Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
19/09 Người chết thành Naim
- Viết bởi Lc 7, 11-17
Người chết thành Naim.
Thứ Ba tuần 24 thường niên.
“Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
Lời Chúa: Lc 7, 11-17
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người.
Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Suy niệm 2: Trong một thân thể
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Quyền năng Chúa biểu lộ rõ ràng qua việc làm cho anh thanh niên người Na-in đã chết được sống lại. Thiên Chúa là sự sống. Chẳng ai có thể ban sự sống. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa. Thiên Chúa là sự sống lại. Ban sự sống đã khó. Ban sự sống lại còn khó hơn. Để ban sự sống, Thiên Chúa chỉ cần ngự trên chín tầng trời phán một lời. Liền có sự sống. Nhưng để chuộc lại sự sống đã mất, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống trần gian. Đây lại biểu lộ quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Để phục hồi sự sống, Thiên Chúa phải xuống thế làm người. Chúa Giê-su mặc lấy thân xác loài người. Trở nên một với loài người. Tình yêu khiến Chúa kết hợp với loài người. Nên một thân thể. Vì thế Chúa vui với người vui. Chúa khóc với người khóc. Chúa chạnh lòng thương người thanh niên vắn số. Chúa chạnh lòng thương người phụ nữ goá bụa. Nay lại mất đứa con là điểm tựa duy nhất.
Đây chính là nguyên lý xây dựng thế giới. Con người cùng với tha nhân và thiên nhiên làm thành một thân thể. Giết người là giết mình. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại chính mình. Thương người là thương mình. Vun trồng thiên nhiên là vun trồng sự sống của chính mình. Ta là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Thiên Chúa hợp nhất chúng ta. Thiên Chúa điều khiển chúng ta.
Thư Cô-rin-tô dạy: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy…Tất cả chúng ta… đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Vì thế mỗi người phải cố gắng tối đa. Đạt đến tầm vóc hoàn hảo. Để phục vụ thân thể. Đó là “trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (năm chẵn).
Vì thế, thánh Phao-lô cho biết “ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp”. Vì trong một tổ chức, cần có người lo toan việc chung. Nhưng để lo toan việc chung, người ấy phải lo việc riêng hoàn hảo. Có tu thân được mới có thể tề gia. Có tề gia mới có thể trị quốc. Vậy “giám quản phải là người không ai chê trách được” và “phải được người ngoài chứng nhận là tốt”. Có như thế các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô mới hài hoà với nhau. Và mới phát triển lớn mạnh được (năm lẻ).
Suy niệm 3: Ý Nghĩa Của Cuộc Sống
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Suy niệm 4: Người cho kẻ chết sống lại
Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.
Suy niệm 5: Hãy sống liên đới và thương xót
Xem lại CN 10 TN C
Đức Giêsu “chạnh lòng thương” và làm cho con trai bà góa thành Naim đã chết được sống lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu tiên báo về sự phục sinh mai ngày của chính Ngài, đồng thời, Ngài cũng nói lên quyền năng của mình trong vai trò là Con Thiên Chúa, và thể hiện bản chất của Thiên Chúa là Đấng hay thương xót.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Hãy vững tin vào Thiên Chúa, vì không có việc gì mà Chúa không làm được. Hãy học nơi Đức Giêsu bài học về lòng thương xót, để sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác. Không bao giờ được phép vô cảm và vô tình trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sự nhạy bén với nhu cầu của người khác phải là tinh thần sống động nơi tâm hồn chúng ta.
Bên cạnh đó, hình ảnh chỗi dạy của con trai bà góa cho chúng ta một bài học về sự sám hối là: trở về với Chúa thì được sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ. Một tấm lòng biết “chạnh lòng thương” như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Bà góa thành Na-im
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trước cái chết của một thanh niên, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và làm cho anh sống lại. Những người trẻ chết trong tội lỗi cũng đang cần đến lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn thấy những nỗi đau khổ của chúng con, và Chúa cứu giúp chúng con ngay cả khi chúng con chưa kịp cầu xin với Chúa. Chúa hiểu được nỗi lòng của bà mẹ goá mất người con trai duy nhất. Bà đặt tất cả niềm hy vọng của đời mình nơi người con ấy. Đó là tất cả tương lai của bà, là niềm an ủi và hạnh phúc duy nhất của bà. Người con chết đi là người mẹ cũng mất tất cả. Khi Chúa cho thân xác người con sống lại cũng là lúc Chúa cho tâm hồn người mẹ phục sinh.
Lạy Chúa, xin Chúa nhìn đến bao linh hồn người trẻ đang nằm trong bóng tối sự chết, chết trong tội lỗi. Xin nhìn đến biết bao người mẹ đang than khóc và cũng đang chết đi vì con cái đã chết. Có những người con dù thân xác còn sống đó, nhưng linh hồn đã chết vì xa Chúa. Có những người con chết trong linh hồn, và cả thân xác cũng đang đi dần tới cái chết vì nghiện ngập chơi bời phóng túng.
Xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Xin Chúa biểu lộ quyền năng và ban ơn để các thanh niên thiếu nữ được sống lại, được trỗi dậy sống cuộc đời mới. Giới trẻ chúng con sống lại chính là tương lai của cha mẹ, của Hội Thánh và của đất nước được tươi sáng. Xin Chúa thương nhận lời các bà mẹ chúng con đang cầu nguyện trong nước mắt. Có những lúc dường như hết hy vọng, nhưng chúng con tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa không bao giờ để chúng con thất vọng bẽ bàng khi tin vào Chúa Phục Sinh. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
Suy niệm 7: Đức Giêsu phục sinh cả hai mẹ con bà góa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói:
- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra (Theo Flor Mc Carthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr. 192).
Suy niệm
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót người quả phụ có đứa con duy nhất qua đời… mọi người cảm thương và đưa ra nghĩa địa… Bà góa phụ cũng như đang chết. Như đang có hai con người rời bỏ cuộc sống: Người con trai chết được đem ra nghĩa địa chôn cất, người mẹ góa không nơi nương tựa và không người chăm sóc, bảo vệ mình trong đời sống, cho nên bà góa phụ cũng như đang đi vào cõi chết.
Chúa Giêsu nhìn rõ nỗi buồn của người mẹ mất con, Ngài hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa: bà cũng như đang chết, Ngài liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ, Ngài sờ vào quan tài và nói: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7,14). Chúa Giêsu đã can thiệp mau lẹ: Ngài giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim. Chúa làm sống lại con trai bà góa, như thế Ngài cũng mang lại sự sống tinh thần, niềm hy vọng cho người mẹ.
Đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim được sống lại và chính bà cũng được sống lại. Đức Giêsu đã phục sinh cho cả hai mẹ con bà. Sự việc thật kỳ diệu làm cho mọi người tham dự đám tang đang sầu khổ thành niềm hân hoan, mừng vui cho hai mẹ con bà góa.
Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Chúa Giêsu cho sống lại, cũng chính là hình ảnh loan báo trung tâm điểm của Kitô giáo: Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Thật thế, sự chết và Phục sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta như Ngài quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25).
Ý lực sống
“Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7,14).
Suy niệm 8: Con trai bà góa Naim sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Vì tình yêu thương mà Đức Giêsu đem lại niềm an ủi cho bà góa thành Naim. Ngài không đành lòng nhìn bà đau khổ nên đã cho con trai bà sống lại. Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp, Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương. Ngài chạnh lòng thương trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non. Phép lạ cho thấy Đức Giêsu luôn quan tâm đến nỗi khổ của chúng ta. Ngài luôn hiện diện, nâng đỡ, ủi an và cứu giúp chúng ta.
2. Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đau khổ biết bao: một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy chỗi dậy”! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.
3. “Bà góa” là một trong những thành phần được Đức Giêsu ưu đãi và đặc biệt dành nhiều tình cảm nhất, vì họ thuộc nhóm những người nghèo hèn, cùng khốn của xã hội. Họ là đối tượng được Đức Giêsu quan tâm. Ở đây, trước nỗi đớn đau khốn cùng của bà góa thành Naim về cái chết của đứa con duy nhất. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương. Ngài không trì hoãn. Ngài đã đến an ủi bà và làm tan đi nỗi đau nơi bà bằng cách cho cậu con trai của bà sống lại. Không chỉ con của bà được sống lại, tâm hồn của bà và của mọi người chứng kiến sự sống lại này cũng được sống lại, niềm tin của họ vào Thiên Chúa được nảy sinh. “Bà đừng khóc nữa”. Phải, rất cần một thái độ cậy trông hơn là thái độ than vãn trong khi chờ lòng thương xót của Chúa (5 phút Lời Chúa).
4. Trong Tông thư gửi những người sống đời tận hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mời họ ra khỏi chính mình và đi về những vùng biên của cuộc đời, về phía những người đang mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, các bạn trẻ đang gặp ngõ cụt trước tương lai và những người già bệnh tật đang bị loại trừ.
Đứng trước sự đau khổ của bà góa thành Naim, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và ra tay làm phép lạ cho anh con trai duy nhất của bà sống lại. Người đã đi bước trước để xoa dịu và cất đi sự đau khổ của bà.
Ngày hôm nay, xã hội tuy phát triển về kinh tế, thông tin... nhưng con người càng ngày càng dửng dưng, vô cảm với nhau. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống cảm thương trước nỗi đau của người khác. Khởi đi từ việc thương cảm, chúng ta thực thi những hành động bác ái cụ thể để nâng đỡ, ủi an những người đau khổ đang cần sự giúp đỡ (Học viện Đa Minh).
5. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác. Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,15).
Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người. Người Việt nam chúng ta đã có kinh nghiệm về vấn đề này nên đã nói:
Một con ngựa đau cả tầu chê cỏ (Tục ngữ)
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại nơi mình. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác, nghĩa là hãy học biết thông cảm.
6. Truyện: Biết cảm thông và chia sẻ.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giảng viên bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Suy niệm 9: Con trai bà góa thành Naim
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B.... nẩy mầm.
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngỏ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna).
Suy niệm 10: Chúa chạnh lòng thương người mẹ góa mất con
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Khác hẳn với phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người đầy tớ viên bách quản trong bài Tin Mừng hôm qua, hôm nay chúng ta thấy Chúa làm phép lạ không phải do người ta xin và người được thụ hưởng phép lạ cũng chẳng hề biết gì về việc này vì anh đã chết.
Hoàn cảnh hôm đó rất đặc biệt. Có hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng thành: một đoàn người có Đấng ban sự sống dẫn đầu và một đoàn người khác cùng với một người mẹ goá tiễn đưa đứa con trai duy nhất của bà tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tình trạng còn đau khổ hơn nữa khi người mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự cho mình trong một xã hội trọng nam khinh nữ nhiều bất công này.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thông với nỗi đau buồn lớn lao ấy. Người là Con Thiên Chúa cho nên Người thấy rõ những khốn cực của loài người và Người là con người nên lại càng nhạy bén hơn trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của họ. Người dừng lại trước bà mẹ đang tuyệt vọng và an ủi bà. "Bà đừng khóc nữa!" (Lc 7,13). Việc đó nói lên sự quan tâm của Chúa.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì ?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự dửng dưng và vô cảm của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình trở thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân đôi và nỗi buổn được chia sẻ là nổi buồn sẽ vơi đi một nửa.
2. Tin Mừng còn ghi tiếp: "Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ" (Lc 7,15).
Rất tế nhị và cũng rất gần gũi. Chúa Giêsu trao...trao người đã chết được Ngài cho hồi sinh vào tận tay người mẹ, Bằng cử chỉ như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng, lúc nào Chúa cũng ở thật gần con người nhất là những ai cần đến Chúa.
Cảm nhận được sự gần gũi của Chúa trong cuộc đời là một cảm nhận rất cần thiết. Nó sẽ đem lại cho con người nhiều nghị lực và niềm vui.
Có một người đàn bà đạo đức nọ, trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống bà, đó là giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận giải phẫu vì hy vọng còn sống cho người con trai của bà. Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến giờ đau khổ của bà. Vào thời mà thuốc tê chưa có, bệnh nhân thường qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà vẫn can đảm chịu đựng. Thế nhưng, vào cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình và kêu: "Lạy Chúa".
Chứng kiến cảnh đau đớn của mẹ, đứa con trai không làm chủ được cảm xúc, đã thốt lên những lời xúc phạm đến Chúa. Lúc đó, người đàn bà nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, im đi, con đã làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ nhiều. Con đã làm sỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ". Nói xong, bà mở tay cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Sau mấy tháng quằn quại đau đớn, người đán bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà trao ảnh chuộc tội đó cho con trai và căn dặn: "Con hãy giữ lấy ảnh này, vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
18/09 Niềm tin vững mạnh
- Viết bởi Lc 7, 1-10
Niềm tin vững mạnh.
Thứ Hai tuần 24 thường niên.
“Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
Lời Chúa: Lc 7, 1-10
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum.
Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta”.
Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”.
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”. Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cứ nói một lời
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.
Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.
Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,
vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.
Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,
ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông
để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).
Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,
Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.
Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài
mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,
căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).
Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,
nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).
Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.
Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).
Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.
Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.
Là một sĩ quan trong quân đội Rôma
ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.
“Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến;
và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8).
Lệnh được ban ra là phải thi hành.
Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.
Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.
Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.
Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).
Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,
chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).
Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.
Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.
Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,
nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,
chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,
chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.
Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững
và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.
“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”
Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.
Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.
Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Suy niệm 2: Đức tin mãnh liệt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.
Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).
Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).
Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.
Suy niệm 3: Sức Mạnh Của Lời Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta Suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
Suy niệm 4: Sức Mạnh Của Niềm Tin
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.
Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.
Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.
Suy niệm 5: Một đức tin lạ lùng
Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)
Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.
Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.
Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.
Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.
Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?
GF
Suy niệm 6: Đức tin của người dân ngoại
Xem lại CN 9 TN C - thứ Hai tuần 4 MV và tuần 4 MC - thứ Bảy tuần 12 TN
Tại các trung tâm hành hương, chúng ta vẫn thấy đây đó các bảng ghi ơn của những người ngoài Công Giáo như sau: “Con là kẻ ngoại đạo, con xin tạ ơn Chúa ... ”; “Tạ ơn Chúa... đã cứu giúp con, mặc dù con là người lương dân”. Điều này được thấy rất rõ ở trung tâm hành hương cha F.x. Trương Bửu Diệp tại Giáo phận Cần Thơ hay đền cha thánh Phêrô Lê Tùy thuộc Giáo phận Hà Nội.
Thật vậy, vẫn còn đó những người lương dân, đôi khi lại có niềm tin mạnh hơn cả những người Công Giáo. Đây là điều chúng ta nên hồi tâm và suy nghĩ lại về đời sống đức tin của mình với Thiên Chúa!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng khen ngợi đức tin của một viên sĩ quan ngoại giáo ở Rôma.
Khi nghe tin quyền năng và tốt lành của Đức Giêsu, ông đã truyền lệnh cho mấy trưởng tế đến để cầu cứu Đức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ của mình đang đau nặng. Khi được tin, Đức Giêsu muốn đích thân đến để cứu giúp đầy tớ của ông. Tuy nhiên, ông không dám mời Ngài về nhà mình, vì lý do nhận thấy mình không xứng đáng để được Đức Giêsu đến nhà. Ông chỉ dám xin Ngài phán một lời thôi thì đầy tớ ông sẽ được bình phục. Thấy được đức tin của ông mạnh và sự khiêm nhường thẳm sâu của ông, nên Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp cho người đầy tớ thân tín của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Sẵn sàng giúp đỡ những người đang cần đến chúng ta, mặc cho họ là ai, cùng niềm tin với mình hay không...! Mặt khác, sự xuất hiện và hành động của viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc ta bài học về tình yêu không biên giới, đã thương xót thì không phân biệt chủ - tôi, giai cấp... Đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa trong sự khiêm nhường, tín thác.
Sự khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối của viên sĩ quan khi xưa, nay đã trở thành mẫu mực cho mọi người chúng ta, đến nỗi trong phụng vụ thánh lễ đã lấy lại lời này như một tâm tình của con cái Giáo Hội khi chuẩn bị đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Mong sao lời tuyên tín này mang lại cho chúng ta sự khiêm tốn, tin tưởng, bình an, hạnh phúc đích thực chứ không chỉ là một công thức phải đọc như một thói quen mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin, sự khiêm tốn và lòng bao dung cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Khiêm tốn và tín thác cầu xin
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhận biết mình hèn kém bất xứng và hết lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa, đó là niềm tin của viên đại đội trưởng mà Chúa Giêsu đã khen ngợi và mời gọi ta bắt chước.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong quãng đời mục vụ của Chúa, con nghĩ một trong những điều làm cho Chúa vui thích đó là câu chuyện hôm nay: một viên sĩ quan lương dân đã bày tỏ niềm tin nơi Chúa, một niềm tin đơn sơ, khiêm nhường và mạnh mẽ. Chúa đã khen ngợi và đáp lời ông cầu xin.
Con tự hỏi, đối với con là người theo đạo Chúa, con thực sự có được một niềm tin như thế chưa ?
Lạy Chúa, con phải thú nhận rằng đức tin của con còn quá yếu kém, bởi vì con chưa nhận ra mình là kẻ tội lỗi rất cần đến lòng thương xót của Chúa. Con thiếu lòng cậy tin vào Chúa, bởi vì con vẫn tin vào quyền lực của tiền bạc và địa vị hơn là chính Chúa. Con cầu xin không được như ý là bởi vì con chưa khiêm nhường đủ, thiếu kiên nhẫn và đầy ích kỷ.
Lạy Chúa, trong thánh lễ hằng ngày, con bắt chước viên sĩ quan để thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Xin Chúa đến với con dù con bất xứng. Xin Chúa thương xót con vì con tội lỗi. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa dù con chỉ là tôi tớ mọn hèn. Và trong những cơn gian nan thử thách, những khi cô đơn tuyệt vọng, những lần ê chề sa ngã, xin cho con vẫn một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vì con tin rằng chính những lúc con yếu đuối nhất, lại là những lúc con mạnh mẽ nhất trong ơn Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
Suy niệm 8: Niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trên một rặng núi đá cao đến 800 thước có những cây lá cọ vẫn sống mạnh. Ban đầu qua nhiều năm, các nhà thực vật nghiên cứu và không tìm được nguyên nhân vì sao mà các cây này sống được trong bóng tối của núi đá, vì mặt trời chỉ chiếu vào chỗ các cây này chỉ trong hai tiếng đồng hồ mỗi ngày, trong lúc cây lá cọ sống nhờ nhiều vào ánh nắng mặt trời.
Về sau các nhà thực vật đã tìm ra nguyên nhân: Các vách đá đã thu nhận ánh sáng mặt trời cũng như hơi nóng ban ngày rồi phản chiếu vào chỗ những cây cọ này, cung cấp cho cây hơi nóng cần thiết tỏa ra từ trong đá. Cho nên, hàng cây cọ cứ sống mạnh, dù hoàn cảnh thật là khó khăn cho những cây ấy tồn tại trong điều kiện khó khăn đối với họ nhà cọ như thế. Cũng như các cây lá cọ này, người tin Chúa, luôn được nuôi sống và đứng vững trong mọi hoàn cảnh…
Suy niệm
Viên đội trưởng Rôma là người ngoại giáo nhưng ông mạnh tin và xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ xin “Thầy phán một lời”. Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!.
Phép lạ đã xảy ra như lòng ông mong ước… Chính lời tuyên xưng của ông: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi… nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”, đã được Giáo hội mượn để tuyên xưng trong cộng đoàn phụng vụ khi chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Ngày nay, Ðức Giêsu không còn hiện diện hữu hình như xưa, nhưng qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Thần và Lời của Ngài vẫn ở bên con người. Chúng ta cần có đức tin mạnh như viên đội trưởng, tin Chúa có thể làm việc trong chúng ta: Hướng dẫn và trợ giúp, nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày trong cuộc sống như Ngài đã làm cho ước muốn viên đại đội trưởng chữa lành người đầy tớ của ông.
Xin cho chúng con đức tin chân thành mạnh mẽ…
Ý lực sống
“Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị” (Tv 106).
Suy niệm 9: Tôi không đáng rước Ngài
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, một sĩ quan ngoại giáo liền cậy nhờ những người làm lớn trong dân Do thái đế xin Chúa chữa đầy tớ yêu quí của ông đang hấp hối. Và các ông đã đến trình cho Chúa biết lai lịch của viên sĩ quan này. Tuy ông là người ngoại đạo, nhưng ông rất có thiện cảm với đạo giáo. Rồi các ông nài xin Chúa đến cứu chữa đầy tớ của ông. Chúa nhận lời.
Người còn đi dọc đường thì viên sĩ quan nhờ bạn hữu đến thưa không dám rước Người về nhà, chỉ xin Người phán một lời cho người bệnh được khỏi, như ông sai bảo binh lính và đầy tớ làm gì là họ làm theo. Chúa thấy viên sĩ quan này có đức tin mạnh mẽ và lòng khiêm nhường như thế thì khen ngợi, và đã làm phép lạ cho đầy tớ ông được khỏi bệnh.
2. Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này. Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do thái, cũng không phải là một đạo hữu Do thái mà là một kẻ ngoại đạo cầm quyền đô hộ dân Người.
Với những gì thánh Luca tường thuật, chúng ta dễ nhận ra rằng, Chúa Giêsu không quá phân biệt người có đạo hay kẻ ngoại, mà Chúa nhìn thấy tâm hồn của mỗi người... Điều mà Chúa khen tặng và sẵn sàng chữa lành hôm nay, chính là lòng tin, sự khiêm nhường cùng một số các đức tính khác mà chúng ta sẽ triển khai dưới đây.
3. Niềm tin của vị sĩ quan.
Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi cùng có lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo nguòi khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”(Lc 7,8).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do thái tin bệnh tật là do tà thần và sự sữ).
Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp (Hiền Lâm).
4. Lòng thương người của vị sĩ quan.
Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó. Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một “đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ là quá phi thường.
5. Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.
Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).
6. Truyện: Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Một hôm, Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi, Dương Chu mới hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến, dặn:
- Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
Suy niệm 10: Đức tin của một sĩ quan ngoại đạo
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa bệnh cho đầy tớ một sĩ quan ngoại đạo:
- Ông này có lòng thương người: đầy tớ của ông bệnh mà ông lo lắng như cho con ruột; ông là người rôma nhưng xây cất hội đường cho người do thái.
- Ông cũng khiêm tốn: dù là giới cai trị, ông không ngại hạ mình đến xin Chúa Giêsu là người dân bị trị giúp đỡ mình; ông lại còn nói ông không xứng đáng cho Chúa Giêsu vào nhà ông.
- Đức tin của ông rất mạnh vì ông tin Chúa Giêsu chẳng cần đến nhà ông, chỉ ở xa phán một lời là đầy tớ ông sẽ khỏi.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu sẵn sàng ban ơn cho mọi người dù có đạo hay ngoại đạo, miễn là người đó có lòng tin. Thực tế ngày nay có nhiều người lương tin Chúa và Đức Mẹ, đã xin ơn và được ban cho.
Phần tôi, lắm khi tôi vừa xin vừa hồ nghi không biết sẽ được Chúa ban ơn hay không. Từ nay khi xin ơn Chúa, tôi phải xin với hết lòng tin tưởng.
2. Người sĩ quan này cũng làm gương cho ta về lòng nhân ái: yêu thương đầy tớ, yêu thương người bị trị. Xin cho con biết yêu thương những kẻ dưới quyền, những người kém thế hơn con.
3. Lời ông nói với Chúa Giêsu lại là một tấm gương khác về cách cầu nguyện khiêm tốn. Khi tôi cầu nguyện cùng Chúa, tôi phải bắt chước ông mà nói rằng “Con chẳng đáng”.
4. Chuyện này cũng phải khiến ta ý thức về sức mạnh của Lời Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền có những gì Ngài muốn. Chúa Giêsu chỉ ở xa phán một lời thì người đầy tớ kia hết bệnh.
Xin cho Lời Chúa mà con nghe mỗi ngày trở thành thần dược chữa trị mọi bệnh tật linh hồn con.
5. “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi…” (Lc 7,6)
“Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Lời này khơi lên trong lòng tôi niềm mơ ước được rước Chúa. Dù biết mình không trong sạch, nhưng khi Ngài ngự vào linh hồn, tôi lại cảm thấy vững vàng trong đời sống. Sự hiện diện thực sự của Ngài trong Thánh Thể khiến tôi vững tin hơn để chống lại những cám dỗ thường ngày.
Không như người sĩ quan xưa, tôi biết mình có tội nhưng vẫn cầu xin Chúa thường ngự đến cùng tôi. Vì chỉ có Ngài mới là nguồn động viên an ủi nâng đỡ tôi trong từng phút giây.
Lạy Chúa, Ngài biết rõ mọi tật xấu, nhưng Ngài cũng thấu suốt mọi cố gắng từng ngày của con. Xin Ngài rộng lòng thương rửa sạch và ban bình an cho tâm hồn con. (Hosanna)
Suy niệm 11: Viên sĩ quan người Rôma
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Nhân vật chính trong câu chuyện này là một viên sĩ quan người Rôma. Ông là một người tốt.
1. Trước hết, là sĩ quan - ông coi 100 binh sĩ: Một con người có quyền, có chức nhưng ông vẫn thương những người dưới quyền ông.
Sử gia Polybius đã viết về những sĩ quan bách quân đội trưởng như sau: “Họ là những người chỉ huy rất hoạt động, rất đáng tin cậy. Họ không tự tìm nguy hiểm, không quá say mê chiến đấu, nhưng nếu được thúc bách thì họ sẵn sàng kháng cự và chết tại chỗ”.
Trong Tân Ước, cứ mỗi lần có một viên bách quân đội trưởng nào được đề cập đến thì chúng ta thấy họ đều là những người tốt.
2. Ông đã có một thái độ phi thường đối với đầy tớ mình.
Ông thương bằng cách sẵn lòng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó.
Theo luật pháp Rôma, một nô lệ được định nghĩa như một đồ dùng, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về sự quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, kể cả những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa.
Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ quả là phi thường.
3. Ông là người rất sùng đạo.
Một người đã xây cất cho dân chúng một ngôi nhà hội, hẳn không phải là một người chỉ có cảm tình hời hợt với đạo.
Thực ra thì người Rôma có khuyến khích các sinh hoạt tôn giáo nhưng không phải là họ thương những người Do Thái mà là vì mục đích chính trị. Họ làm thế là để giữ cho dân chúng khỏi nổi loạn và trật tự luôn được bảo đảm. Còn thâm tâm họ, thì họ coi tôn giáo chẳng khác gì là một loại thuốc phiện mê dân.
Chính Hoàng đế Augustus khi khuyến khích xây nhà hội cho những người Do Thái, ông cũng làm vì mục đích này. Gibbon có lần đã nói: “Các hình thức khác nhau về tôn giáo thịnh hành trong đế quốc Rôma lúc đó đều được dân chúng xem là đúng đắn cả. Các triết gia thì xem là sai lầm, nhưng quan tòa thì xem điều đó là có ích”.
Đối với viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta thấy khác hẳn: Rõ ràng ông không cư xử như một nhà chính trị, mà rõ ràng ông là người có nhiệt tâm với tôn giáo.
4. Ông có cảm tình phi thường đối với dân tộc Do Thái.
Người Do Thái khinh dân ngoại và dân ngoại ghét người Do Thái. Đó là một điều mà người Do Thái bình thường nào cũng biết.
Chủ nghĩa chống Do Thái không phải là điều mới lạ. Người Rôma gọi dân Do Thái là một dòng giống dơ bẩn. Họ coi Do Thái giáo là một thứ mê tín man rợ. Họ thường nói với những chủng tộc khác về lòng ghen ghét của họ đối với người Do Thái. Họ tố cáo người Do Thái thờ đầu con lừa và mỗi năm người Do Thái giết một người dân ngoại để cúng tế thần mình.
Riêng đối với viên sĩ quan hôm nay, chúng ta thấy giữa ông và những người Do Thái có một sự thân mật rất chân tình, không có gì là giả tạo.
5. Ông là một người khiêm nhượng.
Ông biết rất rõ rằng, một người Do Thái chính thống bị luật pháp của họ cấm bước chân vào nhà một người dân ngoại.
Ông cũng biết rõ rằng, một người Do Thái chính thống sẽ không cho phép một người dân ngoại bước chân vào nhà mình hay là tiếp xúc với người đó.
Chính vì thế mà ông không dám đích thân đến với Chúa Giêsu, nên đã nhờ các bạn người Do Thái của mình đi gặp ngài.
Đúng là con người đã quen chỉ huy này có một sự khiêm nhu lạ lùng trước sự cao cả thật.
6. Và cuối cùng, ông là người có đức tin lớn.
Đức tin của ông dựa trên luận lý vững chắc nhất.
Ông lý luận từ sự kiện trước mắt đến những điều xa xôi, từ kinh nghiệm của riêng bản thân ông tới Đức Chúa Trời. Nếu quyền bính của ông mà còn có hiệu lực như vậy, thì quyền bính của Chúa Giêsu sẽ công hiệu hơn biết bao.
Ông đã đến với lòng tin cậy hoàn toàn như thể ông nhìn lên và thưa rằng: “Lạy Chúa, tôi biết Ngài có thể làm việc này”. Giáo Hội thật có lý khi mượn chính lời ông mỗi khi cử hành “màu nhiệm đức tin”: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Tóm lại, ông là một con người đáng cho chúng ta noi gương bắt chuớc. Ông không có đạo những quả thực ông còn tốt hơn rất nhiều người có đạo xưa cũng như nay.
Xin Chúa cho chúng ta được sống tốt như ông, khiêm nhường như ông, nhất là có đức tin mạnh mẽ như ông để chúng ta cũng được Chúa khen như ông.
Lạy Chúa, xin cải hoá lòng chúng con để chúng con được trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.
17/09 Tha thứ 70 lần 7
- Viết bởi Mt 18, 21-35
Tha thứ 70 lần 7.
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN năm A
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Hc 27,33 – 28,9; Rm 14, 7-9; Mt 18, 21-35
MỤC LỤC
1. Hết lòng tha thứ--‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Mắc nợ và trả nợ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
3. Phải tha thứ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Vị thẩm phán chí công--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Tại sao tha thứ?—Hồng Y Cantalamessa
6. Hết lòng tha thứ cho nhau--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Lòng thương xót--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
8. Tha thứ--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
9. Hãy tha thứ để được thứ tha--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
10. Hãy tha thứ cho người khác--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
11. Tha thứ cho nhau--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
12. Giảng cho thiếu nhi: Chúa nhật 24 Thường niên năm A--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
13. Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
14. Công bằng phải trả--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
15. Tha thứ như đã được thứ tha--Lm. Xuân Hy Vọng
16. Sự tha thứ--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
17. Luôn tha thứ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
18. Hãy sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha--Lm. Đan Vinh
19. Giá trị cục tẩy--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Bài học tha thứ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Học tha thứ với Chúa Giêsu--Lm Ignatiô Trần Ngà
22. Có tha thứ mới được thứ tha--Lm Ignatiô Trần Ngà
23. Thông cảm để thứ tha--Lm Ignatiô Trần Ngà
24. Tha thứ đến vô tận--Barbara E. Reid OP
25. Tha thứ--Lm. Trầm Phúc
26. Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Trầm Phúc
27. Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
28. Hào quang của tha thứ--Thiên Phúc
29. Tha thứ là được thứ tha--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
30. Sự tha thứ--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
31. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ--Anmai
32. Tha thứ cho nhau--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
33. Vì sao phải quảng đại tha thứ?--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
34. Một Tin Mừng khó giữ--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
35. Thiên Chúa là vị thẩm phán tốt nhất của chúng ta--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
36. Tha tận đáy lòng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
37. Tha thứ, mùa xuân tình yêu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót--Lm. Minh Anh
39. Tha thứ không biên giới--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
40. Lời dạy tha thứ cho nhau--Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
41. Tha thứ mà không cần so đo tính toán--Lm. Phêrô Trần Minh Đức
42. Nên tha hay không?--Phillip Bình Khả
43. Tha thứ--Lm. Bùi Quang Tuấn
44. Giêsu: Đấng đầy lòng xót thương và hay tha thứ--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
45. Anh em tha thứ cho nhau--JKN
46. Chính Ta đã xót thương ngươi--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
47. Chúa Nhật 24 Thường Niên--Jaime L. Waters
48. Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Alfonso
49. Hai người lính--Lm. Mark Link, SJ
50. Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
51. Nhân quả--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
52. Tha thứ, nét độc đáo nhất của người công giáo--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
53. Tha thứ, hoà giải--Lm. Nguyễn Bình An
54. Tha thứ không giới hạn--Lm. FX. Vũ Phan Long
55. Tại sao không tha?--Lm. Nguyễn Hùng
56. Bài học tha thứ--Lm Trần Bình Trọng
57. Tha thứ
58. Tha thứ
59. Tha thứ
60. Bảy mươi lần bảy!
61. Tha thứ
62. Tha thứ
63. Tha thứ
64. Tha thứ
65. Tha thứ
66. Tha thứ
67. Hãy tha thứ để được thứ tha
68. Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân
69. Tha thứ thật thà--Huệ Minh
1.Hết lòng tha thứ--‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
"Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng.
Bạn không hiểu điều bạn đã làm.
Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành
được gặp lại nhau trên Thiên quốc,...
Chúa là Chúa của hai chúng ta."
Đó là lời trối của cha Christian de Chergé viết
cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình,
bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.
Ta không thấy có chút hờn oán nào.
Cha coi kẻ giết mình như một người bạn,
một người trộm lành như cha,
và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên,
đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ.
Tha thứ để làm cho oán tiêu tan,
để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác:
Tôi phải tha thứ cho anh em tôi
vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.
Đời tôi là một chuỗi những vấp ngã,
được đan kết với bao thứ tha.
Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi,
nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù,
nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa.
Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng.
Luật mắt đền mắt là luật công bằng,
nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù.
Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.
Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi,
dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.
Qủa tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ,
không phải 7 lần, mà là 70 lần 7,
nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa,
để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ,
vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha,
khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình,
khi chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.
Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này:
"Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ."
Gợi Ý Chia Sẻ
Tha thứ cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù?
Ở Angiêri đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bị nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu Nguyện
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2.Mắc nợ và trả nợ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Các tôn giáo đều dạy người ta tha thứ cho người làm hại mình.
Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử dạy: “Dĩ đức báo oán.”
Phật giáo cũng đề cao lòng khoan dung để được thanh thản.
Qua dụ ngôn trên đây, Đức Kitô dạy ta phải tha thứ.
Hơn nữa, Ngài còn cho biết tại sao ta phải tha thứ cho anh em.
Không phải chỉ để oán tiêu tan hay buông bỏ phiền não,
nhưng đơn giản là vì có một tương quan bộ ba gắn bó chặt chẽ
giữa Thiên Chúa, tôi, và người anh em của tôi.
Đức Giêsu kể chuyện anh đầy tớ nợ nhà vua món tiền cực lớn.
Mười ngàn yến vàng tương đương với sáu mươi triệu ngày công.
Người ấy phải làm một trăm sáu mươi bốn ngàn năm mới trả nổi!
Chúng ta không hiểu tại sao anh lại nợ vua món tiền lớn như vậy.
Dù bán anh, bán vợ con, và toàn bộ tài sản của anh cũng chẳng đủ.
Dám hứa trả cho hết số nợ đó là một lời nói dối trơ trẽn (Mt 18,26).
Chỉ một người có thể giải quyết được vấn đề, đó là nhà vua.
Cần một tấm lòng để có thể xóa sạch món nợ trong phút chốc.
Vì chạnh lòng thương, nên nhà vua đã tha nợ và thả anh ta.
Biết đâu sau này anh lại được nhà vua trọng dụng.
Nhưng anh đầy tớ này lại không có lòng thương xót như chủ anh.
Anh không thể tha cho một đầy tớ khác của chủ,
nợ anh một món tiền chỉ bằng hơn ba tháng lương,
dù người đó đã làm y như anh: đã sấp mình, năn nỉ xin tha nợ.
Món nợ này quá nhỏ so với món nợ anh vừa được tha,
nhưng anh vẫn quyết đòi cho bằng được.
Vì không chấp nhận trì hoãn nên anh tống người bạn đó vào ngục.
Câu chuyện đến tai ông chủ, và điều bất ngờ đã xảy ra.
Ông kêu anh lại và gọi anh là “tên đầy tớ độc ác.”
Ông nổi cơn thịnh nộ và rút lại quyết định tha nợ cho anh.
Như thế, món nợ vẫn còn nguyên, và anh sẽ chẳng bao giờ trả hết.
Ông chủ cho biết lý do khiến ông nổi giận và đổi ý:
“Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta,
há ngươi lại chẳng phải thương xót bạn ngươi,
như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33).
Tội của anh đầy tớ này là tội không có lòng thương xót như chủ.
Dụ ngôn trên đây của Đức Giêsu đòi chúng ta đối xử với nhau
như chính Thiên Chúa đã đối xử với từng người chúng ta.
Tha thứ bắt nguồn từ lòng thương xót.
Tha thứ cho tha nhân được đặt nền
trên tình thương mà mỗi người cảm nhận được từ Thiên Chúa.
Càng cảm nhận mình được Chúa xót thương và tha thứ
ta càng dễ cư xử tương tự với tha nhân.
Càng biết mình đã được tha món nợ lớn
ta càng dễ tha những món nợ nhỏ của anh em.
Tất cả nền luân lý Kitô giáo mời ta bắt chước chính Thiên Chúa.
Hoàn thiện như Ngài, thương xót như Ngài (Mt 5,48; Lc 6,36),
nhân hậu với kẻ xấu và bất chính như Ngài (Mt 5,45; Lc 6,35),
kiên nhẫn với cỏ lùng như Ngài (Mt 13,29-30),
tha thứ cách quảng đại như Ngài (Mt 18,22.27).
Bài Tin Mừng hôm nay thật là một tin mừng,
vì dạy chúng ta cách để vào Nước Trời, đó là tha thứ.
Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ cho ta từ trước rồi,
vấn đề là làm sao giữ được ơn ấy cho đến ngày nhắm mắt.
Chúng ta chỉ giữ được nếu chấp nhận chuyển đi cho tha nhân.
Chuyển đi là cách duy nhất để giữ lại (Mt 6,14-15).
Đức Thánh Cha kêu gọi người ta đừng dùng tôn giáo
như phương tiện để kích động lòng thù ghét, cuồng tín cực đoan,
nhưng như con đường để diễn tả lòng bao dung tha thứ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa,
và đừng để con quên lời Chúa dạy:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
Là làm cho chính Ta.”
Tạp chí Prier.
3.Phải tha thứ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
4.Vị thẩm phán chí công--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc sống luôn đầy rẫy bất công. Những người nghèo và thấp cổ bé miệng phải chịu nhiều oan ức, nhất là trong những chế độ chính trị hà khắc và độc tài. Con người có xu hướng chịu đựng và buộc chấp nhận, như một thứ luật rừng trong xã hội: cá lớn nuốt cá bé. Trước những bất công, nhiều khi người ta chỉ biết kêu trời.
Phải chăng lúc nào lý cũng thuộc về kẻ mạnh? Phải chăng những người bé mọn luôn phải gánh chịu những thiệt thòi? Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: Không phải như vậy. Thiên Chúa là vị Thẩm phán chí công. Người lắng nghe và bênh vực những người cô thế cô thân và những người bị gạt ra bên lề của cuộc sống.
Trong Bài Tin mừng, vị Thẩm phán được diễn tả như một vị vua và với cách gọi “tôn chủ”, thể hiện người đáng kính trọng và là một người liêm khiết. Vị tôn chủ đã chạnh lòng thương trước lời van xin của người đầy tớ và sẵn sàng tha cho hắn món nợ rất lớn là mười ngàn yến vàng. Chúng ta nhớ đến bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế (x. Mt 25,31-46). Lúc đó, vị thẩm phán cũng được gọi là “Đức Vua” xét xử người lành cũng như kẻ dữ, tuỳ theo việc họ đã làm khi còn sống trên dương gian. Trước đó, vị thẩm phán cũng được dùng với danh xưng “Con Người”. “Con Người” hay “Con loài người” là danh xưng chính Chúa Giêsu đã dùng để chỉ bản thân Người. Như thế, vị thẩm phán sẽ xét xử loài người là chính Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Hình ảnh vị tôn chủ trong Tin Mừng hôm nay cho thấy đó là vị Thẩm phán vừa công bằng vừa bao dung nhân hậu. Vị thẩm phán ấy chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con người và sẵn sàng tha thứ nếu người ấy khiêm tốn kêu xin. Tuy vậy, ngài cũng nghiêm khắc với kẻ gian manh, chỉ biết khúm núm trước người chủ nợ, mà lại táng tận lương tâm đối với bạn hữu đang mắc nợ mình chỉ có một trăm quan tiền, trong khi món nợ mình được tha có giá trị gấp nhiều lần.
Nếu Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân hậu, thì những ai tin vào Ngài cũng phải khoan dung nhân hậu như thế. Những ai cố chấp, hận thù và ích kỷ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Người đầy tớ có trái tim chai đá trước lời van xin của tha nhân bị ông chủ kết án là đồ gian ác. Hơn thế nữa, anh ta phải vào tù và phải trả món nợ trước đây ông chủ đã có ý tha, vì thấy anh ta đáng thương và vì lời van xin thống thiết. Trong thực tế, con người dễ hạ mình trước mặt Thiên Chúa, nhưng lại xảo trá và mưu mô đối với đồng loại. Lời kết câu chuyện của Chúa Giêsu cũng là tóm lược lời kinh Lạy Cha: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đây cũng là nội dung của Bài trích sách Huấn Ca: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Bài đọc I). Bao dung nhân hậu, tha thứ yêu thương. Đó là cốt lõi của giáo huấn Kinh Thánh, nhất là trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hãy tha thứ vì con người sống trên trần gian đều là bất toàn. Khi tha thứ, ta mở cho người khác một con đường hướng tới tương lai. Giáo huấn Kitô giáo còn khẳng định: khi tha thứ là ta được thứ tha; khi cho đi ta sẽ nhận lãnh. Tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, sự thanh thản và yêu đời. Người Việt Nam chúng ta thường nói” đời có vay có trả”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Có người bức xúc vì thấy kẻ gian ác cứ sống nhơn nhơn, bất chấp đạo lý luân thường, ấy vậy mà họ vẫn giàu có hoặc may mắn. Nếu họ chưa phải trả giá cho sự gian ác họ đã gây ra cho người khác, là vì chưa đến thời đến buổi đó thôi, vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát”, như cổ nhân đã dạy.
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Ông Phêrô vừa đặt câu hỏi, vừa tự đưa ra câu trả lời. Khi khẳng định tha thứ bảy lần, ông cũng cho mình là rất quảng đại, vì thói quen của người Do Thái thường tha cho một người xúc phạm mình hai lần (Theo Anselm Grün, một chuyên viên Kinh Thánh). Số 7 cũng là con số hoàn thiện. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, Phêrô cũng như những ai tin vào Chúa phải tha thứ vô biên, không giới hạn và lặp đi lặp lại nhiều lần tới mức không đếm xuể. Chúa Giêsu so sánh chúng ta với người đầy tớ cứng lòng không tha cho bạn mình, trong khi Thiên Chúa là Đấng bao dung. Ngài đã tha hết mọi nợ nần cho chúng ta trong Con của Ngài. Xin lưu ý chữ “đồng bạn” được sử dụng năm lần trong đoạn Tin Mừng này để chỉ mối tương quan giữa hai người cùng là con nợ. “Đồng bạn” ở đây có nghĩa là tha nhân và là người cùng phục vụ một tôn chủ
Trong hành trình cuộc đời, con người sống với và sống cho tha nhân. Chỉ khi nào ý thức được điều này, chúng ta mới tìm được hạnh phúc. Một cuộc sống biết chia sẻ cảm thông sẽ đong đầy niềm vui. Cũng vậy, ý thức sống hay chết đều thuộc trọn về Chúa sẽ giúp chúng ta cảm nhận được tình thương của Ngài giữa những khó khăn trắc trở trong cuộc đời. (Bài đọc II). Chúa Giêsu là mẫu gương cho chúng ta về tâm tình phó thác. Người cũng là mẫu mực cho chúng ta triết lý sống vì hạnh phúc của tha nhân. Trên cây thập giá, Chúa đã xin ơn tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Yêu thương và tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù, những đức tính này làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô.
5.Tại sao tha thứ?—Hồng Y Cantalamessa
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều:
* * *
NHƯNG NGƯỜI TA PHẢI THA THỨ BAO NHIÊU?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: "Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, "mắt đền mắt, và răng đền răng," đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: "Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh", nhưng, "Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác." Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: "Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn " Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu." Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng "bảy mươi lần bảy."
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác-- nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói: "Tôi tha thứ cho anh!", chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta: "Xin tha thứ cho tôi!" Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
6.Hết lòng tha thứ cho nhau--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Lịch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau: “Lê Lợi sai tướng đem chiến lợi phẩm thu được ở trận Chi Lăng vào tận doanh trại của chủ tướng Tàu là Mộc Thạch. Mộc Thạch biết Liễu Thăng bị chết, đại quân bị bại, hoảng sợ chạy về Tàu. Vương Thông đóng quân ở Đông Quan, khiếp đảm, xin cầu hòa - Lê Lợi đồng ý, còn cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước. Nhờ sự tha thứ cho hàng vạn kẻ thù, dân nước được sống hòa bình thịnh vượng. Đó là kết quả của sự tha thứ trong lịch sử Việt Nam.
Còn một sự tha thứ vĩ đại hơn nữa trong lịch sử loài người, là sự tha thứ của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người được Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga. 1, 29).
Ngài là Đấng xóa tội trần gian, nên Ngài nói với người phụ nữ tội lỗi: “Tội chị đã được tha rồi” (Lc. 7, 48).
Ngài cũng tha tội cho người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” và cho anh đứng dậy vác chõng về (Mt. 9, 2). Dù các kinh sư và Pharisiêu dựa vào luật Môisê kết án người phụ nữ ngoại tình, Ngài vẫn tha thứ cho chị: “Tôi không lên án chị đâu, chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thế là Ngài đã tha tội, tha chết cho chị, và không ai có quyền lên án chị nữa (Ga. 8, 11).
Ngài đã tha thứ, và Ngài dậy chúng ta phải tha thứ như người cha tha thứ và vui mừng đón rước đứa con phung phá (Lc. 15, 11-32). Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện để biết tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa Cha đã tha nợ cho chúng ta (Mt. 6, 9-15).
Nhưng lòng con người quá hẹp hòi, cứng cỏi, cùng lắm chỉ tha được đến ba lần: “quá tam ba bận” hoặc hơn chút nữa như luật sĩ tha đến bốn lần. Phêrô tưởng mình tha đến bảy lần thì đã xứng đáng làm tông đồ của Thầy rồi. Không ngờ, Thầy dậy phải tha đến bảy mươi lần bảy: một con toán khổng lồ hàng tỉ lần, thời đó không thể đếm được. Cụ thể hơn nữa, cho ông và mọi người hiểu một cách thấm thía, lòng thương yêu tha thứ vô cùng của Thiên Chúa đối với con người, và lòng độc ác dã man của con người với con người. Qua câu chuyện đầy xúc động sau: Một đầy tớ nợ ông chủ 10.000 nén vàng, nếu bán hết vợ con, tài sản và y đi, cũng không trả đủ. Thế mà, y xin tha, chủ tha luôn. Nhưng bạn y, chỉ nợ y có 100 đồng bạc, chẳng đáng chút nào cái nợ y nợ ông chủ, thế mà bạn y xin khất ít lâu sẽ trả. Y không tha, lại túm lấy, bóp cổ, đánh đập, bỏ tù bạn y.
Không còn cái cảnh bi đát nào tả được lòng độc ác của con người không biết tha thứ cho nhau nữa!
Phêrô nghĩ sao? Chúng ta nghĩ sao? Khủng khiếp đến chừng nào khi không biết tha thứ cho anh em?
Hình như Phêrô cũng như chúng ta chẳng thay lòng đổi dạ gì khi nghe câu chuyện có thực trăm phần trăm đó. Vì chính Phêrô vừa mới rước Mình và Máu thánh Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, thế mà, ông đã hăng tiết rút gươm ra chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy (Mt. 26, 27-51). ông không thể tha thứ được. Chỉ khi ông được Thầy tha tội chối Thầy (Mt. 26, 74-75), chỉ khi ông thấy Thầy bị treo trên Thập giá mà vẫn cầu nguyện xin tha cho kẻ thù của Thầy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc. 23, 34) và nhất là khi thấy Thầy sống lại đầy uy quyền mà Thầy vẫn không trách cứ ông, và không hề trả thù đứa quân dữ nào; chỉ khi đó Phêrô mới thấm thía sâu sắc: “Phải hết lòng tha thứ cho anh em”, chỉ khi đó Phêrô mới thực sự thuộc về Chúa Kitô, mới sống cho Chúa Kitô và cùng chết với Người (Rm. 14, 7-9 - Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin cho con nhớ rằng: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Chúa. Kẻ nuôi lòng hờn giận, thế mà dám xin Chúa ban ơn lành, nó chẳng biết thương đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình” (Hc. 27, 30-28. 1-5 và Mt. 6, 14-15). Lạy Cha, xin cho con luôn luôn tụng niệm lời cầu xin của Đức Kitô: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”, để con được Cha tha tội cho con. Amen.
7.Lòng thương xót--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường dựa vào đó để nài xin Thiên Chúa nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình, nhưng ít khi ao ước khao khát trở nên nhân hậu theo mẫu tuyệt hảo là Thiên Chúa. Một khi con người sống nhân hậu thì họ trở nên hoàn hảo và sống hạnh phúc hơn.
1. Hận thù ghen ghét
Hận thù và ghen ghét, muốn làm hại người khác, muốn người khác khổ, muốn những tai họa đổ xuống trên đầu người mình thù ghét và những người thân của họ, không muốn người khác sung sướng hạnh phúc, điều này làm người khác và chính mình sống trong buồn bực lo lắng bất an.
Người hận thù cưu mang, nuôi dưỡng tư tưởng làm hại người khác trong lòng họ. Những giây phút họ thoải mái là những giây phút họ quên ý định hận thù, nhưng khi họ nhớ tới, là họ bị nung nấu và họ không thoải mái hạnh phúc. Có những người luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng người khác luôn suy nghĩ và tìm cách làm hại mình, muốn điều xấu cho mình; khi cưu mang suy nghĩ như vậy, chính người đó cũng bất an cực khổ. Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói, ai sống trong thù hận ghen ghét, luôn nghĩ xấu cho người khác, đã phần nào sống trong hoả ngục rồi, nếu hiểu hoả ngục là tình trạng không hạnh phúc, luôn bị dày vò day dứt đau khổ. Và cũng trong ý nghĩa này người ta nhận ra, Thiên Chúa không tạo nên hoả ngục, nhưng chính con người tạo ra hoả ngục cho chính mình.
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, muốn người khác trở nên tốt lành hầu họ nhìn nhận đúng thực tại, để họ bình an và hạnh phúc hơn. Khao khát cho mình và cho người khác trở nên trọn lành, ngay cả những người không ưa hay ghét mình, là khởi đầu của tình yêu đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa.
2. Không thương xót là không yêu thương
Trong Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Yêsu cho chúng ta nghe một dụ ngôn về lòng thương xót. Một người mắc nợ chủ, không có gì để trả, đáng lẽ phải bị bán làm nô lệ để trả nợ; anh ta van xin và nhận được lòng thương xót của chủ, và anh ta đã không bị bán nữa mà còn được tha cả món nợ. Thế nhưng anh ta đã không thương xót người bạn, khi người bạn chỉ nợ anh ta một chút xíu so với cái nợ to lớn của anh ta đối với chủ mà anh ta đã được tha “nhưng không.” Anh ta đưa người bạn ra tòa, để rồi người bạn phải vào tù vì “thiếu công bằng,” vì đã không hoàn trả nợ khi đến thời hạn. Theo “luật” công bằng, anh ta có thể làm như vậy, vì ai mắc nợ thì phải trả; tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta đã không có lòng thương xót như anh ta đã van xin lòng thương xót của chủ.
Không lòng thương xót, không động lòng trước nỗi khổ của người khác, không động lòng trước sự bất lực của người khác, đòi phải “công bằng” khi người ta không thể trả nợ được, là điều bất nhân. Công bằng đúng nghĩa, phải luôn luôn hàm chứa yêu thương. Nếu không có yêu thương, không có công bằng. Con người là một giá trị “tuyệt đối” theo một nghĩa nào đó. Lòng thương xót đòi phải thông cảm ngay cả những giới hạn yếu đuối của con người, ngay cả khi họ “sa ngã” phạm tội. Khi nói sa ngã, hàm chứa lúc yếu đuối họ làm như vậy nhưng bây giờ họ không muốn như vậy nữa. Thông cảm và tha thứ, là dấu chỉ của tình yêu. Ai không tha thứ, là không yêu thương, và như vậy không hành xử giống như Thiên Chúa, không là con của Thiên Chúa.
Thánh Yoan nói, Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương. Ai yêu thương là sống như Thiên Chúa, ai không yêu thương là không sống như Thiên Chúa, là không sống như con cái Thiên Chúa. Kitô giáo là đạo yêu thương, chính vì vậy thánh Phaolô nói: yêu thương là chu toàn tất cả lề luật. Đức Yêsu nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái mới của giới răn Đức Yêsu dạy các môn đệ của Ngài, là hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương đến hiến mạng sống cho người khác, cho tất cả mọi người bao hàm cả chúng ta; và đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
3. Tình thương và hạnh phúc
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để cho con người chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm cho con người, mỗi khi con người trở lại với Ngài. Hơn nữa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi lòng mỗi người, mời gọi con người sống yêu thương, mời gọi thúc đẩy tội nhân sám hối trở lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn tất cả được cứu độ, nhưng tuỳ con người. Ngài mời gọi, và con người có tự do. Ngài liên lỉ mời gọi con người hãy sống trong tình yêu của Ngài và với người khác, Ngài kiên nhẫn với con người, với tội nhân cho tới giây phút cuối đời mỗi người. Nếu ai cố tình từ chối lời mời gọi tình yêu, nếu ai cố tình sống trong thù hận như ma quỷ là những thần linh thù ghét Thiên Chúa và không muốn con người sống hạnh phúc, thì những người đó mới phải vào hoả ngục thôi. Và hoả ngục, cũng chính là do họ chứ Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Thiên Chúa không muốn ai đau khổ và bất hạnh.
Yêu thương là khởi đầu của một đời sống hạnh phúc. Yêu thương, thông cảm với nỗi khổ và yếu đuối của người khác, tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, muốn cho người khác những điều tốt lành, tìm cách làm cho người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn, đỡ cô đơn hơn, là cách hành xử của những người đang sống như con cái Thiên Chúa, đang sống trong yêu thương. Và chắc chắn những người sống như vậy, họ cảm nghiệm hạnh phúc, hạnh phúc khi làm cho người khác vui và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tha thứ, hệ tại điều nào?
2. Thiên Chúa có sẵn sàng tha thứ cho kẻ ngoan cố không? Tại sao?
3. Không yêu thương là bất hạnh. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
8.Tha thứ--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần?
Phải tha cho họ mấy lần, đặc biệt là những người đã nhiều lần xúc phạm đến chúng ta?! Liệu phải tha cho họ đến lần thứ bảy chăng?
Yêu thương tha thứ
Thiên Chúa yêu thương tha thứ cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đã bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa! Thiên Chúa luôn luôn tha thứ không kể số lần chúng ta xúc phạm Ngài!
Sách Huấn Ca dạy: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi cầu nguyện ngươi sẽ được thứ tha" (Sir.28, 2). Nếu một người còn nuôi lòng thù hận, thì sao họ lại dám xin Chúa tha thứ cho họ? Nếu một người không muốn tha thứ cho kẻ có lỗi với họ, thì họ cũng không thể đón nhận ơn tha thứ! Không phải vì Thiên Chúa không tha thứ, nhưng họ không thể đón nhận ơn tha thứ!
Thánh Phêrô hỏi Đức Yêsu: "khi anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ đến mấy lần, đến bảy lần chăng?". Đức Yêsu trả lời: không phải đến bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy!
Để trở nên con cái Thiên Chúa, phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình!
Món nợ không thể trả
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Ngài thương cảm nỗi khổ đau của con người, Ngài cứu giúp con người, giải phóng con người khỏi mọi nô lệ.
Người đầy tớ trong dụ ngôn (Mt.18, 27) không thể trả nợ! Người chủ đã động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho người đầy tớ không thể trả nợ cho mình.
Món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa cũng không thể trả, vì chúng ta- thân phận con người- xúc phạm đến Thiên Chúa, một lỗi vô cùng lớn, làm sao chúng ta có thể trả?!
Thiên Chúa đã tha thứ tất cả cho chúng ta!
Nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta, chúng ta đâu có giống Thiên Chúa. Nếu chúng ta không biết thương xót, chúng ta đâu có là con Thiên Chúa!
Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu thương thì đã chu toàn Lề Luật (Rm.13, 8).
Tình yêu, thương xót, là nét đặc trưng của con người.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa
Dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa (Rm.14, 8).
Chúng ta là của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã chuộc chúng ta! Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, ngay cả lúc sống cũng như lúc chết!
Không còn gì là của riêng mình! Nếu có gì, cũng là của Thiên Chúa.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ, và sẽ làm cho chúng ta mọi điều tốt lành. Chúng ta là dân riêng của Thiên Chúa, là "của riêng" của Thiên Chúa.
Hãy an tâm, vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Hãy yêu thương tha thứ, hãy có lòng thương xót, vì Thiên Chúa là Đấng thương xót.
Chỉ khi sống như vậy, chúng ta mới được hạnh phúc.
9.Hãy tha thứ để được thứ tha--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Hãy tha thứ để được thứ tha (Mt 18,22)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu đã nói: "Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hòa với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau". Ðó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác.
Chắc hẳn hiện giờ trong lòng anh chị em, ai cũng có một ít điều gì đó không vui đối với một vài anh chị em của mình. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm lòng quảng đại để có thể tha thứ cho những người ấy. Ðây thực là một việc cần thiết phải làm trước khi chúng ta dâng Thánh lễ.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hẹp lòng hẹp dạ không chịu tha thứ cho người khác.
Nhiều chuyện buồn rất lâu rồi mà chúng ta cữ giữ mãi trong lòng.
Chúng ta không tạo cơ hội cho kẻ có lỗi hòa giải với mình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 27,30-28,7)
Ðể khuyến khích người ta tha thứ, Ben Sira đưa ra nhiều lý lẽ:
Có tha thứ cho người khác thì khi ta cầu nguyện ta mới đáng được Chúa thứ tha.
Ðang tích lòng giận ghét người ta mà dám xin Chúa cứu chữa mình sao?
Chẳng thương xót người đồng loại mà còn cầu xin Chúa thương xót mình sao?
Người phàm xác thịt mà tích lòng thịnh nộ thì dám xin Chúa tha thứ sao?
Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
Hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
2. Ðáp ca (Tv 102)
Tv này ngợi khen tấm lòng từ bi bao la của Chúa: Ngài đã tha thứ tội lỗi cho ta, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta...
3. Tin Mừng (Mt 18,21-35)
Ðức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về hai con nợ:
Một ông quan mắc nợ nhà vua một món tiền rất lớn (10 ngàn nén vàng), nhưng đã được nhà vua tha hết.
Khi ông quan này trở ra gặp một người bạn chỉ thiếu mình có 100 nén bạc (chỉ bằng 1 phần triệu số nợ đối với nhà vua) và đã khẩn thiết van xin bằng chính những lời lẽ mà ông quan đã xin với vua, ông quan ấy nhất định không tha.
Ðược biết việc ấy, nhà vua bắt giam ông quan cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn này muốn so sánh cho chúng ta thấy tội của chúng ta đối với Thiên Chúa nặng gấp triệu lần tội người khác phạm tới ta; đồng thời cũng muốn cho biết rằng nếu ta không tha cho người khác để đưa đến kết quả là Chúa không tha cho ta, thì quả là ta rất ngu dại.
4. Bài đọc II (Rm 14,7-9)
Văn mạch: Chương 14 của thư Phaolô đề cập đến hai trường hợp khiến các kitô hữu rôma hay xét đoán nhau: 1/ có người sợ ăn lầm nhằm đồ cúng nên không dám ăn thịt mà chỉ ăn rau, có người khác nghĩ rằng lương tâm mình vững vàng nên dám ăn mọi thứ, rồi người này chỉ trích người kia; 2/ Có người tin dị đoan nên cho rằng ngày này tốt ngày kia xấu, người khác không tin cho rằng ngày nào cũng tốt, rồi hai bên lại chỉ trích nhau.
Thánh Phaolô dạy: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy quy chiếu vào Chúa, vì "không ai sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chính mình... Chúng ta sống hay chết thì đều thuộc về Chúa".
IV. Gợi ý giảng
1. "Nợ" và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ, cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: đó là cách cư xử công bình.
Nhưng trên thực tế, có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy, ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít. Trường hợp thứ hai này là: Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường hợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Ðối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa, đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác...
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin Cha tha cho chúng con - như chúng con cũng tha cho kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy . Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Ðức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất, mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù"
Ðó là một câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại. Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau nay đều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm - còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có thể nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? "Hỡi tên ác độc kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi", rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa?
Bởi thế, Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù".
4. Xin lỗi
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong mùa Chay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là không phải việc của một người mà của cả hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Ðến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Ðó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?". Vị Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".
Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình:
Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, ÐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Hội Thánh trong quá khứ. Trước khi ÐGH làm việc này, nhiều người trong Hội Thánh đã cản ngăn ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Hội Thánh. Tuy nhiên sau khi ÐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không che cười, trái lại còn khen ngợi ngài; uy tín của Hội Thánh chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt: đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Ðức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản xứ cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết Ðức Kitô là ai khi tôi đánh ngài."
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời." Chúa nói: "Ðã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh là một bà mẹ hiền / đầy lòng bao dung đối với lỗi lầm của con cái mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết luôn quảng đại tha thứ mọi xúc phạm / mọi đau khổ do kẻ khác gây ra cho mình.
2. Trong cuộc sống thường ngày / người ta vẫn còn có khuynh hướng ăn miếng tả miếng / sẵn sàng chém giết nhau / chỉ vì chưa tha thứ cho nhau như Chúa đã dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho tinh thần tha thứ của Ðức Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt thường ngày của xã hội.
3. Tha thứ / nhất là tha thứ luôn luôn / trong thực tế là một việc làm con người không thể thực hiện được / nếu không có ơn Chúa trợ giúp / Vậy Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức cho hết thảy các kitô hữu / để họ có thể tha thứ được như Chúa đã dạy.
4. Ðức Giêsu nói / "Hãy tha thứ để được thứ tha" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của người khác / hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải tha thứ cho nhau, nếu muốn được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Nhưng lạy Chúa, nói tha thứ thì dễ, còn thực hành tha thứ thì rất khó. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị...
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay chúng ta hãy hết sức thật lòng khi đọc câu "Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Chúc bình an: Qua cử chỉ chúc bình an, chúng ta hãy thật lòng tha thứ cho những kẻ làm mất lòng chúng ta, dù đang có mặt hay vắng mặt trong Nhà thờ này.
VII. Giải tán
Tuần này, chúng ta hãy cố gắng hòa giải với những người đã bất hòa với mình, và tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.
10.Hãy tha thứ cho người khác--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói:”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện:”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 27, 30 – 28.7.
Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ:
- Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.
- Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.
- Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.
- Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
- Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
+ Bài đọc 2: Rm 14,7-9.
Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Roma hay phê bình chỉ trích nhau vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề, ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu... Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo. Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định: Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài có ý khuyên: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,21-35.
Ông Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu: khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần? Có đến 7 lần không? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ: “quá tam ba bận” thôi.
Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.
Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.
Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em thì Thiên Chúa mới tha cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thứ
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tha thứ thì được thứ tha.
I. Thiên Chúa là Đấng tha thứ.
1. Trong Cựu ước.
Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín... dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt...”. Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng:”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).
Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5)? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
2. Trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói:”Các ngươi có nghe lời truyền rằng: hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng: hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời: vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán:”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói:”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
II. Con người phải tha thứ.
1. Thực hiện lời Chúa dạy.
Người ta thường nói:”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng:”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không”? Chúa Giêsu đáp:”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22; Lc 17,4).
Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố:”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.
(R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
2. Người đời và sư tha thứ.
Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:
* Nhận xét của nhân gian.
Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân:”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
* Chủ trương của hiền nhân quân tử.
Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
. Nhà Nho dạy thế nào? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu:”Dĩ đức báo oán”.
. Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
. Ông Tertullien nói:”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
. Hiền triết Marc Aurèle nói:”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.
. Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
Truyện: Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một hoàng đế Trung hoa nói:”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ tâu vua:
- Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
Hoàng đế trả lời:
- Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
* Cách trả thù hay nhất.
Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.
Ông Swift nói:”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.
Marc Aurèle nói:”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này: đừng giống họ”.
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.
Mạnh Tử nói:”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
Truyện: Trọng danh dự
Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le Tasse nghiêm trang trả lời:
- Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
(Hoàng Xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta:”Anh muốn vui sướng trong chốc lát: cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.
III. Chúng ta cũng phải tha thứ.
Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện. Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện:
. Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15; Mc 11,25; Lc 11,4).
. Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24); Mc 11,25).
Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi,và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói:”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng: không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
Văn hào Goethe đã nói:”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói:”Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không:”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
Truyện: Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói:”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa:”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp:”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
11.Tha thứ cho nhau--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chúng ta đang nói với nhau về đời sống cộng đoàn trong gia đình của Thiên Chúa. Tuần trước chúng ta nói với nhau về việc phải sửa lỗi cho nhau. Hôm nay Chúa nói với chúng ta về một vấn đề khác “gay” hơn một chút, nhưng lại rất thú vị vì nó làm nên một cái gì đó có tính cách độc đáo trong đạo của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đó là sự tha thứ
I. Bài học hôm nay bắt nguồn từ câu hỏi của Phêrô.
Hôm đó Chúa dạy các môn đệ về cách phải đối xử với người có lỗi với mình. Đại ý Chúa bảo phải tha thứ cho những người lầm lỗi khi họ thực lòng thống hối ăn năn.
Cảm thông trước lời dạy của Chúa, Phêrô lên tiếng hỏi: “Lạy Thầy nếu người anh có lỗi với con, con phải tha thứ cho họ mấy lần ? Có phải đến 7 lần không ?”
Hỏi nhưng đã có sẵn câu trả lời.
Tại sao Phêrô dừng lại ở con số 7 như một định mức mà có lẽ ông cho là thế nào Chúa cũng sẽ bằng lòng ? Tha như thế đối với ông kể ra cũng là quá lý tưởng rồi.
Có lẽ để hiểu được Phêrô chúng ta hãy trở lại một chút về phía trước một chút.
- Trong Sách Khải Nguyên cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước đoạn 4,20 Lamek tuyên bố luật “rừng” thời bấy giờ như thế này: “Phải báo thù đến 7 lần”
- Bước sang thời của Moise thì chúng ta thấy đã có tiến bộ hơn một chút nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở hai tiếng sự công bình: Mắt thế mắt, răng đền răng.
- Tiến sang thời lập quốc và thời các ngôn sứ, chúng ta thấy một số các Rabbi Do thái đã có những lập trường thoáng hơn. Họ đã bắt đầu nói đến tinh thần bác ái mà sau này Chúa đã đẩy lên đến tột đỉnh và coi đó là con đường của Ngài.
Rabbi Hanina nói: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Rabbi Jehuna dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Hai lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Ba lần họ cũng phải tha thứ cho người ấy. Nhưng lần thứ tư thì không được tha nữa.”
Các Rabbi lại dừng lại ở con số ba vì Tiên tri Amos khi nói về việc Thiên Chúa tha thứ cho những ai lỗi phạm đến Người, thì tiên tri đã nói Thiên Chúa chỉ tha thứ đến ba lần. Đến lần thứ bốn thì Ngài sẽ không tha thứ nữa mà sẽ trừng phạt.
Nếu Thiên Chúa đã làm thế thì con người không được phép “qua mặt” Người. Chính vì thế mà các Rabbi chỉ chấp nhận sự tha thứ đến lần thứ ba.
Chúng ta thường nói với nhau: “Quá tam ba bận”.
Như vậy khi Phêrô đề nghị tha đến bảy lần tức là gấp hai lần cộng một cái lằn mức của các Rabbi thì ông nghĩ là ông đã làm một cuộc cách mạng và chắc là Chúa phải bằng lòng và khen ngợi ông.
Chúng ta phải cám ơn Ông Phêrô. Bởi chính từ câu chuyện này mà chúng ta được Chúa dạy cho chúng ta một bài học thật tuyệt vời. Chúa không bảo phải tha đến bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy. Phải tha thứ luôn luôn và mãi mãi.
Tiến sĩ Morgan một trong những nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng nhất của thời đại nói: “Có lẽ chúng ta phải sống lâu lắm mới có dịp để tha thứ cho một người đến 490 lần”
II. Để cắt nghĩa bài học mà Chúa vừa đưa ta, Chúa đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn rất đẹp về ý nghĩa nhưng không được đẹp mấy về hình ảnh.
a/ Người đầy tớ của Vua trong dụ ngôn hôm nay vừa là con nợ vừa là chủ nợ.
- Anh ta là con nợ của Vua và là chủ nợ của bạn anh
- Với tư cách là con nợ anh chỉ là một người đầy tớ. Tương quan giữa anh và Vua là tương quan chủ nô.
- Với tư cách là chủ nợ anh là một người bạn. Tương quan giữa anh và bạn anh là tương quan huynh đệ. Một tương quan đẹp và cao hơn nhiều.
b/ Với tư cách là con nợ, món tiền anh mắc nợ rất lớn: 10.000 nén vàng.
Sử gia Joseph Flavius nói rằng: Món nợ này tương đương với 100.000.000Đ của người Do thái lúc đó. Và nếu cứ tính theo giá tiền công lao động lúc đó là 1đ/ngày thì số tiền đó tương đương với 100.000.000 ngày công. Đó là một món nợ lớn không thể tưởng tượng được. Đây là món nợ lớn hơn tiền chuộc một vị vua.
Người bày tôi trong câu truyện được Vua cho nợ một món tiền lớn như thế thật là truyện lạ lùng.
c/ Và với tư cách một chủ nợ, anh ta cho bạn của anh ta nợ 100 đồng....Một số tiền tương đương với 100 ngày công. Tỉ lệ 100/100.000.000. Một sự cách biệt khổng lồ.
d/ Bây giờ chúng ta coi cách nhà vua đối xử với anh và cách anh ta đối xử với bạn của anh ta như thế nào.
- Với tư cách là con nợ, khi anh bị đòi, anh không có gì trả, anh đã xin khất. Nói là khất cho đẹp chứ thực ra khả năng chi trả của anh có cả đời cũng không trả được.
Nhà vua quảng đại không những không bắt anh trả một đồng nào mà ngược lại còn tha hết nợ cho anh.
- Bây giờ đến lượt anh ta. Bạn anh mắc nợ anh 100 quan tiền
Anh đòi nợ. Bạn anh chưa có tiền để trả. Bạn anh van xin anh được khất lại một kỳ. Anh đối xử như thế nào thì tất cả chúng ta đã rõ.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này, Cha Gutziller...:”Trước mặt Thiên Chúa con người phải điều chỉnh lại mối tương quan của mình đối với người khác. Thái độ của họ đối với anh em sẽ xác định thái độ của họ đối với Thiên Chúa. Người tín hữu khi biết Thiên Chúa đối xử tốt lành đối với mình mà còn tới gần anh em mình với tinh thần khắc nghiệt thì họ sẽ đáng sự trừng phạt của Thiên Chúa”
III. Hãy biết tha thứ kính thưa anh chị em. Hận thù chẳng để lại một ích lợi gì cho chúng ta, ngược lại nó còn làm cho cuộc đời của chúng ta mất đi những niềm vui mà đáng lý ra chúng ta luôn có.
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: có một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó nữa thì thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất.
Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục, nỗi căm hờn trong lòng ông sôi lên sùng sục . Ông đi theo đoàn người áp tải tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.
Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:
- Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua ? Con người này, giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ còn hơn cả ta.
Loren Fischer ““Ghim giữ nỗi đau hay là phóng thích nó bằng sự tha thứ ? Hai điều ấy khác nhau như là ban đêm ta nằm ngủ trên chiếc gối chĩa đầy gai nhọn hay trên chiếc gối phủ đầy những cánh hồng”
Và đây là Lời của Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”(Mt 7,36-38).
12.Giảng cho thiếu nhi: Chúa nhật 24 Thường niên năm A--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta về điều gì ?
- Thưa cha về việc phải biết tha thứ cho nhau.
- Rất chính xác. Chúng con giỏi. Cha hỏi thêm đã có lần nào chúng con tha thứ cho một ai đó chưa ?
- Dạ, thưa có.
- Ai nào ?
- Bạn con.
- Bạn con làm gì con mà con phải tha thứ cho bạn ?
- Bạn con chửi con.
- Rất tốt! Bạn con chửi con, con không chửi lại và sẵn sàng tha thứ cho bạn đó. Chúng con làm thế là chúng con biết tha thứ rồi. Cha cám ơn chúng con thật nhiều.
Bây giờ cha tiếp tục nói với chúng con về bài Tin Mừng hôm nay. Nếu phải hỏi qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì thì câu trả lời có lẽ ai cũng có thể có trả lời được. Đó là Chúa muốn dãy chúng ta về bài học tha thứ.
Tại sao Chúa lại dạy như thế ? Thưa vì:
1. Vì con người không ai mà không có lỗi lầm.
Sống ở trên đời không ai mà không có lúc phạm những lỗi lầm. Chẳng ai trong chúng ta là con người thánh thiện đến mức độ không bao giờ có những lỗi lầm. Không ai trong chúng ta mà không bao giờ bị một ai đó xúc phạm đến chúng ta hoặc chúng ta không bao giờ có những lời nói hay việc làm làm buồn lòng xúc phạm đến những người khác.
Cách đây không lâu, tại nhà của một quan toà ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, nhưng không thể phân thắng bại. Cuối cùng hai người đã đưa nhau đến nhà quan toà của thành phố và nhờ ông phân xử. Người thứ nhất trình bày câu chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan toà dõng dạc tuyên bố:
- Anh có lý.
Đến lượt người thứ hai đứng lên phân trần. Anh cũng đem mọi lý lẽ ra để làm nghiêng cán cân công lý về với mình. Sau khi nghe anh trình bày dông dài, quan toà cũng tuyên bố:
- Anh có lý.
Cậu con trai nhỏ của quan toà theo dõi câu chuyện từ đầu đến giờ thấy vậy rất ngạc nhiên. Nó thành thật nói với cha của mình:
- Làm thế nào mà cả hai đều có lý cả được ?
Quan toà cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau:
- Con cũng có lý.
Mỗi người chúng ta ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác, cũng như chính phần lỗi của mình. Và đó chính là diềng mối của mọi bất hoà từ xưa đến nay.
Chính vì thế mà mỗi người chúng ta cần phải biết tha thứ cho nhau. Cuộc sống chỉ có thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm thông và tha thứ.
2. Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha.
Con người ai mà chẳng có những khi lầm lỗi. Chính vì thế mà con người phải biết tha thứ cho nhau.
Thánh Gandhi nói: “Nếu ta chỉ áp dụng luật mắt đền mắt, răng đền răng thì thế giới sẽ chỉ còn lại toàn là người mù”. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời.
Mẹ Têrêsa kể: “Tôi nhớ một lần kia, tôi lượm được một bà cụ đang thoi thóp từ giữa đống rác. Tôi ẵm bà cụ lên và đem về nhà, đặt bà trên giường.
Bà cụ biết rõ là mình sắp vĩnh biệt trần thế. Thế nhưng cụ chỉ cay đắng lặp đi lặp lại:
- Chính thằng con tôi đã đối xử với tôi như thế ? Chính thằng con tôi đã đối xử với tôi như thế ?
Bà không kêu: Tôi đang sắp chết đói, tôi đang sắp chết khát đây.
Bà chỉ day dứt hoài một điều:
- Thằng con tôi đã xử với tôi thế này!
Tôi phải đợi mất một hồi lâu mới nghe được bà cụ thều thào:
- Tôi tha thứ cho con trai tôi
Và gần như chính lúc ấy bà thở hơi cuối cùng.
Một lần khác có một anh thanh niên đang hấp hối, nhưng vẫn còn giằng co với cái chết tới ba, bốn ngày. Một chị nữ tu hỏi anh:
- Tại sao anh vẫn tiếp tục chiến đấu ?
- Tôi không thể chết, nếu tôi chưa xin cha tôi tha thứ cho tôi.
Khi cha anh đến, anh đã ôm lấy cha và xin cha thứ tha.
Hai giờ sau, người thanh niên bình an từ giã cõi đời này.
3. Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha.
Trong Tin mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Mátthêu còn thêm : “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”. (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần còn nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta .
4. Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống Chúa.
Một hiệp sỹ dũng cảm tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng, ơng chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy giữa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một ngôi nhà nguyện còn đang mở cửa. Ông vào đó để chờ cho đến sáng. Trong khi chờ đợi ông tiêu khiển bằng cách ngắm nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi một hàng chữ bằng tiếng Latinh nội dung như sau: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại bằng lăng nhục”.
Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Ngài bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế Ngài không hề đe dọa”.
Và cuối cùng, bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập Giá, với hàng chữ “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà lại với nhau. (Góp nhặt).
Chúng con yêu quí,
Cách nay đã lâu, bên Mỹ có xảy ra một vụ khủng bố. Mấy toà nhà cao ngất trời tại thành phố nổi tiếng giầu có là thánh phố New York bỉ quân khủng bố đánh bom bị sụp đổ tan tành ngày 11 tháng 9 năm 2001. Số người chết lên đến cả hàng ngàn người. Cả thế giới khi nhắc tới biến cố này đều cầu mong cho có một ngày nào đó được hoà bình. Thế nhưng hoà bình vẫn chưa xuất hiện. Tại sao thế. Tại vì như Đức Thánh Cha vị cha chung của chúng ta đã nói vào ngày người ta kỷ niệm 10 năm biến có 11 tháng 9 như thế này: “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta một thế giới biết cảm thông, chan hoà. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới chan chứa niềm vui và tha thứ để thế giới xứng đáng là ngôi nhà chung của mọi người. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
13.Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
“Thưa Cha, con đã tha thứ cho em của con và bao lần con đã cố gắng để làm hòa, nhưng nó vẫn không chịu, gặp mặt con là nó bỏ con đi chỗ khác, con thực sự rất đau buồn; xin Cha giúp con có cách nào?” Cũng có trường hợp khác “Thưa Cha, con không thể nào mà tha thứ cho người đó được, cho dù người có đi đâu, có chết và hóa ra tro đi nữa con cũng không thể nào tha thứ; mỗi khi nghĩ đến, hay nghe nhắc tới cái tên của người đó là con rất giận, điên tiết lên được; Cha thấy đó, làm sao con có thể tha được đúng không?” Không biết anh chị em đã có lần có rơi vào một trong hai hoàn cảnh đáng thương này không? Nếu có, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì để được tha thứ, hòa giải với nhau? Nếu được đưa ra lời khuyên hay sáng kiến để hòa giải, chúng ta sẽ phải làm gì? Thật vậy, với tài sức và khả năng hạn hẹp, thật khó và quá nan giải, để có thể tha thứ, làm hòa và ngay cả đưa ra phương cách để giúp đỡ nhau. Tạ ơn Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi đường dẫn lối cho chúng ta. Miễn là chúng ta biết khiêm tốn, chịu mở lòng, để cho ơn của Thánh Thần tác động và cố gắng thực thi với ơn sức mạnh của Chúa.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đưa ra cho chúng ta lời dạy và mẫu gương của Chúa Giêsu trong việc tha thứ. Thật ra, chúng ta không thể nào tha thứ cho anh chị em mình, nếu trước tiên chúng ta không cảm nhận và tin rằng chính bản thân mình đã được yêu thương tha thứ bởi Thiên Chúa là “Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.” Nếu không có ơn tha thứ của Chúa trong tâm hồn và đời sống, thì cho dù chúng ta có cố gắng nỗ lực cách mấy đi nữa, e rằng với sức của mình may ra chỉ “quá tam ba bận” để mà tha thứ cho anh chị em mình. Khi đưa ra vấn đề cho Chúa về việc tha thứ, Phêrô đã đặt ra một con số mà ông cho và tưởng chừng là quá hoàn hảo, không thể tốt hơn được. “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Khi hỏi điều này, có thể Phêrô cho rằng, Chúa sẽ đồng ý và tán dương cách ông làm như vậy. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với mong muốn của Phêrô và đã làm cho ý tưởng cao đẹp ông của bị sụp đổ. “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” Thật vậy, con số “bảy mươi lần bảy” mà Chúa Giêsu đưa ra nghĩa là tha thứ không có giới hạn về số lần, tha thứ vô điều kiện. Đây không chỉ là lời dạy hay giáo điều, nhưng chính là căn tính yêu thương khoan dung và tha thứ của Thiên Chúa đang dành cho chúng ta.
Vậy làm sao chúng ta có thể sống tha thứ theo như cách mà Chúa Giêsu đã đưa ra và chỉ dạy? Dụ ngôn giữa ông chủ rất phóng khoáng và giàu lòng nhân nghĩa, hoàn toàn trái ngược với sự ích kỷ, hẹp hòi và bất nhân của tên đầy tớ. Câu chuyện này đang phản ánh chính thực tế về mối tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi con người chúng ta. Nếu chúng ta thử làm một phép tính về việc hơn thiệt qua cách đề nghị của Chúa Giêsu: “Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Thử hỏi trong một ngày, một tháng, một năm, người khác đã xúc phạm, gây lỗi với chúng ta bao nhiêu lần? có nhiều đến mức mà không đếm được không? mình có thể tha thứ không, nếu có thì mấy lần? Trong lúc đó, mỗi ngày trong cả cuộc sống, chúng ta đã không biết bao nhiêu lần phạm lỗi đối với Chúa, con số là vô vàn, không thể đếm được. Như vậy, phần thiệt là chắc chắn 100% là thuộc về chúng ta.
Biết vậy, nghe thì cũng hợp lý, nói thì dễ, nhưng để thực hành thì thật là khó, vì sự hẹp hòi ích kỷ của bản thân và sức hạn hẹp của con người. Thì đây, chính là lúc mà chúng ta cần đến ơn trợ giúp của Thiên Chúa. Vì không phải chính chúng ta, nhưng Thiên Chúa là Đấng tha thứ và ban ơn. Những lúc mà chúng ta không thể sống tha thứ, thì hãy nhớ lời dạy từ Sách Huấn Ca: Dẫu biết rằng với thân phận yếu đuối tội lỗi, chúng ta luôn mang trong bản tính của xác thịt những thói hư nết xấu như thịnh nộ, giận dữ, ghen ghét; tất cả những thứ đó đều ghê tởm và đáng lên án. Ai trong chúng ta cũng biết, và chắc hẳn không ai muốn mình bị coi khinh và bị lên án vì nó. Nhưng làm sao để chúng ta có thể. Cầu nguyện để xin ơn tha thứ là phương cách để giúp cho chúng ta có sức mạnh mà có thể lướt thắng những yếu đuối đó. “Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.”
Đấng đáng kính ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận khi được hỏi, làm sao Ngài có thể tha thứ cho những người bắt hại, tống giam tù tội, và gây nên cho Ngài bao nhiêu cực hình. Ngài đã trả lời: “Vì Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho tôi, chính Chúa và đạo của Chúa dạy tôi phải yêu thương, tha thứ”. Và trên hết sức mạnh để Ngài có thể tha thứ cho mọi người, đó chính là cầu nguyện; “cầu nguyện cho chính mình, cầu nguyện cho những người bách hại, làm khổ mình để họ cũng được Chúa ban ơn mà sống tốt.” Thật vậy, chỉ có ơn Chúa qua sức mạnh của cầu nguyện mới giúp cho chúng ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, để chúng ta mới có thể phần nào sống quảng đại vị tha với anh em mình.
Lạy Chúa, thật là khó, và dường như không thể đối với chúng con khi phải yêu thương tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Dẫu biết vậy, nhưng xin hãy luôn ban sức mạnh hầu giúp chúng con luôn vững tin vào tình yêu thương tha thứ của Chúa; xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để cảm nghiệm được chính ân sủng này. Nhờ đó, chúng con sẽ có một trái tim biết yêu thương quảng đại, để mỗi ngày chúng con sẽ cố gắng và sẵn sàng tha thứ cho anh chị em như chính Chúa yêu thương tha thứ cho chúng con. Amen.
14.Công bằng phải trả--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Chúa Giêsu đã trả lời cho Thánh Phêrô về sự tha thứ. Đó là tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha mãi, tha hoài, tha vô hạn định. Tuy nhiên, qua phần dụ ngôn kế tiếp cho thấy, mặc dù được tha nợ quá lớn, quá nhiều, nhưng con người chúng ta, như người đầy tớ đã không chịu tha thứ, tha nợ cho người khác.
Vì sao con người chúng ta lại khó mà tha thứ cho nhau?
Ai đó đánh tôi, tôi có đánh lại không? Ai đó cướp bóc hành hạ tôi, tôi có trả thù không? Ai đó mắng chưởi hay nói hành nói xấu tôi thì liệu tôi có im lặng chịu thua không? Có lẽ chỉ người điên điên khùng khùng không nghe không hiểu, hoặc lành thánh lắm mới im lặng tha thứ.
Trả thù như đã nằm trong bản năng hiếu chiến của con người nên khó mà làm ngược lại. Trong các phim võ hiệp Trung quốc, một nét khá nổi bật, đó là sự trả thù. Dĩ nhiên là phải có thù hận mới có đánh nhau, nếu không có thù hận làm sao đánh nhau. Thế nhưng có điều rất lạ là việc trả thù được coi như là một nghĩa vụ. Con phải báo thù cho cha mẹ, trò phải báo thù cho sư phụ, nếu không thì mang tội bất hiếu, bất trung, hơn thế nữa mang tội với trời đất.
Tại sao họ làm như vậy? Không những vì bản năng đấu tranh để sinh tồn mà còn vì quan niệm: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Đó là quan niệm căn cứ trên lẽ công bằng.
Chính cái lý lẽ công bằng có sẵn trong tâm trí con người đã khiến con người không thể tha thứ: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Nói một cách khác, tâm trí ta không chịu được sự bất công, sự phi lý của kẻ khác. Thằng hàng xóm nó lừa gạt ta, ta phải cho nó biết tay; anh em trong nhà bê tha rượu chè, trộm cắp tiền bạc, đứa con dâu hổn hào láo xược, tôi phải cho nó một bài học, phải trừng trị thích đáng!
Thế thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi cái lý lẽ trói buộc ta như thế?
Chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự ghen ghét, thù hận, hay thoát khỏi những tức giận của ta trước sự bất công, phi lý. Ngài chỉ cho ta thấy, chính vì sự công bình mà đòi ta phải tha thứ.
Anh đã được tha thứ, vậy anh phải tha thứ thì mới công bằng chứ. Anh đã được tha nợ mười ngàn nén vàng mà bây giờ anh lại không tha cho người khác chỉ nợ anh có một trăm nén bạc. Quả là bất công! Anh phải bị phạt vì anh hành xử cách bất công quá lớn.
Mỗi người chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa ân huệ quá lớn. Ta được tạo dựng từ hư không, được sinh sống và lớn lên trên quả địa cầu này, sử dụng đất đai cầy cấy, nuôi trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sông núi biển khơi, hưởng gió mát trăng thanh... mà chẳng phải trả cho Thiên Chúa một đồng nào. Nếu như Thiên Chúa đòi trả thì ta phải trả cho Ngài bao nhiêu? Quả là vô giá và không thể nào trả nỗi. Thiên Chúa còn cho Con Ngài là Đức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá để chuộc tội chúng ta, để chúng ta có thể sống hạnh phúc mãi mãi đời sau. Nếu Thiên Chúa đòi thì ta trả Ngài bao nhiêu?
Thật ra, ta chỉ giả thiết chứ Thiên Chúa không bao giờ đòi ta trả một cách tương xứng, Ngài chỉ đòi ta tha thứ cho người khác, yêu thương người khác. Một sự tha nợ, tha thứ của ta cho dù ta thấy lớn, ta thấy rất lớn, thật sự vẫn là quá bé nhỏ so với ân huệ lớn lao, mà ta đã thụ hưởng, đã lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Tại một nhà thờ ở bên Tây Ban Nha, có một tượng Thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ thánh giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa ra phía trước trong tư thế ban phước lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng Thánh Giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với một vị linh mục chính xứ ngay dưới chân cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật đó, không bao lâu người đó lại sa ngã. Lần này sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây Thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe một tiếng thì thầm từ bên Thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi Thánh giá và ban phép lành cho tội nhân. Và vị linh mục lại nghe tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính ta là người đổ máu ra cho người này, chứ không phải là ngươi".
Bên kia của sự oán thù, của sự không thể tha thứ, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, không ngừng ban phát ơn huệ, một tình yêu vượt lên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên Thập giá chúng ta cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài, cảm nếm được ân huệ vô song từ Thiên Chúa, mà ta chẳng bao giờ có thể đáp đền cho cân xứng được. Xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nếm được những ân huệ lớn lao, tình yêu thương vô bờ bến đó, để chúng ta có được động lực mà ban phát, mà cảm thông, mà tha thứ cho anh chị em của chúng ta.
15.Tha thứ như đã được thứ tha--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ, chúng ta đã từng nghe ít nhiều câu nói của Đức Giê-su “ai yêu mến nhiều thì sẽ được thứ tha nhiều” (x. Lc 7, 47). Thiết nghĩ, nếu chúng ta thật sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta sẽ nghiệm thấy chúng ta được tha thứ vô vàn; và nếu chúng ta yêu thương anh chị em thật tình, yêu như yêu chính bản thân mình, thì chúng ta cũng sẽ tha thứ cho anh chị em mình nhiều, bất luận họ ra sao, hoặc bất luận lỗi lầm của họ thế nào!
Các bài đọc hôm nay phát hoạ rõ ràng cách thức Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, và Ngài đòi hỏi chúng ta cũng sống thứ tha cho anh chị em như vậy. Mỗi khi chúng ta mắc lỗi phạm đến Chúa hay anh chị em, chúng ta đều mong muốn được tha thứ ngay, tha thứ liền và tha thứ một cách nhanh chóng như lòng kỳ vọng. Nhưng khi anh chị em trót gây ra lầm lỗi, sai phạm đến chúng ta thì dường như chúng ta chẳng chịu tha, hoặc chần chừ, có khi giữ mãi trong lòng cho tới lúc nhắm mắt suôi tay. Thật tiếc cho chúng ta nếu đang trong tình trạng hay tâm trạng như thế, vì một lẽ chắc chắn là lòng bất an, ray rứt, tâm bất tịnh, cồn cào, não ruột; còn người mắc lỗi có như vậy hay không, chúng ta không biết, và thậm chí cũng không cần biết tới! Có lẽ họ vẫn vui tươi với cuộc sống hằng ngày, họ vẫn ung dung tự tại như bao người khác…, nhưng tâm hồn chúng ta (là những người không tha thứ, không chịu tha thứ, không muốn tha thứ) sẽ chẳng nguôi ngoai, trái lại, luôn thổn thức, và cuộc sống chúng ta chẳng mấy vui tươi, hân hoan thật tình.
Để hiểu rõ hơn Thiên Chúa yêu thương, tha thứ chúng ta đến mức độ nào, và Người đòi hỏi chúng ta tha thứ cho anh chị em ra sao thì chúng ta cùng tìm hiểu một chút về bản văn gốc của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Bản văn tiếng Việt dịch là: tên đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn nén vàng/bạc, còn người bạn của hắn thì nợ hắn 100 nén bạc. Nếu so về số lượng 10 ngàn nén vàng/bạc với 100 nén bạc, thì chúng ta cũng thấy cũng khá nhiều (gấp 100 lần). Tuy nhiên, nếu nhìn bản văn gốc thì chúng ta càng ngạc nhiên, và hiểu rõ hơn ông chủ trong dụ ngôn đã tha thứ cho tên đầy tớ nhiều như thế nào. Người tôi tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (đơn vị nén vàng/bạc Hy Lạp) và bạn của hắn nợ hắn chỉ có 100 denarii (đơn vị nén bạc Hy-La, số ít là denarius). Theo cách tính thời đó, 1 talanton khoảng 6 ngàn denarii, 1 talanton ngang bằng tiền lương trong vòng 20 năm (tương đương với $1000-$30000/1 ngày), và 1 denarius tương đương với tiền lương một ngày công cho thợ không lành nghề. Như vậy, người đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (tương đương với 10000 x 20 năm = 20 vạn năm lương), nghĩa là cả đời cũng không thể trả hết (vì đời người dài nhất cũng chỉ 100 năm là cùng!) Ngược lại, người bạn của tên đầy tớ chỉ nợ y 100 denarii (tương đương 100 ngày lương), nghĩa là có thể hoàn trả lại, mặc dù phải mất hơn 3 tháng lương mới thanh toán được.
Với món nợ mà cả đời, thậm chí tính luôn tổng số đời của họ hàng thân tộc của tên đầy tớ cũng không thể trả hết được, nhưng ông chủ đã dủ lòng thương xót, tha bổng cho hắn vô điều kiện; nhưng y lại không thể bỏ qua hoặc gia hạn cho người bạn y món nợ có thể hoàn trả lại, tuy mất nhiều thời gian, hoặc phải đánh đổi nhiều thứ để dành dụm ngõ hầu thanh toán cho y!
Chúng ta nợ nhau với những món nợ có thể thanh toàn ở đời này hoặc không đáng kể, nhưng chúng ta lại không tha thứ cho nhau, không bỏ qua cho nhau, thì làm sao Thiên Chúa tha cho chúng ta món nợ mà thậm chí hết đời này cũng chưa thể thanh toán được! “Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?” (Hc 28, 3-4).
Dân gian có câu: “nhất quá tam” hoặc “quá tam ba bận”. Đơn giản, khi chúng ta làm gì, khi mắc lỗi, cũng như khi tha thứ, thông thường tới ngưỡng tối đa là lần thứ ba. Tương tự như suy nghĩ của người Do Thái nói chung và Phê-rô nói riêng, tha đến lần thứ bảy là tuyệt vời, trên cả lòng mong đợi, và quá ư quảng đại rồi! Mặc khác, Đức Giê-su là người Do Thái, biết rõ tâm tư, và văn hoá Do Thái, đáng lẽ Ngài hoan nghênh, thậm chí nên tán thưởng Phê-rô khi Ngài nghe ông bộc bạch về việc ông tha thứ đến bảy lần chứ! Và nếu thử đặt mình vào tâm trạng của Phê-rô, có lẽ chúng ta cũng sẽ nghĩ như ông là: chắc Thầy Giê-su vui lắm đây, khi nghe những lời này! Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giê-su khiến Phê-rô, các môn đệ và cả chúng ta nữa phải sửng sốt, kinh ngạc, bởi lẽ nó vượt xa, vượt trên những mặc định của Phê-rô tha thứ tối đa là bảy lần, còn mặc định của chúng ta thứ tha tối đa ba lần, đó là: “tha đến bảy mươi lần bảy” (770), nghĩa là tha thứ mãi hoài. (x. Mt 18, 22).
Khi đề cập tới việc tha thứ, sống vị tha với anh chị em, thì vô vàn lí do mà chúng ta thường giữ khư khư như thể vũ khí để biện minh cho hành vi không tha thứ của mình cho anh chị em, thí dụ: người ấy không xứng đáng được tha thứ (không xứng đáng với sự tha thứ của tôi, hoặc không xứng đáng được tôi tha thứ); lỡ họ tái phạm sau khi được tha thứ thì sao, đành rằng nói tha rồi; nhưng đụng chuyện gì đó thì ‘lôi ra’ hay nhắc lại bổn cũ để hạ thấp hoặc mày nheo, đay nghiến anh chị em…v, v…; tôi tha cho họ rồi, nhưng ai thứ tha cho tôi, hay ai sẽ tha thứ cho tôi…Thật ra, nếu mà Chúa cũng nghĩ như chúng ta thì chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng bao giờ được thứ tha, chẳng bao giờ được bình tâm, an lòng, chẳng thể yên thân! Nhưng may thay, Chúa không eo hẹp, ích kỷ và khăng khăng vào nhận định của bản thân; trái lại, Ngài rộng lượng, đầy khoan dung nhân hậu, chậm bất bình, và rất mực xót thương chúng ta, bất luận khi chúng ta tội lỗi hay sống tốt lành, thánh thiện.
Vì lẽ, Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn kẻ tội lỗi, kẻ gian ác phải chết (x. Ez 18, 23; Lc 5, 32) và chẳng giữ mãi lỗi lầm, việc làm xấu xa của chúng ta, hay Ngài không chịu bỏ qua hay tha thứ cho chúng ta đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh chị em, thì lời cảnh báo của Đức Giê-su sẽ thành hiện thực ngay cả ở đời này “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35). Sau cùng, chúng ta nên khắc ghi lời trong sách Huấn Ca và luôn rộng lòng tha thứ cho anh chị em như chúng ta đã-đang-sẽ được thứ tha, “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác” (Hc 28, 6-7). Lúc ấy và chỉ khi ấy, “bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (x. Hc 28, 1).
Nào chúng ta cùng nhìn lại đời mình, nhìn lại tâm hồn mình, nhìn lại thời gian qua, nhất là những khi chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình Chúa thứ tha, cũng như nhiều lần chúng ta chưa sống giới răn yêu thương, chưa mở lòng thứ tha cho anh chị em. Và trong tâm tình đó, chúng ta cùng nguyện cầu:
Lạy Chúa giàu lòng xót thương
Xin cho con yêu thương như Chúa hằng thương yêu
Xin cho con tha thứ như Chúa hằng thứ tha
Xin cho con mở rộng lòng như lòng Chúa mãi rộng mở
Xin cho con bỏ qua lầm lỗi của anh chị em như Chúa hằng bỏ qua cho con. Amen!
16.Sự tha thứ--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A này là “sự tha thứ”.
Hc 27: 30-28: 7
Trong bài đọc thứ nhất, hiền nhân Do thái, trung thành với lề luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và không giới hạn.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ III đầu thế kỷ IV trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng và là hiền nhân ở Giê-ru-sa-lem, ông đã viết lại những lời dạy khôn ngoan của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm Híp-ri của ông sang Hy-ngữ và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của suy tư và trải nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ văn hóa Hy lạp trở nên mối nguy hiểm đối với văn hóa Do thái, ông Si-rác, hiền nhân Do thái, ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Lề Luật của Ngài làm chuẩn mực cho cuộc sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên dạy cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc trả thù và tha thứ.
1. Cách hành xử của kẻ gian ác
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến cách hành xử của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài” (27: 30).
Ông nhận xét rằng nếu cứ cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly” (28: 1)
Trong Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy. Kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại cuộc sống đời nầy, như chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bảo” hay “Gieo nhân nào thì gặp quả nấy”.
