ lơ là thì nghĩ chủ chưa về, nên: “Đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa”. Tuy nhiên, bất chợt, chủ trở về vào đúng: “... ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết”. Nên ông chủ sẽ cho nó “...chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức với những nhân đức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến với chúng con trong niềm tin và hy vọng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Sẵn sàng canh thức chờ đón Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa đến với con người vào lúc hết sức bất ngờ, vì thế, chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng luôn và canh thức chờ đón Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng Chúa tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã thương báo trước cho con biết rằng: Chúa sẽ đến bất ngờ. Cuộc đời của con sẽ có ngày kết thúc. Ngày ấy là lúc Chúa đến đón con về trời. Chúa muốn con phải chuẩn bị cho biến cố quan trọng ấy từ bây giờ và suốt cả cuộc đời con.
Lạy Chúa, xin giúp con biết canh thức để đón Chúa đang đến với con mỗi ngày. Chúa đến với con qua Lời Chúa và qua Thánh Thể. Chúa đến với con trong công việc bổn phận. Chúa đến với con khi con đọc kinh cầu nguyện và cả khi vui chơi giải trí. Chúa đến với con khi con cảm thấy hân hoan và cả những khi đau buồn. Và Chúa cũng đến với con nơi những người mà con gặp gỡ tiếp xúc, cho dù người đó không có thiện cảm với con. Xin Chúa mở mắt tâm hồn để con dễ dàng nhận ra dấu chỉ Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Xin Chúa giúp con luôn biết sẵn sàng chờ đón Chúa với những việc làm cụ thể: gặp gỡ Chúa một cách riêng tư và thân mật trong những giờ cầu nguyện, hoặc làm những công việc thường ngày một cách chu đáo như đang thực hiện cho chính Chúa, hoặc tìm đến những phương tiện giải trí lành mạnh giúp cho tâm hồn vươn cao hơn, và nhất là luôn sống bác ái với tha nhân.
Lạy Chúa, mỗi ngày sống là mỗi lần con bắt đầu lại cuộc đời. Con ước mong đời sống của con mỗi ngày sẽ qua đi trong bình an, để con tiếp tục hành trình dấn thân phục vụ, như một món quà sẵn sàng kính dâng Chúa mỗi ngày. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy sẵn sàng”.
Suy niệm 8: Ngày nào cũng là ngày trông đợi và sẵn sàng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Tôma More có người bạn sang trọng nhưng đạo đức lơ là. Ngài khuyên ông ta ăn năn trở về với Chúa nhưng ông cứ nói: “Khi sắp chết, tôi sẽ nói: “Lạy Chúa, xin tha cho con và tôi sẽ được tha thứ”.
Ngày kia, khi hai người đang cưỡi hai con ngựa đi ngang qua cầu Luân Đôn, thánh Tôma More thấy con ngựa của ông bạn hất ông ta vào thành cầu, làm cho đầu ông bị dập, lúc đó, thánh Tôma More nghe ông bạn thốt ra lời: “Đồ quỷ!”, và chết tươi ngay.
Cái chết thường xảy đến rất thình lình. Ta không kịp sửa soạn gì đâu. Và nếu ai đã được sửa soạn, thì đó là một ơn Chúa ban rất quý!
Suy niệm
Ngày của Thiên Chúa đến xét xử rất bất ngờ. Cho nên để được cứu cần phải sống trong tinh thần chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng như Ngài dạy: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24:42). Ngày Thiên Chúa trở lại bất ngờ như kẻ trộm “viếng thăm”, vì thế hãy tỉnh thức như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:44).
Tỉnh thức là dấn thân như Chúa Giêsu gợi ý để chu toàn bổn phận như người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24:45-51; Lc 12,42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao thì được chủ cất nhắc. Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt 24:49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.
Ngày Thiên Chúa đến để phán xét những việc làm của con người trên trần gian như thánh Phaolô khẳng định “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). Tỉnh thức để được “Đấng sẽ đến” bảo vệ và dẫn dắt trên đường chờ đợi như thánh Grégoire le Grand nói về một ngôi vị đồng hành và thức tỉnh với những người thức tỉnh: “Đấng ấy thức để trông nom ai đang mang con mắt luôn hướng về sự đến của ánh sáng thật; Đấng ấy thức tỉnh người trong những công trình của đời mình luôn được gợi hứng với đức tin; Đấng ấy thức tỉnh và để ý cho người không ngừng xa lánh những bóng đêm của u mê, và của sự hờ hững (Homélie XIII sur les péricopes évangélique, 3). Thức tỉnh như lời kêu gọi tỉnh thức của Phaolô: “Hãy từ bỏ công việc của đêm tối và mặc lấy mã giáp của sự sáng” (Rm 13,12).
Thánh Grégoire le Grand đã gợi ý cho chúng ta thức tỉnh, bằng mọi công trình lớn nhỏ trong đời được xây dựng trên nền tảng đức tin. Vì thế tôi luôn sống trách nhiệm với tất cả tôi có, những gì tôi là, tôi làm trong hôm nay và cả ngày mai: Ngày nào cũng là ngày trông đợi của tôi, ngày nào cũng là ngày sẵn sàng, để dù Chúa đến bất ngờ như kẻ trộm, tâm hồn tôi thức tỉnh.
Ý lực sống
“Người tín hữu hiện tại không biết và sẽ không biết ngày giờ phán xét chung, cho nên người Kitô hữu phải trung thành mỗi ngày; họ luôn kính sợ bởi vì luôn hy vọng” (Văn sĩ Tertullianô).