2. Đức hạnh của người công chính
Ngược lại với cách hành xử của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính là “lấy ân mà trả oán” hay “Lấy sự tha thứ mà đáp lại oán cừu”.
Sự tha thứ được Lề Luật truyền dạy, như sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18). Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (28: 2).
Theo Hiền nhân Si-rác, sự tha thứ giữa người với người có mối quan hệ hỗ tương với sự tha thứ của Thiên Chúa:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!” (28: 3).
Vì lẽ người nào hành xử với anh chị em của mình như thế nào, thì Thiên Chúa cũng hành xử với người ấy cũng như thế ấy:
“Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình!
Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận,
thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (28: 4-5).
Những lời dạy của hiền nhân Si-rác về sự tha thứ gợi nhớ lời dạy của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài trong của kinh “Lạy Cha”:
“Xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha
cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
Chúa Giê-su còn giải thích cho rõ thêm nữa: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Cuối cùng, hiền nhân Si-rác nêu lên vấn đề chủ đạo tại sao phải tha thứ cho anh chị em mình. Người công chính phải thanh thoát trên mọi ưu tư thường ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời hiền nhân Si-rác, Ít-ra-en chưa biết viễn cảnh nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những đau khổ sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước.
“Hãy nhớ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù,
nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
mà trung thành gìn giữ các điều răn” (28: 6)
Cách hành xử nầy thật là cao thượng vì chân trời bị giới hạn vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng này khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành xử như thế vì lòng yêu mến Thiên Chúa và Lề Luật của Ngài:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (28: 7).
Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên mỗi một thành viên của dân Ít-ra-en sao? Nền luân lý thật cao thượng này chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Nếu tách đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma ra khỏi văn mạch của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên dạy của thánh Phao-lô. Trong chương 14 nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên có quá nhiều quan điểm khác nhau trong cách đối nhân xử thế thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi “những người yếu” và những người mà thánh nhân gọi “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách cụ thể giữa những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận rằng cuộc sống hòa hợp giữa các thành viên trong cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác. Tự do mà thánh nhân đề cập ở đây không là cá nhân chủ nghĩa: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi lẽ “Đức Ki-tô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi phân biệt đối xử phải bị loại trừ trước mối liên hệ căn bản là hiệp nhất mọi thành viên trong cộng đoàn, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng thường hằng của thánh Phao-lô trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã nhắc nhở đức ái huynh đệ và những cảnh báo mà mỗi thành viên trong cộng đoàn có bổn phận và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật trước), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa, cho đến việc tha thứ vô điều kiện và không giới hạn cho những kẻ xúc phạm mình.
1. Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật con người Phê-rô, thậm chí ngay cả thậm chí trước khi ông được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội tương lai, như trong câu chuyện phong ba bão tố, chỉ một mình thánh Phê-rô xin Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (14: 28); hay trong câu chuyện trên đường Xê-sa-rê Phi-líp-phê, thánh Phê-rô, đại diện nhóm Mười Hai, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (16: 16); hoặc trong biến cố Biến Hình, chỉ một mình Phê-rô lên tiếng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay!” (17: 4).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần”, đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một lời đề nghị: “Có phải bảy lần không?” Khi đưa ra bảy lần, ông nghĩ là mình quá rộng lượng từ bi nhân hậu lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình không vượt quá ba hay bốn lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Kinh sư Jehuna thì dạy tha thứ khoan dung hơn: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam: “Sự bất quá tam, một lần tha ba lần chém”. Hơn nữa, “con số bảy” biểu thị sự giới hạn cuối cùng, không thêm được nữa. Trong Cựu Ước, con số “bảy” được dùng để diễn tả mức độ trả thù hết mức: “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4: 15).
Đức Giê-su trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Trong Cựu Ước, diễn ngữ “Bảy mươi lần bảy” cũng được dùng để chỉ một sự trả thù vô cùng tận, như lời nói đầy sát khí trả thù của ông La-méc, hậu duệ của Ca-in:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Như vậy, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận bằng sự tha thứ vô giới hạn. Để minh họa tư tưởng của mình, Ngài kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu tường thuật lại. Khi so sánh với Bài Đọc I trong đó hiền nhân Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, thì Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Thiên Chúa. Lời này loan báo Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa vương quốc nầy.
2. Dụ ngôn “Người đầy tớ không có tấm lòng biết yêu thương và tha thứ” (18: 23-35)
Dụ ngôn này hình thành nên một vỡ bi kịch gồm ba cảnh:
A- Cảnh 1: “Cách cư xử của Đức Vua đối với người đầy tớ mắc nợ vua” (18: 23-27)
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, muốn bầy tôi của mình thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách chỉ là việc nhỏ.
Đức vua đích thân triệu mời người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn. William Barclay giúp chúng ta có thể hình dung mức độ khổng lồ của món nợ nầy: “Mười ngàn yến vàng, tương đương với 2. 400.000 bảng Anh. Đó là món nợ không thể tưởng tượng được, nó lớn hơn tổng ngân sách của một tỉnh. Tổng lợi tức xứ Edumaca, Giu-đê và Sa-ma-ri chỉ có 600 yến vàng”.[1] Nhưng Đức Giê-su không có chủ ý quy chiếu đến sự kiện lịch sử, Ngài chỉ muốn chúng ta hiểu rằng một món nợ tự sức mình không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy phải là một quan chức, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan đại thần được gọi là tôi bộc của vua.
Vì thế, Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Món nợ mà người chủ gia đình mắc phải liên đới đến mọi thành viên trong gia đình. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin. Đức Vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
B- Cảnh 2: “Cách cư xử của người đầy tớ được tha nợ đối với người bạn mắc nợ mình” (18: 28-30)
Cảnh 2 được xây dựng trên một sự tương phản với Cảnh 1. Tên đầy tớ được tha bổng lại cư xử không một chút xót thương một bạn đồng liêu của mình, người này mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ mà y có đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình, những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y: y liền túm lấy, bóp cổ và tống bạn mình vào tù.
C- Cảnh 3: “Đức Vua luận tội người đầy tớ không có lòng xót thương” (18: 31-35)
Sự việc đến tai Đức Vua. Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết đồng xu cuối cùng. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ mà mỗi người phải có đối với anh chị em đồng loại của mình. Người đầy tớ này không ngờ rằng có một mối quan hệ hổ tương giữa cách hành xử của y đối với bạn đồng môn của mình và cách hành xử của Đức Vua đối với y. Khi y từ chối tấm lòng xót thương của y đối với bạn mình, chính y đã huỷ bỏ làng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua. Từ dụ ngôn này, một bài học được rút ra: điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ chính là mỗi người phải có lòng tha thứ cho anh chị em mình, như lời dạy của Đức Giê-su trong phần kết của kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn này, chính Đức Giê-su, qua cuộc sống chan chứa yêu thương và hay tha thứ của Ngài, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đem đến cho mỗi người những phương thế để đổi mới tấm lòng của mình, ngõ hầu con người có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
--------------------------------
[1] W. BARCLAY, được trích dẫn theo bản dịch tiếng Việt, Tin Mừng Mátthêu, quyển 2, tr. 166.
17.Luôn tha thứ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh họa thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tí, chúng ta nhất định không tha tứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để bụng, chết mang đi". Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hỏa ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèn hoặc trong trận lôi đình đập đánh chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: "thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta". Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: "Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con".
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quãng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xóa bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thủy và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gãy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta qua Kinh Thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
18.Hãy sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phêrô đề nghị, nhưng Người đòi môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha luôn luôn cho anh em mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ những tội nợ của anh em mình vì ba lý do như sau: Một là vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với ta chẳng là gì so với số nợ ta mắc đối với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ sòng phẳng thế nào, thì ta cũng sẽ bị Thiên Chúa tính sổ nợ sòng phẳng như vậy.
CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + Ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi…: Phêrô muốn biết phải xử trí thế nào đối với những kẻ đã xúc phạm đến mình? + Con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?: Các Ráp-bi Do thái xưa dạy "quá tam ba bận" nghĩa là tha tối đa 3 lần. Tông đồ Phêrô thì đưa ra số 7 lần là một con số hoàn hảo. Nhưng Đức Giêsu còn đòi các môn đệ phải đi xa hơn nhiều. + Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy: Có chỗ ghi là bảy mươi bảy lần bảy. Ông La-méc xưa đã đòi vợ con phải trả thù cho ông: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, còn La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (x. St 4,24). Ở đây, thay vì đòi báo thù, Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là: Phải tha luôn luôn, không giới hạn số lần và phải tha vô điều kiện. Lý do để tha không phải do kẻ có lỗi đã biết ăn năn sám hối, cũng chẳng phải vì kẻ bị xúc phạm muốn tỏ ra sự quảng đại của mình, nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đối xử cách quảng đại và bao dung đối với mọi con nợ của mình.
- C 23-25: + Ông vua kia: Trong Kinh Thánh, vua thường ám chỉ Thiên Chúa, Đấng có quyền tối thượng trên mọi phàm nhân, là vị thẩm phán tối cao và có quyền ra án lệnh cuối cùng. + Đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách: Ở đây là tính sổ theo phép công bình. + Các đầy tớ: Trong Thánh Kinh, đầy tớ vừa ám chỉ thuộc hạ hay nô lệ mà cũng ám chỉ bề tôi hay cận thần của nhà vua, là những người có đầy thế lực (x. 1 Sm 8,14; 2 V 5,6). + Một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng: Mỗi nén vàng thời đó giá sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công. Mười ngàn nén vàng tương đương với 60.000.000 (sáu mươi triệu) quan tiền + Y không có gì để trả: Không trả được vì món nợ quá lớn. Cũng vậy, tội lỗi của con người phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không bao giờ người ta có thể trả hết được. + Chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ: Trong Kinh Thánh có những trường hợp người mắc nợ không trả được món nợ, nên đã bị chủ bắt con cái người ấy phải làm nô lệ để trừ nợ (x. 2 V 4,1). Ở đây cho thấy cả vợ con cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trong việc trả nợ. Như vậy tội lỗi gây ra hậu quả nghiêm trọng không những đối với người phạm tội, mà còn đối với cả những người thân trong gia đình nữa.
- C 26-27: + Sấp mình xuống bái lạy: Người đầy tớ biểu lộ thái độ khiêm nhường luỵ phục bằng việc sấp mình xuống trước tôn chủ mà bái lạy. + Xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết: Anh ta không dám xin tôn chủ tha nợ, vì anh biết số nợ kia quá lớn, và anh không đáng được tha món nợ ấy. Anh chỉ dám xin thêm thời gian để lo thu xếp trả nợ. Cũng giống như đứa con hoang đàng thấy mình không còn đáng được Cha tiếp nhận làm con giống như trước đó, mà chỉ dám xin cha cho anh được làm công cho cha để đền tội mà thôi (x. Lc 15,19). + Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ: Cho dù món nợ quá lớn, nhưng thấy người đầy tớ có thái độ khiêm nhường xin được khất nợ, thì tôn chủ đã động lòng thương. Ông không những cho khất mà còn sẵn sàng tha hết số nợ lớn lao cho anh ta. Cũng vậy, dù tội chúng ta phạm đến Chúa nặng đến đâu đi nữa, nhưng nếu ta ăn năn và quyết tâm chừa cải, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta tất cả, và còn ban thêm nhiều ơn hơn cả những điều ta dám cầu xin Người.
- C 28-30: + một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền: Người bạn này chỉ mắc nợ y một trăm quan tiền, tương đương với một trăm ngày công lao động. Ở đây so sánh hai món nợ chênh lệch nhau quá nhiều nhằm diễn tả tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thật quá nặng nề, nếu so với tội anh em phạm đến ta. Vì Thiên Chúa thánh thiện và uy quyền vô cùng, nên tội ta dù nhỏ bé, cũng trở nên nặng hơn nhiều lần. Giống như khi ta dùng một lời nào đó để chửi bạn bè nặng một, nhưng nếu ta cũng dùng lời đó để chửi cha mẹ hay người bề trên thì sẽ thành nặng hơn gấp mười. + Y túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”: Câu chuyện này diễn tả thái độ khắc nghiệt của tên đầy tớ đối với một người bạn là con nợ của hắn ta. Thái độ này tương phản với thái độ bao dung độ lượng của tôn chủ đối với anh ta. + Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh: Thái độ và lời năn nỉ của người đồng bạn cũng giống như thái độ và lời cầu xin của tên đầy tớ đối với tôn chủ trước đó. Cả hai con nợ đều không dám xin tha nợ, mà chỉ xin khất một kỳ hạn. Đức Giêsu cố ý trình bày sự tương đồng giữa thái độ của hai con nợ, để làm nổi bật sự tương phản, một bên là lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa tha nợ vô điều kiện, và bên kia là sự hà khắc độc ác của phàm nhân chúng ta đòi xử lý tới cùng. + Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ: Khi bắt con nợ vào ngục, chủ nợ cưỡng bức lao động để trừ dần số nợ, hoặc để người này phải nhờ thân nhân bán đồ đạc nhà cửa, hay đi vay mượn để lấy tiền trả nợ. Ở đây cho thấy lòng dạ tên đầy tớ này thật hẹp hòi và thiếu lòng khoan dung độ lượng.
- C 31-33: + Các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ: Họ bất mãn trước cách cư xử vô nhân đạo và độc ác của tên đầy tớ với bạn hắn ta. Thái độ ấy trái với lòng quảng đại bao dung mà hắn đã nhận được từ nơi tôn chủ. Vì thế những người này đã đi tố cáo hành động bất nhân của hắn để yêu cầu tôn chủ xử lý hắn. + Tên đầy tớ độc ác kia: Tôn chủ la rầy sự độc ác mà hắn đã xử với con nợ của hắn, trái với lòng khoan dung của ông đối với hắn. + Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?: Tôn chủ đã hạch tên đầy tớ về thái độ thất nhân ác đức đối với đồng bạn của hắn. Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ phải tha thứ tội nợ cho anh em để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ cho mình.
- C 34-35: + Tôn chủ nổi cơn thịnh nộ: Việc tên đầy tớ không chịu tha thứ cho đồng bạn khiến hắn đã bị tôn chủ nổi giận. Ông đã xử lý với hắn theo phép công bình là giam hắn vào ngục tối cho đến khi trả hết số nợ, đúng như hắn đã xử lý với người bạn là con nợ của hắn trước đó. + Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Lời kết luận nhằm áp dụng cụ thể bài học: Nếu các môn đệ muốn được Thiên Chúa đối xử khoan dung tha thứ tội lỗi cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cho anh em.
CÂU HỎI:
1) Phân biệt về số lần đòi báo thù của ông La-merk thời các Tổ phụ, lời dạy về số lần tha thứ của các rab-bi Do thái, lời đề nghị về số lần tha thứ cho anh em của Tông đồ Phêrô và lới dạy về số lần phải tha thứ của Chúa Giêsu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn về hai con nợ, kẻ mắc nợ mười ngàn nén vàng đã cư xử thế nào đối với con nợ chỉ mắc nợ anh ta có một trăm quan tiền?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Người hành khất có lòng khoan dung tha thứ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
2) Xây dựng một tình yêu đại đồng:
Trong cuốn tiểu thuyết “MẶT TRẬN PHÍA TÂY VẪN YÊN TĨNH” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
3) Sẵn sàng tha cho kẻ thù ghét giết hại mình:
Cha KÍT-XI-ĂNG XÉC-GHÊ (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán.
Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của mỗi tín hữu chúng ta.
4) Để dễ tha thứ cần khiêm tốn nhận mình cũng bất toàn:
Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
5) Mau quên các lỗi phạm và luôn ghi nhớ công ơn của tha nhân:
Sự tha thứ và biết ơn luôn là những cách giúp chúng ta yêu quý cuộc sống, tránh được sự muộn phiền và lòng tràn ngập yêu thương. Nhưng để làm được điều ấy thật không dễ. Bài học về tha thứ và biết ơn từ câu chuyện của cát và đá sau đây sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tâm hồn.
Có hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi”. Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy”.
Anh bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ”.
Người kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian, gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
3. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải tha thứ?:
+ Tha thứ để đáng được thứ tha: Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ các lỗi lầm của anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình: Câu chuyện về tên đầy tớ độc ác vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng đang khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn đã không đối xử bao dung nhân ái như thế với một người bạn chỉ nợ hắn có 100 quan tiền. Hắn đã đòi xử lý để yêu cầu tống giam người kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Tôn chủ của hắn nghe biết đã nổi giận và đã xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
+ Đàng khác, tha thứ cũng là một cách để hóa giải thù hận như Đức Phật đã dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất. Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”.
2) Phải tha thứ bao nhiêu lần?:
+ Phải tha luôn luôn: Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô đề nghị với Thầy tha tới bảy lần và nghĩ rằng sẽ được Thầy khen ngợi. Nhưng ông thật bất ngờ khi Thầy đòi ông không những phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và tha vô điều kiện (x. Mt 18,22).
+ Phải tha vô điều kiện: Qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải sẵn sàng tha thứ, không phải vì kẻ có tội đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để các ông có dịp lập thêm công đức, nhưng chỉ vì lòng xót thương. Chúa muốn các môn đệ hãy luôn tha thứ vì mình đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là các tội đã phạm đến Chúa, nên cũng phải biết noi gương Chúa để sẵn sàng tha lỗi cho anh em mình.
3) Điều kiện để dễ tha thứ:
+ Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta khó thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn tranh chấp và báo oán. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy có giúp chúng ta trả oán công minh, nhưng chính nó lại là nguyên nhân khiến thế giới này lâm vào tình trạng chiến tranh hận thù liên miên. Chỉ khi con người sẵn sàng tha thứ thì họ mới có thể sống chung hòa bình và được hạnh phúc thực sự.
+ Tha thứ đồng nghĩa với chịu thiệt thòi. Khi chấp nhận tha thứ là ta công nhận tình thương sẽ đánh tan băng giá. Tình thương sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta biến đổi nên mềm mại để tiếp tục rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ đau khổ tội lỗi noi gương Chúa Giêsu.
4) Làm gì để thực hành sự tha thứ?
Việc tha thứ cho kẻ thù không dễ dàng, đòi mỗi chúng ta phải quyết tâm áp dụng các phương thế giúp chúng ta dễ tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta như sau:
+ Một là kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho như lời Đức Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
+ Hai là nhớ lại chúng ta đã được Chúa tha cho bao tội lỗi, nên chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của kẻ khác, như ông chủ đã trách con nợ trong Tin Mừng: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? “ (Mt 18,32-33).
+ Ba là coi kẻ có lỗi đang bị lầm lạc, như Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Bốn là hãy năng nhắc lại lời Chúa dạy tha thứ kèm theo lời cầu nguyện như sau: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37), “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
4. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người hãy tự xét mình: Bây giờ tôi đang có kẻ thù nào không? Tôi có làm gì sai lỗi đáng bị thù ghét không? Tôi cần làm gì để loại bỏ nguyên nhân ấy? 2) Theo lời Chúa dạy, tôi sẽ làm gì để quảng đại tha thứ cho những kẻ đã xúc phạm đến mình, và sẽ làm gì cụ thể để biến thù thành bạn?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy giúp chúng loại bỏ đi sự thù oán để chứa đầy tình thương bao dung, bỏ đi những tranh chấp chiến tranh để chấp nhận sống chung hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an của Chúa vào trái tim khô cằn của chúng con, để sự bình an ấy sẽ chảy tràn sang những người thân trong gia đình, lan ra ngoài xã hội và đi đến khắp nơi trên thế giới.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, sự quảng đại tha thứ và lòng bao dung nhân hậu, để chúng con luôn biết quan tâm phục vụ mọi người, nhất là cầu nguyện cho những kẻ đang thù ghét bách hại chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi thương xót, và nên anh chị em của mọi người chung quanh để làm chứng cho Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
19.Giá trị cục tẩy--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy?
Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa đi những gì không đúng trên trang viết!
Quả thực, cục tẩy thật cần thiết. Nếu không có nó thì trên trang giấy sẽ bề bộn những gạch xóa lem luốc. Cục tẩy sẽ làm mới lại những gì đã viết lên trang giấy không đúng. Cục tẩy sẽ chỉnh lại những lỗi viết sai hay ẩu thả của chủ nhân.
Cuộc đời con người cũng cần có một cục tẩy. Một cục tẩy của lòng bao dung và sự tha thứ. Một cục tẩy có khả năng xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Nếu cuộc đời chúng ta không dám sử dụng cục tẩy để xóa đi những bất hòa ghen tương, những hận thú tranh chấp, những lỗi lầm tội lỗi sẽ làm cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa! Muốn cuộc đời mình đẹp thì phải biết xóa đi những gì không đúng, không đẹp để trang giấy cuộc đời rạng rỡ hơn. Nhưng đáng tiếc, có rất nhiều người cho tới lúc tuổi già vẫn để cục tẩy của mình còn nguyên vẹn vì chúng ta ít can đảm xóa đi những hận thù.
Có một lần sau khi giảng về lòng bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông lão.
- Ông Jones, ông không sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù à?
- Tôi không có kẻ thù nào.
- Thật lạ lùng. Thế ông bao nhiêu tuổi rồi?
- 86.
- Ông Jones này, ông hãy vui lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi từ từ quay lại:
- Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống lâu hơn chúng nó thôi
Hôm nay Chúa bảo chúng ta phải tha thứ cho nhau không phải là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là rất nhiều và mãi mãi. Nếu chúng ta không tha thứ nghĩa là chúng ta vẫn để cục tẩy còn nguyên vẹn, đó là lý do khi nhìn vào trang giấy cuộc đời mình thì lắm lem luốt bởi hận thù chua cay. Con người chúng ta “nhân vô thập toàn”. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy biết tha thứ để cục tẩy của chúng ta mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của mình ở mãi trong kho. Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy chắc chẳng có gì tốt đẹp phải không?
Chúa Giêsu dạy ta biết tha thứ. Ngài đã sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô... Ngài đã dùng cục tẩy của sự tha thứ một cách quảng đại. Ngài đã xóa đi những vết nhơ tỗi lỗi của con người. Ngài đã xóa đi những bụi đời trong thân phận yếu đuối của con người. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên mọi người.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Không phải bao giờ mình cũng đúng mà có khi chính chúng ta là kẻ gây ra đau khổ cho tha nhân, thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Có một câu chuyện kể rằng:
A nói với B: "Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm". B hỏi: "Thế anh có báo cảnh sát không?". A trả lời: "Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone".
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
20.Bài học tha thứ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn "dĩ hòa vi quý", không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ "quá tam ba bận" mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì "oán báo oán, oán lại chập chùng". Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là "hãy yêu thương nhau". Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa".
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.
21.Học tha thứ với Chúa Giêsu--Lm Ignatiô Trần Ngà
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ dội như con thú bị trúng thương; có người cảm thấy máu sôi lên trong huyết quản, người nóng bừng lên, hơi thở dồn dập, mặt đỏ gay.
Trong hoàn cảnh đó, phản ứng thông thường của đa số là tìm cách trả đũa thật đích đáng. Thậm chí có người cho rằng thà chịu chết còn hơn chịu nhục. Thế là giông tố sẽ bùng lên, những trận đòn thù như vũ bão sẽ ập đến, hậu quả không biết đâu mà lường!
Trong khi đó, Chúa Giêsu, trong thân phận con người, và nhất là trong cuộc thương khó của Người, đã bình thản đón nhận mọi sỉ nhục, nhạo cười, lăng mạ, phỉ nhổ, chịu hành hạ, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu chết trần truồng, chịu vô vàn đau thương chồng chất và chịu chết tủi nhục trên thập giá mà không hề oán hận hay nguyền rủa những con người bội bạc xúc phạm đến mình, trái lại còn đem lòng thương xót và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. (Luca 23, 33)
Đối mặt với vô vàn xúc phạm đủ mọi hình thức, Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ và kêu mời mọi người hãy tha thứ cho nhau, tha thứ liên tục không ngừng.
"Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Quả là một đòi hỏi vượt quá sức người. Làm sao con người đầy sân hận lại có đủ bản lãnh và khí phách để thực hiện lời truyền dạy của Chúa Giêsu?
1. Con người mắc phải lầm lỗi vì mù quáng, vì thế họ đáng thương chứ không đáng trách.
Chúa Giêsu không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giêsu là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Charlie Charplin nhận định: "người ta mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người ngu thì lên án họ; người khôn thì thương xót họ."
Không giống như bao nhiêu người thiếu hiểu biết thường vội vàng kết án người khác căn cứ vào hành vi lầm lỗi bên ngoài của tội nhân, Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan thấu suốt lòng dạ con người; Người biết rằng phần lớn những tội người ta phạm là do mù quáng, do thiếu hiểu biết mà ra, vì thế, thay vì lên án, Người thương xót những kẻ mắc phải lỗi lầm và tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 33)
2. Không ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: "không ai cố tình làm điều ác" và "sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết"
Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng: "Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta tự cho là mình vô tội." Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ.
Tóm lại, để có thể tuân giữ lời mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giêsu, chúng ta cần xác tín như nhà hiền triết Socrate rằng: "Không ai cố tình làm điều ác", "sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình".
Và hãy ghi tâm lời nhận định của Charlie Charplin: "con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ."
Và nhất là học theo gương Chúa Giêsu, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì họ mù quáng, "không biết việc họ làm" (Lc 23,33).
22.Có tha thứ mới được thứ tha--Lm Ignatiô Trần Ngà
Một số tín hữu nghĩ rằng: Khi có tội, chỉ cần đi xưng tội và làm việc đền tội; thế là mọi tội đều được tha thứ; rồi sau đó, cứ thản nhiên phạm tội tiếp mà chẳng áy náy chút nào.
Tuy nhiên, qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bác bỏ cách nghĩ, cách làm sai lầm như thế. Ngài dạy ta biết rằng chỉ có những ai tha thứ cho người khác thì kẻ ấy mới được thứ tha; còn ai không biết thứ tha, sẽ không được tha thứ.
Dụ ngôn “Người tôi tớ bất lương” (Mt. 18, 21-35) trong Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ điều này.
Sau khi nhà vua biết tên đầy tớ vừa được vua tha cho món nợ khổng lồ, lại nhẫn tâm tống giam người bạn của y vào ngục chỉ vì người này chưa thể trả món nợ nhỏ cho anh ta, thế là vua liền nổi giận, truyền bắt tên đầy tớ ác ôn đó đến và phán:
“Hỡi tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta. Sao ngươi không tha nợ cho bạn người như ta đã tha cho ngươi? Thế rồi vua nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày trả hết nợ cho ông.”
Rồi Chúa Giê-su kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35).
Như vậy, nếu không tha thứ cho người khác, chúng ta phải gánh lấy hậu quả đáng sợ như thế đó!
Có tha thứ thì mới được thứ tha là một quy luật quan trọng được Chúa Giê-su lặp lại nhiều lần:
Khi dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha qua kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su nói:
“Xin tha tội cho chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
“Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Và qua Tin mừng Luca, Chúa Giê-su dạy tiếp:
“Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37).
Đến đây, chúng ta tự hỏi: Tại sao phải tha thứ thì mới được thứ tha?
Ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành theo những quy luật mà Thiên Chúa đã quy định. Minh họa: Nước ở nhiệt độ bình thường thì ở thể lỏng, khi bị đun nóng thì bốc hơi, khi ở nhiệt độ dưới 0 thì đông thành đá, khi ở nhiệt độ vừa phải thì tan chảy thành nước… Nước luôn tuân theo quy luật đó, không thể khác được.
Minh họa thứ hai: Ta gieo hạt cam xuống đất thì sẽ có cây cam; gieo hạt cỏ thì sẽ mọc cỏ… Mọi vật, mọi sự trên đời đều vận hành theo quy luật như thể, không thể làm khác được.
Tương tự như thế, nếu ta trao ban sự tha thứ cho người thì ta sẽ gặt được thứ tha; nếu ta gieo rắc hận thù thì phải gặt oán thù.
Quy luật này được Chúa Giê-su xác định như sau: “Ai đong bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38) (đấu là dụng cụ đo lường ngũ cốc, thường làm bằng gỗ) và thánh Phao-lô cũng phát biểu tương tự như thế: “Ai gieo giống nào thì sẽ được gặt giống đó” (Galat 6,7).
Đây là quy luật muôn đời bất di bất dịch. Cũng như mọi quy luật khác, quy luật này không thể nào thay đổi được.
Vì thế, ai không thứ tha thì không thể nhận được sự tha thứ, cũng như không gieo hạt cam xuống đất thì sẽ chẳng có cây cam.
Thế là lời Chúa trong Tin mừng hôm nay buộc chúng ta phải chọn lựa dứt khoát một trong hai điều:
- Một là đừng thứ tha cho ai cả, để rồi chẳng được Chúa thứ tha và đành phải mang tội suốt đời;
- Hai là xóa bỏ giận hờn, dẹp qua một bên lòng tự ái… để thứ tha cho người khác khi họ xúc phạm đến ta; bù lại, ta được Chúa tha cho muôn vàn tội lỗi.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con hiểu rằng khi giận hờn và không tha thứ cho người, chúng con sẽ rước họa vào thân, phải mang tội suốt đời; trái lại, khi sẵn sàng thứ tha cho tha nhân, chúng con sẽ được Chúa xóa bỏ mọi tội tình; nhờ đó, tâm hồn chúng con được an bình thư thái và cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn.
23.Thông cảm để thứ tha--Lm Ignatiô Trần Ngà
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu lại nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Làm sao mà tha thứ cho nổi khi người khác cứ mãi xúc phạm đến ta?
Làm sao có đủ bản lãnh và lòng bao dung để thực hiện lời truyền dạy thứ tha không ngừng của Chúa?
Để có thể tha thứ cho người khác, trước hết ta nên biết rằng: sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ, vì thế họ đáng thương hơn là đáng trách.
Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo… thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt người ấy bước đi an toàn.
Tương tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí, còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt, thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi mà thôi.
Vì thế, người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ; trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là độc ác khi con lên án người mù vì mang đôi mắt mù lòa mà phải sa hầm sập hố hay sa xuống chỗ sình lầy.
Và cũng thật là thiếu khôn ngoan và bác ái nếu con lên án những người khác vì họ mù quáng, tức mù lòa trong tâm trí, mà gây ra những vấp phạm đối với những người chung quanh.
Xin cho con luôn nhớ rằng: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ” để nhờ đó, con biết cư xử như một người khôn ngoan, biết thương xót và tha thứ cho những người lỗi phạm như Chúa đã nêu gương cho con. Amen.
24.Tha thứ đến vô tận--Barbara E. Reid OP
(Chuyển ngữ: Văn Hào, SDB)
“Con phải tha thứ bao nhiêu lần” (Mt 18,21)
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải đấu tranh với chính mình để thực hiện giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Chị ta nói “Là một tín hữu Công giáo, tôi thấy có trách nhiệm và bổn phận phải tha thứ cho chồng tôi, khi anh ta dùng bạo lựcnhư thể muốn giết tôi. Tôi tin rằng tôi phải bắt chước hành vi yêu thương của Đức Giêsu trên Thập giá, trước khi Ngài dang tay đón nhận cái chết. Tôi phân vân tự hỏi, có lẽ thay vì tha thứ, tôi đã có cảm giác thù hận từ sâu tận trong tâm hồn, và tôi đã tự nguyền rủa chồng tôi, mong anh ta chết quách đi cho xong. Tôi sợ rằng tôi đã không tha thứ hoàn toàn cho anh ta trước khi tôi chết, và như vậy tôi sẽ bị trầm luân mãi mãi”.
Giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay dạy chúng ta phải tha thứ đến vô tận. Có một điều khá gay go, là nếu chúng ta không thể tha thứ thì sao? Cái gì sẽ xảy ra, khi chúng ta muốn tha thứ, nhưng kẻ xúc phạm đến chúng ta lại không hối lỗi và không chịu đền bù thiệt hại. Có những khi, ví dụ trong trường hợp bạo hành xảy ra nơi gia đình, sự tha thứ còn là cớ giống như đổ thêm dầu vào lửa, sẽ phản tác dụng và không đem lại sự hòa giải và an bình thật sự. Tiến trình thực hiện việc tha thứ và hòa giải quả khá gian nan, và chúng ta không thể giản lược trong một vài chiêu thức giản đơn.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tiếp nối với đoạn Tin mừng của tuần trước, trong đó Chúa Giêsu vạch dẫn một lộ trình khởi đầu cho việc hòa giải, khi có những xúc phạm xảy ra trong cộng đoàn. Lộ trình này bắt đầu bằng việc cá nhân đến gặp gỡ cá nhân, rối tiếp theo là có thêm những trung gian, và bước cuối cùng là có sự tham gia của cả cộng đoàn. Đứng trước những chỉ huấn này, Phêrô đã hỏi tiếp Đức Giêsu, thế ông phải phải tha thứ bao nhiêu lần. Ông thấy ngay những khó khăn và trở ngại khi thực hiện tiến trình hòa giải như thế. Để trả lời, Chúa Giêesu đã khẳng định, việc tha thứ phải thực hiện một cách vô tận, không có một giới hạn nào cả. Có những sự việc gây nên nỗi đau triền miên và dai dẳng, vì thế cũng cần phải biết tha thứ vô giới hạn, đồng thời người phạm lỗi cũng cần phải hối lỗi một cách chânthực. Chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện công việc đầy khó khăn này, để hóa giải những tan vỡ, và thực hiện việc giao hòa với nhau.
Trong dụ ngôn tiếp theo về người đầy tớ mắc nợ một số tiền lớn đã được nhà vua tha cho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến món nợ khổng lồ như một gánh nặng. Món nợ đó biểu trưng cho những khó khăn trong việc hòa giải, và nó đã được cất đi khỏi tên đầy tớ. Điều này,Chúa cũng kêu mời chúng ta ý thức rằng: Sự hòa giải ở đây là một quà tặng được trao ban một cách nhưng không. Khi đón nhận món quà này, không phải do công lao của mình, chúng ta cũng phải ban trao lại một cách nhưng không giống như vậy. Tên đầy tớ không thể trả món nợ cho nhà vua, nhưng anh ta có thể sao chép lại cách thức mà nhà vua đã đối xử với anh ta, bằng cách cũng tha cho kẻ mắc nợ mình. Tuy nhiên anh ta đã không hành xử như thế. Anh ta làm ngược lại. Thế rồi nhà vua tức giận, đổi thay tình thế, rút lại sự tha thứ đã ban bố trước đây. Điều làm chúng ta cảm thấy chới với, đó là Thiên Chúa sẽ hành xử giống như thế. Ngài sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài nếu như chúng ta không muốn thứ tha một cách sâu xa tận đáy lòng. Câu nói này của Chúa Giêsu gợi nhắc đến lời kinh Lạy Cha mà chính Ngài đã dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con (Mt 6,12). Lời kinh đó đi kèm theo lời khuyến cáo: Chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta biết thứ tha cho nhau (Mt 6, 14-15).
Điểm nhấn ở đây, không phải là Thiên Chúa lật lọng, đổi thay thái độ, rút lại sự tha thứ đã trao ban, khi chúng ta không hành xử giống như Ngài đã nêu gương. Cũng không phải Thiên Chúa sẽ làm phương hại đến chúng ta, khi chúng ta không tuân theo lối bước của Ngài. Dụ ngôn chỉ muốn khuyến cáo một cách khá cứng rắn, để con tim chúng ta đừng trở nên xơ cứng khi không có lòng bao dung và phải luôn biết sẵn lòng tha thứ cho nhau. Một tâm hồn chai lỳ trong hận thù, dễ làm cho bạo lực tái bùng phát và tiếp diễn. Dụ ngôn chỉ muốn diễn tả một cách thái mà chúng ta phải chọn lựa để làm sao sự tha thứ luôn được chúng ta tâm đắc và thực hành. Chúng ta phải nỗ lực thứ tha, và cầu nguyện để tâm hồn chúng ta luôn biết trải rộng, sẵn lòng tha thứ cả khi việc thứ tha này chưa thực hiện được. Chúng ta khẩn cầu để xin Chúa giúp chúng ta biết mở toang cõi lòng hầu có thể nếm cảm lòng thương xót dịu dàng của Chúa đổ tràn trên chúng ta, giúp chúng ta cũng dễ dàng dàn trải lòng thương xót và sự đồng cảm giống như thế đến cho mọi người. Không cái gì có thể cất khỏi sự tha thứ của Chúa nơi chúng ta. Tuy nhiên,trong cách cư xử thường ngày, nhiều động thái chúng ta thực hiện làm cản che hiệu quả của lòng thương xót đó đang tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta.
25.Tha thứ--Lm. Trầm Phúc
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?” Có lẽ nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Phê-rô lại đặt vấn đề con số.
Đối với Luật Do Thái, mấy chuyên viên luật đã cho một bảng kê khai phải tha cho ai mấy lần tùy trường hợp đối với gia đình hay người ngoài. Thông thường thì tha ba lần là tối đa, do đó đối với Phê-rô, tha bảy lần là vượt mức. Đối với Chúa Giê-su, tha thứ không có hạn chế, không có ranh giới. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là không biên giới và vô điều kiện.
Để minh họa điều đó Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe đọc. Dụ ngôn không khó hiểu, nhưng câu kết lại rất nghiêm trọng và như là một lời cảnh báo: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình thì Cha Thầy ở trên trời cũng cư xử với anh em như vậy.” Như thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy rằng, thái độ của chúng ta đối với anh em đồng loại thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
“Lấy đấu nào đong cho người khác thì Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu ấy.” Lời của Chúa Giê-su hôm nay sẽ trở nên án phạt cho chúng ta, nếu chúng ta không khoan dung đối với anh em chúng ta.
Thánh Phao-lô bảo: “Đừng theo thói thế gian.” Chúng ta thường thấy đời sống xã hội hôm nay là “ăn miếng trả miếng,” cũng như thời Mô-sê, luật báo oán vẫn được áp dụng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.”Chúa Giê-su đòi buộc chúng ta vượt lên trên sự hèn hạ xấu xa của con người.
Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su chứng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta vượt xa mọi tính toán của con người. Chúng ta lỗi phạm. Khối tội của chúng ta là một món nợ khổng lồ không thể trả được. Có ai trong chúng ta có thể lượng giá tất cả tội lỗi của chúng ta đối với Chúa không? Thánh vịnh nói: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được chăng?”
Thế nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta lại bắt lỗi anh em từng lời nói, chúng ta trách phiền người nầy người nọ và có lúc lại hiềm khích hận thù. Món nợ của chúng ta với Chúa to lớn như thế nào, anh em chỉ lỗi phạm một vài điều nhỏ nhặt, chúng ta không đủ can đảm tha thứ. Chúng ta xin Chúa thứ tha thế nào?
Bắt lỗi nhau, hiềm khích nhau để được gì? Ích lợi gì cho chúng ta? Chúng ta chỉ gặt hái sự bực bội, khó chịu và cáu gắt mà thôi. Thỏa mãn một chút tự ái, chúng ta đánh mất sự bình an, và đánh mất cả hạnh phúc.
Hãy nhìn Chúa Giê-su. Ngài thanh thản nhẹ nhàng. Ngài yêu thương những người tội lỗi: Gia-kêu, Maria Ma-đa-lê-na, người phụ nữ ngoại tình… Chúa Giê-su cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài “tìm kiếm những gì đã hư mất,” Ngài phục hồi những tâm hồn hoen ố. Cũng như trên đỉnh đồi Can-vê, trong nỗi thống khổ tột cùng, Ngài nhìn thấy những kẻ thù của Ngài hả hê đắc thắng, ngạo nghễ, vui cười trên đau khổ của Ngài. Ngài xin Cha tha cho họ… Như vậy, thái độ của Chúa không đủ làm cho chúng ta suy nghĩ hay sao?
Chúng ta cần được Chúa thứ tha, vì trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, những người không thể trả nợ, sao chúng ta lại có thể chứa chất trong lòng những tự ái, ích kỷ, ghen tỵ? Sao chúng ta không thể rộng lượng như Cha trên trời?
Đối với chúng ta việc tha thứ đôi khi rất khó, nó đòi hỏi ta phải có lòng yêu thương nhiều, đòi hỏi quên mình và khiêm tốn. Phải, đôi khi nó đòi hỏi chúng ta thật nhiều, nhưng đó cũng là điều kiện tiên quyết để được tha thứ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta quên mình để tha thứ như Ngài: “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Thương, nên chúng ta hãy cố sống yêu thương và học bài học hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ dễ tha thứ và tạo bầu khí xung quanh trong lành và hạnh phúc.
Thế gian đầy dẫy hận thù, tranh chấp. Chúng ta không thể rót vào biển lửa hận thù đó một chút yêu thương sao? Chúng ta không thể xoa dịu những vết thương hận thù giữa anh em chúng ta, xây dựng một tình huynh đệ chân thành giữa anh em đang chung sống với chúng ta trong cuộc sống cam go nầy sao?
Chúng ta mơ tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không ở nơi hận thù ghen ghét. Hạnh phúc thật chỉ đến trong tình yêu. Thánh Phao-lô, trong nhiều bức thư đã khích lệ giáo dân của ngài sống yêu thương, tha thứ. Hôm nay, chúng ta vừa nghe trong đoạn thư gửi giáo đoàn Rô-ma những lời rất đặc biệt mà nhiều khi chúng ta không để ý: “Không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa gì?
Nếu sống cho mình là sống theo bản năng và ý muốn của mình, thì chúng ta chỉ gieo rắc khốn khổ thôi. Sống cho Thiên Chúa là mở rộng Vương Quốc Tình Yêu của Ngài; nơi đó, chúng ta mới tìm được điều chúng ta mong ước là Hạnh Phúc.
Hôm nay, trong hiến lễ tình yêu nầy, chúng ta sẽ cùng với Chúa Giê-su cầu xin cho “Nước Cha trị đến”. Và Nước Cha chính là Nước Tình Yêu và tha thứ.
Chúng ta sẽ ăn lấy Đấng đã yêu thương chúng ta, tha thứ và liều mạng cho chúng ta, chúng ta hãy đem tình yêu vào gia đình, làng xóm và trong môi trường chúng ta đang sống…
Xin cho con biết:
“…đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,…
đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
*******
Nhiên liệu để đi xa hơn:
Tha thứ
Mục sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Tha thứ
Cha Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại, có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù. Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai”. Có người trước khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ”.
Một sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả”.
26.Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật như Ngài đã nói. Trong Cựu Ước, Luật Môsê dạy tha thứ cho anh em, và ra luật báo oán là mắt đền mắt răng đền răng. Chúa Giêsu bảo phải tha thứ. Mấy ông Pharisêu lại tỉ mỉ cho phép tha thứ giới hạn một số lần nhưng không đồng ý với nhau. Người thì cho là chỉ tha ba lần, người lại cho năm hay bảy lần. Phêrô không rõ nên theo phái nào và đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải là bảy lần không?” Nhân câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu dạy chúng ta không phải chỉ tha bảy lần mà tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha không giới hạn. Và nhân dịp đó Chúa cho một dụ ngôn người đầy tớ vô nhân.
Dụ ngôn không khó hiểu cho lắm, nhưng chúng ta cần suy nghĩ để thi hành đúng với những gì Chúa dạy. Thánh Matthêu nói đến một vị vua để có thể kết luận một cách hợp lý. Chúa muốn chúng ta tha thứ cho nhau vì chúng ta được tha thứ trước và nhiều hơn gấp triệu lần. Một người nợ nhà vua hàng ngàn tỷ bạc, vì không có gì trả nên vua đòi phải bán cả gia sản và cả vợ con của y để trả nợ. Thời bấy giờ người ta còn buôn nô lệ, vì thế có vấn đề bán cả vợ con y. Nếu tên này nợ vua nhiều như thế thì không phải là một tên nghèo, cũng không là một người dân thường, gia sản của y cũng khá to có thể bù được món nợ phần nào. Nhưng tên này đã sấp mình xuống lạy lục, vì anh biết số nợ của anh quá to, và anh không có gì để trả.
Chúng ta cũng thế, chúng ta phạm đến Chúa gần như hàng ngày, món nợ của chúng ta như thế nào? Chúng ta có biết được không? Chúng ta không mấy ý thức. Đến lúc ra trước mặt Chúa, chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Vua Đavít sau khi phạm tội đã van nài Chúa như thế nào: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu thương xót con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…” Chúa sẵn lòng tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta van xin Ngài. Nhưng… với một điều kiện là chúng ta phải tha thứ cho anh em chúng ta.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng, nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta như Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì đừng mong được tha thứ. Người mắc nợ vua, khi đã được tha món nợ kết xù của mình, gặp một người bạn mắc nợ chỉ vài trăm đồng đã bóp cổ anh, đòi phải trả. Người bạn đã quì xuống lạy anh nhưng anh một mực không tha và đem anh bỏ tù. Thái độ bất bao dung này đã làm cho những người bạn của y bất mãn và buồn. Họ đem trình mọi việc cho vua. Lúc ấy vua đòi tên kia đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ cho ngươi vì ngươi đã van xin ta, sao ngươi không thương đồng bạn của ngươi như ta đã thương ngươi?” Và vua cho tống ngục tên đầy tớ độc ác kia…
Tha thứ cho anh em là một đòi buộc không thể tránh né, vì chúng ta đã được tha thứ quá nhiều. Những người anh em chúng ta có lỗi phạm thì cũng không đáng giá gì so với món nợ của chúng ta với Chúa. Thế mà Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, tại sao chúng ta không sẵn lòng tha thứ cho anh em chúng ta? Tại sao chúng ta không thấy tình yêu của Chúa mà chỉ thấy lỗi phạm của anh em?
Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúng ta cầu xin như thế, và chúng ta có thực sự làm như chúng ta xin không? Đừng đọc câu này một cách hời hợt, hãy đọc với tất cả tâm hồn thành thật của chúng ta. Chúng ta là ai mà bắt tội anh em đang lúc Chúa nhân từ vẫn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta? Ngay trong Cựu Ước, Giuse, con của Giacob đã tha thứ cho anh em đã bán mình. Giuse không được Chúa dạy như chúng ta, nhưng ông đã biết tha thứ. Chúa Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người làm khổ cho chúng ta. Và chính Chúa đã tha cho những kẻ hành hình đóng đinh Ngài. Như thế không đủ cho chúng ta noi theo hay sao? Chúa còn dạy chúng ta sống hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Hiền lành là luôn biết tha thứ, không tích lũy những sự nhục mạ khinh chê. Khiêm nhượng là chấp nhận tất cả mọi điều sỉ nhục có thể có. Chúng ta noi gương Chúa như thế nào?
Trong nhiều giáo xứ, là cộng đoàn dân Chúa, không thiếu những chuyện hận thù ganh ghét, tranh chấp, gây bất hòa trong cộng đoàn. Trong các hội đoàn cũng thế. Giáo đoàn Côrintô đã gây bao nhiêu khó khăn cho thánh Phaolô và ngài đã nặng lời lên án tất cả những chia rẽ tranh chấp trong cộng đoàn đó. Tha thứ mới có thể hiệp nhất.
Trong gia đình cần phải tha thứ cho nhau nhiều hơn vì cuộc sống chung vẫn có những va chạm nhiều lúc rất trầm trọng. Nhiều gia đình vì không biết tha thứ đã gây nên những đau khổ lâu dài. Cần có can đảm để tha thứ. Và sự tha thứ sẽ mang lại bình an cho tâm hồn.
Thánh Phaolô đã dạy: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn chưa nguôi”. Chúa Giêsu cũng bảo: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ… Anh em đừng lên án thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”… Thánh Phaolô cũng nói: “Đức mến chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả” và như thế có thể hiểu là tha thứ tất cả. Chúng ta cần theo gương của Cha trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành người dữ… Chúng ta đố kỵ, hiềm khích… làm sao chúng ta tự nhận mình là con của Cha trên trời?
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy hận thù chia rẽ, chúng ta cũng bị nhiễm lây thói thế gian. Chúng ta cũng hận thù tranh chấp như những người không biết Chúa sao? Vì sao Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá? Phải chăng là để quy tụ tất cả nên một, để bôi xóa hận thù? Chúng ta lại trở nên kẻ thù của thập giá như thánh Phaolô nói sao?
Gương lành không thiếu, chỉ thiếu thiện chí và can đảm.
Hôm nay, khi dâng lên Chúa của lễ là cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy dâng với bàn tay thanh sạch, nghĩa là không vương vấn những tị hiềm nhỏ nhen, những tranh chấp, những bất hòa của chúng ta, một lòng một ý để tạ ơn và tôn vinh Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy: “Khi đến dâng của lễ trước bàn thờ, nếu ngươi nhớ có mối tỵ hiềm với người anh em, hãy để của lễ ở đó, đi về làm hòa với người anh em đã, rồi đến dâng của lễ”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ vui nhận của lễ khi chúng ta dâng lên với tâm tình yêu thương thành thật. Chúa Giêsu là của lễ tình yêu độc nhất khi Ngài tự hiến trên thập giá, và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Chúng ta cũng phải trở nên của lễ tình yêu như thế nếu chúng ta muốn Chúa thương nhận của lễ chúng ta dâng. Hơn nữa Chúa Giêsu lại chứng tỏ tình yêu của Ngài một cách thiết thực hơn khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ăn lấy tấm bánh tình yêu này, chúng ta phải trở nên tình yêu sống động và làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đầy gian nan của chúng ta. Hãy biến cuộc sống thành tình yêu, đối với Chúa và với anh em, chúng ta mới trở nên con của Cha trên trời và cuộc sống chúng ta sẽ tươi sáng và hạnh phúc hơn.
27.Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “Lạy Thày, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không?” (Mt 18, 21). Ông hỏi Chúa Giêsu như thế vì ông tự nghĩ rằng: Theo các Thầy dạy luật, các Rabbi, thì những người công chính nên tha thứ cho những người xúc phạm tới mình 3 lần, sự bất quá tam. Đến lần thứ IV thì không buộc phải tha thứ cho họ nữa! Do đó, ông tự nghĩ: Tha cho anh em đến bẩy lần là điều quá sức, quá quảng đại và đã chứng tỏ rằng mình thực thi như thế là anh hùng và đáng Chúa khen ngợi rồi!
Thế nhưng, câu trả lời của Chúa làm cho ông chưng hửng, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh đề nghị của ông với sự đòi hỏi của Chúa thì thấy mình còn quá xa sự trọn lành, xa đòi hỏi của Tin Mừng, Chúa trả lời: “Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy” (Mt 18, 22)
Để giải thích cho Phêrô tại sao cần phải luôn tha thứ, Đức Giêsu kể lại dụ ngôn những kẻ mắc nợ. Người đầu tiên được ông chủ tha hết nợ mặc dầu anh nợ ông chủ một số tiền lớn. Nhưng chính anh chỉ sau đó ít lâu lại không biết thương xót và tha cho người khác là kẻ chỉ mắc nợ anh một số tiền nhỏ.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
Tha thứ là một hành vi nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người nhưng không phải không làm được. Tha thứ cho người khác vì lợi ích của chính ta, chính ta được tha thứ, điều ấy sẽ làm ta hạnh phúc hơn. Người ta không thể nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người bị xúc phạm tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình. Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người. Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn “Không phải với sự oán giận mà sự oán giận được xoa dịu; với sự không oán giận, sự oán giận mới được xoa dịu”. Tha thứ trong Kitô giáo vượt xa sự không bạo tàn và sự không oán hận. Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: “Ngươi này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”(Sir 27, ). Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân. Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Đây là một phương trình phải luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không thể tha thứ, thì làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho bạn? Ngài muốn tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn đóng cửa lòng, thì lòng thương xót không thể bước vào. Có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, con tha thứ nhưng con chẳng thể quên được điều tồi tệ mà người đó làm cho con…’. Đây lại là một vấn đề khác. ‘Hãy khẩn cầu Thiên Chúa để Ngài giúp bạn quên điều đó đi.’ Thật vậy, người ta có thể tha thứ nhưng để quên đi lỗi lầm thì không luôn luôn thành công. Đôi khi chúng ta nói rằng tôi tha thứ cho bạn nhưng thật ra ý tôi là muốn bắt đền bạn; bạn phải trả giá. Tha thứ kiểu này thật sự không được. Hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ: đó là tha thứ đến tận cùng.
Ước gì mỗi người chúng ta, để đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nhận lãnh sự tha thứ và rồi chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác nữa - tha thứ thật lòng. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ chào tôi khi gặp nhau trên đường nữa, nhưng tự thâm tâm tôi đã tha thứ cho bạn rồi. Và như thế chúng ta xích lại gần điều vĩ đại của Thiên Chúa, đó chính là lòng thương xót. Khi tha thứ, chúng ta mở tâm hồn ra để lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào và tha thứ cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều cần phải khẩn nài sự tha thứ. Tha thứ và rồi chúng ta sẽ được thứ tha. Chúng ta hãy có lòng thương xót người khác, và chúng ta sẽ cảm nhận được lòng thương xót đó nơi Thiên Chúa, là Đấng một khi đã tha thứ thì hoàn toàn quên hết lỗi lầm của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Xót Thương và hay tha thứ, xin dạy con bài học nhân ái, độ lượng và thứ tha, để con không giữ lòng hiềm thù, oán hờn và ghen ghét bất cứ ai đã xúc phạm, gây ra đau khổ cho con, xin giúp con luôn tha thứ cho mọi người vô tình hay hữu ý xúc phạm tới con. Amen.
28.Hào quang của tha thứ--Thiên Phúc
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
29.Tha thứ là được thứ tha--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi”.
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
* Tại sao phải tha thứ cho nhau?
Không phải chỉ bây giờ chúng ta mới đặt ra câu hỏi này. Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của tình thương và sự tha thứ, thì các môn đệ cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự như vậy.
* Tại sao phải tha thứ và tha thứ bao nhiêu lần?
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho câu hỏi chúng ta vừa đặt ra: Tại sao phải tha thứ và phải tha thứ bao nhiêu lần? – Chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta cần tha thứ luôn luôn cho anh em, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta.
Như thế, tha thứ là sống noi gương Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người sống hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Nếu như từ đầu, khi con người phạm tội xa cách Ngài mà Thiên Chúa đã không có biện pháp tha thứ, thì chắc chắn sẽ không có tương lai gì tốt đẹp cho con người, nhưng kể từ giây phút có sáng kiến thực hiện chương trình tha thứ cho con người, thì từ giây phút đó nhân loại có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nếu nhân loại biết vâng phục lắng nghe lời dạy của Ngài mà tha thứ cho nhau.
Vậy mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta để tâm hồn mình hòa điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hòa mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Trong câu chuyện dụ ngôn, Chúa cho thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu, nên không tha thứ cho nhau được.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì người đã van xin ta; con ngươi, sao không chịu thương hại bạn ngươi như ta đã thương hại ngươi?”và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu anh em không hết lòng tha thứ cho nhau”. Như thế, từ chối tha thứ cho anh em là ngăn chặn ơn tha thứ đang dào dạt tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy. “Vì chính khi thứ tha là khi chúng ta được Thiên Chúa tha thứ”.
Thưa anh chị em,
Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng tích chứa trong lòng. Chuyện ngày xửa ngày xưa, ba bốn đời… khi vui, thuận vợ thuận chồng, thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Còn Chúa, đã tha thứ thì Ngài tha luôn, vì “nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129).
Chúng ta hãy cầu nguyện như Bà Corrie-Ten-Boom khi thấy mình không thể tha thứ được: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ được cho anh em con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Amen.
30.Sự tha thứ--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Điểm đặc biệt trong đời sống Kitô hữu là mỗi người được Lời Chúa trong Chúa Nhật 24 nhắc nhở rõ ràng là sự tha thứ cho nhau. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Huấn Ca (Hc 27,33-28,9), loan báo trước giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, giáo huấn về sự tha thứ cho những lỗi phạm của anh em: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Bài Phúc Âm thánh Mátthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong câu trả lời cho Thánh Phêrô đến hỏi Chúa: "Tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, đến bảy lần chăng?". Phêrô đến với Chúa bằng một tâm thức câu nệ hình thức, tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ và ông nghĩ rằng, tha thứ đến bảy lần là đã làm trọn luật Chúa dạy. Noi gương của Thiên Chúa như đã được kể lại trong sách Cách Ngôn: "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Cách nói bảy mươi lần bảy cũng là cách nói được dùng trong sách Sáng Thế Ký (x. St 4, 24), có nghĩa là tha thứ luôn luôn, không có giới hạn, không có tính toán.
Đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu được trích lại nằm trong toàn bộ chương XVIII nói về những đặc điểm nếp sống mới của những đồ đệ Chúa Kitô, và nền tảng cho nếp sống mới là căn cứ theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mt5,48). Mỗi một thái độ sống của người đồ đệ Chúa đều được Chúa qui hướng về việc bắt chước theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha.
Chính vì thế mà để làm nổi bật khía cạnh đặc điểm tha thứ cho anh em, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để diễn tả thái độ của Thiên Chúa Cha như ông chủ tha thứ cho người tôi tớ vì tình thương hơn là chính người tôi tớ tha thứ cho bạn của mình, vậy chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho anh em mình, cho những người xúc phạm hay làm tổn thương đến chúng ta bằng cách này hay cách khác.
Đặc điểm thứ hai cần lưu ý là mối liên quan giữa nếp sống Kitô và lời cầu nguyện. Điều này được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất, đó là sự liên kết giữa cuộc sống hàng ngày và đời sống cầu nguyện, vì tha thứ cho kẻ làm hại đến mình thì con người sẽ được tha thứ như vậy. Không thể không có tha thứ đích thực nếu không tuân giữ luật Chúa dạy. Các tiên tri nhiều lần đã lên tiếng cảnh cáo những thái độ sống giả hình, đó là dâng lễ vật lên Thiên Chúa mà vẫn hà hiếp, áp bức anh chị em xung quanh: "Thiên Chúa muốn tình thương hơn là lễ vật" (Mt12,7). Và: "Khi các con đến dâng của lễ mà nhớ có điều gì bất bình với anh em thì hãy bỏ của lễ lại mà đi làm hòa với anh em con trước đã, rồi hãy đến dâng lễ vật" (Mt5,23-24). Giáo huấn này được Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn nữa khi Ngài đưa nó vào lời kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành. Vào thời hậu thế chiến thứ hai bên Âu Châu, cô Coritanbum, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp nơi bên Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp đưa tay ra bắt lấy cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác đi nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng không vượt qua được về những cảm xúc đó như cô Coritanbum. Ông Alexande Box đã có lần nói: "Lầm lỗi là chuyện thường tình của con người, nhưng tha thứ phải là chuyện của Thiên Chúa". Cần có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ vấn đề, không phải chỉ giữ luật tha thứ như Phêrô nghĩ là tha thứ đến bảy lần, vì luật Môisen chỉ dạy tha thứ có bảy lần mà thôi, nhưng hệ ở chỗ là tâm hồn luôn luôn tràn đầy tình yêu thương để tha thứ cho anh em mình. Tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghìa là tha thứ luôn luôn, chúng ta cần phải có tâm hồn như Chúa, tha thứ như Chúa, không tính toán số lượng, số lần theo luật định, nhưng phải với tâm hồn đã được ơn Chúa biến đổi là tha thứ vô hạn định.
Xin Chúa đến với chúng con ngày hôm nay trong Bí Tích Thánh Thể, đặc biệt khi chúng con rước Chúa vào tâm hồn, chúng con xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con được trở nên giống như Chúa, tâm hồn tràn đầy tình thương của Chúa để chúng con tha thứ cho tha nhân như Chúa, xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
31.Chính khi thứ tha là khi được tha thứ--Anmai
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23 thường niên tuần trước. Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta một cách hết sức tế nhị khi sửa lỗi với anh chị em đồng loại. Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại nếu như anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Thánh Phêrô vốn dĩ là một con người mang trong mình dòng máu nóng, tính bộc trực nên vừa khi nghe nói vấn đề gì đó Ngài không chịu suy xét, Ngài không trầm lắng đủ để giải quyết vấn đề. Ruột của Ngài thẳng như ruột ngựa vậy, bụng nghĩ sao là nói vậy ngay chứ không hề suy tính thiệt hơn. Nói về việc anh em đồng loại xúc phạm đến mình, Ngài rất hào phóng, rất rộng rãi. Tha một lần đã là quá đáng lắm rồi, theo như cách suy nghĩ của nhiều người. Ngài hào phóng, Ngài nói với Chúa Giêsu là Ngài tha bảy lần tưởng chừng là được Thầy Giêsu khen nhưng đáng tiếc Thầy Giêsu đã nói với Ngài không phải là tha bảy lần nhưng lại là bảy mươi lần bảy. Bảy mươi bảy lần: có bản ghi là 77 lần 7, trong câu trả lời này, Chúa Giêsu đã đưa vào bài ca báo thù của Lamek nơi sách sáng thế 4,24 "Cain được báo thù gấp 7, nhưng Lamek tới 70 lần 7". Nhưng thay vì nói báo thù thì Chúa Giêsu lại nói tha thứ. Cả hai cách nói đều có ý nói số lần là vô hạn vì thế ở đây Chúa dạy là phải tha thứ luôn.
Luật xưa dạy người ta mắt đền mắt răng đền răng nhưng Chúa Giêsu đến Chúa Giêsu đã sửa luật cũ đó. Sự tha thứ cho đồng loại để được Chúa nghe lời cầu xin được đề cao. Chúng ta được sinh ra và sống thời Tân Ước - thời của Chúa Giêsu - khác với những gì Cựu Ước đã dạy nhưng lòng chúng ta cứ xử với anh chị em đồng loại như thời Cựu Ước vậy. Chúng ta vẫn mang trong mình cái máu đòi nợ máu của anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Một câu chuyện có thật, nó mang đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM: Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất giọng chậm rãi: "Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người". Cả phòng xử im lặng lắng nghe. Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: "Hôm nay tôi đến đây để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình". Nhiều tiếng thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Cách nay không lâu, Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy, Phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhâà nội ngất lịm, tưởng như có thể chết cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường Đại Học Mỹ thuật Thành phố HCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường và sống vì người khác.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân nói: "Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện thoại, bà ấy nói: "Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn hơn". Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình". Để có thể dự phiên tòa hôm nay, từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên Thành phố HCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: "Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải lên đây nói cho rõ, may ra Hội đồng Xét xử mới tin mà xem xét cho nó. Mong là nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích".
Cuối cùng, Hội đồng Xét xử cũng chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi ngoai dù thời gian có trôi qua...
Câu chuyện thật giữa đời thường và hết sức thường này gợi lên cho chúng ta về lòng bao dung, về tình người, về lòng nhân đạo, về sự tha thứ... Người cha trong câu chuyện này ắt hẳn là người không phải là người Công giáo nhưng ông mang trong mình tâm tư của người Công giáo và ông đã sống theo lời Chúa Giêsu dạy dù ông không biết Chúa Giêsu là ai. Người cha trong câu chuyện này đã sống tột đỉnh của lòng bao dung của sự tha thứ. Ông cũng không ngại bộc bạch rằng sự tha thứ ấy không dễ chút nào với tình cảm của ông cũng như sự phản đối quyết liệt của gia đình về quyết định tha thứ của ông. Sự tha thứ của ông tưởng chừng như đơn giản nhưng thử hỏi mỗi người chúng ta khi đứng vào vị thế của ông, chúng ta dẫu là người Công giáo, thấm nhuần lời giáo huấà nội của Chúa chúng ta có can đảm tha thứ cho kẻ đã giết đứa con thân yêu của chúng ta không? Hay là chúng ta đòi người khác phải đền nợ máu cho chúng ta, người khác phải trả cho chúng ta đến đồng xu cuối cùng.
Trở lại với trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải nói là người có biệt tài về dùng ví dụ cũng như phóng đại tính chất nghiêm trọng trong ví dụ của mình. Dừng lại một chút chúng ta sẽ thấy khập khiễng làm sao ấy giữa hai món nợ. Một bên thì nợ vua mười ngàn nén vàng, một bên thì người bạn nợ một trăm quan tiền. So sánh giá trị giữa một trăm quan tiền và mười ngàn nén vàng chúng ta thấy một khoảng cách xa vời vợi. Điều này Chúa Giêsu muốn nói rõ cho mỗi người chúng ta là chúng ta nợ Chúa quá nhiều và Chúa tha cho chúng ta còn anh chị em chúng ta nợ chúng ta quá ít mà chúng ta lại đòi anh em chị chúng ta trả cho bằng hết như trong ví dụ của Chúa Giêsu.
Đừng nói gì đến lòng mến, lòng bác ái. Chỉ cần nói đến sự công bằng thôi thì chúng ta thấy chúng ta sống quá ư là bất công. Bất công không chỉ với Chúa mà con bất công với anh chị em đồng loại. Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn thường râm ran: Xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Miệng thì đọc thế nhưng lòng có thật sự tha hay không? Hay là miệng thì đọc nhưng lòng cứ muốn đòi nợ máu anh chị em đồng loại của mình.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe nhắc nhớ mỗi người chúng ta: không ai trong chúng ta được sống cho mình... chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa... Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Chúa vì chưng Chúa đã sống, đã chết là để làm chúa kẻ sống và người chết. Chúa là Chúa của mỗi người chúng ta vậy mà nhiều lúc chúng ta tước đoạt quyền làm Chúa trên cuộc đời chúng ta. Tước đoạt quyền làm chúa của Chúa là chuyện hết sức là bi hài. Chỉ có Chúa mới làm chúa, làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta vậy mà chúng ta muốn làm chúa, làm chủ cuộc đời người khác và bắt người khác phải làm tôi, phải trả nợ cho chúng ta.
Nếu đọc thêm một câu của đoạn thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma nữa chúng ta sẽ thấy Ngài nói: "Còn ngươi, tại sao ngươi xét đoán anh em ngươi? - Hay ngươi, tại sao ngươi khinh anh em ngươi? Vì ta hết thảy sẽ ra trước tòa Thiên Chúa". (Rm 14,10). Chúng ta thường mang cái bệnh xét đoán anh em, kết án anh em và ra hình phạt với anh em. Và thường hơn nữa trong cuộc sống thường nhật chúng ta hay mang trong mình chứng bệnh khinh thường anh chị em đồng loại khi họ nghèo hơn chúng ta, khi họ khổ hơn chúng ta, khi họ bất hạnh hơn chúng ta, khi họ yếu đuối hơn chúng ta, khi họ vấp phạm điều gì đó mà cộng đoàn đều biết. Thế nhưng Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng: hết thảy chúng ta sẽ ra trước toà Thiên Chúa. Khi và chỉ khi ra trước toà Thiên Chúa thì khuôn mặt thật của chúng ta, tấm lòng thật của chúng ta sẽ phải bị phanh phui ra trước mặt Chúa thôi. Hiện giờ thì chúng ta còn lấp liếm, còn giấu những sự ác, những sự gian tà, những hận thù, ghen ghét anh chị em đồng loại nhưng khi ra trước toà Chúa chúng ta không thể nào giấu được.
Vậy, phải chăng qua trang tin mừng ngắn ngủi, qua ví dụ nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu hôm nay chúng ta liệu liệu mà tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta có một trăm quan tiền để hầu mong Chúa Giêsu tha cho chúng ta là những con nợ đang mắc nợ Chúa với số nợ quá lớn là cả ngàn nén vàng. Chúng ta muốn Chúa tha thứ cho chúng ta thì điều kiện cần, điều kiện trước hết là chúng ta phải biết tha thứ cho anh chị em đồng loại. Nếu chúng ta bắt đền, đòi nợ anh chị em đồng loại thì nào Chúa lại tha cho chúng ta. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ thử xem có phải là chính lúc chúng ta thứ tha là lúc mà chúng ta được tha thứ hay không?
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng bao dung, chậm bất bình và giàu ân sủng thương xót và tha thứ cho chúng ta những món nợ mà chúng ta nợ Chúa cũng như nợ anh chị em đồng loại. Nguyện xin Chúa Giêsu mở lòng mỗi người chúng ta để chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em đồng loại để hầu mong Chúa cũng dễ dàng tha thứ những món nợ mà chúng ta nợ Chúa. Amen.
32.Tha thứ cho nhau--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy: Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn. Thánh Phêrô, trong câu hỏi của mình, đã vô tình để lộ ra cái ý muốn giới hạn tình yêu của mình. Ngài đưa ra con số 7 mà hỏi Chúa: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?" Có lẽ thánh Phêrô nghĩ rằng mình đã tha thứ đến 7 lần như vậy, đã là nhiều lắm rồi, đã là không thể tưởng rồi. Nhưng thánh Phêro lầm. Đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Kitô, giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.
Câu trả lời của thánh Phêrô: "Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7", trở thành điểm qui chiếu cho tình yêu tha thứ của chúng ta. Tha thứ đến 70 lần 7 nghĩa là tha thứ không giới hạn, tha thứ vô cùng, tha không tính toán, không đếm bằng những con số. Vì khi đếm là đã giới hạn lòng yêu thương của mình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo, có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7. Hãy nghe Lời Chúa dạy để đừng đặt giới hạn của lòng tha thứ, mà hãy tha thứ không giới hạn. Có những chuyện ta tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, lại sinh ra oán thù lớn. Ví dụ: hai đứa bé đánh nhau, thì vì chỉ bảo chúng, hai người hàng xóm, vì bênh vực con, lại mắn chửi nhau, rồi không thèm nhìn nhau.
Có khi chỉ là một câu nói lỡ lời, chạm tự ái, dẫn đến chuyện trách móc, phàn nàn nhau. Tệ hại hơn, không thể tha thứ cho nhau, nên dẫn tới chỗ hạ nhục nhau, chửi bới hoặc tìm cách trả thù nhau, chí ít thì cũng nói xấu nhau. Những điều đó đã là xấu đối với những người không có quan hệ họ hàng. Vậy mà những điều xấu đó lắm lúc lại xảy ra trong dòng tộc, trong gia đình: vợ chồng, cha mẹ, anh chị em. Những người thân của nhau mà còn không thể tha thứ cho nhau, thì huống hồ là người dưng.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
33.Vì sao phải quảng đại tha thứ?--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một trong những đức luân lý nhân bản. Và tôn giáo nào cũng dạy con người sống phải biết đại lượng, khoan dung, tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Sự oán ghét, hận thù thỉnh thoảng có mặc chiếc áo của sự công bình làm con người thấy hả hê khi kẻ có tội phải bị đền nợ nhưng rồi chẳng thể thực sự “có hậu” như Phật pháp nhận định: lấy oán trả oán thì oán oán chồng chất. Vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta phải quảng đại tha thứ cho nhau và cần phải tha thứ liên lĩ như Chúa Giêsu khẳng định với Phêrô là đến bảy mươi lần bảy?
Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XXIV TN A, đặc biệt bài trích Sách Huấn ca và bài trích Tin Mừng thánh Matthêu đã nêu rõ nguyên nhân khiến chúng ta phải tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ đó là vì chúng ta cũng là kẻ có tội và đã được Thiên Chúa tha thứ cách liên lĩ và quảng đại. Đồng thời việc tha thứ cho nhau còn là điều kiện như tất yếu để nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều là kẻ có tội. Đã là người ít có ai dám to gan khẳng định mình vẹn sạch, không vương bẩn tội nhơ. Cha ông chúng ta cảm nghiệm rằng: Đa thọ đa nhục, đa phú đa ưu. Cũng như càng giàu có thì càng thêm nhiều mối lo thì càng thêm tuổi thì tội lỗi càng chất chồng. Mọi thứ tội mà chúng ta phạm đến Thiên Chúa đều to lớn và nặng nề như món nợ không bao giờ có thể trả được. Mười ngàn nén vàng mà anh đầy tớ mắc nợ nhà vua theo câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể là một minh họa. Mức độ nặng nhẹ của tội mà chúng ta phạm không nguyên chỉ căn cứ vào loại tội gì mà còn căn cứ vào người mà chúng ta xúc phạm. Mọi tội lỗi của chúng ta đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa, vì chúng ta đã cố tình đi ngược với đường lối Người chỉ dạy, làm trái với giới răn Người ban truyền. Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã dựng nên muôn vật muôn loài và dựng nên chúng ta từ hư vô. Người còn là Người cha chí ái đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một cho chúng ta. Chính vì thê phải khẳng định rằng bất cứ thứ loại tội nào dù lớn hay bé, dù mặt này hay khía cạnh kia, khi đã xúc phạm đến Đấng Toàn Năng và Toàn Thiện thì đều đáng “tru di cửu tộc”.
Một thực tế không thể chối cãi đó là Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu với chúng ta không bút nào tả xiết. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta đến nỗi trao ban chính Người Con Một để chúng ta được thứ tha, được hòa giải với Người và dĩ nhiên là để cho chúng ta được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Gioan Tông đồ quả quyết chính Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại cũng đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Anh đầy tớ mắc món nợ kếch xù trong câu chuyện dụ ngôn, không xin tha mà chỉ xin cho khất nợ một kỳ hạn, thì đức vua lại chạnh lòng thương cho y về và xí xóa luôn cả món nợ kếch xù ấy. Lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là thế đó. Đức Bênêđictô XVI trong Thông Điệp đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” đã nhận định: Tình yêu của Thiên Chúa như chống lại sự công minh của Người (số 10).
Một định luật tất yếu: Nước trên nguồn tuôn đổ dạt dào thì nó cần phải được chảy xuôi về hạ lưu. Đã đón nhận tình yêu tha thứ cách dồi dào và nhưng không, thì chúng ta phải biết yêu thương tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ. Tuy nhiên một thực tế dường như không thể chối, đó là dòng suối ân tình tha thứ đã từng bị chặn đứng bởi tấm lòng hẹp hòi, nhỏ nhen của chúng ta trước lầm lỗi của tha nhân. Cần xác định rằng mọi lỗi lầm mà tha nhân phạm đến chúng ta đều chỉ là món nợ lẻ, không đáng kể. Chúng ta cũng chỉ là thọ tạo như tha nhân không hơn không kém. Chúng ta đồng thời cũng là những tội nhân đầy hạn chế và bất toàn. Chính vì thế những lỗi lầm mà tha nhân xúc phạm đến chúng dù mức nào đi nữa thì chẳng đáng là bao. Thế mà như người đầy tớ vừa được tha một món nợ kếch xù trong chuyện dụ ngôn, chúng ta nhiều khi lại kim gút lỗi lầm của tha nhân đến độ có hành vi nhẫn tâm và tàn ác dường như không thể tưởng.
Một định luật tất yếu thứ hai: Khi dòng chảy bị chặn thì nguồn nước sẽ trào lênh láng ra ngoài. Dù Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ nhưng chúng ta sẽ không nhận được hồng ân ấy, nếu chúng ta khép lòng từ tâm của mình trước tha nhân. Xin cùng nhau ngẫm nghĩ Lời chúa trong Sách Huấn ca: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”(Hc 28,3-5). Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện dụ ngôn bằng những lời sau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế (tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông), nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Trước đó, khi dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều tương tự: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 14-15).
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta đã từng nhiều lần đến tòa cáo giải. Căn cứ vào lời khẳng định của Chúa Giêsu thì vẫn có đó nhiều người dù đã xưng thú tội lỗi, đã nhận được lời xá giải: “Cha tha tội cho con…” , nhưng tội họ vẫn còn đó, nghĩa là chưa nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, tất thảy chỉ vì họ chưa thực lòng tha thứ cho tha nhân, những người đã lỗi phạm đến họ.
34.Một Tin Mừng khó giữ--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ. Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng. Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều. Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng. Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi thiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa. Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa. Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân. Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác. Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài. Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.
1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua. Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ. Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại. Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa. Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác. Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bay giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.
2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào? Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ. Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng. Tuy nhiên Phúc âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán. Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng. Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào? Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải. Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.
3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không. Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên. Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước? Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt. Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh. Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện. Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.
4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng. Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.
35.Thiên Chúa là vị thẩm phán tốt nhất của chúng ta--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt bạn. Trước hết, bạn sẽ thấy những gương mặt quen thuộc, người phối ngẫu của bạn, những đứa con, ông chủ, bạn bè thân thiết, cha mẹ. Bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn, bạn có thể chọn một trong những người ấy làm quan toà xét xử bạn.
Đầu tiên bạn nghĩ: “Dĩ nhiên tôi chọn người phối ngẫu của mình rồi, chúng tôi yêu nhau thật sự mà”. Nhưng kế đó các bạn nhớ lại bao nhiêu lần cãi cọ, bao nhiêu lần đánh nhau nên các bạn sẽ sợ họ bây giờ vẫn chưa quên đâu. Còn con cái của bạn? Bọn chúng nghĩ rằng các bạn quá khó đối với chúng. Còn những người bạn thân thiết? Các bạn sợ họ biết quá nhiều về bạn.
Vậy bạn chọn cha mẹ khi nhìn thấy những gương mặt già nua. Nếu được chọn bạn sẽ chọn Thánh Phanxico de Salesio, người nổi tiếng là hiền lành và hay thương người. Đó là một chọn lựa không tồi. Hay bạn sẽ chọn thánh Vinh Sơn, một cng nổi tiếng về đức ái khó tìm thấy trong thế giới này. Bạn nghĩ, ông thánh này quá tốt rồi. Và rồi những vị thánh khác liên tiếp xuất hiện trước bạn. Sau hết bạn thấy Đức Trinh Nữ Maria, bạn liền nghĩ: “Dĩ nhiên mình sẽ chọn được phán xét bở người mẹ dịu dàng, tử tế và đáng yêu của mình và cũng là người mẹ đời sống thiêng liêng của mình nữa”.
Nhưng trước khi bạn kịp nói điều gì, Đức Trinh Nữ Maria đã đẩy bạn vào tay Con Mẹ. Chúa Giêsu dẫn bạn đến trước một cái ngai chỉ cho bạn thấy trên ngai đó, Người đó là Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Đây là Đấng phán xét con, đừng chọn một ai khác”.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu nói đúng. Tự nhiên chúng ta hy vọng rằng những người gần gũi với chúng ta trong suốt đời sống sẽ nhân từ với chúng ta trong phán xét hơn. Chúng ta cũng tin rằng Mẹ Maria rất nhân từ và thương yêu chúng ta. Nhưng Mẹ Maria và tất cả các thánh chỉ được thông dự vào sự nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, không những Thiên Chúa sở hữu sự nhân từ trong một mức độ vô biên nhưng Thiên Chúa còn thật sự là sự nhân từ nữa. Thiên Chúa là sự nhân từ và là sự thương xót.
Vị Vua trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là Cha của Người. Khi các bạn của vua xin vua hãy khoan giãn cho y và cho y một thời hạn để trả hết số nợ, vị vua đã tha hết số nợ đó, Người xoá sạch số nợ ấy và Người không còn nhớ gì đến nó nữa. Dĩ nhiên là một vị vua nhân loại sẽ không làm một điều như thế bởi vì con người rất giới hạn. Bạn có thể chắc chắn rằng thẻ tín dụng của bạn sẽ không xoá số nợ của bạn cho dù các bạn có năn nỉ hay nài xin thế nào đi nữa. Nhưng chúng ta không thể minh hoạ bức tranh về Thiên Chúa theo kinh nghiệm của con người nhân loại được. Chúng ta chỉ biết lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Người Con của Người.
Dù đã xoá hết nợ nần là tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa Cha vẫn trao ban Con của Người cho cái chết vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên hành động quảng đại tuyệt vời của Thiên Chúa. Hãy chăm chú lắng nghe những lời thánh hiến trên rượu. Qua miệng của vị linh mục, Chúa Giêsu nói với chúng ta trong mỗi Thánh Lễ: “Đây là chén Máu Ta…”. Và Người đã tha thứ cho tội lỗi chúng ta, xoá sạch… Khi chúng ta làm đầy đủ điều kiện của Thiên Chúa, đó là cố gắng tha thứ cho người khác như Người đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta phải nói cách can đảm: “Xin tha thứ cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Điều này phải hiện hữu trong trái tim chúng ta, khi chúng ta làm một hành động tha thứ. Khi chúng ta xin tha thứ trong suốt hy tế Thánh Thể, khi chúng ta cử hành nghi thức Sám hối. Sách Khôn ngoan nhắc nhở chúng ta: “Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa”. Nhưng sự phong phú của khôn ngoan thì vui mừng với Thiên Chúa và chính Người chứ không phải ai khác sẽ phán xét chúng ta.
36.Tha tận đáy lòng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phim “Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim xoay quanh 4 nhân vật, người cha và hai đứa con, cùng cưu mang một người đàn bà làm nghề mại dâm. Bốn người lênh đênh trên một chiếc xuồng máy, nuôi vịt chạy đồng, không nhà không cửa, nay đây mai đó theo con nước. Đời sống của họ ngập chìm đau khổ dằn vặt xuất phát từ sự thù hằn.
Đầu tiên là người cha. Số là anh ta lấy vợ và có hai con. Cuộc sống cơ cực, anh phải vất vả để lo cho ba mẹ con. Ấy vậy mà người vợ ham sang phụ khó theo một thương lái người Hoa, bỏ lại hai đứa con cho anh. Đau khổ tột cùng vì bị chính người vợ yêu thương phản bội, anh đốt căn nhà, đốt cái mái ấm bấy lâu nay, xuống ghe lênh đênh, bắt đầu một cuộc sống trôi sông lạc chợ, nay đây mai đó, không tương lai, không định hướng. Bao nhiêu hận thù, người cha trút hết lên đầu hai đứa con.
Kế đến là sự thù hận của cô gái điếm. Vì hận cha mẹ ly dị bỏ rơi cô, nên cô làm gái để trả thù đời. Trong một lần đi khách, cô bị đám đông các bà vợ bắt và đổ keo dán sắt vào vùng kín. Cô đau đớn chạy trốn và được ba cha con đưa lên ghe cứu chữa. Cuộc sống của 4 người cứ lênh đênh trên sông nước, buồn tẻ vì mỗi người đều mang trong mình những nỗi thù hằn, căm phẫn vì bị chính những người thương yêu phản bội. Ông bố hận vợ, thù người bạc tình nên luôn cau có và bạo lực đánh đập 2 đứa con. Cậu con trai tuy còn nhỏ nhưng đã mang trong mình nỗi hận thù của cha, cậu nói rằng cậu ghét cái ác, và muốn trả thù, có thù thì phải trả. Cô gái làm điếm vì hận thù gia đình, hận thù bố mẹ…
Cũng vì sự hận thù và lòng muốn trả thù nên 4 người trở thành thù địch của nhau. Và họ đi đâu cũng gây thù chuốc oán ở chỗ đó, cho nên nhiều bọn giang hồ ghen ghét. Cậu con trai vì không chịu nổi người ta ức hiếp người đàn bà nên đã phạm tội giết người. Vì sợ, cậu đã bỏ trốn. Người đàn bà không chịu được sự thù hằn của người bố nên cũng bỏ đi. Chỉ còn lại người cha và đứa con gái. Câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa con gái bị nhóm côn đồ hiếp dâm ngay trước mặt ông bố. Chúng nó đánh ông bố ngã quỵ, rồi buộc ông phải nhìn cảnh bọn chúng từng thằng hãm hiếp đứa con gái của mình trong bất lực. Không còn đau khổ nào hơn thế nữa.
Kết thúc bộ phim, cô gái có bầu, không biết cha đứa bé là ai. Cô đi trên một cánh đồng mênh mông, bất tận, vừa đi vừa nói với đứa con trong bụng: Là trẻ con, nên tha thứ lỗi lầm cho người lớn. Và mẹ sẽ đặt tên con là Thương.
Không biết Nguyễn Ngọc Tư có đạo Công giáo hay không, nhưng rõ ràng với những bế tắc của các nhân vật, cuối cùng chỉ có giáo lý Kitô giáo mới giải quyết được vấn đề. Hận thù chỉ làm cho con người bế tắc, chỉ có sự tha thứ và tình yêu sẽ cứu rỗi thân phận con người. (Lm. Mar-Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS).
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ. Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ.Tha thứ không giới hạn và tha thứ tận đáy lòng. Tha tận đáy lòng nghĩa là tha và quên hoàn toàn, như không có chuyện gì đã xảy ra giữa hai người. Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Chúa lấy mức chúng ta tha thứ cho nhau làm thước đo để tha thứ, chúng ta tha thế nào thì Cha trên trời cũng tha cho chúng ta như vậy. Trong “bài giảng trên núi,” Chúa Giêsu đã dạy, không những “chớ trả thù” mà phải “yêu kẻ thù” nữa, “như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Và Chúa kết luận: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 38-48). Tha thứ tận đáy lòng là một cách thức nên hoàn thiện như Cha trên trời: hoàn thiện về lòng yêu mến, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là một nhân đức siêu nhiên nên cần có ơn Chúa, con người mới có thể nói lời tha thứ cho nhau. Tha thứ không chỉ là một hành động thuần tuý ý chí, mà còn là một ân ban. Không thể có sự tha thứ nếu không cầu nguyện. Mỗi người luôn cảm nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chính mình thì sẽ dễ dàng thứ tha cho người khác.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
37.Tha thứ, mùa xuân tình yêu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
- Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
- Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
- Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
- Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
38.Chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót--Lm. Minh Anh
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, thoạt tiên, có một cái gì đó gây sốc; một điều gì đó xem ra khá bất công khi Thiên Chúa không ngại đứng hẳn về phía người có lỗi; xem ra Người bênh vực tội nhân khá trộ tràng và nhất là, dường như, ai không biết xót thương như Người, thì Người coi họ là thù nghịch. Thế nhưng, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu và Chúa Cha, Đấng mà Ngài ví như ông chủ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có câu trả lời như một chân lý ngàn đời, chân lý đó được Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Vậy thì điều gì đã gây sốc? Bài đọc thứ nhất gây sốc, sách Huấn Ca viết, “Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm”; “Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù và nghiêm trị tội lỗi nó”. Ơ hay, như thế thì người bị anh em mình xúc phạm, người mà trước đó được coi là vô tội lại trở thành có tội, nên thù nghịch với Thiên Chúa nếu họ giận dữ và thịnh nộ với anh em mình; bấy giờ họ có kêu cầu, Thiên Chúa cũng làm ngơ; có van vái, Người cũng để ngoài tai, vì “Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”; “Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?”.
Bài Tin Mừng cũng gây sốc, Phêrô háo hức đến hỏi Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”. Với chúng ta, một lần cũng đã đáng mơ ước; Phêrô tha đến bảy lần là một điều gì đó quả tuyệt vời. Vậy mà với Chúa Giêsu thì không, với Ngài, chừng đó chưa là gì cả, còn quá ít; Ngài nói, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Tội nghiệp Phêrô! Ông tưởng, được ngần ấy là đã rất hào hiệp và quảng đại; ai dè, với Chúa Giêsu, chừng đó không ăn thua; không phải 7 lần nhưng phải gần cả 500 lần. Thật là sốc! Ngài đòi Phêrô tha theo cấp số nhân, cấp số mũ, cấp luỹ thừa và vô cùng; Ngài đòi ông tha theo cấp của trời, cấp của Thiên Chúa, cấp vô hạn. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu nhắm đến chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót cùng sự tha thứ nơi Thiên Chúa; Ngài nói đến cấp vô hạn của sức nặng thập giá như là món nợ của nhân loại mà Ngài phải gánh chịu. Ngài muốn chúng ta dành cho anh chị em mình cái vô hạn như Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi tha thứ và thương xót nó. Con số bảy nói lên rằng, phải tha hết, tha mãi; đặt lên bàn cân, bảy mươi lần bảy có trọng lượng ngang với thập giá, biểu tượng của lòng thương xót và thứ tha nơi Thiên Chúa, “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Với nhiều người trong chúng ta, lời khuyên của Chúa Giêsu nghe có vẻ tốt lành về mặt lý thuyết; điều Ngài nói thật đầy cảm hứng và khích lệ khi chúng ta suy gẫm về chiều sâu, chiều rộng của việc tha thứ mà chúng ta được mời gọi để trao tặng anh chị em mình. Thế nhưng, trong thực tế, khi đối diện với vấn đề, điều này quả không dễ chút nào; nếu không nói là không thể khi phải tha vô hạn.
Vậy mà đòi hỏi tha thứ vô hạn của Chúa Giêsu, một đòi hỏi thiêng liêng vốn không phải là một lý thuyết hay một lý tưởng để chúng ta cố gắng đeo đuổi mỗi ngày; nhưng trái lại, nó phải trở thành một thực tế thiết thực mà chúng ta phải ôm lấy hết sức mình với sức mạnh của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta phải tìm loại bỏ khỏi bản thân bất cứ một khuynh hướng nào, dù nhỏ đến đâu, là ôm hận và giữ trong lòng sự tức giận. Chúng ta phải tìm cách giải thoát mình khỏi mọi hình thức cay đắng và để cho lòng thương xót của Chúa chữa lành mọi tổn thương bằng thập giá của Con Một Người.
Hãy nhìn ngắm lòng thương xót của Người đối với chúng ta, hãy nhìn ngắm thập giá, trên đó, Con Thiên Chúa hấp hối. Từ khi chúng ta lãnh phép Rửa tội, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi một món nợ không trả nổi, đó là tội nguyên tổ. Nhưng đó là chỉ là lần đầu; sau đó, với lòng thương xót vô bờ, Thiên Chúa tiếp tục tha cho chúng ta vạn lần, tha mỗi ngày, tha mọi lỗi lầm mỗi khi chúng ta xúc phạm đến Người, ngay cả khi chúng ta chỉ thể hiện một chút ăn năn dù là nhỏ nhất. Thiên Chúa là thế đó, “Đấng từ bi nhân hậu; Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ khép lòng lại trước những anh chị em xúc phạm mình, dù họ có mở lời xin lỗi hay không, chúng ta hãy nhớ lại lời Thánh Phaolô trong thư Rôma hôm nay, “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình”; ích kỷ, không mở lòng để tha thứ, là sống cho mình; cũng như không ai chết cho mình, vì Chúa Kitô đã chết cho họ. Và nhất là chúng ta nhớ lại lời ông chủ nói với tên đầy tớ không biết tha thứ cho người anh em, “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”.
Ellen Johnson Sirleaf, nữ tổng thống Liberia, nghĩ rằng, đã đến lúc bà trả thù. Tuy nhiên, một trải nghiệm đã khiến bà thay đổi. Ngày nọ, khi đang ở gần một ngôi làng, đột nhiên bà nghe tiếng súng nổ; Weser, vệ sĩ của bà đã lập tức đẩy bà xuống đất. Dù bà được cứu, nhưng viên đạn đã cướp mạng cận vệ Weser. Sau đó, bà phát hiện kẻ bóp cò chính là hàng xóm của Weser, Asa, người đã được thuê để ám sát bà. Mười ba năm sau, nữ tổng thống Sirleaf một lần nữa đến thăm ngôi làng ấy và bắt gặp mẹ của Weser đang đem đồ ăn cho mẹ của Asa. Bà hỏi tại sao, mẹ Weser trả lời, “Sau sự việc 13 năm trước, Asa bỏ trốn và vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của cậu ta bị bệnh, lại nghèo khổ, không còn gì để ăn”. Sirleaf không nhịn được, “Nhưng bọn họ là kẻ thù! Con trai bà ấy đã giết Weser!”. Câu trả lời của người mẹ khiến bà tổng thống kinh ngạc, “Tất cả đã qua rồi. Lấy oán báo oán, chỉ tăng thêm oán thù nhiều hơn”. Những lời của bà mẹ đã để lại cho Sirleaf một bài học sâu sắc, Liberia bị chiến tranh tàn phá cần sự tha thứ hơn là lòng thù hận! Kể từ đó, Sirleaf đã tha thứ cho những cựu thù chính trị của mình và nhận được sự cảm thông, ủng hộ từ những người Liberia. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của châu Phi, bà đã tạo một tương lai bằng tha thứ và đối xử tốt với những kẻ thù; bà được giải Nobel Hoà Bình năm 2011. Đúng như Jonathan Lockwood Huie, mệnh danh ‘Triết gia của hạnh phúc’, từng nói, “Tha thứ cho người khác, không phải vì họ xứng đáng được tha thứ mà bởi vì bạn xứng đáng được thanh thản”.
Anh Chị em,
Ai đã trải nghiệm một niềm vui, bình an và tự do nội tâm đến từ việc được Thiên Chúa thứ tha, người ấy sẽ có khả năng mở lòng mình ra để, đến lượt họ, tha thứ cho anh chị em mình. Thập giá của Đức Giêsu Kitô là bằng chứng Thiên Chúa tha thứ cho mỗi người, đó cũng là chìa khoá mở cửa thiên đàng. Vì thế, mở miệng kêu xin tha thứ là mới lần bước đến ngưỡng thiên đàng, tha thứ cho người khác thực sự, mới là chìa khoá mở cửa thiên đàng khi mỗi người lấy thập giá của Chúa Giêsu làm tiêu chuẩn và khuôn mẫu cho thập giá đời mình. Tha thứ là đôi cánh thiên thần giúp họ bay lên tới Chúa vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương; xin cho con một trái tim nhân ái như Chúa, để con tha thứ cho anh chị em con mà không cần dè giữ”, Amen.
39.Tha thứ không biên giới--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”...
***
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không giới hạn. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn một mình cô sống sót.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông đó chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia đã giam giữ cô và gia đình cô. Bỗng chốc cô nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác, nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng khó vượt qua được những cảm xúc như cô Coritanbum. Nhưng nếu chúng ta không tha thứ thì chính chúng ta sẽ tự làm khổ chúng ta như văn hào Nga Leon Tolstoi kể câu chuyện như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục, ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiểu tụy đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.[1]
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người. Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Nhưng tha thứ lại là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng. Tha thứ là nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ con người càng nên giống Thiên Chúa. Amen.
--------------------
[1] Câu chuyện người ăn xin trích trong R.VERITAS, Lẽ Sống, trg.176-177
40.Lời dạy tha thứ cho nhau--Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Câu hỏi của Phêrô về việc thường xuyên tha thứ có phải là cảm hứng theo pháp luật không? Còn câu trả lời của Chúa Giêsu thì sao? Trong dụ ngôn, đâu là những chữ diễn tả lý do khiến ông chủ đã tha cho người tôi tớ mắc nợ lút đầu?
2. Con số 77 mà Chúa Giêsu dùng phát xuất từ đâu? Ngoài việc dùng con số 7 với ý nghĩa biểu trưng cổ điển là sự viên mãn, tròn đầy, phải chăng ở đây Chúa Giêsu còn ám chỉ đến một nhân vật Cựu ước nữa?
3. Trong đoạn văn này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc thường xuyên tha thứ, chứ không đến các điều kiện cụ thể để được thứ tha. Nhưng trong đoạn song song Lc 17, 3-4, Người lại bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải. Tại sao đòi buộc điều kiện cụ thể ấy?
4. Trong dụ ngôn, tất cả đều như có thật hay chỉ gồm những nét có tính cách tượng trưng?
5. Dụ ngôn nhấn mạnh đến số lần tha thứ hay đến đòi hỏi phải tha thứ để được thứ tha?
1. Cái liên kết đoạn này với đoạn trước là ý niệm tội lỗi. Nhưng ở đây nói rõ đó là tội trực tiếp can hệ đến người anh em, còn đoạn trên kia thì chẳng nhấn mạnh như thế. Người ta không xác định ở đây bản chất lẫn tính cách trầm trọng của lỗi phạm, nhưng hình như đề cập đến lãnh vực các thiếu sót đối với giới luật yêu thương, là giới luật căn bản “gồm tóm Lề luật và các ngôn sứ ”.
2. Câu hỏi của Phêrô biểu lộ khuynh hướng cố hữu muốn hiểu giáo huấn Chúa Giêsu theo một nghĩa duy luật. Tâm hồn con người là vậy, bao giờ cũng thiên về việc lập điều lệ cho ân sủng hoặc trái lại lợi dụng nó! Câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng, dụ ngôn kèm theo cũng sáng sủa: Ai đã được Thiên Chúa tha thứ thì phải thứ tha luôn luôn. Đoạn song song Lc 17, 3- 4, trong đó Chúa Giêsu bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải cho thấy việc thi thố lòng nhân lành không phải là lời khích lệ thói xấu, nhưng trái lại nhằm đỡ nâng người phạm tội đứng lên.
3. Dụ ngôn quy hướng về giáo huấn căn bản vừa nói và còn chất chứa nhiều giáo huấn khác nữa:
a. Nó tỏ cho thấy Thiên Chúa, trong con người của vị vua, dù có quyền trên tôi tớ mình, nhưng vì trắc ẩn, đã bằng lòng không sử dụng quyền ấy và chịu mọi mất mát thiệt thòi.
b. Đồng thời nó nhắc lại đâu là thân phận của con người trước mặt Thiên Chúa: Một con nợ không thể trả nổi. Dù kê khai mọi thứ quí nhất mình có, dù thu vén mọi của giá trị nơi bản thân và nơi vật sở hữu, người tôi tớ vẫn biết rõ y không thể nào thỏa mãn các yêu sách của chủ y, dù đã đoan hứa này nọ. Nhưng nhà vua đã quyết định tha cho y chỉ vì ông “chạnh lòng thương xót” Người tôi tớ nợ lút đầu chỉ được tự do nhờ một sắc lệnh ân xá hoàn toàn vậy: “ông thả y về và tha bổng cả món nợ “.
c. Sau cùng, dụ ngôn cho thấy đâu là chủ đích, ý nghĩa của việc Thiên Chúa thứ tha. Người tôi tớ đã để lộ sự bất xứng của mình khi, “đi ra, y gặp một người bạn đồng liêu mắc nợ y 100 đồng bạc” và y đã bóp cổ đòi nợ. Xa cách chủ y, y đã quên… hay đúng hơn đã không hiểu rằng việc y được tha nợ chẳng phải là một may mắn tình cờ, song là một ân huệ, và ân huệ không xứng đó đòi buộc ở y một bổn phận, trói buộc y trong cuộc sống cụ thể nhất của y và từ đây phải soi sáng cùng hướng dẫn thái độ y đối với các anh em mình.
Với một ngôn từ cụ thể, Chúa Giêsu đặt ra ở đây vấn đề lớn của luận lý Kitô giáo, mà sau này sẽ trở thành một trong các chủ đề chính yếu của lời rao giảng sứ đồ: “Anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng . .. ” (Pl 1, 27), “Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4, 24), “Hãy là những người noi gương Thiên Chúa… ” (Ep 5, 1). Thay vì noi gương chủ, người tôi tớ vô tâm đối xử với bạn mình không như chủ đã đối xử với y: “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi sao, như chính Ta đã thương xót ngươi?”. Ân sủng phát sinh một đời sống mới hoặc chẳng phải là ân sủng. Nó đánh đau khởi điểm chứ không phải sự tận cùng của các liên hệ giữa ta với Thiên Chúa.
4. Các “bầy tôi ” của vua trong Thánh kinh cũng như ở Đông phương chỉ các viên chức triều đình. Ở đây hai viên chức xem ra thuộc về hai cấp bậc khác nhau: người ta không vay nợ 10.000 nén vàng mà không ăn xài xa xỉ; đối lại người lúng túng khi phải trả 100 đồng bạc nợ (tức tương đương với 1/3 lợi tức hàng năm của một người làm công nhật) chỉ có thể là một viên chức hạng quèn. Nếu dựa trên các cách bình giá tiền tệ của flavius Jotsèphe, một người đương thời với Chúa Giêsu, thì một nén vàng hồi đó tương đương với 10.000 đồng bạc (Ant. 17, 323) có nghĩa là món nợ 10.000 nén vàng tương đương với 100 triệu đồng: thành thử tỷ lệ giữa hai khoản nợ là 1/1 .000.000. Số tiền này thật ra quá đáng và chẳng tương ứng với thực tế chút nào (vì ta biết tiền cống thuế của cả một tỉnh thuộc đế quốc Rôma thường chỉ vài trăm nén vàng chứ không hơn. Xem F.Josèphe, Ant 17, 11, 4): lý do duy nhất của con số khổng lồ ấy là “10.000 và “nén vàng” tượng trưng cho những gì quá sức vĩ đại (10.000 là con số cao nhất mà người ta dùng và nén vàng là kim bản vị lớn nhất được biết đến tại Cận đông thời đó). Với số tiền khổng lồ quá sức tưởng tượng như vậy, người ta chỉ muốn làm nổi bật sự đối nghịch với số bạc nhỏ bé 100 đồng. Thành thử dụ ngôn đã tiềm ẩn lời giải thích: đằng sau ông vua là Thiên Chúa, và đằng sau kẻ mắc nợ là con người với khả năng nghe sứ điệp thứ tha.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Đến bảy lần không?”. Học thuyết Do thái giáo của các giáo sĩ có đề cập đến việc anh em tha thứ cho nhau, nhưng trong một hệ thống duy luật; người ta tranh luận về số lần tha thứ, và con số 4 thường được coi là tối đa; khi hỏi phải chăng tha đến 7 lần, Phêrô nghĩ là “cấp tiến” lắm đối với Thầy của ông.
“Đến 77 lần” (Nguyễn Thế Thuấn: 70 lần 7): trong câu Người trả lời, Chúa Giêsu lấy lại bài ca báo thù của Lamek nơi St 4, 24: “ca in được báo thù gấp bảy, nhưng Lamek tới 77 lần”, song Người trở ngược lại trong nghĩa tha thứ. Con số đó muốn nói rằng việc báo thù hay việc tha thứ sẽ vô cùng vô tận.
“Vì vậy về Nước Trời thì cũng in như … “: Dụ ngôn này là của riêng một; nó diễn tả một cách cụ thể giáo thuyết của Huấn ca (28, 1- 7) mà Chúa Giêsu đã từng công bố (6, 14). Nhưng ở đây có đào sâu thêm về phương diện giáo thuyết. Huấn ca cho thấy sự chối từ tha thứ là một hành vi điên rồ từ phía người cần được tha thứ. Trong Tin Mừng, lòng nhân từ đã được chính nhà vua thi thố và lẽ ra phải nêu gương cho kẻ bầy tôi. Công thức nhập đề (dụ ngôn bất đầu với dữ cách: datit) không có ý nói Nước Trời giống như ông vua, như là bảo rằng trong Nước Trời do Chúa Ki-tô khai mạc, các sự việc sẽ xảy ra như dụ ngôn trình bày (ở đây bản dịch của BJ thật là tuyệt hảo).
Trong các trình thuật Thánh kinh, ông vua tượng trưng Thiên Chúa là ông vua phương Đông, có quyền tối thượng, quyền sinh sát trên mọi thần dân, vì làm vua là kiêm luôn chức vụ Thẩm phán tối cao. Động từ “tính sổ ” (sunairoin, cũng như trong 25,19) có ý chỉ đó là những việc tính sổ dứt khoát và trọn vẹn.
“Tôn chủ ra lệnh bán y và vợ con…”: Luật Do thái chỉ cho phép bán một người Israel trong trường hợp trộm cắp, khi tên trộm không thể hoàn trả đồ đã lấy (thế nhưng, ở đây chẳng nói người bầy tôi đã sống bất lương, mà chỉ bảo y không thể trả nợ nổi). Hơn nữa việc bán vợ là một việc bị cấm chỉ hoàn toàn. Thành thử câu chuyện giả thiết vua và bầy tôi đều là người ngoại giáo.
“Xin Ngài khoan hồng cho với…”: người bầy tôi không xin tha, vì y hứa một ngày kia sẽ trả đủ nợ, y chỉ xin khất lại một thời gian. Ta cũng nhận xét được như vậy về đứa con hoang đàng xin cha cho mình làm việc như một gia nhân trong Lc 15,19.
“Tôn chủ… tha bổng cả món nợ”: Nhà vua thi ân cho người tôi tớ gấp bội điều y xin: ông tha bổng cả món nợ. Thật là một hồng ân cao quí. Do đó người đầy tớ sẽ không lý nào mà sau đó lại tỏ ra tàn nhẫn; y chẳng mắc nợ gì nữa, mà còn giữ được gia sản mình, một gia sản chắc chắn không phải nhỏ. Động từ chỉ mối trắc ẩn của vua (chạnh lòng thương xót) thường thấy xuất hiện với nghĩa ấy trong Cựu ước và Tân ước (Mt 9, 36 ; 15, 32 ; 20, 34 v.v…)
“Xin khoan hồng cho tôi với… “: Những lời đây cũng giống những lời mà viên chức cao cấp đã thốt lên lúc nãy, nhưng không có chữ “hết”, vì lần này chẳng đáng giá bao nhiêu và con nợ có thể trả nổi mà không cần minh nhiên bảo đảm sẽ giao hoàn trọn vẹn. Qua hai lời van xin tuyệt đối giống nhau ấy, chắc chắn một muốn làm nổi bật sự song song giữa hai con nợ, và do đó làm nổi bật nét tương phản giữa thái độ nhà vua và thái độ viên chức cao cấp.
“Y lại đi bỏ tù”: Ngục tù xem ra không phải là phương thế tốt để con nợ có thể xoay sở mà trả hết bạc tiền. Nhưng người ta có thể bắt đương sự lao động, như người Rôma xưa vẫn làm; hoặc con nợ sẽ quyết định đem bán các của cải chìm để trả, hay bạn bè y sẽ thanh toán cho y.
“Cho lý hình”: ở Israel chẳng có việc tra tấn, nên đây còn là một bằng chứng cho thấy câu chuyện không xảy ra tại Palestine. Ở phương Đông có luật dùng biện pháp tra tấn đối với các quan lại bất trung hay chểnh mảng trong việc đóng thuế, để khám phá ra nơi họ chôn dấu tiền bạc, hoặc để làm áp lực với thân nhân, bằng hữu. Khi miêu tả các phương sách tài phán xa lạ với người Do thái và bị họ coi như là vô nhân đạo, Chúa Giêsu muốn cho thấy hình phạt thật ghê rợn đến độ nào.
“Cũng vậy Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi” : Ở đây cũng như nhiều nơi khác (6, 14-15 ; 7, 1-2 v.v…), Chúa Giêsu lấy lại học thuyết Do thái về hai “đấu”, nhưng Người biến đổi nó hoàn toàn (thật không phải là chuyện tình cờ nếu văn chương Do thái chẳng cống hiến một dụ ngôn nào song song với dụ ngôn chúng ta). Do thái giáo dạy rằng Thiên Chúa dùng hai “đấu” để cai trị thế giới: lòng nhân ái và sự công bằng. Tuy nhiên trong ngày phán xét cuối cùng, công bằng là đấu duy nhất còn lại: “Đấng Tối cao sẽ xuất hiện trên ngai trong tư thế vị thẩm phán. Bấy giờ sẽ là cùng tận, lòng nhân ái sẽ biến mất, niềm trắc ẩn sẽ xa đi và đức nhẫn nại sẽ tiêu tan…” (4Edr 7, 33). Trái lại Chúa Giêsu dạy rằng vẫn còn lòng nhân ái trong ngày Chung thẩm; nhưng vậy thì lúc nào Thiên Chúa sẽ sử dụng đấu nhân ái và lúc nào sử dụng đấu công bằng? Chúa Giêsu trả lời: ở đâu mà sự tha thứ của Thiên Chúa thúc đẩy đến thái độ sẵn sàng thứ tha, ở đó lòng nhân ái của Ngài sẽ tuyên bố tha bổng; còn kẻ nào chẳng biết sử dụng hồng ân thứ tha của Thiên Chúa, thì sẽ bị sự công bằng của Ngài luận xử cách nghiêm khắc, như thể y chưa bao giờ được tha thứ vậy.
KẾT LUẬN
Kết luận của câu 35, lấy lại các đoạn trong Diễn từ trên núi (6, 14- 15 ; 7, 1 -2) về việc tha thứ và xét xử nhau, cho thấy rằng cuối cùng tất cả đều sống đời sống của kẻ được tha thứ đều tùy thuộc vào cuộc phán xét dứt khoát thời cánh chung, khi Thiên Chúa sẽ trả cho mỗi người theo công việc họ đã làm. Do đấy ngay từ bây giờ, ai nấy đều bị xét xử theo cách họ tiếp đón và san sẻ cho anh em ơn tha thứ đã nhận được từ Chúa Cha. Mỗi người càng “thật tâm ” tha thứ cho anh em mình bao nhiêu, như Thiên Chúa thứ tha họ, thì ơn tha thứ luôn luôn đi đầu của Chúa Cha sẽ được thể hiện bấy nhiêu trong cộng đoàn và trong mỗi kẻ đã biết san sẻ nó cho anh em Như vậy ta thấy rõ ràng lời cầu xin của Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6, 12) thật là sâu xa và mối chân phúc thứ năm: “Phúc cho những kẻ biết xót thương vì họ sẽ được thương xót” (5,7) thật là đúng vậy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Vị vua tha bổng một số nợ kếch xù, chỉ vì người ta cầu xin như thế, chính là Thiên Chúa. Lòng nhân lành của Ngài thật vô biên, và thực thể số nợ lại vượt quá sức loài người. Trong dụ ngôn hôm nay, Ngài mặc khải cho ta thấy vẻ uy nghi, sự cao cả và lòng thương xót bao la của Ngài. Nhưng không chỉ có vậy mỗi người chúng ta đều biết rằng mình cần lòng nhân ái vô biên đó để có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa vì chúng ta cứ chồng chất thêm nợ nần mãi như người bầy tôi thứ nhất của dụ ngôn. Nếu Thiên Chúa tha nợ cho thì trước mặt Ngài, ta vẫn còn như người bầy tôi chỉ sống nhờ lòng hào hiệp và nhân ái của chủ.
2. Chính vì thế mà ta hiểu rằng bổn phận tha thứ cho anh em cũng chẳng có giới hạn. Kẻ được hưởng một lòng thương xót vô biên, không được khép kín mình lại và để con tim ra chai đá. Kẻ đang nợ nần vô số chớ nên coi một ai khác như có mắc nợ với chính mình. Vì Thiên Chúa lấy đấu nào mà đong cho ta, ta cũng phải lấy đấu đó đong lại cho anh em. Mối tương quan của ta đối với anh em phải được qui định bởi mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài yêu cầu ta hãy sẵn sàng hòa giải với nhau, đừng hạn chế chút nào. Chỉ với cách đó mà ta mới có thể hy vọng được cứu rỗi trong ngày phán xét sau hết.
3. Mối liên hệ giữa anh em nhờ đấy được nâng lên một bình diện khác hoàn toàn. Tất cả chúng ta đối với nhau đều như những người sống nhờ lòng nhân ái của cùng một Thiên Chúa. Sứ mệnh của ta là san sẻ cho nhau và gieo rắc ngần nào có thể lòng nhân ái đã được thi thố cho ta như thế.
41.Tha thứ mà không cần so đo tính toán--Lm. Phêrô Trần Minh Đức
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm nhưng cho đến nay thành phần lãnh đạo và giới trí thức của hai quốc gia nói chung rất dè dặt trong mối quan hệ ngoại giao, rất nhạy cảm mỗi khi đề cập, đá động đến chuyện xưa. Người Do thái thường nói: Chúng tôi có thể tha thứ, nhưng chúng tôi không thể nào quên tội ác của dân tộc Đức trong quá khứ!
Chúng ta phải tha thứ cho kẻ khác bao nhiêu lần? Tất cả đều có giới hạn của nó. Một lần là đủ rồi. Nếu không thì chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ bị kẻ khác lợi dụng từng bước. Chúng ta nghĩ như thế, những người chung quanh cũng vậy. Thánh Phêrô cũng đã nghĩ như thế, và bởi vì nghĩ như thế cho nên ông cảm thấy mình khoan dung độ lượng, rất tự hào đến hỏi Đức Giêsu: "Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết: làm việc thiện thì tốt hơn làm điều xấu. Để nhận biết sự khác biệt giữa nhân đạo và vô nhân đạo con người chưa cần nại đến đức tin hay tôn giáo. Tha thứ, làm hoà: đó là kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã từng trải. Nhưng chắc chắn ai cũng phải nhìn nhận rằng, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu như có ai lần đầu tiên vô tình hay hữu ý xúc phạm đến chúng ta, chúng ta có thể nhường nhịn, xí xoá bỏ qua. Thôi thì "chín bỏ làm mười", hãy cho kẻ ấy một cơ hội. Nhưng được một lần thì lại có lần thứ hai, thứ ba! Khi chó bị dồn vào chân tường thì sẽ cắn quái! Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nổi giận và nói: Hắn đã xúc phạm đến tôi, tôi không thể nào dung thứ cho hắn. Tất cả đã quá trớn!
Đúng như thế, nếu nhìn sự việc theo những khía cạnh thuần tuý con người thì tất cả có lẽ đã quá trớn, nhưng cãi cọ xung khắc là lẽ thường tình của đời sống con người. Mỗi một mối quan hệ là một cuộc phiêu lưu. Ai muốn kết giao với kẻ khác đều phải chấp nhận mạo hiểm. Buổi ban đầu tất cả đều đẹp đẽ, đầy hứa hẹn. Nhưng nếu không biết trân trọng giữ gìn thì một ngày nào đó những vui thú hứng khởi lúc đầu thành tẻ nhạt, xung khắc bất đồng nảy sinh. "Không ưa thì dưa có giòi!" Chúng ta trở thành ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ rút lui vào vỏ ốc của mình, rào giậu, xây tường lũy chung quanh, bởi vì nỗi phập phồng lo sợ đã đi vào tận xương tủy. Nhưng "tức nước vỡ bờ", những đè nén trong lòng sẽ nổ tung, khi chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa tứ bề. Chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ chính mình bằng mọi giá, nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tranh tụng bùng nổ trong gia đình cũng như trong Giáo hội. Ly dị ngày càng nhiều! Chúng ta đã tìm đủ cách để làm thay đổi môi trường sống cũng như quan hệ của chúng ta. Nhưng dựa vào sức lực tự nhiên chúng ta không đủ khả năng để tha thứ cho kẻ khác mãi mãi, cho nên chúng ta đặt tiêu chuẩn, giới hạn. Chúng ta cần sự trợ giúp. Chúng ta cần một người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có khả năng tha thứ. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm sáng tỏ một điều: Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta ơn tha thứ. Câu chuyện mà Ngài kể giống như một tấm gương. Nếu như chúng ta có can đảm nhìn vào thì chúng ta sẽ khám phá hình ảnh của chính mình trong đó. Không phải chúng ta mà là chính Thiên Chúa đã thực hiện bước đầu tiên. Thiên Chúa đã tự giao hoà chúng ta với Người qua Đức Giêsu và đã sai phái chúng ta đi làm hoà với người khác. Dù chúng ta đã phạm tội gì đi nữa, dù chúng ta có phạm bao nhiêu lần đi nữa, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Như Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thứ cho nhau.
42.Nên tha hay không?--Phillip Bình Khả
Aba Gayles kể lại một khúc quanh của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là con gái yếu dấu của bà bị kẻ sát nhân, ông Mickey, đâm tới chết, bà đã bàng hoàng và cảm thấy đau đớn tột cùng. Trong những ngày tháng sống trong đau buồn vì mất người con gái yêu dấu và giận ghét đối với kẻ giết con mình, bà rất muốn trả thù cho con gái bà, bà muốn kẻ sát nhân phải chết. Chính vì sống trong tâm trạng đó, bà Aba Gayles đã sống xa cách mọi người, bà mất đi cuộc sống vui tươi. Nhưng rồi qua học hỏi lời Chúa và cầu nguyện, bà đã tìm lại được cuộc sống thật của bà và cuối cùng bà đã tha thứ cho kẻ đã giết con gái của bà. Hơn thế nữa, bà còn thường xuyên đi thăm viếng người hãm hại con gái bà đang ở trong tù để nâng đở tinh thần ông ta. Đây là sự tha thứ mà chúng ta không dễ tìm thấy, nhưng đó là điều mà Lời Chúa trong hai bài đọc hôm nay mong muốn nơi mỗi người.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm ngày hôm nay cùng khuyên chúng ta trong việc tha thứ cho người khác. Lời Chúa đến với chúng ta trong bài đọc thứ nhất khuyên rằng đừng giận ghét kẻ khác; hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ. Trong bài Phúc Âm, ông Phêrô cũng nhận thức được sự cần thiết của sự tha thứ, chỉ có điều là ông thắc mắc đến việc tha bao nhiêu mới đủ. Đối với ông việc tha cho kẻ xúc phạm đến ông đến bảy lần là quảng đại lắm vì các thầy Do Thái dạy rằng tha cho người xúc phạm đến ta ba lần là quá lắm rồi. Nhưng Chúa Giêsu dạy rằng không phải là tha đến bao nhiêu lần mà là phải luôn sống trong sự tha thứ. Đây là điều mà chúng ta cảm thấy rất khó thực hiện, phải không các bạn. Tuy nhiên, đây là việc mà chúng ta nên và phải làm. Vì sao?
Xét về khía cạnh tâm lý tự nhiên thì việc thứ tha là một cách giải thoát đi nỗi đau đớn, lòng hận thù trong chính con người mình khi người khác xúc phạm đến ta. Việc chúng ta giận ghét người khác không làm cho người khác đau khổ nhưng ngược lại chính chúng ta là người phải chịu sự dằn vặt tâm hồn, mất bình an, ngủ không yên và nhiều xáo trộn khác. Chính chúng ta hại bản thân. Bà Aba Gayles trong câu chuyện ở trên mất đi cuộc sống vui tươi khi bà còn giữ hận thù trong lòng. Nhưng khi bà biết tha thứ thì cuộc sống của bà trở nên có ý nghĩa. Mỗi người đều có cảm nghiệm này. Như vậy việc chúng ta tha thứ làm ích không cho người nào khác hơn là cho chính chúng ta trước nhất. Nó mang lại sự bình an tâm hồn, cuộc sống tươi vui.
Hơn nữa, xét theo mối tương quan giữa ta với Thiên Chúa và với tha nhân, chúng ta cũng cần sự tha thứ của người khác thì tha thứ là việc phải làm. Dụ ngôn người đầy tớ bất lương trong bài Phúc âm hôm nay nói rất rõ. Chúng ta cứ tính toán torng việc tha thứ cho người khác, trong khi chính Thiên Chúa hằng tha cho chúng ta bao nhiêu tội lỗi. Bài đọc thứ nhất khuyên: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ." Chúng ta qua kinh Lạy Cha cũng thường xin Chúa "tha nợ chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con." Chúng ta chỉ mong muốn Thiên Chúa hay người khác quên đi lầm lỗi của chúng ta hoặc tha cho chúng ta trong khi đó chúng ta lại quên đi việc chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay đang thách đố mỗi người hãy luôn sống trong sự tha thứ. Đây cũng là điều mà Chúa Kitô đã cầu nguyện khi bị đóng đinh trên cây thập tự: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." Bà Aba Gayles cũng đã thực hiện đúng tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu đối với kẻ giết con gái yêu dấu của bà la dứt khoát tha và tha hết; hơn nữa bà nâng đỡ tinh thần ông trong khi đang ở trong tù và mong muốn cho ông sống tốt hơn.
Mỗi người cũng nên tự hỏi nơi chính mình rằng còn người nào đó mà chúng ta cần tha thứ không? Cha mẹ? Vợ chồng? Con cái? Họ hàng? Hàng xóm? Những người làm cùng hãng? Và chính bản thân chúng ta?
43.Tha thứ--Lm. Bùi Quang Tuấn
Quá tam ba bận. Có tha chỉ tha ba lần mà thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của người Do thái. Sách Tiên tri Amos có ghi một loạt các lời phán quyết: “Vì ba tội ác của (Đama, Gaza, Tyrô, Edom...) và vì bốn tội...Ta sẽ không hối lại... Ta sẽ phóng hoả tường thành” (Am 1). Từ đó người ta suy luận: Thiên Chúa sẽ trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm đến lần thứ tư, và người phàm thì không thể nhân lành hơn Thiên Chúa, thế nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần.
Trước lối suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Đức Giêsu khen ngợi khi đề nghị tha đến bảy lần. Bởi vì tha như thế là đã gấp đôi truyền thống Do thái, và còn cộng thêm một lần. Đây quả là lời đề nghị quảng đại, đầy tính cách mạng.Thế nhưng, câu trả lời của Đức Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: "Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7." Như vậy, vị chi là 490 lần. Thế thì có khác nào bảo người ta tha thứ không ngừng. Mà tha kiểu đó thì có khác gì tạo cớ vấp phạm: được đàng chân, họ lân đàng đầu thì sao?
Lắm khi tôi cũng tính toán như thế. Và không ít lần tôi chẳng muốn thứ tha người khác. Tôi tìm cách báo thù cho thoả lòng tự ái. Tôi tìm cách lật tẩy lỗi lầm tha nhân để nó đừng tái phạm. Tôi cố gắng thi hành chính sách "mắt đền mắt, răng đền răng" cho hợp lẽ công bằng. Tôi đưa ra nhiều lý do rất "kêu" để biện minh cho hành vi của mình. Nhưng thử hỏi có lý do nào phát xuất từ tình mến thương chăng?
Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn đáng cho tôi suy nghĩ: Có vị vua kia muốn tính toán sổ sách với các con nợ. Một kẻ thiếu ngài 10 ngàn nén vàng. Đổi ra cũng được 100 triệu đồng, tương đương với 60 triệu ngày làm công. Sử gia Flavius Gioseph cho biết: vào năm thứ tư trước công nguyên, số tiển thuế hai tỉnh Galilê và Pêrê nộp cho Rôma là 2 trăm nén vàng. Như thế 10 ngàn nén vàng là một món nợ vô cùng lớn.
Kẻ mắc nợ bị điệu đến trước mặt vua. Nhưng vì y không có gì trả nên vua ra lệnh bán y củng vợ con để bù vào. Chắc chắn số tiền đó chẳng đáng là bao. Nhưng đâu còn biệp pháp nào khá hơn.
Trước viễn cảnh gia đình tan nát, thân xác sẽ mang kiếp nô lệ ngựa trâu, tên mắc nợ sấp mình nài van đức vua cho thêm thời gian xoay sở. Thấy con nợ than khóc khẩn cầu, vua chạnh lòng thương. Tình thương ấy dâng cao đến nỗi vua cho y về, thậm chí còn tha luôn nợ.
Không phải xa vợ con, không bị đoạ đày khổ sai, lại còn được xoá đi món nợ khổng lồ. Ôi, có niềm hạnh phúc nào to lớn hơn!
Anh hân hoan nhịp tung chân bước. Lòng phơi phới, miệng hát ca. Từ nay sẽ không còn bồn chồn lắng lo. Khung trời tự do như rộng thêm dưới từng nhịp bước. Nhưng chân anh bỗng khựng lại vì chợt thấy bóng người hàng xóm. Tên này đang thiếu nợ anh. "Hắn mượn mình 100 đồng từ lâu mà chưa chịu trả," anh nghĩ bụng, "ta phải cho nó biết tay." Thế rồi, anh tóm lấy, bóp cổ, đòi nợ, và tống giam kẻ ấy sau khi hắn van xin anh cho thêm chút thời gian xoay sở mà không được.
Vụ việc đến tai vua. Nhà vua đã trừng trị hắn đích đáng.
Tôi tự hỏi: tại sao anh kia lại đối xử với tha nhân thiếu tình người như thế. Hà cớ gì anh lại ra tay vũ bạo với con nợ bé tí thế kia?
Câu trả lời sẽ là vì anh ta mau vô ơn. Tham chút lợi nhỏ trước mắt mà quên mất hồng phúc lớn lao trong đời. Mau vô ơn, cũng mau vô tình vô tâm. Thế nên để sống có tâm, có tình, con người cần phải nhìn lại chính mình luôn luôn. Nhìn lại để thấy tình Chúa chứa chan. Nhìn lại để biết chia ban ân phúc cho người.
Thiên Chúa luôn quảng đại thứ tha. Ngài không thích trừng phạt ai. Thế nhưng con người sẽ tự trừng phạt chính mình khi đóng cửa lòng với người khác. Mở ra là điều kiện tất yếu để đón nhận. Càng biết tha thức càng được Thiên Chúa thứ tha. Tha nhân nợ tôi, dù có nặng nề mấy, cũng chẳng đáng là gì khi so với việc tôi nợ Chúa. Thế thì dại chi khi không bỏ một vốn để được bốn vạn lần lời.
"Hãy cho đi để được cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã lắc, đầy tràn toé ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các nguơi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.' (Lc 6,38).
Người ta kể: trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha trong những năm 1930, các phiến quân triệt hạ giáo xứ, đốt phá nhà thờ, và giết hại nhiều linh mục, giáo dân.
Một ngày nọ, bọn phiến loạn trói giật cánh khuỷu một linh mục già và đem ra pháp trường xử bắn. Trước khi bị hành hình, vị linh mục thều thào với viên chỉ huy:
- "Xin anh cởi trói cho tôi".
- "Chết đến nơi rồi thì cần gì cởi trói", viên chỉ hay quát lại.
- "Tôi muốn ban phép lành lần sau cùng cho các anh".
Nghe thế viên chỉ huy vô thần tức giận vung chiếc rìu lên, chém đứt không chỉ sợi dây trói, nhưng còn luôn cả đôi bàn tay linh mục.
Mặc dù đau đớn cùng cực, vị linh mục vẫn giơ cổ tay đầy máu lên cao, vẽ thành hình Thánh Giá như dấu hiệu ban phép lành. Ngài nói trong hơi thở đứt đoạn: "Tôi tha thứ cho các anh. Tôi xin Chúa tha thứ và chúc lành cho các anh."
Một loại đạn vang lên, xác vị cha già đổ xuống. Đầy máu.
"Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ... Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống. Làm thế ngươi sẽ chất than hồng trên đầu nó. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12,14,20-21)
Biết cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình - đó có thể là vợ tôi, chồng tôi, con chiên tôi, các đồng nghiệp của tôi... - là biết sống tinh thần bác ái Kitô Giáo. Và như thế, tôi đang giúp họ cũng như chính mình tiến đến đỉnh cao kiện toàn.
Một nhà tư tưởng đã viết: "Nắm bắt chân lý để rao giảng về nó là một cuộc chiến khó khăn; sống theo chân lý lại là một cuộc chiến gay go gấp bội; nhưng chỉ những ai chú tâm cầu nguyện mới mong nắm được phần thắng" (Jack McArdle).
Liệu tôi đã biết cầu xin để có thể tha thứ cho nhau hay chưa?
44.Giêsu: Đấng đầy lòng xót thương và hay tha thứ--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Mang thân phận yếu đuối, lại bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ, con người thường xuyên phạm tội. Tội do cố ý, tội do vô tình đã cắt đứt mối tương quan vốn tốt đẹp với Chúa và tha nhân, gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không được tha thứ, bỏ qua kịp thời.
Vì sự bình yên, hạnh phúc của mọi người, các tiền nhân giáo dục con cháu sống yêu thương, nhường nhịn, tha thứ, tạo nên nét đẹp nhân văn trong văn hóa ứng xử.
Tuy nhiên, yêu thương và tha thứ thật lòng không hoàn toàn đặt trên phạm trù nhân bản, nó còn được bổ trợ bằng đức tin, nghĩa là: Lời Chúa giáo dục con người vượt lên trên mọi điều kiện đặt ra như một giới hạn, để đạt tới tầm mức yêu như Chúa yêu và tha thứ như Ngài: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Vậy gương yêu thương và tha thứ của Chúa là gì? Đó là, Chúa quên và quên tất cả. Dầu tội lỗi các ngươi có đỏ như vải điều, Ta cũng sẽ giặt nó trắng tinh như tuyết, có nặng như chì, Ta cũng biến nó nên nhẹ như cánh hồng (cf. Is 1, 18).
Chuyện kể:
Đức Hồng Y Jaime Sin, nguyên tổng giám mục Manila, Philippine kể: vào một buổi chiều, một phụ nữ tới gặp ngài và quả quyết Chúa Giê-su đã hiện ra với chị. Để trắc nghiệm, ngài đề nghị: “lần tới gặp Chúa, con hỏi Chúa các tội cha đã phạm”. Sau một thời gian, chị gặp lại ngài và như lần trước chị cũng nói đã gặp Chúa. Chị cũng hỏi Chúa về các tội cha đã phạm, nhưng Chúa bảo: “Ta quên hết rồi !”. Câu chuyện là thế. Chúng ta không bận tâm về tính xác thực, nhưng ghi nhận chân lý: Tình yêu và tha thứ thật lòng là phải quên tất cả lỗi phạm người khác gây cho mình. Chỉ mình Chúa Giê-su là nguyên nhân mô phạm cho chúng ta về lòng xót thương và hay tha thứ.
Bài đọc I, trích sách Đức Huấn Ca, đúc kết lời dạy của các hiền nhân Israel về vấn đề tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình. Khi nghĩ đến việc báo oán, trước tiên phải đặt mình trong mối tương quan với Chúa. Vấn đề báo oán không chỉ đơn thuần thuộc phạm vi con người với nhau, mà có đụng chạm tới cả Thiên Chúa nữa: “Kẻ muốn báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Chúa” (Hc 27, 1).
Tác giả sách thánh còn chỉ ra tình trạng chung: mọi người đều có tội, đều phạm lỗi. Nếu muốn thong dong họ phải cầu xin Chúa thương xót và tha thứ. Chúa đặt ra điều kiện cụ thể: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi cầu khẩn, tội lỗi con sẽ được tha” (Hc 27, 2).
Nguyên tắc này được hoàn hảo trong lời dạy của Chúa Giê-su, Đấng giầu lòng xót thương và hay tha thứ.
Trong bài Tin Mừng, Giê-su thiết lập luật yêu thương và tha thứ khi trả lời câu hỏi của thánh Phê-rô: “Khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” (Mt 18, 21). Chúa bảo ông: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Câu hỏi của Phê-rô đại diện cho con người tự nhiên, cho lề luật, nghĩa là đặt một giới hạn như một thứ thông điệp gởi tới cho người phạm lỗi: đừng đi quá sức chịu đựng của tôi. Tôi chỉ có thể chịu đựng bạn tới mức đó.
Giả thiết đặt ra, nếu người kia lại xúc phạm đến tôi quá bảy lần thì sao? Tôi có đủ kiên nhẫn để tha cho họ lần nữa không? Nếu tôi không tha, thì bảy lần tha kia có ý nghĩa gì !
Tựu trung, tha thứ có điều kiện là hành động nửa vời, còn dành khoảng trống cho ích kỷ, tự ái mọc lên và dần lấn át những khoảng trống khác thống trị tâm hồn. Cuối cùng chỉ còn là ghen ghét, oán hờn, thù hận.
Câu trả lời của Chúa Giê-su thể hiện đặc tính của con người siêu nhiên, của ân sủng, luôn trổi vượt con người tự nhiên về mọi phương diện.
Giê-su, Đấng thần thiêng, đến từ trời, là dung mạo lòng thương xót Chúa Cha.
Cuộc nhập thể biểu lộ tình yêu tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Trong Ngôi Lời, trên thập giá và trong sự phục sinh vinh hiển, Người đã tháp nhập nhân loại vào thân mình mầu nhiệm của Người, để từ đây diễn ra sự trao đổi kỳ diệu, khiến loài phải chết mặc lấy sự trường sinh bất tử, được sống muôn đời.
Mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giê-su là bản tóm tình yêu và sự sống Thiên Chúa thực hiện vì yêu thương chúng ta. Và khi dạy tha thứ đến bảy mươi lần bảy, Giê-su đã làm gương trước, để chúng ta cũng làm như vậy.
Luật yêu thương và tha thứ của Tin Mừng mang tính bắt buộc. Nó là điều kiện để được thứ tha và được phần phúc Nước Trời: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rom 13, 10) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 36).
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, diễn tả sự gắn bó hoàn hảo với Chúa Giê-su, đó là phải nên đồng hình, đồng dạng, nên giống Người trong mọi sự.
Dấu chỉ đảm bảo nên giống Chúa là sự vâng lời. Giê-su vâng lời, tự hủy đến cùng kiệt sống kiếp phàm nhân, cho đến chết trên thập giá. Ngài không sống cho riêng mình, nhưng sống cho Cha và cho nhân loại được ơn cứu độ.
Người môn đệ chân chính cũng phải theo sát dấu chân Giê-su mới góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh Phao-lô diễn tả bằng những ngôn từ thần bí, nhưng rất sống động: “Không ai sống cho riêng mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa và chết cũng là cũng là chết cho Chúa” (Rom 14, 7 – 8). Sống và chết cho Chúa luôn đồng hóa với lòng xót thương và tha thứ như Giê-su.
Phao-lô không trình bày một lý thuyết về tình yêu và tha thứ, trên tất cả ngài đã sống hoàn hảo điều loan báo: “Tôi luôn mang trong mình sự thương khó của Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống lòng thương xót và tha thứ, bắt đầu từ trong chính gia đình chúng ta. Sở dĩ có cãi vã, bạo hành trong gia đình là vì chúng ta còn sống ích kỷ, vô cảm, thiếu sự cảm thông, khích lệ và cộng tác. Xin Chúa dạy chúng ta biết sống yêu thương và tha thứ thật lòng.
Mỗi người hãy tự hứa với lòng mình và với Chúa, từ bây giờ, tôi quyết hoán cải và canh tân. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé đơn giản, rồi dần tới những việc lớn lao hơn. Từng bước sống lời Chúa để gia đình trở thành tổ ấm biết yêu thương và tha thứ. Đó là cách làm dậy men Tin Mừng, góp phần tích cực Phúc Âm hóa gia đình và môi trường xung quanh, xứng đáng là môn đệ Giê-su, luôn biết chạnh thương và tha thứ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
45.Anh em tha thứ cho nhau--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn chợt nhận ra mình cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn muốn kết án họ không?
2. Bạn có dễ dàng tha thứ lần nữa cho người mà bạn đã từng tha cho một món nợ lớn, nhưng chính người ấy lại không chịu tha cho con cái bạn một món nợ rất nhỏ không?
3. Khi bạn mang trong mình một nỗi hờn giận, tâm hồn bạn có bình an không? Cách tốt nhất và khôn ngoan nhất để giải quyết nỗi hờn giận ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Sống trên đời, ai cũng lầm lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giêsu đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi, lại vừa phải tha thứ.
“Nhân vô thập toàn”, trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
2. Ta luôn thấy lầm lỗi của ta đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bị ai trách cứ, hầu như lần nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế, để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở dĩ kết án ta là vì họ không hiểu được thế kẹt của ta, nên họ không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại. Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là người tốt, người đúng. Ông đã chứng minh điều ấy bằng những sự kiện cụ thể mà ông thu thập được trong đời sống của ông. Theo ông, ngay cả những tên cướp giết người không gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho những hành động gớm ghiếc của chúng, mà chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với những người tôi muốn kết án.
3. Đức Giêsu khuyên ta luôn tha thứ, và tha thứ vô điều kiện
Đức Giêsu là một con người y như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được sự yếu đuối của con người y như chúng ta, chính Ngài cũng bị cám dỗ phạm tội như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm thấy mọi tội lỗi của con người đều đáng được tha thứ. Lý do mà Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi tầy trời của ta được? Mà nhất là người ấy lại là hiện thân của chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người ấy lại không chịu tha nợ cho con của ta, cứ nằng nặc đòi nợ với đủ mọi đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một số tiền nhỏ. Trường hợp đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta cũng làm một hành động phi lý và vô ơn tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác, chính là một hành động vô ơn đối với Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở bên ta, tức những người sống chung quanh ta.
4. Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung độ lượng. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, mà trái lại thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và sau đó, của người khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án người khác thế nào được? Nếu mình cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”, “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Họ không dám ném đá kẻ ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội, như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy, kết án người khác, không tha thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối, rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ. Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế, liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình đã suy nghĩ chín chắn được như người ấy không? Nếu mình chỉ được học hành hay được giáo dục như họ thôi, mình có hành động khá hơn họ không? Nếu mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ được như họ, liệu mình có hành động khác hơn không? v.v…
5. Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm, thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó, chẳng hạn chửi bới người ấy, nói một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm một điều gì khiến người ấy phải đau khổ… Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng: có hành động theo sự thúc đẩy của xung lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận bằng những hành động ấy, tôi chỉ được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải đối phó với sự trả thù của người kia. Vì khi người kia bị tôi hạ nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát sinh một xung lực y như tôi trước đó, và họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì: “Lấy oán trả oán, oán chập chùng” (Đức Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào địa vị người ấy, tôi sẽ dễ dàng thông cảm và hiểu được những lý do thúc đẩy họ hành động như vậy, nhờ đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi vừa quyết định tha thứ, lập tức tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến mất. Tích cực hơn nữa, nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, thay vì trả oán, tôi quyết định làm một điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa). Từ đó tình cảm giữa hai người thắm thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: “Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít” (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương “lấy đức trả oán, oán tiêu tan” của Đức Phật.
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Nếu con tha thứ cho mọi người vô điều kiện, dù họ lỗi nặng đến đâu, thì làm sao Cha có thể kết án con được? Chẳng lẽ lòng bao dung của Cha lại thua con sao? Vả lại con vẫn thường xin Cha: "Xin tha nợ cho con giống như con tha nợ cho người khác". Con tha nợ cho người khác vô điều kiện, Cha cũng phải "như con" mà tha cho con vô điều kiện, dù con lỗi nặng đến đâu. Ai cầu xin như con mà không chịu tha thứ là tự họ bắt Cha kết án họ, vì họ xin Cha làm "như họ"“.
46.Chính Ta đã xót thương ngươi--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Khi nói đến “người anh em lỗi phạm” đến mình (cc. 15-17), Matthêô đã trình bày cách đi sửa lỗi họ, và có hai khả năng: hoặc là người ấy nghe lời mà sửa đổi, hoặc là không nghe. Và đứng trước người từ chối nghe lời của cá nhân cũng như cộng đoàn, Matthêô đã kết luận là xem họ như “người ngoại, người thu thuế (c. 17). Trong đoạn 18,21-35 nầy, Matthêô đặt lại vấn đề “người anh em lỗi phạm” đến mình, nhưng đưa ra một cách giải quyết mới. Đó là tha thứ. Chủ đề nầy được Matthêô trình bày dưới hai hình thức: giáo huấn về sự tha thứ (cc. 21-22) và dụ ngôn về cách Thiên Chúa đối xử với người không tha thứ (23-35). Từ aphiēmi, “tha thứ” và adelphos, “anh em” đóng khung đoạn nầy (cc. 21 và 35).
Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ (cc. 21-22)
Câu hỏi của Phêrô ngỏ với Chúa Giêsu mở ra chủ đề tha thứ. Với “anh em lỗi phạm đến tôi”, Matthêô muốn nhắc lại vấn đề ở trên (c. 15) và đưa ra một cách giải quyết hoàn toàn khác. Đây không còn là xem người anh em “từ chối nghe lời” ấy như là “người ngoại, người thu thuế” (c. 17), mà tha thứ cho người ấy; tuy nhiên thánh sử không nói gì đến sự hoán cải của người anh em như trong Lc 17,4.
Phêrô đặt câu hỏi với Chúa Giêsu là phải tha thứ bao nhiêu lần, nhưng đồng thời ông cũng đề nghị trước con số bảy lần (c. 21). Trong cựu ước con số bảy gắn liền với tội lỗi và sự tha thứ, như rảy máu bò tơ bảy lần trong ngày Xá Tội (Lv 4,6.14,16); phạt bảy lần vì tội đã phạm (Lv 26,18.24). Như thế, bảy lần là con số tối đa. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu tha thứ là phải không giới hạn. Con số Chúa Giêsu đề nghị, hebbdomēkontakishepta, có thể đọc hai cách: hoặc là 490 hoặc là 77 lần (x. Stk 4,24). Thật ra điều Chúa Giêsu muốn dạy ở đây là sự tha thứ vô giới hạn, vượt qua cái giới hạn đã thực hành theo truyền thống. Vì thế cách đọc có khác nhau, nhưng đều diễn tả một điều mà thôi.
Vậy khi đặt vấn đề tha thứ, Phêrô đếm bao nhiêu lần, còn Chúa Giêsu nói đến sự tha thứ không tính toán. Sự tha thứ không tính bằng số lượng, mà bằng lòng quãng đại vô hạn. Chính vì điều nầy mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn tiếp theo đây.
Dụ ngôn về cách đối xử của Thiên Chúa với người không biết tha thứ (cc. 23-35)
Sau khi giáo huấn về sự tha thứ cho Phêrô, Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn nầy để minh họa sự tha thứ của Thiên Chúa, như là mẫu gương về sự tha thứ vô biên. Dụ ngôn về Nước Trời nầy gồm dẫn nhập (c. 23a), ba màn: vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27), người nợ nầy với người đồng liêu mắc nợ (cc. 28-30), vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 31-34); và kết luận (c. 35).
Matthêô hay dùng dia touto, “Về điều nầy”, để chuyển sang một đoạn mới, và điều sắp nói có liên quan đoạn trước (6,25; 12,31; 18,23; 23,34). Matthêô đã đưa ra giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ. Với dụ ngôn nầy, thánh sử không chỉ muốn minh hoạ điều ấy, mà còn ghi nhận thêm nhiều điều khác liên quan đến việc tha thứ. Dụ ngôn nầy được gọi là dụ ngôn về Nước Trời, nghĩa là liên quan đến Thiên Chúa. Câu kết áp dụng dụ ngôn nầy cho Thiên Chúa (c. 35). Hơn nữa, cách dùng “một vị vua” tuy không xác định, rất giống với dụ ngôn tiệc cưới (22,2), chính là Thiên Chúa.
a/ Vị vua với người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27)
Ở mỗi màn có kết cấu tương tự nhau: tình huống (cc. 23b-25), lời (c. 26), hành động (c. 27). Màn thứ nhất mở đầu với tình cảnh thật khó giải quyết: Vua muốn tính sổ với người đầy tớ (c. 23b), số tiền quá lớn “một vạn nén bạc” (c.24), phải bán cả vợ con và lấy tất cả những gì đang có để trả nợ (c. 25). Số tiền “một vạn nén bạc” có thể ít nhất là 240 tấn bạc, tương đương với 60 triệu đồng bạc, dēnarion; đối lại là chỉ có 100 đồng bạc mà người đồng bạn đã nợ người nầy (x. Marvin A. Powell, The Anchor Yale Bible Dictionary, ed. D. N. Freedman, New York – 1996, VI, 907). Món nợ khổng lồ xem ra không thể trả được.
Người nầy đã cầu xin với vua “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 26). Động từ makrothymeō, là hapax trong Matthêô, có nghĩa là “chậm nổi giận”, “chậm trừng phạt” (Cn 19,11). “Động từ nầy đặc biệt chỉ về Thiên Chúa và liên kết với lòng nhân từ của Ngài. Makrothymia chỉ sự chịu đựng của Thiên Chúa đối với con người, đặc biệt đối với tội nhân. Ngài không trút cơn giận xuống trên họ. Thay vào đó là sự tha thứ vàơn cứu độ, chỉ khi nào họ hoán cải” (EDNT, II, 380). Như thế người mắc nợ nầy nài xin lòng nhân từ của Thiên Chúa đừng nổi giận mà phạt ông ngay, và để cho ông thêm một thời gian nữa.
Đáp lại lời van nài nầy, vị vua chạnh lòng thương. Trong tin mừng Matthêô động từ splanchnizomai đều dùng cho Chúa Giêsu. Động từ mang ý nghĩa thiên sai. Bởi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu ra tay thi ân (9,36; 14,14; 15,32; 18,27; 20,34). Sự tha thứ là một trong các đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Ngài được sai đến để tha thứ tội lỗi nhân loại. “Vua chạnh lòng thương và thả người nầy ra về và tha nợ cho người nầy” (c. 26). Động từ aphiēmi, “tha tội/nợ”, nghĩa là thả cho người nầy khỏi mọi ràng buộc luật pháp về món nợ đã mắc. Như thế, ở màn đầu nầy Chúa Giêsu đã cho Phêrô thấy ông chủ đã tha cho người mắc nợ nầy một món tiền khổng lồ và không thể trả được; đối lại với con số giới hạn “bảy lần” mà ông đã đề nghị (c. 21).
b/ Người nợ một vạn nén bạc và người đồng liêu (cc. 28-39)
Điểm đáng chú ý trong màn thứ hai nầy là những chênh lệch lớn so với màn thứ nhất. Tình huống ởđây làviệc tính sổ giữa hai người tôi tớ của ông chủ; họ ngang hàng với nhau trong địa vị xã hội; doulos và syndoulos (c. 28), số tiền người nầy nợ chỉ một trăm đồng bạc, dēnarion; xem sự chênh lệch đã trình bày ở trên; bóp cổ người nợ và “Trả tiền mầy nợ đây!” Điểm quan trọng hơn là cách hành xử. Người nợ một trăm đồng bạc nầy dùng cũng một lời nài xin mà người trước đã nói với ông chủ: “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 29). Đáp lại chủ nợ nầy từ chối “ông không chịu” và “bắt bỏ tù cho đến khi trả hết nợ” (c. 30). “Ông không chịu/không muốn”, nghĩa là dùng lý sự mà xét xử người nầy; trong khi ông chủ trên dùng tình yêu mà đối xử, và “bắt bỏ tù” đối nghịch với “thả ra về” và “tha hết nợ” (c. 27). Người nầy giao người nợ mình vào trong ngục tù.
c/ Vị vua với người nợ một trăm nén bạc (cc. 31-34)
Màn ba trở lại với cảnh hai nhân vật chính ban đầu, nhưng tình huống và các hành động khác hẳn màn thứ nhất. Tình huống ở đây là vua biết chuyện người nợ nầy đã đối xử như thế nào với người cùng tôi tớ và vua triệu người nợ ấy đến (cc. 31-32a). Lời trong màn nầy không còn là lời của hai người nợ, mà là lời xét xử của vị vua (c. 32-33), và hành động đáp lại của vua là đối xử với người nợ nầy theo cách anh đã đối xử với người nợ anh một trăm đồng bạc, thậm chí còn nặng hơn (c. 34).
Vua gọi là “người tôi tớ bất lương”, lập lại trong dụ ngôn các nén bạc và dùng cho người tôi tớ không làm theo ý của chủ (25,26). Tương tự, người tôi tớ nầy được gọi là bất lương vì đã không hành động giống như vị vua (c. 32). Lý chứng duy nhất vị vua đưa ra dựa trên món nợ/mắc nợ, opheiletēs (c. 24)/opheilē (c. 32)/động từ: opheilō (28[2x].30.34). Vua nhắc lại cho người nầy biết món nợ anh đã mắc và đã được tha nợ bởi “chạnh lòng thương” của vua (c. 27); động từ parakaleō, “kêu cầu”, “kêu nài” được dùng trong bối cảnh cầu cứ sự trợ giúp của Thiên Chúa (8,5; 14,36; 18,29.32; 26,53).
Vua dùng sự kiện nầy để đặt vấn đề về cách anh đã đối xử với người nợ anh chỉ một trăm đồng bạc, “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng bạn với ngươi sao, nhưng chính ta đã thương xót ngươi?” (c. 33). Câu hỏi đã có sự kiện chứng minh. Động từ eleeō, “rất quan tâm đến người đang thiếu thốn”, “có lòng xót thương/nhân từ/cảm thông”, thay thế cho splanchnizomai (c. 27). Vị vua lấy mình làm chuẩn về lòng xót thương. Và vua xét xử người nợ nầy vì đã không hành động như vua đã đối xử với anh, hōs kagō, “như tôi”. Động từ dei, “phải”, ở thì quá khứ chưa hoàn thành, làm mạnh hơn lời trách “Há ngươi không phải…”. “Phải” thuộc về cả mệnh lệnh và công bằng. Vì người nầy đã không xót thương, mặt trái của mối phúc về lòng thương xót (5,7), nên anh cũng không được xót thương.
Hành động trong màn cuối cùng nầy khác hẳn với những gì vua đã làm cho anh lúc ban đầu (c. 34). Thay vì “chạnh lòng thương”, vua “nổi giận”, orgizomai; Nổi giận thường xảy ra trước hành động tiêu diệt (x. 5,22, 22:7). Thay vì giao cho phylakē, “cai ngục”, như người nợ nầy đã làm cho đồng bạn (c. 30), vị vua nầy giao người nợ nầy cho lý hình, basanistēs. Lý hình không chỉ canh giữ mà còn hành hạ, làm khổ nhục nữa; động từ nầy được dùng nhiều trong sách Khải huyền (9,5; 14,11; 18,7.10.15). Và người nầy phải nằm trong tù cho đến khi trả xong nợ. Cũng một hình phạt người nợ một trăm đồng phải chịu (c. 30), nhưng người nầy vẫn hy vọng có ngày ra khỏi tù hơn người nợ vua. Vì đã không đối xử với người khác tương xứng với lòng thương xót nhận được, người nợ vua phải chịu trở lại hình phạt do món nợ như chưa được tha.
Kết luận của dụ ngôn nói đến cách hành xử của Chúa Cha đối với người không tha thứ (c. 35). Vị vua trong dụ ngôn và cách đối xử của ông đối với người nợ ông (cc. 31-34) được áp dụng cho Thiên Chúa. Sự tha thứ của Thiên Chúa tỉ lệ thuận với sự tha thứ con người làm cho nhau (x. 6,14-15; so sánh với Gia 2,13).
Giáo huấn và dụ ngôn trong đoạn nầy là một lời nhắc nhở mạnh mẽ và sống động rằng không tha thứ là không hành động như Cha trên trời (x. 5,48). “Tha thứ”, “chạnh lòng thương” và “lòng thương xót” luôn đi với nhau. Thiên Chúa muốn điều ấy hơn mọi lễ hy sinh (9,13; 12,7; 23,23) Ngài muốn con người tha thứ cho nhau cách vô giới hạn như Ngài đã làm cho chúng ta.
47.Chúa Nhật 24 Thường Niên--Jaime L. Waters
(Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIN MỪNG CÓ THỂ DẠY CHÚNG TA BÀI HỌC GÌ KHI XIN GIÚP ĐỠ
Bài đọc Tin mừng của Chúa nhật XXIV Thường niên hôm nay nói về lòng thương xót và sự tha thứ. Khi dùng dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ, thánh Matthêu dạy chúng ta một số nguyên tắc hữu ích trong xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chính dụ ngôn, ngay cả những nhận thức từ đó, có thể gây khó hiểu.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu về số lần nên tha thứ cho người khác trong cộng đoàn như thể là thắc mắc này có thể trả lời bằng việc đưa ra một con số. Phêrô đề nghị bảy lần, nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến bảy mươi bảy lần, muốn cho thấy rằng về tha thứ thì không có giới hạn nào. Phản ứng của Chúa Giêsu cho thấy tầm quan trọng của lòng thương xót liên lỉ và Ngài đã dùng một dụ ngôn để minh họa vấn đề này.
Tuy nhiên, dụ ngôn bắt đầu với một hình ảnh khó hiểu, gây thắc mắc. Nước Trời được ví như tương quan của vị vua với những người đầy tớ mắc nợ tiền. Thiên Chúa được xem như một vị vua triều đình, và con người là những người đầy tớ mắc nợ. Dụ ngôn phản ánh thực tế xã hội vào thời của thánh Mattthêu, trong đó việc nô lệ và nợ nần là những thực hành được chấp nhận. Độc giả hiện nay có thể thấy những dụ ngôn gây khó chịu và thất vọng như vậy là cách phản ánh mối tương quan của nhân loại đối với Thiên Chúa, nhất là dụ ngôn được xây dựng dựa trên sự tàn ác vô nhân.
Khi nhà vua (Thiên Chúa) được thông báo về các khoản nợ to lớn của người đầy tớ, ban đầu ông ra lệnh bán người đàn ông, vợ, con và tài sản của ông như là đầy tớ để có tiền trả nợ. Hãy hình dung là chúng ta đọc dụ ngôn trong bối cảnh mà việc nô lệ là hợp pháp. Trong Tin mừng của Chúa nhật hôm nay việc chiếm giữ và chiếm hữu đầy tớ mới để gia tăng sự giàu có của con người là việc đương nhiên. Thật không may, các văn bản Kinh thánh như vậy đã ảnh hưởng đến các chủ đầy tớ, nô lệ ở châu Âu, những người biện minh cho hành động của họ dựa trên sự tin tưởng vào uy thế của người da trắng và vào thần quyền.
Dù có nghiêng về việc bắt cả gia đình làm đầy tớ, nhà vua (Thiên Chúa) vẫn tha cho người đầy tớ và tha nợ cho anh ta vì ông chạnh lòng lòng thương khi người đầy tớ nài xin sự khoan hồng và sự kiên nhẫn của nhà vua. Nhưng khi người đầy tớ đó gặp một người đầy tớ khác trong hoàn cảnh tương tự, anh lại không bắt chước cách hành xử của nhà vua, và bắt bỏ tù con nợ của mình.
Các bạn đầy tớ đau khổ nên kể lại với vua về sự nhẫn tâm của anh ta. Nhà vua khiển trách tên đầy tớ rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn người như ta đã thương ngươi?”. Sau đó, nhà vua đã ra lệnh tra khảo người đầy tớ này cho đến khi anh ta trả được nợ. Chúa Giêsu kết luận bằng cách tuyên bố rằng Chúa Cha sẽ tra khảo con người nếu họ không tha thứ cho nhau.
Khó có thể nghĩ đến hình ảnh Thiên Chúa như là người tra khảo cho đến đời đời, dù hình ảnh này phù hợp với cái nhìn về ngày cánh chung của thánh Matthêu mà chúng ta đã đọc thấy trong các dụ ngôn vào các Chúa nhật trước. Một vấn đề khó khăn khác là yêu cầu người đầy tớ đầu tiên phải hành xử giống hệt như cách nhà vua (Thiên Chúa) đã làm. Trong khi đây là một ví dụ về tình yêu vị tha (Hy lạp là Agape) thì ứng xử này là một vấn đề gây khó hiểu theo những điều kiện kinh tế được giả định trước trong dụ ngôn. Việc giả định rằng người đầy tớ sống trong cảnh nô lệ nợ nần có thể hoặc nên cư xử như vị vua giàu có, không nhận ra sự bất cân xứng rõ ràng trong tình trạng kinh tế và xã hội của họ. Trong sự khắt nghiệt của người đầy tớ đầu tiên thì yêu cầu đòi nợ của anh đối với bạn mình chắc chắn sẽ bức thiết hơn yêu cầu đời nợ của vị vua giàu có.
Tuy nhiên, đọc kỹ dụ ngôn này sẽ mang lại một số nhận thức có ý nghĩa. Dụ ngôn dạy về tầm quan trọng của lòng thương xót, yêu cầu giúp đỡ và trợ cấp những người đang cần. Câu chuyện cũng gợi ý rằng những người có phương tiện, như nhà vua, nên công bằng, thực thi chính nghĩa và quảng đại vì sự giàu có của họ. Dụ ngôn thách thức những người có ít điều kiện hơn thể hiện lòng tốt đối với những người có hoàn cảnh tồi tệ hơn mình. Những khái niệm này có giá trị, nhất là khi đề ra những chính sách, luật pháp và chương trình để giúp đỡ những người sống trong nghèo đói, đặc biệt là nơi các hệ thống kinh tế có sự chênh lệch và bất bình đẳng.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/what-gospel-can-teach-us-about-asking-help
48.Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Alfonso
Mt 18,21-35. Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả...
Suy niệm
Như chúng ta biết đó, theo luật Môisen, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần. Con số 3 là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”, Phêrô có thể nghĩ rằng mình đã làm một sự bức phá để có thể trở nên một con người hết mực nhân từ vì tha thứ là một điều không phải dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương rất nhiều.
Sống với nhau giữa đời, đôi lúc có những lời ăn tiếng nói làm cho nhau tổn thương là điều không thể tránh khỏi vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. Thánh Gioan bảo rằng “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Cũng như tục ngữ Việt Nam có câu: “Chén úp chung trong một sóng còn khua”. Đúng thế, với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Cho nên người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng… tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn mà ta có thể gây tổn thương người anh chị em một cách vô tình bất cứ lúc nào. Lời Thánh vịnh 51,13-15, thánh vương Đavid than phiền sự bất trung: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi…”
Cho nên, trước câu hỏi một cách chân thành và đầy thiện chí cũng như sự cố gắng muốn nên tốt lành của Phêrô, Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu vượt lên trên ý chí của con người. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, còn Chúa Giêsu dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót.
Nếu như mỗi ngày công là một quan tiền, thì với số nợ lên đến 10.000 yến vàng nghĩa là 10.000 x 6.000 quan tiền tương đương 60.000.000 ngày công. Một món nợ mà người này có phải trả tới 200.000 năm vẫn chưa xong! Nhưng anh van xin và tôn chủ chạnh lòng thương bỏ qua tất cả cho anh. Tuy nhiên tới lượt anh, khi đóng vai ông chủ nợ với số nợ chỉ là 100 quan tiền, tương đương 100 ngày công, người này lại là bạn của anh nữa chứ, nhưng anh ta đã không chịu bỏ qua. Vậy mới thấy, nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người. Khi con người đối xử với nhau không có tình người thì sẽ bị Thiên Chúa phán xét. Bài đọc I trích sách Huấn Ca đã dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao?”
Qua câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã muốn chỉ ra thế nào là sự tha thứ mà Phêrô cần có. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao. Trên đời này, mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình người ở lại. Vậy, bao lâu còn thời giờ, chúng ta được Chúa mời gọi hay biết làm điều tốt cho anh chị em mình và biết thứ tha cho nhau.
Câu chuyện về hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Khi đang trò chuyện cùng nhau họ bắt đầu tranh luận một cách gay gắt, ví quá tức giận người bạn của mình, người kia không kiềm chế được đã tát vô má anh nọ một cái thật mạnh. Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên bãi cát dòng chữ "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi".Rồi hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông phải qua mà không có đò đưa, hai người lội qua. Khi ấy, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết. Khi đã được cứu lên được bờ và hết hoảng sợ, anh viết trên tảng đá bên bờ sông: "Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi". Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??" Mỉm cười anh trả lời " Khi anh làm tôi đau, tôi viết trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ, nhưng khi anh làm điều tốt là đã cứu tôi, tôi đã viết nó trên đá như ghi khắc vào trong trái tim của mình, không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được". Câu chuyện này có thể chúng ta đã nghe đi nghe lại nhưng cũng khó lắm để làm theo. Nhưng không thể chỉ vì cãi nhau mà có thể làm hỏng một kết nối bền chặt. Tuy nhiên, một nghịch lý luôn chi phối mọi tín hữu khi sống trong cộng đoàn, đó là chỉ muốn được tha thứ nhưng lại không dễ dàng thứ tha.
Chúng ta hãy luôn tha thứ vì Chúa muốn chúng ta như vậy, Chúa đã tha thứ cho chúng ta, nhận chúng ta làm con của Ngài nên không vì cớ gì mà chúng ta không tha thứ cho anh em mình. Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Rôma và mỗi người chúng ta hãy sống một đời sống mới: “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa”.
Lạy Chúa, Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả. Amen.
49.Hai người lính--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ.".
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa". Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề "Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh" (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng -- tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
"Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
50.Chúa Nhật 24 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp và mọi môi trường sống của con người: nơi gia đình, nơi học đường và ngoài xã hội. Hậu quả của những cuộc trả thù là: bị thương tổn về tinh thần cũng như thể xác, thậm chí có những cuộc trả thù gây ra án mạng.
Cách đây không lâu do những mâu thuẫn nhỏ nhặt theo kiểu học sinh và sự “tinh tướng” của lứa tuổi mới lớn, nhóm học sinh cùng trường thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã gây ra cái chết cho chính một người bạn học của mình. Nếu chúng ta gõ trên google chữ “trả thù” thì nó sẽ hiện ra những hàng tít như: Đi ‘báo thù’ cho em, đánh nhau loạn xạ, người anh trai bị đâm chết; Dùng 6 xe tải chở 120 côn đồ đi trả thù; Đi trả thù, con chết cha nhập viện; Anh vác dao đi đánh nhau, trả thù cho em rồi bị đâm chết: Biết trách ai?...
Lối sống và cách cư xử trên đây đi ngược lại với đời sống và lời dạy của Đức Giêsu. Thật vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu là bài học về sự tha thứ. Trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài đã từng tha thứ cho những kẻ tội lỗi như ông Lêvi, ông Giakêu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài từng bị chống đối và bách hại bởi các luật sĩ, biệt phái...Đặc biệt vào những ngày cuối đời, Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xỉ nhục, bị đội mão gai, chịu vác thập giá và đóng đinh trên thập giá…nhưng Ngài không một chút oán hận những kẻ làm hại mình, trái lại Ngài còn cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 33). Chỉ một lời cầu nguyện với lòng sám hối của kẻ trộm lành, Ngài đã tha thứ và cho anh ta vào Thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sau khi sống lại, Ngài đã không nhớ đến tội của các môn đệ, nhất là tội chối Thầy của ông Phêrô. Ngài còn lập bí tích Giao hòa để tha thứ tội lỗi cho con người mãi cho đến tận thế.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Vì sao Đức Giêsu sống tha thứ và dạy cho chúng ta bài học về sự tha thứ?
Thứ nhất, vì con người là bất toàn, hay sai lỗi như thánh Gioan nói: “Ai nói mình vô tội đó là kẻ nói dối” (x.1Ga 1,10). Có tội thì cần được tha. Tôi có tội cần sự tha thứ của anh em. Anh em có tội cần sự tha thứ của tôi. Chúng ta có tội cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, tha thứ rất cần thiết giữa con người với nhau và con người cần sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ hai, khi thực hiện sự tha thứ là chúng ta nên giống Thiên Chúa, nên con cái của Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thứ ba, tha thứ là điều kiện để Chúa nhận của lễ chúng ta dâng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Thứ tư, tha thứ là điều kiện để được Chúa thứ tha: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”(Mt 6,14-15). Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca cũng dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Thứ năm, tha thứ sẽ đem lại bình an cho con người. Trái lại, hận thù sẽ làm cho con người mất bình an. Đúng như người ta nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”
Như vậy, qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.
51.Nhân quả--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Mấy ngày vừa qua, người dân vẫn chưa hết phẫn nộ hành vi dã man của người con gái khi hành hạ, đánh đập mẹ già ở Long An. “Thật phẫn nộ và tội nghiệp cho bà cụ gần đất xa trời mà vẫn phải chịu cực hình do chính đứa con ruột của mình gây ra. Vì bất kỳ một lý do gì thì cũng không thể chấp nhận một người con đối xử với mẹ như thế. Con gái ruột mà đi đánh đập, đổ đất cát có phân lên đầu mẹ già 88 tuổi. Dẫu mẹ bệnh hoạn, mất tỉnh táo thì cũng là mẹ, con cái không được phép hỗn hào bất hiếu chứ đừng nói đánh đập hành hạ đến nỗi vài ngày sau cụ bà đã chết dù được nhiều người thương tâm đưa cụ vào bệnh việnh cấp cứu chữa trị. Mọi người dân khi thấy sự việc như vậy ai cũng tức giận và mắn chửi cô con gái và nguyền rủa cô sẽ bị quả báo vì gieo sao gặt vậy. Đó là quy luật nhân quả.
Nhiều người mặc nhiên coi câu nói ‘gieo nhân nào gặt quả nấy’ như một quy luật. Vì thế khi thấy ai đó gặp phải điều không may, họ quy kết ngay rằng hẳn bà cụ hay cha mẹ bà cụ đã làm điều chi bất nhân thất đức nên mới bị trừng phạt ‘quả báo nhãn tiền’ như thế. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su không nói luật nhân quả là sai nhưng Ngài cho biết căn nguyên của luật ấy là chính Thiên Chúa và mỗi người đều đã nhận được cái “nhân” tối thượng là ơn tha thứ và bao dung nhờ lòng thương xót của Ngài: “Tôn chủ” đã tha nợ cho người đầy tớ món nợ vô cùng lớn chỉ vì “anh đã van xin Ngài.” Vì thế từ cái “nhân” tốt lành đó mỗi người sẽ phải sinh “quả ngọt” bằng cách “thương xót người khác như chính Chúa đã thương xót mình”. Ngược lại, người ta sẽ nhận phải cái kết là “trái đắng” nếu họ cư xử nghiệt ngã vô cảm với anh chị em mình.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát huống chi con người. Cho nên, hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa, yêu thương mọi người. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình. Cũng như Cô con gái bà cụ kia đã gieo sự bạo lực độc ác với mẹ mình giờ đây phải gặt lấy đau khổ mẹ chết và sự bất an trong tâm hồn suốt cuộc đời trước pháp luật và lương tâm.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, chúng ta phải sống yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, khủng bố, bằng súng đạn, người Kitô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung, tha thứ và xót thương vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể thương xót và bao dung tha thứ cho nhau. Tha thứ và yêu người để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không bao dung, tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Thương xót và Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung, thương xót và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Vì vậy, những việc lành phúc đức của chúng ta, việc chúng ta bao dung thương xót và tha thứ cho người khác đúng là những nhân tốt lành để chúng ta gặt được quả phúc mai sau, nhưng, chúng ta nhớ rằng đó cũng là việc chúng ta phải làm để đáp lại việc trước đó Chúa đã xoá cho chúng ta món nợ vô cùng lớn là tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vì thế chúng ta nên hãy nhớ luật nhân quả của Chúa là: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Amen.
52.Tha thứ, nét độc đáo nhất của người công giáo--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa tha thứ sạch hết mọi tội, xem như Ngài vất ra sau lưng, đúng như Lời Chúa trong Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa mới đọc: “CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,3-5).
Vâng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đã không ngừng loan báo sự bao dung, và kêu gọi tha thứ và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi theo. Qủa thế, trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu chịu biết bao nhiêu là khổ nhục: chửi mắn, sỉ vả, đánh đập, khinh khi... nhưng Ngài vẫn không thù vặt, sống không để bụng, chết cũng chẳng mang theo hay trả đủa dù Ngài làm được. Qủa thế, trên cây Thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời nói chưa đủ, Ngài đã đổ máu mình ta để tha tội cho con người (Mc 14,24). Vì vậy, Chúa Giêsu là Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa, Người làm cho những kẻ được Người gánh tội trở nên công chính (1Pr 2,24).
Tha thứ của Chúa Giêsu là thế đó, tha vô điều kiện, tha vô hạn nên hôm nay Ngài dạy: "Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18,22). Tiếc thay, chúng ta rất đỗi nhỏ nhen! Chúng ta thể hiện sự nhỏ nhen ấy ngay trong cách sống của mình: thù vặt, bất bao dung, giận hờn cay đắng hay từ nhau... Cho nên, trong cuộc sống biết bao nhiêu chuyện cay đắng, nghiệt ngã xảy ra từ trong gia đình ra xã hội: cha con chém giết nhau, vợ chồng ly dị, con cái đánh đập cha mẹ, anh chị em đánh đập nhau, bạn bè đánh nhau, đồng nghiệp chơi xấu nhau, rồi ngay cả trong tình yêu trai gái cũng chẳng chịu tha thứ cho nhau cho nên dù tình yêu đầu hay tình cuối thắm thía đến mấy cũng chia tay để rồi tuyệt vọng tự tử. Cho nên mới có chuyện: "Tình đầu hay tình cuối? khi một ngày một người đã ra đi... Tình đầu hay tình sau? khi cơn đau không biết đến bao lâu? Một ngày ta được yêu, rồi một ngày một mình ta buồn thiu. Biết trống vắng, biết thức trắng, và biết nếm trái đắng. Mà đời thì như chiêm bao, khi yêu nhau biết ra sao ngày sau? Tình đầu thường lên men đau, nên đôi khi trái tim như nhỏ máu. Đường tình nào biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng chất ngất tiếc nuối. Thì tình đầu chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi... Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao anh hôn dòng tóc rối? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao... làm sao ta có đôi? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... mộ bia đề tên em đó sao? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... để tình đầu là tình cuối đau lòng nhau?" (Lời bài hát Tình Đầu và Tình cuối)
Yêu nhau mà không tha thứ cho nhau dẫn đến cái chết đau thương thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa, hạnh phúc và đáng sống. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy sống nét độc đáo nhất của đạo Công Giáo đó là sự tha thứ, tha thứ cho hết mọi người kể cả kẻ thù chúng ta. Nhưng không ai trong chúng ta lại không cảm nhận nỗi khó khăn khi phải tha thứ cho người khác. Thế thì động lực độc đáo nhất của Kitô giáo thúc đẩy chúng ta dám tha thứ cho nhau là gì? Thưa đó là khi chúng ta cảm nhận chính mình được tha thứ, mình sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác.
Cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu dùng câu chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách... mà chúng ta vừa mới nghe để dạy chúng ta biết lòng bao dung, tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa với con người và sự độc ác nhỏ nhen của con người với nhau. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ cho món nợ rất lớn như thế, nhưng ngược, lại mình vẫn không chấp nhận tha thứ món nợ nhỏ cho anh em mình. Tai sao?
Thứ nhất, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng vì con người ngày hôm nay đang dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi. Cho nên mình ăn gian nói dối, trộm cắp, phá thai, giết người... mà lương tâm mình bình thương không có gì là cắn rứt, không cần Chúa tha thứ (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, số 63). Thứ hai, con người quá yêu cái tôi của mình, cho nên những nhân đức của mình thì phóng cho to, còn những nét xấu giảm đến mức tối thiểu. Ngược lại, với người khác thì phóng đại cái tội lỗi người ta và giảm thiếu nhân đức của họ. Rồi, khi có lỗi với anh em, chúng ta chạy đến Chúa xưng tội, Chúa tha thứ hay là chúng ta chạy đến người mình phạm thôi, xin họ tha thứ; ngược lại họ lỡ phạm đến mình, chúng ta hậm hực không thể bỏ qua, “sống để bụng, chết mang theo”, hoặc bằng mặt chứ không bằng lòng. Hai lý do đó làm cho chúng ta mất cảm giác mình được Chúa tha thứ và cũng mất cảm giác bao dung tha thứ cho người khác.
Vậy phải làm gì? Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói: “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Vâng, sống cho Chúa nghĩa là sống với Chúa trong cầu nguyện. Chính trong cõi thinh lặng ấy ta có thể lắng nghe tiếng Đấng đã nói với ta trước khi ta nói lên lời, Ngài đã chữa lành ta trước khi ta có thể giơ tay kêu cứu, đã giải thoát ta trước khi ta có thể giải thoát kẻ khác và đã yêu thương ta trước khi ta yêu thương tha nhân. Vì vậy, khi cầu nguyện với Thiên Chúa càng sâu xa bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa bấy nhiêu, và ngược lại càng thấy mình khiếm khuyết và tội lỗi, chính lúc ấy chúng ta mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, để rồi “cũng tha cho kẻ mắc nợ với chúng con” (Mt 6,12).
Bình thường chúng ta đối xử với nhau bằng sức mạnh: bạo lực, chính trị, đồng tiền, toan tính thủ đoạn; nếu ai tha thứ thì cho là kẻ hèn nhát. Di sản tinh thần lớn nhất trên thế gian không phải là sức mạnh của bạo lực, tiền bạc mà là tình thương, tha thứ, vì tha thứ là chất xi măng xây dựng tình hiệp nhất, “tứ hải giai huynh đệ”. Hơn thế nữa, Lời Chúa dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có chuyện phải trách móc người kia, Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó chính là chất keo tuyệt vời nhất kết dính mối tình chúng ta với nhau hiệp nhất với Chúa Cha trên trời, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Với đức tin ấy, mời quý ông bà và anh chị em đứng lên tuyên xưng đức tin.
53.Tha thứ, hoà giải--Lm. Nguyễn Bình An
"Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không rõ việc chúng làm" (Lc 23,34) đã được Đức Gioan Phaolô II thực thi, khi ngài thân hành đến khám đường thăm viếng, hoà giải và an ủi Ali Agca, kẻ hành thích ngài tại công trường Thánh Phêrô ngày 13 tháng 8 năm 1981. Chúa Kitô luôn khuyến khích tín hữu cởi trói mọi ràng buộc, giải toả các uẩn ức, giao hoà các bất đồng và hợp tác trong tình thương. Tha 70 lần lũy thừa 7 là tiêu chuẩn của ơn tha thứ hoà giải. Tích cực hơn, Chúa dậy các tín hữu phải yêu thương các địch quân và nguyện cầu cho họ. Đối với nhân loại thì đây quả là một vấn đề khó khăn.
Tình tiêu cực theo lý thuyết tương đối rất dễ. Chúng ta cần trưng Lời Chúa và chủ trương yêu thương và tha thứ. Tình nầy đã được ứng cử viên tổng thống Dukhakis xướng họa năm 1988. Nhưng khi được hỏi "ông sẽ làm gì khi vợ ông bị hiếp tối hôm qua?" thì ông ấp úng không lối thoát. Tình tích cực với hành động minh chứng thật nhiêu khê. Đích danh ông bà, anh chị gặp hắn, kẻ vừa giết con gái, hãm hiếp vợ, bán đứng anh và bêu xấu ông, quí vị sẽ làm gì?
Đưa giới lệnh tha thứ và hòa giải vào đời, Thiên Chúa muốn các tín hữu học, hiểu và sống cái Đức, cái Nhân và cái Dũng của chính Chúa, Đấng ban ơn mưa móc xuống trên người lành lẫn kẻ dữ. Không như Khômêni treo giải thưởng 1 triệu Dollars cho chặt được đầu của Ruskee. Cũng không như đám đạo tặc ăn mừng khi Ngô Đình Diệm bị bức tử. Nhưng phải như bà Cornie, người sống sót duy nhất của gia đình Boom ở Amsterdam, Hoà Lan. Gia đình bà vì bác ái đã che chở, chứa chấp và nuôi sống những người Do Thái trong nhà hồi đệ nhị thế chiến. Bị kẻ thủ lợi báo cáo, cả gia đình đã bị bắt giam và chết trong trại tập trung Ravensback. Bà Cornie thuyết trình về ơn tha thứ và hoà giải, đã gây chấn động. Lời bà phát xuất từ con tim rướm máu, bằng cảm nghiệm thương đau và với tâm hồn sần sùi vết thẹo. Sau bài diễn thuyết, một người Đức đến cám ơn và xin bắt tay. Nhìn lên, bà Cornie bỗng chết trân, miệng há hốc, vì chính hắn, kẻ đã giết gia đình bà. Trong cơn giận, tay bà không sao đưa tay lên nổi để tha thứ và hòa giải. Bỗng từ đấy lòng, tâm tình thiêng liêng khơi động "Giêsu ơi, con thật không tha thứ nối, xin giúp con." Một thần lực bao phủ, bà đưa tay lên. Chính lúc đó ơn tha thứ và hoà giải đã tràn ngập tâm hồn bà và anh lý hình ngày trước.
Trong tâm tình khiêm tốn, thành thật và nghiêm chỉnh, Chúa muốn mỗi chúng ta tự đặt mình dưới ánh sáng đức tin và trong tình yêu Chúa. Hãy can đảm nhận diện những lỗi lầm, bội ước, đểu cáng, bất nhân chúng ta đã thực hiện. Hãy cám tạ Chúa vì Ngài luôn tha thứ, khoan nhân, độ lượng, chờ đợi và tạo cơ hội cho chúng ta trở về. Hãy xin ơn thông cảm để như Phêrô chúng ta biết "hồi tâm và nâng dậy anh em" và nhất là nhìn mọi người theo khía cạnh nhân loại. Họ có thất tình, lục dục như chúng ta. Họ ngày đêm bị sức ép của đam mê, cám dỗ và yếu đuối dằn vặt. Họ cần được cảm thông và hòa giải như chúng ta cần Chúa thương xót và tha thứ. Và cùng với họ, chúng ta đứng lên làm lại cuộc đời.
Chồng chị mèo chuột, gạt gẫm, cờ bạc, hút sách và hung hãn, làm sao chị sống đời tha thứ và tìm ra những điểm tích cực dễ thương nơi anh đây? Anh là hình ảnh Thiên Chúa vô hình! Anh cần được nâng dậy! Anh phải sống đời mới! Chị là tâm Chúa từ nhân, là bàn tay dịu dàng nâng đỡ, chị có trách nhiệm giúp anh trở về! Vợ anh chua chát, điêu ngoa, giả dối và làm tan gia bại sản, làm sao anh tha thứ và thông cảm đây! Đức tin cho sức mạnh, sức mạnh nối lại tình thương, tình thương đem ơn tha thứ và tha thứ là phương tiện cho Chúa hiện diện.
Đó là thực cảnh, là thách đố, là gương vỡ lại lành và là nhân cách của đời Kitô hữu. Bạn ông, chồng chị, vợ anh, con cháu chúng ta vì nông nổi và nhẹ dạ, vì hiếu kỳ và ương ngạnh, vì yếu đuối và đam mê đã một thời bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, không lẽ chúng ta ngồi nhìn họ chết mà không chút động lòng trắc ẩn! Hối nhân sẽ trở về và ngã gục trong lòng những ai tràn đầy thân thương, nhân ái và tha thứ như Đức Kitô. Ngài nhỏ nhẹ, thông cảm và yêu thương nhìn người phụ nữ trắc nết và hoang đàng "con hãy về và đừng tái phạm nữa".
54.Tha thứ không giới hạn--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
2) Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
a) Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
b) Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
c) Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
3) Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
3.- Vài điểm chú giải
- Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: "Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)", vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 ("Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy"), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là "bảy mươi lần bảy", hoặc "bảy mươi lần bảy lần". Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
- đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
- Mắc nợ mười ngàn yến vàng... một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
- Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
- buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
- trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là "nói toạc ra hết; làm sáng tỏ".
- thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
- trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài "sự tha thứ". Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ "phạm tội chống lại con" ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. "Bảy lần" mà ông gợi ra không hề không đáng kể. "Bảy" là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: "Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?".
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời "đúng thế", nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là "bảy mươi lần bảy". Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức "bảy mươi lần bảy", Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn "Tên mắc nợ không biết thương xót", Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị "vua" dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. "Thanh toán sổ sách" (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ "đầy tớ" mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người "phụng sự" Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. "Con nợ" và "mắc nợ" là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva' có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; "ông tha": động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là "đầy tớ độc ác" (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho "anh em" (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (5,7). Nói về "anh em", tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
2. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: "Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
3. Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
4. Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
55.Tại sao không tha?--Lm. Nguyễn Hùng
Trong ngày Tết Âm Lịch, người ta chúc nhau một câu vui đùa: "Chúc cho năm mới làm ăn phát tài, tiền vào như nước, tiền ra nhỏ giọt". Nghĩ cho kỹ, câu chúc này không thích hợp với định luật tự nhiên nếu không muốn nói là... "có trục trặc bệnh lý". Một người ăn uống thả cửa, món ngon món dở thầu chở ráo trọi mà không có chuyện giải quyết... "hậu sự", thì chắc chắn trong vòng 24 tiếng sẽ phải nộp đơn xin nhập bệnh viện gấp. Có "input" mà không "output" thì chắc chắn sẽ bị dồn ép và bùng nổ. Con người muốn sống lành mạnh phải theo định luật tự nhiên ra vào đều hoà.
Tuy nhiên theo tâm lý tự nhiên con người lại có chiều hướng bệnh hoạn, chỉ có vô mà không cho ra. Người ta muốn chìa tay xin xỏ, nhận lãnh, nhưng không muốn ban phát. Trong bài Phúc Âm, thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Nếu anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" Thánh Phêrô nghĩ rằng con số bảy là quá rộng rãi. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người chủ tha nợ cho đầy tớ nhưng hắn lại không tha nợ cho bạn hắn. Cuối cùng tên đầy tớ phải chịu hành hình cho đến khi trả nợ xong.
Tội nguyên tổ đã làm cho con người nên hư hỏng hẹp hòi, ích kỷ, chỉ muốn vơ vào, tích lũy, không chịu cho đi, ban phát. Đó chính là cái bệnh làm cho cuộc sống con người trở nên bất hạnh. Của cải vật chất, tiền bạc người ta ôm vào cho thật nhiều để rồi lo lắng, không ăn không ngủ vì sợ mất. Những khó chịu, giận dỗi, hận thù, ganh tỵ với tha nhân là những viên thuốc độc giết chết con người dần mòn, nhưng người ta cứ khư khư ôm lấy để sống trong buồn sầu bất hạnh.
Một người ăn xin đến gõ cửa nhà một người giầu có. Người giầu không cho gì mà còn đuổi đi và ném theo một cục đá vào lưng người ăn xin thật đau điếng. Người ăn xin nhặt cục đá bỏ vào trong bao đeo trên mình với lời thề nguyền để ghi nhớ suốt đời mối hận này. Năm tháng trôi qua người ăn xin già đi và cảm thấy cục đá để trong bao mỗi ngày một nặng hơn, và lòng ông cũng nặng chĩu với mối hận ghét người nhà giàu ác tâm ném đá ông. Một ngày kia ông già ăn xin cảm thấy mệt mỏi vì mang trên mình cục đá đó, ông đã thò tay vào bao lấy cục đá ra và ném xuống đất. Người ông cảm thấy thật nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó ông không còn để lòng hận ghét và nhớ đến người nhà giàu kia nữa.
Qua bài Phúc Âm Chúa muốn dạy chúng ta, tha thứ là con đường tự giải thoát chính mình. Muốn lãnh nhận ơn tha thứ, ta hãy mở lòng tha thứ cho người khác. Ơn tha thứ Thiên Chúa sẵn sàng ban phát, nhưng chúng ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi mở cửa lòng ra để tha thứ cho người khác. Ngược lại, nếu chúng ta khư khư ôm mối căm hờn khép kín cửa lòng lại với tha nhân, ơn tha thứ của Thiên Chúa không thể đến với ta được.
56.Bài học tha thứ--Lm Trần Bình Trọng
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay tha thứ, chứ không phải là vì tội nhân đáng được thứ tha. Cũng có những khi ta thấy Thánh Kinh nhắc đến việc Chúa nỗi cơn thịnh nộ và quyết định sửa phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh Kinh nói về những trường hợp mà người ta đã tử khước tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho loài người, mà còn nói đến bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau.
Trong Phúc Âm Chúa nêu lên trường hợp người đầy tứ được tha thứ nhiều nợ nần, nhưng lại không tha thứ cho người khác chỉ nợ anh ta phần nhỏ. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người hãy tha thứ và làm hòa với nhau. Đó cũng là cơ hội để ta học cái bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Cái điều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, khiến ta nghĩ rằng anh ta cũng phải đền đáp bằng việc tha thứ cho người chỉ mắc nợ anh ta một phần nhỏ.
Cái điều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi ta bị xúc phạm và thiệt thời nặng nề. Đó có lẽ là điều khó nhất trong các giới răn của Chúa. Có những nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can mà người ta không dám nói ra. Ai đã bị bạn bè hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi đắng cay đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người đàn bà bị phản bội khiến họ không còn muốn gặp và tin tưởng vào bất cứ người đàn ông nào khác.
Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nặng trên tâm hồn. Tuy nhiên ta cảm thấy thật khó lòng. Nhưng đó là lúc ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là ta tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong Bài Sách Đức Huấn ca ghi lại, hay là tha thứ để được tự do, để tâm hồn được thanh thoả. Ngay cả sau khi đã quyết định tha thứ, cái cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện cho người đã súc phạm đến mình. Rồi cái cảm giác đau lòng sẽ dần dần biến đi với thời gian. Và tâm hồn ta lại được bình an thư thái.
Trong Phúc Âm, Chúa dạy ta phải tha thứ 70 lần bảy, nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, vô giới hạn. Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hàng ngày, những người làm cùng sở, thì việc tha thức lại càng khó lòng, nhưng là điều cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể đếm được bao nhiều lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau, nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống?
Bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay cảnh giác ta báo thù là dấu chỉ của tội lỗi. Người để lòng báo thù và ghen ghét đã quên đi cái giao ước với Thiên Chúa. Cái ngụ ý của Bài Phúc Âm hôm nay là giận ghét sẽ thống trị con người khi người ta quên đi cái liên hệ của mình với Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc.
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Người quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Chúa sẽ tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải. Chúa hiểu sự yếu đuối của loài người và sẳn sàng tha thứ. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Nhận thức rằng con người là bất toàn cho nên ta phải sẳn sàng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân, gây đau khổ cho người người khác. Tha thứ là chấp nhận người thống hối để tái lập tình bạn và tình thân hữu. Là người Công giáo ta bắt đầu thánh lễ với cầu xin tha thứ. Ở đây, ta có cơ hội thú tội trước cộng đồng, trước khi dâng của lễ lên bàn thờ. Cái việc tha thứ giữa người với người là điều kiện để được Chúa thứ tha cho loài người.
Vậy hôm nay, ta hãy cầu nguyện, xin Chúa tha thứ khi ta đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con và khi chúng ta chúc bình an cho nhau.
57.Tha thứ
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho mình, tha thứ những thái độ xúc phạm đối với mình, tha thứ những điều người khác gây ra trái ý mình. Tha thứ là không hề nhớ, không kể lại, không nhắc tới lỗi lầm của người khác. Là Kitô hữu, chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Như thế, tha thứ không chỉ là hành vi nhân bản mà còn là hành vi nhân linh.
Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau. Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa: "Con phải tha đến mấy lần". Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần cho chắc ăn để cho thấy tinh thần hào hiệp, ông đề ra cho Chúa Giêsu con số bảy: "Có phải đến bảy lần không". Tha thứ đến bảy lần là hoàn hảo, là vĩ đại, là hào phóng và thậm chí là tuyệt đối rồi. Ông nghĩ rằng đề nghị như thế là được Chúa Giêsu tán thành ngay thậm chí là còn khen ông nữa kìa. Thế nhưng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: Hãy tha thứ cho nhau, hãy quên hết lỗi lầm, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi. Sao thật khó quá!
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để học trò hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá nhỏ bé, hẹp hòi, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý. Chúng ta dễ tức giận nhau, để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để dạ, chết mang theo". Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách! Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta thấy ngay từ đầu, khi con người phạm tội nếu Thiên Chúa đã không tha thứ thì con người sẽ không có tương lai tốt đẹp gì như ngày hôm nay. Mỗi lần tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta để tâm hồn mình hoà điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hoà mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót tha nhân như mình đã được Chúa xót thương. Sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có sai sót, nhiều khuyết điểm, tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.
Trong câu chuyện dụ ngôn, chúng ta thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu nên không tha thứ cho nhau được. Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên di những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng trích chứa trong lòng.
"Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?"
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết cho Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ. Sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới hiệp thông và yêu thương. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho chúng con có tâm tình của Chúa để chúng con có thể tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ. Amen.
58.Tha thứ
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con hay không? Tội lỗi của chúng ta thì nặng nề và chồng chất, làm cho Thiên Chúa phải buồn lòng. Và theo một ý nghĩa nào đó, tội lỗi ấy được sánh ví như là một món nợ khổng lồ chúng ta thiếu hụt cùng Thiên Chúa. Đồng thời trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những khổ đau, những bất công do anh em gây nên.
Thế nhưng, trong kinh Lạy Cha, chúng ta dám thưa lên cùng Thiên Chúa: Xin Ngài tha thứ cho chúng ta những lỗi lầm quá lớn, nếu như chúng ta biết quên đi những vấp phạm nhỏ bé của anh em. Đúng là một tỷ lệ không cân xứng và chẳng có ý nghĩa chi cả… Và đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Ông vua muốn tính toán nợ nần với những bầy tôi của mình. Ông vua chính là Thiên Chúa còn bầy tôi chính là chúng ta. Món nợ khổng lồ lên tới 10 ngàn nén bạc, chính là những tội lỗi của chúng ta khi đứng trước một vị Thiên Chúa nhân từ, thánh thiện và công bằng vô cùng. Còn món nợ nhỏ nhoi 100 đồng là những vấp phạm của anh em đối với chúng ta. Và như thế chúng ta nhìn thấy sự sai biệt giữa hai món nợ là như thế nào.
Trước lời van xin của tên đầy tớ thứ nhất, nhà vua đã thực sự xúc động, ông đã tha thứ và xóa bỏ món nợ kếch xù của hắn. Còn hắn, hắn lại tỏ ra hà khắc đối với bạn hắn, là người chỉ mắc nợ hắn một số tiền nhỏ bé. Khi hay tin, nhà vua đã vô cùng sửng sốt, ông đã đối xử với tên đầy tớ theo như mức độ nhân từ mà họ đối xử với nhau… Và phần kết luận, hẳn chúng ta đã rõ. Lý hình chính là những sự trừng phạt ở đời này cũng như ở đời sau. Đoạn Tin Mừng không phải chỉ kêu gọi chúng ta tha thứ cho một người anh em hay kẻ bạn hữu, mà còn tha thứ cho tất cả những bất công mà kẻ thù gây nên.
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài: yêu thương kẻ thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài: Tại sao chúng ta lại phải tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu của chúng ta. Đức cha đã trả lời: Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh tới lời van xin: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Ngày hôm sau được phép cử hành thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là hãy tha thứ cho nhau.
59.Tha thứ
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý, chúng ta tức giận nhau, chúng ta để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hoả ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua Kinh thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
60.Bảy mươi lần bảy!
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ tranh luận về việc tha thứ. “Đối với vợ, ngươi có thể tha thứ cho vợ một lần... Đối với anh em, ngươi phải tha thứ co anh em năm lần”. Còn quan điểm của Chúa Giêsu thì sao?
- Tôi phải tha thứ bảy lần phải không?
- Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy.
Đứng trước câu trả lời này, một trong những câu trả lời điên rồ nhất của toàn bộ Tin Mừng, lúc này đây chúng ta có thể ở trong một tình trạng bi đát hết sức an bình. Bi đát: Chúa đang yêu cầu chúng ta một sự tha thứ rất khó khăn và tất cả đảo lộn trong ta khi nghĩ đến điều đó. An bình: cuộc sống của chúng ta thanh thản đến độ sự đòi hỏi của Chúa Giêsu đối với chúng ta dường như rất dễ: chắc chắn là phải luôn luôn tha thứ.
Lý thuyết! Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta mà xem! Ai tha thứ? Thậm chí ngươì ta nghĩ rằng tha thứ sẽ khuyến khích những gì không thể tha thứ được. “Nào xin bạn cứ tự nhiên!”. Việc nghe theo Chúa Giêsu yêu cầu có một sự đảo ngược.
Tôi lấy lại hai hoàn cảnh trên. Nếu tôi hoàn toàn bị đảo lộn đứng trước một điều gần như không thể tha thứ được (nhưng người ta vẫn luôn luôn nói là sự tha thứ), Chúa Giêsu kêu gọi tôi tha thứ ngay lập tức, mặc dầu những thương tổn và những phản kháng của tôi. Ngay lập tức. Chúng ta huỷ diệt Tin Mừng và sự sống của chúng ta khi chúng ta chờ thời, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có khả năng thực hiện điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Làm cho chúng ta có khả năng, đó là công việc của Ngài, công việc của Thánh Linh. Phần chúng ta là phải đối diện với lơì kêu gọi đó và kêu xin Chúa Giêsu: con muốn, nhưng con không thể làm được, xin Chúa giúp con!
Nếu tôi không có vấn đề gì cả, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu là một liều thuốc phòng ngừa. Sự đòi hỏi đó lôi kéo tôi đi ngược dòng một thế giới kiêu ngạo từ chối tha thứ.
Bởi vì đây đúng là một cuộc chiến chống lại sự kiêu ngạo, luôn luôn sẵn sàng bi kịch hoá các điều sỉ nhục và dựng lên những bức tường trước những ý tưởng hoà giải. Lòng kiêu ngạo rất biết cách nguỵ trang thành danh dự, thành lương tri, thành công bằng, thành sự tự vệ hợp pháp, thành lo lắng không tạo thuận lợi cho những kẻ xấu, đến nỗi trước tiên cần phải loại bỏ lòng kiêu ngạo đó đi đã: “Lòng kiêu ngạo ơi, đừng có mà len lỏi vào đó”.
Trong bầu không khí trong sạch hơn, chúng ta có thể xem xét ý tưởng cho rằng có những sự tha thứ xấu. Khi tôi chấp nhận mỉm cười và giơ tay ra bởi vì điều đó thu xếp ổn thoả cho tôi, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi dùng mánh lới. Khi tôi tha thứ cho một tay độc tài áp bức những người yếu kém, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi sợ. Nếu đó là những sự tha thứ thật sự có giá trị, thì có hai điều có thể làm cho mỗi người trong chúng ta trở thành một người sẵn sàng tha thứ và đấu tranh chống lại nhiều cái “Không thể tha thứ được!” đang đầu độc bất cứ cuộc sống chung nào.
Trước hết, nghĩ đến một người mà chúng ta biết rõ và đã có lần từ chối tha thứ. Đo lường tình trạng lộn xộn của cuộc sống. Sự nghiền ngẫm nội tâm của người đó dồn cho bạn những chi tiết về sự lầm lẫn mà người ta đã làm cho người đó, về người đã xúc phạm hoặc phản bội người đó. Trong khi suy nghĩ về tất cả những điều đó, người ta thề thốt sẽ không bao giờ rơi vào trong sự mất khả năng lật một trang mới nữa.
Tin Mừng cống hiến cho chúng ta một cách khác để vun trồng nơi chúng ta khả năng hoà giải với nhau rất nhanh: đặt những sự tha thứ của chúng ta trong sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ là một người công chính sẽ làm cho lòng khoan dung của Ngài rơi xuống trên một kẻ phạm lỗi đáng thương. Cả hai chúng ta đều là những người được tha thứ, được mơì gọi đi vào trong cùng một quỹ đạo của sự tha thứ.
Đó là quỹ đạo của Kinh Lạy Cha “Xin tha thứ cho con như thể người ta tha thứ cho một người con bởi vì trong khi tha thứ, con cố gắng trở thành con của Ngài”. Tự bảo: “Tôi sẽ không bao giờ từ chối tha thứ”, tương đương với: “Tôi muốn vẫn thuộc về gia đình của Thiên Chúa”.
61.Tha thứ
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn. Thế nhưng trước khi hành quyết, ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài. Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
62.Tha thứ.
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha thứ lẫn cho nhau.
Qua câu chuyện của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta thấy được hai thái độ khác nhau của hai chủ nợ. Người chủ nợ thứ nhất tượng trưng cho Thiên Chúa. Còn người đầy tớ mắc nợ mười ngàn nén vàng, tượng trưng cho con người tội lỗi. Mười ngàn vàng là một con số quá lớn, vượt khỏi trí tưởng tượng của người nghe. Ý muốn ám chỉ một món nợ mà con nợ sẽ không bao giờ trả hết. Cam kết trả hết nợ chỉ là một lời hứa liều khi bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào khác. Biết vậy, nhưng người chủ nợ lại là người nhân ái, đã động lòng thương trước lời van xin của tên đầy tớ. Và người chủ nợ đã một việc hết sức bất ngờ, đó là trả tự do và tha hết nợ cho anh ta trong khi anh ta chỉ dám xin khất nợ mà thôi.
Cũng thế, tội lỗi của con người đối với Thiên Chúa quả thực là một món nợ khổng lồ. Bình thường thì chẳng tài nào xoá đi được. Nhưng Thiên Chúa đã chạnh lòng thương. Ngài đã tha thứ không chỉ bằng một lời phán hết nợ, mà còn bằng cách cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ và sau cùng đã chịu chết trên thập giá để giải thoát chúng ta.
Nếu như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng có bổn phận phải tha thứ một cách nhưng không cho người khác. Món nợ của con người đối với nhau, quả thật là nhỏ bé, là tầm thường, so với món nợ đối với Thiên Chúa. Một nén vàng là mười ngàn đồng bạc. Như thế, một vạn nén vàng vị chi là một trăm triệu đồng. Một trăm triệu đồng mà đem so với một trăm đồng thì quả là một trời một vực.
Nhưng cách cư xử của tên đầy tớ vừa mới được tha hết nợ đối với bạn hắn thì lại hoàn toàn trái ngược với thái độ của người chủ nợ đối với hắn. Cũng một lời van xin, nhưng hắn không hề nhớ tới điều hắn đã được hưởng. Người mắc nợ hắn đã bị tống giam vào ngục cho đến khi trả nợ xong. Chủ nợ của hắn buộc lòng phải đối xử với hắn như hắn đã đối xử với bạn hắn. Có điều một trăm đồng bạc thì còn có khả năng trả được, chứ mười ngàn nén vàng thì vô phương cứu chữa. Người đầy tớ không phải chỉ là một kẻ vụng tính mà còn là một con người độc ác, không có được một chút tình thương đối với người bạn của mình.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn đọc hằng ngày: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phải chăng đó chính là lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết sống khoan dung và nhân ái đối với những người chung quanh để rồi chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng khoan dung và nhân ái của Chúa.
63.Tha thứ.
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
- Sự kiện trên đã làm cho tôi xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi vì tôi đã tin.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới người trộm lành trên thập giá. Mặc dù quãng đời dĩ vãng chồng chất những tội lỗi, nhưng rồi anh đã được Chúa tha thứ. Chính Ngài đã nói với anh:
- Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta.
Tên sát nhân ở Nhật Bản, cũng như người trộm lành đều là những kẻ tàn bạo, thế mà Chúa đã xót thương, cho ăn năn sám hối vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, thì tự hỏi làm sao chúng ta lại khước từ, chẳng tha thứ cho nhau.
Chính Ngài đã khẳng định qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay:
- Thầy không bảo các con phải tha thứ đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy lần, có nghĩa là phải tha thứ cho nhau mãi mãi.
Và để xác minh cho sự thật trên người ta đã đưa ra một câu chuyện cụ thể đó là câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Như chúng ta thấy, khi mắc nợ ai, chúng ta phải hoàn trả cho họ, đó là bổn phận của đức công bằng.
Cũng vậy, tên đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn nén bạc, mà hắn thì không có gì để trả, vì thế, nhà vua cứ dựa theo sự công bằng để ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con và tài sản mà trả nợ. Thế nhưng, nhà vua đã không hành động như thế. Ông đã không cư xử với hắn theo sự công bằng, mà theo lòng thương xót, bởi thế ông đã tha bổng cho y, và đòi y cũng phải thương xót đối với những người chung quanh:
- Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, thì đến lượt ngươi, ngươi cũng phải thương xót bạn ngươi như ta đã thương xót ngươi.
Trong mối liên hệ giữa người với người, chúng ta thấy công bằng phải đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, bởi vì nếu không có công bằng thì cũng chẳng có bác ái. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta phải vượt lên trên cái nền tảng công bằng này để biểu lộ một tình yêu thương và tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có sẵn sàng tha thứ cho anh em để rồi bản thân chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Chúa hay không?