Suy niệm 9: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến việc Chúa sẽ đến bất thình lình, mời gọi mọi người biết sống tỉnh thức và sẵn sàng, để khi cái chết ập đến, chúng ta sẵn sàng nghênh đón Chúa để đi vào đời sống vĩnh cửu. Trong khi chờ đợi, Chúa muốn mỗi người sống trung tín và trách nhiệm đối với tha nhân. Thiên Chúa được ví như ông chủ đi dự tiệc cưới sẽ trở về bất cứ lúc nào, vì thế các đầy tớ không được lơ là việc bổn phận, luôn tỉnh thức sẵn sàng đợi chờ để mở cửa cho ông chủ.
Dụ ngôn kẻ trộm
Cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến “viếng” nhà mình, nên phải luôn canh chừng sẵn sàng để khỏi mất mát, thì việc Chúa đến với mỗi người trong giờ chết cũng bất ngờ như vậy, nên phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để khi Chúa đến bất cứ lúc nào cách nào cũng không sợ gì.
Dụ ngôn ông chủ đi ăn cưới về
Ông chủ đi ăn cưới về bất ngờ. Nếu ông trở về bất cứ lúc nào mà gặp thấy đầy tớ đang hăng say tận tâm làm việc, đang tín trung với phận vụ được trao, thì sẽ được uỷ thác cho những trách nhiệm lớn lao hơn, nghĩa là được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa. Ngược lại, nếu ông gặp thấy đầy tớ bê trễ công việc, nhậu nhẹt say sưa, thì sẽ loại bỏ, nghĩa là bị loại ra khỏi hạnh phúc đời đời.
Những tai hoạ xảy ra liên tiếp gần đây khiến người ta phải bàng hoàng bởi sự tàn khốc và bất ngờ. Trận lũ lụt và sạt lở đất vào ngày 8/7/2020 tại miền tây Nhật Bản làm hơn 200 người chết, hay sự cố vỡ đập thuỷ điện Attapeu ở Lào vào ngày 23/7/2018, với hơn 5 tỷ mét khối nước nhấn chìm hạ lưu Sanamsay làm hàng trăm người chết và mất tích, hàng ngàn người lâm cảnh màn trời chiếu đất.
Những biến cố này khiến chúng ta liên tưởng đến câu chuyện nạn lụt đại hồng thuỷ trong Kinh thánh. Đó là lời nhắc nhở về ngày Chúa đến lúc bất ngờ, và mỗi người phải luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để chờ đón như người đầy tớ thức tỉnh làm việc và đợi chủ về. Tỉnh thức là luôn sống trong ân sủng, tránh xa những đam mê tội lỗi, luôn tìm kiếm và thực thi ý Chúa trên cuộc đời mình (5 phút Lời Chúa).
Với một số người Việt Nam, ngày chết là ngày trở về với tổ tiên, ông bà. Với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngày chết là ngày con người trở về cát bụi.
Truyền thống Giáo hội dạy, ngày chết là ngày Chúa đến viếng thăm ta. Vì thế, chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi để nghênh đón Người. Sự chờ đợi của chúng ta không phải là sự chờ đợi trong buồn sầu và lo lắng, nhưng trong tư thế sẵn sàng; nói đúng hơn, đó là sự chờ đợi trong hy vọng và niềm vui, trong tâm tình yêu mến, tinh thần phục vụ hăng say.
Đây cũng chính là tâm tình và thái độ tỉnh thức chờ đợi mà Đức Giêsu nói đến trong dụ ngôn về người quản lý trung tín và khôn ngoan, luôn “cấp phát lương thực cho gia nhân đúng giờ đúng lúc”. Như vậy, tỉnh thức chờ đợi Chúa là chu toàn bổn phận, là biết mở mắt tâm hồn để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Vai trò của chúng ta như Chúa muốn thì chúng ta là những người quản lý trung tín và tốt lành, là những người quản lý ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa trong thời gian chúng ta chờ đợi Chúa tỏ bày sự vinh quang của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta chia sẻ cho anh chị em, chúng ta phải luôn ý thức rằng: chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm trong vai trò của một người quản lý và phân phát, rồi hãy để cho Chúa được tỏ lộ. Tất cả những gì chúng ta làm phải được định hướng và làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang (R.Veritas).
Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình ở trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người đem so sánh với thời gian thì thật là tạm bợ và mong manh. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn...Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết được khi nào mình chết. Ngày giờ chết là bất ngờ như kinh nghiệm vẫn chứng minh và Kinh thánh đã nói tới từ khi có con người.
Truyện: Đừng ảo tưởng mình còn sống lâu
Có một câu chuyện ngụ ngôn về ba con quỷ học việc, chúng đến trần gian để tập sự. Chúng trình bày với Satan là tướng quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người.
Tên quỷ thứ nhất nói: “Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa”. Satan nói: “Mày sẽ thất bại, vì càng ngày người ta càng tin có Thiên Chúa”.
Tên quỷ thứ hai nói: “Tôi sẽ bảo với họ là không có địa ngục”. Satan bảo: “Mày sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, vì loài người vẫn biết có một địa ngục dành cho tội nhân”.
Tên quỷ thứ ba nói: “Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì, còn nhiều thời giờ, cứ vui chơi cho thoải mái đi”. Satan nói: “Hay, hay lắm, mày sẽ làm hại được vô số người bằng cách đó”.
Đúng vậy, ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng mình còn nhiều thời giờ.
Suy niệm 10: Thời cánh chung
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
* Đặt trong sơ đồ chung của Mt:
Hai chương 24-25 (Từ hôm nay đến Thứ Bảy) là bài giảng về thời cánh chung. Ý chính của bài giảng này là ngày tận thế và việc Đức Kitô quang lâm. Ý tưởng đi liền với ý tưởng trên là những biến cố vô cùng hệ trọng này buộc người ta phải chọn lựa dứt khoát hoặc đón nhận hoặc từ chối Đức Kitô. Nhưng không phải chờ tới lúc đó mới chọn, mà phải chọn ngay từ bây giờ. Do đó những biến cố ấy và sự chọn lựa ấy có ảnh hưởng tới cách sống hằng ngày trong hiện tại.
A. Hạt giống...
Hai dụ ngôn về tên trộm và người quản gia:
- Dụ ngôn tên trộm: vì không ai biết giờ nào trộm sẽ đến, do đó lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác.
- Dụ ngôn quản gia: người quản gia trung tín làm việc theo tinh thần trách nhiệm, lúc nào cũng chu toàn những việc được giao, chứ không phải lúc có mặt chủ thì làm tốt còn khi vắng mặt chủ thì bê tha.
B.... nẩy mầm.
1. Áp dụng bài học của dụ ngôn tên trộm: ta biết luôn đề cao cảnh giác để bảo vệ tài sản vật chất, sao không làm như thế đối với tài sản thiêng liêng vốn quý giá hơn nhiều.
2. Ta cũng có thể áp dụng bài học của dụ ngôn người quản gia trong hai bình diện:
- Đối với bề trên: cách tôi làm bổn phận khi có mặt và khi không có mặt bề trên có khác nhau không?
- Đối với Chúa: phải chăng khi gặp nguy hiểm, khi đau yếu, khi đụng chuyện khó khăn… tôi mới cư xử đàng hoàng với Chúa?
3. Trách nhiệm: “Con người là tạo vật duy nhất gánh lấy trách nhiệm đối với chính bản thân, đối với tha nhân, đối với thiên nhiên và trước mặt Thiên Chúa” (Chờ đợi Chúa)
4. Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi, vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.
- Cái gì? Chồng bà biết rõ việc đặt đường ống dẫn khí có vấn đề?
- Đúng vậy.
- Thế chồng bà có báo cho ai biết việc đó không?
- Không.
- Vậy chồng bà phải chịu trách nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm. (Góp nhặt)
5. Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")
Suy niệm 11: Quyền bính thiết yếu là để phục vụ
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Những lời Chúa nói hôm nay là một bài học quí giá cho những ai đang nắm quyền bính trong tay, cũng như cho mọi Kitô-hữu vốn là những người được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Giêsu. Dụ ngôn về kẻ trộm và người đầy tớ được liên kết với nhau, để nói lên ý nghĩa của quyền bính: quyền bính thiết yếu là để phục vụ.
Quyền bính là để phục vụ, vì mọi quyền bính đều bởi Chúa mà ra. Con người dù nắm địa vị nào trong xã hội cũng chỉ là người quản lý mà thôi. Từ sự sống, tài năng, của cải và tất cả những gì con người đắc thủ và làm ra, đều thuộc về Chúa. Hình ảnh kẻ trộm đến bất tử để lấy đi tất cả nói lên chân lý ấy. Cái chết là một khẳng định rõ ràng nhất về tư cách quản lý của con người. Không gì ngu xuẩn cho bằng tưởng mình có thể chiếm hữu suốt đời, và mang theo mình những tài sản chóng qua ở đời này.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta điều chỉnh lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta. Đâu là suy nghĩ, thái độ của chúng ta đối với của cải, quyền bính và danh vọng? Đâu là niềm vui đích thực trong cuộc sống mỗi ngày.
Vua Henry thứ 4 của nước Pháp âm thầm đi dạo trong viện bảo tàng Louvre. Nhà vua bắt chuyện với một thanh niên, trông bộ điệu của anh ta giống như một người giúp việc cho một vương công quyền thế nào đó. Nhà vua hỏi:
- Anh đang giúp việc cho ai thế?
Không biết người hỏi mình là vua, nên người thanh niên đã ngẩng mặt kiêu hãnh đáp:
- Tôi sinh ra không thể phục vụ cho bất cứ người nào, nhưng cho chính bản thân tôi.
Nhà vua tiếp lời:
- Nếu vậy, chắc chắn anh đang phục vụ một người ngu xuẩn.
Bất bình, người thanh niên toan kiếm chuyện gây sự, nhưng anh đã nhận ra người đối diện mình chính là vua Henry. Kinh ngạc, sửng sờ khiến anh đứng trơ như bức tượng. Không để người thanh niên phản ứng, nhà vua vỗ vai anh vừa quay gót vừa nói:
- Nếu anh đảo ngược câu nói đó lại sẽ tốt hơn: “Tôi sinh ra không để phục vụ cho chính bản thân tôi, nhưng để cho bất cứ người nào”.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực qua cuộc sống phục vụ, yêu thương và hy sinh mỗi ngày.
30/08 Mồ mả tô vôi
- Viết bởi Mt 23, 27-32
Mồ mả tô vôi.
Thứ Tư tuần 21 thường niên.
"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".
Lời Chúa: Mt 23, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.
Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Có vẻ công chính
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng,
để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa.
Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại,
vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.
Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16).
Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên tránh,
vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27),
tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.
Đức Giêsu đã dám ví các kinh sư và người Pharisêu với ngôi mộ,
vì bên ngoài họ có vẻ công chính trước mặt người ta,
nhưng bên trong thì đầy đạo đức giả và gian ác (c. 28).
Có sự tương phản giữa cái có vẻ bên ngoài và cái thực tế bên trong.