64.Tha thứ
Phêrô không phải là không tính toán kỹ lưỡng khi hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ cho anh chị em bao nhiêu lần, có phải bẩy lần không? Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Ông hy vọng sẽ được Chúa khen ngợi; không ngờ câu trả lời của Chúa là “bẩy mươi lần bẩy”, có nghĩa là phải tha thứ không giới hạn!
Rồi Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót. Sự so sánh món nợ lớn lao của anh với nhà vua là “mười ngàn nén vàng” và số tiền của người bạn nợ anh là “một trăm quan tiền” đã làm nổi bật lên lòng nhân từ của Thiên Chúa. Có tác giả đã so sánh một quan tiền là một ngày lương của người lao động. Người bạn nợ anh 100 ngày lương. Còn một nén vàng tương đương với 6000 quan tiền. Mười ngàn nén vàng là 60 triệu quan tiền. Nếu một người lao động làm việc năm ngày một tuần, 50 tuần một năm, phải mất 280 ngàn năm mới trả đủ số tiền nợ nhà vua. Không thể nào trả nổi!
William Barclay đã viết như sau: “A.R.S. Kennedy đã vẽ ra bức hình sống động này để đối chiếu những món nợ. Giả sử họ trả bằng tiền bảng Anh. Món nợ 100 quan tiền có thể được mang trong một cái túi áo hay túi quần. Món nợ 10 ngàn nén vàng phải được một đội quân 8,600 người mang, mỗi người mang một cái túi nặng 60 cân Anh – khoảng 27 kg; và nếu họ đứng sắp hàng, mỗi người cách nhau chừng 80 cm, làm thành một hàng dài 5 dặm – khoảng 8 cây số”.
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta đã được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết của Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa thứ tha.
Sự tha thứ mang lại ích lợi cho người tha thứ và người được tha thứ: Shakespear xưa kia đã nói: “Tha thứ là hai lần phúc lành”. Nó mang lại phúc lành cho người tha thứ và người được tha thứ.
Khi cựu tổng thống Bill Clinton gặp cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela lần đầu tiên sau khi được thả ra khỏi tù, ông Clinton nói: “Khi ông được thả ra khỏi nhà tù, tôi đã đánh thức con gái tôi dậy vào lúc 3 giờ sáng. Tôi muốn cô bé chứng kiến biến cố lịch sử này”. Rồi ông Clinton chuyển sang một câu hỏi đã in trong tâm trí từ lâu: “Khi ông bước ra khỏi khu nhà tù, băng ngang qua cái sân tới cổng nhà tù, máy thu hình đã tập trung vào khuôn mặt của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự giận dữ và hận thù trên khuôn mặt của bất cứ một người nào được diễn tả như trên khuôn mặt của ông vào lúc đó. Đó không phải là Nelson Mandela mà tôi biết hôm nay”, Clinton nói. “Điều gì đã làm ông thay đổi?”
Mandela trả lời: “Tôi ngạc nhiên rằng ông đã nhìn thấy điều đó, và tôi tiếc rằng những chiếc máy thu hình đã chộp được cơn giận của tôi. Khi tôi bước qua sân nhà tù ngày hôm đó tôi tự nghĩ rằng họ đã tước đoạt đi tất cả mọi sự của tôi. Sự nghiệp đã chết. Gia đình đã mất. Bạn bè đều bị giết. Bây giờ họ thả tôi ra, nhưng chẳng còn gì nữa cả. Và tôi thù ghét họ vì cái họ đã tước đoạt cuộc đời của tôi. Nhưng rồi, tôi tự cảm thấy một tiếng nói tự bên trong ngỏ với tôi: “Nelson! Ông là tù nhân của họ 27 năm, nhưng ông đã luôn luôn là một người tự do! Đừng để họ thả ông ra làm một người tự do, rồi lại biến ông thành tù nhân của họ qua sự hận thù”.
Henri Nouwen đã so sánh cuộc đời của chúng ta với những cái ly phải được làm trống rỗng đi để được đổ đầy trở lại. Nếu chúng ta đổ cay đắng, hận thù và trái ý đầy vào ly, Thiên Chúa không thể tuôn đổ ân phúc của ngài vào được.
65.Tha thứ
John Huffman đã nói: “Con người thống khổ nhất trên thế giới là người sẽ không tha thứ. Không có gì có thể vặn cổ linh hồn mau lẹ hơn nó. Nói đúng ra, nếu tôi có một kẻ thù mà tôi muốn phạt, tôi sẽ dạy nó thù ghét một người nào đó”.
Sự tha thứ của Đức Hồng Y Bernadin đã chúc lành cho anh Steven Cook một cách rất kỳ diệu. Anh là người đã vu oan cho Đức Hồng y về tội quấy rối tình dục. Nhưng Đức Hồng y đã tha thứ khi anh xin lỗi và anh đã nói: “Sau khi hoà giải, một cái ách nặng nề lớn lao đã được cất đi khỏi người tôi. Tôi đã cảm thấy được chữa lành và an bình”. Cuối cùng anh đã chết bình an sau khi trở về với Giáo Hội và Thiên Chúa.
Sự tha thứ mang lại ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến cho hối nhân – người sám hối được tha thứ. Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyên chúng ta nên thường xuyên lãnh Bí tích Hoà giải.
Một buổi chiều trời mưa tầm tã, bà mẹ đón con đi học về đang lái xe trên đại lộ chính của thành phố. Bà phải để hết chăm chú vào việc lái xe vì đường phố rất ướt và trơn trượt. Thình lình, cậu con trai ngồi thoải mái bên cạnh mẹ nói lớn: “Mom, con đang suy nghĩ điều này”. Hành động này đối với bà mẹ thường có nghĩa là cậu con trai 7 tuổi của bà đang muốn xin một điều gì đó và bây giờ sẵn sàng lên tiếng. “Con đang nghĩ gì vậy?” Người mẹ hỏi. “Trời mưa”. Nó nói, “giống như tội, và những cái gạt nước giống như Thiên Chúa quét sạch tội lỗi của chúng ta đi”. “Con giỏi quá, Matthew”. Rồi tò mò người mẹ muốn biết đứa con trai của bà hiểu được điều mạc khải này sâu xa như thế nào. Bà mẹ hỏi: “Con có để ý thấy mưa cứ tiếp tục rơi như thế nào không?” Mưa rơi nói với con điều gì không?” Matthew không do dự, trả lời: “Chúng ta đã phạm tội, và Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục tha thứ cho chúng ta”.
Sự tha thứ phản ảnh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới cảm thông, và yêu thương. Nhân ngày tưởng niệm các nạn nhân vô tội trong những vụ khủng bố vào ngày 11/9/2001, tại Hoa Kỳ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
66.Tha thứ
Ông Yigal Cohen, một người Israel bị đau tim nặng nhận được trái tim của một người Palestine trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000. Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Israel khác. Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Israel và người Palestine, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm lòng khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em”.
Tin Mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phái, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha cho chúng ta. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Phải tha thứ cho anh em vì chính Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và Người còn liên tục tha thứ mãi, như kinh Lạy Cha Đức Giêsu đã dạy: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Phải tha thứ cho anh em vì đó là một nghĩa cử yêu thương tuyệt đỉnh mà Chúa luôn đòi hỏi và coi trọng hơn cả việc thờ phượng Người: “Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta. Vâng, chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Đúng như lời Alexande Pope có nói: “Lỗi lầm là của con người, và tha thứ là của Thiên Chúa”.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang vượt lên bản tính tự nhiên, đang trở nên giống Thiên Chúa, đang nâng mình lên tới tột đỉnh của nhân đức.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang thi ân cho kẻ thù. Nhờ sự tha thứ của chúng ta mà họ được an tâm, không sợ báo thù. Cuộc đời họ lại nhẹ nhàng, thư thái, bình an.
Khi chúng ta quyết định tha thứ thì lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui: vui vì mình đã làm được một nghĩa cử cao đẹp cho anh em, vui vì biết chắc rằng mình sẽ được Chúa thứ tha.
Từ chối tha thứ cho anh em là nói rằng chúng ta không cần thứ tha. Chỉ có kẻ công chính mới không cần được tha thứ. Nếu ai cho mình không cần được thứ tha, thì họ là kẻ kiêu ngạo đáng thương. Họ tự khóa chặt cánh cửa tâm hồn để lòng mình rêu phong ẩm mốc. Chính sự tha thứ đem lại cho tâm hồn mùa xuân mới, để kẻ tha thứ và người được thứ tha lại nở rộ mùa hoa nhân ái, cho lá vẫn xanh, cho hoa vẫn nở, trong mưa hiền hòa, trong nắng thênh thang.
67.Hãy tha thứ để được thứ tha
GỢI Ý
1. “Nợ” và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ. Cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: đó là cách cư xử công bình. Nhớ rằng trên thực tế có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít Trường hợp thứ hai này là: Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường lợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Đối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau.
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác.
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin tha cho chúng con - như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy. Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Đức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất"mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết và chấm dứt hân thù”
Đó là câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời cuả nhân loại.Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: Những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau dều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm... Còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên án độc kia. Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi” Rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa? Bởi thế Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
4. Xin lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong Mùa Chay. Đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là việc không phải của một người mà là của hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lừa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng Vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao Thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi Thầy?" Vị Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình.
- Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai. Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi, nhưng cũng không xin lỗi.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Giáo Hội trong quá khứ. Trước khi Đức Giáo Hoàng làm việc này, nhiều người trong Giáo Hội đã cản ngăn Ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Giáo Hội. Tuy nhiên sau khi Đức Giáo Hoàng làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười? Trái lại còn khen ngợi Ngài; uy tín của Giáo Hội chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn..
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Đức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội.
Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài?
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời? Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
68.Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân
Trong sách, "Bản Tính của Thế Giới Vật Chất," Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của sự bước vào một căn phòng như sau: "Tôi đang đứng nơi ngưỡng cửa sắp bước vào phòng. Nó là một sự việc phức tạp. Trước tiên, tôi phải chống lại sức đẩy của không khí với sức mạnh của mười bốn trọng lượng trên mỗi thước vuông của thân hình tôi. Mỗi lần đặt chân trên sàn, tôi phải biết là tôi đáp xuống trên một tấm ván đang di chuyển với tốc độ hai mươi dặm một giây chung quanh mặt trời..." Phân tích một sự việc thường như đi bộ trong phòng, các nhà khoa học cũng thấy thật hấp dẫn. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ đơn giản mà đi vào. Và chúng ta nghe là không khí rất cần cho chúng ta thở và không có nó chúng ta sẽ chết. Nhưng trước khi chúng ta biết điều đó, thì chúng ta đã thở.
Hãy đọc đoạn đầu của Kinh Thánh, "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất..." (St 1:1). Thánh Kinh không bắt đầu với một lý do căn bản sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được thừa nhận.
Trong thư gửi cho Roma, Thánh Phaolô viết, "Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình" (Rm 14:7). Hết thảy đức tin bắt đầu với ý nghĩa của sự lệ thuộc vào Một Đấng, phẩm chức cao cả hơn chính chúng ta. Thường gọi là bản năng, trực giác, khôn ngoan bẩm sinh, gọi là gì tùy theo bạn, nhưng nó là một phần của chúng ta. Tại vì chúng ta là chính chúng ta, ý nghĩa lệ thuộc vào một đấng siêu việt khác đã ăn sâu tận gốc rễ của con người chúng ta. Con người đã dùng nhiều cách thế thật khéo léo để tạo nên chiến tranh chống lại tôn giáo, để xóa bỏ ý tưởng về Thiên Chúa trong tâm trí của loài người, nhưng tất cả đều bị thất bại, vì Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người. Bạn không thể tẩy xóa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống bạn vì không có Thiên Chúa, thì không có sự sống.
Martin Scott, đã để lại câu chuyện mà ông ta đã kinh nghiệm trong lúc đi săn bắn ở miền Arkansas như sau:
Tôi rất là khoẻ mạnh, rất sành ghề cỡi ngựa, đuổi bắt bò, khi tôi đã dẫn bò đến đồng cỏ rộng để cho các súc vật chạy nhảy. Con bò đã đi trước, và tôi cỡi ngựa đi theo sau, ngẩng cổ lên để nhận biết đồng cỏ rộng bao nhiêu. Vào ngay lúc đó, con bò đã quay lại húc tôi; con ngựa tự nhiên phản ứng quay bánh xe. Sự thay đổi bất thường này đã ném tôi xuống khỏi yên ngựa, cả người tôi đã bị ném xuống, nhưng chân tôi vẫn treo một bên cổ ngựa. Chân thì đang treo mắc lại còn cổ thì dọc thẳng xuống đất. Con bò lại húc vào xương sườn của con ngựa ngay chổ tôi đang bị treo, và con ngựa đã lúng túng vì sức nặng của tôi, trong tư thế đó con bò đã tấn công con ngựa.
Cuối cùng, tôi đã bị kiệt sức; tôi cảm thấy tôi có thể bám thêm một hai giây nữa: nhưng đầu con bò đã đến quá gần tôi, đến nỗi tôi có thể cảm được những hơi gió từ mũi con bò thổi vào mặt tôi. Tôi đã tuyệt vọng; tất cả lời cầu xin tôi có thể làm được ngay lúc đó là tôi đọc lại Thánh Vịnh từ thuở xưa tôi hay đọc: "Bây giờ con xin phó thác để được nghỉ yên;" và tôi đã đọc đi đọc lại hai ba lần. May mắn thay, con ngựa đã quay đầu, tấn công con bò. Húc vào con bò một cái, làm cho tôi tí nữa té xuống đất, tung tôi lên lại trên yên ngựa, thế là tôi đã lấy lại được thế chỗ ngồi trên lưng ngựa.
Trong mỗi một người, đều có một bí nhiệm mà họ không thể nào hiểu. Nó có thể chất chứa lâu năm hầu như đã bị quên lãng; hoặc có thể đã bị đè nén cho đến chết. Nhưng vào một đêm nào đó, khi họ một mình trong sa mạc dưới bầu trời đầy sao, họ sẽ đứng lên cúi đầu, với một đôi mắt ướt đẫm, hoặc có lúc khi họ bám víu vào những chiếc thuyền đang bị gió bão xô đẩy trong nỗi thất vọng; hoặc họ nắm chặt bánh xe trong lúc xe đang bị xoay chiều, và thình lình, từ sự bị quên lãng của chính họ, bí nhiệm này sẽ được bộc lộ ra qua lời cầu xin. Không ai sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình.
Đức tin Kitô hữu trưởng thành có nghĩa hơn là chấp nhận tính chất của Đấng cao cả. Nói rằng, "Tôi tin Thiên Chúa" trong một cách người Kitô hữu trưởng thành là "Tôi tin cậy vào Thiên Chúa và tôi sẽ sống theo huấn giới của Ngài. Thánh ý của Thiên Chúa đã được thực hiện và tỏ ra cho tôi qua Chúa Giêsu." Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải ý định của Thiên Chúa cho đời sống của bạn và tôi trong sự kiện tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa rằng, "Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" "Không," Chúa Giêsu đáp, "Không phải bảy lần, nhưng 70 lần bảy" (Mt 18:21-22). Đây là cách nói của Chúa Giêsu là tha thứ không giới hạn trong sự thương yêu. Nước Trời, Chúa Giêsu giải thích cho Thánh Phêrô, được xây dựng trên nền móng của sự thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta tin cậy ở Ngài. Chúa nói với ta rằng, để trở nên con người trọn vẹn như Chúa muốn, để được hạnh phúc đích thật, chúng ta phải học biết tha thứ cho anh chị em vô điều kiện, không phải chị bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy.
69.Tha thứ thật thà--Huệ Minh
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là: Hai chữ tha thứ...
***
Kính thưa Cộng Đoàn
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là:
Hai chữ gì?
- Hai chữ tha thứ. Bởi vì, một người nào đó mà xúc phạm đến mình: vợ xúc phạm chồng, chồng xúc phạm vợ, khó tha thứ! Nó chỉ là lý thuyết thôi.
Bạn bè hay hàng xóm xúc phạm đến mình, mình còn tha thứ được, nhưng mà còn với người ruột thịt hay người thân mà xúc phạm thì khó lắm! “Thương nhau lắm, cắn nhau đau” mà! Bởi vì, tha thứ không phải đơn giản.
Người ta vẫn thường đi theo cái lối sống công bằng. Công bằng thôi! Ai mà vi phạm tới mình, thì mình trả thù.
Còn nếu mà trong cuộc sống mà cái sự ganh đua nó càng mạnh, thì cái sự tha thứ nó càng khó! Bởi vì không ai chấp nhận sự tha thứ, nhưng mà sự tha thứ đó sẽ làm cho con người được sự bình an.
Nếu như không tha thứ, thì người đó, đánh mất căn tính người Kitô hữu của mình. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, ngài nhắc nhở chúng ta: Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Như Đức Kitô đã tha thứ cho anh em, thì anh em hãy tha thứ cho nhau.
Nếu ai nào đó không tha thứ, thì không còn là mang trong mình căn tính của người Kitô hữu nữa.
Chúng ta thấy bài học của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những nói nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho sự tha thứ.
Trên đỉnh đồi Canvê, không còn nỗi nhục nào bằng cái nỗi nhục nào! Không còn đòn roi nào kể xiết. Sự đau đớn mà người ta đánh cho một thân mình tội lỗi. Một thân mình đau đớn.
Đau quá! Đau Thể xác thì ít, mà đau phần hồn thì nhiều. Bởi vì, chính những con người mà mình làm phép lạ, chính những con người mình trao ơn cho họ, hóa bánh ra nhiều nuôi họ, lại là những người: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá đi!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu ở trong Tin Mừng thánh Máccô đã dạy cho chúng ta về sự tha thứ, về sự hòa giải:
- Nếu anh em chuẩn bị đi đến mà dâng lễ vật, mà có sự bất bình với ai đó, thì hãy tha thứ đi.
Ở chương 5 thì thánh Maccô cũng dạy: - Anh em nếu có sự bất bình thì đi làm hòa đi!
Cái bầu khí mà hòa bình, tha thứ đó! Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà Ngài thực hiện.
Còn nhớ đến Tin Mừng theo Thánh Mátthêu: - Tha cho anh em, thầy bảo anh em tha cho anh em.
Và ở chương 18 này, Chúa Giêsu nói: - Anh em hãy tha thứ.
Khi mà thánh Phêrô đã đưa ra vấn nạn tha thứ: “Cha thầy ở trên trời sẽ đối xử với anh em như là, anh em đối xử với người khác”.
Và nếu xét cho bằng cùng, tha thứ chính là tiêu chuẩn cần thiết, để được vào thiên đàng.
Bởi vì, nếu không tha thứ mà còn giận hờn có nghĩa là không yêu thương nhau. Mà không yêu thương nhau, thì làm sao sở hữu được nước thiên đàng.
Và điều này, thánh Phêrô, chúng ta cho thấy, một người xem ra rất là phóng khoáng. Con số 7 là con số tròn đầy của người Do Thái. Và thánh Phêrô rất là mạnh miệng: Con tha thứ 7 lần rồi!
7 lần là kinh khủng lắm! Nhưng mà, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chỉ 7 lần, mà là 70 lần 7.
Trên thánh giá người ta chế giễu mình, nhục mạ mình. Nhưng rồi: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Tha thứ có khi không phải chỉ là cái hành động nhất thời, nhưng mà phải là tha thứ mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm và cái tiến trình tha thứ đó, nó phải được kéo dài trong cuộc đời của ta.
Mà nhiều lần, nhiều lúc trong cuộc đời, có khi, có người này, có người kia từ chối và khước từ sự tha thứ. Bởi vì, họ nghĩ rằng người khác sai và đáng trừng phạt như thế là do lỗi của họ.
Và có những người đặt mình ở chiếu trên, có quyền tha thứ, nhưng người kia không đáng được tha thứ, để rồi họ không tha thứ cho nhau.
Có những người có khả năng xin được tha thứ, nhưng người khác lại không tha, từ chối trách nhiệm không tha. Và khi đó người đó mặt lấy tâm tình của một con người kiêu ngạo.
- Làm trai phải đáng nên trai. Thực sự ra, có những con người đàn ông làm biếng và yếu nhược, nhưng rồi tự cao tự đại và không bao giờ cho mình sai. Và sau một thời gian sống, họ nhận ra sự thật. Và khi đó, họ cảm thấy con người họ thiếu sót và họ lại dễ tha thứ cho người khác. Còn nếu, họ nghĩ, họ là người chủ trong gia đình và họ sống theo kiểu “Chồng chúa, vợ tôi”, thì cái sự tha thứ đó rất khó.
Tha thứ cho vợ chồng, con cái, cha mẹ không phải dễ đâu!
Khi chúng ta muốn tha thứ, thì chúng ta phải xin cái ơn khiêm nhường. Để rồi, chúng ta thấy, chúng ta cũng là những con người tội lỗi, cũng là những con người yếu đuối, để xin cho chúng ta được khiêm nhường.
Và rồi, chúng ta, cái chuyện quan trọng nhất đó là:
Chúng ta phải đi làm hòa với nhau. Mà, Chúa mời gọi đó: “ Hãy đi làm hòa và hòa giải vô điều kiện.”
Gia đình nào cũng có nỗi khổ riêng.Gia đình nào cũng có những cái riêng của mình. Để rồi, không phải dễ, để mà tha thứ cho nhau.
Nhưng rồi, chúng ta thấy: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an.
Và rất khó tha thứ, bởi vì chúng ta cứ phải bắt lỗi người này, người khác. Đừng bao giờ kể lỗi của người khác, thì chúng ta sẽ được tha thứ, và chúng ta tha thứ dễ dàng.
Chúng ta còn nhớ đến hình ảnh của Gia Kêu, Gia Kêu trèo lên cây sung và lòng chạm lòng mắt chạm mắt. Gia kêu đã thấy Chúa Giêsu và Chúa Giêsu không hề hạch tội. Tha thứ là tha thứ cho đến tận cùng. Và chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã tha thứ cho Gia Kêu đến tận cùng, khi không kết án ông. Dẫu rằng, người ta vẫn dán nhãn cho ông là một người thu thuế đầy tội lỗi.
Trong Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy, lời Kinh Hòa Bình rất là hay:
Lạy CHÚA, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp... vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.
Đó là hai vế của một phần mệnh đề: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại chúng ta, thì chúng ta cũng được tha thứ từ Chúa Giêsu. Bởi vì: Con người là lầm lỗi, lầm lỗi là con người.
Tha thứ là thần thánh, thần thánh là tha thứ.
Khi chúng ta mặc lấy con người yếu đuối, chìm trong cái con người, thì chúng ta không bao giờ nhận ra được lỗi của mình và khó tha thứ cho người khác. Còn khi chúng ta nhận ra yếu đuối của mình, để chúng ta tha thứ cho người khác, thì cái tiến trình làm thánh nó gần hơn con người của chúng ta. Con người mang trong mình căn tính là thánh thì dễ tha thứ cho người khác lắm. Còn nếu mình là con người thì mình sẽ không bao giờ chịu tha thứ cho người khác.
Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi kiêu ngạo. Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi thành toàn, tôi đạo đức hơn người khác.
Và nói tới đây, con nhớ đến một câu nói rất hay:
- Người đầu tiên biết xin lỗi là người dũng cảm nhất.
- Người đầu tiên biết tha thứ là người mạnh mẽ nhất.
- Người biết quên đi quá khứ đau buồn, đó là người hạnh phúc nhất.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta đặt mình trước mặt Chúa như Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, người biết quên đi quá khứ đau buồn, là người hạnh phúc nhất!
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta là người hạnh phúc nhất! Bởi vì, chúng ta sẵn sàng, chúng ta quên đi những cái quá khứ đau buồn trong cuộc đời của chúng ta. Amen.
16/09 Nhà xây trên đá = khôn ngoan
- Viết bởi Lc 6, 43-49
Nhà xây trên đá = khôn ngoan.
Thứ Bảy tuần 23 thường niên. – Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ
“Tại sao các con gọi Thầy 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.
Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nghe mà không thực hành
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.
Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.
Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật:
“Xem quả thì biết cây” (c. 44).
Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.
Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.
Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.
Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.
Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,
qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.
Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.
Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.
Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.
Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.
Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy
bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”
Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).
Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:
Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,
lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).
Nghe thôi thì chưa đủ.
Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,
chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.
Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.
Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,
nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó?
Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.
Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.
Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.
Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.
Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.
Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.
Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,
nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.
Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,
vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.
Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu
Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,
Nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa,
Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình,
Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
Được xây trên nền tảng vững chắc,
Đó là lời Chúa
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Suy niệm 2: Nghe và thực hành Lời Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thời gian là lời phán xét chính xác. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu cây nào tốt khi chúng ra quả. Cứ xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả.Người thật hay người giả. Đừng tin ngay vào lời nói, cứ chờ xem họ làm thế nào. Thời gian sẽ chứng nghiệm công trình xây dựng. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa Giêsu cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Người môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt. Người môn đệ tốt là người không chỉ nói ngoài miệng nhưng tin thật trong lòng. Người môn đệ trung tín là người thực hành niềm tin đã lãnh nhận được. Khó khăn thử thách là tự nhiên trong đời sống. Cũng như bão lụt là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhà xây vững chắc sẽ bền vững qua thời gian. Người nghe và thực hành Lời Chúa đứng vững trong mọi gian nan thử thách. Người ấy đã chọn Chúa thì trung tín suốt đời.
Nhưng chọn lựa không chỉ một lần mà trải dài suốt cuộc đời. Có bao nhiêu năm tháng là có bấy nhiêu chọn lựa. Để trung tín với Chúa và với chính mình, với niềm tin, với lời tuyên xưng, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng. Chúa mời ta dự tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng thế gian cũng có những bàn tiệc hấp dẫn. Ma quỉ cũng biết bày ra những bàn tiệc lạc thú thịnh soạn, cũng biết nâng những chén rượu danh vọng hấp dẫn mời mọc. Lại còn thêm thói đời, người đời thân thiết lôi kéo. Nhất là khi chung quanh ta ai cũng làm giống nhau. Ta sống khác được sao? Ta phải cảnh giác để giữ lòng trung tín như thánh Phao-lô khuyên dạy: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỉ được” (năm chẵn).
Một cách giữ lòng trung tín với Chúa là nhớ lại thuở ban đầu. Thánh Phao-lô luôn nhắc nhở về thời chìm đắm trong tội lỗi để thấy ơn Chúa thương xót hoán cải ngài, tuyển chọn ngài và ban cho ngài được làm môn đệ Chúa. Vì thế ngài luôn nhớ ơn Chúa, luôn tận tâm phục vụ Chúa, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Chúa. Hãy chọn lựa Chúa. Vì chỉ có Người thương yêu ta. Hãy tạ ơn Chúa. Vì chính Người hạ cố đến cứu độ ta. Hãy thờ lạy Chúa. Vì chỉ có Người là vua thật thống trị vũ trụ. Hãy noi gương thánh Phao-lô mà xưng tụng: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (năm lẻ).
Suy niệm 3: Căn Nhà Ðức Tin
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Ðức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có bền vững và đẹp đẽ hay không là tùy ở con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm nếm được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngay từ đời này. Và nhận được gấp trăm ngay từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của Tin Mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
Suy niệm 4: Thách Ðố Của Người Tín Hữu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một nhóm truyền đạo của một giáo phái đến ngay trước cửa một nhà thờ để chiêu dụ các tín đồ, họ giảng thao thao bất tuyệt về giáo lý của họ. Vị mục sư cai quản nhà thờ rất kiên nhẫn, ông đứng nghe giảng một hồi lâu rồi đưa tay ra hiệu và nói với các nhà truyền đạo:
- Thưa quí ông, tôi xin được đưa ra một đề nghị: tôi hiện đang có một ly thuốc độc, nếu các ông uống ly thuốc độc này mà vẫn còn sống thì không những tôi mà tất cả mọi người giáo dân đang có mặt ở đây cũng sẽ bỏ đạo của chúng tôi để gia nhập vào giáo phái của các ông; nhưng nếu các ông không uống ly thuốc độc này thì tôi chỉ có thể kết luận là các ông chỉ là những nhà truyền đạo giả hiệu của Tin mừng bởi vì các ông không tin tưởng ở Chúa là Ðấng, như các ông vừa mới loan báo, sẽ không bao giờ để các ông phải chết.
Nghe thế, các nhà truyền đạo không biết phải làm như thế nào. Họ liền kéo nhau đến một góc và bàn bạc với nhau: Chúng ta phải làm sao đây?
Cuối cùng, sau một lúc họ đã quyết định, họ trở lại trước mặt vị mục sư và nói: chúng tôi vừa nghĩ ra một kế hoạch, xin mời ông cứ uống thuốc độc, chúng tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông sống lại.
Giữa những điều chúng ta tuyên xưng và những gì chúng ta sống; giữa những gì chúng ta rao giảng và những gì chúng ta làm chứng luôn có khoảng cách. Ðạt được thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa tin và sống, giữa nhà thờ và cuộc sống không phải là chuyện dễ. Mỗi ngày chúng ta vấp phạm đến bao nhiêu lần, mỗi ngày chúng ta chối bỏ đức tin của chúng ta biết bao nhiêu lần.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều ấy, mượn hình ảnh của cây và trái, của ngôi nhà và nền móng Ngài kêu gọi chúng ta sống điều chúng ta tin, thực hành điều chúng ta rao giảng. Thánh Giacôbê tông đồ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo lời dạy của Chúa Giêsu khi ngài nói: "Ðức tin không có thực hành là đức tin chết". Tin mà không sống điều mình tin thì cũng chẳng khác nào không có đức tin.
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân". Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
Chúng ta đang sống trong thời đại của bùng nổ thông tin. Con người thời đại đang choáng ngộp vì lượng thông tin, họ mệt mỏi vì những lời nói suông. Thời đại của thông tin cũng là thời của khủng hoảng về lời nói, đây chính là thách đố của người tín hữu Kitô. Nếu cuộc sống của họ không là một thể hiện của niềm tin của họ, nếu cuộc sống đời thường của họ hoàn toàn cách biệt và xa lạ với những gì tuyên xưng trong nhà thờ thì cộng đồng của họ dù có được tập trung trong một nhà thờ dù nguy nga đồ sộ đến đâu cũng vẫn là một đám ma buồn tẻ hơn là một cộng đồng có sức sống.
Sống đạo và truyền đạo là một ơn và là một nghĩa vụ của người tín hữu Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa đã trao phó cho chúng ta một nhiệm vụ cao cả như thế.
Nguyện xin Ngài ban ơn giúp sức cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta trở thành lời tuyên xưng và rao giảng sống động cho mọi người.
Suy niệm 5: Nói hay làm dở
Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Thầy, Lạy Chúa! mà anh không làm điều Thầy dạy?
“Ai đến với Thầy, và nghe những điều Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây cững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành.” (Lc. 6, 46-49)
Những bài thuyết trình càng hay, càng đáng thở dài, hứa nhiều làm ít: Lạy Chúa, lạy Chúa, kêu dễ dàng và bao nhiêu cũng được, nhưng vào việc lại chậm trễ ươn hèn chẳng làm điều cam kết chi cả. Đức Kitô phải khó chịu khi nói ra điều này và không nhịn được nên kêu gọi người ta phải chú ý đến nó.
Nói hay làm dở, ai trong chúng ta cũng không nhiều thì ít, rất đơn giản, có đầy trong thực tế hằng ngày. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó khi so sánh nói mà không làm giống như xây nhà trên cát không có nền chắc chắn. Mưa sa lũ lụt và bão làm nhà sụp đổ. Nói và làm, thì như người xây nhà trên đá, nước dâng lên, sóng vỗ, nhà vẫn không lay chuyển. Cũng như trồng cây trên đất tốt, sẽ gặt được mùa bội thu hoa trái tốt đẹp.
Chỉ đến nghe Đức Kitô giảng thì không đủ. Phải sống lời Chúa. Cầu nguyện nhiều không đủ, phải cải tạo cách nghĩ và cách làm. Chỉ chấp nhận những đòi hỏi vác thập giá Đức Kitô xuông chưa đủ. Phải biết kết hiệp với Người khi gặp gian nan, thử thách, gặp đau khổ, nghịch cảnh. Phải biết đón nhận những đau khổ trong mầu nhiệm sự chết để hy vọng tràn trề được sống lại vui mừng.
Chỉ nhận biết cần thiết phải hy sinh vì lý do đức tin đòi chấp nhận sự vô lý, thì không đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh liên lỉ, dầu phải chiến đấu cam go để giải thoát những tấn công của những khuynh hứng xấu xa tàn bạo.
Chỉ kêu gào công lý và bác ái không đủ, phải chính mình đương đầu với những bất công, bất nhân, dù biết rằng mình không luôn luôn chiến thắng. Như thế, chúng ta có thể nuôi hy vọng trở nên người không nói hay, nhưng làm hay.
Suy niệm 6: Người khôn xây nhà trên đá
Người xưa thường coi việc: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” là ba việc hệ trọng trong đời người. Thật vậy, nếu không kinh nghiệm về việc xem trâu, người nông dân dễ bị mua phải con trâu lười hay không biết làm việc. Cũng vậy, nếu không tìm hiểu cho kỹ, không chừng khi lấy vợ, chúng ta lấy phải cô vợ “cảnh” thì thật là tai họa cả đời. Tương tự như hai việc trên, công việc làm nhà cũng rất quan trọng. Nếu không biết tính toán, suy xét và nhất là nơi chốn, chúng ta dễ bị hậu quả nặng nề là căn nhà siêu vẹo do sức nặng và độ lún chênh lệch nên dễ làm cho căn nhà bị đổ nát, hoặc không đón được hướng gió tốt, sẽ dễ dàng gây nên sự ngột ngạt ...
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến việc xây dựng cuộc đời của mỗi người ngang qua hình ảnh xây dựng căn nhà.
Không ai dám cả gan để xây nhà trên nền cát! Cũng vậy, không có người nào dại dột đến độ phó dâng cuộc đời của mình cho kẻ chẳng hơn mình là bao? Hay đi tin một người mà do chính mình tưởng tượng rồi bịa ra để tôn thờ!
Khi Đức Giêsu nói đến độ bền chắc của đá, hay xây nhà trên nền móng bằng đá, Ngài muốn nói đến sự bền vững nơi những ai biết đặt đời mình trong bàn tay của Chúa, biết xây dựng cuộc sống trên nền tảng Tin Mừng.
Thật vậy, những người đón nhận, lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được ví như người khôn ngoan xây nhà trên nền đá vững chắc. Ngược lại, những người nghe rồi bỏ bê không thực hành thì được ví như người ngu xây nhà trên cát và hệ quả là bị nước cuốn trôi và tòa nhà sẽ sụp đổ tan tành.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn biết khát khao lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Sẵn sàng để Lời Chúa chi phối và là kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Được như thế, chúng ta mới thực sự trở thành người khôn ngoan vì đã xây căn nhà cuộc đời của mình trên nền tảng vững chắc là chính Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những viên đá sống động nhờ biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn ý thức mình cũng cần phải chung tay cộng góp để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính những gương sáng của mình trong đời sống. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Nền đá vững chắc: lắng nghe và thực hành Lời Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đời sống đạo của mỗi Kitô hữu tựa như ngôi nhà thiêng liêng. Ngôi nhà đó phải được xây dựng trên nền đá vững chắc là lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, từ ngày con được lãnh nhận bí tích Rửa tội là con được đặt chân vào con đường làm môn đệ Chúa. Đó là ngày con bắt đầu hành trình tiến lên đỉnh trọn lành. Đó là ngày Chúa mời gọi con xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Từ đó, hằng ngày Chúa dạy con từ bỏ bản thân để biến mình trở nên giống Chúa hơn. Từng khoảnh khắc con biết sống theo đường lối Chúa, đó là nền đá vững chắc để xây nhà thiêng liêng cho con. Mang danh là Kitô hữu mà con không biết sống Tin Mừng hằng ngày thì ngôi nhà của con không có nền móng. Một chút thử thách, một cơn cám dỗ, một sự đau khổ, cũng đủ làm con nghiêng ngả và sụp đổ. Ngược lại, biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm thực hành trong cuộc sống, đó là những bậc thang chắc chắn giúp con ngày càng tiến lên gần Chúa hơn.
Lạy Chúa, con tin Chúa đang hẹn gặp con hằng ngày trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời con. Điểm hẹn là tiếng lương tâm, điểm hẹn là Mười Giới Răn, là Thánh Kinh và là giáo huấn của Hội Thánh. Xin cho con biết đến gặp gỡ Chúa để biến đổi cuộc đời con: gặp Chúa đích thực qua việc biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Xin cho con đừng nhẫn tâm bỏ qua tiếng lương tâm, đừng để con giả điếc làm ngơ khi nghe Lời Chúa, đừng để con bịt tai coi thường giáo huấn của Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con được thiết tha hơn trong hành trình theo Chúa, và tích cực hơn trong việc xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các con gọi Thầy “Lạy Chúa, lạy Chúa”, mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
Suy niệm 8: Chúa là đá tảng, là chiến luỹ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày 15 và 16/10/2010, đợt mưa lớn gây lũ lịch sử chưa từng thấy trong 50 năm qua đã nhấn chìm nhiều tỉnh ở Bắc Trung Bộ Việt Nam: Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An trong biển nước… Cơn lũ đã làm hàng trăm người chết, bị thương và mất tích vì bị cuốn trôi, cô lập nhiều vùng dân cư, nhiều nhà cửa bị trôi, sập, đường sá hư hỏng nặng nề, phá hủy tài sản, mùa màng và gia súc gia cầm của hàng chục ngàn người…
Phong ba bão tố, lũ lụt xảy ra bất cứ ở nơi đâu trên trái đất và bất cứ lúc nào, luôn để lại những hậu quả tai hại nếu chúng ta không chuẩn bị thật kỹ để trụ vững vàng… Ngay cả các nước tiên tiến như Australia và Brasil lũ lụt cũng gây thiệt hại nặng nề với trên 500 người chết và 13.500 người lâm vào cảnh vô gia cư vào thời điểm tháng 1/2011…
Suy niệm
Chúa Giêsu nói đến hình ảnh của đời sống sẽ luôn vững vàng nếu được chuẩn bị như nhà xây trên đá là người nghe và thực hành Lời của Đức Kitô. Ai nghe và thực hành Lời là người khôn xây nhà trên đá; luôn vững vàng trước mọi hoàn cảnh dù gặp nghịch cảnh hay bị thử thách qua hình ảnh Chúa Giêsu nhấn mạnh: Mưa sa có đổ xuống, nước ngập, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà, nhà vẫn không sập… Còn ai nghe mà không thực hành Lời Chúa thì giống như xây nhà trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn.
Với hình ảnh xây nhà trên đá luôn vững và trên cát sẽ sụp đổ, Kinh Thánh nhấn mạnh sự tương phản giữa hành động của hai người một cách trái ngược nhau: Nếu ai khôn thì đời người đó thật vững vàng như bàn thạch, còn ai dại thì chịu cảnh sụp đổ, tiêu tan trước phong ba bão tố.
Chúa Giêsu nhấn mạnh qua động từ chủ động “làm” hay “thi hành” Lời của Ngài, là lời mời gọi thể hiện sự sống động của đức tin được nuôi dưỡng bằng Lời trong đời sống hằng ngày ở mọi khía cạnh cuộc sống: gia đình, lao động, dấn thân xã hội, Giáo hội đều gắn chặt trên đá tảng với đức tin sâu sắc.
Trong cuộc sống hàng ngày, Chúa không hề hứa với chúng ta là sẽ tránh né được nghịch cảnh, phong ba bão tố trong cuộc đời, nhưng Ngài khẳng định rằng cuộc sống của người nghe, dựa và thực hiện vào Lời Ngài sẽ như ngôi nhà xây trên đá: Không bị mưa sa, bão táp làm tan hoang, trái lại sẽ vững vàng.
Ý lực sống:
“Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn
Vì Chúa là đá tảng, là chiến luỹ của con” (Tv 31,3b).
Suy niệm 9: Người môn đệ đích thực
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tất cả lời giảng dạy và dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tiêu chuẩn của một người môn đệ đích thực: không phải cần một niềm tin trên lý thuyết, trên môi miệng... nhưng điều cần thiết nhất là phải thi hành ý Thiên Chúa, sống theo lời Đức Giêsu dạy. Chúng ta không thể nói rằng mình tin yêu Chúa, mà cuộc sống của chúng ta lại không theo giáo huấn của Người. Mỗi tín hữu cần xác tín rằng chỉ có Đức Giêsu và ánh sáng Lời Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Ngoài Đức Giêsu, không ai có thể cho chúng ta sự sống đích thực.
2. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn cây và trái: “Không có cây nào tốt mà sinh quả sâu...”. Chúa muốn dạy rằng: muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”(Lc 6,45).
Tất cả những điều Đức Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng làm môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà dược xây trên đá vững chắc.
3. Điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin Mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành Lời Chúa thì có một nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.
Tình yêu mà chỉ dừng lại nơi đầu môi chót lưỡi thì là thứ tình yêu giả dối. Đức Giêsu đã nói: ”Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Như thế, việc tuân giữ Lời Chúa là thể hiện lòng yêu mến đích thực. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại không giữ Lời Ngài, vì như thế là nói dối. Thật vậy, giữa tin có Chúa và yêu mến Chúa phải là một khi tuân hành ý Chúa.
4. Người ta vẫn thường nói “con đường dài nhất là từ tai đến tay” nghĩa là dễ nghe, dễ hiểu nhưng để đem ra thực hành thì khó biết là ngần nào. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khiển trách các môn đệ chỉ nghe Lời Chúa và thưa: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” nhưng không thi hành Lời Ngài dạy. Biết bao điều Chúa đã dạy, đã nêu gương và nhắc nhở mỗi ngày thế mà uổng phí công lao: ”Ta trông mong nó thực hành điều chính trực nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5,7). Hãy để Lời Chúa sinh nhiều hoa trái tốt lành thánh thiện nhờ khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong mọi người (5 phút Lời Chúa).
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đang sống theo chủ trương tách biệt niềm tin và cuộc sống? Phải chăng chúng ta không đo lường niềm tin theo một vài biểu dương bên ngoài? Bao lâu cái cốt lõi của đạo là niềm tin, tình yêu thương, chưa ăn sâu vào từng sinh hoạt cuộc sống chúng ta, thì quả thực chúng ta chỉ là những kẻ nói: “Lạy Chúa! Lạy Chúa”, mà không hề thực thi Lời Chúa. Sống như thế chỉ là làm ô danh sự đạo và phạm đến giới răn cấm kêu tên Chúa vô cớ (R.Veritas).
Trong một xã hội mà qui luật sống là dối trá, thì Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống trung thực hơn bao giờ hết. Chúng ta phải sống thế nào để mọi người cảm nhận rằng Chúa Giêsu đang thực sự hiện diện và tác động trong cuộc sống chúng ta, và lời của Ngài có sức cải tạo con người và xã hội.
6. Truyện: Triệt để thi hành luật pháp.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
Suy niệm 10: Dụ ngôn về cách đối xử
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách đối xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Ngài. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
B.... nẩy mầm.
1. Về dụ ngôn cây và trái: muốn có trái thì phải chăm sóc cây, đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Thế nhưng tôi thường chỉ lo đến những thể hiện bề ngoài chứ không lo bồi dưỡng chính tâm hồn mình.
2. Về kho tàng trong lòng: tôi cũng thường “kiểm kê tài sản” xem mình đang có bao nhiêu tiền, bao nhiêu món đồ v.v. Hôm nay tôi hãy kiểm kê kho tàng trong lòng xem hiện giờ có được những gì.
3. Về dụ ngôn xây nhà: tôi đang xây ngôi nhà cuộc đời mình trên nền cát hay nền đá? Nền cát là những thứ mà người đời thường theo đuổi (danh, lợi thú), nền đá là Lời Chúa và Ý Chúa.
4. Một người nhà giàu nọ cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một ngôi nhà sang trọng với những vật liệu đắt giá nhất và do những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng để mua những vật liệu rẻ nhất, ông mướn những người thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành.
Khi ông chủ về, người quản lý giao ngôi nhà cho chủ. Ông chủ tỏ vẻ hài lòng và cho biết ông bảo làm ngôi nhà ấy để tặng cho người quản lý. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa những chỗ hư của ngôi nhà, người quản lý vô cùng hối tiếc: giả như trước đây tôi biết đây là ngôi nhà ông chủ tặng cho tôi thì tôi đã không xây cất một cách xoàng xĩnh như thế ("Mỗi ngày một tin vui").
Suy niệm 11: Cách ứng xử trong cuộc sống
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
A. Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách ứng xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Qua Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43,44): Chúa muốn nói đến những hành động của ta. Bên ngoài phải phù hợp với bên trong. Đối với những người biệt phái và luật sỹ thì một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với luật.
Còn đối với Chúa Giêsu thì một hành động được coi là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt. Một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu coi cõi lòng con người như một kho tàng, nơi xuất phát ra những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Kho tàng tốt thì sẽ phát sinh ra những lời nói và việc làm tốt. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu. Hay nói một cách chính xác hơn là chính Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà được xây trên đá vững chắc.
B. Như vậy, qua dụ ngôn Cây và Trái: Chúa muốn dạy rằng: Muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một quy luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,45)
Đây là câu chuyện có thật ở Nhật Bản. Chuyện kể rằng, khi sửa nhà, một anh thanh niên đã nhìn thấy một con thằn lằn bị kẹt bên trong khe hở nhỏ giữa hai bức tường bằng gỗ. Một sự tình cờ nào đó đã khiến chân chú thằn lằn tội nghiệp bị cây đinh ghim vào tường. Nhưng lạ lùng hơn nữa là căn nhà đã được xây dựng hơn mười năm, điều đó đồng nghĩa với việc chú đã sống trong tình trạng này suốt thời gian qua.
Quá ngạc nhiên với những gì đang diễn ra trước mắt, chàng trai bèn ngưng làm việc, tò mò theo dõi xem chú thằn lằn đã sống ra sao trong tình trạng bị “cầm tù” như vậy. Không lâu sau đó, anh nhìn thấy một con thằn lằn khác xuất hiện, miệng ngậm đồ ăn đến bên con thằn lằn bị ghim vào tường.
Một cảnh tượng thật cảm động. Con thằn lằn bị ghim đinh đã được một con thằn lằn khác nuôi ăn trong suốt 10 năm qua. Không ngờ loài vật tưởng chừng không suy nghĩ, không cảm xúc lại có thể có những việc làm như vậy. Có lẽ, chỉ có tình yêu mới tạo nên nghị lực sống và tinh thần phục vụ kỳ diệu đến thế. Lev Tolstoy nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống.”
Phải thi hành: Lý thuyết có hay cách mấy đi nữa nhưng nếu không đem đến thi hành thì cũng chẳng ích lợi gì. Chúa Giêsu ví những nghười nghe mà đem ra thực hành thì giống như người xây nhà của mình trên đá. Đá đây chính là Lời Chúa và Ý Chúa.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xảy ra cho ông, là người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thận mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
15/09 Đứng gần thập giá.
- Viết bởi Ga. 19, 25-27
Đứng gần thập giá.
Thứ Sáu tuần 23 thường niên – Đức Mẹ sầu bi. Lễ nhớ.
"Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can"
Đức Mẹ sầu bi
Những đau khổ của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn thật vô cùng lớn lao. Tiên tri Isaia đã gọi Ngài là "Con người của đau khổ". Bên cạnh những thống khổ ấy, đau khổ trong đời Mẹ Maria cũng vượt mức chịu đựng của loài người, và chúng ta không làm sao diễn tả đầy đủ được. Nếu Ðức Giêsu đã đau khổ như một Thiên Chúa, Mẹ Maria cũng đã vô cùng đau đớn khi nhìn con Mẹ xuôi tay trước những cực hình phải chịu.
Trong một mức độ nào đó, Mẹ đã đóng góp rất nhiều vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu bằng việc liên kết những khổ đau của Mẹ với những đau khổ của Chúa.
Giáo Hội suy tôn Ðức Maria là Nữ Vương các thánh tử đạo và đã cụ thể hóa những đau khổ của Mẹ qua các sự kiện sau:
- Lúc nghe lời tiên tri Simêon, khi dâng Chúa Giêsu trong đền thánh.
- Lúc ẵm bế Chúa Hài Ðồng trốn sang Ai Cập.
- Lúc lạc mất Chúa tại Giêrusalem.
- Lúc gặp Chúa vác thánh giá.
- Lúc Chúa chịu đóng đinh.
- Lúc hạ xác Chúa xuống khỏi thập giá.
- Lúc táng xác Chúa.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta dâng lên Chúa lời nguyện: "Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ðức Mẹ Ðồng Trinh cộng khổ đứng kề bên Con Chúa chịu treo trên thánh giá, xin ban cho Hội Thánh Chúa, khi đã thông phần đau khổ với Chúa Kitô thì cũng đáng được sống lại với Người".
PHÚC ÂM: Ga. 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna.
Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".
Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".
Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình.
Đó là lời Chúa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Mẹ Sầu Bi--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
2. Ðức Mẹ Sầu Bi--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần
3. Thông phần thập giá để thực hiện ơn cứu độ --TGM Giuse Nguyễn Năng
4. Đức Mẹ Sầu Bi (Ga 19,25-27) hay (Lc 2,33-35)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
5. Mẹ Maria thông phần mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
6. Liên kết chặt chẽ giữa đau khổ của Đức Maria và của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
7. Bảy sự thương khó của Đức Mẹ--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
8. Đức Mẹ Sầu Bi--tgpsaigon.net 2021.09.15
9. Ðây sẽ là niềm an ủi của con--‘Lẽ Sống'
10. Ðức Mẹ Sầu Bi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
11. Đức Mẹ đau khổ--J.M
12. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
13. Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có Thân Mẫu Người--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ
14. Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
15. Đau khổ của con là sầu bi của Mẹ--Ngọc Biển SSP
16. Ðây sẽ là niềm an ủi của con--‘Lẽ Sống’
17. Lễ Đức Mẹ sầu bi
18. Không ai thương con bằng tình mẫu tử
19. Sống vâng phục
20. Bi thương nhưng không mất đường hy vọng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT
21. Đức Mẹ Sầu Bi--NguoiTinHuu.com
22. Đức Maria, “Mẹ của lòng thương xót”-- dcvxuanloc.net
1.Mẹ Sầu Bi--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Chúng ta thường suy ngắm bảy nỗi đau của Đức Mẹ,
khi Mẹ nghe lời tiên tri của cụ Simêôn về Con, đưa Con trốn qua Ai Cập,
mất Con nơi Đền thờ, cùng Con lên đỉnh Canvê,
khi đứng bên Con chịu đóng đinh, hạ xác Con xuống khỏi thập giá,
và chôn táng Con trong mộ.
Những nỗi đau này đi dọc theo đời của người đã thưa tiếng Xin Vâng.
Những nỗi đau trong lòng người Mẹ, đau vì Con và với Con.
Ngoài bảy nỗi đau này, còn có bao nỗi đau khác không được kể tới.
Chỉ ai yêu mới biết đau.
Khi vẽ hay điêu khắc hình Đức Mẹ,
các nghệ sĩ thường trình bày một Đức Mẹ với khuôn mặt rất vui tươi.
Lễ Đức Mẹ sầu bi nhắc cho ta thấy đời Mẹ cũng có khi buồn.
Vui buồn ở đời là chuyện mấy ai tránh khỏi.
Cần ngắm nhìn khuôn mặt lo lắng của Mẹ khi mất Con hay đem con đi trốn.
Cần chứng kiến khuôn mặt đớn đau của Mẹ khi đứng bên Con trên núi Sọ.
Chính khuôn mặt buồn khổ của Mẹ lại làm chúng ta thấy gần Mẹ hơn.
Khi chia sẻ mọi đau khổ của kiếp người long đong,
Mẹ cảm thông với cái nặng nề của phận người mà ta gánh chịu.
Chúng ta vẫn thường nghĩ đau khổ là hậu quả của tội lỗi.
Điều đó đúng, nhưng không luôn luôn đúng.
Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi vết nhơ của tội nguyên tổ,
và Mẹ đã đáp lại ơn Chúa bằng việc luôn trung tín, vẹn tuyền.
Nhưng điều đó không làm Mẹ tránh được mọi đau khổ.
Thánh giá đã phủ bóng trên đời Mẹ ngay từ tiếng Xin Vâng đầu tiên.
Khi chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã bắt đầu phải trả giá.
Mẹ yêu mến Người Con mà Thiên Chúa ban cho mình,
nhưng đôi tay Mẹ không đủ sức giữ kho tàng quý giá ấy.
Mẹ hy sinh để Con Mẹ bước đi trên con đường khúc khuỷu gập ghềnh.
Nhưng trong đau khổ của hy sinh, Mẹ bình an vì biết mình sống theo ý Chúa.
Hãy đến với Núi Sọ chiều hôm ấy để thấy Mẹ đứng gần thập giá treo Con.
Mẹ đã có mặt trong tiệc cưới Cana khi Con khởi đầu sứ vụ (Ga 2, 1-12).
Bây giờ Mẹ lại có mặt khi Con hoàn tất sứ vụ ấy (Ga 19, 30).
Dù không theo Đức Giêsu trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng,
nhưng Mẹ là môn đệ của Ngài còn hơn những môn đệ khác.
Mẹ không chạy trốn, nhưng muốn nếm trọn nỗi đau của Con để sẻ chia.
Chính vào giây phút này, Đức Giêsu hấp hối làm điều không ai ngờ.
Ngài nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài dấu yêu,
đặt Mẹ làm mẹ người môn đệ ấy: Thưa Bà, đây là con của Bà (c. 26).
và muốn người môn đệ ấy làm con của Mẹ: Đây là mẹ của anh (c. 27).
Chính dưới chân thập giá, Đức Giêsu đã lập một gia đình mới.
Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu ở Cana, bây giờ thành Mẹ của người môn đệ.
Nơi người môn đệ này, các Kitô hữu thấy hình ảnh của chính mình.
Chúng ta cũng muốn đón Mẹ về nhà và nhận Mẹ làm Mẹ.
Mẹ sẽ là người lo cho chúng ta trong ngôi nhà của gia đình mới.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
2.Ðức Mẹ Sầu Bi--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần
Trong tháng 9 có lễ kính Đức Mẹ sầu bi (15/9).
Dịp này Hội Thánh nhắc cho chúng ta nhớ vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ, để chúng ta cũng hiểu vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta.
I. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ
Đức Mẹ phải đau khổ. Đau khổ vì con mình là Chúa Giêsu. Đau khổ vì nhân loại là đàn chiên Chúa muốn cứu chuộc.
Thực vậy, Chúa Giêsu là Tin Mừng đặc biệt cho Đức Mẹ. Nhưng Người cũng là nguyên nhân khiến Đức Mẹ phải đau đớn. Đau đớn vì cảnh nghèo nàn thiếu thốn, khi sinh con trong hang đá Bêlem. Đau đớn vì cảnh đi trốn nhọc nhằn, khi đem con lánh nạn sang Ai Cập. Đau đớn vì cảnh lạc mất con, khi từ đền thánh trở về. Đau đớn vì cảnh lao động lầm than mấy chục năm giữa xóm nghèo ở Nadarét. Đau đớn vì cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ và bị tử hình trên thánh giá ở núi Golgôta.
Những đau đớn đó phải được cắt nghĩa vì lý do cứu chuộc nhân loại. Nhân loại được Chúa đoái thương cứu chuộc. Nhiều người đã đón nhận ơn đó. Nhưng nhiều người đã từ chối ơn đó. Không những thế, họ còn xỉ vả, bắt bớ và kết án chính Đấng Cứu chuộc.
Khi thấy như thế, Đức Mẹ rất đau lòng. Mẹ nhận ra lời tiên tri Simêon xưa đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu vừa là duyên cớ cho nhiều người được chỗi dậy, và cũng là duyên cớ cho nhiều người phải vấp ngã (x. Lc 2,34).
Đức Mẹ đã đau đớn thế nào? Tiên tri Simêon tả đau đớn đó bằng một câu rất tượng hình: "Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2,35).
Khi trái tim bị gươm vật chất đâm thâu, người ta cảm thấy đau đớn như phải chết dữ dằn. Khi tâm hồn bị gươm vô hình đâm thâu, người ta cảm thấy đau khổ cũng như một thứ chết khốn cực.
Để có một cái nhìn đúng đắn về đau khổ nơi Đức Mẹ, chúng ta nên nhớ mấy điều sau đây:
a) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói sâu thẳm của tình yêu
Tâm hồn nào càng mến Chúa nhiều, càng cảm thấy đau nhiều, khi thấy tình yêu Chúa bị xúc phạm. Tâm hồn nào càng yêu người nhiều, càng cảm thấy khổ nhiều, khi thấy người khác rơi vào cõi khổ.
Đức Mẹ mến Chúa hết tâm hồn, và yêu thương nhân loại hết lòng. Nên Đức Mẹ dễ nhạy cảm trước bất cứ sự gì xúc phạm đến Chúa và làm hại cho phần rỗi loài người.
Nhạy cảm, nhạy bén là đặc tính cao độ của trái tim Mẹ. Lúc đó, đau khổ nơi Mẹ sầu bi là một tiếng nói sâu thẳm nhất của tình yêu.
Được mến yêu Chúa nhờ ơn Chúa ban, Đức Mẹ cảm thấy một thế giới mới. Xưa thánh Phaolô quả quyết: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi" (Pl 3,7-8).
Thánh Phaolô còn cảm thấy thế. Phương chi Đức Mẹ. Đức Mẹ được ơn hiểu thế nào là tình yêu thương xót Chúa, nên Đức Mẹ sẽ rất đau khổ, khi thấy tình yêu thương xót ấy bị người ta dửng dưng, xa tránh, chối từ, chống đối.
b) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người được ơn hiểu biết ý nghĩa sự tội
Sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng học hỏi giáo lý về tội, nghiên cứu các sứ điệp về sám hối của những lần Đức Mẹ hiện ra, là sẽ hiểu biết thấu đáo ý nghĩa sự tội. Không đâu, ý nghĩa về tội sẽ chỉ hiểu được sâu sắc nhờ ơn Chúa ban, do cầu nguyện, tĩnh tâm, đổi mới tâm hồn thực sự. Thánh Gioan Baotixita xưa đã dành cả đời rao giảng về sự sám hối. Ngài nói: "Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối" (Lc 3,8). Ngài đã răn đe những ai coi thường tội lỗi. Vì Ngài hiểu biết rất rõ tội lỗi sẽ đưa con người xuống cõi khổ cực ghê gớm đời sau.
Chắc chắn Đức Mẹ còn hơn thánh Gioan Tiền Hô, nên Người phải rất đau đớn khi thấy bao người nhởn nhơ đi vào đàng tội.
c) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người biết sự quan trọng trong tuyệt đối của phần rỗi
Xưa cũng như nay, nhân loại để sự tự do lôi kéo mình vào những gì nguy hiểm cho phần rỗi. Phần rỗi không phải là một hạnh phúc trả bằng giá rẻ. Nhưng thực tế cho thấy vô số người không quan tâm đủ đến phần rỗi. Trước cảnh đó, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26).
Với cái nhìn đó, Chúa Giêsu khuyên người có trách nhiệm hãy cố gắng đi tìm một con chiên lạc, hơn là quây quần với 99 con chiên ngoan (x. Mt 16,12-14).
Đức Mẹ rất hiểu thế nào là thiệt mất phần rỗi, nên Người đã rất đau khổ trước cảnh bao người không quan tâm đến phần rỗi.
Như thế, nói chung, đau khổ nơi Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, đó là làm chứng cho tình yêu xót thương của Chúa. Đức Mẹ sầu bi vì thế sẽ là một an ủi lớn cho chúng ta, khi chính chúng ta cũng bị đau khổ trong cuộc đời.
II. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta
Đời là bể khổ. Riêng những người con Chúa sẽ gặp trong đời mình không thiếu nỗi đau như gươm đâm thấu tâm hồn mình.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.
Tiên vàn, chúng ta phải có một ý hướng tốt lành này về những đau khổ của ta. Ý hướng tốt lành đó là muốn những đau khổ ta chịu sẽ có sức làm chứng cho tình yêu Chúa.
Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta. Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.
Khi đau khổ, chúng ta dễ có khuynh hướng đổ trách nhiệm cho người khác. Nên coi đó là nghịch với đức ái khiêm nhường, tự nó lại gây đau khổ cho chính mình và cho người khác. Ở đây xin phép nhắc lại ba lời khuyên của thánh Augustinô:
a) Chớ tự coi mình là quan toà xét xử kẻ khác.
b) Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và trọng sự thật. Rất nhiều lần ta đổ cho người khác những lỗi lầm người ta thực sự không có.
c) Nếu người ta có tội, thì cũng nên nhận người ta có thể có nhiều công phúc, công khai và âm thầm.
Để đào tạo thường xuyên trái tim ta, ta nên để ý xét mình về việc ta có chia sẻ những đau khổ đủ thứ xảy đến cho đồng bào xung quanh không? Nhất là ta có hỏi Chúa về việc Chúa cùng đau khổ với bao người. Chúa đau khổ với họ, mà ta không để ý.
Đức Mẹ sầu bi sẽ cho ta thấy: Thánh giá là duyên cớ của sự vấp ngã, nhưng cũng là căn nguyên của sự vinh quang. Mẹ sầu bi sẽ làm cho những vết thương lòng của ta trở thành dòng sông thiêng liêng chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn.
3.Thông phần thập giá để thực hiện ơn cứu độ --TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để thực hiện ơn cứu độ. Con người được mời gọi thông phần thánh giá của Chúa Giêsu để hoàn tất ơn cứu độ nơi cuộc đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa có muôn vàn cách thực hiện ơn cứu độ. Tuy thế, theo Thượng Trí, Chúa đã chọn thập giá làm phương tiện cứu độ con người. Mẹ Maria là người trước tiên được mời gọi cộng tác với Chúa để thực hiện ơn cứu độ.
Lạy Chúa, với tình yêu mến nồng nàn, Mẹ đã ngoan ngùy để Chúa sử dụng đời Mẹ theo Thánh Ý Chúa, miễn sao Ý Chúa được nên trọn. Số phận cuộc đời Mẹ gắn liền cuộc đời Chúa, thăng trầm đời Mẹ dệt họa lại những thăng trầm đời Chúa. Đời Mẹ trở thành bản sao cho cuộc đời lắm thương đau của Chúa. Mẹ được mệnh danh là Đấng- Hiệp- Công- Cứu- Chuộc, nhờ Mẹ tình nguyện đón nhận mọi thánh giá gắn liền với cuộc đời của người Mẹ sinh ra Đấng Cứu Chuộc. Nhờ thánh giá Chúa mà thánh giá đời Mẹ trở nên ý nghĩa. Nhờ công nghiệp Chúa mà đời Mẹ nên giá trị trổ sinh hoa trái thiêng liêng cứu giúp loài người.
Lạy Chúa, những đau khổ trái ý luôn có trong đời người. Nó sẽ trở nên vô ích nếu con cam chịu trong oán hận than trách. Ngược lại nó sẽ nên nguyên nhân để Chúa đổ ơn cứu chuộc nếu con biết vui lòng dâng Chúa.
Xin Chúa đón nhận thánh giá đời con như của lễ góp dâng với hy tế thánh giá của Chúa. Con muốn hoàn tất ơn cứu chuộc nơi con bằng thánh giá đời con. Xin Chúa thương chấp nhận. Amen.
Ghi nhớ: “Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
4.Đức Mẹ Sầu Bi (Ga 19,25-27) hay (Lc 2,33-35)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Việc kính nhớ các sự đau khổ của Đức Mẹ hôm nay liên kết chặt chẽ với ngày lễ Suy tôn Thánh giá ngày hôm qua. Đây cũng là một điều dễ hiểu; y như Thánh lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày xưa vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Thánh lễ “Bảy sự Thương khó” được hình thành vào thời Trung cổ. Ở nước Đức, người ta đã mừng thánh lễ này tùy từng nơi vào thế kỷ 15, như giáo phận Cologne, giáo phận Erfurt... Năm 1667 dòng Serviten bắt đầu phổ biến thánh lễ này. Mãi đến năm 1814 ĐGH Piô VII mới cho phép toàn thế giới mừng kính.
Bảy sự thương khó Đức Bà được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,34-35)
Trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15)
Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền thờ (Lc 2,41-52)
Con đường lên Golgotha
Cuộc đóng đinh
Hạ xác Chúa xuống
Chôn xác Chúa trong mồ.
Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh giá:
- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ: “Thưa Bà, đây là con Bà”.
Suy gẫm:
Đức Mẹ dưới chân Thập giá được gọi là Đức Mẹ hợp công cứu chuộc, vì những đau khổ của Mẹ do kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Có thứ đau khổ khiến người ta nhìn mà sợ.
Có thứ đau khổ làm cho người ta tội nghiệp.
Có thứ đau khổ làm cho người ta ngưỡng mộ.
Có thứ đau khổ đáng cho người ta kính trọng.
Hôm nay chúng ta nhìn những đau khổ của Đức Mẹ Maria, không phải để sợ, để tội nghiệp mà để ngưỡng mộ, hơn nữa để tôn kính, vì đó là những đau khổ sinh ơn cứu rỗi cho người khác, trong đó có chính chúng ta nữa (Theo Lm. Carôlô).
5.Mẹ Maria thông phần mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống:
“Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
6.Liên kết chặt chẽ giữa đau khổ của Đức Maria và của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
A. Hôm qua chúng ta mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ “Mẹ Sầu Bi” Mẹ đau khổ với Chúa Giêsu con của Mẹ. Khi cho con cái mình mừng lễ này, Giáo Hội cho chúng ta thấy có một sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa những sự đau khổ của Đức Maria và đau khổ của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá. Việc làm như thế cũng là một điều dễ hiểu. Chính vì thế mà ngày xưa người ta mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta cũng phải được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Bảy sự đau thương của Đức Mẹ được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,3435)
2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,1315)
3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,4152)
4. Con đường lên Golgotha
5. Cuộc đóng đinh
6. Hạ xác Chúa xuống
7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Khi mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu, Thánh Gioan viết: Mẹ đứng sát cạnh cây Thánh Giá.
Mẹ không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng người “đứng”, trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá. Cuộc tử đạo này của Đức Trinh Nữ Maria đã được báo trước nhờ lời tiên báo của ông già Simêôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giêsu, ông già nói rằng: "Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà - ông nói với Đức Maria - bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu" (Lc 2,34-35).
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng như vậy, Chúa Giêsu, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nhưng nó đã mở sườn Người ra; và chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Thánh Bênađô viện phụ nói: "Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Maria được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ đã quên lời thánh Phaolô nói rằng, một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Maria. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu lại có kẻ chẳng nói: Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giêsu phải chết sao? – Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao? – Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không? – Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Maria cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giêsu, Con của Người chịu thương khó? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao? Chính tình thương đã khiến Chúa Kitô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Maria cùng chịu thương khó với Con của Người."
Nino Salvaneshi đã thật có lý khi viết “Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời”
Hãy tin tưởng nơi Mẹ. Mẹ đã cùng đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu thì hôm nay trên Thiên Đàng chắc chắn Mẹ cũng được chia sẻ vinh quang quyền uy với Chúa Giêsu con của Mẹ.
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.
Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành của chúng tôi.
7.Bảy sự thương khó của Đức Mẹ--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
* LịCH Sử
Việc kính nhớ các sự đau khổ của Đức Bà hôm nay liên kết chặt chẽ với ngày lễ Suy tôn Thánh Giá ngày hôm qua, đây cũng là một điều dễ hiểu; y như thánh lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày xưa vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Thánh lễ “Bảy sự Thương Khó Đức Bà” được hình thành vào thời Trung Cổ. Ở nước Đức, người ta đã mừng thánh lễ này tuỳ từng nơi vào thế kỷ 15, như địa phận Cologne, địa phận Erfurt... Năm 1667 dòng Serviten bắt đầu phổ biến thánh lễ này. Mãi đến năm 1814 Đức Thánh Cha Piô VII mới cho phép toàn thế giới mừng kính.
Bảy sự thương khó Đức Bà được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,34-35);
2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15);
3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,41-52)
4. Con đường lên Golgotha;
5. Cuộc đóng đinh;
6. Hạ xác Chúa xuống;
7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá:
- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ “Thưa Bà, đây là con Bà”.
B.... nẩy mầm.
1. Đức Mẹ dưới chân Thập giá được gọi là Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc, vì những đau khổ của Mẹ do kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
2. Có thứ đau khổ khiến người ta nhìn mà sợ
Có thứ đau khổ làm cho người ta tội nghiệp
Có thứ đau khổ làm cho người ta ngưỡng mộ
Có thứ đau khổ đang cho người ta kính trọng.
Hôm nay chúng ta nhìn những đau khổ của Đức Mẹ Maria, không phải để sợ, để tội nghiệp mà để ngưỡng mộ, hơn nữa để tôn kính, vì đó là những đau khổ sinh ơn cứu độ cho người khác trong đó có chính chúng ta nữa.
3. Vài ý tưởng về sự đau khổ:
- Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời (Nino Salvaneshi)
- Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C.S. Lewis).
4. “Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước Người về nhà mình”. Lạy Mẹ Maria, người môn đệ ấy là chính con. Kể từ hôm nay, con muốn rước Mẹ về ngôi nhà của lòng con và của cuộc đời con, để Mẹ cùng sống với con trong những lúc vui cũng như những lúc buồn, nhất là những lúc buồn; những khi sung sướng và nhất là những khi đau khổ, để Mẹ dạy con biết cách chịu đau khổ thế nào để những khổ đau ấy trở thành nguồn ơn cứu độ cho con và cho anh chị em con.
8.Đức Mẹ Sầu Bi--tgpsaigon.net 2021.09.15
I. Ý NGHĨA CỦA THÁNH LỄ HÔM NAY
Hôm qua, Hội thánh suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, tưởng nhớ Chúa chịu chết đau thương trên Thập Giá để cứu chuộc loài người. Hôm nay Hội thánh mời gọi mọi người tưởng niệm sự thương khó của Đức Maria, Mẹ đã thông phần sự đau khổ với Con, Mẹ đã kết hiệp nỗi thống khổ của Mẹ vào sự thương khó của Con, để cộng tác với Người trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Mẹ đau khổ biết bao:
- Khi nghe ngôn sứ Simêông tiên báo: lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ.
- Mẹ vất vả biết bao lúc đang đêm Mẹ Con phải chạy trốn sang Ai Cập
- Mẹ đau đớn biết bao khi lạc mất Con, Mẹ phải tìm kiếm ba ngày mới gặp lại trong Đền Thờ.
- Mẹ đau xót nhường bao khi Mẹ đi theo Con trên đường lên Núi Sọ, vai vác Thánh Giá mình đầy vết tích máu me.
- Mẹ quạnh lòng đau khổ biết bao khi thấy Con bị quân lính đóng đinh tay chân vào Thập Giá đau đớn xót xa.
- Còn gì sầu não hơn khi thấy môn đệ hạ xác Con xuống khỏi thập giá, Mẹ thấy Con chết đau thương tất tưởi.
- Nói sao cho hết nỗi quặn đau của Mẹ khi đứng nhìn ông Giuse Arimatha và cụ Nicôđêmô chôn xác Con trong mồ, Con và Mẹ từ đây xa cách…
Thật đúng là một cuộc tử đạo trong tâm hồn, như lời Thánh Bênađô đã nói: “Cuộc tử đạo của Đức Trinh nữ được gợi lên trong lời tiên tri của Simêon cũng như trong bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa. Vị thánh tiên tri già đã nói về trẻ Giêsu rằng: “Nầy, Người có mệnh làm dấu gợi lên chống đối, và hướng về Đức Maria ông nói: và hồn Bà mũi gươm sẽ đâm thâu”. Quả thật, ôi Mẹ diễm phúc, lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Nó không đâm thâu lòng Mẹ sao được, khi nó đâm vào thân xác Con Mẹ ! Thật vậy, Đức Giêsu tuy là của mọi người, nhưng phải nói đặc biệt là của Mẹ, khi Người đã trút linh hồn thì lưỡi gươm tàn bạo không còn làm tổn thương gì cho linh hồn Người nữa, nó không tha cho kẻ đã chết mà nó không còn làm hại gì được, nó đâm thủng cạnh sườn Người, nhưng thực ra nó đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn Người không còn ở đó, nhưng tâm hồn Mẹ thì không sao tránh được. Sự đau đớn đã đâm thâu tâm hồn Mẹ, khiến chúng con có thể nói một cách thích đáng rằng: Mẹ còn hơn người tử đạo, vì nơi Mẹ niềm thông cảm đau khổ của Con khiến Mẹ đau đớn hơn cả sự đau đớn trên thân xác.
II. BÀI HỌC
Bài học Đức Mẹ để lại cho mọi người chúng ta nhất là trong hoàn cảnh của xã hội hôm nay, đó chính là bài học về lòng can đảm trước mọi biến cố đau thương của cuộc đời mình.
Đọc Tin mừng của ngày lễ hôm nay. điều làm tôi hết sức cảm mến và thán phục là thái độ của Đức Mẹ trước hoàn cảnh đau khổ tột cùng khi đứng bên cạnh con đang bị treo trên cây Thánh Giá vào giờ phút cuối cùng của con..
Tin Mừng ghi lại làm sao? Tin Mừng ghi: “Lúc ấy, đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người.... Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh”
Chữ ĐỨNG ở đây thật quan trọng
Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!
Người ta giục anh như thế.
- KHÔNG! anh trả lời...
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ hương rơi xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do.
- KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy... Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng!
Đó là thái độ của những người theo Chúa. Phải sống thật anh hùng. “Đứng thẳng!”
Chúa không muốn chúng ta sống bạc nhược, run sợ trước mọi thử thách ở trên trần gian này. Chúa muốn chúng ta phải biết đứng thẳng. Đứng thẳng là tư thế của những anh hùng.
Nhiều người khi đối diện với những thử thách trên đời đã không giữ được thái độ can đảm như thế. Có nhiều người đã ngã quỵ. Họ không đủ can đảm.
Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, tôi đọc được câu truyện này:
Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
- Mi định làm gì ở đó?
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:
- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
- Tôi chỉ giết có 5000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Trong một bài tường thuật của một thiện nguyện viên - An Bình, C.Ss.R.- đang phục vụ tại bệnh viện bệnh viện Ung Bướu cơ sở 2 ở quận 9,Thủ Đức tác giả đã ghi lại nhận xét của một số Bác sĩ đang tích cực căng mình phục vụ các bệnh nhân như sau: “Bệnh nhân, ai cũng bị cơn khó thở dày vò, lại thêm nỗi lo lắng hoảng loạn khi chứng kiến người cùng phòng trở nặng rồi không qua khỏi. Chính sự hoang mang đó làm người bệnh thở gấp, càng thiếu oxy hơn. Nhiều bệnh nhân biết nghe lời bác sĩ, nằm sấp tập thở đều, phần nhiều dần tốt lên. Còn những ai hay phàn nàn thì phần nhiều trở nặng. Nói nhiều ở đây là cấm kỵ, vì tăng nguy cơ bị lây bệnh. Chúng tôi phải tập nói và thở nhẹ nhàng, không hít sâu, không gắng sức đột ngột để tránh luồng không khí quá mạnh đi qua khẩu trang, dễ lây nhiễm.”
Vâng! Đó là một thực tế mà không phải ai cũng biết. Sự can đảm đối diện với những đau khổ và bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh nhiều khi lại là một liều thuốc rất hữu hiệu có thể đem đến những kết quả không ngờ.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử đó biết:
- Tình trạng sức khoẻ của anh thật đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được.
Về sau, chàng tài tử ấy đã thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng, tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng, nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”. Amen.
9.Ðây sẽ là niềm an ủi của con--‘Lẽ Sống’
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tooi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
10.Ðức Mẹ Sầu Bi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến khía cạnh Mẹ Maria đứng bên thập giá Chúa và lãnh nhận lời Chúa trăn trối làm Mẹ của Gioan, làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ðoạn Phúc Âm không nhắc tới nỗi sầu bi của Mẹ khi đứng dưới chân thập giá Chúa. Trong số các sách Phúc Âm thì chỉ có Phúc Âm theo thánh Luca có nhắc tới lời loan báo trước của cụ già Simêon, nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ (Lc 2,35). Chắc lúc đứng dưới chân thập giá Chúa hơn mọi lúc khác Mẹ Maria đã đau khổ, niềm đau của một người mẹ nhìn thấy con mình đang hấp hối sau khi đã phải chịu những tra tấn, khổ hình và sỉ nhục. Thái độ của Mẹ đáng chúng ta bắt chước. Mẹ đã không tự ý đi tìm vinh quang được ngồi bên hữu bên tả Chúa như một người nọ đã đón đường Chúa lên Giêrusalem để xin đặc ân này cho hai người con của mình. Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Lạy Mẹ Maria,
Xin Mẹ hãy đồng hành bên cạnh con như Mẹ hiện diện bên cạnh Con Mẹ. Chúng con cần đến Mẹ nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Xin Mẹ giúp chúng con trung thành với ơn gọi và với Chúa Giêsu Con Mẹ.
11.Đức Mẹ đau khổ--J.M.
Mẹ đứng kề Thánh Giá ! Mẹ đứng đó với Gioan và với cả hai tên trộm cướp ! Mẹ đứng đó, trên đồi Gôlgôtha, không xa mấy, dưới chân đồi, đám dân, những người tò mò, những người vô can, những người kêu khóc, những người sợ hãi đang đứng dưới bóng cây thánh giá, bóng Đức Mẹ và Con Ngài, họ cảm thấy mình hoàn toàn không chịu trách nhiệm về cái chết này. Còn những kẻ thi hành án và những kẻ có quyền thì sao ? Họ không cúi đầu, lại chê cười thất vọng và chua chát !
Đứng kề !
Đức Mẹ không lo nghĩ đến bị rơi vào bất tỉnh trước những sỉ nhục, những kết tội của kẻ thù, những la ó, Mẹ đứng đó, đứng thẳng ! Điều quan trọng hơn đối với Mẹ là Con Ngài là xương là thịt của xương thịt Ngài, Kìa đang bị treo trên thánh giá, Người là sự hy vọng cùng đích bảo đảm cho tất cả, nhờ sự hiện diện của Mẹ, nhờ bà Mẹ này, mọi sự ước muốn và yêu dấu được toại nguyện !
Mẹ đứng đó, đứng thẳng vững chắc, trong thái độ xin vâng ! Mẹ luôn luôn sẵn sàng tiếp tục ơn gọi suốt đường đời, ơn gọi tới tận chân thánh giá. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng trọn đời trên thập giá ! vượt trên mọi lượng định nhân loại của Đức Mẹ. Mẹ không được chọn vì cây thập giá, nhưng được chọn cùng với các con cháu loài người để đón nhận vào cuộc sống của Mẹ như bình thánh đựng máu tình yêu của con Ngài mới có sức tắm rửa, thanh tẩy và làm sống lại.
Chăm chú
Đức Mẹ dâng tiến lên Thiên Chúa và cho thế nhân con của Mẹ, đồng thời Mẹ chăm chú lắng nghe con Ngài, Mẹ chú ý lắng nghe tiếng con Mẹ và đã nghe thấy nguyện vọng sau cùng của Người thốt lên.
Ma-ri-a lúc truyền tin, đã chú ý lắng nghe Đấng Messia của Israel, và đã thành bà mẹ.
Bây giờ Mẹ đang chú ý ! Mẹ đoán mọi sự chưa hoàn tất đối với Mẹ ! Ước chi cuộc sống Mẹ còn tiếp tục ! Mẹ sẽ nhận được lời nguyện cuối cùng của Con Mẹ, Mẹ bắt đầu lắng nghe mọi người bởi vì Mẹ đang lắng nghe Thiên Chúa !
Là chứng nhân về tình yêu Con Mẹ, Mẹ được chia sẻ với Người sống đến tột đỉnh của đức tin.
12.Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ--
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”.
Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
13.Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có Thân Mẫu Người--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.
1. Đức Mẹ Sầu Bi
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”. Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta. Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay là vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (chẳng hạn Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…). Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta: Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời!
Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào? Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ. Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn. Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.
2. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”. Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
3. Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
14.Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà.
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
* * *
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
15.Đau khổ của con là sầu bi của Mẹ--Ngọc Biển SSP
Mấy năm gần đây, nhiều lúc cả thế giới nín lặng trong sự bàng hoàng trước những tàn ác của Phiến quân Hồi Giáo (IS). Gần đây nhất là tại Philippines. Những kẻ này đã chặt đầu và nã đạn hàng ngàn người vô tội chỉ vì họ trung thành với đức tin Công Giáo và không chịu cải đạo sang nhà nước Hồi Giáo tự xưng. Hàng triệu người phải bỏ quê hương, xứ sở để sơ tán, lánh nạn. Sự ngang tàng, ác độc của Phiến quân Hồi Giáo cực đoan đã làm cho cả thế giới phải ghê rợn! Vì thế, không thể ngồi yên, những nhà lãnh đạo từ mọi phía, đang tìm mọi cách để ngăn chặn sự độc ác này. Đồng thời, nhiều tổ chức, tùy hoàn cảnh, khả năng, đã ra tay giúp đỡ các nạn nhân.
Có lẽ qua sự kiện này, đã để lại trong đầu chúng ta những câu hỏi: tại sao nhân loại lại phải quan tâm đến chuyện của một đất nước khác? Những hình khổ, chết chóc của người dân phải chịu có ảnh hưởng gì với chúng ta?
Câu trả lời hết sức đơn giản, bởi lẽ chúng ta có một mối liên hệ trong tình yêu và đức tin. Vì thế, nỗi đau của người dân ở các nơi bị hại cũng là nỗi đau của chúng ta. Chúng ta không bị đổ máu, nhưng trong mầu nhiệm hiệp thông, chúng ta cũng có một phần trách nhiệm. Chúng ta không phải ly tán, nhưng trong sự liên đới, chúng ta phải cảm thương.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Đây là cơ hội để chúng ta có dịp cảm nghiệm được sự kết hiệp mật thiết giữa hai cuộc đời trong cùng một sứ vụ là cứu chuộc nhân loại.
Khi thiết lập lễ này, Giáo Hội muốn chúng ta cùng nhau chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria trên các chặng đường thương khó của Đức Giêsu. Bởi vì cả cuộc đời của Mẹ luôn theo sát Đức Giêsu, Con của Mẹ trên mọi nẻo đường.
Như vậy, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại của Con cũng là của Mẹ. Mọi đau thương của Con, Mẹ đều ôm trọn vào tim, để rồi suy đi nghĩ lại trong lòng!
Cuộc đời của Mẹ cũng có những lúc vinh quang chan hòa, nhưng cũng không thiếu cảnh đau thương, xót xa.
Vì thế, lần dở lại các chặng đường của Đức Giêsu từ thủa ấu thơ đến khi rao giảng, chịu chết, an táng và lên trời, chúng ta đều thấy dấu ấn của Mẹ Rất Thánh ẩn hiện trong đó.
Những đau khổ ấy được tô đậm qua những sự kiện quan trọng:
Khởi đi từ việc cùng thánh Giuse lên đường trở về Belem để đăng ký nhân khẩu, đêm về, không thể tìm được quán trọ chỉ vì nghèo và bụng mang dạ chửa; rồi sinh Đức Giêsu trong cảnh màn trời chiếu đất nơi máng cỏ bò lừa; chưa hết khó khăn thì lại gặp cảnh khốn đốn khi hay tin vị vua tàn ác là Hêrôđê tìm giết Hài Nhi, nên đã cùng với thánh Giuse chạy trốn sang Ai Cập; chẳng bao lâu, lại long đong đưa Hài Nhi trở về Nazareth, rồi bị lạc mất Đức Giêsu trong đền thờ lúc 12 tuổi; đỉnh cao của cảnh bi thương trần lụy khi chứng kiến người ta đả đảo con mình; thấy được kẻ ác đánh đập tàn bạo, dã man; đau điếng khi thấy con bị những lằn roi chí tử giáng xuống trên mình; chứng kiến cảnh quan tòa vì nhu nhược mà kết luận bản án bất công; chưa hết, buồn tê tái khi môn đệ thân tín bán đứng Con Chí Ái, Phêrô chối không nhận Thầy; xót xa khi thấy con vác thập giá và ngã gục trên đường; xé lòng khi nghe từng tiếng búa chát chúa kèm theo tiếng kêu của Con khi bị quân lính đóng đinh; nín thở nhìn con thoi thóp từng hơi trên thập giá; buốt nhói khi đứng dưới chân thập giá chứng kiến con chút hơi thở cuối cùng; ngất lịm khi nhìn quân lính đâm cạnh nương long và tang thương khi ôm xác con vào lòng; tủi phận khi phải an táng con trong ngôi mồ mượn....
Như vậy, cuộc đời của Mẹ luôn gắn liền với Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu được Mẹ ấp ủ trong lòng. Con đường thập giá mà Đức Giêsu mang trong sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha, cũng được Đức Mẹ “xin vâng” và lưu lại trong trái tim.
Điểm lại những đau thương mà Mẹ Maria phải chịu, chúng ta khám phá ra một người Mẹ can đảm, hiên ngang và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời của mình nơi các biến cố.
Thật vậy, cả cuộc đời của Mẹ, Mẹ đã sống trọn vẹn lời “xin vâng” với Thiên Chúa. Mẹ “xin vâng” cả lúc vui lẫn khi buồn. “Xin vâng” trong mọi hoàn cảnh. “Xin vâng” đến trọn cuộc đời.
Nói khác đi: cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc đời luôn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, thì cuộc đời của Mẹ Maria là cuộc đời trọn tình vẹn nghĩa với lời “xin vâng”.
Bởi lẽ, nơi cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu cũng chính là cuộc sống của Mẹ, nên không lạ gì nỗi đau của Con cũng là của Mẹ. Chỉ khác một điều là Đức Giêsu thì mang trên thân xác, còn Mẹ thì mang trong tâm hồn.
Thật thế, lời của tiên tri Simêon đã được ứng nghiệm cách trọn vẹn: “... chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Như vậy, cách nào đó, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Con Chí Ái.
Mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi hôm nay, chúng ta được an ủi rất nhiều, vì trong cuộc sống của chúng ta, mọi khía cạnh đều có Đức Giêsu đi qua và có Mẹ Maria cảm thông.
Mỗi khi gặp khó khăn, mây mù giăng lối, chúng ta hãy biết ngước nhìn lên Mẹ như Mẹ đã ngước nhìn lên Thánh Giá Chúa khi xưa và sẵn lòng đón nhận mọi nghịch cảnh xảy đến trong đời, ngõ hầu mọi sự đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin Mẹ ban cho chúng con hiểu lòng Mẹ, an ủi Mẹ, và sẵn lòng chịu mọi sự khốn khó cho nên vì lòng yêu mến Chúa như Mẹ, để sau cuộc đời này, chúng con được bên Mẹ trong Nước của Con Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô muôn đời. Amen.
16.Ðây sẽ là niềm an ủi của con--‘Lẽ Sống’
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ, hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
17.Lễ Đức Mẹ sầu bi
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ.
Vì là Mẹ của Đức Chúa Giêsu, Mẹ Maria có rất nhiều niềm vui nhưng Mẹ cũng phải chịu nhiều đau khổ. Tình yêu quảng đại đối với Con chí thánh đã khiến Mẹ Maria phải đau khổ khi nhìn thấy Đức Chúa Giêsu bị các kẻ thù đối xử tàn bạo. Mẹ là Nữ Vương các thánh tử đạo vì Mẹ đã trải qua những đau khổ tinh thần mà những đau khổ này khủng khiếp hơn rất nhiều so với những khổ hình thể xác của các thánh tử đạo. Trái tim Mẹ ví tựa bàn thờ khi Mẹ dâng Con yêu quý của Mẹ là Đức Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta trên ngọn đồi Canvê. Thật là đau khổ biết bao khi một người mẹ rất mực đáng yêu phải chứng kiến cảnh tượng con mình chịu chết trên thập giá.
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ. Việc đó sẽ xảy ra khi Đức Chúa Giêsu bị lên án tử. Niềm đau thứ hai là Đức Mẹ và thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập với Đức Chúa Giêsu vì quân lính của vua Hêrôđê đang tìm giết Người. Niềm đau thứ ba xảy ra lúc Đức Mẹ tìm kiếm Đức Chúa Giêsu suốt ba ngày tại đền thánh Giêrusalem. Sau cùng, Mẹ đã tìm thấy Chúa trong đền thờ. Niềm đau thứ tư của Mẹ là khi Đức Chúa Giêsu bị quân dữ đánh đòn và đội mão gai. Niềm đau thứ năm là khi Mẹ xem thấy Đức Chúa Giêsu bị treo trên cây thập giá, nơi Chúa tắt thở sau ba giờ hấp hối. Niềm đau thứ sáu của Mẹ là lúc thân xác bất động của Đức Chúa Giêsu được trao phó trong vòng tay Mẹ. Và niềm đau thứ bảy mà Mẹ phải chịu là lúc Đức Chúa Giêsu chịu mai táng trong mồ.
Mẹ Maria đã chẳng hối tiếc hay phàn nàn gì khi phải chịu đau khổ quá nhiều trong suốt cuộc đời Mẹ. Thay vào đó, Mẹ dâng lên Thiên Chúa những thống khổ của Mẹ vì chúng ta. Mẹ chính là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Bởi quá yêu thương chúng ta, Mẹ đã vui sướng cùng chịu đau khổ với Đức Chúa Giêsu Con Mẹ để một ngày kia chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ cùng với Đức Chúa Giêsu trên thiên đàng.
Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ sầu bi, hôm nay chúng ta hãy dâng lên Mẹ vài hy sinh nhỏ mà không phàn nàn chi. Chúng ta cũng hãy suy ngắm từng niềm đau của Mẹ và cảm ơn Mẹ về tình yêu cao cả mà Mẹ đã dành cho mỗi người chúng ta.
18.Không ai thương con bằng tình mẫu tử
Chuyện kể:
Đứng trước vành móng ngựa, người con bị tuyên án tử hình vì những tội tày trời: cướp của giết người, buôn bán ma tuý.
Toà hỏi người mẹ đứng phía dưới: Bà có muốn nói gì với người con không.
Bà thưa: Xin quý toà hãy cho con tôi một cơ hội sống để làm lại con người. Xin cho tôi được chết thay nó.
Suy niệm:
Người mẹ nào mà không thương con. Không ai thương con bằng tình mẫu tử.
Đức Mẹ là người được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước khi trong lòng bà Thánh Anna. Để cùng chịu những đau khổ với Chúa Giêsu trong công cuộc chuộc loài người.
Hôm nay kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Đức Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, thương khó, thống khổ… Đức Mẹ là mẹ Chúa Giêsu, trong cuộc đời 33 năm của Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi đau thương:
Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2, 34-35);
Cuộc chạy trốn sang Ai-cập (Mt 2, 13-21);
Lạc mất Chúa ba ngày (Lc 41, 50);
Vác thập giá lên đỉnh Calvê (Ga 19, 17);
Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập giá (Ga 19, 18-30);
Tháo xác Chúa (Ga 19, 39-40);
Táng xác Chúa (Ga 19,40-42).
Và cho đến ngày hôm nay, tuy đã về trời, Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao đau khổ khi chứng kiến biết bao ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh… giữa đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Mẹ chính là việc trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi và sẽ sa xuống hỏa ngục.
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2, 34-35).
“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Lưỡi gươm ấy chính là những lăng mạ, sỉ nhục, lên án và giết Chúa Giêsu trên thập giá. Lưỡi gươm ấy cho đến ngày nay và còn mãi mãi, con người vẫn đang đâm thấu tâm hồn Mẹ, bằng chính đời sống của con người đã loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống của họ, bằng muôn ngàn gian dối, tội lỗi, bằng đánh mất niềm tin vào Lòng Thương Xót, lòng nhân từ của Thiên Chúa.
2. Cuộc chạy trốn sang Ai-cập (Mt 2, 13-21)
Trong giấc mộng, Thánh Giuse đã đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Aicập. Trong thế giới hôm qua, hôm nay, có biết bao nhiêu cuộc chạy trốn khỏi tà thần, sự dữ của những cuộc bách hại đức tin Công Giáo. Có biết bao cuộc chạy trốn của sự truy lùng dối trá điêu ngoa vẫn diễn ra hằng ngày, mọi nơi trên toàn thế giới. Có biết bao cuộc chạy trốn khỏi những sự tàn bạo, vô nhân đạo của các chế độ độc tài, không nhận biết Thiên Chúa. Mẹ nhìn con Mẹ chạy trốn mà lòng đau như gươm đâm vậy.
3. Lạc mất Chúa ba ngày (Lc 41, 50)
Ngày nay, có biết bao nhiêu con người đã từng biết Chúa, biết Mẹ nhưng đã lạc đàng đạo đức, xa lìa Niềm Tin, chối bỏ hồng ân của Chúa, sống đam mê, truỵ lạc, hưởng thụ, chỉ biết cho riêng mình, mà quên Thiên Chúa, quen anh em. Còn biết bao người chưa nhận biết Thiên Chúa, họ đang sống bơ vơ lạc lõng nơi trần gian. Không ai đưa dẫn họ về bên Chúa. Mẹ đau đớn vì các con của Mẹ vẫm còn đang lầm lạc.
4. Vác thập giá lên đỉnh Calvê (Ga 19, 17)
Từng ngày từng giờ, những mũi gai nhọn tội lỗi vẫn đâm lên đầu Chúa Giêsu đến rỉ máu; từng ngày từng giờ những xúc phạm xác thịt, những thói hư tật xấu của con người là những roi đòn đánh nát thịt chỉ còn những xương giơ ra. Mẹ vẫn nhìn thấy Chúa từng ngày phải vác thập vì nhân loại.
5. Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập giá (Ga 19, 18-30)
Chúa Giêsu vẫn chết cho tội lỗi của chúng ta, để chúng ta được cứu rỗi. Nhưng thế gian đâu có từ bỏ tôi lỗi, đóng đinh xác thịt mình để được ơn cứu rỗi. Mẹ vẫn nhìn thấy đoàn con cái của Mẹ chưa từ bỏ xác thịt.
6. Tháo xác Chúa (Ga 19, 39-40)
Con người chưa tháo khỏi khỏi những gông xiềng tội lỗi, mà mỗi ngày mỗi trói buộc mình chính đời sống kiêu căng, tự phụ, ngông cuồng. tự coi như thần thánh. Bao lâu con người chưa nhận biết thân phận mình để tháo bỏ cái xác thịt hư hèn của mình mà về bên Chúa, thì Đức Mẹ còn đau đớn.
7. Táng xác Chúa (Ga 19,40-42)
Mẹ nhìn thấy nhân loại táng xác mình để theo Chúa Giêsu Phục Sinh. Rất nhiều người không tin có đời sau, không tin có sự sống đời đời, họ chỉ coi thế gian này là tất cả. Họ sống cho ngày nay, họ không muốn sự Phục Sinh. Mẹ nhìn thấy họ đang phải lãnh án chết đời đời. Mẹ đau xót vô cùng.
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà không đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho bất cứ ai khi đã nhận biết Chúa là Thiên Chúa mà vẫn còn vong ơn bội nghĩa. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Cầu nguyện:
Lay Mẹ Sầu Bi, Xin cho con biết nhận ra những lưỡi gươm đời con luôn đâm thâu lòng Mẹ, làm cho Mẹ từng ngày đau đớn, để con nhận ra ơn Cứu Độ và luôn sống xứng đáng là con của Mẹ. Amen.
19.Sống vâng phục
1. Ghi nhớ: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu…”. (Ga 19, 25)
2. Suy niệm: Theo cách nghĩ thông thường, được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế quả thật là một diễm phúc. Diễm phúc theo nghĩa là người được vinh phúc hơn mọi người theo nghĩa xã hội, được vinh dự, được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, …
Hôm nay ngày 15.09, chúng ta kính nhớ Đức Mẹ Sầu Bi. Đoạn Tin Mừng được Giáo hội chọn cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay ta thấy được rằng: làm Mẹ Đấng Cứu Thế là phải liên kết với con mình cứu độ nhân loại. Và thực tế Mẹ Maria đã hoàn thành việc cộng tác với Con Mẹ cách tuyệt vời. Trong mọi giai đoạn của đời sống Chúa Giêsu chúng ta luôn nhận thấy thấp thoáng bóng hình của Mẹ, đặc biệt trong cuộc thương khó.
Chúng ta suy tôn Đức Mẹ Sầu Bi không phải chúng ta tuyên dương sự đau khổ mà là tuyên dương sự cộng tác tuyệt vời của Mẹ với Đức Giêsu. Học nơi Mẹ chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa làm cho thế giới này ngày một tốt hơn.
3. Sống Lời Chúa: Theo gương Mẹ sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
4. Cầu nguyện:Lạy Chúa, Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ Chúa. Xin cho chúng con biết nghe lời Mẹ mà cộng tác trong công trình của Chúa để ngày sau chúng con cùng Mẹ ca tụng Chúa trên thiên đàng.
20.Bi thương nhưng không mất đường hy vọng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngẫm nghĩ đến việc mừng lễ Đức Mẹ sầu bi, dường như ta cảm thấy có cái gì đó kỳ kỳ, không ổn thì phải! Đời thuở nhà ai lại đi ăn mừng lễ một người mẹ khi người mẹ đó gặp cảnh sâu thảm, bi thương vì phải chứng kiến cái chết của con mình bao giờ! Ở trong nỗi khổ đau, sầu bi thì làm sao có cái gì để mà ăn mừng?!
Thực ra, hôm nay mừng lễ Đức Mẹ Sâu Bi, Giáo hội nhắc nhớ cho chúng ta biết về giá trị của hạnh phúc, giá trị của niềm hy vọng trong chính nỗi khổ đau và chết chóc. Ngay ở bài đọc 1 trích trong thư gửi tín hữu Do thái hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về niềm hy vọng trong đau thương, hoạn nạn. Tác giả thư Do thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”. Suy gẫm đoạn lời Chúa này, bấy lâu nay ta không khỏi thắc mắc: Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà xin Cha Ngài khỏi phải chết và rõ ràng tác giả thư Do thái bảo rằng Ngài đã được nhậm lời! Nhưng thực tế, Đức Giêsu vẫn phải chết tức tưởi trên thập giá! Vậy nghĩa là sao?
Lời kêu xin của Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chấp nhận ở chỗ: Thiên Chúa Cha đã cho Ngài được bình an đón nhận cái chết, và đón nhận cái chết với một niềm tin tưởng, hy vọng, chứ không thất vọng ê chề. Trong đời sống thường ngày, chúng ta đã từng chứng kiến hoặc kinh nghiệm được rằng trước những tai ương, hoạn nạn, khổ đau, nhiều người chưa kịp chết về đàng thân xác, nhưng đã bị hoạn nạn, khổ đau giết chết về đàng tinh thần rồi! Đối với Đức Giêsu thì khác, hoạn nạn, khổ đau có thể giết chết Ngài về đàng thân xác, nhưng tinh thần của Ngài không bao giờ bị vùi dập, bị giết chết. Tâm hồn Ngài vẫn tràn trề niềm cậy trông và phó thác vào Cha Ngài.