Bên ngoài không diễn tả bên trong, nhưng làm hiểu sai cái bên trong.
Tất cả nỗ lực của chúng ta là làm cho bên ngoài và bên trong nên một,
để ai thấy bên ngoài của ta đều biết được điều sâu kín bên trong.
Đức Giêsu còn đề cập đến một sự giả hình khác (cc. 29-32),
đó là việc các người Pharisêu xây mồ, tô mả cho các ngôn sứ thời xưa.
Họ khẳng định mình không can dự và tội giết các ngôn sứ của cha ông họ.
Tiếc thay, họ lại can dự vào tội giết các ngôn sứ do Đức Giêsu sai đến,
qua đó họ cho thấy mình đúng là người thuộc dòng dõi của cha ông,
Khi đọc toàn bộ chương 23 của Tin Mừng Mátthêu
về những lời phê phán của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo tôn giáo,
chúng ta có thể bị sốc, vì chúng quá nặng nề.
Liệu Đức Giêsu hiền lành có nói nguyên văn những lời như thế không?
Điều cần biết là không phải người Pharisêu nào cũng giả hình.
Có nhiều người thực sự thánh thiện đạo đức,
và Đức Giêsu đã có tương quan tốt với một số người trong nhóm.
nhưng trong nhiều dịp khác nhau, và Mátthêu gom lại thành một chương.
Cuối cùng không nên quên là hầu chắc giọng điệu gay gắt của chương này,
Vào thời Mátthêu viết Tin Mừng này, có những kitô hữu bị bách hại,
bị đánh đòn, bị giết và đóng đinh bởi người Do-thái (Mt 23, 34).
Bởi đó những lời của Đức Giêsu nhắm vào người Pharisêu ngày xưa,
lại trở thành lời nhắc nhở chúng ta hôm nay,
những người sống trong Hội Thánh và những người lãnh đạo.
Thói giả hình về đạo đức thời nào và ở đâu cũng có.
Nó tạo ra một bầu khí dối trá trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Hội Thánh vẫn muốn cho đọc bài Tin Mừng gây sốc này
vì các kitô hữu vẫn bị cám dỗ giữ đạo bên ngoài mà không sống đạo.
Thật ra chúng ta chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho con người hôm nay
khi những khoảng cách giữa lời nói và hành động được xóa bỏ,
khi người ta thấy sự thống nhất trong lối sống của chúng ta,
khi mọi mặt nạ được cởi ra, và sự thật được tỏ hiện.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Suy niệm 2: Mồ mả tô vôi
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong ta luôn luôn có những góc tối khuất nẻo, khó có ai nhìn thấy. Nói và làm không đi đôi với nhau. Đó là những yếu đuối của con người muôn thưở. Nhưng nếu thỏa hiệp và tệ hơn nữa chủ trương để những tương phản đó trở thành một thái độ sống thì thật tồi tệ. Người ta trở thành giả hình và lừa dối. Đó là trường hợp những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su gọi họ là những mồ mả tô vôi.
Là mồ mả tô vôi vì phần bên ngoài quá đẹp đẽ. Người Pha-ri-sêu am hiểu Lề Luật, được tôn làm bậc thầy dậy dỗ Lề Luật cho mọi người. Ngoài ra họ còn nêu gương về đời sống đạo đức, ăn chay và cầu nguyện rất nhiều. Nhưng bên trong tâm hồn lại là một tương phản đáng ghê tởm: đầy sự gian ác và đạo đức giả.
Là mồ mả tô vôi vì họ xây mộ các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Một hành vi che đậy tội lỗi dưới lớp vỏ bọc nhân nghĩa. Ác nhân được tiếng là thiện nhân. Tội nhân mặc lấy áo thánh nhân. Vì hôm nay họ vẫn tiếp tục giết Chúa Giê-su, một tiên tri trổi vượt trên mọi tiên tri. Tội ác của họ còn nặng nề hơn tội của cha ông họ gấp bội.
Theo lời dạy của Chúa, thánh Phao-lô không chấp nhận lối sống hai mặt như mồ mả tô vôi. Nên thánh nhân đã phê phán những người mang danh Ki-tô hữu nhưng sống vô kỷ luật, không xứng với danh hiệu. Ngài ra chỉ thị rõ ràng: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn”. Chính bản thân ngài luôn sống một cuộc sống chân thực, không giả dối, hình thức bề ngoài. Không ngồi trên tòa, “không ăn bám ai, trái lại đêm ngày làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người khác”. Dù ngài “có quyền hưởng sư giúp đỡ” và được trọng vọng (năm chẵn).
Sống chân thực nên ngài sống “thánh thiện, công minh, không chê trách được”. Không xa cách dân chúng nhưng “cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con”. Không nói lời của mình mà chỉ “nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa”. Không giữ tín hữu lại cho mình, nhưng qui hướng mọi tâm hồn về với Chúa: “chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa”. Không tìm vinh quang cho mình, nhưng tìm vinh quang cho Chúa và hướng mọi người đáp lại lời của “Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (năm lẻ).
Đời sống của tôi hôm nay thế nào? Có trung thực trước mặt Chúa và anh em không? Tôi vẫn còn điều gì phải che giấu? Hãy sống trung thực. Vì ta chẳng thể lừa dối Chúa.
Suy niệm 3: Kết án tội giả hình
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án nữa của Chúa Giêsu chống lại các Luật sĩ và Biệt phái.
Với lời kết án thứ sáu, Chúa Giêsu ví các Luật sĩ và Biệt phái như những mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Tại Palestina, người dân có thói quen quét vôi trắng các mồ mả, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua, để người ta có thể nhận ra và tránh xa khỏi bị nhơ uế ngăn trở cho việc phụng tự. Vẻ đẹp bên ngoài của các mồ mả che dấu thực tại ghê tởm bên trong. Cũng vậy, các Luật sĩ và Biệt phái bên ngoài xem ra là những người công chính, nhưng bên trong thì đầy sự giả hình và tội ác; việc họ giữ luật cách nghiêm nhặt chỉ là tấm màn che đậy một đời sống tương phản với những điểm cốt yếu của Lề Luật Thiên Chúa, đó là sự công bình, lòng bác ái và trung tín.
Trong lời kết án thứ bẩy, Chúa Giêsu tố cáo sự giả hình của các Luật sĩ và Biệt phái: họ xây mồ cho các tiên tri và sửa sang phần mộ những kẻ mà cha ông họ đã sát hại; họ than trách tội ác của cha ông họ trong quá khứ và tự phụ rằng nếu sống vào thời tổ tiên, họ sẽ không hành động như thế; nhưng họ quên rằng họ là con cháu của những kẻ đã sát hại các tiên tri, và giờ đây họ đang đi vào con đường đó bằng việc mưu hại Ngài.
Chúa Giêsu cũng chờ đợi nơi mỗi người chúng ta những thành quả tốt đẹp của việc cải hóa tâm hồn, nếu không, chúng ta cũng sẽ phải lãnh nhận số phận như các Luật sĩ và Biệt phái: cây khô sẽ bị chặt đi và bị ném vào lửa đời đời. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình, khỏi tính ích kỷ và tự mãn. Xin cho chúng ta khiêm tốn nhận mình tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa.
Suy niệm 4: Xét lại đời sống mình
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời trách của Chúa Giêsu gọi các văn sĩ và những người biệt phái Pharisiêu sống giả hình như những mả tô vôi thật là rõ ràng và thức tỉnh chúng ta hãy xét lại đời sống của mình. Tục lệ của dân Do Thái Palestine thời Chúa Giêsu là sơn mồ mả bằng màu vôi trắng để cho người khác dù ở xa cũng có thể nhận ra dễ dàng và dừng lại đàng xa để khỏi bị nhiễm ô uế.
Hình ảnh cái mả tô vôi trắng làm cho mỗi người chúng ta hiểu sâu xa hơn về sự giả hình. Giả hình là một thái độ gán cho mình điều tốt mà thật ra mình không có hay không làm. Bên ngoài chúng ta chứng tỏ mình là người tuân giữ luật Chúa nhưng bên trong tâm hồn thì lại tích chứa những điều xấu xa không như là những mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi.
Nhìn về kinh nghiệm sống của mình, chúng ta có thể cảm nghiệm được tầm mức của những lời kết án của Chúa không phải như là chuyện đã qua của thời quá khứ nhưng có liên quan đến mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta có che giấu những tội lỗi tật xấu của mình bằng những tấm kịch cho qua lúc. Chỉ có phương thế duy nhất để tránh những lời kết án trên của Chúa là sự thật lòng ăn năn trở lại, là khiêm tốn và can đảm bỏ đi những mặt nạ mà chúng ta quen mang từ trước đến nay. Chúng ta đừng trở thành những người chỉ có danh hiệu là Kitô mà kỳ thực là những con người xa lìa Chúa. Chúng ta đừng sống theo ảo tưởng của những lời khen tặng của kẻ khác mà tưởng mình là kẻ chi chi, nhưng hãy ý thức rõ về thân phận tội lỗi của mình và khiêm tốn xin Chúa thứ tha.
Lạy Cha,
Chúng con chúc tụng Cha, Ðấng ngự trên trời, vì đã giải thoát chúng con khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết nhờ qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Con Cha. Xin Cha hãy đổ tràn ân sủng tình yêu của Cha trong tâm hồn chúng con ngõ hầu chúng con biết đáp lại những ơn soi sáng của Cha một cách chân thành.
Lạy Cha, xin giải thoát chúng con khỏi sự giả hình.
Suy niệm 5: Mồ mả quét vôi
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt. 23, 27)
Một lần nữa, Đức Giêsu tiếp tục nhấn mạnh cái hố sâu giữa thực chất của hữu thể và cái ảo ảnh. Tư tưởng này được soi sáng bằng một hình ảnh khá kinh khủng.
Hằng năm, trước mấy ngày lễ Vượt qua, người Do-thái quét vôi những mồ mả của họ. Chính là để thấy rất rõ và tránh động đến mồ mả sợ bị dơ, lỗi phạm đến luật trong sạch. Quét vôi trắng phản chiếu ánh mặt trời lấp loáng không che giấu được đống hôi thối bên trong nấm mồ.
Thánh ý Thiên Chúa
Mồ mả, đó là hình ảnh biệt phái, cũng là hình hài chúng ta. Những ảo ảnh bên ngoài về công bình không thể che lấp sự độc ác bên trong. Tất cả cái hiện thấy bên ngoài chỉ là lừa gạt, giả hình người ta có thể tự lừa dối mình, mình sống theo thánh ý Thiên Chúa nếu chỉ lo lắng theo nghĩa đen, thay vì sống sâu sa tận thâm tâm tinh thần.
Thiên Chúa làm sống lại rất nhiều ngôn sứ, nhiều người công chính giữa lòng dân tộc. Ngài không ngừng gửi các ông đến, trao cho các ông loan báo sứ điệp của Ngài cho đến tận ngày nay nữa. Nhưng người ta lờ đi, liệng bỏ đi.