Với Mẹ Maria cũng vậy, dù phải đứng dưới chân thập giá và phải chứng kiến cái chết thảm thương của con Mẹ là Đức Giêsu, nhưng lòng mẹ vẫn ngập tràn niềm tín thác vào quyền năng và tình thương của Đấng Tối Cao. Về mặt xác thịt con người, chắc chắn lòng mẹ không khỏi tan nát, buồn đau, nhưng trong lòng tin, Mẹ vẫn có được niềm hy vọng hướng về tương lai tươi sáng của sự phục sinh vinh hiển của con Mẹ. Vì lẽ đó, hôm nay chúng ta mừng lễ với Mẹ: Vui mừng với Mẹ, vì khi gặp nỗi khổ đau tột cùng là phải chứng kiến cái chết thê thảm của con Mẹ, Mẹ vẫn không để nỗi khổ đau ấy bóp chết con tim yêu mến và ngập tràn hy vọng của Mẹ.
Sống ở đời này, ai trong chúng ta cũng phải kinh qua đau khổ. Ta không đau khổ vì điều này thì sẽ đau khổ vì điều khác. Đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bất công, vì thiên tai, vì nhân tai. Đau khổ vì bị tù đầy, bị kỳ thị, bị khinh khi, miệt thị. Và đau khổ lớn nhất của thân phận nhân loại chúng ta đó là vì sự chết chóc đau thương. Nhưng đứng trước mọi nỗi đau khổ, Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hay đón Đức Mẹ về nhà mình, đón Mẹ về với tâm hồn mình để Mẹ dạy cho ta con đường tin yêu, hy vọng ngay trong nỗi đau khổ tột cùng.
“Này con, Đây là Mẹ con” – Lời của Chúa Giêsu đang ngỏ với bạn và tôi! Bạn và tôi hôm nay được mời gọi đón Mẹ Maria về nhà mình ngõ hầu nhờ lời Mẹ cầu thay nguyện giúp, dù đau khổ, nhưng ta không để đau khổ giết chết ta về đang tinh thần. Nói cách khác, hoạn nạn, khổ đau có thể giày vò, giết chết thân xác ta, nhưng tâm hồn ta không thể bị vùi dập trong nỗi cô đơn, thất vọng. Chính trong đau khổ và khi vượt qua được khổ đau với niềm tin yêu tín thác, ta sẽ cảm nếm được hết giá trị của hạnh phúc, của nụ cười sau cơn hoạn nạn, khổ đau.
21.Đức Mẹ Sầu Bi--NguoiTinHuu.com
Trong một thời kỳ có đến hai ngày lễ để tôn kính sự Sầu Bi của Ðức Mẹ: một ngày lễ xuất phát từ thế kỷ thứ 15, ngày lễ kia từ thế kỷ thứ 17. Trong một thời gian cả hai ngày lễ đều được Giáo Hội hoàn vũ cử hành: một lễ vào ngày thứ Sáu trước Chúa Nhật Lễ Lá, một lễ trong tháng Chín.
Những dữ kiện chính yếu trong phúc âm đề cập đến sự sầu muộn của Ðức Mẹ là trong các đoạn của Thánh Luca 2:35 và Gioan 19:26-27. Ðoạn phúc âm theo Thánh Luca, là lời tiên đoán của cụ Simeon về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Ðức Maria; đoạn của Thánh Gioan nói về lời trăn trối của Ðức Kitô với Ðức Maria và người môn đệ yêu dấu.
Nhiều học giả thời Giáo Hội tiên khởi giải thích lưỡi gươm như sự sầu muộn của Ðức Maria, nhất là khi nhìn Ðức Giêsu chết trên thập giá. Do đó, hai đoạn này có liên hệ với nhau, như điều tiên đoán đã được thể hiện.
Ðặc biệt Thánh Ambrôsiô coi Ðức Maria như một hình ảnh sầu muộn nhưng đầy uy quyền ở chân thánh giá. Ðức Maria đứng đó một cách không sợ hãi, trong khi những người khác lẩn trốn. Ðức Maria nhìn đến các thương tích của Con mình với lòng thương cảm, nhưng qua đó ngài nhìn thấy sự cứu chuộc nhân loại. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập giá, Ðức Maria không sợ bị chung số phận nhưng sẵn sàng nộp mình cho kẻ bách hại.
Lời Bàn
Tường thuật của Thánh Gioan về cái chết của Ðức Giêsu có nhiều ý nghĩa biểu tượng. Khi Ðức Giêsu trao người môn đệ thân yêu cho Ðức Maria, chúng ta được mời gọi kính trọng vai trò Ðức Maria trong Giáo Hội: Ngài tượng trưng cho Giáo Hội; người môn đệ đại diện cho mọi tín hữu. Khi Ðức Maria làm mẹ Ðức Giêsu, ngài là mẹ của tất cả những ai theo Ðức Kitô. Hơn thế nữa, khi Ðức Giêsu chết, Thần Khí của Người thoát ra. Ðức Maria và Thần Khí ấy cộng tác với nhau để sinh ra con cái mới của Thiên Chúa - rất giống như sự tường thuật của Thánh Luca về việc thụ thai Ðức Giêsu. Kitô hữu có thể tin tưởng rằng họ sẽ tiếp tục cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Ðức Maria và Thần Khí Ðức Giêsu trong cuộc đời mình và qua lịch sử.
Lời Trích
"Dù dưới chân thập giá ngài vẫn giữ địa vị của mình, đứng ở đó như một người mẹ thê lương chan hòa nước mắt, để được gần Ðức Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng. Qua tấm lòng của người mẹ, sự đau buồn của Ðức Giêsu như được chia sẻ, cũng như mọi thống khổ cay đắng Người phải gánh chịu. Giờ đây, lưỡi gươm đã thâu qua" (Stabat Mater).
22.Đức Maria, “Mẹ của lòng thương xót”-- dcvxuanloc.net
“Đứng bên thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người”
Hôm qua Giáo hội đã tôn vinh Thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay Giáo hội lại tưởng nhớ Đức Mẹ với tước hiệu Mẹ Sầu Bi. Đặt hai ngày lễ lại gần nhau bởi vì Giáo hội đã nhận ra rằng thập giá của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ của Mẹ. Con đường thập giá Chúa Giêsu cũng chính là con đường thập giá của Mẹ Maria. Đức Maria là người đầu tiên được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để Người thi thố lòng thương xót trong công cuộc cứu chuộc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã tóm tắt tất cả tâm tình của Đức Mẹ bằng một câu: “Đứng bên thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người” (Ga 19,25). Đức Mẹ đứng bên cạnh con mình, âm thầm, không một lời nói, không một hành động. Nếu thánh giá là biểu hiện tột cùng của lòng Chúa thương xót cho nhân loại tội lỗi, thì việc Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá là để hiệp thông với Con mình trong tình yêu tha thứ và thể hiện lòng tha thứ của Mẹ.
Quả thật, Mẹ đứng dưới chân thập giá trong thinh lặng, không một lời than van, diễn tả thái độ quả cảm phi thường của tình yêu hiệp thông với Chúa Giêsu trong tâm tình tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,24); tâm tình dâng hiến, tin tưởng và phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha.” (Lc 23,46); tâm tình yêu thương đối với môn đệ Gioan là hình ảnh của Giáo Hội, ngay cả trong giây phút đau đớn cùng cực: “Thưa Bà, đây là con của Bà … Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26). Đây còn là sự quảng đại đón nhận đau khổ bất công, mang vào mình sự đau đớn của Chúa Giêsu và của chính mình với tất cả sức mạnh của tình yêu dâng hiến để thông hiệp vào hy lễ của Con Mẹ đền tội cho nhân loại.
Hình ảnh Mẹ “đứng bên Thập giá” còn thể hiện tình yêu tha thứ. Khi nghe Chúa thốt lên lời: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,24), Mẹ đã chứng kiến sức mạnh của tình yêu tha thứ của Chúa, tha thứ cho chính những người đã gây nên đau đớn hãi hùng cho mình. Đức Mẹ đã tham dự vào lòng thương xót đó vì cơn đau đớn hãi hùng của Chúa Giêsu cũng là cơn đau đớn hãi hùng của Mẹ và chính trong sự hiệp thông mật thiết này, Đức Mẹ đã học cách tha thứ cùng với Chúa Giêsu. Nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong tình yêu dâng hiến và tha thứ, Mẹ đã góp phần vào việc mạc khải lòng Chúa thương xót cho nhân loại tội lỗi.
Mừng lễ Mẹ Sầu Bi hôm nay, mỗi chúng ta được mời noi gương Mẹ cộng tác vào sứ mạng trao ban lòng thương xót của Chúa. Thương yêu, giúp đỡ những người đau yếu bệnh tật và gặp hoàn cảnh khó khăn xung quanh chúng ta là cách diễn tả tòng thương xót của Chúa cho nhân loại đau khổ lầm than. Sứ mệnh truyền thông lòng thương xót của Thiên Chúa đòi hỏi chúng ra phải yêu thương tha thứ ngay cả trong những đau khổ bất công, yêu thương tha thứ cả những người gây đau khổ cho mình, cả khi không thấy dấu hiệu của sự ăn năn hối cải.
Nhờ lời bầu cử và dắt dìu của Mẹ, chúng ta dám can đảm sống tình yêu thập giá của Chúa Giêsu như Mẹ bởi chỉ có tình yêu thập giá mới có khả năng chiến thắng sự dữ và hoán cải lòng người. Xin Mẹ hướng dẫn chúng con trong sứ mạng trao ban lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Amen.
14/09 Phải được giương cao
- Viết bởi Ga 3, 13-17
Phải được giương cao
Thứ Năm tuần 23 thường niên – SUY TÔN THÁNH GIÁ. Lễ kính.
“Con Người phải bị treo lên”.
* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết.
Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Phải được giương cao--‘Manna’
2. Ý nghĩa mới của Thập giá--TGM Giuse Nguyễn Năng
3. Cuốn sách hay nhất--GM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên
4. Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
5. Thập Giá giữa đời hôm nay--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
6. Treo cao trên thập tự--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
7. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
8. Lạy Cha, nếu có thể được--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
9. Lễ Suy tôn Thánh giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Bài học của Thánh Giá--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
11. Ba cuộc đời - ba cách chết--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
12. Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
13. Suy tôn Thánh Giá--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia
14. Suy tôn Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
15. Học yêu Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
16. Suy Tôn Thánh Giá-- Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
17. Thập giá vinh quang--hoidongxitothanhgia--Mai Thi
18. Làm thế nào để việc suy tôn Thánh Giá trở nên hữu hiệu?--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
19. Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ--Lm. Anthony Trung Thành
20. Lễ suy tôn Thánh Giá--Lm. Antôn
21. Lễ suy tôn Thánh Giá--Lm. Trần Bình Trọng
22. Chiêm ngắm tình yêu--JB. Lê Đình Nam
23. Thập giá trong đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Chân dung của lòng thương xót--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
25. Sùng kính hay là vác thập giá
26. Thập Giá, con đường về trời
27. Thập Giá và cuộc sống
28. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
29. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
30. Nghịch lý không trái ngược--Trầm Thiên Thu
31. Suy tôn Thánh Giá--J.M
32. Từ thập giá đến Thánh Giá--Lm Vũ Xuân Hạnh
33. Nhờ Thánh Giá hướng dẫn
34. Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa--Antôn Hoàng Văn Phúc, OP.
35. Con Người cũng phải bị treo lên
36. Thánh Giá Chúa--Lm. Hiền Lâm
37. Thánh Giá: con đường đời sống Kitô--JM. Lam Thy ĐVD
38. Vinh Quang Thánh Giá--Nữ tu Maria Madalena Phạm thị Huy, OP
39. Suy niệm về Thánh Giá--Jorathe Nắng Tím
40. Yêu cho đến cùng--Bông hồng nhỏ
41. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng--Jos. Vinc. Ngọc Biển
42. Nhìn lên Thánh Giá, bạn thấy gì?--Anna Điểm Mười
43. Thập Giá trở thành Thánh Giá--Anna Cỏ may
1. Phải được giương cao--‘Manna’
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ,
nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.
Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.
Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.
Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.
Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá.
Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người,
là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết,
nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một,
Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.
Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu.
Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước:
Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng:
Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.
Ngài để cho con người có tự do chối từ.
Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.
Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết,
ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá,
nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu,
nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:
"Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.
Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội,
dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
2. Ý nghĩa mới của Thập giá--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Thập giá là biểu tượng của thất bại và sự chết. Nhưng khi được giương cao trên thập giá, Chúa Giêsu đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: Thập giá trở thành vinh quang của Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhìn lên thập giá Chúa, con hiểu được phần nào tình Chúa yêu con. Vì tình yêu mà Chúa chấp nhận khổ hình thập giá: Thập giá đồng nghĩa với tình yêu, đường tình yêu cũng là đường thánh giá.
Lạy Chúa, thập giá đời con có thể là những giờ phút tâm hồn khô khan chán chường. Thập giá đời con có thể là bổn phận nặng nề vất vả. Thập giá đời con có thể là sức khỏe suy nhược, công việc thất bại. Thập giá đời con có thể là những người trong cùng một mái gia đình: vợ, chồng, cha mẹ, con cái trở thành gánh nặng cho nhau. Thập giá là đau khổ muôn hình vạn trạng.
Lạy Chúa, con không chối từ những thập giá ấy, nhưng vui lòng chấp nhận, vì con tin rằng: con đường thập giá không phải là đường cùng, nhưng hướng mở tới một chân trời mới. Thập giá nặng nề và vướng mắc chông gai, nhưng thập giá luôn loan báo một cuộc đổi mới. Chúa đã dẫn con đến sự sống, nhưng bắt đầu khởi hành từ thập giá. Xin Chúa gắn chặt thập giá đời con vào thánh giá Chúa, để con biết yêu mến thánh giá Chúa trong đời thường. Xin Chúa giúp con luôn tin tưởng nơi thánh giá Chúa, và xin giúp con can đảm nhận lấy những thánh giá trong cuộc đời. Xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin ban cho con tình yêu nhiều hơn nữa để con đủ sức vác thánh giá đến cuối đường con đã chọn, vì thánh giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người phải bị treo lên”.
3. Cuốn sách hay nhất--GM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay.
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
4. Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.
Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Giêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!
A. Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.
Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Giêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.
B. Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Giêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Giêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Giêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Giêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Giêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Giêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Giêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:
C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Giêsu
Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Giêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!
Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Giêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.
Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Giêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Giêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Giêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Giêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.
5. Thập Giá giữa đời hôm nay--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Tôi vừa nhận được một video clip do một người bạn gửi qua email. Nội dung clip này ghi lại cảnh những binh lính thuộc tổ chức tự xưng Nhà nước Hồi giáo (IS) giết hại những Kitô hữu tại Syria. Hàng chục người tín hữu tay bị trói và bị bắt quỳ trên đất, những người lính bịt mặt dí súng vào đầu họ rồi bóp cò, trong lúc hàng trăm người khác nhảy mừng tung hô như những kẻ say máu. Tôi không thể xem hết những hình ảnh này, vì nó quá dã man và kinh hoàng. Chúa ơi, tại sao những người này lại tàn sát các tín hữu của Chúa một cách ghê rợn? Không thể tưởng tượng tại sao những hành động như vậy lại đang xảy ra trên hành tinh của chúng ta ở thế kỷ 21, khi mà con người không ngừng kêu gọi ngưng bạo lực và bảo vệ nhân quyền, thậm chí là bênh vực và bảo vệ những loài động vật. Không chỉ giết hại những người công giáo, những hình ảnh do chính nhóm Nhà nước Hồi giáo phát tán trên internet còn cho thấy những cuộc tàn sát dân lành, trẻ em và phụ nữ tại Iraq và Syria. Từng đoàn người đang bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở của mình để lên đường tỵ nạn tới một nơi vô định và một tương lai mù mịt.
Trong những ngày qua, dư luận thế giới bàng hoàng trước việc binh lính Nhà nước Hồi giáo giết hại hai nhà báo người Mỹ là James Wright Folley 40 tuổi và Steven Sotloff, 31 tuổi. Hai nhà báo này đã bị giết hại bằng hình thức chặt đầu, như thời trung cổ.. James Wright Folley bị giết ngày 19-8-2014 và Steven Sotloff bị giết ngày 2-9-2014. Sự kiện này cùng với bạo lực ngày càng nghiêm trọng đã khiến cho tổng thống Mỹ Obama hôm 10-9 thề sẽ tiêu diệt hoàn toàn nhóm Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.
Không chỉ những Kitô hữu ở Syria hay ở vùng Trung Đông, những nhà truyền giáo và hoạt động tông đồ đang bị bách hại và giết chết ở nhiều nơi trên thế giới. Ngày chúa nhật 7-9 vừa qua, ba nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ chiều Chúa nhật trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy.
Trước tình hình bạo động và tàn sát các Kitô hữu tại một số nước vùng Trung Đông, Đức Thánh Cha đã cử vị Đặc sứ của Ngài là Đức Hồng Y Filoni, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đến tham và ủy lạo các cộng đoàn tín hữu tại Iraq từ ngày 13 đến ngày 20-8-2014. Đức Hồng Y đặc sứ đã trình bày với Đức Thánh Cha về tình trạng thê thảm tại Iraq: các làng mạc bị bỏ hoang vì người dân lành bị xua đuổi. Các nhà thờ bị tàn phá. Người dân ở đây thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống hằng ngày và bạo lực mỗi ngày một gia tăng.
Khi tàn sát dã man những người dân vô tội, những người Hồi giáo dòng SITE gọi cuộc khủng bố của họ là một cuộc thánh chiến. Họ mượn danh Thiên Chúa để làm điều ác. Họ phong chức “tử đạo” cho những binh lính chết trong khi tham gia những cuộc bạo loạn này! Con người không ngừng nhân danh Chúa để tàn sát lẫn nhau. Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta: “Sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,2).
Người Do Thái đã kết án Chúa Giêsu khổ hình thập giá. Người đã chịu chết trên thập giá để biểu lộ tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại. Trải qua hơn 20 thế kỷ, con người vẫn không ngừng ghen ghét sát hại những người tin Chúa. Thập giá ngày hôm nay vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử tệ bạc với nhau. Thập giá hiện diện nơi gia đình khi sự chung thủy và tình yêu bị phản bội. Thập giá hiện diện nơi cộng đoàn giáo xứ khi mọi người chia rẽ và thù ghét nhau. Thập giá hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử với nhau bằng mưu mô tính toán và ích kỷ hẹp hòi. Thập giá vẫn còn đó và chúng ta được mời gọi hãy mang thập giá cho nhau bằng cách hãy sống với nhau cách trung thực, nhân hậu. Đừng tăng thêm gánh nặng cuộc đời cho anh chị em mình, vì cuộc đời đã là một gánh nặng khó vác.
Trong bối cảnh xã hội vùng Trung Đông và trên thế giới hôm nay, chúng ta là những Kitô hữu được mời gọi hiệp thông cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta đang phải vác thánh giá. Sứ mạng làm chứng và tử đạo luôn luôn gắn liền với cuộc đời Kitô hữu. Đây đó trên thế giới này, luôn luôn có những cuộc tàn sát đẫm máu vì lý do sắc tộc hoặc lý do tôn giáo. Thế gian ghen ghét các môn đệ của Chúa, như họ đã ghen ghét và lên án tử cho Người. Người Kitô hữu chân chính là người biết nhìn lên thập giá để mỗi ngày, để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã chịu treo trên đó, đồng thời cảm nhận tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngắm nhìn thập giá cũng giúp chúng ta tìm được sức mạnh để bước đi trong cuộc đời đầy gian nan thử thách này, nhờ đó mà chúng ta vững tin như Chúa nói với chúng ta: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho anh chị em chúng con đang chịu bách hại trên khắp thế giới. Xin Chúa thêm sức cho họ, để họ biết chiến thắng bạo lực bằng tình yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa giúp chúng con vác thập giá cuộc đời hôm nay, để nhờ ơn Chúa, chúng con cũng biết vác thập giá giúp anh chị em chúng con. Amen.
6. Treo cao trên thập tự--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.
Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).
Suy niệm
“Xưa Môisê treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).
Sự giương cao của con Thiên Chúa qua cái chết trên thập tự để toàn thể nhân loại nhìn vào với niềm tin thì sẽ được cứu độ. Thật thế, nhân loại trải qua dòng lịch sử, cũng bất trung, nổi loạn khi sống song hành với bóng tối, từ lúc nguyên tổ khước từ quyền sống trong sự bao bọc tình yêu của Thiên Chúa khi nghe theo sự nổi loạn của Satan. Thiên Chúa không bỏ rơi con người, tình thương của Ngài hứa cứu độ và ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu.
Con người giương cao chính là Con Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa hứa ban cho thế gian. Con Một của Ngài đến, không phải để lên án, nhưng dẫn nhân loại đến đời sống vĩnh cửu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa cho nhân loại, chính tình yêu này là căn bản của công trình cứu độ xuất phát từ cung lòng Ngài, cung lòng tình yêu luôn trao ban dù rằng con người đã bất trung.
Con Một của Thiên Chúa - Đức Kitô chết giương cao để cho con người được cứu chuộc và được sống. Thánh Phaolô luôn ghi tạc trong tâm khảm đức tin hình ảnh Con Thiên Chúa giương cao trên thập giá: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài một Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2), để rồi sự sống của Thiên Chúa tỏ hiện trong cuộc sống của vị tông đồ dân ngoại: “Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
Nhân loại muốn đạt được ơn cứu độ phải đi theo con đường tin vào thập giá, nơi giương cao Đức Giêsu - Con Thiên Chúa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài dành cho qua cái chết của con Ngài trên thập tự, nhân loại sẽ được cứu rỗi.
Cuộc sống hàng ngày vốn bị chi phối bởi tội lỗi, bởi bóng tối của sự dữ. Chúng ta ngước nhìn lên Đức Kitô bị treo trên thánh giá. Ngài chiếu tỏa xua đuổi bóng tối trong cuộc đời chúng ta, đi theo ánh sáng của niềm tin vào Đấng được giương cao, như chính Đức Giêsu đã nói: “Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: Các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).
Mong sao mỗi người chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh từ thập giá khi ngước mắt nhìn với niềm tin: Đức Giêsu được “giương cao trên thập giá”, và cũng được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Người tin và đi trên đường của Ngài, cũng sẽ được như Ngài, vì lời Ngài hứa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32),
Ý lực sống:
“Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
7. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ. Biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá. Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
8. Lạy Cha, nếu có thể được--Lm Giuse Đinh lập Liễm
I. ĐỨC KITÔ, NGƯỜI TÔI TỚ VÂNG PHỤC
Đức Kitô được gọi là Tôi Tớ của Thiên Chúa vì Ngài đã mặc lấy thân xác của loài người trong thân phận người nô lệ để sống với loài người, hầu thi hành sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã giao phó cho. Cuộc đời của Ngài là cuộc đời vâng phục hoàn toàn, như lời thánh Tông Đồ đã nói: “Chúa Kitô đã sinh ra vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8).
1. Đức Kitô, người Tôi Tớ
Đức Giêsu lấy thân phận người tôi tớ làm thân phận của mình; là Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29), loan báo ơn cứu độ cho người nghèo (x. Lc 4,18t); tuy là Chúa và là Thầy (Ga 13,12-15), Người sống giữa các môn đệ như “kẻ phục vụ” (Lc 22,27); và Người đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình yêu thúc đẩy Ngài phục vụ như thế (Ga 13,1; 15,13) bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu chuộc nhiều tội nhân (Mc 10,43tt; Mt 20,26tt). Bởi đó Người đã bị đối xử như một tội phạm (Lc 22,37), rồi chết trên thập giá (Mc 14,24) trong khi biết rằng mình sẽ sống lại theo lời Thánh Kinh nói về Con Ngưới (Mc 8,31; Lc 24,44).
Lời rao giảng của các sứ đồ áp dụng cho Đức Giêsu tước hiệu Người Tôi Tớ để loan báo mầu nhiệm sự chết của Người (cvtđ 3,13t; 4,27t), là nguồn mạch phúc lành và ánh sáng cho chư dân (cvtđ 3,25t; 26,23). Là Con Chiên bị sát tế cách bất công như người Tôi Tớ (cvtđ 8,32t), Đức Giêsu đã cứu chuộc các chiên lạc của Người.
Trong một bài thánh ca, thánh Phaolô đã hùng hồn tóm tắt mầu nhiệm Đức Kitô và đức ái của Người: thánh ca công bố rằng Đức Giêsu đã vào trong vinh quang bằng cách mặc lấy thân phận Người Tôi Tớ và chết trên thập giá để vâng lời Thiên Chúa Cha Người (Ph 2,5-11). Vậy lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ loan báo lễ hy tế cứu chuộc của Con Thiên Chúa làm người. Bởi đó, tên của Người Tôi Tớ thánh thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là nguồn mạch độc nhất của ơn cứu rỗi (cvtd( 4,10tt ).
2. Đức Kitô, người Tôi Tớ vâng phục tự nguyện.
a) Giáo lý của Người.
Việc đầu tiên chứng tỏ Đức Giêsu đã tự nguyện vâng phục, đó là Người đã tự nguyện mặc lấy thân phận tôi tớ, mặc dầu Người vốn có hình thể Thiên Chúa (Ph 2,5-11). Người đã tự hủy mình đi để thi hành công cuộc cứu chuộc loài người. Trong đời sống thi hành chức vụ đó, Đức Kitô luôn nhắc đi nhắc lại cho chúng ta thấy Người đến không phải làm một việc gì khác ngoài việc đến để làm công việc do Cha Người đã ủy thác cho (x. Ga 4,38).
Thánh Phaolô cho biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước, cho nên của lễ Cựu ươc cũng thua kém của lễ Tân ước. Ngày nay, Chúa không thích lễ vật sinh tế mà thích tấm lòng của người dâng lễ vật. Trong thư gửi cho tín hữu Do thái thánh Phaolô viết: “Bởi đó lúc vào trần gian Ngài nói: “Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con. Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái. Bấy giờ con nói: Này con đến – trong cuốn sách đã nói về con – để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa (Dt 10,5-7).
Lần kia, các tông đồ vào thành mua đồ ăn về, thấy Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ mệt bên giếng Giacóp. Các ông bầy đồ ăn ra trước mặt Chúa, các ông mời Ngài: “Thưa Thầy, xin Thầy dùng bữa” (Ga 4,31). Chúa Giêsu không để ý gì đến thức ăn các môn đệ dọn sẵn. Đôi mắt Ngài còn chìm đắm trong cõi vô hình. Cảnh vật chung quanh như xa lạ với Ngài. Cuối cùng Ngài trả lời các môn đệ: “Thầy đã có của ăn rồi mà các con không biết” (Ga 4,32). Rồi khi thấy các môn đệ đưa mắt hỏi nhau về việc Ngài đã có của ăn, Ngài liền thêm: “Của ăn Thầy dùng là chu toàn ý Chúa Cha và thực hiện công việc của Ngài” (Ga 4,34). Nhiều lần trong đời Ngài, Ngài đã lặp lại và minh chứng hùng hồn điều đó: “Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4,38).
Ý tưởng về vâng phục đó còn được diễn tả một cách rõ ràng trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc thụ nạn, Ngài đã vào trong Vườn Cây Dầu để cầu nguyện, hầu xin sức mạnh để thực hiện một công việc hết sức khó khăn theo sức loài người. Đức Giêsu có những ý nghĩ và tâm tình như chúng ta: Người cũng cảm thấy buồn rầu lo sợ trước một cái chết cực kỳ dã man và ghê sợ nhất trong lịch sử loài người. Nhưng với ý chí sắt đá, Ngài đã thắng được tính yếu đuối nhúùt nhát của con người, Ngài đã dám cầu nguyện cùng Cha Ngài rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi con! Song không phải ý Con, mà là ý Cha” (Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).
b) Đời sống của Ngài.
Đức Giêsu đã tỏ ra lệ thuộc vào Cha trên trời một cách cụ thể trong khi vâng phục các tạo vật, theo phẩm trật tự nhiên, có thể quyền bính phần nào đối với Người. Thế nên, trong 30 năm Ngài sống hoàn toàn vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse, Người nhìn nhận uy quyền của Đức Chúa Cha, quyền bính của thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong những lời ngắn ngủi, Phúc âm tóm tắt cả một quãng đời riêng tư lâu dài của Đấng Cứu Thế: “Người đã vâng phục ông bà” (Lc 2,51). Sau đó trong đời sống công khai, nhất là trong cuộc khổ nạn, Người đã luôn nêu gương vâng phục quyền bính thiết định, tôn giáo cũng như dân sự, tuân phục những thẩm phán cũng như những đao phủ, theo lời thánh Phaolô: “Người đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá” (pl 2,8). Xuống thế vì vâng lời, Người đã ôm ấp cái chết, tại vườn Cây dầu Ngài đã thực hiện lý tưởng ấy (x. Lc 22,42).
c) Vâng phục tự nguyện.
Công cuộc nhập thể và cứu chuộc được thực hiện nơi Chúa Giêsu hoàn toàn do Người chấp nhận, không có một lý do nào khác ép buộc Ngài. Mọi công việc Người làm ở trần thế này không có một lý do nào khác ép buộc Người, chỉ có tình yêu Người đối với ta đã thúc đẩy.
Trong một bài thánh ca,thánh Phêrô đã mô tả như sau: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không phạm tội chi, chẳng ai thấy Người mở miệng nói lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ nà chẳng có ngăm đe, nhưng đã tự phó thác cho Đấng phân xử công bình. Tội lỗi chúng ta, Người mang vào thân mà đưa lên thập giá, hầu đối với tội lỗi, chúng ta như đã chết rồi để từ nay sống đời công chính. Nhờ mang thương tích, mà anh em được chữa lành” (1Pr 2,21-24).
Thánh Phaolô nói: “Người bỏ cái trước, để lập cái sau” (Dt 10,9), nghĩa là Người bỏ hy lễ Đạo Cũ để thiết lập hy lễ Đạo Mới. Vì sao Thiên Chúa không ưng việc tế lễ Đạo Cũ? – Vì nó chỉ là tượng trưng cho việc tế lễ hoàn hảo vô cùng của chính Ngôi Hai nhập Thể ở trong tương lai. Nó có giá trị trước mặt Chúa, cũng là nhờ giá tế phẩm chính thức sau này.
Nếu thế, thứ tế phẩm nào mới trông được làm cho Thiên Chúa hoàn toàn thỏa mãn? Để Chúa hoàn toàn thỏa mãn, phải có vật nào hoàn hảo (Dt 7,26) tự ý hiến thân, không bị cưỡng bức như các loài vật ta bắt đem sát tế; cũng không phải hiến cho ngọn lửa trần thiêu hủy trong một khoảnh khắc, như giết súc vật thiêu tế trong Đạo Cũ, nhưng phải là vật tự hiến cho ngọn lửa Tình vô cùng Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời. Nghĩa là chính tế phẩm ấy còn phải có sức yêu mến, đền tạ đầy đủ vô cùng, không như lễ vật đạo cũ không biết kính mến, cũng chẳng đền tạ được xứng đáng hết các tội lỗi, như thánh Phoalô đã nói: “Các thầy chủ tế hằng ngày đứng ra hành lễ, hiến tế nhiều lần cũng bấy nhiêu thứ, mà tuyệt nhiên không thể hủy diệt tội lỗi; trái lại, Chúa Kitô dâng chỉ có một lễ duy nhất đền tội, đoạn Người vẫn ngự bên hữu Thiên Chúa liên mãi” (Dt 10,11-12).
Còn một điểm hệ để cho Thiên Chúa được thỏa mãn trọn, là vị chủ tế cần phải xả thân tự hiến chính mình làm lễ vật cúng tế, không mượn vật khác xả tế thay như trong đạo cũ. Tất cả những đòi hỏi trên đều có đầy đủ nơi Chúa Giêsu và chỉ nơi mình Người thôi. Đó chính là Ngôi Hai nhập thể tự ý toàn hiến thân mình làm vật xả tế, để cho tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời. (Lm Phạm kim Xuyến, Lý tưởng toàn hiến, 1973, tr 101-102)
II. ABRAHAM VÀ GIÓP, HAI KHUÔN MẶT TÍN THÁC.
1. Việc hiến tế của Abraham.
Việc hiến tế của Abraham là việc làm của con người có một đức tin siêu việt, một lòng tín thác hoàn toàn và tuyệt đối. Xét theo lý trí của con người thì việc làm của Abraham mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa cho dòng dõi của ông được đông như sao trên trời, như cát dưới biển… Nhưng ông cứ làm về phía ông, còn về phía Thiên Chúa thì Ngài sẽ lo. Như thế mới làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm nên cái có thể trong cái không có thể đối với con mắt loài người.
Mờ sáng hôm ấy, người ta thấy một cụ già lặng lẽ dẫn đứa con giã từ Mambrê yêu dấu để ra đi. Họ đi về đâu? Thưa, đi đến một ngọn đồi xa lạ, theo một mệnh lệnh huyền bí. Trên đường trường hai người rong ruổi: cụ già lầm lũi đi trước, đứa trẻ lóc cóc theo sau. Suốt ba ngày đường cha con vẫn im lặng, âm thầm rảo bước, chẳng ai hé miệng nói gì. Mỗi người hình như đang bận tâm theo đuổi một ý nghĩ nào đó.
Người cha dáng vẻ ưu tư, đang băn khoăn, thắc mắc về những chuyện mới xẩy ra đã làm xáo trộn nếp sống an bình của ông. Cả một cuốn phim của thời dĩ vãng quay nhanh trong óc ông, với những vui buồn đắp đổi, bao hy vọng lóe lên sáng ngời… rồi vụt tắt!
Lúc Thiên Chúa gọi, Abraham đã 75 tuổi đời mà vẫn hiếm hoi và cũng chẳng còn mong mỏi nông nỗi gì nữa. Sara, vợ ông, cũng thế. Nhưng rồi tự ý Thiên Chúa, Ngài đã hứa cho dòng dõi ông nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển (St 15,5t). Ít lâu sau – Isaác – tên người con – ra đời để lời Giavê Thiên Chúa ứng nghiệm, và Abraham có thể tin rằng đứa con đây sẽ kế nghiệp mình như thiên ý đã quyết định. Thế mà oái oăm thay! Chính Đấng đã đề nghị, đã cam kết, nay lại yêu cầu tổ phụ hủy bỏ cái phương tiện thiết yếu để nối dõi tông đường, lại đòi tổ phụ phải đem chính con một yêu dấu nhất đời để hiến tế Ngài. Như thế thì Chúa đùa hay nói thật?
Có lẽ vì quá bận bịu trong tâm khảm, Abraham không kể chi ngoại cảnh, và cũng chẳng để ý đến đứa con đang lẽo đẽo theo sau. Trong khi đó, Isaac cũng loay hoay với những băn khoăn, thắc mắc riêng mà vẫn chưa tìm ra giải đáp, nên vội cất tiếng: “Cha ơi, củi có, lửa có, nhưng con chiên làm lễ vật ở đâu” (St 22,7)?
Abraham dừng bước, dáng vẻ thẫn thờ, trên khuôn mặt in hằn nét đau đớn. Thật vậy, câu hỏi của Isaac đã đưa tổ phụ về với hiện tại và đặt ông trước một thực tế bi đát, xót xa. Nhưng dù hoàn cảnh éo le, dù phải bước đi trong đêm tối nghi nan, tổ phụ vẫn cương quyết giữ vững niềm tin nơi Thiên Chúa, nên đã ôn tồn trấn tĩnh con: “Lo gì con, lễ vật Thiên Chúa sẽ liệu” (St 22,11t).
Thế rồi hai cha con lặng lẽ tiếp tục lên đường, cha già đi trước, đứa trẻ lững thững vác củi theo sau. Đến đỉnh núi Thiên Chúa đã định, Abraham dựng bàn thờ, chất củi lên, trói chặt con đặt trên đó, rồi một tay châm lửa, một tay cầm dao sẵn sàng giết chết chính con một yêu quí nhất đời, là niềm an ủi của tuổi già, là tương lai và hy vọng của cả một dân tộc… để hiến dâng cho Thiên Chúa (St 22,9tt).
2. Lòng kiên nhẫn tin tưởng của Gióp.
Kinh Thánh còn kể lại: xưa ở xứ Us, có một người tên là Gióp, một người liêm khiết và chính trực, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều gian ác. Ông sinh được 7 con trai và 3 gái. Ông có đàn súc vật gồm 7000 chiên, 3000 lạc đà, 500 đôi bò, 500 lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ôâng là người giầu có nhất trong các con cái Phương Đông (G 1,1-3).
Nhưng Thiên Chúa cho quỉ Satan thử lòng liêm khiết và lòng trung tín của ông: ông liên tiếp được tin báo người ta đã cướp hết gia sản, tôi tớ và cả mấy đứa con cũng chết luôn. Được tin ấy, Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, phục lậy và nói:
Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ,
Tôi cũng sẽ trần truồng về lại nơi đó.
Giavê đã cho, Giavê đã lấy lại
Đáng chúc tụng thay danh Giavê”. (G 2,21)
Cơn thử thách cũng chưa hết… Chúa còn cho Satan hành hạ chính thân xác ông: Satan lui khỏi nhan Giavê, và dùng ung sang hiểm độc đánh Gióp từ gan bàn chân lên tới đỉnh đầu. Gióp dùng một mảnh sành để gãi và ngồi giữa đống tro. Vợ ông bảo ông: “Ôâng còn kiên quyết trong sự liêm khiết của ông nữa thôi. Hãy nguyền rủa Thiên Chúa rồi chết đi”. Nhưng ông bảo bà: “Bà nói như một mụ điên. Chúng ta nhận điều tốt lành từ Thiên Chúa, làm sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh”? Trong tất cả các sự ấy, môi miệng Gióp không hề phạm lỗi” (G 2,7-10).
Sau những cơn thử thách cực kỳ gay go ấy, Thiên Chúa đã thưởng cho lòng trung thành của Gióp và ban tặng gấp đôi của cải: “Giavê đã chúc lành cho tình trạng mới của Gióp hơn cả tình trạng cũ. Ôâng có 14.000 chiên và 6000 lạc đà, 1000 cặp bò 1000 lừa cái. Ôâng được 7 trai và 3 gái… Sau đó, Gióp còn sống thêm 140 năm, và ông đã thấy con cái và cháu chắt mình đến bốn đời” (G 42,12-16).
3. Hai khuôn mặt, một lý tưởng.
Trước những thử thách cực kỳ gay go ấy, mỗi người một phương diện khác nhau, nhưng cả hai đều bị thử thách đến mức không thể tưởng tượng được, hầu như quá sức con người bình thường, nhưng cả hai ông đã gặp nhau được một điểm là hai ông đã tuân phục thánh ý Chúa, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào sự khôn ngoan của Ngài, sống dưới sự hướng dẫn của Ngài, còn việc của Thiên Chúa thì để cho Ngài lo.
Cho nên, chúng ta thấy, thử thách cần cho con người để biết lòng trung thành và mức độ thánh thiện của họ như “lửa thử vàng, gian nan thử người công chính” (x. 1Pr 1,7). Trong Thánh Kinh còn ghi lại lòng tin của Abraham, Giuse, Maisen, Giosuê đã bị thử thách nhưng các ông đã thắng (x. Hđ 44,20; Dt 11,1-40; 1Mac 2,52). Nhưng những thử thách còn ghi lại những trang sử đầy đen tối khi chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh nói về thử thách mà Chúa muốn thử lòng nguyên tổ Adong Evà (x. St 3,1tt). Nhưng rồi chúng ta cũng lấy làm phấn khởi khi đọc đoạn Phúc âm thánh Luca nói về việc Chúa Giêsu bị đưa vào sa mạc và chịu ma quỉ cám dỗ… Chúa Giêsu đã thắng và đã đem lại cho chúng ta một tấm gương sáng ngời (x. Lc 4,1tt).
III. KHUÔN MẶT TUÂN PHỤC CỦA CHÚNG TA
1. Ý nghĩa sự tuân phục.
Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự tuân phục hoàn toàn thánh ý Chúa và ta sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Người.
a) Trong kinh Lạy Cha.
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện, và kinh Lạy Cha là khuôn vàng thước ngọc cho sự cầu nguyện của ta. Trong các lời chúng ta cầu xin với Chúa, có một câu đáng để chúng ta lưu ý, nhất là trong bài suy niệm này: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta cầu nguyện để cho thánh ý của Chúa được thực hiện dưới đất là nơi lòng mọi người, nhất là nơi mỗi người chúng ta.
Mỗi người có một vật quí giá nhất đời và phải hy sinh của báu đó là cả một sự đau đớn cho ta. Abraham coi Isaac là của quí giá nhất đời nên khi phải giết con tế lễ Chúa, hẳn ông đã phải đau xót lắm. Đứa con quí nhất của chúng ta, có lẽ là ý riêng, và nếu phải bỏ ý riêng đi thì đó là cả một sự hy sinh lớn lao. Chúng ta hãy học gương bà thánh Giêtruđê, mỗi ngày đọc đi đọc lại câu than thở này tới 365 lần: “Xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi con”.
b) Từ bỏ sự tự do của mình.
Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên ao ước muốn sống hoàn thiện: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy đi bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo… rồi tới và theo Ta” (Mt 19,21), đó là lời khuyên khó nghèo của Phúc âm. Theo thánh Tôma Aquino, đó là lời khuyên vâng lời tự nguyện.
Theo Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ khước chính mình” (Mt 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể thực hiện được là hy sinh tự do của mình, thuận phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời.
Thực thế, “đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con người trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể sử dụng và hưởng thụ những tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình. Cũng như con người từ bỏ của cải hay bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng; để làm cho họ ñöôïc tự chủ, họ cũng khước từ chính mình”. (Sống với Chúa, tập 3, tr 232-234)
c) Như lễ vật toàn thiêu.
Theo Thánh Kinh, lễ vật toàn thiêu là một lễ vật hoàn hảo nhất đối với Do thái giáo. Trong nghi lễ này, người dâng hiến đích thân đem lễ vật tới bàn thờ. Lễ vật có thể là chiên, bê, bò… tùy gia cảnh, tùy trường hợp. Người dâng hiến đặt tay trên lễ vật, có ý ám chỉ lễ vật là tượng trưng tấm lòng chân thành của mình, sẽ hiến sự sống thay cho mình, đoạn cầm dao sát tế: máu đào lai láng chảy, rồi rảy chung quanh và trên mặt bàn thờ. Tiếp đó, tất cả lễ vật sẽ được thiêu tế thành hương khói xông lên trước tòa Thiên Chúa. Trong các lễ dâng khác, người ta còn được giữ lại một phần, nhưng ở đây phải thiêu tế hết, không được cắt xén, trừ lại, bớt lại một tí gì. Ngay cả tro của lễ vật cũng phải trộn với một thứ hương liệu làm thành hương thơm, đêm ngày nhả khói kỷ niệm trước tôn nhan Chúa.
Của lễ toàn thiêu mà chúng ta dâng tiến Chúa chính là ý riêng, ý chí tự do của ta. Đã dâng cho Chúa, ta không được quyền giữ lại một chút gì. Đó là dâng hiến hoàn toàn và vô điều kiện.
2. Tuân phục ý Chúa như thế nào?
a) Như một dụng cụ.
Chúng ta là sản phẩm của Chúa dựng nên, cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa dùng trong việc làm sáng danh Nước Người. Dụng cụ là gì? Là đồ dùng để làm một việc gì như chàng, đục, cưa để làm thợ mộc; máy may, kim chỉ dùng để may áo… Dụng cụ được coi như một phương tiện cần dùng để đi tới đích. Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới. Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra hay chỉ nghĩ tới tác giả của nó.
Chúng ta là dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự sử dụng vô cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu tự chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói:
Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ (Ca dao)
Truyện: Tuân phục thánh ý Chúa.
Khi nói đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết:
Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau:
- Tại sao anh lại làm thế? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
Nhưng cây viết trả lời:
- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay anh không còn là một tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người.
Cuộc đời chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người chúng ta chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự. (Mạch nước trường sinh, tr 52)
Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường, những thành công tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta mà do Chúa, vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc thi sĩ rồi. Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những việc cao vì không có tài: đôi guốc không hề phàn nàn vì phải đi ở dưới chân, chiếc mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu người ta… ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền người sử dụng. Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng:
Khi hoàn tất việc phải làm
Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng:
Này con vô dụng muôn phần
Phần con, con đã thi hành mà thôi. (Lc 17,10)
b) Tin vào Chúa quan phòng.
Chúa đã dựng nên mọi sự trong trần gian này và Người hằng điều khiển mọi sự trong trí khôn ngoan vô cùng của Người. Chúng ta là con người thấp hèn làm sao có thể biết được những chương trình sâu nhiệm của Thiên Chúa ở trong vũ trụ được! Hãy tin vào Chúa, và sống dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Người. Chúng ta hãy sống với Người như một đứa bé sống với gia đình, hoàn toàn phó thác tin tưởng.
Truyện: Lấy thứ kim cương nào?
Một vua kia muốn thử các con, xem ai khôn ngoan hơn, đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến, bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng một cặp mắt dịu hiền, rồi nói:
- Thưa cha, xin cha lựa chọn dùm con.
Vậy, vua cha chọn thứ kim cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn cách trọn vẹn hơn ữa. Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn, để vào trong hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần. Cuối cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng: Mai sau con út mình sẽ được nối ngôi làm vua. (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng 2, 1965, tr 37)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có nhiều lúc phân vân không biết phải hành động ra sao cho khôn ngoan, làm thế nào lợi, thế nào hại. Chúng ta chỉ thấy cái việc lợi hại trước mắt, mà không biết cái lợi hại sau lưng, nhìn cái phúc là phúc tuyệt đối mà không biết cái họa đàng sau, và ngược lại.
Người khôn ngoan thì nhìn cái phúc và cái họa dưới một khía cạnh khác. Họ bảo: “Phúc hề họa chi sở phục, họa hề phúc chi sở ý”: phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc. Cũng như họ bảo: “Dương trung hữu âm căn, âm trung hữu dương căn”: Trong dương có gốc âm, trong âm có gốc dương. Họa phúc cũng như âm dương tương liên tương ứng không thể rời nhau mà đơn phương tồn tại.
Truyện: Ông lão mất ngựa.
Một ông lão có con ngựa hay, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Mất ngựa, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?
Cách mấy tháng sau, con ngựa trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia mừng. Ông nói:
- Được nhiều ngựa hay, nhưng sao các ông biết đó là phúc cho tôi?
Từ ngày có ngựa hay, con trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Con tôi què, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?
Năm sau có giặc. Nhà vua bắt lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau. (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 257)
c) Sống lạc quan và phó thác.
Một khi đã biết sống tin vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv 131). Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.
Ta hãy nhận xét một bức thảm Ba tư. Nó mịn, đẹp, mầu sắc rực rỡ lắm? Nhưng hãy lật mặt trái nó ra mà xem: toàn là những sợi chỉ chi chít. Đời sống ta cũng thế. Ta chỉ trông thấy mặt trái thôi. Mặt phải tức là cái tư tưởng cao đều ở trong tay Chúa. Chính Chúa đã dệt tấm thảm đời sống ta, trí khôn chúng ta chỉ có hạn không hiểu được ý định của Người. Tư tưởng của Người không phải là của ta, đường lối Người không phải là đường lối của ta (Tihamer Toth, Chí khi người thanh niên, tr 120).
Hằng ngày chúng ta được Chúa ban cho biết bao nhiêu sự may mắn, hạnh phúc…sao ta không biết nhìn nhận cái ấy để cảm ơn Chúa, mà chỉ chú ý nhìn những cái bất hạnh để rồi buồn phiền than thân trách phận, và đôi lúc, còn dám có những ý tưởng phạm thượng! Đừng nhìn mặt trái của tấm thảm Ba tư, mà hãy nhìn mặt phải, ta sẽ thấy nó đẹp, đáng yêu.
Phần đông chúng ta thường quan niệm hạnh phúc là một cái gì khó tìm thấy. Khó đạt được và phải mua bằng một giá rất đắt, nhất là phải có rất nhiều tiền và thế lực. Có kẻ lại còn cho hạnh phúc không có trên cõi đời này. Có kẻ lại cho rằng hạnh phúc nếu muốn thực hiện trên cõi đời này, phải làm một cuộc đại cách mạng bằng xương máu… Sao mà quan trọng thế?
Kim Thánh Thán, trái lại, chứng minh cho ta thấy rằng không cần tìm đâu ra xa cả, nó quanh quẩn bên ta hằng giây hằng phút. Có cái sung sướng nào mà không nằm trên cái khổ. Sướng và khổ không bao giờ rời nhau. Muốn được sướng mà lánh khổ là việc làm vô lý. Vật chất là điều kiện của tinh thần, cho nên có cái sướng tinh thần nào mà không lệ thuộc vào vật chất? Có đói, ăn mới ngon! Ai mà không biết (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 129)!
3. Tuân phục Chúa trong sự gì?
Chúng ta không ngập ngừng mà thưa ngay rằng: phải tuân phục Chúa trong hết mọi sự vì chúng ta đã tận hiến cho Chúa trong đời tu trì rồi. Việc bước theo Chúa này – như thánh Tôma quan niệm – đòi hỏi hai điều kiện căn bản: từ khước và dâng hiến. Thế gian đã cung cấp cho khuynh hướng xấu của ta ba loại lương thực, theo thanh Gioan Tông đồ, đó là thèm muốn của xác thịt, thèm muốn của con mắt và kiêu ngạo của sự đỡi x. 1Ga 2). Và ở trong thế gian này, không có gì khác cám dỗ con người phạm tội ngoài ba cái ma lực vừa kể. Thành thử, muốn trung thành với Thiên Chúa, tiên vàn phải dứt bỏ những đối tượng di dưỡng khuynh hướng tội lỗi vốn nằm vùng trong bản thân ta, bằng cách tuyệt tài, tuyệt sắc và tuyệt ý.
Như thế vẫn chưa đủ, người tu sĩ cần phải dâng hiến mọi giá trị chính đáng nhất ở đời: của cải trần gian, thân thể nguyên vẹn và ý chí toàn diện. Dâng như thế là dâng tất cả, có thể nói đó là một lễ toàn thiêu, một hiến tế hoàn hảo. Ngoài ra, lời tuyên khấn còn thực hiện một sự bóc lột, một sự chuyển nhượng triệt đẻ quyền tư hữu. Một khi đã tuyên khấn thì thời giờ, tài sản, khả năng, sức khỏe, thân thể… của tu sĩ, không còn là của tu sĩ nữa, mà đã thuộc về Thiên Chúa. Từ nay tu sĩ phải chết cho thế gian, chết cho chính mình để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa, sống vì tha nhân. Tu sĩ là những người đã được tách biệt để chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ nhân loại.
Truyện: Gương của cha Pereyve
Cha Pereyve tưởng mình sẽ chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết: bệnh của tôi không biết sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.
Lạy Chúa, Chúa biết con muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh ý Chúa muốn cho con làm việc khác: việc chết non, việc vui lòng đón nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả những gì tùy theo: ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự cũng chưa. (Trần công Hoán, Truyện hay 3, 1965, tr 54)
4. Trong hoàn cảnh thực tế của mỗi người.
Mỗi người có một thánh giá riêng hợp với sức mình, vì Chúa không bắt ai phải chịu thử thách quá sức chịu đựng. Chính Chúa đã trả lời cho thánh Phaolô khi ngài bị thử thách nặng nề: “Sufficit tibi gratia mea: ơn của ta đã đủ cho con (2Cr 12,9). Những thánh giá đó có thể là bệnh tật, làm ăn thất bại, hoàn cảnh gia đình, bởi những người chung quanh, những biến cố xẩy ra ngoài y muốn…
Nhưng dù sao, cũng cần phải có thánh giá, phải có hy sinh. Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Không có đổ máu, không có phần rỗi” (Dt 9,22). Lời sách Khôn ngoan cũng dạy ta như vậy:
“Con ơi, nếu con muốn được phụng sự Chúa, con hãy sẵn lòng chịu thử thách. Con hãy tạo lấy một tâm hồn ngay thẳng, võ trang bằng lòng can đảm, lúc gặp nghịch cảnh đừng nản chí. Con cứ bám chặt lấy Người, đừng rời xa, mới mong được cất nhắc lên trong ngày sau hết. Có xẩy đến sự gì, con cứ đón nhận đi và trong các cơn thăng trầm của thân phận con, con hãy tỏ ra kiên nhẫn, vì vàng cần phải thử trong lửa và người được chọn cần được thử trong lò lửa nhục nhã” (Kn 2,1-5).
Thử thách để tẩy luyện linh hồn và làm cho linh hồn được vững vàng trong đường nhân đức. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là người làm vườn khéo: cây hồng được “nương chiều” như thế cũng không thể nở hoa được… Người không muốn hy sinh, không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc được.
Chúng ta hãy xem gương thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ chẳng lớn lao gì, nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng khai thác triệt để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta hãy nghe thánh nữ kể:
“Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng sách”.
Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41)
Những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu đựng như Têrêsa Hài đồng!
Cha Sertillanges nói: “Hãy dùng những viên đá người ta ném mình để xây nhà cho mình”. Đúng thế, chung quanh ta có biết bao nhiêu người luôn tìm cách phê bình chỉ trích mà không ai giúp đỡ ta hành động tốt đẹp hơn, làm gì họ cũng chê, nói gì họ cũng bắt bẻ được. Nếu ta cứ ngồi thu nhặt những hòn đá người ta ném ta để ném lại họ, thì không bao giờ hết:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
Tay đâu bụm miệng người đời thế gian.
Thê nên tốt hơn hết là biết dùng những hòn đá họ ném ta để xây dụng cho chính mình. Nếu là những vu khống cáo gian: chúng sẽ làm tăng giá trị cho ta trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới thấu hiểu suốt tâm trí, còn con người chỉ xét đoán theo cái họ trông thấy bên ngoài. Như thế, mọi sự đều có thể sinh ích lợi cho ta.
Truyện: Con hổ và lũ khỉ.
Người ta kể chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến…
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: “Cái khó nó bó cái khôn”. Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta: cũng như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng nếu những hạt cát ấy rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến thành một hạt ngọc trai quí giá. Đau khổ đi theo chúng ta như hình với bóng, không thể nào rời nó được. Nhưng có một cái lạ: nếu ta đuổi nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo. Chỉ còn có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ thì đời ta mới sung sướng được.
KẾT LUẬN
Chúng ta đang mừng lễ Suy tôn Thánh giá Chúa. Chúng ta hãy suy ngắm sự thương khó Chúa để thông cảm với những sự thương khó của Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội cho chúng ta và toàn thể nhân loại. Đặc biệt chúng ta hãy suy ngắm đoạn Phúc âm nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Cây Dầu để nhờ đó chúng ta thêm hăng hái theo Chúa trong bước đường tu trì, nhất là chúng ta biết quên mình đi để tuân phục thánh ý Chúa một cách trực tiếp hay qua trung gian. Chớ gì trong đời sống, ta luôn thưa được với Chúa trong mọi cảnh ngộ rằng: “Lạy Cha, xin theo ý Cha, đừng theo ý con” (Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).
Những đau khổ, những trái ý hằng ngày là những dịp tốt để chúng ta dâng cho Chúa nhiều hy sinh. Nếu chúng ta biết lợi dụng, những hy sinh nhỏ mọn ấy sẽ trở nên những viên ngọc đặt vào triều thiên cho chúng ta trên thiên đàng.
Truyện: Hạt trân châu.
Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ:
- Hãy dừng bước lại.
Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ:
- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
Cả ba làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm:
- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.
Các kỵ mã lên đường rong duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba chàng kỵ mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít quá. (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)
Để kết thúc bài suy nieäm hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld để thề hứa với Chúa là sẽ luôn luôn tuân phục ý Ngài:
Lạy Cha, con phó trót con cho Cha,
Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.
Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.
Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài Cha tạo dựng:
Con chẳng muốn chi khác nữa, vì Cha là Chúa trời con.
Con phó trót linh hồn con trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của lòng con.
Vì con mến Cha, và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.
Lạy Cha, con phó trót mình con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của con.
9. Lễ Suy tôn Thánh giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá”. Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)
10. Bài học của Thánh Giá--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
A. LỊCH SỬ
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và đem an táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến.
Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng bận bịu với việc Chúa sống lại. Mừng quá cho nên các ngài cũng chẳng ai còn để ý tới cây Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Rồi sau đó với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Điều mà người ta quan tâm đến nhất trong thời kỳ này là xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu còn những di vật và kỷ niệm vật chất của Ngài, thì không ai để ý.
Mãi cho đến khi có nhiều người ở xa Đất Thánh đã tòng giáo và muốn hành hương đến những nơi Chúa đã sinh sống, thì lúc đó việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa mới trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh này mà người ta đã đi tìm cây Thập Giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên đó khi bị đóng đinh.
Và ngay lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật Thánh; thập giá trở thành Thánh Giá, và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh Giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, để khám phá lại những giá trị quí giá cao cả của cây Thánh giá.
B. BÀI HỌC
1. Có thể nói bài học đẹp nhất mà cây Thánh Giá dạy cho chúng ta đó là bài học về lòng yêu thương.
Thường thì khi muốn biết được một ai đó là người như thế nào thì người ta có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của người đó ma đánh giá. Bởi vì trước khi chết, thường thì người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.
Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Rôma, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta thường cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe những tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.
Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài. Các tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài. Dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin. Chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nổi khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin Mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.
Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng yêu thương. Câu thứ nhất: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ (Lc 23,34); câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi” (Lc 23,43); và câu nói thứ ba: “Thưa Bà này là con Bà” (Ga 19,26).
Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương, thì khôg có gì hết.
Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế.
2. Bài học thứ hai.
Sự chiến thắng của cây Thập Giá.
Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn xuống hải cảng được người Bồ Đào Nha xây cất đã bị trận bão làm đổ nát hoang tàn. Tuy nhiên, như một phép lạ, mặt tiền của ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn và cây Thánh Giá bằng đồng vẫn còn đứng vững. Khi ông John Browin toàn quyền Hồng Kông đến thăm viếng cảnh tượng, ông phải sửng sốt khi nhận ra điều đó. Tối hôm ấy, ông đã ghi lại những dòng sau đây: “Tôi được vinh dự trông thấy Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá vẫn đứng vững qua mọi đỗ vỡ của thời gian. Tất cả ánh sáng của lịch sử đều qui tụ nơi Thập Giá vinh quang”.
Đã gần hai ngàn năm qua, kể từ khi lính Rôma cưỡng bách Chúa Giêsu vác Thập giá đi xuyên qua những con đường chật hẹp ở Giêrusalem; cũng như khi Ngài bị vấp ngã, làm họ phải cưỡng bách một người qua đường vác đỡ Thánh Giá với Ngài, giúp Ngài tiến tới một nơi gọi là Núi sọ, thì từ lúc đó Thập Giá đã trở thành biểu tượng của một tôn giáo có hơn một tỷ rưỡi tín đồ: có mặt trên 220 xứ sở và lãnh thổ trên khắp mặt đất này.
Dựa theo những dữ kiện được ghi lại trong sách Tin Mừng, Bác sĩ Wiham Eswori tại bệnh viện Midio bên Hoa kỳ đã nghiên cứu về hình phạt Thập giá. Cuộc nghiên cứu đã cho ông thấy rằng người Rôma không phải là người đã phát minh ra hình phạt Thập giá đầu tiên. Thật ra tử hình Thập Giá đã được người Assiry đã dùng vào thế kỷ VII trước Công nguyên, nhưng người Rôma đã có công hoàn thiện nó để nó trở thành một hình thức tra tấn xử tử có sức tạo ra một cái chết chậm rãi đớn đau nhất. Thập giá chỉ dành để xử tử những người nô lệ ngoại quốc và những người dám chống lại đế quốc cũng như những người phạm trọng tội nơi các miền đất mà những người Roma cai trị. Luật Rôma thường bảo vệ những người công dân của họ khỏi bị hình phạt Thập giá.
Nạn nhân bị đóng đinh treo trên Thập giá thường chết vì nghẹt thở. Đây hẳn phải là cách xử tử dã man nhất trong nhân loại.
Thế nhưng, thật là kỳ diệu! Khi Chúa Giêsu nằm trên cây Thập Giá thì Ngài đã biến Thập giá thành biểu tượng tình yêu của Ngài đối với nhân loại.
Khi đón nhận Thập giá ấy, Chúa Giêsu đón nhận ý của Thiên Chúa Cha để thể hiện tình yêu của Người dành cho loài người. Chỉ có tình yêu mới có thể lý giải được ý nghĩa của sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng dành cho con người.
Như vậy suy tôn Thập giá không có nghĩa là đề cao một hình phạt hay vui thỏa một cách bệnh hoạn ở nơi những trong khổ đau Chúa phải chịu, mà chính là ca ngợi tình yêu của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thập giá không những tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn, mà nơi Thập giá chân lý về con người còn được tỏ bày một cách trong sáng nhất để rồi chính từ trên Thập giá mà Chúa đã đi đến chiến thắng oai hùng nhất. “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Thập giá là chân lý của chúng ta, Thập giá là lẽ khôn ngoan của chúng ta, Thập giá là lẽ sống của chúng ta, Thập giá là sức mạnh của chúng ta. Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta đi trên con đường Thập giá của Ngài. Amen.
11. Ba cuộc đời - ba cách chết--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
12. Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.
Cử Hành Với Niềm Vui
Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.
Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.
Câu chuyện tình yêu
Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy." (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên".
Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: "Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội." Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn," hiện thân của tội lỗi", đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
13. Suy tôn Thánh Giá--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
14. Suy tôn Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Cô Ann Thomas có kể lại câu chuyện ý nghĩa.
Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
– Có đồ gì đáng giá không?
Ann trả lời:
– Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ han rỉ và nói:
– Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:
– Con sao vậy?
Bobby nói:
– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
******
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Thập giá là gì?
Thập giá (tức là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu) là khúc xương khó nuốt nhất đối với các môn đệ. Ba lần Chúa báo trước cuộc tử nạn. Cả ba lần họ đều không hiểu và không chấp nhận. Các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà. Thập giá gợi lên một cây khổ giá trần trụi. Thập giá gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn, nhục nhã nỗi ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, hấp hối giữa sống và chết, bị nhiếc mắng trước những cái nhìn thù ghét và khinh khi, bị chê bai trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Phêrô đã từng run rẩy can ngăn Chúa Giêsu đừng đi vào con đường thập giá. Các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Những lời dạy của Chúa Giêsu sau ba lần loan báo cuộc khổ nạn giải thích ý nghĩa của tình yêu Thánh Giá.
– Lần thứ nhất, Chúa phán: ” Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
– Lần thứ hai, Chúa dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,34).
– Lần thứ ba, Chúa dạy: “Con Người đến không phải để cho người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mc 10,45).
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại. Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
– “Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
– Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)
– Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)
– Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
– Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
– Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
– Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
– Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:
– Vì năm vết thương
– Chí thánh và vinh hiển.
– Xin Chúa Kitô
– Gìn giữ
– Và bảo vệ chúng ta.” (Sách Lễ Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: “Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ”. Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới”. Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo: “Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông”. Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
15. Học yêu Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.
Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.
Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá, Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất: Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
16. Suy Tôn Thánh Giá-- Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cái chết của Chúa Giêsu theo con mắt người đời, nhất là đối với người Do Thái lúc đó là một sự thất bại, một sự dại dột vì trước thách thức của người Do Thái:” Nếu hắn là Ðấng Kitô, là vua Israen, hắn cứ việc bước xuống khỏi thập giá ngay bây giờ cho ta thấy rồi ta tin ” (Mc 15, 32).
Chúa Giêsu vẫn một mực im lặng. Sự lặng thinh của Chúa thật khó hiểu vì Ngài chấp nhận ý Cha để cứu chuộc nhân loại qua cái chết thập giá . Chết là lời nói cuối cùng diễn tả tình yêu tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với thế giới, đối với mọi người. Chết mới nói lên lời:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).Thập giá là hình phạt vô cùng bỉ ổi và ác độc của người Do Thái và La Mã đối với con người, đối với tội nhân.Thập giá theo nhãn giới người thường là một thất bại ê chề,một thảm họa của con người mang nhãn hiệu”tội nhân”bị kết án tử hình. Nhưng thập giá là mầu nhiệm tình thương,muôn đời con người có lòng tin vẫn suy phục tôn kính thánh giá. Thánh giá là nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ, là cuốn sách giá trị nhất trong mọi cuốn sách vì nơi đó con người tìm được sự an bình và hạnh phúc, con người tìm được niềm vui và ơn giải thoát khỏi tội lỗi.
Nguồn gốc ngày lễ suy tôn thánh giá
Sách ghi lại rằng thánh Hélène, mẹ của vua Constantin,đã để lại một tượng thánh giá trong thành thánh Giêrusalem dưới thời hoàng đế Hérachius I.Người Ba Tư vào thời gian đó đã tiến chiếm Giêrusalem và lấy đi một phần chính của thánh giá thật mà thánh Hélène đã dâng cúng tại thành thánh Giêrusalem.Vua Hérachius I nhất quyết lấy lại thánh giá này. Vua ăn chay,cầu nguyện,kêu gọi dân chúng hối cải, ăn năn sám hối, ăn chay,cầu nguyện để xin chúa thương giúp đỡ, bảo vệ,hun đúc tinh thần quả cảm,can đảm để chiến thắng quân Ba Tư, hầu thánh giá thật được dựng lại trong thành thánh Giêrusalem. Lời cầu nguyện của vua Hérachius I và toàn dân đã được Chúa thương nhậm lời. Vua và quan quân đã đánh bại,chiến thắng quân Ba Tư và trở về Constantinople trong tiếng reo hò,hoan ca vang dội của toàn dân.Dân chúng cầm cành ô liu trong tay,và cầm những ngọn đuốc cháy sáng cung nghinh thánh giá thật đã được tái chiếm lại trong tay quân Ba Tư với niềm vui tràn trề. Hoàng đế Hérachius I sung sướng không kể xiết, muốn trở vể Giêrusalem ngay sau 14 năm thánh giá thật bị lưu lạc nơi quân Ba Tư. Nhà vua tiến vào thành thánh,nhưng trước khi bước lên núi Sọ, nhà vua không thể nào bước đi được khiến mọi người âu lo và sợ sệt . Trước sự lạ ấy,Giáo Trưởng Zacharie hô lớn:” Tâu Ðức Vua,chắc chắn phẩm phục sang trọng mà Ðức Vua đang mặc không xứng với sự khó nghèo và khiêm tốn mà Chúa Giêsu xưa đã thực hiện khi vác thập giá “.Nhà vua nghe lời vị Giáo Trưởng kêu mời và vội cởi bỏ phẩm phục sang trọng,lộng lẫy mà vua đang mặc để khoác vào người bằng bộ quần áo khó nghèo.Tức thì,vua bước đi được một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân và để chứng tỏ tình thương bao la vô biên của Chúa, Chúa đã làm vô vàn phép lạ trong ngày kỷ niệm đáng ghi nhớ đó. Giáo Hội đã lập thánh lễ suy tôn thánh giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố lớn lao,lạ lùng và đáng ghi nhớ này.
Thánh giá luôn là thách đố cho con người
Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỉ, đã từ chối mưu kế của satan,quỉ dữ .Ngài đã ngước mắt lên trời,thưa với Chúa cha rằng:” Lạy Cha con xin phó linh hồn trong tay Cha “( Lc 23,45 ).Chúa Giêsu đã tín thác tất cả sinh mạng của Ngài trong tay Chúa Cha để Cha lo toan và định liệu. Chính Chúa Cha đã làm cho Chúa Giêsu sống lại để cai trị,điều khiển mọi sự trên trời dưới đất ( Mt 28, 18 ).Chúa Giêsu đã phục sinh để làm cho con người có sự sống mới, sự sống vĩnh cửu. Thập giá luôn là thách đố cho con người, nhưng ơn cứu độ chỉ có được nơi thập giá vì chính nơi Chúa Giêsu, ơn cứu độ chứa chan nơi Người .
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mến yêu thánh giá vì cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho chúng con.
Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn làm chứng cho tình thương vô biên của Chúa.
Xin cho chúng con luôn biết giới thiệu thánh giá cho mọi người vì có kinh qua sự đau khổ thập giá như Chúa, chúng con mới được vinh quang.
17. Thập giá vinh quang--hoidongxitothanhgia--Mai Thi
Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém... nhưng Cây Trường Sinh đó chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.
Đối diện với thập giá Đức Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta "im tiếng đi mà cung kính" mà chúng ta còn bị lôi cuốn bởi sự thinh lặng của chính thập giá chúng ta chiêm ngắm. Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém... nhưng "Cây Trường Sinh đó" chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.
Thập giá: mầu nhiệm của sự thinh lặng.
Suốt cuộc hành hình: bị tra tấn, vác thập giá, chịu đóng đinh và cho đến lúc chết trên thập giá, Đức Giêsu hầu như im lặng. Ngoài 7 lời ngắn gọn cuối cùng rút ra từ các sách Tin mừng, chúng ta không biết thêm câu nói nào khác của Đức Giêsu. Vậy sự im lặng của Ngài hẳn có lý do, có ý nghĩa....
- Thứ nhất, sự thinh lặng của Đức Giêsu là tiếng vâng tuyệt đối trong kế hoạch cứu độ của Chúa Cha.
Mặc dù bị xử oan, chịu đau đớn trong thân xác, mặc dù đau khổ tủi nhục vì bị mắng nhiếc phỉ nhổ, bị môn đệ bội phản và cô đơn nhưng... Đức Giêsu vẫn không một tiếng than trách, kêu la. Phải chăng Đức Giêsu chẳng còn nghe, hay vô cảm trước tiếng la ó, lời thách thức hay khiêu khích của nhóm người đã đóng đinh Ngài? "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Israel! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! (Mt 27, 42).
- Thứ hai, sự im lặng của thập giá Đức Giêsu cũng là một loại ngôn ngữ. Nơi Thập giá, Thiên Chúa nói tất cả, Ngài nói bằng sự im lặng. Sự thinh lặng của Thập giá diễn tả sự kết hợp khắng khít, sâu đậm giữa Đức Giêsu với Cha.
Với sự thinh lặng của thập giá, chúng ta cũng được mời gọi đọc ra sứ điệp của Đức Giêsu đối với chúng ta. Quả thật, trong thinh lặng, chúng ta mới dễ dàng sống con người thật của mình và cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Thiên Chúa nơi dung mạo của Đức Giêsu. Và chỉ trong cái nhìn ấy, chúng ta mới nghe được chính tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa.
Thập giá Đức Giêsu: tình yêu đến cùng.
Trong thinh lặng của thập giá, sự hùng biện của tình yêu sống động của Thiên Chúa lên tiếng (x. Phụng vụ các giờ kinh, giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần Thánh): "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu".
Thánh Gioan tông đồ đã tóm tắt nội dung cốt lõi của đạo Kitô giáo trong một câu thật ngắn gọn nhưng vô cùng quan trọng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thiên Chúa yêu chúng ta và tình yêu đó không bao giờ ngưng hay suy giảm. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là tình yêu nhưng không, vô biên giới và cho đến cùng. Tình yêu đó thể hiện trọn vẹn nơi thập giá Đức Giêsu Kitô.
Thập giá Đức Giêsu không chỉ mạc khải về tội lỗi của con người, mà còn tỏa chiếu ánh sáng của Tình yêu. Cái chêt của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu lộ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Thập giá của Đức Kitô nói cho nhân loại biết rằng, Thập giá là lời đáp trả của Thiên Chúa đối với sự dữ của thế gian, đó cũng là dấu chỉ của tình yêu, của lòng từ bi và tha thứ. Xét dưới góc độ đó, thập giá Đức Giêsu không phải là thất bại, trái lại là một chiến thắng vinh quang.
Vinh quang của thập giá.
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá xét theo người đời là một thảm bại, một sự ngu dại, một cớ vấp phạm... nhưng "thập giá đã nở hoa". Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta, chính qua cây thập giá, Thiên Chúa đã chiến thắng. Vinh quang đã thuộc về Thiên Chúa và ơn cứu độ đã hoàn thành đúng như lời Ngài đã hứa trước: "Khi nào Ta được treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta". Sự chiến thắng của thập giá cũng không theo cách hiểu của người ta mà là chiến thắng sự chết và chiến thắng tội lỗi.
Đối với những kẻ tin, thập giá mới có lý do hiện hữu. Thánh Phaolô đã chẳng xác định: “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Ngài” (1Cr 1,27-29).
Tóm lại: vinh quang của Thiên Chúa là thập giá, giây phút huy hoàng và thành công nhất là lúc Ngài giương cao lên và giơ đôi tay ôm trọn nhân loại. Khi treo lên cây thập tự, Đức Giêsu không chỉ còn là “vua dân Dothái” nhưng là vua của tất cả vũ trụ và nhân loại cho đến muôn đời. Ngài làm tất cả vì chúng ta, cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Lời yêu thương và hành vi trao ban tình yêu cho đến cùng của Ngài vẫn trào trào trong đời chúng ta nhưng đôi khi được thể hiện qua mầu nhiệm của sự thinh lặng. Vì thế chúng ta khiêm tốn xin Chúa giúp chúng ta "đọc" ra thánh ý Thiên Chúa mỗi khi chiêm ngắm Thập giá Đức Kitô.
18. Làm thế nào để việc suy tôn Thánh Giá trở nên hữu hiệu?--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là biểu hiệu (logo) của Thiên Chúa giáo, cũng như chữ Phạn của Phật giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Những biểu tượng này được những người theo tôn giáo hay học thuyết đó quí trọng và đề cao, điều đó cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng người Công Giáo suy tôn Thánh Giá, tôn thờ Thánh Giá, chắc hẳn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải tôn thờ đau khổ và chết chóc, cũng chẳng phải tôn thờ một báu vật gợi nhớ một kỷ niệm xa xưa. Thập giá, mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ, nói lên trọn vẹn niềm tin của họ và là niềm hy vọng duy nhất họ có. Tại sao vậy?
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Đúng là toàn bộ cuộc sống của Đức Giê-su nơi dương thế là để nói lên có một điều mà nhân loại chưa từng bao giờ được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Tuy nhiên thập giá còn nói lên một điều khác còn sâu xa hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ đã chết cho chính nhân loại tội lỗi; “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13), “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Suy tôn Thánh Giá là suy tôn một tình yêu vĩ đại. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn đồng treo trên cây gậy, nói lên tình yêu trung thành của Đức Chúa Gia-vê đối với dân riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch (không may là điều này đã bị họ lãng quên không biết từ đời nào rồi), thì người Công Giáo sẽ không ngừng đề cao Thánh Giá là vì vậy.
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn ơn cứu độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ hiểu ơn cứu độ được Thiên Chúa ban nhưng không cho con người, chứ không do bất kỳ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là thân mẫu Ma-ri-a đứng chết lặng dưới chân thập giá, người thứ hai (theo truyền thuyết lâu đời của Giáo Hội) chính là Ma-ri-a Mác-da-la ôm lấy chân thập giá… Sau đó là các môn đệ Gio-an và Phê-rô v.v…; mỗi người một kiểu, họ đều biểu dương thập giá như nguồn ơn cứu độ và niềm hy vọng duy nhất của mình. Họ suy tôn Thánh Giá trong cảm nhận con người thấp hèn và tội lỗi, và chính thập giá lúc đó làm cho niềm hy vọng của họ bừng sáng lên.
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới: yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù (Lc 6:27-35) yêu thương như Thầy đã yêu thương (Ga 13:3-35). Họ biết rằng Thập giá là con đường hoàn thiện, không phải vì thập giá làm cho họ nên tốt hơn, giảm bớt phạm tội, cho bằng vì càng vào sâu trong thập giá – hay càng suy tôn thập giá với cả tâm hồn – cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân hậu giống Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Qua suy tôn Thánh Giá, họ đi sâu vào một Thiên Chúa tha thứ, để càng dễ tha thứ; đề cao một Thiên Chúa không lên án, để họ càng không lên án những người anh em lỗi phạm; tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng không dám xét đoán những người anh em sống quanh mình (Lc 6:36-37). Đúng là không suy tôn Thánh Giá tôi không thể đạt tới sự thánh thiện đó như đức Giê-su mong muốn.
Giáo Hội luôn coi việc suy tôn Thánh Giá và cử hành Thánh Thể là trung tâm điểm của đời Ki-tô hữu; và điều đó thật là chí lý. Nhưng luôn có nguy cơ là tôi có khuynh hướng hạ thấp việc suy tôn đó xuống tầm một việc đạo đức mà thôi. Suy tôn Thánh Giá là một tuyên xưng niềm tin – cậy – mến thâm sâu nhất, và cần được biểu lộ hữu hình dưới hinh thức bí tích của cử hành Thánh Thể, rồi sau đó bằng chính đời sống hiện sinh của tôi trong cuộc sống thường nhật.
Tôi có thực thâm tín điều đó không?
Lạy Chúa Ki-tô thập giá! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Ma-ri-a hay thánh Gio-an, nhưng cũng nhiều khi con lại dễ suy tôn như Mác-đa-la hay Phê-rô hơn. Dầu với biểu hiện nào đi nữa, xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận ơn cứu độ, và trong nếp sống hiền hòa với hết mọi người. A-men.
19. Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ--Lm. Anthony Trung Thành
Đời là thung lũng nước mắt. Đời là bể khổ. Khổ thể xác. Khổ tinh thần. Đứng trước đau khổ, người ta thường than van, tuyệt vọng và thậm chí tìm đến cái chết. Họ tự tử bằng nhiều hình thức khác nhau: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy lầu, nhảy cầu…Vì sao? Vì người ta không giải thích nổi về vấn đề đau khổ.
Lẽ nào con người phải bế tắc trước đau khổ hay sao? Không, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời thoả đáng. Ngài cho biết qua đau khổ mới tới vinh quang: “ Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại’‘ (Mc 8,31). « Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời’‘ (Ga 3, 13-14).
Như vậy, đau khổ như là điều kiện để Chúa Giêsu bước vào vinh quang phục sinh. Đau khổ như là thành phần không thể thiếu đối với Chúa và đối với những người theo Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề đau khổ, nhất là để biến đau khổ thành vinh quang, trong ngày lễ Suy tôn Thánh hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ.
Nguyên nhân đau khổ:
Có nhiều nguyên nhân gây nên đau khổ, xin được đơn cử một số nguyên nhân sau đây:
Đau khổ do tội: Sau khi phạm tội, Thiên Chúa đã cho Adong biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất» (St 3,17-19). Như vậy, phải làm việc cực nhọc và phải chết là do hậu quả của tội. Khi chọn tội con người chọn luôn sự đau khổ và cái chết.
Đau khổ do chính con người gây nên cho mình: Con người có quyền tự do chọn lựa. Có những chọn lựa đi liền với hạnh phúc, nhưng có những chọn lựa dẫn đến đau khổ. Một sự thiếu tiết độ, một tập quán xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hỏng một bộ phận, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, gây ra tai nạn, cắt đi một chi thể. Nghiện thuốc lá gây nên các bệnh như: rụng tóc, đục thủy tinh thể, da nhăn, giảm thính lực, sâu răng, ung thư da, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, loãng xương, bệnh tim mạch, vàng móng tay, ung thư phổi v.v. Uống rượu bia nhiều ảnh hưởng đến não bộ, cơ tim, tác hại với dạ dày, gan, ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp…Đó là những đau khổ do con người tự chuốc lấy cho mình.
Đau khổ do chính con người gây nên cho nhau: Con người sống là sống với. Không ai là một hòn đảo. Khi sống liên đới với nhau sẽ đem lại nhiều lợi ích, nhưng cũng có thể gây đau khổ cho nhau. Vì lòng tham và ích kỷ, không giữ đức công bằng, tình huynh đệ nên con người thường làm hại nhau: Ghen ghét, giết chóc, đàn áp, bóc lột, hận thù, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập…chúng ta thấy rất rõ điều này trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội.
Đau khổ có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán…gây ra biết bao đau khổ cho con người. Nên biết rằng: Thiên Chúa dựng nên con người với các vật khác, tất cả đều có quy luật của nó. Nếu không theo quy luật đó sẽ gây nên tai nạn, gây đau khổ cho con người. Ví dụ: Chiếc ôtô mất thăng bằng thì trúc, máy bay thì rơi, một vật không bám vứu được vào đâu thì rơi theo định luật vạn vật hấp dẫn và có thể làm bị thương người nào đi qua. Có những khuyết điểm hay những bất toàn của vũ trụ có thể gây đau khổ cho con người, nhưng chính chúng lại làm sáng tỏ sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Và nếu so sánh thì những bất toàn và khiếm khuyết là không đáng kể đối với sự vận hành điều hoà nhịp nhàng của bộ máy vĩ đại, phức tạp và tinh vi của vũ trụ.
Ý nghĩa của đau khổ:
Đau khổ do nhiều nguyên nhân, nhưng nếu biết lợi dụng thì nó sẽ đem cho con người nhiều ý nghĩa và lợi ích khác nhau:
Đau khổ chính là điều kiện cho sự sống: Đau khổ là tiếng chuông báo hiệu nhu cầu: dạ dày không đói thì làm sao biết để ăn, không ăn sẽ chết. Đau khổ báo động cho con người biết có nguy hiểm. Ta biết các cơ quan trong cơ thể đau để chữa trị. Biết đau ruột thừa để cắt bỏ. Biết bị ung nhọt để mổ. Biết một chi thể nhiệm trùng để chữa trị, thậm chí phải loại trừ khỏi cơ thể. Gần lửa chúng ta thấy nóng để tránh. Chân dậm phải vật nhọn thấy đau để biết cứu chữa…
Đau khổ là thầy dạy bác ái: Những người không gặp đau khổ, không biết nói về đau khổ, không hiểu và thông cảm cho người đau khổ. Còn những ai đã trải qua đau khổ thường hiểu người khác hơn, nên sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta nghe lời chia sẻ trước khi ra đi của một bác sĩ bị ung thư sau đây: “Cảm giác khủng khiếp! Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi! Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất…”
Đau khổ là thước đo niềm tin của con người: Thiên Chúa thường cho phép có thử thách để làm ích cho ta. Theo bản tính tự nhiên, không ai muốn đau khổ, thậm chí còn tìm cách để tránh đau khổ. Chúng ta có thể phàn nàn, kêu trách, khóc lóc khi gặp đau khổ giống như trẻ con khóc khi bác sỹ tiêm phòng. Nhưng, sau này khi lớn lên, nó hiểu bác sỹ làm thế là có lợi cho nó. Cũng vậy, thỉnh thoảng Thiên Chúa để ta gặp đau khổ, thử thách để tôi luyện ta, giúp ta có đức tin mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa đã từng dùng đau khổ để thử thách con người. Kinh thánh cho chúng ta thấy: Thiên Chúa thử thách ông Tôbia. Thiên Chúa thử thách ông Gióp. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy: biết bao nhiêu vị thánh, nhất là các thánh Tử đạo đã chứng tỏ niềm tin của mình khi trải qua đau khổ.
Đau khổ là thầy dạy khiêm nhường: Khi con người đạt được những gì mình có. Trở nên kiêu ngạo. Tưởng rằng mình làm được mọi sự, mình vạn năng. Sự đau khổ nhắc cho con người nhận ra rằng mình chỉ là tạo vật, có giới hạn, phải chết. Nhờ đó, con người sống khiêm nhường hơn.
Đau khổ là thầy dạy sự siêu thoát: Con người thường bám vào của cải vật chất, những thứ mau qua. Sự đau khổ, bệnh tật, cái chết nhắc nhở con người sẵn sàng dứt bỏ mọi sự để đặt niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.
Đau khổ để làm vinh danh Chúa:
Khi nghe tin ông Lazarô bị đau nặng, Chúa Giêsu đã nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11,4) Và khi người Do thái hỏi Chúa Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3)
Như vậy, con người là học trò, đau khổ là thầy dạy. Đau khổ thực sự có ích cho con người biết lợi dụng nó. Đau khổ không những làm phương thế tinh luyện và thánh hoá con người mà còn để làm vinh danh Thiên Chúa.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được.
Câu chuyện nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: Chúng ta không thể diệt trừ đau khổ, nhưng có thể góp phần làm giảm bớt đau khổ bằng sức mạnh của yêu thương, công bình, bác ái, cảm thông…Ta không thể diệt trừ được đau khổ, nhưng có thể thắng được nó bằng cách chấp nhận mọi gian khổ thử thách để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15). Chúa còn mời gọi “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta không tránh né đau khổ, nhưng đối diện với nó để biến nó thành phương thế cứu rỗi chúng ta và toàn thế giới. Amen.
20. Lễ suy tôn Thánh Giá--Lm. Antôn
Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.” Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô, và được mời gọi suy niệm mầu nhiệm Thánh Giá Chúa Kitô trong đời sống đức tin của chúng ta. Trước hết, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu nhắc nhở và bảo ông Ni-cô-đê-mô và tất cả mọi người chúng ta phải có một niềm tin mạnh mẽ và sâu sa. Chúng ta phải tin vào chính Chúa, là Con Thiên Chúa, và phải tin một cách vững mạnh vào Thiên Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúa Cha, vì tình thương yêu bao la và vô bờ bến, đã ban Con Một của Ngài xuống trần, để cứu chuộc nhân loại và ban cho chúng ta sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã khiêm nhường và vâng lời hy sinh mạng sống chết một cách nhục nhã trên thập giá, biến cây thập giá trở thành Thánh giá ban ơn cứu độ và đời sống vĩnh cửu cho nhân loại. Chúa Giê-su đã giải thích với Ni-cô-đê-mô rằng Con Người phải được treo lên như Môi-sen đã treo rắn đồng lên trong sa mạc, để những ai tin vào chính Người thì được sự sống đời đời.
Thật vậy, bài đọc một hôm nay kể lại việc Thiên Chúa trừng phạt dân Do thái chóng quên phép lạ to lớn, Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai-cập, và họ đã phạm tội kêu trách Chúa và Mô-sê khi họ gặp những khó khăn trở ngại trong hoang mạc. Vì thế, Thiên Chúa đã phạt cho rắn độc cắn chết nhiều người. Nhưng sau đó, họ đã ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã phán cùng Môi-sen: “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo trên giá. Nếu ai đã bị cắn mà nhìn lên nó thì sẽ được sống.” Vâng lời Thiên Chúa, Môi-sen làm một con rắn đồng và treo lên một cái giá. Bất kỳ ai đã bị cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật vậy, rắn đồng là biểu tượng của Chúa Giê-su Kitô bị đóng đinh và chết trên Thánh Giá, để tất cả những ai nhìn lên và tin vào Người thì sẽ được ơn cứu độ và có sự sống vĩnh cửu. Vì vậy, Thánh Giá Chúa Ki-tô trở nên hồng ân và dấu chứng tình yêu cao cả nhất của Thiên Chúa dành cho con người nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta, “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Chúng ta nhận thấy, thập giá, từ một khí cụ ghê gớm, tàn ác nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành Thánh Giá, dấu chứng tình yêu vâng phục của Người và cũng là hồng ân tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Và cũng trong tình yêu này, Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta hãy vác Thánh giá của mình đi theo Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta phải ý thức và phải biết phân biệt giữa đau khổ và Thánh Giá. Là con người, tất nhiên mọi người chúng ta đều có những đau khổ phần xác và tinh thần như bệnh tật, tai nạn hay những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Là những người có đức tin, chúng ta nhận thấy trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng có nhiều Thánh Giá và Thánh Giá hiện diện qua nhiều cách. Thánh giá trong đời sống Ki-tô hữu là những sự hy sinh và quên mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Thánh giá là những sự thiệt thòi và đau khổ vì đạo, vì Chúa và vì Tin mừng. Thánh Giá là tuân theo, sống hay thực hành lời Chúa dạy. Thánh Giá là có lòng bác ái và quảng đại vì yêu mến và lòng mong ước làm sáng danh Chúa. Chỉ những Thánh Giá này mới đem lại cho chúng ta và cho tha nhân ơn sủng tình yêu của Chúa và đời sống vĩnh cửu mà thôi. Khi đối diện hay gặp những Thánh Giá này, chúng ta hãy nhớ chính Chúa Giê-su cũng đã vác và chết trên Thánh giá, để đem tình yêu, ơn cứu rỗi và đời sống vĩnh cửu đến cho chúng ta và nhân loại. Tất cả chúng ta có tự do vác hay không vác Thánh Giá Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su là chúng ta suy tôn tình yêu cao vời của Chúa, cũng như cảm tạ ơn cứu độ và hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu của Chúa cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin, để chúng ta can đảm và vui mừng vác Thánh Giá Chúa trong đời sống, để được kết hợp trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của đau khổ, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa cao cả hơn: đó là tình yêu cao vời củaThiên Chúa. Chúng ta cầu xin và luôn tin tưởng Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta vác Thánh Giá Chúa trong sự bình an với một niềm tin vững chắc Thánh giá sẽ đem tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu.
21. Lễ suy tôn Thánh Giá--Lm. Trần Bình Trọng
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Ðàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Ðấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Ðức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Ðức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Ðức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Ðó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Ðức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Ðức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Ðối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lậy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.
22. Chiêm ngắm tình yêu--JB. Lê Đình Nam
Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm. Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người. Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.
Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người. Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.
Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu. Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu. Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu. Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.
Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt. Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.
Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị. Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng. Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết. Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại. Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đỗ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu. Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.
Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người. Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người. Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.
Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày. Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.
Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau. Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống. Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.
23. Thập giá trong đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta vẫn thường nói: Tu là cõi phúc – tình là giây oan. Thực ra , cuộc đời nào cũng có thập giá. Thập giá như là lẽ sống của cuộc đời. Có thập giá thoáng qua và cũng có những thập giá liên lỉ dài lâu. Có thập giá nhẹ nhàng mà mình tự nguyện vác lấy nhưng cũng có thập giá nặng nề mà mình phải gánh giùm tha nhân. Có thập giá khiến ta mệt mỏi nhưng cũng có thập giá khiến ta vui mừng.
Xem ra thập giá là tất yếu trong cuộc sống. Con người không thể trốn chạy thập giá. Và dường như chúng ta vẫn khuyên bảo nhau hãy can đảm đón nhận vì là ý Chúa, vì là điều tốt cho mình và cho tha nhân.
Tôi đã nghe người ta an ủi một người mẹ có đứa con duy nhất đang bị ung thư, với lời lẽ hết sức phó thác: “Thiên Chúa yêu thương chị lắm cho nên Ngài mới gởi Thánh Gía để thử thách chị đấy!”
Hoặc gặp một người bạn đang bị thất nghiệp, nợ nần chồng chất, vợ bệnh, con đau. Chúng ta thường khích lệ họ: “Người càng giỏi thì Chúa lại càng gởi khó khăn để mình vượt qua. Thế nên đừng sợ!”
Khuyên người thì dễ nhưng bản thân khi phải đối diện với thập giá lại không dễ dàng. Vì thập giá là đau thương, là tủi hận, nên đâu dễ đón nhận. Đón nhận thập giá là chấp nhận từ khước sự an nhàn, hạnh phúc cho bản thân để sống cho Chúa và đồng loại. Đón nhận thập giá là đón nhận sự ô nhục, và khinh khi của đồng loại.
Có lẽ chúng ta vẫn nhớ hình ảnh Thầy Chúa Giêsu vác thập giá lên đỉnh đồi Calve và chấp nhận chết treo trên cây thập giá. Quả thật Thập giá là “một ô nhục đối với người Do thái và; là điều điên rồ đối với dân ngoại giáo” (1Cr 1,23).
Thế mà Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vác lấy cái ô nhục đó! Vì đối với Thiên Chúa đó là dấu chỉ của sự chiến thắng “vì qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Và thập giá đối với Chúa còn có giá trị cứu độ vì “khi nào Ta bị giương cao lên, Ta sẽ kéo mọi người lên”.
Có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: “Thiên Chúa gửi thập giá hay thử thách đến cho tôi để làm gì vậy?”. Điều này chúng ta cũng phải hỏi: “Tại sao người ta cứ phải trải qua những kỳ thi, những cuộc trắc nghiệm, khảo hạch,… rồi mới lãnh được bằng tốt nghiệp trung học, đại học, mới được công nhận là bác sĩ, giáo sư, luật sư?”
Như vậy, thập giá là nhịp cầu để cho ta tiến lên và chắc chắn sẽ trưởng thành hơn khi vượt qua thập giá. Hơn nữa, thập giá còn cho ta được thông phần vào sự thương khó của Chúa để cứu độ bản thân và anh em. Khi chúng ta đón nhận thập giá trong đời là dịp để chúng ta dâng đau khổ hầu xin Chúa tha thứ những hình phạt cho bản thân chúng ta. Và dâng hy sinh đau khổ để xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ giáng xuống địa cầu vì tội lỗi nhân loại. Như vậy, chúng ta đón nhận thập giá là vì Chúa và vì nhân loại. Và phải có cái nhìn như vậy chúng ta mới có thể vui vẻ lạc quan ngay cả khi khốn khó tư bề.
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta yêu mến người bên cạnh, người đồng hành luôn gây gỗ với chúng ta, có khi còn luôn thù ghét chúng ta?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta hy sinh chu toàn bổn phận hằng ngày để đem lại hạnh phúc cho gia đình?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta có thể đón nhận biết bao nghịch cảnh trái ngang đến với chúng ta như: bệnh tật, hiểu lầm, già yếu, ganh ghét, chê bai. . .
Mỗi người đều có thánh giá phải mang. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ trao thánh giá vượt khả năng của chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy tin tưởng đón nhận mọi khó khăn vì Chúa, nhất là hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để vượt qua.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn tìm ra ý Chúa trong cuộc sống và đón nhận theo thánh ý cho dù có vì đó mà phải vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa. Amen.
24. Chân dung của lòng thương xót--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Dân Chúa kinh nghiệm về tội của mình đối với Đức Chúa trong dòng lịch sử, và những suy tư về kinh nghiệm này đã làm cho Dân Chúa khám phá bản chất của tội. Suy tư này được trình bày bằng ngôn ngữ biểu tượng trong trình thuật St 2-3, mặc khải cho chúng ta bản chất hay yếu tính của tội, nghĩa là cái có mặt trong mọi thứ tội. Và mọi tội đều tự nó có “nọc độc” gây chết chóc cho mình và cho người khác.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Ki-tô (Ga 3, 14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12, 7-10). Các trình thuật này nêu ra cho chúng ta ba câu hỏi:
– Tại sao lại là rắn?
– Tại sao Con Người cũng sẽ phải được giương cao, như con rắn đồng trong sa mạc?
– Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
1. Tại sao lại là con rắn?
a. Nghi ngờ Thiên Chúa
Đi trong sa mạc trong một thời gian dài, thiếu ăn thiếu uống. Đó là một thử thách rất thật và rất lớn, vì của ăn của uống là nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề là lòng họ hướng về đâu? Họ tìm gì khi bỏ Ai Cập ra đi theo tiếng gọi của Đức Chúa dưới sự hướng dẫn của Mô-sê? Nếu con tim của họ chỉ hướng về việc thỏa mãn những nhu cầu của mình thôi, thì tất yếu đến một lúc nào đó, họ sẽ mất kiên nhẫn. Bởi vì nhu cầu thì không có cùng tận.
Trước hết là nhu cầu của cái nhìn, họ đi theo Chúa dưới sự hướng dẫn của Môsê là nhằm để thỏa mãn cái nhìn. Vì thế, họ nhìn thấy bao dấu lạ, nhất là dấu lạ vượt qua Biển Đỏ khô chân, nhưng họ vẫn không chịu tín thác vào Đức Chúa (Tv 106). Chẳng lẽ Chúa lại phải làm cho họ dấu lạ mỗi ngày? Ngang qua một vài dấu lạ, họ được mời gọi trao ban lòng tin, lên đường và đi đến cùng. Giống như, những người cùng thời với Đức Giêsu, chứng kiến bao dấu lạ Ngài làm, và chính ngôi vị của Ngài là một dấu lạ, thế mà vẫn cứ đòi dấu lạ từ trời. Lúc Đức Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, họ vẫn đòi dấu lạ: “xuống khỏi Thập Giá đi để chúng ta thấy, chúng ta tin”. Họ cứ nghĩ là thấy thì tin, đó là ảo tưởng. Bởi vì thấy, thì thấy một lần trong một thời điểm và nơi chốn nhất định; trong khi tin là tin vào một ngôi vị, tin suốt đời ở mọi nơi mọi lúc. Tin lúc Chúa ban dấu lạ; và tin cả lúc Chúa không ban dấu lạ, như tác giả Thánh Vịnh nói: “tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề” (Tv 116, 10). Trong thực tế cuộc sống, như mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm, và chính Dân được Đức Chúa tuyển chọn cũng có cùng một kinh nghiệm, những ngày không có dấu lạ gì mới là nhiều; và có những ngày, những giai đoạn đầy đau khổ và thử thách:
Tôi tự bảo: điều làm tôi đau đớn,
là Đấng tối cao chẳng còn ra tay nữa. (Tv 77, 11)
Hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta cũng thế, chúng ta nhận ra dấu lạ nào đó Chúa ban cho mình và chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu trung tín của Chúa và chúng ta đáp lại suốt đời ngang qua đời sống hàng ngày, những ngày rất đỗi bình thường cũng như những ngày đầy thách đố, khó khăn. Nhưng chúng ta cũng có kinh nghiệm này: khi tin rồi, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều lạ.
Mà ham muốn nhìn cũng chính là ham muốn ăn: đói thì Chúa cho ăn; ăn manna một hồi thì thèm thịt, Chúa cho ăn thịt chim cút; ăn chim cút một hồi, rồi thì cũng chán: “chúng tôi chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Nhất là khi chứng kiến dân ngoại, họ ăn uống cao lương mĩ vị, dân sẽ càng thèm muốn hơn nữa. Những chuyện như vậy cứ lập đi lập lại nhiều lần: điều Ngài đã làm hôm qua, Ngài sẽ làm hôm nay không? Đức Chúa có ở giữa chúng ta hay không? (Xh 17, 7) Làm sao « biết » được đây? Ham muốn của cái nhìn, ham muốn của cái bụng, ham muốn của cái biết gặp gỡ nhau. Và cuối cùng, thái độ của con người được hình thành, khi kêu trách: “ Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? » À ra như thế, Thiên Chúa muốn chúng ta chết, Mô-sê muốn chúng ta chết. Đó chính là thái độ « thử thách ».
Trong Kinh Thánh, câu nói “thử thách Thiên Chúa” mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là không tin Thiên Chúa: trong sa mạc, Dân Chúa thử thách Thiên Chúa đến 10 lần, nghĩa là lúc nào cũng thử thách Thiên Chúa, cũng không tín thác nơi Thiên Chúa (Ds 14, 22: thử thách 10 lần; Tv 106, 14); và tội nguyên tổ cũng là một dạng của hành vi thử thách Thiên Chúa, nghĩa là không tin Thiên Chúa không tín thác nơi Chúa trong thực tế cuộc sống. Vì thế, yếu tính của tội nguyên tổ, nghĩa là của mọi tội, là không tin nơi Thiên Chúa, không tín thác nơi ngài trong thiếu thốn, trong gian nan khổ đau của thân phận con người. Hành vi vi phạm giới răn chỉ là hệ quả của một thái độ nội tâm, quên ơn huệ và vì thế nghi ngờ Thiên Chúa.
Như thế, tất cả mọi sự Thiên Chúa đã làm cho họ trở thành vô nghĩa, thậm chí trở thành kế hoạch giết chết. Chúng ta hãy dừng lại đây thật lâu để nghiệm được hết mức độ nghiêm trọng của những lời dân Israen thốt ra đây. Đó là chính là thái độ nghi ngờ Thiên Chúa, và tội nghi ngờ Thiên Chúa tất yếu dẫn đến những hành vi gây chết chóc, gây chết chóc cho chính mình và cho người khác. Nghi ngờ Thiên Chúa, nên họ quay ra thờ ngẫu tượng, vì ngẫu tượng có vẻ “linh” hơn; “linh” có nghĩa là có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu, phát xuất từ lòng ham muốn; ham muốn nhìn, ăn và biết của họ. Và vì nghĩ rằng mình được dẫn vào sa mạc là để bị bỏ mặc cho chết (trong khi mục đích của hành trình là Đất Hứa, nghĩa là Miền Đất Sự Sống trong Đức Chúa), nên họ nổi loạn ném đá toan giết chết Môsê (x. Xh 17).
b. Con rắn
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “ chẳng chết chóc gì đâu! » Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc độc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “ Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết » (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “ Chúa dựng nên con cách lạ lùng ».
2. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh «con rắn», biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là « Con Rắn » bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3); và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
– thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối;
– đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị;
– chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính;
– và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
3. Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Giá mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế. Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá còn mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phận con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
25. Sùng kính hay là vác thập giá
Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.
26. Thập Giá, con đường về trời
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
27. Thập Giá và cuộc sống
Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
28. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.
Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta.
Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu".
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
29. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
30. Nghịch lý không trái ngược--Trầm Thiên Thu
Chiến thắng khải hoàn của Đức Giêsu Kitô khởi đầu bằng sự thất bại trên Thập Giá. Đó là một nghịch lý mà những ai không là Kitô hữu không thể hiểu nổi. Chân phước Charles Eugène de Foucauld (1858-1916, tu sĩ người Pháp) đã cảm nhận: “Thiên Chúa chỉ ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta khi chúng ta chấp nhận sự yếu hèn của mình”. Kỳ diệu quá!
Nghịch lý là những gì trái với quy luật tự nhiên hoặc những điều hiển nhiên được người ta công nhận là đúng. Tuy nhiên, trong triết-lý-sống của cuộc đời lại có những điều tuy là nghịch lý mà vẫn thuận chiều, không hề ngược chút nào – được gọi là “nghịch lý thuận”, và cũng có những điều là thuận lý mà vẫn nghịch chiều – được gọi là “thuận lý nghịch”.
Cuộc sống không chỉ phức tạp mà còn nhiêu khê lắm. Có khi sống cả đời mà chưa hiểu hết lý lẽ của cuộc sống. Đôi khi chúng ta vẫn cảm thấy khó hiểu với những điều thuận lý, huống chi với những điều nghịch lý.
Có thể nói rằng nghịch lý khá đa dạng, nhưng có vài dạng phổ biến được người ta công nhận:
[1] Nghịch Lý Thời Gian (cũng gọi là Nghịch Lý Du Hành Thời Gian). Đó là là sự mâu thuẫn hợp lý hoặc đối nghịch trong các lý thuyết giả định cho rằng “du hành thời gian” trở về quá khứ là điều khả thi.
[2] Nghịch Lý Bản Thể. Đó là sự tồn tại của một vật thể hay sự xuất hiện của một sự kiện bởi vì có ảnh hưởng ngược lên nó bởi các sự kiện xảy ra trong tương lai của nó.
[3] Nghịch Lý Tiền Định (còn gọi là Vòng Lặp Nhân Quả). Đó là nghịch lý du hành thời gian thường được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng.
[4] Nghịch Lý Ông Nội. Đó là một sự kiện ngăn chặn một sự kiện xác định xảy ra trước đó bằng cách ảnh hưởng ngược lên sự kiện trước đó.
Triết lý là điều không dễ hiểu. Triết lý sống càng nhiêu khê và khó hiểu hơn nhiều. Có lẽ chẳng mấy ai như Thánh Phaolô, vì ngài có một ước muốn khiến chúng ta cảm thấy “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã ư? Đúng là quá ngược đời!
Một vị khác có ý tưởng cũng “không giống ai” là cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624 – 15/1/1679), vị thừa sai người Pháp. Ngài cũng yêu thích Thánh Giá nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó!
Là Kitô hữu, chúng ta không xa lạ với thập giá, vì bắt đầu đủ trí khôn là chúng ta đã nghe nói tới. Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.
Sống là đấu tranh, là “tránh đâu”, và sống là phải có trách nhiệm, không thể ung dung tự tại, vô tư và vô cảm. Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm!
Sự tự nguyện có giá trị hơn sự miễn cưỡng. Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.
Phần thưởng là gì, phần thưởng ở đâu? Thánh Phaolô minh định: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành NÔ LỆ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Đó là động thái hoàn toàn tự nguyện, không miễn cưỡng. Thánh nhân cho biết thêm: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Cuộc sống của chúng ta, các Kitô hữu, cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng.
Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều điều tất yếu mà thú vị: Những người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. Không khổ luyện không thể hy vọng có ngày thành công và hữu ích cho đời!
Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động trên thế gian này chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, luôn nhắm tới một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên Đàng – Nước Trời. Không đạt được “phần thưởng” này là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là từ chối Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác định: “Tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Tất nhiên mỗi chúng ta cũng phải quyết tâm như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.
Hằng ngày tự khổ luyện mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể thanh thản ngồi rung đùi theo nhịp khổ của người khác. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt, mệt mỏi lắm!
Hạnh phúc nào mà không có hy sinh, chiến đấu, cố gắng? Có gian nan mới thành nhân, có khốn mới nên khôn, có thất bại mới biết cố vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (tục ngữ Việt Nam). Ông Thích Ca Mâu Ni được người ta kính trọng, được tôn là Phật, vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân cũng đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh cũng đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “khó đến thân”. Kinh Phật có câu: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Cái khổ từ nội tại nhiều hơn từ ngoại tại. Khổ vây tư bề, không thể trốn thoát, vì “đời là bể khổ”. Muốn thoát khổ thì phải đi “xuyên qua” nó. Có nhiều lúc chính chúng ta tự làm khổ mình chứ không ai khác. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?
Thật phúc thay cho người ở trong Thánh Diện và luôn được hát mừng Thiên Chúa. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì – dù quý hiếm nhất – ở thế gian này. Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nhận định rằng: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm). Điều đó nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh Vịnh so sánh và quyết tâm: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa, vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).
Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” (Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Thánh sử Luca cho biết rằng, vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!
Và Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian không thiếu loại người này – dù mức độ khác nhau, thế nên Ngài rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng là bồ dao găm”.
Không sống giả nhân giả nghĩa, luôn sống trong sạch và cương trực, đó cũng là một cách “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà LÊN ĐÓ ĐỂ… “CHẾT”. Chết thật chứ không chết giả!
Thập Giá là án tử, nhưng Thập Giá lại trở nên “chìa khóa” mở cánh cửa của Sự Trường Sinh. Thập Giá là nghịch lý, nhưng không hề trái ngược. Và rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Ai dám NGƯỢC với thế gian thì được THUẬN với Thiên Chúa. Thật là trên cả tuyệt vời!
Việt ngữ thật chí lý: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để nên THÁNH. Chắc chắn ai cũng phải trả cái giá này mới khả dĩ vào Nước Trời vậy.
Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin ban thêm lòng can đảm cho con để con có thể dám sống “ngược đời” như Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đã tiên phong nêu gương, giúp con biết yêu Thánh Giá, sẵn sàng chết cho tội mình, chết vì chân lý và công lý. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
31. Suy tôn Thánh Giá--J.M
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giê-su đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Ki-tô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giê-su, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giê-su trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giê-su là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giê-su, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Ki-tô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
32. Từ thập giá đến Thánh Giá--Lm Vũ Xuân Hạnh
lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
“DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao - đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người - mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn, vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.
Tắt một lời: Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta...”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
33. Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.
Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực.
Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
34. Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa--Antôn Hoàng Văn Phúc, OP
http://gpbuichu.org/news/Chuyen-de/y-nghia-cua-viec-suy-ton-thanh-gia-chua-7767.html
Nếu chữ Vạn được xem như là biểu tượng của Phật giáo, thì Thánh Giá chính là biểu tượng của Kitô giáo. Vì sao? Ắt hẳn đó không phải vì vẻ đẹp của biểu tượng này, cũng không phải vì sự đơn giản của nó, nhưng chính vì Đấng nằm trên cây gỗ đó đã dang rộng vòng tay để cứu chuộc nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Nói cách khác, vì giờ đây “Thánh Giá trở thành biểu tượng của chính Đức Kitô”.
Như vậy, chính nhờ Đức Kitô mà cây Thánh Giá đã trở nên một biểu tượng linh thánh và là một phương dược linh nghiệm cho người Kitô hữu, như Công Đồng Vatican II đã nói “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn bị.” Nói như thế để thấy được rằng Thánh Giá là một cái gì đó rất thiêng liêng và quan trọng đối với người Kitô hữu vì sự quy hướng về Đức Kitô. Để biểu thị sự thiêng liêng và tầm quan trọng của Thánh Giá, Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình trân trọng và yêu mến Thánh Giá, đặc biệt qua các nghi thức Phụng vụ. Cụ thể Giáo Hội dành ngày 14 tháng 9 hàng năm để cử hành Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá và cách riêng cử hành nghi thức suy tôn Thánh Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Vậy suy tôn Thánh Giá là gì và có ý nghĩa như thế nào?
Theo tác giả Dom Robert Le Gall, suy tôn Thánh Giá là “việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ và tôn vinh Đức Kitô”. Bên cạnh đó, Ban Từ vựng Công Giáo trực thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đưa ra một định nghĩa xem ra đầy đủ và chính xác hơn “Suy tôn Thánh Giá là nghi thức thờ lạy và hôn kính Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.” Như vậy, với định nghĩa này ít nhiều chúng ta cũng đã hiểu được ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá.
Thực thế, việc suy tôn Thánh Giá không đơn thuần chỉ là một nghi thức Phụng vụ được Giáo Hội cử hành hàng năm vào ngày 14/9 hay chiều thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng ẩn sâu trong đó là cả một ý nghĩa thánh. Quả thật, trong ngày lễ suy tôn Thánh Giá, ca nhập lễ được cất lên như sau “Chúng ta phải hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta.” Như vậy, việc suy tôn Thánh Giá là một sự hãnh diện và là một lời tuyên xưng của người Kitô hữu vào Thánh Giá. Hãnh diện và tuyên xưng vào Thánh Giá vì giờ đây Thánh Giá là “một sự khẳng định về cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô”. Cuộc chiến thắng mà Ngài đã dành được trước quyền lực sự dữ.
Nếu như hình phạt đóng đinh vào thập giá là dấu chấm hết cho một sự sống, cho một tình yêu thì giờ đây Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn giá trị ấy. Ngài biến cây thập giá khổ hình thành cây mang lại sự sống. Ngài biến cây thập giá hận thù thành cây mang lại tình yêu vĩnh cửu. Thế nên Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Thánh Giá trở thành biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Như vậy suy tôn Thánh Giá còn có ý nghĩa là suy tôn một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô.
Với cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá, loài người giờ đây được giao hoà với Thiên Chúa. Với cách hiểu này, một cách nào đó chúng ta có thể nói nếu không có cái chết của Đức Giêsu thì loài người vẫn đang mãi xa cách Thiên Chúa, chưa được giao hoà với Người. Như vậy việc suy tôn Thánh Giá là một hành động nói lên lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đã chịu chết và đã mở cho ta con đường dẫn tới sự sống đời đời. Không những thế hành động suy tôn Thánh Giá còn là một sự biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, và cũng là dịp để bày tỏ mối thân tình, sự khăng khít của ta với Ngài.
Đức Giêsu đã dùng cây Thánh Giá để kéo nhân loại lên với Thiên Chúa, như lời Ngài nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Như vậy, nếu năm xưa nhờ cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã kéo mọi người lên với Thiên Chúa thì nay suy tôn Thánh Giá như là hành động để quy tụ mọi người tản mác khắp nơi về dưới chân Thánh Giá trong cùng một niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Bên cạnh đó, lời tuyên bố của chủ sự và lời đáp của cộng đoàn trong nghi thức Suy Tôn Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” – “Chúng ta hãy đến thờ lạy” cũng cho ta một ý nghĩa thâm sâu về việc suy tôn Thánh Giá. Lời tuyên bố của chủ sự “Đây là cây” như muốn nói lên sự đau đớn tàn bạo và là một hình phạt ghê sợ nhất cho kẻ trọng tội. Qua đó, việc suy tôn Thánh Giá nhằm cho mọi người thấy một cách công khai, rõ ràng rằng Đức Giêsu đã chấp nhận chịu những đớn đau và hình phạt dù rằng Ngài không phạm tội gì. Thế nhưng, Giáo Hội không dừng lại ở đó. Giáo Hội muốn mọi người thấy rằng cây gỗ, “nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” giờ đây đã trở thành biểu tượng chiến thắng, biểu tượng cứu độ. Giáo Hội như muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩa chiến thắng khi mời gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.
Trên đây là ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá. Có thể với nhiều người, việc tôn thờ Thánh Giá là một việc làm ngu xuẩn và điên rồ, như thánh Phaolô đã từng nói về người Do thái và dân ngoại.
Trái lại, với người Kitô hữu, đó lại là một hành động thánh, một hành động diễn tả đức tin. Và với người Kitô hữu, thiết nghĩ cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi hành động thánh này không bị giới hạn chỉ trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hay trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng được cử hành liên tục trong suốt cuộc đời.
35. Con Người cũng phải bị treo lên
http://dongthanhthe.net/suy-niem-truoc-thanh-the-tin-mung-le-suy-ton-thanh-gia.html
Thập giá đã từng là hình phạt, là thứ khổ hình dành cho các nô lệ hay tử tội nguy hiểm. Hình phạt Thập giá không những đem đến một cái chết thảm khốc cho tử tội, mà còn là một sự hổ thẹn và nhục nhã nhất cho người bị kết án. Thế nhưng, Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Trời hằng sống đã chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá. Thập Giá giờ đây không còn là một sự nhục nhã nữa, nhưng trở thành một phương thế cứu chuộc con người cách hữu hiệu, trở thành một đòi buộc cho những ai muốn bước vào cõi sống vinh quang theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Thập giá giờ đây trở thành vinh quang và niềm tự hào cho những người Kitô hữu đích thật.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cho chúng ta thấy Thập giá không phải là một đau khổ hay nhục nhã mà là vinh quang của Thiên Chúa đã đến. Khi nói đến Thập Giá, Thánh Gioan luôn gợi lên sự vinh quang của Đức Giêsu chiến thắng. “Khi nào các ông giương cao Con Người lên” (Ga 8, 28) đã ám chỉ việc tôn vinh Đức Giêsu trên trời. Gỗ
Thánh giá và cây Thánh giá trở thành cây sự sống (x. Kh 22, 2.14). Mỗi khi chiêm ngắm thập giá Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra rằng: Thập giá là phương thế cứu độ tuyệt vời cho con người. Thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện vì yêu thương cho con người. Thập giá phải trở thành niềm tự hào của những người tín hữu đích thực của Đức Kitô. Thập giá là chìa khóa mở cửa Thiên đàng cho những ai trung thành bước theo Đức Kitô trên con đường tiến về Quê trời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương. Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
36. Thánh Giá Chúa--Lm. Hiền Lâm
http://trungtammucvudcct.com/suy-niem-tin-mung-thu-sau-tuan-xxiii-mua-thuong-nien-14-09-2018-le-suy-ton-thanh-gia/
Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian:
* Phải bị “giương cao lên”.
Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng thứ IV, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ IV đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.
Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.
* Luận phạt hay cứu độ?
Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.
Trong mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.
Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu đã nhắc tới “Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Trần gian hay thế gian được nói tới ở đây có thể là toàn thể tạo thành, mà tạo thành thì tốt bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Nhưng trọng tâm của công trình này là con người – đã trót đặt mình dưới ảnh hưởng của Satan (x.Ga 8,34.44); nghĩa là một sự xuống cấp sa đoạ, con người chịu ảnh hưởng của cái xấu, cái tội, bị cái xấu lợi dụng và làm biến dạng đi. Do đó mà Thiên Chúa “sai Con của Người đến để thế gian được cứu độ”.
Con đường cứu độ của Con Thiên Chúa là thập giá, nên ai muốn được cứu độ thì cũng phải chấp nhận “được treo lên” trên thập giá với Chúa Giêsu. Thế nhưng, giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, kết quả là một người đạt được niềm vui nhẹ nhàng còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian, xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Xin cho chúng con biết chấp nhận được “giương cao lên”, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Amen.
37. Thánh Giá: con đường đời sống Kitô--JM. Lam Thy ĐVD
Trong bài giảng lễ Suy tôn Thánh Giá (14/9/2014), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã huấn dụ: “Chúng ta thấy các bức họa đẹp đẽ về Chúa Giê-su trên thập giá, nhưng thực tế thì khác hẳn. Ngài bị giày xéo và đổ máu vì tội chúng ta. Đây là con đường mà Ngài đã đi để khuất phục con rắn. Chúng ta phải nhìn lên Thập giá Chúa Giê-su, không phải thập giá kiểu nghệ thuật, được vẽ đẹp đẽ, nhưng là thập giá thực tế. Và chúng ta phải nhìn vào con đường của Ngài, vào Thiên Chúa đã tự hủy mình, đã hạ mình để cứu chúng ta. Đó là một hành trình đòi hỏi, vào những lúc gian khó, và vào những lúc thử thách, nhưng như thế mới là cuộc sống! Đây là con đường của Ki-tô hữu. Nếu một Ki-tô hữu muốn tiến tới trên con đường đời sống Ki-tô, thì người đó phải ngã xuống, như Chúa Giê-su đã từng ngã xuống. Đây là con đường của khiêm nhường, đúng thế, nghĩa là người Ki-tô hữu phải nhận lấy sự sỉ nhục hạ mình như Chúa Giê-su đã từng. Nếu chúng ta muốn tiến tới “trên con đường đời sống Ki-tô”, chúng ta phải hạ mình xuống, như Chúa Giê-su đã làm trên Thánh Giá.” (nguồn: Vatican.net).
Nói “Thánh Giá là con đường đời sống Ki-tô”, Đức Giáo hoàng muốn nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô” (Mc 8, 34), mà muốn đi theo Người thì phải biết mộ mến và tôn sùng Thánh Giá, coi đó là kim chỉ nam cho hành trình vượt qua gian lao thử thách để tiến về quê Trời vĩnh cửu. Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Theo Giáo phụ Tertuliano – chuyên gia về Giáo sử – thì ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các Ki-tô hữu “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Ki-tô hữu còn có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá. Thánh giá được suy tôn do một sự kiện trong lịch sử: Vào năm 326, sau khi tìm được di sản Thánh Giá thật, thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã cho xây cất 2 đền thờ: một tại Núi Sọ Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem. Riêng tai Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem, Thánh nữ đặt cây Thánh Giá vừa tim được tại đó để mọi người kính viếng. Các đền thờ này được cung hiến ngày 13/9/335. Lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giê-su được lập ra để kỷ niệm ngày cung hiến đó, và ấn định lễ kính vào ngày 14/9 (nguồn: www.giaoducconggiaohdgm.org)
Cũng theo www.giaoducconggiaohdgm.org , còn một nguồn sử liệu giá trị khác về lễ Suy tôn Thánh Giá, đó là: Năm 614, dưới thời Hoàng Đế Héraclius I, những người Ba-tư xâm chiếm Giê-ru-sa-lem đã lấy mất cây Thánh giá do thánh Hélène tìm được. Héraclius đã nung nấu ý chí kiên quyết đấu tranh để lấy lại Thánh giá. Nhà vua đã cầu nguyện và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa thương chấp nhận. Năm 629, vua Héraclius đã đánh bại quân Ba-tư và trở về Constantinople trong tiếng hò reo, vui mừng của toàn thể dân chúng. Đón mừng chiến thắng, mọi người đều cầm trên tay cành lá ô-liu, với những bó đuốc chói sáng, cung nghinh Thánh giá thật của Chúa đã lấy lại được. Trong bầu khí khải hoàn, mọi người hân hoan triều bái, chúc tụng, tung hô, tôn vinh Thánh Giá.
Nhà vua vui mừng phấn khởi, quyết định rước Thánh Giá vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi tiến vào thành, trước khi lên núi Sọ, nhà Vua đã như tê dại đôi chân, không thể nào bước được. Giáo trưởng Zacharie hô to: ”Tâu Đức Vua, xin Đức Vua cởi bỏ bộ y phục sang trọng ra vì nó không xứng đáng với cảnh Chúa Giê-su khó nghèo, khiêm nhượng khi vác thập giá”. Vua Héraclius I liền cởi bỏ bộ xiêm y sang trọng và khoác vào người bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì, một phép lạ vượt ngoài sức tưởng tượng của con người đã xảy ra: Nhà vua bước đi một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân. Chưa hết, Thiên Chúa còn làm thêm nhiều phép lạ trong ngày vinh quang thập giá được tỏ hiện này, để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Kể từ đó, Giáo hội thiết lập thánh lễ Suy tôn Thánh Giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố trọng đại này. Đó cũng chính là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio (590–604) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ Sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương, tôn kính “Gỗ Thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian (“Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit”). Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy (“Venite adoremus”). Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, người Ki-tô hữu hãy nhớ đến ý chỉ chính của Phụng vụ là tôn vinh “Gỗ Thập giá”, chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giê-su.
Thánh giá nguyên là một hình cụ giết người, một biểu tượng của tội ác do con người tạo ra, trông giống như chữ thập “ 十 ” (số 10), nên được gọi là “cây thập tự” hoặc “thập tự giá 十 字 架 ” (cái giá treo hình chữ thập). Dân Do-thái (đứng đầu là “các kỳ mục, kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng” – Mc 15, 1) đã dùng hình cụ đó để giết Đức Giê-su, vì họ đã liệt Người vào hạng người có trọng tội cần phải trừ khử: “Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa… Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” (Lc 23, 2-5). Nhưng khi Tổng trấn Phi-la-tô – vị quan có thẩm quyền xét xử vụ án – nhận thấy Đức Giê-su không có lỗi lầm gì, ông muốn thả Người, thì đám đông không chịu và đồng thanh gào lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Cuối cùng, “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” Đám đông lại càng say máu la lớn: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 23-25).
Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giê-su bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay (thanh gỗ ngang) kéo mọi người lên. Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giê-su Na-da-ret – vua Do-thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giê-su nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do-thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do-thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Ngoài ra, hình ảnh chữ thập cũng được con người dùng làm biểu tượng cho sự thu gom, cộng hưởng (dấu cộng: +), đầy đủ hoàn toàn (thập phần hoàn hảo); như vậy thì cũng có nghĩa là tập hợp các phần tử lại thành một mối, và nếu các phần tử đó là con người thì chẳng phải đây là dấu chỉ sự đoàn kết yêu thương nhau đó sao? Cây thập tự trở nên một dấu chỉ gom lại những kẻ tin, để quy về một mối trong yêu thương; như Lời Đức Giê-su phán: “khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.” (Ga 12, 32)
Rõ ràng từ một biểu tượng của tội ác, cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu. Gọi thập tự giá là Thánh Giá chính là vì thế. Quả nhiên cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất mà Con Người bị treo trên thập giá đã truyền dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39). Một cách cụ thể, cây thập tự treo Chúa không những biểu hiện cụ thể hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, mà còn bộc lộ Lời Thiên Chúa mời gọi những kẻ tin hãy trở nên như một Thập Giá Chúa Ki-tô: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói cách khác, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Từ một cây gỗ bình thường đóng thành hình chữ thập (thập tự) làm hình cụ giết người nên được gọi là “thập ác” ( 十 惡 chữ thập độc ác chứa 10 tội nặng) sau khi thấm đẫm Máu của Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, đã biến ra “thập thành” (十 成 mười phần hoàn hảo); trở thành “hồng thập tự” ( 紅 十 字 chữ thập màu đỏ) và trở nên một biểu tượng cứu nhân độ thế mà cả thế giới – không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo – đều lấy làm biểu tượng cho tình yêu thương, lòng bác ái. Đó chính là tổ chức từ thiện quốc tế Hồng Thập Tự (Hồng Thập Tự hội: 紅 十 字 會; “Société de la Croix-Rouge”; “Red Cross society”; “Roseus Crux societas”).
Hai điều răn của Ki-tô Giáo đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa vêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” (yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực), thì tiên vàn phải biết “yêu người” (yêu người như chính mình), vì chỉ có “yêu người” mới thực sự là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Giáo hội thiết lập lễ Suy tôn Thánh giá nhằm 2 mục đích chủ yếu: 1- Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa; 2- Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất. Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu phải ý thức khi suy niệm mầu nhiệm Cứu Chuộc thì hãy trực diện chiêm ngắm Thánh giá để được trực diện với chính hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vâng, “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11). Và từ đó, hiệp ý cùng toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá, ngõ hầu đi vào Mầu nhiệm Tình Yêu bằng tất cả tâm tình con dân thảo kính Thiên Chúa là Cha.
Ngày hôm nay, nhìn lên Thánh Giá, người Ki-tô hữu đừng quên “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Tội ác loài người đã sản sinh ra hình cụ giết người khủng khiếp không những chỉ để giết hại lẫn nhau mà còn đóng đinh treo Con Thiên Chúa cho đến chết. Thú tính đó vẫn chưa dừng lại, càng văn minh, con người càng sản sinh khí cụ tàn độc giết hại lẫn nhau (khủng bố, chiến tranh bằng súng đạn, bom mìn hạt nhân, vũ khí hóa học… càng ngày càng ghê gớm quá sức tưởng tượng!).
Tóm lại, hình cụ thập tự giá nhờ nhuộm đỏ Máu Thánh Chúa Ki-tô đã thực sự trở nên một Khí Cụ Tình Yêu, một Khí Cụ Bình An (Kinh Hòa Bình) giúp người tín hữu chống lại ba thù, để sống chan hòa yêu thương với nhau. Xin hãy suy tôn Thánh Giá bằng tất cả tâm tình tri ân, sám hối và canh tân, nguyện cầu Thiên Chúa ban thêm lòng Tin để đáp trả được tình yêu vô lượng đó, đồng thời biết Cậy nhờ vào Thần Khí Chúa giúp củng cố thêm lòng Mến vốn dĩ rất mong manh yếu kém của mình. Hãy cầu xin Thiên Chúa đoái nhìn những thảm cảnh liên tiếp xảy ra trên thế giới này, từ những thiên tai (bão lụt, động đất, sóng thần…), đến những nhân tai (chiến tranh, khủng bố, thực phẩm giết người, nạo phá thai, hủy diệt trứng, tinh trùng…), nhất là thảm kịch “huynh đệ tương tàn bằng vũ khí hóa học” diễn ra khốc liệt. Hãy tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho thế giới một nền hòa bình chân chính vĩnh cửu. Ước được như vậy.
Và xin cùng hợp hoan: “Thập giá vinh quang ngất cao trời xanh. Thập giá chứng nhân cứu độ người trần. Ơn giải thoát sức sống cao vời trên Thánh Giá chính Ngài đã dâng hiến cho trần gian. TK 1: Vinh quang của ta chính là Thập Giá Đức Kitô, cho con tôn thờ Thánh Giá suối mạch chan hòa. Để được phục sinh vinh quang cùng Thập Giá, nhận lãnh phúc ân cứu độ trong tình Cha. TK 2: Cho con thành tâm tôn thờ Thập Giá Chúa uy linh yêu thương nhân loại dang tay chết trên thập hình. Dạt dào tình thương hôm nao Người tận hiến, để cứu thoát con đưa về trong bình an.” (TCCĐ “Thập Giá Vinh Quang”).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Suy tôn Thánh Giá).
38. Vinh Quang Thánh Giá--Nữ tu Maria Madalena Phạm thị Huy, OP
Hôm nay Hội thánh cử hành lễ Suy tôn Thánh Giá. Thánh Anrê, giám mục Cơrêta, nói với chúng ta về lý do mừng lễ này: “Chúng ta mừng lễ Thánh Giá và cùng với Đấng chịu đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao”. (Bài đọc 2, Kinh Sách).
Vì sao chúng ta mừng lễ Thánh giá và bởi đâu, chúng ta được đưa lên cao?
Nơi Thánh giá, Hội thánh gẫm suy và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua việc Chúa Con nhập thể. Trên thập giá, Người Con đã đi đến tận cùng thân phận con người trong sự vâng phục Thánh Ý Cha một cách toàn vẹn. Để bởi cái chết cứu độ và sự phục sinh vinh hiển của ngài, Người Con ấy, Đức Giêsu Kitô, đền tạ sự công bình của Thiên Chúa Cha và bày tỏ tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa Cha cho con người. Trên Thánh giá, Đức Giêsu Kitô giang rộng đôi tay ôm lấy cả trần gian tội lụy này và đưa kiếp người hèn mọn của chúng ta vào trong cung lòng của Thiên Chúa Cha trong một đời sống mới.
Quả vậy, Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay:
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:13-17).
Thánh Giá vừa là sự đau khổ nhưng cũng là chiến tích của Thiên Chúa. Vì chính từ Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ được ban cho chúng ta. Thập giá đã chiến thắng thần chết, chiến thắng địa ngục. Nhưng nhìn ở một góc độ, thì thập giá quả là một nỗi kinh hoàng khiến chúng ta sợ hãi. Nỗi kinh hoàng mà chúng ta vẫn gặp đó đây trên hành trình cuộc đời: đau khổ, tội lỗi, sự ác, bất công, tàn bạo và tận cùng là cái chết. Tấm thân trần trụi của Đấng treo trên thập giá mãi mãi hằn sâu những dấu tích ấy. Nếu không nhìn bằng đôi mắt đức tin, đâu dễ gì để thấy nơi thập giá ấy, dấu tích một Thiên Chúa yêu thương, yêu đến cùng đồng thời cũng là lời tố cáo tội lỗi một cách mạnh mẽ nhất. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta:
Hãy nhìn sâu hơn nữa vào dấu chỉ này (Thánh giá), đẩy mạnh ta hướng cái nhìn đến sự nguy hiểm cũng như mọi việc làm cực kỳ tàn ác mà con người có thể gây ra. Đồng thời, thánh giá khiến ta nhìn lên Thiên Chúa, Đấng mạnh mẽ hơn, mạnh mẽ trong chính sự yếu hèn của Người, và ta thấy mình được Thiên Chúa yêu thương. (Từng ngày với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô, ngày 1-4 tháng 9)
Lạy Chúa, từng ngày, rất nhiều lần chúng con làm dấu Thánh Giá như lời tuyên xưng vào mầu nhiệm Thánh Giá. Xin cho chúng con, nhất là những khi gặp đau khổ, càng thấu hiểu sâu xa mầu nhiệm cứu độ của Chúa trên cuộc đời chúng con. Và khi mang dấu Thánh Giá trên mình, chúng con biết để cho Thiên Chúa hiển thị qua đời sống trong sạch tránh xa tội lỗi, một lối sống can trường nhưng khiêm tốn, một cách sống liên đới, quảng đại, trung thành dấn bước trong yêu thương.
39. Suy niệm về Thánh Giá--Jorathe Nắng Tím
Chẳng nói thì mọi người cũng biết: Thánh Giá là biểu tượng của niềm tin nơi người Kitô hữu, những người đi theo Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá và sống lại sau ba ngày từ cõi chết. Bên cạnh những người môn đệ này, có nhiều người không tin Đức Giêsu, nhưng không ngại đeo Thánh Giá trên mình, vì họ gặp được ở Thánh Giá nét đẹp thanh cao của tình yêu quên mình, và dấu ấn hy sinh của một tình yêu dâng hiến. Nhiều ngưòi khác chỉ mang Thánh Giá như một đồ trang sức làm đẹp.
Mặc dù Thánh Giá được nhìn dưới những lăng kính khác nhau tùy theo sự đón nhận của trái tim mỗi người, nhưng tất cả đều gặp ở Thánh Giá một biểu tượng chung của thất bại, khổ đau, chết chóc, không khác những người Do Thái đã coi Thánh Giá là “ô nhục, không thể chấp nhận”, người Hy Lạp cho là ngu xuẩn, và dân ngoại cho là điên rồ ( x. 1Cr 1,22-23)
Thực vậy, Thập giá không có gì hấp dẫn, lôi cuốn, vì đó là dụng cụ để thi hành án tử hình: tử tội chịu hình phạt đóng đinh trên thập giá cho đến khi tắt thở. Thập giá cũng chẳng có gì đáng tìm, đáng nhớ, vì trên đó chỉ có nước mắt đớn đau, và hình phạt đẫm máu, nên thập giá rất buồn, rất tủi, rất nhục, vì treo thân phận người thất bại, khổ đau, chết chóc. Và thập giá chỉ trở nênThánh Giá từ khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, “như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14 -15).
Quả thực, Thánh Giá là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu nổi. Hiểu sao nổi một Thiên Chúa lại chọn Thánh Giá để cứu độ nhân loại, trong khi Ngài toàn năng có thể chọn một cách cứu độ hoàn toàn khác, không bạo lực cực hình, không kinh hoàng đẫm máu. Hiểu thế nào được hình phạt ô nhục dành cho tử tội bị nguyền rủa, khử trừ, vì nguy hại cho xã hội loài người lại trở nên phương cách Thiên Chúa dùng để đem cho loài người ơn cứu sống. Hiểu làm sao được khi Thiên Chúa chọn cái điên rồ, ngu xuẩn đối với con người để biểu lộ sư khôn ngoan của mình (x. 1 Cr 1,17-25). Chính vì không hiểu nổi, không hiểu thấu mà Thánh Giá trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Người ta vấp phạm vì không chấp nhận Thiên Chúa yếu đuối như thế; vấp phạm vì phẫn nộ trước một Thiên Chúa hoàn toàn bất lực trước bạo lực của con người; vấp phạm vì tức giận Thiên Chúa đã không dùng quyền năng Thiên Chúa của mình mà xuống khỏi Thánh Giá; vấp phạm vì trách móc Thiên Chúa đã để con người đóng đinh mình; vấp phạm vì không thể chịu nổi một Thiên Chúa câm lặng dưới mũi giầy tàn ác của con người đang chà đạp, nghiền nát sức mạnh Thiên Chúa của mình. Vì vấp phạm, người ta từ chối nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của họ.
Ở đây, chúng ta chỉ chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu trước Thánh Giá, thái độ của một Thiên Chúa trước mầu nhiệm khổ đau của con người.
1. Trước đau khổ, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương:
Trước những người đau khổ vì bệnh tật đủ loại, Đức Giêsu đã không lý giải nguồn gốc của đau khổ, nhưng yên lặng cảm thương, chạnh lòng trắc ẩn. Ngài yên lặng trước mầu nhiệm đau khổ hơn là trình bầy một cách giáo khoa về đau khổ, hay phân tích một cách lý thuyết nguồn gốc của bất hạnh, bởi với Ngài, đau khổ là một sự dữ đang làm khổ con người mà Ngài thương mến và sự dữ ấy là do tội lỗi, nhưng tội lỗi đã vào thế gian và con người bắt buộc phải chịu hậu qủa của tội lỗi ấy. Trước tình huống chẳng đặng đừng, một tình trạng sẵn có, không thể thay đổi, thái độ yên lặng cảm thương, xót xa chạnh lòng là thái độ xứng hợp và đem lại ủi an nhất cho người đau khổ trong cuộc.
Yên lặng của Đức Giêsu không là yên lặng đồng loã, ủng hộ, nhưng là yên lặng tích cực, vì trong yên lặng, Ngài cảm thương thân phận, chạnh lòng xót xa và chân tình chia sẻ tất cả thử thách của người đau khổ. Đức Giêsu đã yên lặng tỏ lòng kính trọng niềm đau, nỗi khổ của người mình yêu, bởi đau khổ với Ngài là một mầu nhiệm.
Là mầu nhiệm, nên người ta không thể lý giải dễ dàng, cũng không thể cắt nghiã rành mạch, nên mọi ngôn từ đều bất lực trước mầu nhiệm khổ đau, mọi lý thuyết đều bó tay trước bất hạnh, chỉ có yên lặng cảm thương của “Thiên Chúa làm người” trước con người đau khổ, bất hạnh mới nói hết được giá trị và ý nghiã mầu nhiệm Thánh Giá của con người. Đức Giêsu đã luôn chạnh lòng cảm thương trong yên lặng kính trọng mầu nhiệm đau khổ ấy, mầu nhiệm mà chính Ngài đã sẵn sàng chia sẻ, dự phần, vì đó chính là Thánh Giá sinh ơn cứu độ.
2 . Trước Đau Khổ, Đức Giêsu đã yên lặng chấp nhận:
Nếu trước đau khổ của người khác, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương, chạnh lòng, thì với đau khổ của mình, Ngài đã yên lặng chấp nhận. Trong suốt cuộc tử nạn, có ai đã nghe được tiếng Ngài than thân trách phận, ngoài lời cầu xin thống thiết với Chúa Cha ở vườn Cây Dầu và trên Thánh Giá: “Lậy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này cho con” (Mt 26,39), “Lậy Cha, sao cha nỡ bỏ con?” (Mt 27, 46 ). Đức Giêsu đã yên lặng trước toà án, yên lặng vác Thánh Giá trên đường đến nơi hành quyết, yên lặng để bị lột trần truồng, yên lặng nằm cho lý hình đóng đinh, yên lặng chịu treo trên Thánh Giá, và yên lặng trút hơi thở trong niềm tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa Cha.
Qủa thực, Đức Giêsu đã không mồm loa mép giải tố cáo người này, lật tẩy người kia khi bị ức hiếp, hàm oan, cũng không lên án, nguyền rủa những người nguyền rủa, lên án mình, càng không trách móc Thiên Chúa đã để đau khổ hoành hành trong thế giới. Thái độ yên lặng ấy phát xuất từ ý thức đau khổ là mầu nhiệm sinh ơn cứu rỗi, và thái độ chấp nhận đau khổ là kết qủa của tinh thần vâng phục Thánh Ý mầu nhiệm của Chúa Cha. Vì biết mình đến để hiến mạng sống cho nhân loại được sống, Đức Giêsu đã hiểu Thánh Giá mang một giá trị cứu độ, và đau khổ là cái giá Ngài phải trả để mọi người được tha tội.
Như Đức Giêsu trước khổ đau của người khác đã yên lặng cảm thương, chúng ta cũng không thể làm khác những gì Chúa đã làm, bởi trước đau khổ của anh em, tất cả những lời hoa mỹ, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ đắc nhân tâm đều vô hiệu, và chỉ còn ngôn ngữ của trái tim, ngôn từ của đồng cảm, chữ nghiã của sẻ chia được biểu hiện bằng yên lặng mới có thể làm nhẹ nỗi đau, làm tan tủi nhục, và cất bỏ gánh ưu phiền nặng trĩu trong tâm can người anh em bất hạnh. Chính yên lặng cảm thương mới giúp cả ta cả người đi sâu vào mầu nhiệm đau khổ như nguồn ơn đổi mới, trở về, cứu sống. Và cũng như Đức Giêsu đã yên lặng đón nhận khổ đau của chính mình, chúng ta cũng phải với Ngài cam chịu đau khổ trong yên lặng để nhận ra mầu nhiệm cứu độ trong chính đau khổ mình chịu.
Yên lặng cảm thương người đau khổ, yên lặng đón nhận đau khổ không phải thái độ hèn nhát đầu hàng đau khổ, nhưng là thái độ của người vượt qua đau khổ vì nhìn thấy ở đau khổ Thánh Giá của Đức Giêsu với giá trị của mầu nhiệm cứu độ. Họ yên lặng vì được hiệp thông với đau khổ của Con Thiên Chúa và xác tín Thánh Giá của đời họ được tháp nhập vào Thánh Giá Cứu Độ của Thiên Chúa làm người, để rồi đau khổ được tháp nhập vào cây Thánh Giá nguồn Sống, Tình yêu và Hy Vọng ấy sẽ sinh hoa trái là Hạnh Phúc đời đời trong Nước Chúa.
Tóm lại, đau khổ của người khác hay đau khổ của chính ta đều mang giá trị cứu độ, khi hiệp thông với đau khổ của Đức Giêsu, cũng như Thánh Giá của anh em cũng như của ta đều mang lại ơn cứu độ cho ta và mọi người, nếu các Thánh Giá to nhỏ đó được đặt trong Thánh Giá nguồn ơn Cứu Độ của Đức Giêsu.
Xin Chúa cho chúng con xác tín mầu nhiệm của đau khổ, và giá trị cứu độ của Thánh Giá, để chúng con hiểu rằng có những hiểu lầm, vô ơn, kể cả hình phạt chúng con phải chịu cách bất công, sẽ trở nên ơn phúc cho chúng con và anh em chúng con, trong mầu nhiệm Thánh Giá của Chúa; có những oan sai, vu khống chúng con bị người đời áp đặt lại là ơn bình an cho người khác và cho chúng con; có những vô ơn, phản bội hằng ngày chúng con phải gánh chịu do chính những người chúng con yêu thương, đùm bọc lại cần thiết cho hạnh phúc của nhiều người, trong đó luôn có chúng con.
Và trong mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu, xin cho Thánh Giá chúng con mang vác, kéo lê mỗi ngày được trở nên ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, đặc biệt những người chúng con thương mến, thân quen, nhất là những người chúng con có bổn phận thảo hiếu, đền ơn, đáp nghiã.
40. Yêu cho đến cùng--Bông hồng nhỏ
Gần đến ngày lễ Suy tôn Thánh Giá, lòng tôi được Chúa mời gọi cách tha thiết và mãnh liệt hơn chiêm ngắm tình yêu của Chúa trên Thánh Giá. Khi nhìn ngắm Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá, tôi gẫm suy về tình yêu dâng hiến đến tận cùng của Ngài. Và rồi tôi được mời gọi bước theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh như lời mời gọi trong Hiến luật của Hội Dòng: “yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh giá và yêu Thánh Giá của Người cùng sẵn lòng đón nhận thập giá của bản thân” (x.HC 5).
Thánh Giá là dấu chỉ của người Kitô hữu, là biểu tượng của Kitô giáo. Khi làm dấu Thánh Giá, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Đi ngang qua một vùng đất lạ, nhìn thấy Thánh Giá trên các ngôi mộ, hay trên tháp nhà thờ, tôi vui mừng vì những con người ở đây đã được nhận biết Chúa. Tôi bước vào đời đã được làm con của Chúa. Thánh Giá vị Linh mục thánh thiện đã ghi trên trán tôi ngày tôi được rửa tội, là dấu ấn tình yêu Thiên Chúa ghi dấu trên cuộc đời tôi. Kể từ đó, cuộc đời của tôi luôn gắn liền với Thánh Giá Chúa Giêsu-Kitô.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa Cha đã biểu lộ tình thương vô biên của Người như thế đó. Chúa Con khi xuống thế làm người, Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x.Pl 2,8). Vì lẽ đó, Thánh Giá trở nên dấu chứng tình yêu lớn nhất mà Chúa Giêsu-Kitô đã dành cho Chúa Cha và nhân loại. Còn tôi, kẻ được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, tôi sẽ làm gì để đáp lại tình yêu cao vời của Thiên Chúa?
Điều đầu tiên là tôi phải “tin vào Con của Người”, nghĩa là tôi sẵn lòng đón nhận tất cả mọi điều đến từ Thiên Chúa và Giáo hội của Người. Mỗi ngày tôi vẫn đến với Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để gặp gỡ và ở lại trong Người, để qua Người tôi được biết Chúa Cha là Đấng luôn thương xót tôi. Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng, tôi tin và sống niềm tin của mình. Thánh Giacôbê Tông đồ đã quả quyết: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi yêu ai, người ta sẽ tin vào người ấy và đón nhận tất cả những gì đến từ người mình yêu. Tôi yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá là khi tôi dám đón nhận thập giá mình mỗi ngày. Hai điều này không tách rời nhau. Chẳng phải Chúa Giê-su cũng dạy rằng: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34b). Đứng trước một khó khăn, thách đố, theo lý trí tự nhiên, tôi sẽ chạy trốn. Khi phải từ bỏ ý riêng, phải đối diện với giới hạn của bản thân, tôi dễ bị rơi vào tình trạng cố chấp, xem mình luôn đúng, phủ nhận những giới hạn của mình, tự ru ngủ mình bằng sự bình an giả tạo. Chính lúc ấy, Chúa mời gọi tôi nhìn thẳng vào sự thật, hạ mình khiêm nhường để biết lắng nghe và đón nhận người khác với thái độ tôn trọng, và có trách nhiệm với chính mình. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã sống con đường nhỏ của mình, để cho Chúa Giê-su dẫn dắt như trẻ thơ. Tôi cũng được Chúa mời gọi đi trên con đường đó để biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa.
Điều thứ hai, đối với tôi, muốn theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh, tôi phải “yêu cho đến cùng”. Tình yêu đích thực có khả năng làm cho người ta vượt ra khỏi chính mình, vượt qua khỏi mọi nghịch cảnh để yêu cho đến cùng tận. Nếu tình yêu của tôi không đủ chân thành, không nồng nàn mãnh liệt, tôi sẽ sớm bỏ cuộc. Trong tình yêu, tôi học được sự kiên nhẫn. Nhìn ngắm Chúa Giê-su trên Thánh Giá, tôi tự hỏi: Vì đâu Con Thiên Chúa lại có thể tự nguyện buông mình cho loài người, chấp nhận một bản án bất công, để rồi chết trên cây thập giá? Trên Thánh Giá, Con Thiên Chúa đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (x.Pl 2,7). Tất cả chỉ vì một chữ “yêu”. Yêu cho đến cùng là sẵn lòng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, là chấp nhận từ bỏ chính mình, là hoàn toàn phó thác đời mình cho Chúa, là “để Chúa làm tất cả những gì Chúa muốn nơi tôi”.
Tôi có thể không thích Thánh Giá, vì Thánh Giá không mang lại cho tôi sự hưng phấn, sự hài lòng tức thời, nhưng vượt xa hơn thế, tôi sẵn lòng yêu Thánh Giá. Bởi chỉ khi yêu Thánh Giá, tôi mới có khả năng cảm thông, tha thứ, đón nhận người khác, dù họ là kẻ thù nghịch với tôi. Trong thing lặng của nội tâm và trong cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn tôi, giúp tôi yêu cho đến cùng như Chúa Giê-su.
41. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở Nghĩa Trang, trên nấm mộ…; Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá…; người ta cũng đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay…
Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.
Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc…
Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.
Tại sao vậy? Thưa, Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ.
Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.
1. Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa
Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “…vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).
Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31, 3); và: “Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung” (Tv 89, 34).
Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên “mới mẻ và sống động“.
Vì thế, đây là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.
2. Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ
Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.
Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Aicập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21, 8).
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14 – 15).
Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu độ, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.
Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.
Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.
Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá […]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1,18-25).
3. Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha
Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 13,3-35). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù (x. Lc 6, 27-35). Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13).
Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá. Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.
42. Nhìn lên Thánh Giá, bạn thấy gì?--Anna Điểm Mười
Một buổi chiều nọ, sau khi tôi và một người bạn cùng ngồi cầu nguyện dưới tượng Đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng- Đinh, bạn tôi hỏi tôi rằng: “Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?”. Vào ngày lễ Suy tôn Thánh Giá hôm nay, câu hỏi ý nghĩ ấy lại một lần nữa vang vọng trong tôi.
Với mắt phàm, nhìn lên thập giá tôi thấy một Giêsu thân trần trụi chịu chết tức tưởi. Trước kia còn nhỏ, tôi chẳng hiểu được vì sao người ta lại đóng đinh một con người trên cây thập tự ấy. Sau này tôi mới hiểu, thập tự giá là dụng cụ thời đế quốc Rôma dùng để thi hành án tử hình đối với những tử tội. Đối với họ hay đối với nhiều người thì cây thập giá ấy là biểu tượng của đau khổ, ô nhục, sợ hãi và chết chóc. Nhưng tôi biết rằng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa đó, từ khi Đức Giêsu Kitô hiến thân mình trên đó, thập tự giá đã trở thành “Thánh giá”. Như vậy, Thánh giá trở nên biểu tượng tuyệt vời của hy vọng và tình yêu, của vâng phục và tự hiến, của sự sống và vinh quang.
Khi chiêm ngắm Dức Giêsu Chịu-Đóng-Đinh với cái nhìn đức tin như vậy, tôi hiểu Thánh giá chính là hiến tế của Đức Giêsu với tình yêu lớn nhất dành cho Chúa Cha và nhân loại. Đó cũng là biểu tượng ơn cứu độ mà Chúa đã hoàn thành trên thập tự giá vì nhân loại. Ngắm nhìn Thánh giá, tôi thấy một Đức Giêsu Kitô khiêm nhường thẳm sâu, đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa, chấp nhận sống kiếp phàm nhân và vâng phục Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chiêm ngắm Chúa chịu chết đang khi dang rộng cánh tay như thể Ngài muốn ôm trọn tôi và hết mọi người vào trái tim đầy yêu thương của Ngài. Ngài đã chịu chết như thế để nêu gương cho tôi, Ngài mời gọi tôi yêu thương đến quên mình cho tha nhân. Thánh giá cũng mời gọi tôi can đảm chịu những hy sinh, yêu mến thập giá trong đời với tình yêu dành cho đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng-Đinh, đối tượng tôi đang bước theo trong ơn gọi Mến Thánh Giá. Đó cũng là lời mời gọi tôi sống tâm tình biết ơn bằng đời sống khiêm nhường, dấn thân vì Nước Trời giữa cuộc sống hôm nay. Sau cùng, Thánh giá nói cho tôi biết một chân lý qua lời của Thánh Phaolô rằng: “Vì chúng ta đã được nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta sẽ nên một với Người nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6, 3-5). Điều này nhắc nhở tôi, Chúa Kitô Phục Sinh đang sống trong tôi, Ngài đã chết, đã sống lại thì đến lượt tôi cũng phải chết đi cho tội lỗi để được sống lại như Ngài.
“Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?” Đó cũng là câu hỏi tôi muốn nhắn gửi đến bạn trong ngày lễ Suy tôn Thánh giá hôm nay. Ước mong sao với câu hỏi này tôi và bạn lại có được một cơ hội để suy tư về mầu nhiệm Thánh giá Chúa, mầu nhiệm tình yêu cao vời Chúa đã dành cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện chịu chết trên cây thập giá xưa để đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, chúng con xin hết lòng tri ân, cảm tạ Chúa. Chúng con xin Chúa giúp chúng con biết sống theo gương Chúa, biết sống yêu thương, quên mình cho tha nhân để tình yêu Chúa được lan rộng cho mọi người chúng con gặp gỡ, phục vụ và trên toàn thế giới. Amen.
43. Thập Giá trở thành Thánh Giá--Anna Cỏ may
Đứng giữa vườn hoa đua nở, ánh mắt tôi sáng lên, gương mặt rạng ngời. Lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng và tràn đầy sức sống. Khi đứng trước một thân cây không còn cành lá và được đóng thành hình thập giá, nơi đó, có một người đang bị đóng đinh trông thật kinh hoàng, lòng tôi run sợ và muốn bỏ chạy thật nhanh. Nhưng càng chiếm ngắm cây thánh giá trong thinh lặng, lòng tôi bừng lên một sự bình an, một sức sống dồi dào và một tình yêu bao la dành cho Con Người đang chịu đóng đinh. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu.
Đối với người Do thái xưa, cây thập giá là cây dành cho những tù nhân vác đi đến nơi họ phải đến. Chúa Giêsu là người đã bị các Thượng tế và các Kinh sư kết án và nhận lấy một cây thập giá. Ngài vác thập giá trên vai, bước đi lên đồi Canvê đang khi thân xác đã bị nhừ đòn. Thập giá đã nặng lại còn nặng hơn bởi những lời nguyền rủa, xỉ vả của những kẻ ghét Ngài. Ngài đã vác thập giá đi đến cùng mà không một lời oán trách. Ngài dâng thập giá ấy lên Chúa Cha và nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm” (Lc 23,34). Nhờ sự thánh hiến ấy mà cây thập giá trở thành cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Để những ai đang phải vác thập giá của mình mà nhìn lên Ngài, cùng tin yêu và phó thác vào Ngài, họ sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,15).
Nhìn lại những thập giá trong đời mình, tôi nhận thấy thập giá của mình rất nhiều, nó luôn ở xung quanh tôi và ở ngay trong tôi. Thập giá đến từ những nhu cầu của cuộc sống, đó là thập giá của sự ham muốn thái quá, những đam mê khiến tôi phải giằng co và nhiều thứ khác nữa. Thập giá mà tôi nhận thấy nơi mình rất nguy hiểm là loại thập giá do tôi tạo ra và loại thập giá ẩn sâu trong vỏ bọc thành công, tài năng và những tiện nghi. Loại thập giá do tôi tạo ra xuất phát từ việc bắt chước người khác. Mọi người mua cái gì tôi cũng mua cái đó trong khi nó không phải là nhu cầu cần thiết của tôi. Còn thập giá ẩn sâu lôi kéo tôi đến sự kiêu ngạo mà tôi không hay biết. Nhưng khi tôi biết dùng những thập giá đó vào việc chia sẻ, phục vụ cho mọi người và sống một tinh thần khổ chế, tôi sẽ không còn vác thập giá một mình mà cùng Chúa Giêsu vác thánh giá đi đến cùng trên con đường Chúa muốn tôi đi. Theo kinh nghiệm của Đức Cha Lambert de la Motte- Đấng Sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá: đời sống khổ chế là một đời sống biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với thánh giá Con Thiên Chúa (x. ltt II,1). Vì vậy, tôi càng xác tín rằng, thập giá là nấc thang đưa tôi lên Nước Trời. Nếu tôi biết dâng những thập giá đó lên Chúa Giêsu, để Ngài thánh hóa, thập giá của tôi sẽ thành thánh giá vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, con chẳng say mê thánh giá và thường trốn chạy đau khổ. Nhưng từ khi đáp lại tiếng Ngài mời gọi, con đã bước vào Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Đức và sống theo linh đạo: chọn Đức Giêsu- Kitô Chịu- Đóng- Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con, con mới khám phá ra sự tuyệt hảo khi vác thập giá đi theo Chúa là thế nào. Xin Chúa giúp con luôn trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày và biết vác đỡ thập giá cho mọi người xung quanh. Amen.
13/09 Phúc thật và khốn thay
- Viết bởi Lc 6, 20-26
Phúc thật và khốn thay.
Thứ Tư tuần 23 thường niên. – Thánh Gioan Kim Khẩu, gm, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
* Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tụy, lo chấn chỉnh phong hóa cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý công giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.
Lời Chúa: Lc 6, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Phúc cho anh em là những người nghèo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được.
Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo.
Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch.
Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao...
Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn,
vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền.
Họ chọn sống trong cảnh nghèo,
lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng:
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó,
Vì Nước Trời là của anh em”.
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn
từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt.
Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác,
với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng.
Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng:
họ là những người có phúc,
khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài.
Nước Trời đã thuộc về họ từ đây,
và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.
Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta.
Ngài là một người thợ thủ công nghèo,
Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói,
Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem,
và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết.
Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc,
vì biết mình luôn sống cho Cha và con người.
Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu:
Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài,
nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu.
Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống
để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui.
Hôm nay Ngài muốn chúng ta
đến với khu lao động, với lớp học tình thương,
xóa đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả.
Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này.
Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô,
tự nguyện trở nên nghèo hơn
để làm giàu cho người khác (2 Cr 8,9).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con nhìn thấy những người nghèo
ở quanh con, ở trong gia đình con,
đang cần đến con.
Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo,
xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng
cả người giàu cũng nghèo,
nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng
cả bản thân mình cũng nghèo
và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt,
một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con
ai cũng nghèo về một mặt nào đó,
ai cũng cần đến người khác.
Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,
làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,
vì Chúa rất cần đến chúng con
để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo
để nhận lãnh,
can đảm nhận mình giàu
để hiến trao. Amen.
Suy niệm 2: Hạnh phúc và bất hạnh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người luôn khao khát hạnh phúc. Vì Thiên Chúa tạo dựng để con người được hạnh phúc. Con người luôn khao khát. Vì hạnh phúc là có thật. Nhưng con người lại chưa từng gặp được. Cứ mòn mỏi chờ mong. Cứ miệt mài tìm kiếm. Hôm nay Con Chúa xuống thế làm người chỉ cho con người đường đến hạnh phúc. Và vạch rõ những nẻo đường dẫn đến bất hạnh.
Đường đến hạnh phúc ngược với suy nghĩ của phàm nhân. Vì hạnh phúc thật không có ở trần gian. Chỉ có trong Nước Chúa. Ai càng gắn bó với đời này càng thất vọng. Ai càng bám víu vào những giá trị đời này càng bất hạnh. “Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”. Chỉ có người biết dứt bỏ tham, sân, si mới đạt tới hạnh phúc. Chỉ có người vượt lên trên những ham muốn tầm thường ti tiện của loài người mới đạt tới Nước Trời. “Phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Hạnh phúc thật chỉ có trong Chúa. Là chính Chúa. Ai dứt bỏ mọi cám dỗ vì Chúa sẽ tìm được Chúa. Nhất là ai dám liều mạng sống vì Chúa sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Đó là hạnh phúc thật, viên mãn, vĩnh cửu. “Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên tời thật lớn lao”.
Hạnh phúc thật không có ở đời này. Chỉ có ở đời sau. Nên thánh Phao-lô khuyên nhủ ta đừng bám víu vào đời này. Hãy hướng lòng về đời sau. Coi mọi sự đời này như không có. Vì chúng rất mau qua. “Tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (năm chẵn).
Hạnh phúc không thuộc hạ giới. Nên ngài khuyên ta: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. Và phải dứt khoát: “giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em”. Hạnh phúc không có nơi thủ lãnh thế gian. Nên ta phải sống cho Chúa. Vì”Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (năm lẻ).
Thật lạ lùng con đường của Chúa. Chịu bất hạnh để được hạnh phúc. Từ bỏ tất cả để được lại tất cả. Chết cho trần gian để sống cho Chúa. Vượt qua hạ giới để vươn lên thượng giới. Chối từ thế gian để đạt tới Nước Trời.
Suy niệm 3: Các Mối Phúc Thật
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những kẻ bây giờ phải đói khát, phúc cho những kẻ bây giờ đang phải than khóc, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không phải là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Ðược lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
Suy niệm 4: Những Hạnh Phúc Bất Tiện
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ rồi nói:
“Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.
Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: “ Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa”.
Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!
GF
Suy niệm 5: Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc
Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, thứ Hai tuần 10 TN và lễ Các Thánh Nam NỮ
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Các Mối Phúc Thật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai nghèo, đói, khổ đau, và vì Chúa mà bị thù ghét. Những người có phúc trên đời này: giàu có, no nê, sung sướng, danh giá… không đón nhận được phúc lành của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, có lẽ không có gì làm cho tâm trí con bị giằng co, bị phân vân cho bằng các mối phúc của Chúa. Bởi vì những gì con nghĩ là bất hạnh thì được Chúa cho là phúc lành; còn những gì con ao ước có thì Chúa lại cho là bất hạnh. Con xin thú thật, trong cuộc sống của con, lắm khi con không dám đón nhận các mối phúc của Chúa. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay luôn nhắc nhở bên tai con khiến con phải suy nghĩ, phải đặt lại vấn đề. Chính Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Lời Chúa là chân lý, là đuốc sáng soi dẫn đời con. Chúa đã hứa ban sự sống đời đời cho những ai đón nhận Lời Chúa. Chúa đã hứa ban Nước Trời cho những ai sống theo các Mối Phúc Thật. Con muốn chọn Chúa, muốn sống cho Chúa. Xin Chúa cho con xác tín vào Chúa mạnh mẽ hơn để con có thể bước vào con đường hẹp và gồ ghề của các Mối Phúc.
Những khi gia đình con gặp túng cực, những khi con phải chịu thiệt thòi, những khi con gặp khó khăn, dở khóc dở cười… con thường nghĩ con bị Chúa bỏ rơi, con đang phải cô đơn, vô vọng.
Lời Chúa hôm nay đã nâng đỡ và khích lệ con. Con không bị bỏ rơi khi con phải khổ đau. Con không xa Chúa khi con túng bấn. Chúa đang ở bên con, đang hướng dẫn con về Nhà Chúa, Chúa đang chúc phúc cho cuộc sống nhiều chật vật gian nan của con. Lạy Chúa, xin cho con bước theo Chúa trong trung thành và bền chí. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Suy niệm 7: Phúc cho người tin tưởng vào Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi hoàng đế Napoléon của Pháp, người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?”. Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi rước lễ lần đầu”.
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Theo Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr. 91).
Suy niệm
Thiên Chúa luôn mong cho con người hạnh phúc dù giàu hay nghèo, tất cả đều nằm trong sự yêu thương quan phòng của Người. Hạnh phúc là điều Thiên Chúa muốn nơi con người và cũng là niềm mơ ước của tất cả mọi người cho dù họ là ai, đang ở vị trí nào đi chăng nữa.
Chúa Giêsu không lên án hay có ý chúc dữ những người giàu có làm ra từ đôi tay chăm chỉ, đi từ gốc của lòng lương thiện và sống trong ánh sáng đức ái của Lời Chúa. Những người giàu biết sử dụng của cải Chúa ban một cách hợp lý, biết chia sẻ cho những người túng nghèo như Giakêu - người thu thuế giàu có, hoán cải khi tiếp đón Chúa, được Chúa biến đổi để tin nhận Ngài là phần phúc và tự tâm biết chia sẻ với những người nghèo, với những người mà ông đã làm thiệt hại.
Chúa nói “khốn thay” cho những người giàu tức là Ngài muốn chỉ trực diện những người giàu có nhưng ích kỷ, keo kiệt. Những người nhiều tiền lắm bạc, của cải tràn lan làm từ sự bất công và phi pháp, họ lại không biết san sẻ cho những số phận hẩm hiu như người phú hộ giàu sang dửng dưng coi như không có Ladarô nghèo nàn, ghẻ lở bên cổng nhà mình…
Những mối phúc mà Chúa Giêsu nhấn mạnh quả là niềm an ủi nâng đỡ cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức... Cái phúc cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức, bị oan ức, bị bách hại là chính Con Thiên Chúa đến để giải thoát họ, Ngài được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần được sai đi đem Tin Mừng cho những người nghèo khổ, những kẻ bị giam cầm và bị áp bức, Ngài giải thoát và dẫn họ đến tự do, hạnh phúc (x. Lc 4,14-21). Người sống trong thân phận nghèo khó, tù đày, bị áp bức để được đón nhận hồng ân cứu độ như nguồn phúc mà Chúa Giêsu loan báo, họ phải ý thức thân phận nghèo khó, thân phận bị áp bức của chính mình. Trong tâm thức đó, họ để cho Ngài và cùng với Ngài hành động giải thoát trong niềm tin và sự phó thác. Những lo âu, những khốn khó, những giọt nước mắt sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác và như thế người nghèo khó, người bị áp bức tù đày được cùng với Ngài giải thoát ngay trong chính niềm tin, đó là cái phúc cho người nghèo.
Phúc hay họa cho người giàu cũng như người nghèo không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình.
Dù giàu hay nghèo Thiên Chúa đều chúc phúc miễn là sống trong tin cậy và thể hiện niềm xác tín ấy trong cuộc sống như Thánh vịnh đã khuyên: “Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 39,5c).
Ý lực sống:
“Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn” (Gr 17,7-8).
Suy niệm 8: Các mối phúc thật
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong Tin mừng hôm nay, thánh Luca nêu lên bốn mối phúc và bốn mối hoạ, như một lời báo trước cuộc phán xét của Đức Giêsu trong ngày cánh chung. Bốn mối phúc như là những đòi buộc của Chúa đối với các môn đệ chân chính. Bốn mối hoạ không phải là lời nguyền rủa nhưng là lời khuyến cáo và tha thiết kêu gọi thống hối ăn năn. Chúng ta đã sống thế nào trước lời nhắn nhủ chân thành của Chúa?
Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin mừng Mátthêu kể ra 8 cái phúc (Bát phúc), hôm nay đến lượt Tin mừng Luca thu lại chỉ còn 4 cái phúc và 4 cái khốn. Theo Mátthêu, đây là bài giảng trên núi, bao gồm 8 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Còn Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất, bằng trình bấy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 cái khốn, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giàu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết, để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người, để nó thống trị và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ khó nghèo”, Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người (Mỗi ngày một tin vui).
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước trời là của anh em” (Lc 6,20).
Xoá đói giảm nghèo là mục tiêu chung của cả toàn cầu, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Nghèo đói thường đi với cực khổ và cũng thường gắn liền với tự ti mặc cảm. Do đó, đối với nhiều người, coi nghèo khó là hạnh phúc như lời Đức Giêsu thật là điều nghịch lý! Thật ra, Chúa không đề cao tình trạng khố rách áo ôm hay chạy ăn từng bữa, nhưng cổ võ cho lối sống phó thác cậy trông nơi Thiên Chúa, trong tinh thần liên đới với người lân cận. Nghèo khó mà Đức Giêsu muốn dạy chúng ta là tinh thần nghèo khó, lấy Chúa làm nền tảng của mọi giá trị, cùng đích cho cuộc đời mình, chứ không dựa vào của cải. Đức Giêsu đã sống triệt để mối phúc nghèo khó qua cuộc sống hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (5 phút Lời Chúa).
Vậy hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:
Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa”.
Truyện: Hạnh phúc của dân làng Aman
Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:
- Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế, nhà hiền triết trả lời cách khô khan:
- Hãy nên đổ lại xuống biển.
Suy niệm 9: 4 lời chúc phúc
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo những lời quở trách.
- Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
- Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
B.... nẩy mầm.
1. Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó… Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có…”: Có một truyện phim được chiếu trên truyền hình, kể chuyện một gia đình nghèo nhưng hạnh phúc, về sau khi họ giàu lên thì không còn hạnh phúc nữa. Có lẽ dụng ý của Đài khi chiếu phim này là để đưa ra một lời cảnh giác cho mọi người trong thời kỳ đất nước đang mở cửa theo hướng kinh tế thị trường. Nghèo chưa hẳn là khổ, và giàu chưa hẳn là sướng. Sướng hay khổ là do lòng người, hay nói cho đúng hơn, do những giá trị mình theo đuổi. Như gia đình ấy khi còn nghèo thì mọi người biết lo lắng và hy sinh cho nhau; đến khi giàu thì mạnh ai nấy lo hưởng thụ một cách ích kỷ.
2. Trong bài Tin Mừng này, thánh Luca chú ý ghi rõ những chữ “bây giờ” và “sẽ”. Nghĩa là có thể có sư thay đổi tình trạng. Bây giờ đang khổ nhưng sau này có thể sẽ hạnh phúc; ngược lại bây giờ đang sung sướng nhưng sau này có thể sẽ khổ. Người đang khổ vật chất nhưng biết tìm kiếm những giá trị siêu nhiên thì sẽ hạnh phúc; ngược lại kẻ đang sung sướng với những giá trị vật chất nhưng cứ bám vào chúng mà không vươn lên những giá trị siêu nhiên thì sẽ bất hạnh.
3. Chúa rất yêu thương và rất công bình: ngay cả những người đang khổ, Chúa cũng ban cho họ hạnh phúc, một thứ hạnh phúc lạ lùng mà sự khôn ngoan thế gian không nghĩ ra được.
Xin cho con đừng bi quan chán nản trong những cái khổ hiện tại của con, nhưng biết tìm trong đó nguồn hạnh phúc siêu nhiên.
4. Lời cầu nguyện của người nghèo:
Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn cho con. Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ cộc đời túng thiếu của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách sống với người nghèo, trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo. Nhìn vào cuộc đời Chúa, con thấy Chúa còn nghèo hơn con. Nhưng nhờ đó con cảm thấy Chúa gần con như một người bạn, như một người thân. Chẳng ai dám chia sẻ đời nghèo của con đề sống gần con như thế. Có Chúa, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi.
Ngoài ra, việc Chúa chọn phận nghèo còn dạy con giá trị cao quý của đau khổ. Chúa đã dùng đau khổ để cứu con và cứu nhân loại. Con không thể lên trời bằng con đường khác. Hiện giờ, đau khổ không thiếu, chỉ cần con chịu những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa và khao khát tìm Chúa, tức khắc đau khổ sẽ trở thành con đường đưa con về hạnh phúc bất diệt. Cũng nhờ đó, con mới nhận ra rằng cảnh nghèo không kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ tạm thời rồi nó sẽ qua đi. Nếu nó có thể dùng vào việc mở cửa thiên đàng, thì nó không chỉ biết gây đau thương và bất hạnh. Tất nhiên, con sẽ cố gắng xoay sở làm ăn để đủ sống xứng đáng con người, nhưng nếu cảnh nghèo cứ bám chặt lấy đời con thì con phải lợi dụng để biến nó thành một phương tiện làm giàu thiêng liêng (Chờ đợi Chúa)
5. “Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ than khóc” (Lc 6,25)
Mày mò mấy tháng trời, tôi mới khám phá ra được cách chép nhạc bằng máy vi tính. Một mình trước máy vi tính, tôi thấy mình thật vui với một chút kiêu hãnh: mình vượt mấy thằng bạn trong lớp rồi.
Nhưng tôi cảm thấy như có cái gì đó “không ổn” trong kiểu suy nghĩ của mình. Tôi quyết định tận tình chỉ lại cho bạn bè như một sự chia sẻ niềm vui. Và kìa, lòng tôi sao hạnh phúc quá!
Thiên Chúa chắc chắn không thể chúc dữ chỉ vì tôi giàu có, no nê, vui cười; nhưng nhất định Ngài sẽ chỉ trích khi tôi không biết chia sẻ những gì mình có cho anh em.
Giêsu ơi! Con vẫn cảm thấy hạnh phúc, bình an và vui tươi khi chia sẻ và trao ban cho tha nhân. Nhưng để chia sẻ cách thật tình hơn với những người ít thân hơn thì con lại ngần ngại. Lạy Chúa xin hãy dạy con, xin hãy dạy con. (Hosanna).
Suy niệm 10: Hạnh phúc thật
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời và điều đáng chúng ta lưu ý là ngài còn kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những người bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
Vâng, hạnh phúc là mối bận tâm sâu thẳm nhất của con người. Nhưng làm sao để có hạnh phúc thì điều đó không phải dễ trả lời.
Vua Abder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
2. Vậy thì hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:
- Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng”.
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa”.
Đây là tâm sự của một người đã cố gắng sống như Chúa: “Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và yêu thương vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn lao cho con.
Lạy Chúa Giêsu,
Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy.
Amen. (Rabboni)
12/09 Chọn Nhóm Mười Hai
- Viết bởi Lc 6, 12-19
Chọn Nhóm Mười Hai.
Thứ Ba tuần 23 thường niên.
“Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Thức suốt đêm cầu nguyện
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu là con người cầu nguyện:
đây là nét nổi bật của Tin Mừng Luca.
Ngài cầu nguyện suốt cuộc đời trần thế,
từ khi nhận phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Lc 3, 21)
đến khi hấp hối trên thập giá (23, 34. 46).
Đối với Ngài, cầu nguyện là chuyện Con đi gặp Cha,
là cuộc chuyện trò thân mật giữa Cha và Con.
Chính vì thế các lời cầu nguyện của Ngài (10, 21; 22, 42; 23, 34. 46).
đều bắt đầu bằng hai tiếng Abba, Cha ơi, thân thương.
Cần một không gian tĩnh lặng và riêng tư để gặp Cha (9, 18),
nên Đức Giêsu thường lên núi (6, 12; 9, 28)
hay vào chỗ hoang vắng (5, 16).
Nhưng có khi Ngài cầu nguyện tự phát trước mặt môn đệ (10, 21),
hay dẫn các môn đệ đến nơi mình sắp cầu nguyện (9, 28; 22, 39).
Gặp Cha là hơi thở đem lại sự sống và hạnh phúc cho Đức Giêsu.
Ngài múc lấy toàn bộ ý nghĩa đời mình qua các cuộc gặp gỡ đó.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Đức Giêsu.
Ngài đã thức suốt đêm nơi một ngọn núi (c. 12).
Ngài cố ý đến ngọn núi này để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Đức Giêsu có điều cần hỏi ý Cha trước khi đi tới một quyết định.
Và đây là một quyết định quan trọng.
Đã có một đám đông môn đệ theo Ngài (Lc 6, 17),
bây giờ Đức Giêsu muốn tuyển chọn một nhóm nhỏ
để họ ở gần Ngài hơn và cộng tác với Ngài sát hơn.
Đức Giêsu không muốn tự chọn cho mình những cộng sự viên.
Ngài muốn đặt việc chọn lựa này trong bầu khí cầu nguyện.
Ngài coi nhóm đặc biệt này là “những kẻ Cha đã ban cho Con,”
“những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian” (Ga 17, 6. 9).
Đức Giêsu chỉ muốn chọn những người Cha đã chọn cho mình.
Đến sáng Ngài mới rõ ý Cha, mới làm xong việc chọn lựa.
Như thế cả Đức Giêsu cũng phải vất vả tìm kiếm ý Cha.
Cuối cùng Ngài đã chọn được Mười Hai ông mà Ngài gọi là tông đồ.
Đời người được đan kết bằng những chọn lựa lớn nhỏ.
Có những trường hợp dễ phân biệt trắng đen.
Nhưng có khi tôi phân vân không rõ điều nào tốt hơn,
và đâu thực sự là điều Chúa muốn cho đời tôi.
Gặp gỡ Chúa trong lặng lẽ cô tịch, với tâm hồn tự do thanh thoát,
chúng ta có cơ may nhận được ánh sáng từ trên cao.
Nếu tôi làm theo ý Chúa, đời tôi sẽ được hạnh phúc, dù phải hy sinh.
Nếu tôi cương quyết làm theo ý mình, dù biết ngược với ý Chúa,
thì lòng tôi sẽ chẳng được bình an.
Thiên Chúa muốn vén mở cho tôi biết ý định của Ngài về tôi,
nhưng Ngài đòi tôi cất công tìm kiếm.
Hạnh phúc cho ai tìm thấy ý Chúa sau những đêm dài trăn trở!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào.
(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)
Suy niệm 2: Tinh thần Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su từ trời xuống. Mang theo năng lực thần thiêng. Chữa lành hết mọi bệnh tật. Xua trừ hết mọi ma quỉ. Nhưng Người chỉ ở trần gian một thời gian. Cần phải có người kế tục sự nghiệp. Người chỉ khai mào trận chiến với ma quỉ và thế lực sự dữ. Cần phải có một đạo quân tiếp tục trận chiến cho đến thành công. Vì thế Người đã tuyển chọn các tông đồ. Đây là một việc hết sức quan trọng. Vì dùng người phàm để tiến hành cuộc chiến thiêng liêng. Người phàm nhưng phải có tinh thần Nước Trời. Cần phải kết hợp với Giê-su. Cần phải mang tinh thần Giê-su. Nên Người thao thức suốt đêm. Cầu nguyện để tìm được những con người xứng đáng. Cân nhắc để xem ai có thể đem tinh thần của Người thấm nhập trần gian.
Tình thần Giê-su là phải kết hợp chặt chẽ với Chúa. Xây dựng đời mình trên nền tảng Giê-su. Trước hết phải tách lìa thế gian. Không mê theo những hứa hẹn giả dối của thế gian ẩn trong “mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ”. Sâu xa hơn nữa, phải phá tung xiềng xích trói buộc của tà thần. Bằng cách chết cho con người cũ. Khi đó ta được “cùng mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người”. Khi đó “Người truất phế các quyền lực thần thiêng” Và cho ta được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” nơi Người. Ta được sung mãn vì trở nên chi thể kết hợp với “Người là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (năm lẻ).
Tinh thần Giê-su khiến ta chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ của nước thế gian. Ta sẽ làm chủ bản thân. Không còn tranh giành kiện cáo. Vì không màng những lợi lộc của thế gian. Sẵn sàng chịu mọi bất công thiệt thòi ở đời này. “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?”. Khi chiến thắng thế gian. Ta trở thành người xét xử thế gian. “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ sét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này” (năm chẵn).
Khi mọi người theo Chúa sống theo tinh thần Giê-su. Kết hợp với Chúa. Chết cho thế gian. Ta sẽ được Nước Trời. Có một đạo quân Nước Trời. Sẽ chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ. Xin cho tinh thần Giê-su ngự trị trong ta. Lan toả đến mọi người. Đem lại chiến thắng cho Nước Trời.
Suy niệm 3: Chọn Nhóm Mười Hai
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
Suy niệm 4: Giáo Hội Mới Của Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong đoạn Phúc Âm trên thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta một cộng đoàn quanh Chúa Giêsu. Cộng đoàn này là hình ảnh loan báo trước trong cộng đoàn Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ thành lập và trao phó cho sứ mạng sau khi Người đã phục sinh từ cõi chết. Tất cả mọi thành phần của cộng đoàn này đều quy về một trung tâm duy nhất là Chúa Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được quyền năng Người chữa lành khỏi bệnh tật cũng như được bảo vệ khỏi những quyền lực của ma qủy. Chúng ta nhìn thấy rõ ràng những thành phần của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu lúc đó. Trước hết là nhóm Mười Hai tông đồ vừa được tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi đến các môn đệ và cuối cùng là đám đông dân chúng từ nhiều nơi trong và ngoài lãnh thổ dân Israel. Từ Giuđêa, Giêrusalem, nằm trong lãnh thổ của dân Chúa, và từ miền duyên hải Tia và Xiđon là miền nằm ngoài lãnh thổ của Do Thái Giáo.
Ðọc lại đoạn văn, chúng ta có thể lưu ý đến hai đặc điểm chính của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu, tiêu biểu cho cộng đoàn Giáo Hội Chúa trong tương lai. Trước hết, có thể nói đây là một cộng đoàn phổ quát, vượt ra bên ngoài ranh giới của dân tộc Do Thái. Sự độc quyền nhờ ân sủng Chúa nơi một dân tộc đã chấm dứt. Mọi người, mọi dân Chúa đã mời gọi gia nhập vào cộng đoàn này.
Ðặc tính thứ hai là trật tự mới của cộng đoàn được thiết lập qui về Chúa là trung tâm và có mười hai tông đồ được Chúa Giêsu chọn riêng ra, được Người huấn luyện và trao cho sứ mạng, chăm sóc, hướng dẫn cộng đoàn mới.
Tông đồ Phêrô được nhắc đến trong đoạn văn là kẻ đứng đầu nhóm Mười Hai: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con". Các tông đồ và cộng đoàn theo Chúa đã nghe lời Ngài nhiều hơn sau những biến cố vượt qua của Chúa, khi Giáo Hội được khai sinh. Chúa Giêsu đã chuẩn bị để nhóm Mười Hai tông đồ này trở thành nền tảng cho toàn thể Giáo Hội mới của Chúa. Hơn nữa, con số mười hai tông đồ là biểu hiện thứ nhất có ý nghĩa nhắc đến mười hai chi tộc của toàn dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Dân mới của Chúa thời Tân Ước được mở rộng đón nhận toàn thể nhân loại không ai bị loại ra khỏi chương trình cứu rỗi của Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con tin và cảm tạ Chúa vì đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn qui tụ dân Chúa, một cộng đoàn có tổ chức được các tông đồ hướng dẫn qua mọi thời đại. Chúa không ngừng tuyển chọn những con người mới trong dòng lịch sử để tiếp tục sứ mạng của Chúa trên trần gian này. Sự yếu đuối của con người có thể xảy ra như đã xảy ra với Giuđa Ítcariốt, kẻ phản bội Chúa, nhưng chương trình cứu rỗi của Chúa không vì thế mà bị hư mất. Xin thương qui tụ chúng con lại trong tình yêu Chúa và củng cố đức tin chúng con.
Suy niệm 5: Chọn mười hai tông đồ
Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ. (Lc. 6, 12-13)
Đây là một ngày đặc biệt với Đức Kitô. Đã đến giờ Người nghĩ phải tiến lên. Người sẽ phải ra đi, ngày đó không còn xa lắm. Cần phải bảo đảm tiếp tục công việc của Người. Cần cho lời Người được loan truyền đến tận cùng thế giới. Cần cho sứ điệp cứu độ đến chúc phúc cho mọi người. Vậy cần có những sứ giả đem giao ước Tin Mừng được Thiên Chúa quyết định hoàn tất cho loài người. Một giao ước mới vượt trên mọi giao ước đã có từ trước đến lúc này.
Ai có thể bảo đảm lãnh trách nhiệm này? ai xứng đáng trong những chàng thanh niên đang đi theo Người? Người biết những giới hạn và lòng quảng đại của họ. Người lên núi cầu nguyện suốt đêm cùng Thiên Chúa để biết rõ chọn lựa chắc chắn. Tin Mừng Thánh Lu-ca kể Đức Giêsu cầu nguyện mười một lần, những lần đó luôn luôn là những lần quan trọng trong cuộc đời của Chúa: ở sông Gióc-đan trước lúc Thánh Thần ngự xuống trên Người, khi đông đảo dân chúng đến nghe Người giảng, trước khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, lúc Chúa biến hình, trước khi loan báo về cái chết của Người, lúc các môn đệ đi truyền giáo lần thứ nhất về, lúc dạy kinh lạy cha, trước khi chịu thương khó, cầu cho đức tin của Phê-rô đứng vững, lúc hấp hối trong vườn cây dầu, trong lúc treo trên thánh giá, lúc phó linh hồn trong tay Chúa Cha.
Khi chọn muời hai tông đồ, Người hướng về Đấng đã sai Người mà cầu nguyện xin ơn soi sáng và sức mạnh. Rồi xuống với các môn đệ và chọn mười hai người, ai sẽ chối Người và ai sẽ phản bội Người. Một đội quân biệt động! vô học thức, vô giáo dục, vô trường lớp, chẳng ai biết tiếng tăm họ. Họ thuộc loại phó thường dân, quá tầm thường, phần đông là dân chài. Chính trên đó Đức Giêsu xây Giáo Hội. Thật nghịch lý! một ông thầy sau khi đã dạy như điên về thập giá, sẽ chịu đóng đinh treo trên thập giá. Và các tông đồ cũng chẳng có vẻ gì nổi, họ tiếp tục cuộc mạo hiểm mâu thuẫn, vẫn kéo dài và sẽ kéo dài vô cùng.
GF
Suy niệm 6: Cầu nguyện để tìm Thánh ý Thiên Chúa
Xem lại thứ Sáu tuần 2 và thứ Tư tuần 14 TN.
Cầu nguyện là bản chất của người Công Giáo. Không cầu nguyện, chúng ta khó lòng nhận ra đâu là ý Chúa và đâu là thiển ý của ta. Khi cầu nguyện, ta như được kín múc nguồn năng lượng từ Thiên Chúa, để mọi lời nói, hành động của ta được Thiên Chúa soi dẫn và chúc lành, hầu chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
Hôm nay, Tin Mừng nhắc lại việc Đức Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện trước khi gọi và chọn 12 người mà Ngài gọi là Tông Đồ.
Khi Đức Giêsu cầu nguyện như vậy, Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng: sứ vụ của Ngài luôn gắn bó với Chúa Cha, và những người được gọi, chọn cũng phải gắn bó với Ngài như vậy.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên ngôn sứ của Chúa, có trách nhiệm loan truyền tình yêu của Ngài cho mọi người. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể thành công khi biết gắn bó với Đức Giêsu và đón nhận thánh ý của Ngài để thi hành.
Thật vậy, để lời mời gọi của Đức Giêsu thực sự trở thành hữu hiệu, và sứ vụ chúng ta đón nhận được thi hành cách tốt đẹp theo ý hướng của Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua việc cầu nguyện.
Chính Đức Giêsu đã làm gương về chuyện này.
Ví dụ như khi sắp ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc; khi chọn các môn đệ, Ngài thức suốt đêm; khi sắp chịu nạn chịu chết, Ngài đã lên núi Cây Dầu cầu nguyện ...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt để mọi công việc của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Vì nhờ cầu nguyện với Chúa, chúng ta biết được thánh ý Ngài. Cầu nguyện để biết được phương cách thi hành tốt đẹp nhất. Cầu nguyện để phó thác nơi Chúa mọi sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được giá trị của lời cầu nguyện và luôn biết gắn bó với Chúa như Chúa luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Nhóm Mười Hai
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ngoài Nhóm Mười Hai tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn đặc biệt, còn có số đông các môn đệ. Người môn đệ là người đi theo Chúa Giêsu, lắng nghe và tuân giữ Lời Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con là người giáo dân sống giữa đời, được Chúa kêu gọi làm môn đệ Chúa. Giữa một thế giới hơn sáu tỷ người, Chúa đã tách riêng con để con thuộc về Chúa. Trong một thế giới quay cuồng phức tạp, người theo đạo này, kẻ theo giáo phái nọ, người chọn lý tưởng này, kẻ theo thần tượng khác. Phần con, con được làm môn đệ Chúa. Dù con không được ơn gọi và ân sủng như các tông đồ, nhưng được làm môn đệ Chúa, đó thật sự là niềm hãnh diện và hạnh phúc của con. Được theo Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đó thật sự là đặc ân cho con, đặc ân mà bao nhiêu anh chị em chung quanh không được.
Con xin dâng lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã yêu thương con. Con là Kitô hữu, không phải chỉ vì cha mẹ đã đưa con đến nhà thờ chịu rửa tội, không phải vì một sự kiện đã rồi, không phải vì áp lực xã hội, không phải vì cha truyền con nối, không phải vì tập quán, nhưng đích thực vì Chúa đã để ý tới con, tuyển chọn con và mời gọi con.
Lạy Chúa, qua đoạn Tin Mừng, con nhìn thấy quang cảnh đoàn người đông đảo tấp nập đến với Chúa để nghe Chúa giảng. Cả một bầu khí hứng khởi nồng nhiệt phát ra từ tâm hồn các môn đệ. Xin Chúa giúp con tìm lại nguồn hứng khởi nồng nhiệt này. Xin ban cho con cảm nghiệm được niềm vui theo Chúa. Xin giúp con sống đạo trong tâm tình tạ ơn, tự nguyện, không miễn cưỡng.
Là môn đệ Chúa, con sẽ lắng nghe Lời Chúa và trung thành bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.
Suy niệm 8: Nhóm 12 nòng cốt
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên một ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Đó là việc gì? Là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ.
- Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lc tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo Hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển Công vụ (chẳng hạn Cv 6,1-7). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển lựa kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện để được tuyển là:
a/ Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;
b/ Được “sai đi” (đây là ý nghĩa của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy.
Lc dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm 12 vì chỉ có họ mới hội đủ 2 điều kiện này. Ngay cả với Phaolô, Lc cũng không gọi ông này là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm. Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
Suy niệm 9: Chúa tuyển chọn mười hai Tông đồ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rât quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
2. Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.
Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giorđan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.
Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tồng đồ là các Giám mục, và Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh
3. Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.
Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.
Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn:
“Tất cả là hồng ân”.
4. Lịch sử cứu độ đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn... Tất cả những sự lựa chọn của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội của Ngài. Nền tảng của Giáo hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi”.
Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(5 phút Lời Chúa).
6. Truyện: Sự lựa chọn chẳng giống ai.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
- 2 với 2 là mấy?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.
Cô thứ hai: có thể là 22.
Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.
Suy niệm 10: Tuyển chọn Nhóm 12
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn.
+ Ở khởi đầu, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà, Thiên Chúa đã chọn Ap-bram; và trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Giacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel.
Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môisen làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục đường hướng đó: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavid làm vua, thay thế cho Saulô; Ngài cũng đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người.
Chúa gọi Abraham lúc ông và vợ ông đang sống trong cảnh vui hưởng tuổi già
Chúa chọn Môisen từ một bụi cây đang bốc cháy.
Chúa chọn Đavid đang lúc ông chăn cừu ngoài đồng.
Chúa chọn những môn đệ đầu tiên lúc họ đang làm việc chài lưới.
Lạ lùng hơn là Chúa chọn một kẻ đang đi lùng bắt những người theo Ngài trên con đường Đamas. Người đó chính là Phaolô sau này.
Tóm lại là họ được chọn hết sức bất ngờ. Và họ được chọn không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Abraham là một người bình thường. Môisen chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavid là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Giêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Khi suy nghĩ về ơn gọi của mình, mẹ Têrêsa đã viết: “Tại sao Chúa chọn chúng ta ? Tại sao Chúa chọn tôi ? Đó là một mầu nhiệm. Để làm được một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa chúng ta cần có Đức Giêsu. Đức Giêsu đã trở thành Bánh để các bạn và tôi, cũng như một đứa trẻ cũng có thể nhận lãnh Ngài để được sống. Mỗi người chúng ta cần phải gặp gỡ Đức Giêsu. Không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.”
2. Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài. Ngài chọn theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu rất độc đáo.
Ngài không chọn những môn đệ đang phục vụ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời.
Ngài không chọn những người nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang vất vả tất bật bận rộn làm việc.
Ngài không chọn những bậc trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài đơn sơ cục mịch.
Khi chọn họ Ngài đã thổi vào trong tâm hồn họ ý định truyền giáo của Ngài.
Ngài chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự.
Ngài chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.
Chúa hoàn toàn tự do chọn những ai Ngài muốn.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc công ty doanh nghiệp quyết định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
-2 với 2 là mấy ?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4
Cô thứ hai: Có thể là 22.
Cô thứ ba: Có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào ?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn chẳng giống một kiểu nào ở trần gian. Tuy nhiên Chúa cũng thấy được những người Chúa muốn tuyển chọn là những người như thế nào.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hoà, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.
Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận Thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.
Lạy Chúa, xin cho con biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng các đóng góp nhỏ bé trong đời sống hàng ngày của con. Con yếu kém tài năng và nhân đức, con chẳng làm được những điều vĩ đại để rao giảng về Chúa cho kẻ khác, con chỉ xin góp phần bằng việc âm thầm khiêm tốn, dù người đời không ai biết, nhưng con tin rằng: Chúa biết và chúng có giá trị trước mặt Chúa. Amen.
11/09 Làm việc tốt ngày Sabbat
- Viết bởi Lc 6, 6-11
Làm việc tốt ngày Sabbat.
Thứ Hai tuần 23 thường niên.
“Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không”.
Lời Chúa: Lc 6, 6-11
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người.
Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây”. Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?” Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra”. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Giơ bàn tay anh ra
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chúng ta không biết nhiều chi tiết về người đàn ông này.
Ông bao nhiêu tuổi, có gia đình chưa, sống bằng nghề gì?
Chỉ biết là bàn tay phải của ông bị teo, không duỗi được (c. 6).
Chắc là nó bị co quắp vì các cơ không hoạt động bình thường.
Như thế sẽ rất khó chịu và bất lợi để sinh hoạt hàng ngày.
Hơn nữa đây lại là bàn tay phải, bàn tay chính để làm việc.
Người đàn ông có bàn tay thương tật đã đến hội đường vào ngày sabát.
Ông đến để nghe giảng dạy và cầu nguyện như mọi người.
Có vẻ ông chẳng mong gì, chẳng xin được Đức Giêsu chữa lành,
dù tiếng tăm của Ngài lúc đó đã lan rộng nhiều nơi (Lc 5, 15).
Thật bất ngờ khi Ngài bảo ông: “Hãy trỗi dậy và ra đứng giữa đây.”
Ông chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình, nhưng đã vâng lời.
Ông đứng ở ngay giữa cho mọi người thấy.
Sau đó Ngài bảo ông: “Hãy duỗi bàn tay của anh ra!” (c. 10).
Một lần nữa ông lại vâng lời.
Ông làm điều mà có lẽ từ lâu ông không làm được.
Duỗi bàn tay khô héo, co quắp này, để có thể cầm cái ly, cái chén.
Ước mơ đơn giản ấy nào ngờ hôm nay được thực hiện.
Ông đã duỗi bàn tay theo lời Đức Giêsu, và nó đã trở lại bình thường.
Bàn tay như được sống lại, được phục hồi, mềm mại, dễ bảo.
Cuộc đời ông từ nay sẽ tươi hơn, có ích hơn, ít phải nhờ vả hơn.
Đức Giêsu đã làm phép lạ này không phải vì được yêu cầu,
nhưng như một câu trả lời cho các kinh sư và những người Pharisêu.
Họ rình xem Ngài có chữa bệnh trong ngày sabát không, để tố cáo Ngài.
bởi lẽ theo họ, ngày sabát chỉ được chữa những bệnh nguy tử.
Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu này và công khai tỏ thái độ.
Câu hỏi quen thuộc: có được phép làm điều này vào ngày sabát không?
được thay bằng câu hỏi mới: ngày sabát được phép làm điều lành hay dữ;
cứu mạng sống hay hủy hoại mạng sống? (c. 9).
Phép lạ sau đó của Đức Giêsu chính là câu trả lời (c. 10).
Nhiều khi không làm một điều tốt, cũng bằng với việc làm một điều xấu,
Không cứu một người vào giây phút ấy, cũng bằng gián tiếp giết chết họ.
Đức Giêsu đã không coi ngày sabát như ngày chỉ biết ngồi khoanh tay,
nhưng như ngày để làm điều tốt, để cứu sự sống con người.
Dù sao Đức Giêsu đã không hề đụng đến ông có bàn tay bị tật.
Khó lòng bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày sabát
Ngài chữa cho ông ấy chỉ bằng một lời mà thôi.
Các Kitô hữu không còn phải giữ ngày sabát nữa, nhưng giữ Chúa Nhật.
Đây là ngày để chúng ta làm điều tốt, để chăm lo cho sự sống.
Chữa cho một bàn tay bị teo tóp được lành, việc này không nhỏ.
Làm cho một con người có thể sống bằng đôi tay của mình, là chuyện lớn.
Đức Giêsu đã phải trả giá cho việc chữa bệnh của mình.
Chúng ta cũng phải trả giá khi dám bảo vệ một sự sống nhỏ nhoi.
Chỉ mong bàn tay tôi không co lại, nhưng mở ra cho mọi người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
Suy niệm 2: Phục hồi phẩm giá
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sự sống là món quà quí nhất Chúa ban cho con người. Từ sự sống tự nhiên được nâng lên đến sự sống siêu nhiên. Từ con loài người được trở nên con Thiên Chúa. Sự sống quí giá đến nỗi khi con người lơ đễnh làm mất mát, hao hụt, Thiên Chúa đã sai chính Con Một giáng trần để phục hồi sự sống, phục hồi phẩm giá con người. Bệnh tật là hình ảnh của tội lỗi. Nó làm con người bị giảm thiểu. Không thể sống như một con người. Trong xã hội còn bị khinh miệt. Không thể tự nuôi sống bản thân. Không thể chu cấp cho những người thân. Con người mất phẩm giá. Con người bị cái chết thống trị.
Chúa Giê-su đến cứu sống con người. Phục hồi sự sống. Phục hồi phẩm giá. Cho con người sống xứng đáng địa vị con người. Còn hơn nữa, sống xứng đáng địa vị con Chúa. Nhưng thế lực sự dữ vẫn còn đó. Họ chống đối. Họ muốn sự chết thống trị. Chúa Giê-su công khai hỏi họ: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt”. Họ không muốn làm điều tốt. Không muốn cứu sống. Mà còn âm mưu hại Chúa. Vì thế Chúa gặp nhiều khốn khó. Nhưng Chúa sẵn sang chịu chết để con người được phục hồi.
Noi gương Chúa, Thánh Phao-lô, vì niềm hi vọng sự sống của anh em, sẵn sàng chịu đựng mọi gian lao vất vả, để anh em được đạt tới niềm hi vọng vinh quang là Chúa Giê-su Ki-tô: “Để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi”. Vì sự sống, người tông đồ sẵn sàng xông vào cuộc chiến. Cùng chịu đau khổ với Chúa để anh em được sống: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào than cho đủ mứ, vì lợi ích cho than thể Người là Hội Thánh” (năm lẻ).
Ma quỉ và thế lực sự chết rất thâm độc. Nó thấm nhập vào bản thân ta. Nó như chất men độc hại vẫn đang còn tồn tại, phá hoại sự sống và phẩm giá con người. Vì thế thánh Phao-lô thúc giục ta: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau:
Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao. Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu. Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ. Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
Nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu, nhất là các thành phần lãnh đạo trong dân cũng có lối hành đạo tương tự. Thật ra, đạo của mạc khải Do thái giáo cốt yếu cũng là đạo của tình thương; thế nhưng trong thực tế, cái cốt lõi ấy thường bị quên lãng để nhường chỗ cho biết bao nghi thức trống rỗng vô hồn; người ta sẵn sàng loại trừ tha nhân và chối bỏ tình thương để tuân giữ những nghi thức và luật lệ vô hồn ấy.
Chúa Giêsu đã đến và đưa con người trở lại cái cốt lõi của đạo. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày thêm thấm nhuần cái cốt lõi của đạo là yêu thương.
Suy niệm 4: Làm việc ngày sabát
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðoạn Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành người bị bại tay phải trong ngày nghỉ sabát, hoặc cho những luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Chúa có lỗi luật nghỉ ngày sabát hay không, ngõ hầu có lý do ám hại Chúa.
Chu toàn bổn phận bác ái có ưu tiên trên việc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, một việc thực hành đạo đức quan trọng của Do Thái Giáo. Thực hành việc đạo đức mà không có lòng bác ái yêu thương anh chị em thì việc thực hành kia có thể trở thành vụ lợi, khoe khoang. Bảo vệ cách quá khích luật nghỉ ngày sabát, các luật sĩ và những người biệt phái đã làm cớ cho người ta hiểu lầm rằng Thiên Chúa đối nghịch với con người. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, các luật sĩ và biệt phái xem ra bắt buộc Chúa Giêsu phải chọn một trong hai việc: hoặc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, hoặc chữa lành người bị bại tay phải. Tinh thần vụ hình thức đã làm hư cốt tủy của đạo Chúa. "Tôi hỏi các ông, ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống người hay giết chết?" Câu hỏi của Chúa Giêsu thức tỉnh những kẻ sống đạo vụ hình thức.
Nơi đoạn Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, những luật sĩ và những người Pharisiêu xem ra có thái độ dứt khoát phải chọn một trong hai việc là giữ ngày sabát hoặc làm việc thiện để cứu người bị bại tay phải. Nhưng theo Phúc Âm thánh Mátthêu chương 12 câu 11 và những câu kế tiếp, chúng ta được biết rằng những luật sĩ và biệt phái có một giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày sabát. Họ cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày sabát. Thật là nghịch đời, họ cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu con người. Phải chăng các luật sĩ và biệt phái coi trọng con vật hơn con người. Ngày nay, chúng ta có thể gặp trường hợp tương tự, có những người nhân danh lòng nhân từ để kêu gọi bảo vệ súc vật nhưng lại thẳng tay loại trừ những thai nhi còn trong lòng mẹ, mạnh mẽ cổ võ việc phá thai.