Luôn luôn có giả hình lộ dạng qua những hành động của biệt phái và của chúng ta. Kẻ giả hình cứ tưởng mình tốt hơn cha ông mình, tưởng mình là người công chính khi sơn phết mồ mả người xưa. Đó là sự ngộ nhận. Một ngộ nhận đáng sợ về tình trạng riêng của mình! Ta có thể tự hỏi những ảo tưởng đó không có ở các Kitô hữu chăng? Nếu nhìn lại những trang sử đen tối của Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta chẳng khá hơn gì cha ông mình.
Cũng thật đáng hổ thẹn khi nhìn lại trang sử Giáo Hội của chúng ta hiện nay và cũng đáng hổ thẹn khi lên án tất cả mọi cái xảy ra vì lấy cớ giả dối là phải trung thành với truyền thống.
Cần phải đặt lại lịch sử và chiêm ngắm các vị thánh đã sống trong thời buổi bi thảm của lịch sử, sẽ thấy được các Ngài đã phải hoàn toàn vâng phục những quyền bính yếu đuối đến chừng nào.
JM
Suy niệm 6: Đừng giả dối
Tại các khu đô thị lớn, chúng ta vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố. Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!
Những mồ mả ở đây được thiết kế nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể vào đó để đi dạo.
Việc làm đẹp những ngôi mộ cho người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là: bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà thôi!
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu: họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài trông rất đẹp mắt, nhưng bên trong thì toàn xương người chết thối tha, nhơ nhớp. Qua đó, Ngài tố cáo họ vì lối sống giả hình.
Bởi vì, họ tự cho mình là công chính; là “con cưng” của Thiên Chúa. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che dấu tâm địa xấu xa bên trong! Tuy nhiên, càng che đậy, họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án gắt gao.
Trong đời sống đạo hiện nay, cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy, nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.
Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời, nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống thật tâm với lòng mình. Không được sống giả hình nhân đức. Cũng không được nhân danh đạo đức để trà đạp anh em và tìm mọi cách để vươn mình lên nhằm đạt được mục đích “rẻ tiền” như quyền, tiền, tình...
Nếu chúng ta không lo sám hối thì sẽ rơi vào tình trạng trên, khi ấy, hẳn chúng ta không khác gì những người Kinh Sư và Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở về với đời sống nội tâm thực sự, để chúng con nhận ra mình chẳng là gì, nhưng Chúa là tất cả. Nhận ra mình thấp hèn, cần phải khiêm tốn để được đón nhận hồng ân cứu độ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chân thành phê phán, nhận thức và cuộc sống.
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Sự sa đọa tệ hại nhất của đời người là sự giả hình. Chúa muốn ta chân thành trong phê phán, trong nhận thức và trong cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống hằng ngày, con đã biết sự giả dối tệ hại là dường nào. Khi đau ốm, nếu con mua lầm một loại thuốc giả, thì không những tiền mất tật mang mà đôi khi mạng sống khó an toàn. Nếu người con yêu lường gạt, giả dối đối với con, thì chắc chắn tình yêu sẽ trở thành thù hận.
Những điều giả dối ở bên ngoài có những tệ hại lớn lao như vậy. Nhưng hôm nay, Chúa cho con biết một sự giả dối còn tệ hại hơn nữa, đó là sự giả hình, một sự giả dối nằm bên trong con người. Nó phỉnh gạt, che mắt chính con người con, nó làm con kiêu căng, tự mãn, và con không thể nhận ra đâu là sự thật. Nó làm con có những lệch lạc trong tương quan đối với Chúa và đối với kẻ khác. Thay vì lòng đạo đức giúp con ngày càng sống thân mật, yêu mến Chúa, thì sự giả hình đã làm cho con tưởng như vậy là mình trổi vượt hơn kẻ khác. Khi con giúp đỡ tha nhân, thay vì để cảm thông và chia sẻ các khó khăn của họ, con lại muốn cho họ nhận ra sự hào phóng quảng đại của mình.
Lạy Chúa, hôm nay, chính Chúa đang phê phán gắt gao sự giả hình giả dối trong con. Xin Chúa giúp con đặt nền tảng của các mối quan hệ, đó là sống trong tình yêu thương chân thật đối với Chúa và đối với kẻ khác. Chân lý sẽ giải thoát con. Nhưng sẽ không có chân lý nếu con không có yêu thương. Chúa là tình yêu, xin ban tình yêu cho con, để con luôn được sống trong chân lý. Xin cho con luôn biết sống dưới cái nhìn của Chúa và trong ánh sáng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri”.
Suy niệm 8: Đạo đức giả hình
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày xưa, ở Hàng Châu, có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc. Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà chẳng thèm? Lưu Cơ cũng tới mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Ông liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc: “Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm”.
Người buôn cam mỉm cười nói: “Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ông thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp độ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngoài công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ, hách dịch vô cùng!...
Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam của tôi?”
Suy niệm
Chúa Giêsu tiếp tục lên án những lối đạo đức giả hình của các kinh sư và pharisiêu vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch tâm hồn. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm, trong tâm hồn họ vẫn ấp ủ những ý đồ. Ðức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám… (x. Mt 23:27-28). Họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che giấu tâm địa bên trong. Càng che giấu họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án. Ðức Giêsu đã mượn lời ngôn sứ Isaia (Is 29,13) nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7,6).
Sách Đệ Nhị Luật nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các Lề Luật, các huấn lệnh tượng trưng cho sự khôn ngoan, trong sáng và sáng suốt của dân Chúa giữa muôn dân muôn nước (x. Đnl 4,1-2.6-8). Nhưng Ðạo Chúa không phải chỉ là hình thức giữ các mệnh lệnh. Ðạo Chúa là tình yêu chân thật xuất phát từ đáy lòng.
Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn chúng ta, Ngài thấy rõ những khuyết điểm, lỗi lầm của chúng ta. Hãy xin Ngài soi sáng và thức tỉnh để chúng ta nhận ra những yếu đuối và sai lầm của bản thân, thẳng thắn nhìn nhận và mau mắn sửa đổi.
Ý lực sống:
“Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con” (Tv 139,1).
Suy niệm 9: Chúa vẫn than trách luật sĩ và biệt phái
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu tiếp tục lên án thói giả hình của luật sĩ và biệt phái trong việc xây cất mồ mả cho các tiên tri, mà cha ông họ đã giết chết. Những lối đạo đức giả hình của các luật sĩ và biệt phái làm cho Đức Giêsu bực mình. Người gọi đó là mồ mả tô vôi. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài, để che giấu tâm địa bên trong. Càng che giấu họ càng bị Chúa phát hiện và lên án gắt gao.
Những mồ mả tô vôi (cc 27-28).
“Khốn... các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy dẫy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế”: Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ là do thói quen ở Giêrusalem hằng năm khi đến gần đại lễ Vượt qua, người ta quét vôi các ngôi mộ cho khách hành hương thấy rõ mà tránh, kẻo đụng vào mà bị ô uế cả tuần (x. Ds 19,16). Chúa Giêsu so sánh cách sống đạo hình thức với những nấm mồ tô vôi ấy. Sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với tinh thần luật đã bị họ che đậy, bằng cái vỏ xinh đẹp là “công chính trước mặt thiên hạ” (Lm. Carôlô).
Xây mồ cho các tiên tri (cc 29-32).
“Khốn... các ngươi xây mồ cho các tiên tri và tô mả cho những người công chính...”: Một mặt họ xây mồ cho các tiên tri, để tỏ ra phản đối chuyện tổ tiên mình đã sát hại các vị ấy, nhưng mặt khác họ căm thù chính Chúa Giêsu là Đấng mà các tiên tri đã loan báo. Như thế, chẳng những “cha nào con nấy”, mà họ còn tệ hơn tổ tiên họ nữa. Việc làm của họ “đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên”, vì tổ tiên họ chỉ giết các tiên tri, còn họ thì sẽ giết chính Đấng Messia (CGKPV).
Ca dao Việt Nam có câu:
Ngoài miệng thì nói nam mô
Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh nấm mồ tô vôi nhằm lên án những kẻ có lối sống đạo hình thức. Nơi những con người này, sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với lề luật đã lên đến đỉnh điểm. Họ che đậy sự xấu xa của mình và đánh lừa mọi người bằng một cái vỏ đạo đức xinh đẹp, để được gọi là người “công chính trước mặt thiên hạ”.
Qua việc vạch trần sự giả hình của các luật sĩ và biệt phái thời đó, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở người Kitô hữu trong mọi thời đại phải tránh xa thói giả hình, đồng thời phải biết cảnh tỉnh và cải hoá tâm hồn. Nếu không, họ cũng sẽ phải lãnh nhận số phận bi thảm: sẽ bị chặt đi và ném vào lửa đời đời.
Nhìn về kinh nghiệm sống của mình, chúng ta có thể cảm nghiệm được tầm mức của những lời kết án của Chúa Giêsu, không phải như chuyện đã qua của thời quá khứ, nhưng có liên quan đến mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta có thể che giấu những tội lỗi tật xấu của mình bằng những tấm kịch cho qua lúc. Chỉ có phương thế duy nhất để tránh những lời kết án trên của Chúa là sự thật lòng ăn năn trở lại, là khiêm tốn và can đảm bỏ đi những mặt nạ mà chúng ta quen mang từ trước tới nay. Chúng ta đừng trở thành những người chỉ có danh hiệu là Kitô hữu, mà kỳ thực là những con người xa lìa Chúa. Chúng ta đừng sống theo ảo tưởng của những lời khen tặng của kẻ khác mà tưởng mình là kẻ chi chi, nhưng hãy ý thức rõ về thân phận tội lỗi của mình và khiêm tốn xin Chúa thứ tha (R.Verritas).
Truyện: Gương sống đạo thực sự
Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng. Một người ngạo ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.
Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương, y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó, để ban đêm nếu có thú vật nào đến để phá hoại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó khi thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quỳ xuống dưới chân kẻ bạo tàn và nói:
- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.
Tức bực vì chưa đạt được tới mục đích của mình, kẻ bạo ngược trong thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đập phá và quăng vất lung tung, nhưng ẩn sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.
Thấy vẫn chưa được việc gì, y càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, dỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách, mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhai, đoán rằng, y cần phải uống nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.
Trước cử chỉ thánh thiện và nét mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu hành và đến xin lỗi:
- Thưa cha, xin cha tha thứ cho những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha, và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.
Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ, cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.
Suy niệm 10: Đừng trang điểm giá trị giả dối
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Hai lời khiển trách thứ sáu và thứ bảy:
6. Những mồ mả tô vôi (cc 27-28)
- “Khốn… các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp nhưng bên trong thì đầy dẫu xương người chết và đủ mọi thứ ô uế…”: Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ là do thói quen ở Giêrusalem hằng năm khi đến gần đại lễ Vượt qua, người ta quét vôi các ngôi mộ cho khách hành hương thấy rõ mà tránh kẻo đụng vào mà bị ô uế cả tuần (x. Ds 19,16). Chúa Giêsu so sánh cách sống đạo hình thức với những nấm mồ tô vôi ấy. Sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với tinh thần luật đã bị họ che đậy bằng cái vỏ xinh đẹp là “công chính trước mặt thiên hạ”.