Phần Chúa Giêsu, qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người và đặt luật nghỉ ngày sabát trong viễn tượng rộng rãi hơn của tình yêu thương. Các ngày sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Một tâm hồn khô khan không có tình yêu đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em thi sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ chạy trốn trước việc lành cần phải làm để phục vụ anh chị em. Họ dễ dàng biện hộ cho thái độ sống thiếu quảng đại, thiếu bác ái bằng lý do hết sức đạo đức nhưng có thể đó là sự đạo đức giả hình, chưa trưởng thành.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã thức tỉnh chúng con qua mẫu gương và bài học căn bản. "Trong ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết?" Xin thương giải thoát con khỏi thái độ sống đạo vụ hình thức, ham danh lợi, lo củng cố địa vị hơn là thực hành yêu thương bác ái. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa để có thể trổ sinh những việc làm tốt phục vụ anh chị em mọi nơi và mọi lúc.
Suy niệm 5: Làm việc thiện lúc nào
Đức Giêsu nói với họ: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: “Anh hãy giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. (Lc. 6, 9-10)
Luôn còn tái diễn trong ngày sabát! Đức Giêsu hỏi biệt phái: ngày sabát, được phép làm việc thiện hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt? có phải lúc làm việc tốt, việc bác ái, lúc khác không được chăng? nếu nhân danh Thiên Chúa mà chủ trương thế thì quá tệ.
Cấm làm việc thiện trong ngày thờ phượng Chúa có đúng không? có làm sáng danh Chúa khi đặt ra luật lệ vụn vặt hẹp hòi không? chúng ta nên nhận định rõ rằng: Khi xoa dịu những đau đớn của tha nhân bằng mọi cách có thể thì làm sáng danh Chúa biết chừng nào. Đó là điều Đức Giêsu đã thực hiện. Người vào hội đường, Người dạy dỗ. Ánh mắt Người bắt gặp một người bại tay. Những kẻ bảo toàn luật lệ rình rập xem: Thầy này táo bạo, chẳng sợ gì, sẽ làm gì để đảo lộn lề luật đây? Ông có dám chữa kẻ tàn tật đó trong ngày sabát không? Đức Kitô biết rõ ý nghĩ của những thẩm phán cay nghiệt này luôn luôn săn bắt Người. Người vẫn coi thường họ, một lần nữa trịnh trọng, công khai, giữa ban ngày, không hề che giấu, Người nói với kẻ khô bại tay: “ Anh chỗi dậy, ra đứng giữa đây! người ấy liền chỗi dậy và ra đứng đó. Người hỏi những kẻ ghen ghét dò xét Người rằng: ngày sabát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Tất nhiên, không ai trả lời, không ai có can đảm dám nói ra ý nghĩ của mình. Nếu nói ra đúng ý nghĩ của mình, tất nhiên, phải liên minh với Người vì tự nhiên phải chấp nhận trong ngày của Chúa thì phải làm điều lành, phải cứu mạng sống, không thể làm điều dữ. Và như thế sẽ thấy rõ người ta đã hiểu sai luật ngày sabát.
Một lần nữa Đức Kitô đã thấu suốt ý nghĩa của luật lệ. Một lần nữa Người đã được sự ủng hộ của con người để Người cứu chữa bệnh nhân: “Anh hãy giơ tay ra,... và tay anh được bình thường”.
Trong Giáo Hội được đổi mới là nhờ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động hơn bao giờ hết, không thiếu những người theo chân Đức Giêsu, muốn làm cho chúng ta hiểu rõ con người có giá trị vô biên hơn muôn vàn luật lệ. Chúng ta cố gắng nghe và theo chân Đức Giêsu và những vị đó.
GF
Suy niệm 6: Sống yêu thương thật lòng
Xem lại CN 9 TN B
Hôm nay bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu chữa người bại tay ngày Sabát. Đây là việc làm hữu ích, vì nó thể hiện tình thương của Thiên Chúa với người đau khổ. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho các Luật Sĩ và Pharisêu tỏ ra khó chịu và bầy binh bố trận để hạ sát Đức Giêsu!!!
Tại sao vậy? Thưa! Vì xuất phát từ lối suy nghĩ khác nhau khi hiểu về việc giữ Luật. Những Luật Sĩ và Pharisêu thì chỉ tập trú vào việc hình thức bên ngoài, họ không bỏ sót một chấm một phết trong Luật. Còn Đức Giêsu thì quan tâm đến tinh thần của Luật, Ngài đi vào nội dung của Luật là tình thương.
Vì thế, việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Bởi vậy, không lạ gì khi các Luật Sĩ và Pharisêu không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng...
Thấy được ý đồ đen tối của các Luật Sĩ và Pharisêu, nên Đức Giêsu đã hỏi họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?". Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày Sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người.
Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, đã biết bao nhiêu lần chúng ta lo sống hình thức bên ngoài, mà quên đi ý nghĩa và giá trị đích thực trong việc giữ đạo.
Những chuyện như: vì danh thơm tiếng tốt của cha mẹ, hoặc vì cha mẹ làm công to việc lớn trong Giáo xứ, ngoài xã hội, hay sợ liên lụy đến bản thân, nên đã biết bao lần ta sống đạo hình thức, giả tạo và rỗng tuếch, nhưng vẫn ra vẻ đạo đức, tốt lành!
Lại có những người được xem ra rất tốt lành, nhưng lại là những người chuyên ngồi lê mách lẻo chuyện của người khác với mục đích làm cho người khác mất danh dự, uy tín trước cộng đoàn. Hay cũng có những người luôn tìm cách công kích để hạ bệ người khác rồi mình hả hể với thành quả đạt được. Những hạng người như thế, họ chỉ lo tìm cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì giả điếc làm ngơ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn yêu thương, cảm thông với những người ốm đau, bệnh tật, đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, thay cho thái độ khinh miệt, kỳ thị.
Mặt khác, khi thấy được người khác làm việc tốt thì phải công tâm để nâng đỡ chứ không được vì ghen ghét mà tìm cách bẻ cong sự thật và vu khống cho người ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương và nâng đỡ những ai đang lâm cảnh khó khăn, đồng thời biết sống thật với lòng mình và luôn làm điều tốt cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chúa Giêsu chữa lành người bại tay ngày Sa-bát
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu chữa lành người bại tay trong ngày Sa-bát, và như thế đối với người Do thái là phạm luật. Nhưng qua đó, Ngài muốn nói với ta rằng: không có luật nào lớn hơn luật yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho phép con hình dung hai hình ảnh trái ngược nhau: một bên là khuôn mặt dịu hiền đầy nhân ái của Chúa khi Chúa thương chữa lành cho người bại tay. Một bên là những khuôn mặt đầy hận thù ghen ghét của những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự hào là kẻ trung thành giữ luật Chúa, nhưng không hề biết xót thương con người.
Lạy Chúa, Chúa muốn con trở nên giống Chúa và hành động như Chúa. Chúa muốn con luôn biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của tha nhân. Chúa muốn dạy con rằng việc thờ phượng Chúa không tách rời khỏi việc giữ đức ái với tha nhân. Con không thể yêu mến Chúa nếu không thương mến anh em mình. Vâng, lạy Chúa, chính vì để tôn vinh và yêu mến Chúa Cha, Chúa đã hiến thân cho nhân loại, và để kiện toàn luật Chúa, Chúa dạy con bài học yêu thương.
Xin cho con biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu không so đo tính toán, không ích kỷ nhỏ nhen. Xin đừng để con lây nhiễm tinh thần biệt phái hẹp hòi, thích lên án chỉ trích anh em mình hơn là yêu thương tha thứ cho họ. Xin cho đời sống đạo của con, không phải chỉ đóng khung trong nhà thờ, nhưng luôn được thực hiện cách cụ thể trong đời sống hằng ngày, cho những người anh em đang cần đến sự giúp đỡ của con. Nhờ ơn Chúa giúp, xin cho con trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không”.
Suy niệm 8: Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái Y. Rabin, khi anh ta bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho Lề Luật, làm cho dân tộc Israel”.
Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay… (Theo Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền).
Suy niệm
Luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Đức Giêsu có lỗi luật nghỉ ngày Sabát hay không để bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày hưu lễ ngõ hầu có lý do ám hại Chúa. Ngài nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, giữ luật vì hình thức và vụ lợi.
Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình yêu thương và lòng tin.
Dù giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên những luật sĩ và biệt phái vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: Cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x. Mt 12,11). Như thế, họ tự cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu người anh em đang đau khổ vì bệnh tật. Ðức Giêsu buồn và giận vì điều đó.
Qua hành động chữa lành người bị bại tay ngay cả trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Ngày hưu lễ là ngày dành làm vinh danh Thiên Chúa khi cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Cho nên, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.
Xin Chúa giúp chúng con ý thức được ý nghĩa của luật Chúa và giữ luật vì yêu mến.
Ý lực sống
“Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Suy niệm 9: Chữa người bại tay ngày sabát
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chữa người bại tay ngày hưu lễ nên bị những người luật sĩ và biệt phái rình xét, phản kháng. Người biệt phái giữ luật chặt chẽ nhưng chỉ là hình thức. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu mà không biết nhân nghĩa là gì. Đức Giêsu rất trung thành với lề luật, nhưng Người đi sát tinh thần yêu thương của lề luật, chứ không phải hình thức bên ngoài. Ngày Hưu lễ là ngày làm vinh danh Chúa, cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Con người được hạnh phúc là lúc Thiên Chúa được vinh danh. Vì thế, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.
2. Giới răn Sabát được giải thích từ việc tin rằng Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật trong sáu ngày và ngày thứ bảy thì Người nghỉ ngơi. Chính vì vậy, nguyên thủy người ta nghỉ ngày thứ bảy (sabát) như là một sự bắt chước Thiên Chúa, đồng thời dành một ngày cuối tuần để chỉ dành riêng cho việc phụng sự Thiên Chúa. Thế nhưng, càng ngày, luật Sabát được các luật sĩ giải thích chi tiết, cặn kẽ và dừng lại ở mặt chữ của luật: chỉ dừng lại ở cái lý mà đánh mất cái tình, giữ luật vì luật chứ không còn vì yêu mến Chúa và đánh mất đức ái mà luật nhắm tới.
3. Việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Bởi vậy, không lạ gì khi các luật sĩ và biệt phái không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng... Thấy được ý đồ đen tối của luật sĩ và biệt phái, nên Đức Giêsu đã hỏi họ: “Tôi hỏi các ông, ngày sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết”? Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người (Ngọc Biển).
4. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đứng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân.
Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Thiên Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chí là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
5. Em học sinh nọ bị rắn cắn phải đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho em trong cơn “thập tử nhất sinh”. Hậu quả là em đã không qua khỏi.
Vì nệ luật và vụ hình thức, các luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng vai trò và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, lề luật được đặt ra là để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.
6. Trong hội trường nhỏ bé ngày ấy, có ba loại người (1)người đau ốm cần giúp đỡ, (2) người bận tâm đem lại sự sống cho người khác; (3) người tìm phương kế để tiêu diệt người khác. Câu hỏi của Đức Giêsu trên đây đặt người biệt phái vào thế lúng túng, bởi vì nói đúng tim đen của họ. Trong thế giới rộng lớn ngày nay, vẫn là ba hạng người: (1) những người cần sự nâng đỡ để có sự sống; (2) những người nỗ lực phò sự sống, xây dựng nền văn minh tình thương; (3) những kẻ chủ trương tiêu diệt sự sống của người khác, để mình có thể sống hưởng thụ sung sướng, hay cổ võ nền văn hóa sự chết. Là Kitô hữu, chắc chắn bạn được mời gọi bước theo con đường của Thầy mình (5 phút Lời Chúa).
7. Truyện: Bác ái phải trên lề luật.
Một buổi chiều năm 1953, nhiều nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất tại châu Phi.
Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả nặng nhọc với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.
Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên:
- Đây là lần đầu tiên tôi nhận được một bài giảng sống động về tình yêu thương.
Suy niệm 10: Khác biệt về cách nhìn nhận
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và các luật sĩ, biệt phái tranh luận với nhau về luật nghỉ làm việc ngày sabát.
- Hôm ấy trong hội đường có một người bị bại tay, các luật sĩ và biệt phái rình xem Chúa Giêsu có chữa bệnh cho người ấy không để tố cáo Ngài.
- Chúa Giêsu biết ý của họ nên hỏi trước: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ?”: Khi chống đối Chúa Giêsu, các đối thủ đã dựa vào chủ trương “không làm gì cả” trong ngày sabat. Phần Chúa Giêsu thì đặt vấn đề “làm điều lành” hay “(làm) điều dữ”.
- Thực ra chủ trương của Pharisêu không hẳn là hoàn toàn không làm gì cả. Họ cũng chấp thuận được cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6). Nhưng họ phải nghiên cứu từng trường hợp cụ thể để cho phép làm như vậy. Còn Chúa Giêsu, thái độ của Ngài trong trường hợp này cho thấy rõ: luật ngày sabat phải lệ thuộc luật yêu thương và giúp đỡ kẻ khác, vì đó là ngày giải phóng.
B.... nẩy mầm.
1. Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người tay hữu bị khô bại, nghĩa là mất khả năng làm việc, do đó cũng mất phương tiện để sinh sống. Tuy người này không xin, nhưng Chúa Giêsu thương anh và chữa anh.
Ta hãy cầu nguyện cho những kẻ tật nguyền và những người không có công ăn việc làm để sinh sống.
2. Cái nhìn của Chúa Giêsu và của các đối thủ Ngài rất khác nhau: Chúa Giêsu thấy một người cần được Ngài giúp đỡ; còn họ thì không để ý gì đến người tàn tật mà chỉ lo rình mò để xem Chúa Giêsu có làm gì sai luật không để mà bắt bẻ.
Xin Chúa cho con có cái nhìn của Chúa: cái nhìn của tình thương chứ không phải cái nhìn soi bói rình mò.
3. Khi người khô tay đã được lành, các biệt phái và luật sĩ không vui mừng với anh mà lại tức giận với Chúa Giêsu và bàn nhau hại Ngài.
Xin Chúa đừng để cho lòng ganh ghét làm cho con bị mù quáng, trái lại xin cho con biết vui với niềm vui của người khác.
4. Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt và nói:
- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh cây.
Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:
- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh cây vào thân cây.
Tên cướp cười gằn, nói:
- Mi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.
Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một bài học:
- Ngươi mới là tên khùng khi nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Các kinh sư và những người pharisêu xem Chúa Giêsu có chữa người ấy trong ngày sabát không, để tìm được cớ tố cáo Ngài” (Lc 6,7)
Lạy Chúa, dò xét, rình rập thì con hay lắm, còn nhìn lại bản thân thì con thật là dở. Con dò xét người này, dòm ngó người kia, rình rập người nọ… để tìm ra chỗ hở mà đả kích cho “đã”. Rồi tự biện hộ rằng mình xây dựng cho anh em. Nhưng mắc cỡ thay, đó chỉ là những cử chỉ, hành động phô trương đạo đức giả hình.
Nhược điểm và bao nhiêu cái xấu xa của con, con lại không nói ra, mà còn khéo tô thêm một lớp sơn hào nhoáng như ngôi mô bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong mục nát thối hư…
Chúa ơi! Xin cho con biết nhìn lại chính con nhiều hơn là tìm những sơ hở của người khác mà lên án. (Hosanna)
Suy niệm 11: Luật nghỉ-không làm việc ngày Sabat
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu, các luật sĩ và Pharisêu lại tranh luận với nhau về luật nghỉ không làm việc trong ngày Sabat.
Theo những người luật sĩ và Pharisêu thỉ nghỉ là nghỉ, “không làm gì cả”. Ngày Sabat là ngày nghỉ. Tuy họ có chấp thuận một số việc được làm trong ngày Sabat nhưng phải tuỳ từng trường hợp rất cụ thể mới được làm. Thí dụ như cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6).
Theo Chúa Giêsu, nếu cứ giữ như thế thì luật sẽ trở thành một gánh quá nặng cho con người và nhiều khi còn tàn nhẫn nữa.
Một người Do Thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Những người sống luật vì luật cũng tương tự như thế.
2. Còn Chúa Giêsu, thì thái độ của Ngài có khác. Luật nào cũng vậy, trong mọi trường hợp phải lệ thuộc vào tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì lề luật chỉ còn là cái xác không hồn. Không vì yêu thương thì luật trở thành vô đạo đức. Luật ngày Sabat cũng thế…. vì ngày Sabat theo ý nghĩa từ ban đầu là ngày giải phóng con người.
Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người có một cánh tay bị khô bại. Cánh tay đó lại là cánh tay bên phải nên khả năng làm việc của anh dường như không còn. Không còn khả năng làm việc cũng có nghĩa là mất luôn phương tiện để sinh sống. Đứng trước hoàn cảnh đó, tuy anh ta không xin, nhưng Chúa Giêsu vẫn thương và chữa anh.
Các luật sĩ và những người Pharisêu đã rình xem Chúa ngay từ khi Chúa bước vào hội đường cho nên khi thấy Chúa Giêsu làm như vậy thì họ chộp ngay lấy cơ hội tố cáo Người.
Chúng ta thừa biết lòng của các luật sĩ và những người Pharisêu đã trở nên chai cứng như thế nào. Họ chẳng màng gì đến những chuyện sống sao cho đẹp lòng Chúa mà chỉ nghĩ đến việc giữ một số những quy định, rồi tưởng rằng, làm như thế là đã sống đạo rồi.
Người ta kể rằng: Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với một đan sĩ có bổn phận phải coi nhà khách và thỉnh thoảng bố thí cho người đến xin giúp đỡ. Trớ trêu thay, đúng vào lúc Chúa Giêsu hiện ra thì chuông nhà khách reo lên báo hiệu có người nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Thoạt đầu, người đan sĩ có vẻ do dự không biết phải ở lại bên Chúa Giêsu đang hiện ra với mình, hay phải đến phòng khách làm bổn phận mang thức ăn cho người đói ăn xin. Nhưng rồi vị đan sĩ quyết định đến nhà khách để chu toàn bổn phận, xong việc rồi đan sĩ trở lại thì thấy Chúa Giêsu vẫn còn chờ nơi đó. Chúa Giêsu tươi cười bảo vị đan sĩ:
- Nếu con đã không ra đi chu toàn bổn phận giúp cho người nghèo kia thì Ta đây đã không ở lại để chờ con.
Qua việc chữa bệnh cho người bị bại tay trong ngày Sabat hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tâm hồn Chúa tràn đầy yêu thuơng đối với con người. Kể từ giây phút Chúa long trọng công bố rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát người tù tội, cho người mù được thấy, cho người áp bức được tự do, tại hội đường Nazareth, Chúa đã luôn luôn trung thành với sứ mạng này để phục vụ và nâng cao con người lên.
Mẹ Têrêsa đã từng nói: “Theo tôi biết, chẳng có khổ đau nào thấm thía hơn nỗi khổ đau của người thấy mình cô đơn, thừa thãi, không được ai yêu thương. Nỗi khổ đau cùng cực là nỗi cô độc, không biết tới cả mối tương quan thân tình đích thực giữa người với người, không biết thế nào là được yêu, không người thân, không bạn hữu”.
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”. (Mt 25,40).
10/09 Sửa lỗi anh em
- Viết bởi Mt 18, 15-20
Sửa lỗi anh em.
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN năm A
"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 33, 7-9; Rm. 13, 8-10; Mt. 18, 15-20
1. Lợi được người anh em--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Sửa lỗi người anh em--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
3. Người anh em của anh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
4. Sửa lỗi anh em--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Sửa lỗi anh em--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Ngôn sứ của niềm hy vọng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
7. Nợ tình thương--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
8. Sửa lỗi anh em--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
9. Anh em sửa lỗi cho nhau--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
10. Việc sửa lỗi trong cộng đoàn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
11. “Yêu thương là chu toàn Lề Luật”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
12. Sửa lỗi nhau thế nào--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
13. Nghệ thuật sửa lỗi—Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
14. Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
15. Sửa lỗi cho nhau--Lm. Ignatiô Hồ Thông
16. Nợ yêu thương--Lm. Xuân Hy Vọng
17. Cá nhân giữa cộng đồng--Lm. Bùi Mạnh Tín
18. Sửa lỗi cho nhau và vì nhau--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
19. Bài thi của bà giáo O'neill--Lm. Mark Link, SJ
20. Giúp người khác nhận ra những sai lỗi của mình--Lm. Ignatiô Trần Ngà
21. Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm--Lm. Ignatiô Trần Ngà
22. Cảm thương người lầm lỗi--Lm. Ignatiô Trần Ngà
23. Sữa lỗi cho nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Sửa lỗi cho nhau--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Làm đẹp cho nhau--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
26. Trách nhiệm về người anh em--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
27. Vẽ chân dung--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
28. Hào quang của tha thứ--Thiên Phúc
29. Có Thầy ở giữa họ--Lm. Trầm Phúc
30. Có Thầy ở giữa họ--Lm. Trầm Phúc
31. Giáo Hội Chúa Kitô: Một cộng đoàn cứu độ--Lm Antôn Hà Văn Minh
32. Trách nhiệm--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
33. Nghĩa vụ yêu thương--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
34. Có tha thứ được không?--Đaminh Lê Văn Luận, SJ
35. Tế nhị sửa lỗi người anh em--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
36. Cộng đồng huynh đệ--Lm. Hồng Phúc
37. Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
38. Khi anh em sửa lỗi nhau--AM Trần Bình An
39. Đạt đến người mới--Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
40. Quan niệm đức ái theo Thánh Phaolô--Lm Phêrô Nguyễn Hương
41. Sửa lỗi cho nhau--Lm Phêrô Nguyễn Hương
42. Nghệ thuật sửa lỗi--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
43. Nghệ thuật nói--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
44. Trừng phạt hay phục hồi?--Lm Nguyễn Khoa Toàn
45. Biết mình biết người--Lm. Fx. Trần Phương
46. Dân ngoại--Lm. Vũ Đình Tường
47. Sinh hoạt trong đạo--Lm. Vũ Đình Tường
48. Giêsu: người cảnh báo trong chân lý và tình thương--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
49. Một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ--Lm. Minh Anh
50. Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị!--Anmai
51. Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
52. Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Alfonso
53. Chúng ta là người canh chừng một người khác--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
54. Sửa lỗi nhau--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
55. Tin mừng mời gọi chúng ta cổ võ cho tình thương và công lý--Jaime L. Waters
56. Suy niệm của JKN
57. Sửa lỗi theo Lời Chúa dạy--Lm Trần Bình Trọng
58. Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Trần Văn Luận
59. “Hãy đi sửa dạy nó”--Lm Gioan B. Phan Kế Sự
60. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
61. Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển
62. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô--Lm. FX. Vũ Phan Long
63. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
64. Chú giải theo Fiches Dominicales
65. Suy niệm của Noel Quesson
66. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
67. Cha Ta sẽ ban cho--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
68. Phương cách sửa lỗi cho nhau trong cộng đoàn--Lm. Đan Vinh
69. Trách nhiệm liên đới
70. Anh em sửa lỗi cho nhau
71. Nhân danh Thầy
72. Sửa lỗi
73. Nhắc bảo
74. Sửa lỗi
75. Hoà giải
76. Tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi
77. Nhắc nhở cách nào?
78. Chu toàn bổn phận
79. Dám khiển trách
80. Giáo Hội
81. Làm đẹp
82. Nhắc bảo
83. Tương trợ
84. Nhân danh Thầy
85. Sửa lỗi nhau
86. Tế nhị--Huệ Minh
87. Khó nói--Huệ Minh
1.Lợi được người anh em--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Trong cộng đoàn Hội Thánh,
các Kitô hữu là anh chị em của nhau (Mt 23,8)
và là anh chị em với Đức Kitô
nhờ biết thi hành ý Cha trên trời (Mt 12, 48-50).
Thế nhưng Hội Thánh vẫn có người lỗi phạm.
Đời sống của họ nghịch với đòi hỏi của đức tin.
Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã,
bởi lẽ tất cả chúng ta làm nên một thân thể.
Chúng ta mang vết thương của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho thấy
thái độ ta phải có trước một người lầm lỗi.
Trước hết, phải mạnh dạn góp ý.
Chỉ ai yêu thực sự mới dám góp ý thẳng thắn.
Nhiều khi chúng ta chỉ dám nói sau lưng.
Nhiều khi chúng ta không đủ can đảm góp ý.
Vì sợ người khác giận mình,
vì sợ mất một số quyền lợi hay vì sợ chính mình bị góp ý.
Góp ý xây dựng là một dấu chỉ yêu thương,
chứ không phải là đi tìm cọng rơm trong mắt người.
Nhưng phải biết cách góp ý.
Cần giữ sự kín đáo và tôn trọng nhau.
Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp,
thì nên đem theo vài người nữa, không phải để gây áp lực,
nhưng để cho thấy tính khách quan hơn.
Nếu họ vẫn không chịu nghe, thì phải đưa ra cộng đoàn.
Nếu họ cũng không chịu nghe cộng đoàn,
thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ.
Như thế góp ý có nhiều giai đoạn.
Cần tế nhị, kiên nhẫn, yêu thương,
vì Thiên Chúa không muốn một ai phải hư mất,
tuy Ngài cũng không muốn có gương xấu xảy ra.
Góp ý là một bổn phận của yêu thương,
nhưng bản thân tôi cũng cần được góp ý.
Một cộng đoàn trưởng thành là cộng đoàn có khả năng ngồi lại
để góp ý cho nhau, trong giáo xứ, trong gia đình và từng nhóm nhỏ.
Chúng ta đang sống trong tinh thần Sám Hối - Canh Tân.
Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý, cần khiêm tốn để được góp ý.
Có khi chúng ta quen sống trong bầu khí chịu đựng nhau, giữ kẽ, dĩ hoà vi quý.
Như thế là duy trì một sự trì trệ kéo dài.
Mong sao mau đến ngày các Kitô hữu trên thế giới ngồi lại với nhau
để dàn xếp những bất đồng và trở nên hiệp nhất như ý Chúa muốn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Góy ý và được góp ý đều là những điều khó làm và khó chịu. Có khi nào bạn thành công về chuyện này chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm nếu có?
Có thể vào năm Hai Ngàn Lẻ?, một Công Đồng Chung sẽ được tổ chức, quy tụ mọi Kitô hữu thuộc Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành? Bạn hy vọng gì nơi một Công Đồng như vậy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa có người bạn thân là La-da-rô.
Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu.
Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn
để nâng đỡ con trên đường đời.
Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt,
nhưng xin hiệp nhất chúng con trong tình yêu.
Xin cho chúng con biết yêu thương nhau thật tình,
chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, nâng nhau dậy khi vấp ngã,
phấn khởi trước những thành công, khích lệ trước một cố gắng nhỏ,
và nhất là thẳng thắn góp ý cho nhau, để cùng nhau tiến bộ.
Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con,
để có thể đón nhận những người bạn mới.
Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn
vì chỉ muốn làm bạn với ai giống con.
Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ.
Gặp gỡ không phải chỉ là quảng đại cho đi,
mà còn là khiêm nhưởng nhận lãnh.
Gặp gỡ không phải chỉ là tâm sự về mình,
mà còn là lắng nghe người khác.
Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu có của mình,
mà còn là nhìn nhận và đón nhận sự phong phú của tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên bạn của Ngài,
nhờ đó, chúng con mãi mãi là bạn thân của nhau. Amen.
2.Sửa lỗi người anh em--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen.
3.Người anh em của anh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm
Sống với nhau trong cộng đoàn Hội Thánh
thế nào cũng có chuyện này chuyện kia xảy ra.
Có những đụng chạm nhỏ có thể bỏ qua dễ dàng.
Đức Giêsu đòi Phêrô phải tha đến bảy mươi lần bảy (Mt 18,22).
Nhưng cũng có những lỗi, những tội gây tai hại rất lớn
cho một cá nhân, và từ đó ảnh hưởng xấu đến cả cộng đoàn.
Khi đó Đức Giêsu không khuyên các kitô hữu sống dĩ hòa vi quý,
cố chịu đựng cho qua, coi như không có chuyện gì.
Ngài khuyên chúng ta nên thẳng thắn góp ý xây dựng,
chẳng những vì lợi ích của người bị hại, và của cộng đoàn,
mà còn vì lợi ích của chính người phạm tội nữa.
Chúng ta không có quyền để cho người anh em của mình đi lạc.
Bỏ chín mươi chín con chiên để tìm con chiên lạc và đưa nó về:
đó là bổn phận của người mục tử, và của cả chúng ta (Mt 18,12).
Đức Chúa đã long trọng phán với ngôn sứ Êdêkien:
“Nếu ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ đường xấu,
…Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8).
Chúa Cha không muốn cho ai trong cộng đoàn phải hư mất.
Ngài quý từng con người, dù đó là một người bé mọn (Mt 18,14).
Như thế sửa lỗi cho người anh em là cùng làm việc với Thiên Chúa,
để giữ lại người anh em này cho cộng đoàn.
Sửa lỗi chỉ để thể hiện một điều, đó là tình yêu.
Tình yêu huynh đệ phải chi phối toàn bộ tiến trình sửa lỗi.
Câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng này dùng từ “anh em” hai lần.
Điều đó cho thấy người phạm tội nặng vẫn là anh em của tôi.
Đó không phải là kẻ thù, nhưng là người tôi không muốn mất.
Chính vì thế tôi phải kiên nhẫn bước vào một hành trình,
để giúp người anh em nhận lỗi, hoán cải và trở về nẻo chính.
Tôi phải đi nhiều bước trong hành trình này.
Từng bước một, bước nọ sau bước kia,
không vội vã dùng ngay những biện pháp mạnh mẽ.
Luôn luôn đợi chờ, luôn luôn hy vọng.
Luôn tạo cơ hội để có những cuộc gặp gỡ thân tình
và nâng niu những điểm sáng mong manh.
“Không bẻ gãy cây lau bị giập; không dập tắt tim đèn leo lét.”
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mời chúng ta đi ba bước.
Bước một là gặp gỡ riêng tư với người anh em phạm lỗi.
Sự kín đáo cho thấy danh dự của người này được tôn trọng.
Nếu không thành công, ta mới qua bước hai.
Cuộc gặp gỡ lần này đông hơn vì có thêm một hai người nữa.
Hy vọng người phạm lỗi gặp được cái nhìn khách quan hơn.
Nhưng nếu người ấy vẫn khăng khăng không nghe,
lúc đó mới đưa ra trước cả cộng đoàn Hội Thánh địa phương.
Từ chối lắng nghe tiếng nói của Hội Thánh
là tự tách lìa, không còn coi mình thuộc về cộng đoàn nữa.
Lúc đó cộng đoàn sẽ coi người ấy như người ngoài, như dân ngoại.
Cộng đoàn Hội Thánh chẳng hề muốn mất một người anh em,
nhưng nếu người ấy cứ không nghe thì đành phải chịu (cc. 16.17).
Không nghe là khép lại với con người, cũng là khép lại với Thiên Chúa.
Bởi đó quyết định cầm buộc của Hội Thánh dưới đất
cũng là quyết định của Thiên Chúa trên trời (Mt 18,18).
Chỉ mong Hội Thánh làm mọi quyết định trong bầu khí cầu nguyện,
bình tâm phân định để tìm ý Chúa với rất nhiều tình yêu (Mt 18,20).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rue nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
4.Sửa lỗi anh em--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?
5.Sửa lỗi anh em--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Hội Thánh là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn. Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: “Khi anh em ngươi sai lỗi”. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì đó là người anh em ta, là đáng quí trọng đối với ta. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy ta phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
6.Ngôn sứ của niềm hy vọng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được trao ban ba chức năng quan trọng, đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Chức năng ngôn sứ để rao giảng Lời Chúa; chức năng tư tế để thánh hoá bản thân và góp phần thánh hoá môi trường xã hội; chức năng vương đế để cộng tác trong việc quản trị và xây dựng cộng đoàn đức tin. Cả ba chức năng này làm thành vẻ đẹp của đời sống Kitô hữu. Nhờ ba chức năng này, người tín hữu giáo dân không chỉ là những thành viên thụ động, dửng dưng với những sinh hoạt chung, nhưng là những thành viên tích cực tham gia làm cho cộng đoàn Giáo Hội địa phương sinh động và phát triển.
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chức năng ngôn sứ. Như vừa nói ở trên, chức năng này giúp chúng ta loan báo Lời Chúa. Ngôn có nghĩa là Lời; Sứ là được sai đi. Người tín hữu được Chúa sai đi để nói Lời Ngài trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp khó khăn.
Lịch sử và truyền thống Do Thái giáo ghi đậm dấu ấn từ giáo huấn của các ngôn sứ. Trong Cựu ước, Chúa dùng các ngôn sứ để ngỏ lời với dân riêng được tuyển lựa. Thông điệp của các ngôn sứ mang nội dung rất phong phú: khiển trách, cảnh cáo, lên án, báo trước tai hoạ, khen ngợi, tuyên dương. Dù được sai đi để chuyển tải sứ điệp nào, các ngôn sứ đều phải trung thành với nhiệm vụ được trao. Bài đọc I hôm nay ghi lại lời Chúa căn dặn ngôn sứ Egiêkien. Ông sống và thi hành sứ vụ ở thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Chúa nói rõ với ông: “Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel”. Chúa cũng cảnh báo: phải trung thành với sứ mạng, và phải chuyển tải thông điệp một cách trung thực, không sợ hãi. Nếu ngôn sứ tránh né không dám nói sự thật, thì chính ông phải gánh chịu những hậu quả và tai ương. Egiêkien là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải cho dân chúng giáo huấn của Chúa nói về những bộ xương khô sẽ trở lại thành những con người sống động, những nấm huyệt sẽ được mở ra và những trái tim khô cằn chai đá sẽ được thay thế bằng trái tim bằng thịt biết yêu thương. Giáo huấn của ông đã góp phần nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân Israel trong cảnh lưu đày, giúp dân chúng vững tin vào Chúa trong khi chờ đợi ngày trở về quê cha đất tổ (x.Ez chương 36 và 37).
Đối với chúng ta hôm nay là người Kitô hữu, đâu là nhiệm vụ của người ngôn sứ? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong Tin Mừng. Thánh Mátthêu đã tổng hợp trong một đoạn văn ngắn giáo huấn của Chúa ở ba lãnh vực: sửa lỗi anh em, bao dung tha thứ, và cầu nguyện cộng đoàn. Mặc dù phân chia ba nội dung, nhưng đều có chung một ý tưởng, đó là sống với tha nhân, sống cho tha nhân và cùng cầu nguyện với tha nhân. Đây chính là nhiệm vụ của người ngôn sứ: nhắc nhở người khác trong tình bác ái khi họ làm điều sai lỗi, với sự khiêm nhường và với trái tim chân thành. Cộng đoàn xã hội cũng như cộng đoàn Đức tin luôn bao gồm những người tốt và những người chưa tốt. Chẳng ai có thể tự nhận mình là đã hoàn hảo. Mỗi chúng ta còn mang nhiều khiếm khuyết, mặc dù có thể hoàn hảo ở một khía cạnh nào đó. Chính vì vậy mà mỗi khi cử hành Thánh lễ, điều đầu tiên là chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm của mình và thân thưa với Chúa: Xin Chúa thương xót chúng con!. Việc sửa lỗi anh em là một nghĩa cử của đức bác ái, nên phải được thực hiện trong tình yêu thương như Chúa đã dạy. Người tín hữu vừa có bổn phận sửa lỗi người khác, vừa phải khiêm tốn lắng nghe những lời góp ý để hoàn thiện bản thân.
Con người sống trên trần gian không như những ốc đảo riêng biệt và khép kín, theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”, nhưng liên đới với nhau và cùng chung chia hạnh phúc cũng như đau khổ. Một người sống vô trách nhiệm, hoặc không quan tâm đến ích chung sẽ làm cho những người xung quanh bị ảnh hưởng lây, giống như đại dịch Covid-19 đang hoành hành nhân loại, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội. Ngày nay người ta cũng nói nhiều đến ô nhiễm môi trường do các công ty xí nghiệp tự tiện xả rác thải hoặc do nhiều người dân không có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Xã hội không chỉ ô nhiễm môi trường trong không gian, mà còn trong lãnh vực luân lý do lối sống buông thả và coi thường đạo lý. Hậu quả là ngày càng có nhiều vụ giết người cướp của, bạo lực và thù hằn ngay giữa những thành viên trong cùng một gia đình. Những đứa trẻ vừa sinh ra đã bị chính mẹ ruột của mình giết chết hoặc bỏ rơi. Tình mẫu tử đã khô cạn và tình nhân loại cũng không còn.
“Dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Trong Tin Mừng Thánh Mátthêu, đây là lần thứ hai Chúa Giêsu nói đến “Cầm buộc” và “Tháo cởi”. Tuy vậy, dựa theo ngữ cảnh, thì hai lần Chúa nói mang ý nghĩa khác nhau. Lần trước Chúa trao quyền cho thánh Phêrô chìa khoá Nước Trời với lời tuyên bố: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Qua lời này, Chúa trao cho thánh Phêrô và Giáo Hội quyền lãnh đạo đoàn chiên của Chúa, duy trì kỷ luật và giúp các tín hữu nên hoàn thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói đến sự tha thứ bao dung, như một nhân đức cần phải có nơi mỗi người tín hữu. Nếu họ cố chấp không tha thứ cho người khác, Chúa cũng sẽ không tha thứ cho họ. Lòng bao dung quảng đại đối với tha nhân là một điều kiện căn bản để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đây cũng là ý nghĩa của lời cầu nguyện chúng ta vẫn đọc trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đó là nguyên tắc “gieo nhân nào gặt quả nấy” trong truyền thống Việt Nam, hoặc “đong đấu nào nhận đấu ấy” mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng. Nếu chúng ta khe khắt với anh chị em mình, thì Chúa cũng khe khắt với chúng ta.
“Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” – Thánh Phaolô quả quyết với chúng ta như thế. Vị tông đồ dân ngoại có lý, vì luật yêu thương bao trùm tất cả. Chính tình yêu nâng tâm hồn chúng ta lên với Chúa và giúp ta sống hài hòa với anh chị em mình. Thánh Augustinô cũng nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”: Cứ yêu đi rồi sẽ làm được mọi sự”. Ở nơi khác, ngài cũng viết: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân”. Đó chính là hoa trái của Đức yêu thương. Tình yêu giúp chúng ta chiến thắng tất cả. Tình yêu là chu toàn Lề Luật.
Tình yêu đối với tha nhân còn là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa nhận lời chúng ta cầu xin. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thày, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”. Lời cầu nguyện chung giữa hai hoặc nhiều người là lời cầu nguyện đặt nền tảng trên tình yêu thương. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa Giêsu nhấn mạnh “Xin bất cứ điều gì” cũng được Chúa Cha nhận lời.
“Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác nhà Israen…”. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, Chúa đang đặt chúng ta làm “người canh gác”, tức là người có khả năng và có trách nhiệm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm đang rình rập: có thể đó là lối sống buông thả, coi thường luân thường đạo lý. Có thể đó là sự dửng dưng với Thiên Chúa và những giá trị tâm linh. Đó còn là những mâu thuẫn, hận thù, dối trá, lừa lọc, chỉ nhìn những lợi lộc nhất thời trước mắt mà không chú ý đến tiếng nói của lương tâm và những ích lợi lâu dài. Một cuộc sống ngay thẳng, tốt lành của người tín hữu sẽ giống như lời nhắc nhở và cảnh báo đối với những người xung quanh. Họ giống như những biển báo giao thông được đặt hai bên đường, giúp người giao thông tránh những chỗ nguy hiểm, tuân thủ những quy định, hầu đem lại an toàn và hạnh phúc cho mọi người. Như ngôn sứ Egiêkien, mỗi chúng ta hãy trở nên ngôn sứ của niềm hy vọng, chiếu rọi ánh sáng của Chúa vào những góc khuất của cuộc đời và đem niềm vui của Chúa đến cho đồng loại hôm nay.
7. Nợ tình thương--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài muốn tất cả mọi người nhận biết sự thật và sống hạnh phúc, đời sau và ngay cả ở đời này. Ngài muốn con người giúp nhau, sống hạnh phúc với nhau, dẫn đưa nhau chung hưởng sự sống vĩnh cửu.
1. Con người có trách nhiệm về anh em mình
Bài đọc trong sách tiên tri Êdêkiên cho thấy trách nhiệm của tiên tri như người canh giữ Israel. Trách nhiệm của người lính canh là loan báo, la lên cho những người có trách nhiệm và dân chúng biết những gì đang tới, đặc biệt những gì làm nguy hại tới nền an ninh của thành trì và dân chúng.
Trách nhiệm của tiên tri ở đây không là cảnh báo những nguy hại về an ninh chính trị, nhưng là về những sai lầm mà dân chúng cùng những nhà lãnh đạo mắc phải đối với Thiên Chúa và giữa họ với nhau. Trách vụ của tiên tri là giúp dân chúng nhận ra những sai lầm, để họ trở lại với Thiên Chúa. Trách nhiệm Thiên Chúa trao cho các tiên tri, các tiên tri phải hoàn tất; nếu không chính tiên tri phải chịu trách nhiệm.
Thời Cựu Ước, người ta thấy trách nhiệm của những người đặc biệt trong dân, chẳng hạn như trách nhiệm của các tiên tri và các vua chúa quan quyền. Người ta cũng liên đới trách nhiệm với nhau, giữa những người cùng máu huyết đồng bào, giữa vua và thần dân; chẳng hạn “cha ăn nho xanh, con cháu phải bị ghê răng,” vua Đavít phạm tội thì dân chúng cũng liên đới chịu phạt “bệnh dịch.” Qua thời Tân Ước, người ta thấy rõ mỗi người đều liên hệ với nhau, có trách nhiệm với nhau tuy dù mỗi người đều tự do và phải lãnh trách nhiệm về chính mình. Hôm nay trong Tin Mừng Đức Yêsu dạy, nếu một người anh em phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó; nếu nó không nghe, thì hãy đi với một vài người nữa, để giúp người anh em sửa đổi. Nếu phải dùng biện pháp mạnh, thì cũng chỉ nhằm giúp người anh em đó nhận ra sự thật để trở về với Thiên Chúa và với anh em mình thôi.
2. Nợ tình thương
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” Tuy nhiên, có nhiều người không bác ái và tế nhị đủ khi sửa lỗi người khác, và làm cho người có lỗi không sẵn sàng nhận lỗi và sửa lỗi. Những người này chủ trương rõ ràng: “nếu đúng thì phải nhận là đúng, nếu thấy mình sai thì phải sửa, đơn sơ chỉ có vậy.” Lý thuyết và nguyên tắc là như vậy, nhưng thực tế con người yếu đuối, cái tôi và tự ái vẫn chi phối đời sống hằng ngày của mỗi người. Nếu chấp nhận chính con người và giới hạn của nhau, sẽ dễ dàng giúp nhau sửa lỗi hơn. Câu “chân lý trong bác ái” (veritas in caritate) giúp người ta ý thức nhiệm vụ phải làm chứng cho chân lý, nhưng không được quên khía cạnh bác ái.
Con người, ai cũng tốt, cũng nghiêng về sự thiện. Vấn đề chính là người ta không biết, không nhận ra những sai lầm của mình. “Nhân chi sơ, tính bản thiên.” Quan niệm trên, dường như phản ánh lập trường của Socrate, một triết gia Hy-Lạp nổi tiếng hồi xưa, ông chủ trương “con người chỉ có mỗi một tội là ngu dốt.” Tuy nhiên, một điều khác người ta cũng không thể phủ nhận, có những người ác, những người cố tình làm điều ác, muốn làm cho người khác khổ, thích thú khi thấy người khác khổ. Có những người chọn điều ác. Dưới một khía cạnh nào mà nói, những người chọn sự ác tuyệt đối là điều không thể hiểu được; nhưng những người chọn điều ác cách tuyệt đối vẫn có đó. Theo niềm tin Kitô-hữu, quỷ là những thiên thần chọn sự ác, những người trong hoả ngục là những người chọn điều dữ cách tuyệt đối.
Trong cách đối xử giữa con người với nhau, chúng ta phải giả sử ai trong chúng ta cũng hướng thiện, cũng phục thiện. Nếu chúng ta không suy nghĩ và sống như vậy, chúng ta cũng đang ở trong sự dữ. Tin vào con người, như Thiên Chúa vẫn tin vào con người và vào mỗi người chúng ta, là một dấu chỉ chúng ta đang ở trong đường lối đúng đắn của Thiên Chúa. Khi không tin vào con người nữa, e rằng chúng ta cũng không tin vào Thiên Chúa, và tính “thiện” cũng rất mờ nhạt nơi chúng ta. Thiên Chúa vẫn tin vào con người, ngay cả vào những người làm ác, cho tới giây phút cuối đời của họ. Bình thường Thiên Chúa vẫn thắng, vì tình yêu mạnh hơn sự chết, vì tình thương lớn hơn sự dữ.
3. Yêu thương là chu toàn mọi lề luật
“Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến.” Nếu con người yêu thương nhau, con người đang hành xử giống Thiên Chúa; lúc đó, Thiên Chúa là Cha của họ, vì “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.” Yêu thương là cái gì thuộc bản chất con người mà con người đang thủ đắc mỗi ngày, càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa; càng yêu thương con người càng hạnh phúc.
Yêu thương, nên ai đó giúp người khác nhận ra sự thật. Và tin rằng, một khi nhận ra sự thật, người ta sẽ sửa đổi nếu người ta nhận thấy mình sai. Nếu người ta vẫn không sửa đổi được khi người ta nhận ra họ sai, nghĩa là, họ yếu đuối. Trong trường hợp này, người yêu thương thật tình là người thông cảm với những yếu đuối lỗi lầm của tha nhân, và chờ đợi họ sửa đổi; hơn nữa, họ tin tưởng Thiên Chúa là Đấng có thể làm cho con người kiên vững và biến đổi con người. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.” Thiên Chúa trên nơi cao thẳm, Thiên Chúa ngự sâu thẳm nơi lòng mỗi người, sẽ ban cho điều con người xin Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người tốt lành; tuy nhiên, con người tự do để sống theo tiếng gọi “yêu thương” của Thiên Chúa hay không.
Một khi con người yêu thương, là con người sống theo ơn gọi của mình, con người cảm nghiệm hạnh phúc chính khi mình yêu thương. Mọi lề luật, là để bảo vệ con người; để người khác không dùng tự do của riêng mình mà xúc phạm đến quyền của người khác. Một khi con người sống yêu thương, con người luôn tôn trọng người khác và quyền lợi của họ, thì lúc đó lề luật không cần nữa. Thánh Augustinô nói: “hãy yêu, rồi muốn làm gì cũng được.” Câu này phải được hiểu đúng nghĩa của chữ “yêu;” nếu một người yêu chân thực, họ sẽ không làm gì hại cho người họ yêu, trái lại, họ luôn muốn và làm những gì giúp người họ yêu hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Có công bằng không, khi bạn phải có trách nhiệm với những người bên cạnh bạn?
2. Không có yêu thương nếu không có công bằng, bạn nghĩ sao về lời phát biểu này?
3. Thiên Chúa là Tình Yêu. Câu này diễn tả Thiên Chúa là Đấng nào? Xin bạn chia sẻ theo sự hiểu biết của bạn.
8.Sửa lỗi anh em--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Tu thân” là nền tảng đạo đức của Nho giáo trong việc đào tạo con người hữu ích cho gia đình, đất nước và nhân loại. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Tu thân là sửa mình, mình lại rất chủ quan dễ “thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt mình”. Đại đế Napoleon cũng nói: “Thắng mình còn khó hơn thắng vạn quân thù”. Bà Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết: “Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”. Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz. Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói: “Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai”. Capone đã tự tuyên bố: “Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”. Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả: “Ta là ân nhân của thiên hạ” (Đắc Nhân Tâm - trang 33, 35).
Phương pháp chủ quan: Tự mình sửa mình thì rất khó, cho nên cần thiết phải dùng phương pháp khách quan mới dễ dàng giúp tu thân.
Khách quan cũng có nhiều cách như người ta thường nói: “Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”.
- Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt pháp luật:
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đày biệt xứ, tử hình như thế quyền vẫn làm.
- Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả theo lối sống tự nhiên như chủ trương giáo dục của Rouseau.
Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo bản năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tâng bốc tính kiêu ngạo.
Đường lối giáo dục của Chúa là biểu lộ lòng thương yêu giúp đỡ tội nhân sửa lỗi, tôn trọng tội nhân như anh em, như bạn hữu, tôn trọng chủ quyền tự do quyết định của tội nhân; nhưng cũng rất chân thành và cương quyết loại trừ tội lỗi, không để tội lỗi lây lan ra cộng đồng. Loại trừ tội lỗi chứ không loại trừ tội nhân, vì vẫn luôn luôn cầu nguyện cho tội nhân.
Tin mừng cho chúng ta thấy vừa biết cách thức sửa lỗi anh em, vừa thấy trách nhiệm bác ái đòi buộc ta phải lo cải thiện anh em.
Để sửa lỗi anh em, trước nhất phải tế nhị, kín đáo, riêng tư khuyên bảo nhau sửa chữa lỗi lầm. Cố gắng hết sức mình mà không hữu hiệu, nhờ đến những người khôn ngoan, đạo đức, uy tín thân thuộc để khuyên bảo, hướng dẫn, chỉ rõ cái hay cái dở, cái tốt cái xấu, phải trái cho anh em theo con đường tốt lành thánh thiện và con đường cứu độ thương yêu của Đức Kitô.
Nếu nhiều người giúp đỡ hết cách, hết sức, cũng không lay chuyển được tội nhân, thì biện pháp sau cùng phải trình với Giáo hội, những vị đại diện cộng đoàn, bề trên trong Giáo hội tìm cách giáo dục bằng lời giảng dạy của Chúa, giáo lý của Chúa, luân lý của Chúa và sự thưởng phạt đời đời trong ngày phán xét.
Công đồng Vatican II đã đặc biệt đề ra con đường đối thoại trong Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 4 và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 27 và 28 (Gaudium et Spes - Vui Mừng và Hy Vọng). Những tiêu chuẩn giúp ta biết đối thoại và tôn trọng nhân vị:
Thứ nhất là kính trọng yêu thương đối tác: dù là người tội lỗi thế nào, họ cũng được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu độ bằng giá máu Con Thiên Chúa.
Thứ đến là loại bỏ những lời nói, phán đoán và việc làm không đúng với hoàn cảnh anh em. Rồi đến trình bày rõ ràng minh bạch đúng sự thật, không úp mở, tránh né, giấu diếm hay mỵ dân.
Sau cùng là tín nhiệm: Tin lời mình nói và thiện chí người nghe. Biện pháp cực chẳng đã là kể họ như người ngoại đạo, để tránh gương xấu gương mù do tội lỗi họ gây ra. Tuy nhiên, không phải thế là hết, luật bác ái luôn luôn đòi buộc chúng ta mắc nợ họ, như lời thánh Phaolô đã nêu rõ trong Bài đọc I (Rm. 13, 8-10). Nợ thì phải trả, không trả thì mắc nợ. Luật bác ái đòi buộc chúng ta phải cầu nguyện cho họ, đòi buộc cộng đồng cầu nguyện để Chúa đến ngự giữa họ (Mt. 18, 15-20). “Chỉ nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới hòa giải họ với Người” (Allêluia).
“Hợp nhau cầu nguyện” đồng thời “mọi người hãy kiểm điểm mình có trung thành” với nhiệm vụ chu toàn luật Chúa chưa: Biết đâu vì lỗi nhiệm vụ ta đã làm cho anh em phạm tội như Chúa đã nhắc nhở tiên tri Êgiêkiel: “Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel …”. “Nếu ngươi không cảnh cáo nó bỏ đường gian ác, khi nó chết vì tội nó, thì máu nó sẽ đòi ngươi, như tuần canh thấy quân giặc kéo đến mà không thổi tù và, thì dân chết... Ta sẽ đòi máu nó nơi tuần canh. Nếu ngươi đã cảnh giác nó... nó chết vì tội nó, thì ngươi sẽ được thoát mạng” (Ej. 33, 6-9).
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải sửa lỗi anh em, nhưng chính con chưa sửa được lỗi mình, làm sao dám sửa lỗi người. Chỉ có Chúa là ánh sáng thế gian, xin soi sáng cho chúng con để chúng con biết cảm thông và soi sáng sửa lỗi cho nhau.
9.Anh em sửa lỗi cho nhau--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Anh em sửa lỗi cho nhau
"Nếu người anh em con trót phạm tội, con hãy đi sửa lỗi nó, một mình con với nó mà thôi..." (Mt 18,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
"Nhân vô thập toàn", nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết điểm. Nếu đố kỵ nhau thì những lỗi lầm và khuyết điểm của những cá thể sẽ làm khổ cho cả tập thể. Nhưng nếu tập thể đó là một cộng đoàn huynh đệ, thì người này phải lấy tình thương mà sửa lỗi người kia, cộng đoàn sẽ ngày càng tốt hơn, cuộc sống cộng đoàn sẽ ngày càng hạnh phúc hơn.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy ta phải sửa lỗi cho nhau cách nào. Và chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp mỗi người chúng ta can đảm lấy tình thương mà sửa lỗi cho những anh chị em của ta.
II. Gợi ý sám hối
Vì thiếu can đảm, chúng ta đã không dám sửa lỗi cho những anh chị em chúng ta.
Vì thiếu quan tâm, chúng ta bỏ mặc khi thấy một người trong cộng đoàn phạm lỗi.
Nhiều khi chúng ta không chú ý sửa lỗi, mà chỉ kết án anh chị em.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 33,7-9)
Thiên Chúa đặt ngôn sứ Êdêkien như người lính canh, với nhiệm vụ vạch tội của kẻ gian ác. Nếu ngôn sứ nói mà nó không nghe, thì nó chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu ngôn sứ không vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về cái chết đó.
2. Ðáp ca (Tv 94)
Tác giả lên tiếng kêu gọi các anh em tín hữu của mình. Nhưng hình như tiếng của tác giả kêu vô ích trong sa mạc. Bởi thế tác giả mong rằng người anh em ý thức tiếng huynh đệ ấy cũng là tiếng nói của chính Chúa và đừng cứng lòng nữa.
3. Tin Mừng (Mt 18,15-20)
Vấn đề được đặt ra là sửa lỗi anh em.
Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp: Trường hợp của đoạn Tin Mừng này liên quan đến lỗi có hại cho cộng đoàn, khi đó vì tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải đi sửa lỗi; còn trường hợp thứ hai được Thánh Matthêu ghi tiếp theo sau đoạn này (Mt 18,21-35) là lỗi giữa những cá nhân với nhau. Khi đó, giải pháp là tha thứ, tha "không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7".
Vậy khi một người anh em làm điều gì đó sai lỗi có hại đến cộng đoàn thì Ðức Giêsu dạy ta phải sửa lỗi như thế nào?
Căn bản là vẫn đối xử như "anh em". Chú ý trong đoạn Tin Mừng này, chữ "anh em" được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
Diễn tiến từ kín đáo đến công khai: "riêng ngươi và nó" - "đem theo một hoặc hai người nữa" - "Trình với cộng đoàn" - "Kể nó như người ngoại và người thu thuế".
Mục đích sự can thiệp sửa lỗi này không phải là để kết án người anh em mình, mà là để thu phục, làm cho người anh em trở lại với cộng đoàn. Nếu được như vậy thì kể như "đã lợi được một người anh em".
4. Bài đọc II (Rm 13,8-10)
Thánh Phaolô chỉ cho tín hữu Rôma biết cốt lõi của mọi lề luật, đó là "yêu mến nhau". Ngài dùng hai kiểu nói: "Vì ai yêu người thì đã giữ trọn Lề luật"; "Yêu thương là chu toàn cả lề luật".
IV. Gợi ý giảng
1. Tế nhị, khó khăn, nhưng cần thiết
Lời Chúa hôm nay trong bài Tin Mừng nhắc lại một vấn đề quan trọng nhưng rất tế nhị trong cuộc sống chung giữa con người với nhau: đó là việc sửa lỗi người khác.
Phải nói ngay rằng đó là một việc vô cùng tế nhị và hết sức khó khăn:
tế nhị về phía người được sửa lỗi
khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Nói rằng đó là một việc tế nhị, vì thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng: muốn khỏi bệnh nhưng sợ uống thuốc vì thuốc đắng; muốn nói lên sự thật nhưng ngại không dám nói vì sợ mất lòng. Ðó là điều tế nhị thứ nhất. Ðiều tế nhị thứ hai ai cũng phải công nhận: Nhân vô thập toàn, người nào cũng có khuyết điểm, không ai vẹn toàn trăm phần trăm. Thế nhưng tâm lý tự nhiên người ta thường nói: đẹp đẽ khoe ra xấu xa che lại. Và không ai muốn vạch áo cho người xem lưng, vì ai cũng sợ người khác biết được khuyết điểm hay tính xấu của mình, tự nhiên ai cũng muốn người khác quên đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Do đó việc sửa lỗi anh em gây khó khăn vì phía người sửa lỗi. Vì nếu không khéo hay vụng về cách nào đó thì anh em sẽ cho rằng chúng ta sửa lưng anh em chứ không phải sửa lỗi anh em, miệt thị, hạ giá anh em hơn là muốn anh em nên tốt. Và không khéo thì chúng ta sẽ bị anh em mắng lại: Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Thậm chí có khi lại bị anh em dùng chính Lời Chúa để "phang" lại: "Hãy lấy cái đà khỏi mắt anh đã"
Việc sửa lỗi anh em thật tế nhị và khó khăn. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Ðối với người có trách nhiệm hay bề trên sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là một bổn phận nữa.
Sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét bới móc, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều.
Sửa lỗi anh em không phải là kể ra lỗi lầm của anh em với bất cứ ai.
Sửa lỗi anh em trong đức ái là ý thức rằng tôi cũng có lỗi lầm, tôi cũng đầy khuyết điểm và tôi cũng cần người khác sửa lỗi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy tràn Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là Ðấng duy nhất "sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi".
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để khiêm tốn chấp nhận những sửa sai, những chỉ bảo của người khác về những lỗi lầm, thiếu sót của ta.
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng ta có thể nói thẳng nói thật những lỗi lầm của nhau mà không làm thương tổn tình đoàn keết thân ái và mối dây thông cảm yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu được một lời kia của Tuân Tử nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta. Kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta. Còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại đời ta mà thôi.
Lạy Chúa, hình như chúng con chỉ thích những lời khen và hình như chúng con thích nhất những lời nịnh hót tâng bốc, và chúng con không thích mấy, hay rất sợ, thậm chí rất ghét những ai sửa lỗi chúng con.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết chọn lựa một thái độ đúng đắn qua Lời Chúa dạy hôm nay.
(Lm Ðoàn vĩnh Thịnh. Chánh xứ An Lạc, trong CgvDt số đặc biệt Giáng sinh '95, trang 244-245)
2. Hai từ ngữ chói sáng
"Nếu người anh em của anh phạm lỗi..."
Từ sáng chói thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là từ "anh em". Tại sao tôi phải đi gặp người vừa phạm lỗi nặng? Bởi vì người ấy là anh tôi, em tôi. Chúng tôi là con cùng một cha. Người anh em ấy đang mắc sai lầm. Nhưng tôi không đến để "vạch mặt chỉ tên" mà đến nói chuyện tay đôi trong tình anh em, chỉ cho anh ta biết đâu là phải đâu là quấy. Tôi đến với anh như người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm và chăm sóc con chiên lạc.
Nếu biện pháp nói chuyện tay đôi cũng không có kết quả, thì tôi sẽ nhờ đến cộng đoàn. Ðây là biện pháp mà chỉ Tin Mừng theo thánh Matthêu mới có. Tin Mừng của ngài viết cho những tín hữu là người Do Thái. Họ đã thuộc luật Do Thái. Theo sách Thứ luật, viết trước Ðức Giêsu cả 6 thế kỷ, thì khi luận tội một người phải có ít là hai ba nhân chứng. Biện pháp tiếp theo cũng chỉ có trong Tin Mừng Matthêu: "Nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì hãy kể như anh ta là một người dân ngoại, một người thu thuế".
Biện pháp sau cùng xem ra khắc nghiệt. Phải chăng đây là biện pháp loại trừ? Chúa có loại trừ dân ngoại và người thu thuế bao giờ đâu. Vả lại hãy nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, hãy nhớ đến thái độ của người cha đối với nữa con hoang đàng và hợp ý cầu nguyện cùng Cha cho người anh em được mau quay về đoàn tự trong nhà Cha.
Như vậy từ chói sáng thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay là từ "Cha". Chúa nói: "Nếu hai người trong anh em họp nhau để cầu xin gì cùng Cha, thì họ sẽ được điều đó nhân danh Thầy". Lời Chúa còn mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện âm thầm của Chúa: "Khi hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì sẽ có Thầy ở đó". Cùng với Chúa, cả cộng đoàn thiết tha cầu mong cho người anh em trở về, thì nhất định anh ta sẽ trở về, vì cảm được nỗi chờ mong đau đáu của Cha, giữa họ. (Trích báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh '98, trang 258-259)
3. Dám sửa lỗi anh em là dấu hiệu của một tình thương cao độ
Thương ai thật là muốn điều tốt cho người đó. Muốn điều tốt cũng có nghĩa là không muốn điều xấu.
Vậy nếu ta thương người anh em mình thật thì khi thấy người anh em mình sai lỗi, ta phải tìm đủ cách để cứu người anh em ấy ra khỏi lỗi lầm.
Việc sửa lỗi cho anh em cũng khó khăn và thậm chí đau khổ, đau đớn. Cũng giống như nhảy vào lửa để cứu người.
Nếu không thương thì không nhảy vào lửa. Dám nhảy vào lửa là dấu hiệu của tình thương lớn lao.
4. Chuyện minh họa
a/ Sửa lỗi cách tế nhị
Ðức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
b/ Người anh em
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì".
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!"
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thánh Phaolô dạy: "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật". Với quyết tâm sống bác ái yêu thương, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Ðời sống của Hội Thánh phải luôn phản ánh trung thực đới sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử / luôn nhẫn nại và hiền hòa / nhưng cương quyết khi phải sửa chữa lầm lỗi của anh em mình.
2. Ngày nay / một số người / nhất là các thanh thiếu niên / do ảnh hưởng của những băng hình xấu / cổ võ bạo lực / thích dùng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn bất hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tình bác ái mà giải quyết những xích mích trong cuộc sống thường ngày.
3. Lòng bác ái thật không chỉ là giúp đỡ vật chất / hay an ủi người khác khi họ gặp hoạn nạn / nhưng còn là sửa dạy khi thấy họ lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / cũng như những người có trách nhiệm đối với cộng đoàn / biết can đảm và khôn khéo sửa dạy con cái / và những người dưới quyền khi thấy họ lỗi lầm.
4. Ðức Giêsu luôn chúc lành / và hiện diện giữa những ai có cùng một niềm tin / họp nhau để cầu nguyện / hay tham dự các nghi lễ phụng vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hiểu được điều đó và có những tâm tình xứng hợp.
CT: Lạy Chúa Cha nhân lành, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt là một trong những bổn phận quan trọng của từng người trong chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật để chúng con có thể vui lòng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em chúng con. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là những kẻ có tội. Trong Kinh Lạy Cha mà chúng ta sắp cùng nhau đọc, chúng ta hãy tha thiết xin Cha tha tội cho chúng ta và cho những người anh em của chúng ta nữa.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con can đảm và chân thành sửa lỗi cho nhau. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng sống tình anh em với mọi người, là anh em của nhau trong sự giúp nhau làm việc, mà cũng là anh em của nhau trong việc sửa lỗi cho nhau nữa.
10.Việc sửa lỗi trong cộng đoàn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng: ”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đòan. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.
Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đòan, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đòan kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đòan không bao giờ gồm tòan những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi?
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước: từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hòan cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ez 33,7-9.
Ezéchiel được chọn làm tiên tri. Vai trò của tiên tri là phải tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri có trách nhiệm mang đến cho loài người sứ điệp của Chúa và để báo cho con người sự nguy hiểm nếu họ không tuân lệnh Chúa. Nếu tiên tri nói với kẻ gian ác mà nó không nghe, thì nó phải chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu tiên tri không chịu vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Như vậy, tiên tri được coi như người lính gác phải luôn thức tỉnh để nhắc nhở kẻ có tội để họ khỏi phải hư đi.
+ Bài đọc 2: Rm 43,8-10.
Thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma nhắc lại lời Chúa Giêsu trả lời cho người biệt phái muốn biết điều răn nào trọng nhất: điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là mến Chúa trên hết và điều răn thứ hai cũng giống như vậy là thương yêu anh em như chính mình. Tất cả những giới răn chỉ gồm lại trong một điều là: thương yêu người anh em. Thánh Phaolô tóm tắt lại: Yêu thương là chu toàn cả lề luật.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,15-20.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến mối tương quan giữa mọi người trong cộng đoàn. Một trong những mối tương quan đó là sửa lỗi cho nhau. Khi một người phạm lỗi thì đều liên quan đến cộng đoàn. Vì vậy, với tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải sửa lỗi cho họ trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Diễn tiến việc sửa lỗi này là tiệm tiến, phải đi từ kín đáo đến công khai:
- Riêng ngươi với nó: giữa hai người.
- Đem theo một hay hai người làm chứng.
- Kể nó như người ngoại hay thu thuế.
Tuy nhiên, thánh Matthêu ghi tiếp sau đoạn này (Mt 18,21-35) là có lỗi giữa hai cá nhân với nhau. Trong trường hợp này thì giải pháp hay nhất là tha thứ.
Mục đích của việc sửa lỗi này không phải nhằm lên án người có tội mà là thức tỉnh họ, giúp họ trở về với cộng đoàn. Cả hai trường hợp cần có sự cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, nhất là việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy sửa lỗi cho nhau
I. Mọi người đều sai lỗi.
1. Lời khẳng định.
Người ta thường nói:”Nhân vô thập toàn”: Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi. Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói:” Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.
Thánh Gioan tông đồ khẳng định:”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10). Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự:”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).
2. Từ chối nhận lỗi.
Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi bởi vì tính tư ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy. Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên Tổ. Ông bà Nguyên Tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói:
- Lỗi là do bà ấy.
Hỏi bà, bà nói:
- Lỗi là do con rắn ấy.
Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.
Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng.
Truyện: Không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết:”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói:”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai“.
Capone đã tự tuyên bố:”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả:”Ta là ân nhân của thiên hạ”
(Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).
II. Nhu cầu phải sửa lỗi.
Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỡi người trong cộng doàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần . Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.
Trong cách sửa lỗi người ta hay nói:”Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”(Tục ngữ). Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này?
* Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đầy biệt xứ hoặc tử hình như pháp luật vẫn làm.
* Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trươhg của nhà giáo dục của J.J. Rousseau.
Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)
Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị:
- Tế nhị về phía người được sửa lỗi.
- Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Người ta thường nói:”Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng”(Tục ngữ). Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình nhưng dù sao cũng phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình. Kinh nghiệm cho hay: người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại vì nhớ đến lời Chúa phán:”Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt anh đã”.
Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức Bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa.
Chúa khuyên chúng ta phãi sửa lỗi cho nhau vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau:
* Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.
* Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ich kỷ.
III. Phải sửa lỗi như thế nào?
Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước:
* Bước 1: Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.
Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.
* Bước 2: Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2. Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1).
Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.
* Bước 3: Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo hội: trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.
Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).
IV. Thái độ khi sửa lỗi.
Henry Ford nói:”Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Nói cách khác, sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy? Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này:
1. Yêu thương:
Hãy bầy tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn: đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Truyện: Đức Giám mục đi kinh lý.
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bầy tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án:”Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo:”Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám mục mới nói:”Bây giờ anh chị em phải qùy xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rải nói:”Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
2. Kính trọng:
Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi. Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.
Truyện: Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:
- Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:
- Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng:
- Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
Vua nói:
- Phải.
Án Tử kể tội rằng:”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục...”.
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng:
- Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29)
3. Cầu nguyện:
Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.
Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục. Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội. Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.
Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích sự hòa giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hòa giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.
Lạy Chúa, biết nhìn nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng: sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.
Ôi! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.
Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ hãi nữa (L. Terphagnon).
11.“Yêu thương là chu toàn Lề Luật”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
1. Lòng ham muốn và tình thương
Trong bài đọc 2, trích thư Roma, thánh Phao-lô nhắc lại một số điều răn căn bản liên quan cách chúng ta ứng xử với nhau: “Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp…” Và còn nhiều điều răn nữa, của Thiên Chúa và của Hội Thánh, mà chúng ta vẫn nhắc lại trước khi dâng Thánh Lễ vào ngày Chúa Nhật. Những điều răn thánh Phao-lô vừa kể, liên quan đến những hành vi ngoại tình, giết người và trộm cắp.
Tuy có lúc này lúc kia, nhưng tất cả chúng ta đều có thể giữ tốt ba giới răn này. Tuy nhiên, thánh Phao-lô còn kể ra một giới răn khác, mà ai trong chúng ta cũng “chịu thua”, đó là giới răn: “Không được ham muốn” (Rm 13, 9), bởi vì lòng ham muốn không phải là một hành vi bên ngoài, để chúng ta cố gắng xa tránh, nhưng là một khuynh hướng của nội tâm, của con tim, mà không ai trong chúng ta không có và và không ai trong chúng ta có thể làm chủ được.
* Chúng ta không có hành vi ngoại tình, nhưng lòng ham muốn, thì không thể không có. Thế mà Đức Giê-su nói trong bài giảng trên núi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình.Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (Mt 5, 27-28).
* Chúng ta không giết người, nhưng lòng chúng ta đầy ghen ghét muốn loại trừ người khác. Thế mà Đức Giê-su nói: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà” (c. 22) ; và thánh Gioan còn nói mạnh hơn: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân (x. 1Ga 3, 15) ; bởi vì, khi ghét người anh em, chúng ta loại trừ người anh em ra khỏi lòng chúng ta, chúng ta “giết” người anh em trong lòng chúng ta.
* Cũng vậy, chúng ta không trộm cắp, nhưng trong lòng chúng ta khó tránh được lòng ham muốn của cải của người khác, ham muốn điều người khác có. Chúng ta ham muốn điều người khác có, và khi chúng ta không có được, chúng ta muốn phá hủy. Bởi vì, điều chúng ta muốn có, nhưng không có được, thì người khác không được phép có.
***
Không ai giữ được, nhưng tại sao thánh Phao-lô nêu ra giới răn “không được ham muốn”? Bởi vì đó là căn nguyên của mọi hành vi vi phạm Lề Luật. Lòng ham muốn như một năng lực bị dồn nén và có thể bùng phát thành hành động vi phạm và bạo lực bất cứ lúc nào. Và những điều này vẫn xẩy ra chung quanh chúng ta, trong môi trường sống chúng ta và có khi nơi gia đình chúng ta và nơi chính chúng ta nữa. Vậy thì phải làm sao? Điều gì giúp chúng ta làm chủ lòng ham muốn, chiến thắng lòng ham muốn, loại bỏ lòng ham muốn.
Đây là một thứ bệnh của con tim, thì chỉ có phương thuốc của con tim mới chữa lành được thôi: Đó là tình thương ; và thánh Phao-lô, trong bài đọc 2, nhắc đi nhắc lại “phương thuốc tình thương”:
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.
Các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy (Rm 13, 8.9b-10).
Tình thương chiến thắng lòng ham muốn. Nhưng làm sao có thể yêu thương, nếu không phải chính bản thân chúng ta đã được yêu thương, đã được bao dung, đã được tha thứ, đã được thương xót. Cũng trong thư Roma, thánh Phao-lô xác tín:
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8, 38-39).
Chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên chúng ta con tim chúng ta được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng:
* Hết lòng kiên nhẫn và kiên nhẫn cho đến cùng đối với người anh em phạm tội.
* Được Đức Giê-su tin tưởng trao ban quyền bình ràng buộc và tháo cởi, nhưng không phải để kết án và giết chết, nhưng để cứu sống và tò bày tình thương và lòng thương xót của Đức Ki-tô cho mọi người.
* Và vì được Thiên Chúa yêu thương và bao dung, nên chúng ta có thể hiệp nhất với nhau trong cầu nguyện và có thể họp nhau nhân danh Đức Ki-tô. Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa là bầu khí hiệp nhất, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một ; và Đức Ki-tô hiện diện ở giữa tương quan hiệp nhất yêu thương của gia đình và cộng đoàn của chúng ta.
Bài giảng của Đức Giê-su về Giáo Hội kết thúc, hay đúng hơn là hướng tới, với lời mời gọi tha thứ cho nhau đến “bảy mươi lần bảy” ; và sự tha thứ vô hạn chúng ta được mời gọi trao ban cho nhau đặt nền tảng và hướng tới chính ơn tha thứ vô hạn của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Như thế, chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên con tim chúng ta mới được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và để có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su về Giáo Hội.
2. Quyền bính và hoán cải
Ngay trước đó, Đức Giê-su đã trao quyền “tháo cởi và cầm buộc” cho chính thánh Phê-rô, với tư cách là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 19). Nhưng ở đây, quyền bính này, được Người phát biểu với cùng những từ ngữ, lại được trao cho nhóm, nghĩa là cho Giáo Hội:
Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy (Mt 18, 18 ; x. Ga 20, 23).
Việc thi hành quyền bính được thực hiện vừa bởi một người và vừa bởi cả nhóm ; như thế, sự quân bình được hình thành. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi vượt qua bình diện tổ chức và quyền bính để nhận ra sự tin tưởng mà Đức Ki-tô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho những con người mỏng dòn ở dưới đất! Sự tin tưởng thật trọn vẹn, trọn vẹn đến độ trời và đất như trở nên một. Vấn đề là Giáo Hội thi hành quyền bính theo năng động nào, của trời cao được thể hiện nơi ngôi vị và nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, hay theo năng động của đất thấp, nghĩa là thế gian, sự dữ, ma quỉ, để lên án, loại trừ và giết chết.
Một cách cụ thể khi phải đối diện với một thành viên phạm tội, là điều không thể tránh được trong đời sống đức tin của Giáo Hội: “Nếu người anh em trót phạm tội”. Nhưng thay vì dùng quyền để lên án và loại trừ, Đức Giê-su mời gọi sửa lỗi người anh em: “anh hãy đi sửa lỗi nó”. Và Đức Giê-su đề nghị cả một tiến trình rất sư phạm để giúp tội nhân hoán cải: ban đầu là cuộc gặp gỡ riêng tư và huynh đệ giữa hai người; tiếp đến, nếu tội nhân không nghe, thì thêm một hay hai người nữa; và cuối cùng, nếu tội nhân vẫn không nghe, thì Hội Thánh mới can thiệp. Và nếu tội nhân cũng chẳng nghe Hội Thánh, thì như Đức Giê-su nói: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”; bị coi là “người ngoại hay người thu thuế”, theo cách nói của Do thái giáo, điều này có nghĩa là, người này không còn thuộc về cộng đồng.
Nhưng thực ra, khi từ chối lắng nghe lời khuyên bảo đến ba lần, tội nhân đã quyết định tự loại mình ra khỏi Hội Thánh rồi. Như thế, quyền bính chỉ được dùng đến khi giải pháp đối thoại trong kiên nhẫn và đức mến đã đi tới cùng và bị từ chối.
3. Quyền bính và cầu nguyện
Trong bài Tin Mừng, khi nói về đời sống Giáo Hội, Đức Giê-su còn nói đến bầu khí hiệp nhất trong lời nguyện xin và lời đáp trả chắc chắn của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời:
Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.
Lời của Đức Giê-su vừa mang lại cho chúng ta niềm hi vọng khi nguyện xin, và vừa làm cho chúng ta nhận ra rằng, điều làm đẹp lòng Thiên Chúa, chính là bầu khí hiệp nhất trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một ; và Đức Giê-su cũng cầu nguyện và làm tất cả mọi sự để cho chúng ta nên một: “Xin cho họ nên một, như chúng ta là một”. Xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta biết kiên nhẫn cùng nhau nguyện xin và hướng chúng ta tới những ơn xin làm đẹp lòng Chúa Cha, nhất là những ơn xin làm cho chúng ta nên một, như Người dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha.
Tuy nhiên, vì lời giáo huấn của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay hướng tới việc cầu nguyện, chúng ta có thể hiểu lời của Đức Giê-su về “lời nguyện chung” còn phải là nền tảng của việc thi hành quyền bính, nhất là thi hành quyền bính trong việc sửa lỗi nhau cho nhau. Như thế, quyền bính không chỉ nhường bước cho đối thoại huynh đệ, nhưng còn phải được thực hiện, từ đầu đến cuối, trong cầu nguyện. Và cả khi tội nhân đã bị loại trừ khỏi cộng đồng, Giáo Hội vẫn được mời gọi kí thác người anh em cho lòng thương xót của Thiên Chúa và vẫn được mời gọi cầu nguyện cho người anh em ấy, tương tự như khi Người mời gọi chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù (x. Mt 5, 43-48).
***
Và trong mọi sự, nhất là trong việc thi hành quyền bính, để mời gọi hoán cải trong bầu khi cầu nguyện, Đức Giê-su mời gọi Giáo Hội “họp lại nhân danh Thầy”. “Nhân danh Thầy”, có nghĩa là, trong đời sống đức tin, Giáo Hội và từng người chúng ta được mời gọi, không chỉ nhân danh Đức Ki-tô bằng lời nói, nhưng còn mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô. Chính khi đó, như Đức Giê-su nói:
Thầy ở đấy, giữa họ.
Như thế, ở mức độ tận cùng và sâu xa nhất, Giáo Hội được mời gọi để cho Đức Ki-tô tiếp tục hiện hiện, lên tiếng và hành động ở giữa loài người chúng ta, để tha thứ, chữa lành, giải thoát và tỏ bày tình yêu đến cùng của Thiên Chúa Cha, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
12.Sửa lỗi nhau thế nào--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám Mục A-mô-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án: "Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia". Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám Mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản ra hiệu gọi dân làng vào và bảo: "Vào đây, anh chị em hãy vào mà lục soát túp lều để tìm người phụ nữ". Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám Mục mới nói: "Bây giờ anh chị em phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ". Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói: "Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy".
Hai thái độ khác nhau đối với một người lầm lỗi giữa dân làng và Đức Giám Mục A-mô-la có thể giúp chúng ta hiểu giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau. Chúng ta thấy, ngược với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục A-mô-la đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu. Trong một tình trạng khó xử, chúng ta thấy, trước hết, ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân, để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền, trái lại, ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Sau cùng, dầu không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, nhưng cũng không im lặng làm ngơ, ngài đã nêu bật mối nguy hiểm của lỗi lầm này đối với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: "Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn".
Sửa chữa anh em là một điều rất hợp thánh ý Chúa. Ngài không muốn cho tội nhân phải hư mất mà được hối cải và được sống. Sửa chữa nhau là điều luật của bác ái: yêu tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta. Mà yêu người là muốn sự lành cho người, là lo lắng kéo người ta ra khỏi tình trạng tội lỗi, đưa đến chỗ thánh thiện.
Nhưng để việc sửa chữa anh em đem lại kết quả mong muốn, thì ngoài sự cầu nguyện là việc rất cần thiết cho mọi cuộc trở lại, chúng ta phải thực hiện theo phương pháp và thứ tự như Chúa Giêsu dạy. Trước hết là gặp gỡ riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi, nếu chưa kết quả, nhờ một hay hai người khác cùng góp ý, nếu không kết quả mới đưa ra cộng đoàn hay trình lên những vị có thẩm quyền để giải quyết, hoặc tiếp tục cầu nguyện. Nếu làm hết cách theo khả năng mà chưa kết quả, hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Chúa.
Như vậy, giúp nhau sửa chữa lỗi lầm, thiếu sót là một việc rất tốt và rất cần, nhưng khi làm việc này chúng ta phải nhớ là chỉ nên gặp gỡ trực tiếp cá nhân mà thôi, cùng lắm chúng ta mới nên nói qua trung gian, vì như vậy tránh được một người khác biết lỗi lầm đó, và càng tránh được nhiều bao nhiêu càng tốt. Đồng thời chúng ta hãy tự hỏi: "Nếu tôi là người được sửa sai đó, tôi sẽ phản ứng thế nào?". Tự hỏi mình như thế chúng ta sẽ biết mình phải nói gì và phải cư xử ra sao, bởi vì mỗi người đều có lòng tự ái.
Tóm lại, cầu nguyện cho nhau, cầu nguyện với nhau và sửa chữa lẫn nhau, đó là ba đặc tính của các cộng đoàn Ki-tô hữu hoặc trong các đoàn thể, các gia đình, các giáo xứ. Cầu nguyện cho nhau thì dễ, cầu nguyện với nhau khó hơn một chút, vì phải đồng tâm nhất trí, nhưng sửa chữa nhau là điều khó hơn cả. Việc sửa chữa nhau đòi hỏi một tình yêu thương cao độ, thứ tình yêu mà thánh Phaolô nói là chu toàn được tất cả mọi điều luật, nghĩa là gồm tất cả các đức tính khác, thứ tình yêu thành thật, thiết tha, thông cảm, cởi mở, đến nỗi người sửa lỗi có thể nói được tất cả và người được sửa lỗi có thể đón nhận tất cả. Tình yêu nơi người sửa lỗi nhiệt thành, muốn cho anh em nên tốt thật, và sẵn sàng hy sinh thời giờ, sức khỏe, nhẫn nại, chịu đựng, cũng như đem tất cả tài năng để tìm ra những biện pháp cần thiết, không kém tế nhị, để đưa người anh em tới chỗ tốt lành thánh thiện. Tình yêu nơi người được sửa lỗi phải thiết tha với sự trọn lành, tỏ ra biết ơn người sửa chữa mình, khiêm tốn và vui vẻ đón nhận, cũng như cương quyết thi hành những điều sửa bảo để nên tốt.
13.Nghệ thuật sửa lỗi—Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Con người là tội lỗi”. Chính vì vậy, ngay cả trong cộng đoàn Giáo Hội thánh thiện cũng có những người tốt và có cả những người chưa tốt, thậm chí còn có cả những người xấu nữa.
Cũng vì thế Chúa Giêsu muốn nêu lên tinh thần trách nhiệm của mỗi người là phải ân cần săn sóc cho nhau, giúp sửa lỗi cho nhau.
Tuy nhiên sửa lỗi cho nhau là một chuyện rất khó khăn. Đây là một nghệ thuật rất khó; khó đạt đến thành công mỹ mãn.
Theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, điều đầu tiên là gặp gỡ riêng anh em. Tại sao lại phải gặp gỡ riêng trước? Ở đây chúng ta thấy hai điểm then chốt. Đó là tôn trọng danh dự anh em và có một mối dây liên đới thân tình.
Trong thế gian, người ta thường không tôn trọng danh dự người khác. Họ tố cáo những chuyện xấu, chuyện tội lỗi của kẻ khác; họ thường phê bình chỉ trích người khác; muốn hạ phẩm giá người khác. Ở đây, ngược lại, Chúa dạy chúng ta hãy giữ bí mật những tính hư nết xấu, những tội lỗi của kẻ khác. Khi ta nói ra điều xấu của kẻ khác thì ta đã xúc phạm đến danh dự người đó; khi đó ta đã phạm tội nói xấu kẻ khác. Có thể tật xấu hay tội đó là có thật, nhưng ta vẫn phải có bổn phận giữ kín và bảo vệ danh dự cho người khác; cũng như ta muốn bảo vệ danh dự cho mình. Trừ khi vì công ích nghiêm trọng đòi buộc, ta mới có thể tiết lộ những tbí mật xấu hay tội lỗi của kẻ khác.
Bên cạnh việc tôn trọng danh dự người khác, để có thể gặp gỡ riêng tư sửa lỗi thì ta cần có một mối liên hệ thân tình. Trong lời dạy của Chúa Giêsu, Ngài nói đến "người anh em" chứ không nói đến người dưng xa lạ. Vậy nếu chưa có đủ mối liên hệ thân tình, thì cần phải tạo mối liên hệ này trước khi gặp gỡ anh em. Mội đối xử tốt, nhận ra những điều tốt điều tích cực nơi người anh em là điều cần thiết để xây dựng mối thân tình và lòng nhiệt thành vô vị lợi của chúng ta.
Giai đoạn của việc sửa lỗi này nếu như không có kết quả, vì người anh em không chịu nhận lỗi và vâng phục, thì công việc sửa lỗi trong một cộng đoàn một tổ chức cần được tiến hành một cách từ từ, với sự góp ý của một vài người nữa để cho thấy sự việc mang tính khách quan hơn. Người lỗi phạm dễ chấp nhận phần lỗi hơn.
Sau đó, nếu vẫn không có kết quả, thì mới đưa lên cấp cao hơn để xét xử.
Trong tổ chức của Giáo Hội, đôi khi chúng ta thấy có sự việc phạt vạ người này người kia. Đó cũng là làm theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu.
Về phần người tín hữu của chúng ta, giai đoạn đầu tiên của việc sửa lỗi là đáng lưu ý hơn cả, vì nó thường xảy ra hơn, trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm. Bổn phận giữ kín chuyện xấu của người khác và gặp gỡ thân tình với sự tôn trọng danh dự người anh em là điều cần thiết.
Trong quyển sách về truyện các vị ẩn tu có ghi lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia, khi giám mục Ambôtnat đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng bày tỏ nỗi bất bình của họ đối với vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng cho dân làng đàm tiếu và lên án.
Đức Giám mục Ambônat vừa đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói: Hôm nay ngài đã đến, thì ngài phải chấm dứt ngay tình trạng sa đọa, bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu và dân làng nối gót theo sau.
Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến thì hoảng sợ và hấp tấp bảo người phụ nữ hãy chui vào một chiếc thùng gỗ trống. Giám mục là người duy nhất đến trước túp lều, và là người đầu tiên bước chân vào. Ông đưa mắt nhìn chung quanh, và hiểu ngay tức thì. Ngài ung dung đi thẳng đến cái thùng gỗ và ngồi lên trên, và bình thản ra hiệu và bảo dân làng: “Anh chị em hãy lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”.
Khi họ không tìm ra bóng dáng người đàn bà, Giám mục nói; “Anh chị em hãy xin lỗi Chúa, vì đã nói xấu vị ẩn tu này cách vô cớ.”
Nhưng sau đó, chờ đến lúc mọi người đã xuống dưỡi chân núi, Giám mục Ambônat mới tiến đên gần vị ẩn tu, nắm chặt tay ông, đưa đôi mắt nhân từ nhưng cương nghị, nhìn sâu vào đôi mắt vị ẩn tu và chậm rãi nói: Hỡi người anh em. Hãy cẩn thận giữ mình, kẻo phải mất linh hồn.”
Trong câu truyện trên, phản ứng của dân làng trước lỗi lầm của vị ẩn tu thì trái nghịch với giáo huấn của Chúa Giêsu. Họ đã vội vã đồn thổi, lên án và phao tin về tội lỗi của vị ẩn tu. Dân làng đã quyết định làm nhục và khai trừ ông ta. Ngược lại, vị giám mục Ambônat đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân, riêng tư. Ngài đã dùng thẩm quyền mình để bảo vệ vị ẩn tu. Sau đó, ngài khuyên nhủ ông như một người anh em.
Trong vấn đề khó khăn để sửa lỗi, chúng ta cần cảm nghiệm được Chúa Giêsu ở giữa cộng đoàn chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Ở đâu có hai hay ba người tụ họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.” (Mt 18,20). Nhờ sức mạnh tình yêu của Ngài, Ngài giúp chúng ta sửa lỗi trong tinh thần xây dựng, và nhất là trong niềm kính trọng và thương yêu chân tình. Những người đang lầm lỗi có thể so sánh như những bệnh nhân về tâm hồn, cần đến sự cảm thông và tình thương nhiều hơn để được nâng đở và khuyến khích trên con đường hoán cải đời sống.
14.Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Sống trên trần gian này, chúng ta không sao trả hết những “món nợ” cho những người thân yêu và cho anh chị em đồng loại và lại càng không thể trả hết cho Thiên Chúa là Đấng dựng nên, yêu thương và cứu chuộc chúng ta. Dù cho chúng ta giàu có đến mức nào, chúng ta cũng phải cần đến sự giúp đỡ, sẻ chia của người khác. Dù chúng ta nghèo đến mức nào, chúng ta cũng đều có những cái để trao ban và cho đi. Vì con người là sống cho và sống với anh chị em mình. Vậy thì, chúng ta hãy sống, cư xử và hành động thế nào để rồi cuối cùng chúng ta không còn “mắc nợ” ai ngoài “món nợ của tình yêu thương”, “món nợ tương thân, tương ái”.
Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã dạy và nhắc nhở chúng ta “anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau”. Tại sao khi chúng ta yêu mến nhau thì chúng ta sẽ không còn mắc nợ nhau gì nữa? Vì thật ra, “yêu thương là chu toàn cả lề luật”. Mà lề luật là gì mà chúng ta phải chu toàn? Lề luật không gì khác hơn đó là: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu thương anh chị em như chính bản thân mình. Thật vậy, qua kinh nghiệm và lời chỉ dạy của Thánh Phaolo, chúng ta sẽ không bao giờ trả hết những “món nợ” cho đến khi chúng ta sống bác ái, yêu thương.
Trong muôn vàn cách sống và lựa chọn, thật để sống bác ái, yêu thương thì thật là khó, tại sao vậy? Vì với bản tính con người, như Thánh Phaolo đã nói:“Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Chính vì lẽ đó, như trong bài đọc một, Tiên tri Êzekiel đã đưa ra lời khuyến cáo cho những ai đang theo đường xấu, gian xảo và tội lỗi. Nếu chúng ta không ăn năn hối lỗi mà từ bỏ những tính hư tật xấu, và ngay cả nếu như chúng ta không giúp đỡ để cho những người làm điều xấu biết ăn năn mà quay trở về, thì tất cả chúng ta cũng sẽ chung số phận với những kẻ gian ác, và án phạt của chúng ta chắc chắn là sự chết.
Thiên Chúa trong thánh ý nhiệm mầu đã luôn có những sáng kiến để cho con người có thể nắm lấy cơ hội mà ăn năn hối cải, quay về nẻo chính đường ngay. Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta ba sáng kiến độc đáo. Thứ nhất, đó là sự đồng hành, cảm thông, chia sẻ và tìm ra những phương cách hữu ích nhất để giúp đỡ cho anh chị em mình, đặc biệt cho những ai đang bị lầm đường, lạc lối hay đang rơi vào những ngõ cụt của cám dỗ và tội lỗi. Không ai trong chúng ta là người hoàn hảo. Do đó, khi đối diện với những điều xấu và tội lỗi, chúng ta không lên án hay loại trừ nhau, nhưng cố gắng tìm ra những phương cách để giúp đỡ và sửa dạy nhau trong tinh thần xây dựng và thăng tiến. Sáng kiến thứ hai chính là “sự tháo gỡ và cầm buộc”. Tháo gỡ bằng cách tha thứ, đây chính là đỉnh cao của tất cả mọi phương cách và sáng kiến. Bởi vì ai trong chúng ta cũng đều là tội nhân, chính chúng ta đã biết bao nhiêu lần vấp ngã mà phạm tội. Thế nhưng, với lòng thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có thể làm hòa lại với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân mình. Cách mà chúng ta tha thứ cho anh chị em mình, cũng chính là chúng ta cảm tạ Chúa, hay nói khác hơn như cách mà chúng ta cần trả lại món nợ ân tình mà Chúa đã vì yêu thương mà tha thứ cho chúng ta. Nếu không thể tháo gỡ, mà vì lý do gì đó để rồi cầm buộc đối với anh chị em mình thì việc cầm buộc hay chúng ta gọi là kỷ luật, thì khi dùng đến kỷ luật để ràng buộc, thì cũng phải là phương cách để giúp cho anh chị em nhận ra chính lầm lỗi mà ăn năn hoán cải. Sáng kiến cuối cùng đó chính là việc cầu nguyện. “Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện và qua cầu nguyện, chúng ta mới có thể tìm ra và phần nào hiểu được thánh ý, cũng như sáng kiến mà Thiên Chúa muốn để chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau. Dẫu biết rằng, giúp đỡ anh chị em mình là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn cho con người để chúng ta được hoán cải và chữa lành.
“Yêu thương là chu toàn cả lề luật”, nhưng yêu thương bằng phương cách nào? Để có thể diễn tả tình yêu thương cách trọn vẹn nhất, không gì cao quý và đẹp hơn đó là sự hy sinh, tha thứ và cầu nguyện cho người mình yêu thương. Thật là khó với sức của con người để có thể sống và thực thi điều này. Chính vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã vì chúng ta mà hy sinh, chết thay và tha thứ cho chúng ta. Ngài cũng cầu xin với Chúa Cha, để nhờ công cuộc cứu độ của Ngài, mà Chúa Cha tha thứ tất cả cho chúng ta, để cho chúng ta được trở nên những người con yêu quý của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhận biết tình yêu thương sự hy sinh và tha thứ của Chúa dành cho chúng con; Thật vậy, nhờ ơn thánh và sức mạnh của ân sủng này, chúng con mới có thể sống cảm thông, chia sẻ, hy sinh và tha thứ cho nhau và như thế thì “món nợ ân tình” mới được trao trả và đong đầy trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con. Amen.
15.Sửa lỗi cho nhau--Lm. Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A nêu bật một chủ đề: “yêu thương đồng loại”.
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với anh em mình:
Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
1. Yêu người theo Cựu Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13, 8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
- Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
- Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
- Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
16.Nợ yêu thương--Lm. Xuân Hy Vọng
Thông thường, người ta mắc nợ tiền bạc, vật chất, hiện kim, hiện vật, nợ tình nghĩa, nợ lòng biết ơn…chứ chẳng ai nói như Thánh Phao-lô “anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau”, hoặc “tương thân tương ái” (x. Rm 13, 8) cả. Nhất là trong xã hội đang quay cuồng với biết bao chủ thuyết độc hại, tiêm nhiễm hằng ngày vào suy nghĩ, tâm tư, lối sống con người, kể cả người Công Giáo chúng ta. Nào là xu hướng sống độc thân vì ích kỷ, sợ liên luỵ, sợ ảnh hưởng đến lối sống cá nhân sung sướng, thu mình trong tiện nghi, trong ‘chăn ấm nệm êm’ của đời mình! Chủ trương tương đối trong mọi thứ, kể cả chân lý đức tin, niềm tin, giá trị luân lý, v.v…Thế thì, tại sao tôi lại mắc nợ ai việc phải yêu mến cơ chứ?
Văn hoá trần tục của xã hội giản lược các giá trị thành vật phẩm, kể cả tình yêu thương, sự tương thân tương ái như thể cuộc trao đổi, hay chúng ta thường nghe từ ngữ mỹ miều ‘hợp đồng thương mại siêu lợi nhuận” hoặc nói đơn giản như ông bà ta đã từng đúc kết ‘có qua có lại mới toại lòng nhau’. Như thế, chúng ta những người Công giáo cũng không thể tránh khỏi lối suy nghĩ ấy, mà cho rằng: tôi chẳng mắc nợ ai ngoài những gì đã vay mượn, chứ không nợ ai yêu thương cả!
Nói cho cùng, chúng ta không những nợ, mà còn nợ nhiều nữa là đàng khác. Nợ Thiên Chúa! nợ bố mẹ ta! nợ gia đình ta! nợ hết thảy những ai dạy dỗ, nâng đỡ, giúp sức cho ta! nợ giáo xứ, nợ cộng đoàn, nợ bạn bè! Chẳng phải khi vay mượn, chúng ta mới nợ đâu! Thật sự, điều này hoàn toàn đúng, vì khi mượn vay thì đã mắc nợ, và đã nợ phải trả là điều hiển nhiên. Nhưng hơn thế, là người Công Giáo, nếu chúng chưa sống giới răn yêu thương: mến Chúa (x. Đnl 6, 5) và yêu người như chính mình (x. Lv 19, 18) thì chúng ta còn mắc nợ dài dài. “Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật” (x. Rm 13, 8) và “ yêu thương là chu toàn cả lề luật” (x. Rm 13, 10).
Khi nghe nhiều người không Công Giáo, kể cả những người theo chủ thuyết vô thần nói: nơi nào có nhiều cộng đoàn giáo xứ, dòng tu và tín hữu Công Giáo, nơi ấy rất bình yên, và tệ nạn xã hội rất thấp, đến độ không có. Nếu thật sự như vậy, chắc hẳn người Công Giáo chúng ta đang nỗ lực sống giới yêu răn thương, làm việc bái ái và trở nên ‘muối men’ cho đời, cho mọi người hàng xóm, làng giếng và xã hội. Nói như Thánh Phao-lô đã quả quyết: khi chúng ta thực thi bác ái, sống giới răn yêu thương như Chúa dạy thì sẽ không làm hại tha nhân (x. Rm 13, 10).
Hơn nữa, nhờ tình yêu, sự tương thân tương ái, và việc thực thi bác ái mỗi ngày, chúng ta mới có thể xét mình thay vì xét đoán, đổ lỗi, phàn nàn, lên án, chụp mũ…anh chị em. Với lòng yêu thương ấy, với niềm hân hoan sống bác ái ấy, chúng ta mới có thể ‘trở nên người canh gác cẩn trọng’ (x. Ez 33, 7), không phải canh gác như ‘giám thị’ chỉ để ý đến những gì không tốt, xấu xa nơi người khác; trái lại, canh giữ tâm hồn bản thân, canh giữ lối sống đoan chính, canh phòng suy nghĩ, cách nhìn ngay thẳng của chính mình, để can đảm thực thi Lời Chúa, và khuyến dụ anh chị em trở về chính lộ mỗi lần lạc lối hay lầm lạc “khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đàng tội lỗi, cho dẫu nó không chịu bỏ đi chăng nữa, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống mình” (x. Ez 33, 9).
Lòng yêu thương, việc thực thi bác ái này được Chúa Giê-su nâng lên một tầm cao mới, đó là sửa đổi cho nhau trong tình huynh đệ. Và điều này cần phải thực hiện một cách cẩn trọng và theo ‘tiến trình’ tiệm tiến như Chúa Giê-su chỉ dẫn. Tuy nhiên, trong thực tế, ‘tiến trình’ này dường như bị đảo ngược, tệ hơn là bị bỏ qua, nên ‘tiến trình’ biến thành ‘trình tiến’ theo thói quen, tập quán bản thân. Ngoài ra, phần lớn cách thức mà người Á Đông chúng ta hay làm và luôn cho rằng không sai, đó là thay vì nói riêng, trực tiếp, đối diện với người anh chị em mắc lỗi với mình, thì lại rêu ra, lôi kéo đồng minh bằng cách nói với người thứ ba (mà người này chẳng biết rõ gì về sự thể đang diễn ra giữa mình với người anh chị em mắc lỗi!). Vì thế, Chúa Giê-su hướng dẫn chúng ta nên hành xử ra sao khi anh chị em lỗi phạm, hay trót phạm tội (x. Mt 18, 15) một cách cụ thể từng bước một: (1) đi sửa dạy riêng giữa ngươi và nó thôi, (2) nếu nó không nghe, đem theo một hoặc hai người nữa để làm nhân chứng, (3) nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Sau đó, nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, thì hãy kể nó như người ngoại và như người thu thuế (x. Mt 18, 15-17). Tiến trình sửa lỗi, góp ý cho anh chị em thế này luôn luôn phải đặt trong lòng mến, tình đệ huynh và nhất là trong tâm tình cầu nguyện giúp biện phân, tìm Thánh ý Chúa trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn, giáo xứ, hội dòng…Nếu chúng ta không cẩn trọng thực hiện từng bước một như Lời Chúa dạy, và với tâm thế yêu thương, hiểu biết, cảm thông, thì việc hữu ích này sẽ có nguy cơ biến thành cuộc thanh trừng, vạch mặt, tố cáo nhau như đã và đang xảy ra trong văn hoá trần tục giữa một xã hội thực dụng ngoài kia.