7. Xây mồ cho các ngôn sứ (cc 29-32)
- “Khốn… các ngươi xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính…”: Một mặt họ xây mồ cho các ngôn sứ để tỏ ra phản đối chuyện tổ tiên mình đã sát hại các vị ấy, nhưng mặt khác họ căm thù chính Chúa Giêsu là Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, chẳng những “cha nào con nấy”, mà họ còn tệ hơn tổ tiên họ nữa. Việc làm của họ “đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên” họ vì tổ tiên họ chỉ giết các ngôn sứ, còn họ thì sẽ giết chính Đấng Messia (CGKPV).
B.... nẩy mầm.
1. Thành ngữ VN có một câu tương đương với câu “mồ mả tô vôi” của Tin Mừng, đó là “Ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa một bồ dao găm”.
Con rất dễ phạm phải sự giả hình này. Xin Chúa giúp con thống nhất đời sống, thống nhất cái biểu lộ bên ngoài với cái tâm tình bên trong.
2. Những người biệt phái trách cha ông họ đã xử tệ với các ngôn sứ. Thế nhưng chính họ còn tệ hơn nữa khi bách hại Chúa Giêsu. Trách người thì dễ, sửa mình mới khó. Tôi cũng rất nhanh miệng phê phán chê trách người khác….
3. Một bà già tốt lành, hơn 40 năm sinh sống bằng nghề giặt ủi tầm thường, nhưng lại được mọi người quí mến, tín nhiệm. Khi được hỏi bí quyết, bà đáp: “Tôi có một qui luật sống là không mách lẻo chuyện nhà này cho nhà khác nghe." (Góp nhặt)
4. Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.
Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em. (Góp nhặt)
5. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27)
Như một qui luật của sự sống, con người luôn muốn tự khẳng định mình, đôi lúc trở nên phô trương, lố nghịch và vô nghĩa. Con người cứ mãi trang điểm cho mình những giá trị giả dối.
Như tôi chẳng hạn, luôn chuẩn bị cho mình một cách chu đáo trong ngày lễ hội, đại lễ: nào là quần áo giầu dép và cả đi xưng tội nữa! Nhưng kết quả thì sao? Cuộc sống chẳng khá hơn, con người vẫn cứ cũ mèm! Khi “lớp vỏ” được bóc ra thì tôi vẫn là tôi ngày nào, trước sao thì nay vẫn vậy! Tôi chỉ là một con người hay ganh tỵ, không dám nhìn thẳng vào sự thật, và là một kẻ hèn nhát không dám nói về đạo nơi tôi đang sống! Tôi có còn là một kitô hữu thật sự hay không? Không lý nào chỉ là kitô hữu được “quét vôi”!
Lạy Chúa, Chúa biết con sống như thế nào. Xin thêm sức để con có thể canh tân cuộc sống của chính mình. (Hosanna).
Suy niệm 11: Tránh sống đạo hình thức, giả hình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Hai lời khiển trách thứ sáu và thứ bảy:
1. Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ để mô tả về cách sống đạo hình thức, giả hình và sự thiếu trung tín của người Do Thái. Và việc họ xây mồ mả cho các ngôn sứ (Mt 23,29-32) để phủi tay trước những việc làm ác độc của tổ tiên. Thực ra, họ còn ác độc hơn cả tổ tiên của họ, vì họ đang âm mưu giết Chúa Giêsu.
Con người luôn muốn tự khẳng định mình nên nhiều khi những việc làm như thế đã trở nên phô trương, lố bịch và vô nghĩa.
Người ta kể lại rằng: Văn sĩ Pháp Alexandre Piront qua đời năm 1773 thường có thói quen đi dạo trong khu vườn Boulogne, giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường. Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì ông thấy trong đám đông những người đi dạo, có một vài người đi đến gần ông ngả nón chào. Cũng có một vài người còn bái cả gối nữa. Nhà văn đã mỉm cười đáp lại những cảm tình khách qua đường dành cho ông. Ông không ngờ là ông được nhiều người mộ mến như thế. Ông mong sao có một số bạn bè trong văn đàn chứng kiến được cảnh tượng này, để thấy vinh quang mà ông đã đạt được.
Nhà văn đang say sưa với bả vinh hoa, thì chợt trong đám người bái chào đó, có một bà lão để lộ thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người, bà lão này cúi đầu chào rồi tiến tới gần ghế đá, bà thầm thì nói những gì trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên phía trên bức tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng: trên đầu ông có một tượng Thánh Giá. Thì ra những người đi dạo khi đi đến đó đã dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hổ thẹn vì khám phá này, Alexandre Piront đứng dậy bỏ đi nơi khác.
Vâng! Con người cứ mãi trang điểm cho mình những giá trị giả dối.
2. Vậy thì điều mà Chúa muốn là gì? Thưa là một đời sống đạo đức thực sự.
Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng.
Một người ngạo ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.
Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương, y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó để ban đêm, nếu có thú vật nào đến để phá hại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó, khi thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quì xuống dưới chân kẻ bạo tàn và nói:
- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.
Tức bực vì chưa đạt được tới mục đích của mình, kẻ bạo ngược trông thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đạp phá và quẳng vất lung tung, nhưng ẩn sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.
Thấy vẫn chưa được việc gì, y càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, rỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách, mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhãi. Đoán rằng, y cần phải uống nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.
Trước cử chỉ thánh thiện và nét mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu hành và đến xin lỗi:
- Thưa cha, xin cha tha thứ cho những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha, và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.
Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con. Amen.