Giờ đây, chúng ta cùng trở về với lòng mình, đi sâu vào trong tâm hồn bản thần hầu chúng ta đủ lắng đọng, đủ tĩnh lặng, để cùng lắng nghe tiếng Chúa và tâm sự với Người:
Lạy Chúa, giữa chốn trần gian
Nhiều người đánh đổi bình an tâm hồn
Bằng sự xa hoa thượng tôn
Vật chất trở thành luỹ đồn chở che
Lạc vào hư vô đê mê
Từ thiện giả tạo chắn che lỗi lầm
Xin cho con biết âm thầm
Thực thi bác ái ân cần đệ huynh. Amen!
17.Cá nhân giữa cộng đồng--Lm. Bùi Mạnh Tín
Cộng đồng được xây dựng trên sự liên đới của nhiều cá nhân. Các cá nhân sẽ ảnh hưởng trên cộng đồng, để rồi cộng đồng lại ảnh hưởng trên từng cá nhân. Đó là một liên đới có tính cách hỗ tương. Như vậy, trước cộng đồng, mọi cá nhân đều có trách nhiệm liên đới đối với nhau. Tôi làm xấu là xấu cho chính tôi, và cũng xấu cho cộng đoàn. Bạn làm tốt là tốt cho chính bạn, và cũng là tốt cho cộng đoàn.
Một xứ đạo, một đoàn thể Công Giáo hay một tu viện cũng vậy - và còn hơn thế nữa, vì chúng ta được kêu gọi trở nên một thân thể, một cây nho; do đó, trách nhiệm liên đới càng quan trọng hơn. Bài đọc 1, và nhất là bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến trách nhiệm này. Chúa Giêsu nói: "Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó..." Thực ra, không ai hoàn hảo, cũng không ai nhìn rõ tất cả những điều mình làm, nhất là những điều xấu; đó, tôi cần đến bạn, bạn cần đến tôi. Chúng ta cần đến nhau để sửa lỗi cho nhau, cùng xây dựng cho nhau, giúp nhau trở nên tốt hơn. Khi mỗi cá nhân không chấp nhận và thi hành trách nhiệm liên đới nầy, vì những lý do như: quá nể nang, quá sợ sệt, sợ bị liên lụy, sợ bị thiệt thòi, hay vì nhu nhược, tất nhiên nhiều điều đáng tiếc sẽ xảy ra cho cộng đồng và cá nhân. Trái lại, nếu các phần tử biết quan tâm đến nhau và đến ích lợi của cộng đồng, qua các sáng kiến tích cực và xây dựng, trong việc nhắc nhở anh chị em mình khi họ sai lỗi, thì chắc chắn cộng đồng và cá nhân trong cộng đồng sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, để công việc mang lại ích lợi, chúng ta cần lưu ý:
- Người sửa lỗi: luôn thực tâm muốn cho tha nhân trở nên tốt, đồng thời phải khiêm nhượng và khôn ngoan trong cách thức sửa lỗi, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy.
- Người sửa lỗi: luôn khiêm nhượng, nhận ra những sai trái của mình, chấp nhận sự nhắc nhở của tha nhân và cố gắng sửa đổi.
Sách Samuel 1 kể rằng: vì ghen tương, vua Saolo quyết tâm giết Davit, nhưng hoàng từ Gionathan đã lợi dụng cơ hội thuận tiện, khôn khéo và chân thành trình bày với vua cha: "Thưa Cha, con trộm nghĩ: Davit không làm gì chống lại Cha. Tất cả những điều anh ta làm đều tốt đẹp và hữu ích cho Cha cũng như cho dân Israel... Chính Cha đã thấy những việc anh ấy làm và Cha đã vui mừng..." Những lời nói chân thành và hợp tình hợp lý của Gionathan, khiến nhà vua suy nghĩ. Sau đó, nhà vua trả lời: "Vậy, nhân danh Thiên Chúa hằng sống, cha hứa sẽ không tìm giết Davit nữa."
Được Chúa Kitô quy tụ qua bí tích Rửa Tội, thành một dân thánh, một đoàn chiên, một gia đình, chúng ta phải chân thành và tích cực giúp đỡ nhau, bằng việc sửa sai cho nhau. Biết rằng đây là công việc khó khăn và là một thứ thuốc đắng, nhưng rất cần thiết và hiệu nghiệm, nên chúng ta phải nhẫn nại, khôn khéo và can đảm. Ngoài ra, còn cần sự trợ lực của Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện và hy sinh. Chính khi chúng ta cầu nguyện và hy sinh, Chúa sẽ biến đổi chúng ta thành những dụng cụ tốt, để biến đổi con tim của tha nhân.
18.Sửa lỗi cho nhau và vì nhau--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự. Thế nhưng, có một anh bộ đội vẽ chiếc cầu thơ mộng giữa hai ngọn núi, dưới cầu là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên cầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó. Với tâm hồn yêu thương tha thứ và vị tha, chàng sĩ quan quân đội quan niệm rằng chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
Vâng, một triết gia nói rằng: “Con người sinh ra là sống với nhau, cho nhau và vì nhau”. Qủa thế, khi tạo dựng nên con người Thiên Chúa đã tạo dựng không phải là một người mà hai người, người nam và người nữ. Cho nên, theo ý định của Thiên Chúa từ thuở ban đầu không ai trong chúng ta có thể sống cô độc lẻ loi một mình lẻ bóng, trái lại chúng ta sống là sống với, sống cho và sống nhờ người khác nhất là trong gia đình của chúng ta. Và trong cuộc sống, đã sống chung, tức nhiên phải có đụng, có va chạm nên không thể nào tránh khỏi cho hết những va chạm, bực bội và buồn phiền hay tội cho nhau vì bá nhân bá tánh, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình cả.
Vì vậy, tình liên đới trong gia đình, Giáo hội hay xã hội như một ngôi nhà của Thiên Chúa và mỗi người là một viên gạch, viên gạch ấy rất quan trọng để làm cho ngôi nhà vững chắc trong đức tin và đức ái. Cho nên, trong bài đọc một Thiên Chúa bảo một vị ngôn sứ rằng: Ta nói với ngươi phải đi cảnh cáo một anh em trong cộng đoàn mà kẻ có tội phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có trách nhiệm sửa lỗi cho nhau từ trong gia đình ra ngoài xã hội theo tinh thần tình huynh đệ với nhau:
Thứ nhất, “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Một mình với tội nhân, đây là cách sửa lỗi cho nhau dưới tác động của Chúa Thánh Thần, có nghĩa rằng việc sửa lỗi phải được thực hiện trong tình bác ái và hy vọng và như thế Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và giúp tội nhân tự ăn năn thống hối. Rồi, nếu hối nhân không nghe, "Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa". Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân. Chỉ thị này đã đưa ra nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng trị của thẩm quyền. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội người ấy song là những người trợ lực kẻ có tội có nhiều cơ may trong việc sửa lỗi, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết. Cuối cùng, nếu họ không nghe, "Hãy thưa với Hội Thánh”. Việc đưa tội nhân ra trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Vì vậy, quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái.
Gia đình công giáo gọi là Hội thánh thu nhỏ, Hội thánh tại gia. Chính trong đó, chúng ta sống liên đới trước hết giữa vợ chồng, cha con, mẹ con, con cái với cha mẹ. Và cũng trên nền tảng đó, chuyện sửa lỗi huynh đệ phải trước hết để giúp cho mọi thành viên trong gia đình, cộng đoàn trưởng thành nhân cách và đức độ như Chúa Giêsu, đồng thời làm cho gia đình hạnh phúc và cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Cho nên trước hết, những người làm lớn, vợ chồng, anh chị muốn sửa lỗi người khác, mình phải là gương sáng như Chúa Giêsu. Cụ thể, ngày xưa Chúa Giêsu dạy không chỉ bằng lời nói bằng hành động mà chính các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cách sống hằng ngày của Chúa Giêsu, cách ứng xử của Ngài trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Tất cả những gì các ông chứng kiến đấy chính là cái Chúa Giêsu giáo dục các ông bằng gương sống của chính Ngài. Chúng ta là người làm lớn, là cha mẹ, anh chị, chúng ta giáo dục những người nhỏ, con cái hay các em cũng vừa bằng lời mà vừa bằng chính cách sống của mình. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I khi nói chuyện với các bậc cha mẹ kể rằng có một người cha vào mùa chay nói với đứa con: hôm nay ở nhà thờ cha sở giải tội đó, con lo đi xưng tội đi. Thằng con nói lại, con không đi vì bố 10 năm nay đã đi xưng tội chưa?
Vì vậy, trong Tông huấn Niềm vui Yêu thương, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở các cặp vợ chồng rằng cuộc hôn nhân tốt là một ‘tiến trình sinh động’ và mỗi bên phải nỗ lực với những bất toàn (122, 113). Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Không chỉ các cặp vợ chồng, mà còn các cặp đính hôn, những bà mẹ mang thai, các bậc cha mẹ nhận con nuôi, cũng như những người dì, người chú, và ông bà đặc biệt lưu tâm, mong muốn không một ai cảm thấy mình không quan trọng hay bị loại trừ khỏi tình yêu Thiên Chúa. Giáo hội phải giúp đỡ mọi gia đình, và mọi người thuộc mọi hoàn cảnh sống, với nhận thức rằng, dù bất toàn, nhưng họ được Thiên Chúa yêu thương, và có thể giúp cho những người khác cảm nhận tình yêu đó.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật”. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mọi người chúng ta nhớ rằng trước khi góp ý xây dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi sáng, hướng dẫn và xin Chúa nhắc ta nhớ rằng ta cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng hơn họ nữa. Nhưng vì bổn phận tương thân tương ái và liên đới với nhau, chúng ta phải sửa lỗi, khi sửa lỗi phải biết lấy tinh thần bác ái yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán, kết tội người khác, biết rộng lượng bao dung với người khác vì như Thiên Chúa đã tha thứ cho ta thì chúng ta phải tha thứ kẻ có lỗi với chúng ta. Amen.
19.Bài thi của bà giáo O'neill--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Các Kitô hữu có bổn phận giúp đỡ anh chị em mình làm điều thiện."
Một phụ nữ làm việc ở nhà hàng tiếng tăm nọ từng tuyên bố không theo tôn giáo nào cả, có nói với một vị linh mục: "Thưa cha, tôi không muốn làm cha thất vọng, nhưng trong số kẻ bê bối nhất tôi từng gặp trong nghề nghiệp của tôi lại có những Kitô hữu rất siêng năng đi nhà thờ".
Linh mục đáp lại: "Ðúng vậy, trong số các Kitô hữu không may vẫn có những người tồi tê, không khác gì trong số những người ngoài cũng có những người tồi tệ như vậy".
Người phụ nữ liền đáp: "Thưa cha, thế thì không phải các Kitô hữu vẫn được xem là đặc biệt hơn sao?".
Vị Linh mục bùôn bã nhìn bà ta nói: "Ðúng thế, đúng thế, họ được xem là phải sống tốt hơn!"
Cuộc đàm thoại trên hẳn khiến anh chị em ngạc nhiên. Các Kitô hữu thường xuyên đi nhà thờ hẳn khác hơn những kẻ không đi nhà thờ chứ? Chúng ta hãy xem xét ba trường hợp sau:
Một tay bán vé cho tuyến xe đưa đón ở phi trường nói với một ông bố: "Thưa ông, con trai ông có vẻ trẻ hơn tuổi của nó: ông nên mua nửa vé thôi. Nếu tài xế có hỏi, ông cứ nói là thằng bé dưới 12 tuổi. Như thế ông sẽ đỡ tốn vài đôla!" Giả sử anh chị em là ông bố ấy, anh chị em sẽ trả lời người bán vé thế nào?
Rồi một trường hợp khác. Một bà mẹ bắt gặp đứa con gái 5 tuổi của mình cầm một cây kẹo mà nó ăn cắp được sau khi từ siêu thị ra. Giả sử anh chị em là bà mẹ ấy, anh chị em sẽ làm gì?
Và đây trường hợp sau cùng. Giả sử nghe đứa bạn thân nhất của con bạn nói với nó: "Nếu mày cần hỏi bất cứ câu gì trong kỳ thi toán, mày cứ ra dấu cho tao". Ðặt trường hợp thằng bé ấy là con của anh chị em, thì anh chị em sẽ cứ tiếp tục đọc báo hay sẽ đặt báo xuống và nói chuyện với cả hai cậu bé?
Tôi không biết anh chị em sẽ xử lý thế nào trong những trường hợp như thế, nhưng tôi biết rõ Chúa Giêsu sẽ xử lý thế nào. Câu trả lời ấy được tìm thấy trong các bài đọc hôm nay. Cả ba bài đều tập trung vào bổn phận hỗ tương của người Kitô hữu phải có đối với nhau. Các Kitô hữu không chỉ phải làm điều thiện mà còn phải giúp đỡ kẻ khác làm điều thiện nữa. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Các con là muối đất... các con là ánh sáng thế gian... Ánh sáng các con phải chiếu tỏa trước mặt thiên hạ" (Mt 5, 13-16).
Chúng ta hãy trở lại với ba trường hợp trên. Câu trả lời của người Kitô hữu đối với từng trường hợp trên như thế nào? Một kẻ theo Chúa Giêsu sẽ nói gì với người bán vé xe là kẻ đã nói với ông bố nọ: "Ông cứ nói với tài xế xe là thằng bé con ông dưới 12 tuổi?" Trường hợp này thực sự đã xảy ra ở Chicago. Ông bố ấy đã trả lời làm sao? Ông ta bảo với người bán "Tôi rất trân trọng hảo ý của ông, nhưng tôi muốn con tôi chân thực dù điều đó gây bất lợi cho nó". Còn bà mẹ bắt gặp đứa con gái của mình ăn cắp cây kẹo đã xử lý như thế nào? Ðây cũng là một câu chuyện có thực đã xảy ra. Cây bút của tờ báo Dallas Morning News (Tin tức Dallas buổi sáng) khi thuật lại câu chuyện trên đã nói rằng bà mẹ nọ đã bảo đứa bé trả lại cây kẹo cho vị quản đốc, và ông này nói: "Ôi đừng lo gì chuyện đó. Nó có đáng gì đâu. Ðám nhân viên mỗi ngày ăn cắp của tôi nhiều hơn thế nhiều!".
Như tay viết báo kể lại, đây thực là một câu trả lời khó tin nổi. Viên quản đốc đã gây cho cháu bé ấn tượng ăn cắp chả quan trọng gì nếu đó chỉ là một vật nhỏ mọn. Thực sự dù là ăn cắp vật lớn hay nhỏ thế nào đi nữa thì ăn cắp vẫn luôn luôn là điều xấu.
Và cuối cùng hãy xét đến trường hợp thằng bạn của đứa con trai chúng ta đồng ý gian lận để giúp đỡ con trai ta trong bài thi toán. Jerome Weidman, tác giả cuốn "Hand of the Hunter" (Tay người thợ săn) khi còn bé từng can dự vào một trường hợp như trên. Ông kể lại cách đây 30 năm, ông vào học ở một trường công Nữu Ước. Bà giáo dạy toán lớp ba của ông tên là bà O' Neill. Ngày nọ bà ra cho lớp một bài thi. Khi chấm bài bà nhân ra 12 cậu trai đã trả lời sai một cách giống y như nhau đối với cùng một câu hỏi. Qua ngày sau, bà yêu cầu 12 cậu bé ấy ở lại lớp sau khi tan học. Sau đó, không hề kết tội đứa nào, bà chỉ viết lên trên bảng câu này: "Tính chân thực của một người được thể hiện trong những điều kẻ ấy sẽ làm dù biết rằng không bao giờ bị ai bắt gặp". Ðoạn bà ghi tên tác giả câu nói trên: Thomas Babington Macaulay. Weidman viết: "Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ có đứa một trong số đó là chính tôi, có thể nói rằng: Ðây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi".
Như thế chúng ta đã thấy ba mẫu người Kitô giáo xử lý như thế nào trong ba trường hợp khác nhau trên. Ba Kitô hữu này đã lưu tâm đến lời giáo huấn của Chúa Giêsu dạy phải giúp đỡ anh chị em sống cuộc sống Kitô hữu. Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp nhận lời Chúa Phán với Êdekien trong bài đọc thứ nhất hôm nay: "Nếu... ngươi không răn dạy kẻ xấu thay dổi cách ăn ở của nó thì Ta sẽ qui trách nhiệm cho ngươi". Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp hành lời thánh Phaolô gởi tín hữu Roma trong bài đọc thứ hai hôm nay: "Nếu anh em yếu mến kẻ nào, anh em sẽ không bao giờ làm hại kẻ ấy". Và cuối cùng, ba Kitô hữu nầy cũng đã nghiêm chỉnh tuân theo lời Chúa Giêsu trong phúc âm hôm nay; "Nếu anh em ngươi phạm lỗi với ngươi, hãy đến gặp nó và chỉ cho nó biết lỗi lầm của nó. Tuy nhiên phải làm điều ấy một cách âm thầm giữa ngươi và nó thôi".
Như thế ba Kitô hữu nêu trên đã gây ấn tượng như thế nào cho những người nghe họ nói? Tôi xin được lập lại điều Jerome Weidman đã nói: "Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ biết một đứa trong số đó là chính tôi, thì tôi có thể nói rằng: Ðây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi".
Eđmun Burke có nói: "Chỉ cần những người tốt cứ giữ yên lặng, là điều xấu sẽ tăng triển ngay"
Trong những trường hợp trên, ba Kitô hữu nọ đã không giữ yên lặng. Họ mời gọi chúng ta noi gương họ.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi lòng tạc dạ những lời Chúa kêu gọi chúng con đi theo làm môn đệ Ngài:
"Các con là muối đất, nếu muối nhạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được. Nó chẳng còn ích gì chỉ đáng quẳng ra ngoài cho người ta chà đạp lên đó. Các con là ánh sáng thế gian, một thành xây trên núi không thể giấu được. Không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn để soi cho mọi người trong nhà. Cũng thế, ánh sáng các con phải toả chiếu trước mặt mọi người để họ trông thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha các con, là Ðấng ngự trên trời" (Mt 5, 13-16).
20.Giúp người khác nhận ra những sai lỗi của mình--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào nên việc nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới quả quyết rằng: "Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội."
Chúng ta hãy nhìn lại trường hợp cụ thể về vua Đavít được thuật lại trong Kinh Thánh (Sách Samuen).
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đavít tìm cách 'bán cái' cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch 'bán cái' không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam 11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: "Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt".
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: "Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm."
Tiên tri Natan thưa: "Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta".
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải. Tội của mình, mình chứa đựng trong cái gùi sau lưng nên không thấy được. Vì thế, giúp người khác nhận ra lỗi của họ là điều rất cần thiết và là một nghĩa vụ thiêng liêng.
Lời Chúa hôm nay thiết tha kêu mời chúng ta hãy ra công sửa lỗi cho anh em mình. Qua bài đọc I, Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Ê-dê-ki-en răn dạy chúng ta: "Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi" (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu truyền dạy: "Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó".
Hãy nên tấm gương soi cho người khác và để người khác làm tấm gương soi cho ta.
Tấm gương soi tuyệt đối cần thiết cho mọi người. Không có tấm gương soi, người ta không biết mặt mũi mình ra sao, có ghèn đầy mắt cũng không biết, có cơm dính cằm cũng chẳng hay, râu tóc rối bù như tổ quạ cũng chẳng biết gì. Tấm gương soi tuy tầm thường nhưng rất cần thiết giúp con người nhận ra những vết nhơ trên khuôn mặt mình. Thế nên dù nghèo hèn túng thiếu, nhà nào cũng cố sắm cho mình một tấm gương.
Tuy nhiên, tấm gương thuỷ tinh tráng thuỷ chỉ phản chiếu khuôn mặt mà không thể phản chiếu tâm hồn, chỉ cho thấy những vết nhơ trên trán mà không cho thấy vết bẩn trong tim, thấy những xấu xa trên khuôn mặt mà không thấy những sa đoạ trong tâm hồn hay trong cuộc sống. Vì thế, người ta cần thêm một tấm gương soi khác, đó là lời nhắc bảo của những người chung quanh. Thiếu những lời nhắc bảo nầy là thiếu mất tấm gương tối cần thiết để soi hồn.
Tiên tri Natan ngày xưa là tấm gương soi giúp vua Đavít thấy được những vết bẩn khủng khiếp trong tâm hồn. Thiếu tấm gương soi quý báu như Natan, vua Đavít không thể thấy được lầm lỗi của mình và sẽ không hề biết ăn năn sám hối.
Trở thành tấm gương soi cho người khác là một lệnh truyền rất quyết liệt của Thiên Chúa.
"Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi". (Edêkien 33, 7-9).
"Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó"... (Matthêu 18, 15)
Vì lòng bác ái với anh em và vì lời Chúa truyền dạy, chúng ta hãy là tấm gương soi giúp người khác thấy được tội lỗi và những sai lầm của họ; đồng thời vui lòng để cho người khác trở thành tấm gương soi cho mình để chúng ta có thể nhận ra lầm lỗi của ta.
21.Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sửa lỗi cho người khác là một việc rất khó làm.
Đôi khi với tinh thần xây dựng, ta chỉ cho người khác biết lầm lỗi của họ; thế rồi, thay vì được người khác biết ơn, bản thân ta lại bị họ oán hờn: Họ sẽ giận hờn ta, chửi mắng ta, xa lánh ta, ghét bỏ ta… Quả là “làm ơn mắc oán.”
Những lần sau, vì sợ hậu quả như thế xảy ra, ta tự nhủ lòng: “Thôi, ai lầm lỗi thì mặc người ta, hồn ai người đó giữ”; đôi khi ta cũng có chọn lựa như Ca-in khi trả lời với Thiên Chúa: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!”
Thế là vô tình, ta trở thành người dửng dưng, vô cảm, ngoảnh mặt làm ngơ trước những sai phạm của người khác.
Đây là cách hành xử tai hại, vì làm như thế sẽ tạo đà cho lầm lỗi và tội ác gia tăng. Thái độ nầy cũng đi ngược lại với lòng yêu thương bác ái và bổn phận xây dựng trần thế của người Ki-tô hữu.
Sửa lỗi cho người khác là một bổn phận không được thoái thác
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào nên việc nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”
Chính vì thế, giúp cho người lầm lỗi nhận biết được tội lỗi của bản thân để giúp họ sửa mình là một việc làm rất cần thiết.
Đối với các tín hữu của Chúa, thì đây không chỉ là việc cần làm mà còn là một bổn phận bắt buộc, không được thoái thác.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Ê-dê-kiên đòi buộc cách quyết liệt như sau: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi” (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy: “Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó …” không phải một lần mà nhiều lần, cách nầy không được thì phải vận dụng cách khác, cố sao giúp người anh em sửa được lỗi mới thôi. (Mát-thêu 18,15)
Cần sửa lỗi cách tế nhị và đầy lòng yêu thương
Hy vọng việc sửa lỗi sẽ không trở thành việc “làm ơn mắc oán” hay phát sinh nguy cơ “lời thật mất lòng”, nếu việc nầy được thực hiện với sự tế nhị và tấm lòng yêu thương.
Hôm nọ, khi thấy một thanh niên ngồi ngoài hành lang hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành bên trong nhà thờ, cha Phó tiến lại gần bên anh, thay vì quở trách, ngài mỉm cười, vỗ vai thân mật chàng thanh niên đó như một người bạn rất thân quen và đề nghị: “Nếu bạn hy sinh không hút thuốc giờ nầy thì bạn sẽ có một lễ tế cao đẹp dâng lên Thiên Chúa, chắc chắn Chúa sẽ rất hài lòng về bạn và sẽ ban cho bạn nhiều ơn phúc!”
Thế là chàng trai mỉm cười, giụi tắt điếu thuốc đang hút dở, rồi vui vẻ bước vào bên trong thánh đường.
Lạy Chúa Giêsu,
Vì muốn sửa chữa lỗi lầm cho nhân loại, Chúa phải trả giá rất cao: Chúa đã từ bỏ ngai trời, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm sống giữa các tội nhân, hoà mình với họ, yêu thương họ và chấp nhận hiến thân chịu chết thay cho họ.
Hôm nay, Chúa chưa đòi chúng con phải chết thay cho người lầm lỗi, mà chỉ mời gọi chúng con phải dùng việc làm, lời nói, cách cư xử… để giúp người khác khỏi đắm chìm trong tội mà thôi. Vậy mà chúng con chưa có đủ yêu thương và thiện chí để thực hiện sứ mạng cao đẹp nầy, trái lại còn viện đủ cách để thoái thác.
Xin ban cho chúng con thêm nghị lực và lòng yêu thương để chúng con mạnh dạn đến với bao người lầm lỗi hầu giúp họ cải thiện cuộc đời.
22.Cảm thương người lầm lỗi--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Một người mù đang dò đường, cố đi vội để tìm chỗ trú, vì trời nổi cơn giông tố và sắp đổ mưa; ông vô tình xông vào hàng rào kẽm gai, gai móc rách quần áo và da thịt. Những người qua đường thấy vậy bày tỏ những thái độ khác nhau:
- Hạng người thứ nhất là những người không biết ông bị mù nên trách móc: “Người gì đâu mà bất cẩn, dại dột… đường thẳng không đi, lại cứ hàng rào kẽm gai mà xông vào, chắc là đang say xỉn!”
Tương tự như thế, có nhiều người hễ thấy người khác lầm lỗi thì lên án, chửi rủa, trách móc… dù chẳng biết nguyên nhân, chẳng tìm hiểu ngọn nguồn.
- Hạng thứ hai là những người vô cảm vô tâm, khi thấy người người mù lâm nạn như thế, chỉ ngoái cổ lại nhìn rồi thinh lặng bỏ đi.
Tương tự như thế, khi thấy người khác sa vào tội lỗi, nhiều người chọn thái độ im lặng, dửng dưng, không quan tâm hay cho lời khuyên bảo.
- Hạng người thứ ba là những người tốt bụng, tỏ lòng thương xót, chạy đến hỏi han, khử trùng vết thương, rồi dìu ông tránh khỏi hàng rào kẽm gai.
Tương tự như thế, có những người nhân đức, khi thấy người sa vào tội lỗi, họ tìm cách khuyên lơn, dạy dỗ người có tội ăn năn sửa mình.
Còn chúng ta, chúng ta thuộc hạng người nào trong ba thành phần trên đây?
Một là chỉ trích, phê bình, lên án, trách móc người có tội, mặc dù chưa biết rõ đầu đuôi sự việc thế nào mà cũng “ngứa miệng” phán xét, phê bình người khác.
Hai là thinh lặng làm ngơ trước những sai lỗi của người khác. Ứng xử cách này xem ra khỏe khoắn, nhẹ nhàng hơn cả.
Ba là cảm thương, khuyên lơn, dạy bảo cho người lầm lỗi trở về đàng lành. Việc này khó nhọc, tốn công tốn sức, ít ai muốn làm.
Qua bài Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy chúng ta phải cảm thương, dạy bảo, sửa lỗi cho người khác, không phải chỉ một lần, mà nếu cần, thì phải kiên trì sửa dạy nhiều lần. Chúa nói: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội thánh” (Mt 18, 15-17).
Chúa truyền dạy như thế nhưng chúng ta thấy đây là việc khó làm, đòi hỏi nhiều hy sinh và nhẫn nại, nên đã bỏ qua. Cần có lòng cảm thương sâu xa mới làm được.
Cảm thương người tội lỗi vì họ mù quáng
Người sa vào tội lỗi cũng y như người mù vương vào hàng rào kẽm gai. Họ sa vào tội lỗi vì họ “không thấy đường.”
Nhà hiền triết Socrate cho rằng: “Không ai cố tình làm điều ác.” Đúng vậy. Sở dĩ người ta gây ra tội ác là vì không am hiểu, thiếu khôn ngoan, không đủ sáng suốt để nhận định điều đúng điều sai… Đó cũng là một thứ mù, thường được gọi là mù quáng. Mù quáng còn tai hại hơn mù mắt nhiều lần, vì thế, họ đáng thương hơn là đáng trách.
Trong cuộc thương khó, Chúa Giê-su chẳng những không lên án những người phỉ báng, xỉ nhục, hành hung Ngài cách dữ dằn thô bạo, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá cách dã man… mà còn thương xót họ. Ngài thương xót họ vì họ mù quáng, không biết việc mình làm. Thế là Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Ngay cả Charlie Chaplin (được gọi là vua hề Charlot) cũng nhận ra sự thật này. Ông nói: “Sở dĩ người ta gây ra tội ác là do sự mù quáng của mình. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giê-su đầy khôn ngoan, Ngài thừa biết người ta phạm tội vì mù quáng, nên Ngài thương xót những người có tội, ngay cả những kẻ đóng đinh Ngài; còn chúng ta, chúng ta có đủ khôn ngoan để thương xót họ và cảm hóa họ hay không?
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ban cho chúng con tấm lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc đối với tội nhân, nhờ đó chúng con có thể yêu mến họ chân thành và tìm cách cảm hóa họ như Chúa đã nêu gương. Amen.
23.Sữa lỗi cho nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên, những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.
Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm hồn.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa "mackeno". Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì "nuôi con chẳng dạy chẳng răn - Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn".
Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng "nhân vô thập toàn", là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
- Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
- Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
- Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói "xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng". Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
- Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.
Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp ý, sửa lỗi của anh em. Vì "kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta, còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta".
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.
24.Sửa lỗi cho nhau--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người luôn có lầm lỗi. Ai nên khôn mà không dại một lần. Và chắc chắn là không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Phạm lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Có điều là chẳng mấy ai trong chúng ta dám nhận mình có lỗi. Chẳng mấy ai dám thú nhận về những lầm lỗi của bản thân.
Đó là điều mà chúng ta cần phải được người khác sửa lỗi. Nếu không được người khác sửa sai thì mình sẽ không bao giờ đứng lên làm lại cuộc đời. Một đứa bé để có thể nói đúng, nói không sai chính tả cần được cha mẹ sửa giọng nhiều lần mới có thể nói không bị ngọng. Về nhân bản con người cũng phải được người khác dạy bảo, sửa lỗi thì mới hoàn thiện chính mình.
Như vậy, sửa lỗi là bổn phận của cha mẹ, của thầy cô, của bạn bè và nhận được sự chỉ dạy là của từng người chúng ta. Nếu chúng ta không sửa lỗi cho anh em là chúng ta đang có lỗi với chính mình vì chúng ta chưa sống tròn bổn phận của mình với tha nhân. Đôi khi còn bị người mà mình đã không dậy dỗ oán trách lại chúng ta.
Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích ăn trộm. Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ nó hỏi:
- Sao con lại có tới hai chiếc bảng?
Đứa con đáp:
- Một cái là của bạn cùng lớp với con. Con đã lén lấy cho vào cặp đấy.
Bà mẹ vui mừng nói:
- Con của mẹ thật thông minh. Hai cái bảng chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.
Ít lâu sau, đứa con lại mang về một cái áo da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó khen:
- Con trai của mẹ thật là giỏi, biết hiếu thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.
Đứa con trai ngày một lớn lên, càng ngày càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai ăn trộm ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi con, trong nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.
Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị người ta bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt tội chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi theo sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được nói với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn đau quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:
- Mày thật là đồ bất hiếu, tự mình phạm tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?
Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:
- Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng về, nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm nay và đã không bị xử tội chết.
Hóa ra không dạy dỗ người khác có khi dẫn đến “gậy ông đập lưng ông”. Dạy người khác sửa sai là giúp mình được sống bình an hạnh phúc. Không dạy người khác sửa sai là mình đang “nuôi ong trong tay áo”, hậu quả sẽ là mình bị ong chích đầu tiên. Thế nên, khi làm điều sai trái, dù là cái sai rất nhỏ, thì cũng phải kịp thời sửa chữa. Nếu không, cứ để nó lớn dần lên thành cái sai nghiêm trọng thì có thể khiến mình phải hối hận cả đời.
Hôm nay Chúa nhắc chúng ta phải sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi không phải chỉ trích. Chỉ trích là công kích nhau, là rêu rao lỗi lầm của nhau. Chỉ trích thường thiếu bác ái, thiếu tinh thần xây dựng cho nhau. Sửa lỗi đòi tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Sửa lỗi là một bổn phận, là bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân. Sửa lỗi trái ngược với bỏ mặc, và thiếu trách nhiệm với tha nhân. Trong tinh thần bác ái và yêu thương chúng ta phải có bổn phận sửa lỗi cho nhau. Cha mẹ sửa lỗi cho con cái. Vợ chồng sửa lỗi cho nhau. Thầy cô sửa lỗi cho học trò. Bạn bè sửa lỗi cho nhau. Tất cả phải có bổn phận giúp nhau thăng tiến. Không bỏ mặc nhau nhưng luôn dìu nhau tiến bước.
Sửa lỗi cho nhau không chỉ với tội lớn mà ngay cả tội nhỏ cũng cần được nhắc nhở, được giúp cải thiện. Bởi vì “nhỏ ăn trộm dây cột bò, lớn sẽ ăn trộm cả con bò”. Vì phạm tội sẽ thành thói quen. Phạm tội một lần thì sợ hãi, nhưng nhiều lần thì lương tâm đã chai lì, đánh mất sự sợ hãi lo âu.
Chúa Giê-su dạy ta cách sửa lỗi tiệm tiến với tình yêu thật tế nhị. Sửa lỗi cách kín đáo bằng lời chân tình góp ý thẳng ngay với nhau. Nếu thất bại cần thêm lời của nhân chứng để người được sửa lỗi càng nhận biết lỗi lầm của mình hơn. Nếu vẫn thất bại thì cần đến cộng đoàn để nhờ sức mạnh của cộng đoàn giúp kẻ có lỗi ăn năn sửa đổi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm sửa lại những lỗi lầm. Biết bỏ đi tính tự ái, cố chấp để lắng nghe lời góp ý chân thành của tha nhân. Xin đừng vì cố chấp mà trở thành kẻ ngang bướng làm hại đến cộng đoàn. Amen.
25.Làm đẹp cho nhau--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 27/8/2000, có đăng một câu chuyện với tựa đề: ‘Chiếc Thùng Bị Thủng’. Chuyện ấy như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ:
- Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng người xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường.
Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên bệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
***
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bịt hủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến họ không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó” (Mt 18,15). Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn . Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình ba bước: Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự tôn trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị có trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do chính Chúa thiết lập. Giáo hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân. Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là “cái tôi” đầy kiêu hãnh.
Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu thương họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp long tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ, nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (Mt 18,19).
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết cách sửa lỗi cho anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương họ. Nếu anh em có thiện chí sửa lỗi chúng con, xin cho chúng con có đủ khiêm tốn và thành khẩn để hóan cải chính mình.
Xin khuyến khích chúng con giải hoà với nhau để Giáo hội sớm hiệp nhất và để Chúa luôn hiện diện giữa chúng con. Amen.
26.Trách nhiệm về người anh em--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:
- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.
Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.
Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.
27.Vẽ chân dung--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.
Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.
Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.
Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.
Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).
Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.
28.Hào quang của tha thứ--Thiên Phúc
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
29.Có Thầy ở giữa họ--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu thiết lập Giáo hội Ngài và Giáo hội chính là gia đình của Chúa. Chúng ta là con cùng một Cha chung. Chúng ta không thể sống một mình. Có thể nói chúng ta là dòng giống tập thể. Chúng ta liên đới với nhau như các phần tử của một cơ thể duy nhất.
Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương nhau và cố gắng giúp nhau đạt tới hạnh phúc Chúa đã dành cho chúng ta. Đó là cách yêu thương cao đẹp nhất. Lo cho nhau về phần vật chất cũng là một điều tốt, nhưng lo cho hạnh phúc đời đời của anh em là một điều quí báu hơn.
Chúng ta liên đới với nhau trong cuộc sống hôm nay, chúng ta càng liên đới mật thiết hơn trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta chịu trách nhiệm lẫn nhau. Ngay từ thời tiên tri Êdêkien, Chúa đã cho thấy sự liên đới đó. Nếu người anh em lỗi phạm mà chúng ta không nhắc bảo để họ phải chết trong tội, chúng ta phải đền nợ máu của họ. Chúng ta không thể dửng dưng để cho người anh em chúng ta hư mất. Vậy thì, trong Chúa Giêsu, chúng ta càng phải cứu giúp những người anh em lỗi phạm vì chúng ta mắc nợ nhau vì tình tương thân tương ái, như thánh Phaolô đã nói. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương thì trách nhiệm của chúng ta đối với anh em thật nặng nề. Yêu thương nhau không phải chỉ lo cho phần xác mà phải lo phần hồn nhiều hơn.
Một trong những cách yêu thương linh hồn là sửa lỗi cho nhau. Chúa Giêsu dạy chúng ta cách thế phải làm để giúp anh em sửa lỗi. Phải đi từng giai đoạn, chứ không đường đột, vì đây là một vấn đề rất tế nhị và dễ gây phiền hà.
Giai đoạn thứ nhất là gặp riêng giữa một người với một người, trong thân tình và kín đáo.
Giai đoạn hai, nếu giai đoạn một không thành công: hãy mời thêm một vài nhân chứng, nhờ đó lời khích lệ sẽ có thể có hiệu quả hơn.
Nếu không thể thành công, giai đoạn ba là trình với Hội thánh. Và nếu tội nhân không nghe theo lời Hội thánh thì mới loại trừ, nghĩa là khi tội nhân đã hoàn toàn ngoan cố.
Chúng ta không nhẫn nại như Chúa. Chúng ta thường dễ loại trừ người tội lỗi, cho họ là hạng xấu xa. Đa số chúng ta giống như phái Pharisêu, xem những người tội lỗi như hạng người không còn cứu vãn. Và hình như trong các giáo xứ, tình trạng này gần như phổ biến. Một người bỏ đạo lâu năm, một hôm đã đi xưng tội và rước lễ đã nói rằng: “khi con vào nhà thờ, người ta nhìn con như quái vật và có tiếng xầm xì: “Hôm nay Satan đến nhà thờ, bây!” Đó chính là thái độ của Pharisêu. Dòng giống Pharisêu còn sống rất mạnh trong các cộng đoàn chúng ta. Một số cha sở, vì muốn cho giáo dân sống đạo tốt đã không hết lời quở trách thường xuyên làm cho một số giáo dân bất mãn.
Chúa Giêsu đã từng lên tiếng nặng lời với người Pharisêu, chỉ vì họ quá ngoan cố. Đang lúc Ngài rất nhẹ nhàng với những người tội lỗi, những dân thu thuế, những người sa ngã. Ngài không chê bỏ một ai vì Ngài đến là để cứu vớt những gì đã hư mất. Ngài cho thấy phải đối xử với người tội lỗi và yếu đuối như thế nào? Thánh Phaolô cũng cảnh báo những người lên án anh em: “Ngươi là ai mà dám đoán xét anh em?”
Vấn đề sửa lỗi cho nhau là một vấn đề tế nhị và rất khó. Ai cũng có tự ái, và những người lỗi phạm lại tự ái cao hơn. Họ không chấp nhận mình lỗi phạm. Khi cảnh báo cho người lỗi phạm thì chúng ta cũng không trọn lành. Khi chúng ta sửa lỗi cho người anh em, chúng ta dễ bị chất vấn: “Còn anh, anh tốt hơn ai mà anh lại làm sư dạy đời?” Ai trong chúng ta cũng lỗi phạm, nhưng những người tốt cũng có thể giúp người anh em lỗi phạm. Chúng ta phải làm mọi cách để cứu những người anh em yếu đuối, đó là đòi buộc của Chúa.
Chúng ta thường sống theo thói thế gian, xem người anh em như đối thủ. Chúng ta phải tôn trọng anh em, nhưng không vì thế mà chúng ta không dám yêu thương, giúp anh em mình nên tốt hơn. Nếu chúng ta may mắn là không lỗi phạm, thì đó là do ơn Chúa chứ không do công nghiệp gì của chúng ta. Chúng ta cũng không rỗi linh hồn một mình.
Nhiều người không biết Giáo hội là gì, không nghĩ rằng Giáo hội là một gia đình và mỗi phần tử đều liên đới với nhau trong sự lành cũng như sự dữ. Trong một giáo xứ, người tốt nhiều sẽ làm cho giáo xứ tốt lên, nếu nhiều người xấu sẽ làm cho giáo xứ càng bệ rạc và lộn xộn. Vì thế mọi người đều phải cố giúp nhau sống theo gương Chúa và yêu thương nhau càng ngày càng nhiều hơn.
Chúa Giêsu nhắc lại quyền tha bắt, nhưng lần này nói với các môn đệ chứng tỏ quyền tha tội là quyền dành cho Giáo hội chứ không chỉ riêng cho Phêrô. Chúa biết chúng ta yếu đuối, Ngài chỉ muốn tha thứ chứ không lên án: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Những người tốt có nhiệm vụ đưa những người anh em lỗi phạm đến với nguồn ơn tha thứ mà Chúa đã dọn sẵn để cứu vớt họ. Và mọi người chúng ta cũng luôn cần đến ơn tha thứ đó.
Và Chúa Giêsu lại cho chúng ta thấy tính cách cộng đồng của nếp sống Giáo hội, là khi cầu nguyện, chúng ta cần cầu nguyện với nhau: “Khi hai ba người họp nhau lại vì danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ”. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng nhưng lời cầu nguyện của chúng ta vẫn ở trong Giáo hội, trong Chúa Giêsu vì chính Thánh Thần vẫn cầu nguyện trong chúng ta và với chúng ta. Chúng ta nhớ rằng Giáo hội là một gia đình, vì thế nếu chúng ta cầu nguyện chung với nhau, lời cầu của chúng ta là lời cầu của Giáo hội. Những lúc gia đình cầu nguyện với nhau, Chúa Giêsu sẽ ở giữa gia đình chúng ta, và đó là một hạnh phúc lớn. Những giờ phút chúng ta hợp nhau dâng lễ, lời cầu nguyện của chúng ta càng được Chúa đón nhận biết bao! Nhưng chúng ta phải một lòng một ý mới thực sự là cộng đoàn. Lời cầu của chúng ta chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta thực sự yêu thương nhau, tha thứ cho nhau, nên một với nhau như Chúa Giêsu đã mong ước. Nếu chúng ta ca tụng Chúa, và sau đó lại cắn xé nhau, thì đó chỉ là một hình thức bên ngoài không đem lại kết quả nào. Thánh Phaolô luôn cảnh báo các giáo đoàn phải hiệp nhất trong lời cầu nguyện.
Chúa Giêsu hiệp nhất chúng ta trong Ngài bằng chính tình yêu của Ngài. Tình yêu đó thể hiện qua tấm bánh thần linh Ngài trao ban cho chúng ta. Chúng ta cùng ăn một tấm bánh, chúng ta được liên kết với Chúa Giêsu. Sự liên kết này sâu xa hơn bất cứ một sự liên kết nào. Ngài là một xương một thịt với chúng ta và nối kết chúng ta trong Ngài. Chúng ta nên một trong Ngài. Trong thực tế, chúng ta có thực hiện không? Chúng ta không giống như người thế gian, chúng ta được nên một trong Chúa Kitô, với bất cứ giá nào, chúng ta phải vượt qua mọi trở ngại để thực hiện cho bằng được ước mong của Chúa và như thế Chúa mới có thể nhậm lời chúng ta, mới ở giữa chúng ta. Tại sao chúng ta không truyền giáo được? Chỉ vì chúng ta là một đống gạch vụn chứ không là thân thể Chúa Kitô. Ngày nào chúng ta nên một, Tin Mừng mới có thể lan rộng ra trong thế giới.
30.Có Thầy ở giữa họ--Lm. Trầm Phúc
Thường chúng ta hay có thái độ kỳ thị với những người mà chúng ta xem như tội lỗi. Chúng ta dễ lên án và loại họ ra khỏi vòng thân mật của chúng ta, xem họ như thành phần không tốt hay nguy hại, phải tránh xa.
Chúa Giê-su không như thế. Đối với Ngài, người anh em tội lỗi là người anh em cần được nâng đỡ, cứu vớt. Chính Ngài đã nói: “Ta đến để cứu vớt những gì đã hư mất.”
Ngài quí mến mọi người, yêu thương mọi người và hình như Ngài lại thương những người tội lỗi nhiều hơn. Ngài lo lắng cho họ, dám bỏ chín mươi chín con chiên ngoan để đi tìm một con chiên lạc.
Chúng ta cũng phải như Ngài thôi, không thể làm khác được vì chúng ta phải theo cách sống của Ngài. Chúng ta không có quyền loại bỏ người anh em sai phạm, nhưng phải chinh phục họ, giúp họ trở về với cộng đoàn, nới rộng tình thương của Cha trên trời, Đấng yêu thương mọi người và muốn cho mọi người được cứu rỗi.
Sửa dạy nhau, giúp nhau sống cho đẹp ý Chúa, đó mới thực sự là yêu thương. Yêu thương không bao giờ kỳ thị. Yêu thương nhau không phải là làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em. Yêu thương nhau cũng không phải là sợ mích lòng, không dám nhắc nhở anh em. Yêu thương nhau không phải là nhắm mắt để cho anh em sa vào vực thẳm, rồi yên thân lo phần rỗi cho mình.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Ki-tô, chúng ta phải cảm thấy mình có trách nhiệm đối với mọi người anh em, lo cho anh em mình được hạnh phúc. Đó là một trách nhiệm mà chúng ta không thể thoái thác. Chúng ta không thể có thái độ như Ca-in xưa: “Tôi có giữ em tôi đâu!” Trong Giáo Hội, chúng ta không có quyền lo phần rỗi linh hồn một mình. Nhưng trên phương diện sửa dạy nhau như Chúa đã dạy chúng ta, chúng ta nên ghi nhớ lời Chúa căn dặn: “Hãy cất cái đà trong con mắt mình trước đã, rồi mới thấy rõ mà cất cái rác trong con mắt anh em.”
Như thế chúng ta cần canh tân con người chúng ta trước, sau đó chúng ta mới có khả năng giúp anh em; nhờ đó, chúng ta mới tạo được một cộng đoàn tình thương. Lúc đó Chúa mới “ở giữa chúng ta”, và lời cầu xin của chúng ta mới có hiệu lực. Nhưng sửa lỗi cho anh em là một vần đề gai góc và thật tế nhị, vì ai cũng có tự ái. Chạm tự ái là một điều đáng sợ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta, phải chậm rãi và kiên nhẫn, đi từng giai đoạn: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi với nó thôi.” Kín đáo và tế nhị, đó là con đường Chúa dạy “để được lợi một người anh em”.
Nhưng nếu người anh em không nghe, chúng ta cần có người anh em khác. Nhưng nếu họ không nghe, lúc ấy mới trình cho cộng đoàn. Và nếu không thể làm gì khác, thì mới dùng biện pháp cuối cùng là “xem họ như người ngoại giáo”, tức là không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những biện pháp trên là những phương thế giúp cho cộng đoàn luôn được đoàn kết và liên đới với nhau. Chúng ta là “dân thánh”. Chúa nói: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19,2). Là gia đình của Thiên Chúa, Chúa không thể chấp nhận tội lỗi; vì thế, nếu trong cộng đoàn có ai phạm tội, hãy sửa dạy họ để mọi người được trở nên tinh sạch hầu xứng đáng với tình yêu Chúa.
Trong phụng vụ thánh lễ, chúng ta tung hô Chúa ba lần thánh. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã ra nhiều Luật về trong sạch, phải tẩy xóa mọi nhơ uế để được Thiên Chúa xót thương.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, nhưng Ngài là Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng xót thương, “Ngài chậm giận lại giàu tình thương”. Ngài không muốn kẻ dữ phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống. (Tiên tri Ê-dê-ki-en).
Trong cộng đoàn chúng ta không mấy ai thánh thiện, chúng ta cần cố gắng hết mình để nên thánh, và giúp anh em chúng ta đạt đến sự thánh thiện. Không ai rỗi linh hồn một mình, cũng không ai đến với Chúa một mình. Chúng ta liên đới với nhau trong cùng một đức tin, trong cùng một thân thể là Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Chúng ta đã được liên kết với nhau chặt chẽ mà có khi chúng ta ý thức. Chúng ta cùng ăn một Tấm Bánh, là Thịt Máu Chúa. Chúng ta phải là một trong Ngài. Vì thế, “ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện, thì Cha Thầy sẽ ban cho chúng con”.
Để giúp chúng ta được xứng đáng đến với Ngài, Chúa Giê-su trao cho Giáo Hội một quyền năng đặc biệt là quyền tha tội: “Những gì chúng con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì chúng con tháo cởi dưới đất, trên trời cũng tháo cởi cho.” Đây chính là nguồn ơn tha thứ mà Chúa ban cho Giáo Hội, không phải chỉ để cầm buộc mà còn để tha thứ.
Mọi người chúng ta đều cần được tha thứ, được tinh luyện để trở thành dân thánh của Chúa trong trần gian, để chúng ta loan truyền ơn cứu độ cho mọi tạo vật.
Chúng ta là cộng đoàn tình yêu.Chúng ta là thân thể của Chúa Ki-tô, vì thế, một phần tử bị tổn thương thì cả cộng đoàn cũng bị tổn thương. Nếu chúng ta giúp cho nhau nên hoàn hảo thì Chúa “sẽ ở giữa chúng ta”. Như thế, chúng ta thực hiện ước mong của chính Chúa Giê-su: “Xin cho chúng nên một như Chúng Ta (là một).”
31.Giáo Hội Chúa Kitô: Một cộng đoàn cứu độ--Lm Antôn Hà Văn Minh
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho...
***
SUY NIỆM
Nhac sĩ Thông Vi Vu (tức Đức cha Giuse Vũ Duy Thống) đã dệt lên tâm tình về sự cần thiết của đời sống cộng đoàn:
Con chỉ là giọt nước , giữa lòng biển cả mênh mông.
Một mình sao có thể , tưới mát cho ruộng đồng.
Con chỉ là dấu trắng , nhẹ dìu câu hát ngân nga.
Một mình con không thể , dệt lên bài tình ca.
Con chỉ là hạt nắng , phiêu bạt miền trời xa xôi.
Một mình sao có thể , chiếu sáng muôn lẻo đời.
Con chỉ là cánh én , nhìn trời cao vút thênh thang.
Một mình con không thể , làm nên cả mùa xuân.
Vâng, một mình con không thể, Chúa biết điều đó, bởi con người bất toàn, khả năng giới hạn, thế mà Chúa lại mời gọi con người: hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa. Công việc quá trọng đại, đúng là một mình con không thể, cho nên Chúa đã thiết lập Hội Thánh, một cộng đoàn duy nhất trong đức tin, và chỉ có Hội Thánh này mới có thể chu tất sứ mạng được giao phó, mới có thể tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa trên trần gian cho tới ngày Chúa quang lâm.
Tập thể tính thuộc về bản chất của Giáo hội, bởi nền tảng của Giáo Hội là tập thể các tông đồ, đức tin mà Giáo hội tuyên xưng và loan truyền là đức tin tông truyền từ tập thể các tông đồ trong sự duy nhất. Chính nơi Giáo Hội Chúa đặt để kho tàng ơn cứu rỗi như Công Đồng Vaticanô II đã minh định: Chúa Kitô đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, nhờ đó Người thông truyền chân lý và ân sủng cho mọi người.” (Hiến chế về Giáo Hội số 8), vì thế, ơn cứu độ được tuôn trào từ Giáo Hội, cho nên Giáo Hội như là nơi chốn để con người kín múc được sự sống đích thật, “mặc dù nhiều nhân tố của ơn thánh hoá và chân lý có thể tìm thấy bên ngoài Giáo Hội tại thế, nhưng những nhân tố ấy, như là ân huệ dành riêng cho Giáo Hội Đức Kitô, đang thúc bách tiến tới sự hợp nhất công giáo” (Hiến chế về Giáo Hội số 8).
Do đó, đừng có ai tưởng rằng, mình sẽ có thể được cứu độ khi tự tách ra khỏi đời sống Giáo Hội như khách bàng quang, bởi Chúa đã khẳng định: ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." Điều đó cho chúng ta thấy, cộng đoàn đóng vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Các buổi qui tụ lại để cử hành phụng vụ, hoặc để thực hiện việc tôn thờ Thiên Chúa là điều cốt yếu của đời sống đức tin. Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh: “Các nghi lễ theo bản chất phải được cử hành chung với sự tham dự đông đảo và tích cực của giáo dân, vì thế nên nhớ rằng, mỗi khi có thể, phải dành ưu tiên cho việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành một mình hoặc gần như riêng tư” (Hiến chế về Phụng vụ số 27).
Nhiều người vì thờ ơ, lãnh đạm với đời sống đức tin, nên thường biện minh là “đạo tại tâm” để trốn tránh việc cùng cử hành phụng vụ hoặc cử hành các việc đạo đức chung với người khác. Nên nhớ không có đạo tại tâm, bởi đạo là đường dẫn đưa con người đến gặp gỡ một Đấng làm cho con người đạt tới sự toàn thiện. Quan niệm “đạo tại tâm” chỉ là sự lừa bịp lương tâm, bởi “tự tâm’’ chúng ta không thể, và không có khả năng kiến tạo sự toàn thiện để có thể đạt tới hạnh phúc đích thật, vì tự thân chúng ta là kẻ bất toàn, yếu đuối và hay chết. Đức Kitô đến mạc khải con đường dẫn đến sự sống đời đời, con đường của sự gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ tha nhân, chính sự gặp gỡ này làm cho chúng ta khám phá ra giá trị của cuộc sống và hiểu được sự cần thiết của mối dây tương thân tương ái, và chúng ta cũng nhận ra rằng trên con đường dẫn tới sự gỡ không có một ai đơn độc một mình bước đí, nhưng luôn bao gồm nhiều người. Bởi thế, đạo dẫn tới sự sống được gọi là đạo của niềm vui, của sự hoan lạc, niềm vui được dệt lên bởi sự hiện diện của cộng đoàn, một mình đơn lẻ không thể làm nên niềm vui. Sự kết nối các tâm hồn cùng nhau hướng tới sự thiện hảo là điều kiện để Chúa hiện diện. Và chỉ có sự hiện diện của Chúa chúng ta mới có thể hiểu được đạo là gì, và tại sao chúng ta cần phải thuộc về Giáo Hội.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đã qui tụ chúng con vào trong Giáo Hội và làm cho chúng con trở thành một cộng đoàn đức tin và đức ái, xin cho chúng con khám phá vẻ đẹp của đời sống cộng đoàn, để chúng con không thờ ơ với các công việc chung của đới sống Giáo Hội. Xin cho chúng con ý thức được rằng để được cứu độ chúng con cần phải nhờ đến cộng đoàn , và phải gắn bó với cộng đoàn mà chúng con thuộc về, tức giáo xứ nơi chúng con sinh sống. Amen.
32.Trách nhiệm--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào. Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.
Ông Adong và bà Evà có hai con trai đầu, Cain và Abel. Vào một ngày kia, Thiên Chúa đã hỏi Cain: Abel, em ngươi đâu rồi? Cain thưa: Con không biết, con là người giữ em con sao? (Stk 4, 9). Vì ghen tương, Cain đã giết em mình, nhưng Cain đã chối từ trách nhiệm. Thiên Chúa thấu tỏ mọi sự trong lòng. Cain và Abel là anh em ruột, đương nhiên anh em là có trách nhiệm nâng đỡ bao bọc lấy nhau. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội, phải có người chịu trách nhiệm. Người ta thường nói rằng: Tội qui vu trưởng. Thường là người đứng đầu một tổ chức sẽ chịu trách nhiệm trước. Chúng ta không thể đổ thừa quanh. Nhân loại là một loài thụ tạo cao quý có trí khôn, ý chí và tự do. Trách nhiệm của con người liên đới được mở rộng qua các tổ chức xã hội để giúp nhau thăng tiến.
Khi dân số tăng trưởng, con người đã tổ chức cơ cấu đời sống gia đình và xã hội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất để xây dựng một cộng đoàn xã hội. Chúng ta biết mỗi một cá nhân đều có căn tính riêng biệt. Trong gia đình xã hội có nhiều thành viên khác nhau hợp lại, bao gồm có người khôn kẻ dại, người tốt kẻ xấu, người rộng kẻ hẹp và người mạnh kẻ yếu. Mọi người cần tựa dựa vào nhau để sinh sống. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm liên đới để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiên tri Ezekiel đã rao giảng về sự giúp nhau sửa đổi: Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi (Ez 33, 9). Chúng ta không thể nhắm mắt, bịt tai và làm ngơ trước những sự dữ hay sự xấu nơi những người anh chị em. Chúng ta có bổn phận nâng đỡ nhau nhận ra những sự sai trái và giúp nhau sửa đổi, đây là một món nợ của tình người.
Vì mang bản tính yếu đuối, hằng ngày mỗi người chúng ta đều phạm lỗi, kẻ ít người nhiều. Có những lỗi nhẹ, dễ dàng xí xóa bỏ qua. Nhưng đôi khi có những thói hư tật xấu đã trở thành thói quen thì cần được chỉ giáo và khuyên răn. Chúng ta biết sự xấu được ngụy trang dưới nhiều cách thế, chúng ta khó có thể lật tẩy để nhận diện ngay. Đôi khi những tật xấu núp dưới bóng của những cử chỉ và lời nói ngon ngọt, êm dịu và nhẹ nhàng. Có những phát biểu tưởng là góp ý tốt lành, nhưng ẩn ý là phê bình, chỉ trích, gièm pha, ăn không nói có… Tất cả cái xấu cũng do cái lưỡi không xương lắt léo nhiều đường. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi rất nguy hiểm. Lời nói có thể xây dựng đoàn kết và cũng có thể gây hệ qủa xấu như chia rẽ, thù oán và hại người hại ta. Nếu không xét mình một cách thành thật, chúng ta rất khó nhận ra những lỗi lầm này.
Là anh chị em sinh hoạt chung trong một nhóm, hội đoàn hay cộng đoàn, chúng ta có trách nhiệm nhắc bảo và giúp đỡ nhau sửa sai. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sống tình tương thân tương ái giúp nhau nhận lỗi và sửa lỗi: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em (Mt 18, 15). Biết rằng sửa lỗi anh chị em không phải dễ, vì chúng ta ai cũng phạm lỗi. Chúng ta biết người phạm lỗi là những người yếu đuối. Ít có ai muốn nghe những điều tiêu cực về chính mình. Vì chúng ta dễ tự ái, nên rất khó chấp nhận sự sửa sai của người khác. Thường thì việc người thì sáng, việc nhà thì đui. Chúa Giêsu mách nước cho chúng ta về sự sửa lỗi, trước hết hãy sửa dạy cách kín đáo và riêng tư. Chúng ta phải hết sức tế nhị gợi ý để người khác nhận ra lỗi của họ. Khi nói đến vết thương lòng thì rất dễ nhạy cảm. Những phản ứng tự nhiên của kẻ mắc lỗi thường thì gay gắt khó chịu. Nhưng với lòng từ bi và sự kiên nhẫn, chúng ta có thể thuyết phục người anh chị em chịu nhận sai lầm và trách nhiệm của việc sai trái.
Vì con người có ý chí tự do, nên mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm trong cả tư tưởng, lời nói, chữ viết và hành động. Nơi cuộc sống chung, có những trách nhiệm cụ thể cá nhân và có những trách nhiệm liên đới tập thể. Trong đời sống gia đình, người cha, người mẹ và con cái có những bổn phận và trách nhiệm riêng biệt. Nơi cuộc sống xã hội, mỗi tổ chức đều có người chịu trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Mỗi thành viên đều có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Có phước cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Người dám nhận lãnh trách nhiệm là người trưởng thành. Làm sai thì nhận lỗi sai. Công việc thành công hay thất bại là lẽ thường của đời sống. Khi chối tội, chạy tội, dấu tội hay đổ thừa lỗi lầm cho người khác là thiếu trách nhiệm. Sai thì sửa. Có lỗi thì xin lỗi. Làm tội thì chịu tội. Đối diện với sự xấu, sự dữ và sự thất bại, đôi khi chúng ta cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ và chối từ, nhưng chỉ có sự thật sẽ giúp chúng ta tìm lại được sự bình an đích thực.
Chúng ta đang trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày hồng ân. Chúng ta không biết chắc chắn về tương lai. Mọi sự cố đều có thể xảy ra. Anh chị em đừng để mắc nợ nhau sự gì. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã khuyên: Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai, ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật (Rm 13, 8). Sống giây phút hiện tại cho tròn đủ. Đức ái là yêu thương, tha thứ, nhường nhịn và quảng đại. Chúa Giêsu tóm kết các giới răn vào hai điều: Mến Chúa và yêu người. Yêu thương nhau là tôn trọng nhau. Yêu thì không gây sầu, oán giận, gây thiệt hại hay thù ghét làm khổ người khác. Yêu thương nhau là muốn điều tốt cho nhau và cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn thiện: Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật (Rm 13, 10).
Nếu không có ơn Chúa phù trợ, chúng con không thể làm gì được. Cầu nguyện là hơi thở trong đời sống đạo. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng đẹp ý Chúa hơn, nếu nơi nào có hai ba người đồng lòng hợp ý cầu nguyện, thì ơn Chúa sẽ tuôn đổ dồi dào hơn: Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt 18, 19). Hai người cùng cầu nguyện nói lên sự hỗ tương, yêu thương, hòa thuận và chung lòng chung ý. Một hình ảnh rất thuyết phục, các dòng tu thường sai từng hai tu sĩ ra đi rao giảng và phục vụ, giống khi xưa, Chúa đã sai từng hai môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu, mang danh của Chúa Kitô, xin cho chúng con biết yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trên con đường trọn lành.
33.Nghĩa vụ yêu thương--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
“Yêu thương không làm hại đồng loại” (Rm 13,10)
Yêu thương tha nhân nghĩa là gì? Thánh Phaolô cắt nghĩa: “Yêu thương là không làm hại đồng loại” và “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Làm thế nào để cả 2 khía cạnh này tương tác với nhau, hình thành một phương cách thực hiện đức ái Kitô giáo cách cụ thể. Một bên xem ra có vẻ tiêu cực: không làm điều ác, và một bên lại rất tích cực: chu toàn lề luật. Khi nào và thế nào, chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta đang thực hiện những giáo huấn đó?
Không làm điều ác là một đòi hỏi xem ra có vẻ tiên quyết. Nó mời gọi chúng ta suy xét về thái độ sống của chúng ta mang âm hưởng đến cận nhận làm sao? Nó cũng tra vấn xem chúng ta đã hiện lộ lòng mến trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó như thế nào. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện một trong những cách thái để diễn bày tình yêu đối với tha nhân là kêu mời họ quay trở về, khi họ lỗi phạm, hầu giúp họ thoát khỏi con đường tội lỗi. Có lẽ không có con đường nào gian nan cho bằng việc sửa lỗi cho cận nhân. Cận nhân đó có thể là một người bạn, một người thân trong gia đình. Cho dù chúng ta thực hiện việc này với lòng thương cảm đích thực, thì đó vẫn là hành vi thực hiện đức mến cao cả nhất.
Khi bạn bè hoặc gia đình báo cho ta biết có ai lỗi phạm điều gì đó, thường chúng ta tức giận ngay lập tức và chẳng quan tâm đến, ít nhất là lúc ban đầu, để lắng nghe xem họ phạm lỗi như thế nào. Nhưng Đức Giêsu khuyến mời chúng ta phải thực hành, bởi vì sửa lỗi cho nhau là hành vi thể hiện tình yêu thương. “ Nếu một người nào đó trong Hội Thánh phạm tội chống lại anh”, Ngài nói “ Anh hãy đi và chỉ cho người đó biết lầm lỗi của họ, khi chỉ có anh và người đó mà thôi”. Tuy nhiên Đức Giêsu cũng tiên liệu nguy cơ là người đó không chấp nhận. “Nếu người đó không nghe anh, hãy mời thêm một hoặc hai người khác cùng đi với anh để anh có thêm nhân chứng hỗ trợ”. Cách thái này cũng rất khó khăn vì nó sẽ chạm vào tự ái và khơi dậy nỗi đau do chính tội lỗi họ đã gây ra.
Phương cách này quả rất gian nan vì nhiều lý do khác nhau. Có khá nhiều trường hợp một người bị anh chị em của mình kết án chỉ dựa trên tiếng đồn hay dư luận, và điều này dễ làm gãy đổ mối tương liên, làm rạn nứt sự thông hiệp trong Giáo hội. Phần đa chúng ta không biết đầy đủ và chính xác về cuộc sống của người anh em chúng ta. Yêu thương tha nhân một cách trọn vẹn để có thể sửa chữa lỗi lầm cho nhau, đòi hỏi chúng ta phải sống với nhau thân tình một cách thật sự. Khởi đầu của lòng mến là không làm điều gì đó hại đến anh em mình. Vì thế, chính chúng ta phải tìm hiểu kỹ càng về tha nhân và phải dành nhiều thời gian để xây dựng mối tương giao huynh đệ cách sâu xa.
Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu biết về người anh em khi chúng ta đối xử với họ trong mối tương giao thân hữu thực sự. Điều này đặt căn bản trên tình yêu, theo sự chỉ dạy qua giáo huấn của Hội Thánh và các giới răn. Thánh Phaolô nói rằng “Đây là điều chúng ta mắc nợ nhau”, mắc nợ lòng yêu thương. Quả thật, Thánh Phaolô đã xác quyết, ai yêu mến anh em mình người đó chu toàn lề luật. Ngài có ý nói rằng, tất cả lề luật “ chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian…” và những giới răn khác, được tóm kết trong một điều duy nhất “Hãy yêu thương cận nhân như chính mình”.
Nhưng ý niệm “tóm kết” ở đây được dịch bởi hạn từ “plêrioô” cũng có thể dịch là “chu toàn”. Theo Thánh Phaolô, chu toàn lề luật không có nghĩa là tổng tóm các lề luật lại. Ngài còn diễn tả sâu xa hơn, là tất cả những ai “chu toàn lề luật”, họ liên kết với Đức Kitô xuyên qua đời sống của họ, được biểu thị bằng đức tin, được diễn tả trong đức ái, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Lề luật không phải được giản lược trong một phạm trù duy nhất, như từ ngữ “tóm gọn” diễn tả, nhưng việc chu toàn lề luật chính là biết dàn trải tình yêu đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, để lòng mến đối với tha nhân điều hướng cuộc sống chúng ta, ngay cả tại những nơi mà lề luật không nói tới một cách cụ thể.
Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, điều mà Thánh Phaolô nói ở đây và cả trong thơ Gal 5,14, khi đề cập tới việc tóm gọn lề luật mà sách Lêvi 14,18 nói tới, chính là “hãy yêu đồng loại như chính mình”. Song Ngài cũng gợi nhắc đến câu nói của Chúa Giêsu ở một chỗ khác “với hạn từ Shenma”. Sách Đệ nhị luật 6,4-5 có viết: Đức Chúa, Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ hết sức anh em. “Shenma” nói lên niềm tin của người Do Thái, quy tập vào tình yêu của một đấng, là chính Thiên Chúa.
Tại sao? Thánh Phaolô đã trải nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn có môt mục đích sâu xa hơn. Trong khi chúng ta dễ dàng nói “yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực ngươi” ( Đệ Nhị Luật 6,5), chúng ta rất dễ lẫn lộn và bối rối khi muốn thực hiện lòng mến đối với tha nhân cũng theo dạng thức này. Thánh Phaolô hiểu điều đó, nên Ngài đã xác quyết cách thế để chu toàn lề luật là đừng làm hại người khác. Đó cũng là phương cách để chúng ta diễn bày tình yêu cụ thể của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta có thể sờ chạm đến được.
34.Có tha thứ được không?--Đaminh Lê Văn Luận, SJ.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “nhất tội nhì nợ”. Có tội và mắc nợ là nỗi thống khổ lớn lao của con người. Tuy vậy, kỳ diệu và may mắn thay, con người có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ giải phóng con người khỏi gánh nặng của lầm lỗi. Tha thứ là chuyện khó khăn, nhưng đó không phải là điều bất khả đối với những người tin theo Chúa Giêsu.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên A[1], ông Phêrô đã đặt câu hỏi với thầy Giêsu: “Lạy thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Một câu hỏi rất thật tình, đầy lòng thiện chí và cũng ẩn chứa căng thẳng khôn nguôi giữa việc sống cho mình và sống cho người. Theo luật Môsê, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần.[2] Ba lần đã là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên tới bảy lần, ông có thể nghĩ mình đã là một người hết mực nhân từ. Việc đặt ra một giới hạn để bảo vệ phẩm giá chính mình thật là chính đáng. Tuy vậy, khi đi theo Chúa Giêsu, có điều gì đó thẳm sâu trong lòng thôi thúc ông phải đặt lại giới hạn của tha thứ. Chúa Giêsu là người kiện toàn lề luật, Phêrô muốn hiểu sâu hơn về luật tha thứ, và cũng muốn tha thứ như Thầy của mình.
Chắc hẳn tha thứ không phải là điều dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Được trao ban cho trách nhiệm gìn giữ và phát triển phẩm giá của bản thân, người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương, tủi hờn, giận giữ. Những cảm xúc phòng vệ này nổi lên cách tự nhiên nơi mỗi con người. Tuy vậy, cảm xúc ấy vẫn cần được nhận biết và gìn giữ để bản thân không bị kiểm soát và thúc đẩy đến mức cực đoan của những hành động trả thù, hoặc quay trở lại làm hại đến chính mình. Chúa Giêsu hiểu đau khổ của Phêrô khi bị người khác xúc phạm. Chúa không quở trách vì những cảm xúc khó chịu nơi ông, Chúa hướng ông đến sự tha thứ.
Sống với tha nhân, việc xúc phạm đến nhau là điều không thể tránh khỏi. Vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Xét trong sự liên đới với nhau trong một gia đình nhân loại, tội một người ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Thánh Phaolô đã ví mỗi cá nhân như một bộ phận của thân thể cộng đoàn. “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau, nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cùng vui chung” (1 Cr 12,24-26). Đối với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng – tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn và có sẵn mà ta có thể gây tổn thương cho họ bất cứ lúc nào.
Người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Nếu không tha thứ, những xúc phạm ấy có thể đưa đến những rạn nứt đỗ vỡ không bao giờ có thể hàn gắn được. Đã có bao cuộc chia lìa xảy ra trong mối tương quan giữa những người đã từng rất thân thiết: vợ với chồng, cha mẹ với con cái, anh chị em trong gia đình, những người bạn tâm giao… Khi thiếu vắng sự tha thứ và được thứ tha, nhiều đau thương tàn khốc tích luỹ dần từ những xúc phạm nhỏ nhặt hằng ngày. Câu hỏi mà Phêrô đưa ra trong đoạn Tin Mừng nói trên chắc hẳn cũng là nỗi ray rứt và bối rối của những ai sống phận làm người giữa cuộc nhân sinh. Tha thứ không dễ, mà không tha lại chẳng đành. Tha mấy lần cho đủ!
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của Phêrô bằng một câu trả lời vượt ra khỏi ý của người hỏi. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, Chúa dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót. Bảy lần so với bảy mươi lần bảy cũng nhỏ nhoi như một trăm đồng bạc so với mười ngàn nén bạc. Tiền công nhật của một người Do Thái thời Chúa Giêsu chỉ được một đồng bạc. Người ấy phải làm việc hai mươi năm mới kiếm được một nén bạc. Món nợ mười ngàn nén bạc là món nợ vô hạn không bao giờ có thể trả được.[3] Ấy vậy, khi đã được chủ tha cho món nợ khổng lồ, tên đầy tớ lại không thể tha món nợ nhỏ cho người bạn của mình. Giá như anh nhớ đến món nợ cuộc đời của mình, giá như anh biết ơn vì những gì đã nhận được, chắc anh sẽ chẳng hành xử như vậy đối với bạn bè mình. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao.
Điều cốt yếu trong tha thứ là khai thông những vướng mắc, hàn gắn những rạn nứt, xây dựng chiếc cầu nối tương quan giữa người với người. Nếu ai chỉ nghĩ đến mình, nếu ai loại người khác ra khỏi cuộc đời mình, chắc người đó không thấy mình cần phải tha thứ. Như vậy, tha thứ còn là điều cần thiết cho chính người bị xúc phạm. Người biết tha thứ tự giải phóng mình khỏi nhà tù vững chắc của một con tim khép kín trong cay đắng sầu hận. Tha thứ phá vỡ những bức tường ngăn cách, nối những nhịp cầu để toàn nhân loại giang rộng vòng tay yêu thương, cùng nhau ôm lấy và phủ lấp những giới hạn yếu đuối phận người. Vòng tay lớn rộng ấy chắc chắn có tâm điểm là một Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng đã tự huỷ chính mình để mang ơn tha thứ xuống cho thế trần.
Lạy Cha chúng con ở trên Trời… xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Amen.
-----------------------------
[1] Mt 18,21-35. Tin Mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên A, ngày 13.09.2020.
[2] John F Walvoord, Roy B Zuck, The Bible knowledge commentary: an exposition of the scriptures, vol III (USA: Victor Books, 1985), 62.
[3] John F Walvoord, Roy B Zuck, The Bible knowledge commentary: an exposition of the scriptures, vol III (USA: Victor Books, 1985), 63.
35.Tế nhị sửa lỗi người anh em--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta, khi sửa lỗi người anh chị em, chúng ta phải theo tiến trình ba bước...
***
Trong quyển sách nói về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện như sau:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ sự bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói: hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án aây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui ngay vào một cái thùng gỗ.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay sự tình. Ung dung, ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi ra hiệu cho dân làng vào và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm ra người phụ nữ, Đức Giám Mục mới nói:
- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này.
Sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta, khi sửa lỗi người anh chị em, chúng ta phải theo tiến trình ba bước.
- Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để tạo niềm tin nơi họ.
- Nếu người anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình, đó là bước hai.
- Nếu họ cũng không nghe thì mới đưa ra cộng đoàn, đó là bước thứ ba.
Qua câu chuyện vị ẩn sĩ trên, dân làng và ngay cả chúng ta, có khuynh hướng dùng chính Lời Chúa hôm nay để sát phạt vị ẩn sĩ sai phạm, bằng cách lướt nhẹ bước một và bước hai để đi ngay vào bước thứ ba. Dân làng cũng như chúng ta hôm nay muốn đề nghị vị Giám Mục với quyền bính của ngài, đưa vị ẩn tu ra xét xử trước mặt cộng đoàn đang hiện diện. Nhưng chúng ta tự hỏi liệu cách này có mang đến kết quả không? Có thể có mà cũng có thể không, nhưng một điều chắc chắn là cách của Đức Giám Mục Amolas đã thắng ngay ở bước một.
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có quyền. Trái lại, ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, ngài đã không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu nhưng chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Qua cách cư xử của Đức Giám Mục Amolas, chúng ta thấy:
Muốn thành công trong việc sửa lỗi người khác, dù ở bước một, bước hai hay bước ba, chúng ta phải có những tâm tình như sau:
Trước hết, phải có một tâm tình yêu thương, đừng lên án, chỉ trích, nhưng luôn tế nhị dịu dàng.
Thứ đến, phải có lòng kính trọng chân tình, luôn giữ thể diện cho ngưới lầm lỗi, đừng chà đạp lên lòng tự ái của họ. Kính trọng vì người anh em tuy có lỡ sai phạm nhưng vẫn có khả năng sửa đổi. Khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ mang đến thất bại.
Sau cùng muốn sửa lỗi người anh em phải hết sức tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy chúng ta phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị, yêu thương chân thành sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn. Amen.
36.Cộng đồng huynh đệ--Lm. Hồng Phúc
Chúa Giêsu đã muốn thiết lập Giáo hội của Ngài như một cộng đồng Tình yêu, trong đó luật bác ái thương yêu là một giới răn mới, một dấu chỉ để biết ai là môn đệ của Chúa.
Nhưng Chúa cũng biết rằng đâu đâu cũng có những yếu đuối con người, đâu đâu cũng có những vấn đề giữa con người. Trong cộng đoàn bé nhỏ 12 môn đệ sống với Ngài, Chúa đã nghiệm thấy như vậy.
Giáo hội là một cộng đồng anh em, nhưng là một cộng đồng gồm người tội lỗi bên cạnh người lành.
Chúa phán: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Nhưng sửa dạy làm sao? Theo tinh thần Phúc Âm, việc sửa lỗi anh em là một việc rất tế nhị và gồm 3 công tác sau đây:
- “Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu không kết quả thì hãy nhờ đến hai ba người làm nhân chứng. Và sau cùng mới trình với cộng đoàn”. Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có”. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.
- Giáo hội theo lối quảng diễn của Matthêô còn là một cộng đồng tha thứ và liên đới, trong đó mỗi người có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Nếu sau nhiều cố gắng để đưa người anh em lầm lỗi trở về mà không có kết quả thì hãy trông cậy vào tình thương xót của Đấng chăn chiên tối thượng.
Cái quyền “tuyệt thông” đối với một người anh em làm cho ta nhớ lại một lời khác của Chúa về quyền năng của Giáo hội: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo gỡ dưới đất trên trời cũng tháo gỡ”. Quyền năng tha thứ đó, Chúa đã hứa cho Phêrô thì nay Chúa cũng ban cho các môn đệ. Đó là tập đoàn 12 Tông đồ Chúa đã tuyển chọn và sai đi, trong đó Phêrô giữ một vai trò trọng yếu. Chúa trao cho họ sứ mạng hòa giải và cứu rỗi. Như vậy dần dần Chúa đã thiết lập các cơ cấu của Giáo hội.
- Sau cùng, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin. Tám ngày sau phục sinh, một bầu khí chia rẽ cũng bao trùm các môn đệ. Tôma nằng nặc không muốn tin rằng Thầy đã sống lai. Chúa xuất hiện, sự hiện diện của Chúa đánh tan mối nghi ngờ, chia rẽ, đem lại sự hiệp nhất.
Khi viết đoạn Phúc Âm này, hẳn là Matthêô muốn nhắc nhở cho Giáo hội, đã lan rộng ra ngoài biên cương Do thái, đến Cận đông, đến cả Lamã rằng Chúa là sự hiệp nhất. Muốn có sự hiệp nhất, muốn tránh sự chia rẽ vì mầu sắc chủng tộc, văn hóa, thì Giáo hội phải cầu nguyện, phải tập họp “nhân danh Thầy” vì có Thầy ở giữa. “Thầy là trung tâm hội tụ mọi động lực” (Kinh của Teilhard de Chardin).
Lạy Chúa, xin dạy con biết khiêm tốn hòa nhã khi phải sửa lỗi anh em, xin dạy con biết cầu nguyện khi phải đương đầu với chia rẽ hiểu lầm, vì chỉ có Chúa là rường mối sự Hiệp nhất.
37.Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật XXIII, chủ để nổi bật hơn cả là "bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu".
Sống trong Giáo hội Chúa Kitô
"Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu", bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi: "Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó " (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkiel "trở nên người lính canh nhà Israel", và truyền ông phải nói cho "kẻ gian ác bỏ đường lối mình", để được sống, nếu không "thì chính kẻ gian ác sẽ chết" (x. Ed 33, 7-9).
Thánh Phaolô nói: "Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau" (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả Mười Điều Răn "và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình" (x. Rm 13, 8-10).
Tình yêu và sự kiên nhẫn
Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái: " Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác "(1Cr, 9), cho thấy Giáo hội được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ: nó đã xúc phạm đến tôi! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ? Nó đã xúc phạm đến tôi: Mắt đền mắt, răng đền răng ư? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được! Anh được Thiên Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em. Thánh Augustinô nói: "Anh ấy đã xúc phạm bạn, và khi xúc phạm, anh ấy đã làm cho bạn tổn thương: bạn không quan tâm đến thương tích của người anh em bạn sao? (...) Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải là vết thương bạn phải chịu vì người anh em" (Discours 82, 7).
Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn. Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này. Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Hoa quả của đức ái
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa: "Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật " (Rm 13, 10).
Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu nguyện: " Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy "(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết: Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng "chúng ta phải thực hiện bản giao hưởng này" nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với nhau trong cùng một khuôn viên nhà thờ, đang lắng nghe tiếng của mục tử chúng tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng đang nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao? Làm gì có sự bất hòa?
Đúng, chúng ta là một gia đình đang được cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu bình tĩnh lại, thinh lặng ra khỏi nhà thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị, đố kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận... tình bác ái được đặt ra. Vì vậy, chúng ta hãy tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta, chúng ta hãy thông hiệp với nhau.
Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn tín hữu khắp nơi được hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
38.Khi anh em sửa lỗi nhau--AM Trần Bình An
Chập tối, tôi trèo tường, lẻn ra Ciné Nha Trang coi ‘Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang’. Mãi đến 23: 30 tôi mới trở về chủng viện. Tới góc đường Võ Tánh - Duy Tân (Trần Phú bây giờ), phía bên trong là dãy nhà tắm lộ thiên, tôi nhẹ nhàng trèo vào. Núp cạnh phòng học lớp 12, (nay đã dỡ bỏ, xây mới) phóng tầm nhìn vào trong sân Tòa Giám Mục, hoàn toàn trống vắng! Tất cả im lặng như tờ, chắc mọi người đều đã yên giấc. Dẫu vậy, tôi vẫn cẩn thận đi nhón móng cò, lom khom bước qua khoảng sân rộng. Bỗng ai đó hắng giọng, rồi sang sảng cất giọng: “Ai đấy?” Tôi giật nảy mình. Thì ra Ông Nội, vận một bộ đồ thung đen, đang tập thể dục, kề bên khóm cây cảnh tối hù, ngay bên ngoài căn phòng của ngài còn sáng đèn. “Dạ thưa, con tên là…” Như thế Nội đã nhìn thấy tôi ngay khi tôi leo trường trở về, vì ngài đứng trong bóng tối, nhìn ra phía ngoài sáng trưng ánh đèn. Nhưng nét mặt ngài vẫn bình thản, trìu mến, như chẳng có điều gì bất thường. Tôi lại càng lo sợ hơn nữa. Sáng mai Ông Nội sẽ trao áo chùng thâm cho 21 Anh Em chúng tôi. “Con đi đâu về khuya vậy?” “Dạ, con đi…đi dạo ngoài bãi biển!” “Giờ này khuya khoắt, mà con còn đi dạo nữa sao? Vậy có ghé ăn chè Võ Tánh không? Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” Tôi không thể nói dối được nữa, vì Ông Nội còn biết chúng tôi hay tranh thủ ăn chè, mỗi khi có dịp ra bên ngoài. Chắc ngài biết hết trơn rồi, nên đành phải thú thật. “Dạ, con đi xem phim.” “Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” “Dạ, con đi xem phim.” “Phim gì hở con?” “Dạ. Phim Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang.” “Hay không? Con kể cho cha nghe xem.” “Bộ phim kể về…” Thu hết can đảm, tôi tóm tắt thuật chuyện phim. Ông Nội có vẻ vui vui, khuyến khích tôi kể tiếp. Vừa dứt chuyện, Nội hỏi tôi có nhớ đến viêc ngày mai chăng? Tôi lý nhí đáp, cúi đầu ăn năn sám hối lỗi lầm. Một lát sau, Nội liền ban vỉệc đền tội: Một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh, rồi còn dịu dàng dặn dò: “Con đã tỏ ra biết hối lỗi, vậy hãy về ngủ và nhớ đừng tái phạm nữa. Ngày mai cha vẫn cho phép con lên lãnh nhận áo dòng.” “Con xin cám ơn cha.” Tôi thoát nạn nhẹ cả người, vội chạy lên lầu về phòng ngủ, tuy vẫn còn thình thịch con tim... Sáng hôm sau, trong nhà nguyện Tòa Gíam Mục Nha Trang, người ta vẫn thấy đầy đủ 21 Anh Em lớp Đi Gieo IV, hân hoan xếp hàng, lên nhận lãnh áo soutane từ chính bàn tay Đức Cha FX Nguyễn Văn Thuận trao ban. Tôi thầm tạ ơn Chúa và nhớ mãi tấm lòng bao dung thánh thiện của Ông Nội. (Một vụ cá độ, Kể chuyện Nội, LâmBich.net)
Trích thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu giảng dạy làm thế nào để sửa lỗi anh em. Với ba bước ứng xử với người lỗi lầm, Người muốn chiêu hồi con chiên lạc quay trở về với đàn.
Mỗi khi phạm tội là tự tách mình ra khỏi cộng đoàn, ra khỏi tình yêu thương, hồng ân của Thiên Chúa. Vậy các thành viên cộng đoàn đều có bổn phận và trách nhiệm quan trọng giúp người vấp phạm sám hối, tin cậy vào Lòng Thương Xót Chúa. Bởi vì “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất." (Mt 18, 14) Kẻ bé mọn ám chỉ những người bình dân, nghèo nàn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, hư hỏng, tội lỗi, những con chiên lạc loài, đi hoang đáng thương.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” (Mt 18, 15) Như thế giúp tha nhận sửa lỗi là mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách của Đức Giêsu dành cho những ai chấp nhận đi theo Người. Không thể vô cảm, bình chân như vại, mặc kệ anh em. Tuy vậy, để thực hành việc tế nhị, khó khăn và thách đố này, cần đến tình huynh đệ, lòng khoan dung và tâm tình cầu nguyện, mà Đức Giêsu vạch ra cho người thiện tâm.
Tình huynh đệ
"Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật."(Rm 13, 8) Thánh Phaolô còn khuyên nhủ mọi người sống bác ái huynh đệ, thực tình giúp đỡ nhau, không vờ vịt, đóng kịch với nhau, cũng như không vênh váo rẻ rúng, khinh miệt, chế giễu, mà trái lại, chân thành hỗ tương nhau mọi lúc. “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.”(Rm 12, 9-11) Với thái độ yêu thương, khiêm nhường, kính trọng, Kitô hữu mới có thể chân tình ngỏ lời khuyên nhủ, giác ngộ hữu hiệu kẻ lỗi phạm.
“Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. (Ed 33, 8-9) Việc sửa lỗi cho nhau không chỉ là trách nhiệm huynh đệ liên đới, mà còn nghĩa vụ của Kitô hữu đối với chính Thiên Chúa. "Tất cả những gì anh em làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
Lòng khoan dung
Thiên Chúa đầy lòng khoan dung, nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi con người để cải hóa, Ngài lần hồi sửa trị họ, nhắc nhở và cho biết đã phạm lỗi ở chỗ nào, để họ tin tưởng vào Ngài mà được cứu rỗi. “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11, 23)
Kitô hữu cũng noi theo lòng khoan dung của Thiên Chúa, mà cư xử với tha nhân, bởi chưng ai mà không phạm tội. Đức Giêsu đã từng công khai thách đố mọi người: "Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (Ga 8, 7) Sau này Thánh Gioan cũng xác quyết vô cùng mạnh mẽ về thân phận yếu đuối của con người: ”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.” (1Ga 1, 8)
Như thế, với sự soi sáng khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu cần chân thành khiêm tốn, khoan dung, hiền hòa, dịu dàng, thông cảm, khuyên nhủ, sửa dạy tha nhân. “Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ. Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô.” (Gl 6, 1-2)
Tâm tình cầu nguyện
"Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 19-20)
Khi hai người đối thoại, thuyết phục nhau, gặp nhau vì Thánh Danh Chúa, thì đương nhiên có Chúa hiện diện. Hãy nhớ cầu xin Người giúp đỡ cảm hóa người vấp phạm biết phục thiện. Chắc chắn Chúa không nỡ từ chối nguyện vọng chánh đáng này.
“Người hy sinh biết rộng lượng trước khuyết điểm người khác và nghiêm khắc trước khuyết điểm của mình.” (Đường Hy Vọng, số 169)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban chúng con ơn can đảm nhắc nhở nhau, cũng như biết nghe lời khuyên răn, chỉ dẫn khi lỗi lầm, để chúng con luôn thương yêu, khắng khít, đoàn kết trong đàn chiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Đấng vô nhiễm tinh tuyền, xin giúp chúng con nhận biết tội lỗi vấp phạm, mà ăn năn sám hối, cũng như khiêm tốn lắng nghe người khác nhắc nhở, hướng dẫn, sửa sai, để luôn được sống mãi trong Lòng Thương Xót vô hạn của Chúa. Amen.
39.Đạt đến người mới--Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
Tin Mừng Mt 18: 15-20: Lời Chúa trong các bài đọc của Chúa nhật hôm nay nhắc cho chúng ta điều rất tế nhị trong việc sửa lỗi cho anh em. Đây cũng là trách nhiệm để chúng ta cùng xây đắp tình bác ái trong cộng đoàn. Nhờ đó sẽ giúp cho mỗi người trong cộng đoàn được thăng tiến hơn trong việc góp phần xây dựng xã hội thêm hòa bình và hạnh phúc....
***
Lời Chúa trong các bài đọc của Chúa nhật hôm nay nhắc cho chúng ta điều rất tế nhị trong việc sửa lỗi cho anh em. Đây cũng là trách nhiệm để chúng ta cùng xây đắp tình bác ái trong cộng đoàn. Nhờ đó sẽ giúp cho mỗi người trong cộng đoàn được thăng tiến hơn trong việc góp phần xây dựng xã hội thêm hòa bình và hạnh phúc.
1. Ơn gọi của Tiên tri Êdêkiel:
Bài đọc một nói đến trách nhiệm của Tiên tri Êdêkiel: Là người được Thiên Chúa tuyển chọn nên Êdêkiel được Chúa giao cho sứ mạng trở nên người lính canh trong nhà Israel. Công việc của người lính canh Êdêkiel là thay mặt Chúa để vạch trần những điều xấu trong cộng đoàn. Nếu trong cộng đoàn có người biết đón nhận lời sửa dạy của Tiên tri và từ bỏ đường gian ác, thì họ sẽ được sống trong đường công chính. Ngược lại nếu vì cố chấp mà có những người không từ bỏ đường gian ác, thì họ sẽ chết trong sự gian ác. Cũng như nếu người của Chúa không chu toàn trách nhiệm của mình, không can đảm kêu gọi người gian ác từ bỏ con đường tội lỗi, thì chính vị Tiên tri sẽ gánh lấy hậu quả của cái chết nơi người gian ác. Ngược lại nếu trong mọi hoàn cảnh, vì không sợ hãi mà vị Tiên tri luôn chu toàn trách nhiệm của mình, thì ngài sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ và ban phần thưởng được sống trong tình thương Chúa.
2. Món nợ tình thương:
Bài đọc hai, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta về món nợ mà mình phải trả cho anh chị em chúng ta. Món nợ ấy chính là tình thương. Theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta phải xem việc yêu thương tha nhân như là bổn phận của mình. Hơn nữa vì yêu thương tha nhân còn là đòi buộc của lề luật, nên chúng ta phải cùng giúp nhau chu toàn lề luật. Sống chu toàn những gì luật dạy đó là chúng ta cùng can đảm động viên nhau sống đời sống gương mẫu là: “chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham” (Rm 13, 9). Khi chúng ta biết can đảm nhắc nhở và sống theo lời Chúa dạy như thế, khi ấy chúng ta cũng trả xong món nợ của mình. Như thế thì chúng ta sẽ được bình an trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
3. Xây dựng con người mới:
Trang Tin mừng hôm nay là lời kêu gọi của Chúa Giêsu mong muốn chúng ta xây dựng một cộng đoàn hoàn thiện như Chúa. Vì sống hoàn thiện là ước mơ và niềm vui của Chúa, nên trong cộng đoàn Chúa cũng muốn chúng ta cùng nhau khắc phục những khuyết điểm của anh chị em, mục đích là để giúp nhau thi hành lề luật mà Chúa đã dạy chúng ta.
Cách cụ thể để xây dựng đời sống hoàn hảo trong cộng đoàn đó là việc sửa lỗi cho nhau: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó ” (Mt 18,15). Sửa lỗi cho anh chị em là điều khó. Vì thế để cho việc sửa lỗi đạt hiệu quả, điều quan trọng là phải chọn cách sống của Chúa là gương mẫu cho mọi hành động của con người.
Hơn bao giờ hết phải qui chiếu đời sống của anh chị em về đời sống của Chúa Giêsu. Không bao giờ tự xem mình là mẫu mực để buộc người khác sống theo mình. Không sử dụng quyền lực hay kỷ luật trong việc sửa lỗi. Tệ hơn nữa là dùng bạo lực trong việc góp ý với anh chị em, bởi vì bạo lực là con đường đưa đến thù hận và sự chết. Nếu trong việc sửa lỗi mà hình ảnh và cách sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện, lúc đó tự chúng ta cảm thấy việc sửa lỗi không có gì là khó, nhưng trong hành động đó chúng ta cảm thấy vì tình yêu, vì đức ái thôi thúc chúng ta, để chúng ta ra sức xây dựng một cộng đoàn huynh đệ hoàn thiện như Chúa mong muốn.
Vì là con người nên ai trong chúng ta cũng có lỗi. Thánh Gioan tông đồ còn nói: “Ai nói rằng mình không có lỗi, thì người ấy nói láo” (1Ga 1, 10). Như vậy trước khi chúng ta thi hành trách nhiệm bác ái với người khác, điều cần thiết chúng ta phải thi hành trách nhiệm đối với mình. Bởi vì gia đình, giáo xứ, xã hội sẽ bình an khi mọi người chúng ta tự ý thức nhìn lại cách sống của mình, nhìn lại thái độ ứng xử của mình với người khác, nhìn lại bổn phận của mình. Phải khiêm tốn nhìn lại cách sống của mình có phù hợp với thánh ý Chúa chưa? Nếu chưa phù hợp với thánh ý Chúa, chúng ta tự khắc phục và quyết tâm sống tốt hơn. Và nếu có những lời góp ý của người khác, chúng ta hãy vui vẻ khiêm nhường đón nhận, hãy xem lời góp ý đó là tiếng Chúa, là cơ hội để giúp chúng ta thăng tiến đạt đến con người mới bằng cuộc sống thánh thiện như Chúa là Đấng Thánh.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn hăng say chu toàn trách nhiệm của mình, trong việc cùng giúp nhau đạt đến con người mới, nhờ vậy chúng ta mới có thể trả được hết món nợ tình thương cho anh chị em của chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cứu giúp chúng con. Amen.
40.Quan niệm đức ái theo Thánh Phaolô--Lm Phêrô Nguyễn Hương
Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô, năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như một ngôi sao sáng trong lịch sử Giáo hội. Và rất thích hợp để nói về giáo huấn của Ngài trong thánh lễ hôm nay. Sự nghiệp và giáo huấn của Ngài thật là phong phú và sâu sắc, chúng ta chỉ dừng lại ở đây quan niệm về Tình yêu hay Đức Ái theo Thánh Phaolô.
Danh từ tình yêu (love, amore, caritas) được dùng rất nhiều từ môi miệng chúng ta, từ báo chí, phim ảnh. Nhưng ngày hôm nay khái niệm về tình yêu đã bị nhiều người hiểu sai và làm dụng.
Tôi đọc trên báo điện tử của Hội Đồng Giáo Mục Việt Nam, tác giả Nguyễn Lan Hải đã tóm tắt những ngộ nhận đáng tiếc về tình yêu nơi nhiều bạn trẻ hôm nay: - Tình yêu là sự cuốn hút. - Tình yêu là chiếm hữu. - Tình yêu là tiền tài. - Tình yêu là sự thương hại. - Tình yêu là tình dục.
Chính vì quan niệm méo mó này, nên nhiều người suốt cả đời đi tìm tình yêu mà không gặp. Nhiều bạn trẻ thay người yêu như thay áo vậy. Nhiều cặp vợ chồng trẻ tháng trước đám cưới linh đình vui vẻ, anh nói em nghe, nhưng tháng sau thì anh em nói, cả làng cùng nghe. Tuần đầu trăng mật, tuần sau giập mật!!! Nhiều gia đình đang êm ấm, nhưng chỉ một cú điện thoại, một lá thư của người thứ ba, thế là mọi sự đổ vỡ, mọi sự được giải quyết bằng tờ giấy li dị và chia tài sản.
Vậy thì theo Thánh Phaolô, Tình Yêu là gì, phải yêu người khác như thế nào?
Bài đọc II mà chúng ta vừa nghe là những lời thật tuyệt vời: «Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau». Nghĩa là chúng ta đừng mắc nợ nhau về tiền bạc, vật chất, ai mắc nợ thì phải trả. Nhưng hãy mắc nợ nhau về tình thương, về đức ái. Chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Chính Phaolô nói: «Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật». Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Sống không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù chúng ta có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi vật chất dư dã, vẫn cũng cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Các nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu và cho thấy điều đó: 12 % dân Mỹ bị stress và bị tâm thần, không phải vì họ nghèo đói về vật chất và vị họ bị cô đơn và không được yêu thương chia sẽ.
Đối với thánh Phaolô tình yêu không phải là một sự trao đổi kinh tế tiền bạc, không phải là một sự chiếm hữu ích kỷ, không phải là một sự tìm kiếm mình trong người khác. Nhưng là một tình yêu vô vị lợi, có trách nhiệm và hoàn toàn vì người khác, kể cả hiến mạng vì người mình yêu. Tình yêu đó bắt nguồn và luôn dựa trên chính tình yêu Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thể hiện trên Thập giá.
Tình Yêu, Đức Ái gắn liền với việc tuân giữ lề luật, là sống có trách nhiệm và biết tôn trọng hạnh phúc của người khác: «Đó là chớ có ngoại tình»: vợ của người ta chớ có được lớ rớ tới, không được quan hệ tình dục bừa bãi. Vì hậu quả của nó là phá hoại phúc người khác và mang bệnh tật cho mình. Quan hệ tình dục bừa bãi dễ sinh ra tội phá thai, tức là giết người. Đó là trọng tội và còn có vạ kèm theo cho ai làm điều đó. Nên Thánh Phaolô nói tiếp: «Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn lề luật». Những lời chúng ta phải suy gẫm nhiều lần. Lỗi những điều răn này là chúng ta lỗi Đức Ái cách nghiêm trọng. Thấy người khác thành công mình phải mừng cho họ chứ đừng có ghen tỵ và tìm cách đạp đổ. Thấy người khác gặp đau khổ thì không lấy làm vui mừng nhưng là nâng đỡ ủi an họ. Vẽ đẹp của người kitô hữu là ở đó.
Đối với Phaolô, Đức ái là căn bản, là chính yếu của đời sống kitô hữu. Trong một lá thư khác, thánh Phaolô quả quyết: «Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-13).
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống Đức ái đó theo gương thánh Phaolô, như Ngài đã theo Đức Kitô, Người đã yêu chúng ta đến cùng và đã hiến mạng vì chúng ta trên Thập giá. Xin Thánh nhân cầu xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta thực hành những giáo huấn này vào trong đời sống chúng ta. Amen.
41.Sửa lỗi cho nhau--Lm Phêrô Nguyễn Hương
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói tới một trách nhiệm của người kitô hữu về việc sửa lỗi cho người anh em mình. Một công việc rất tế nhị nhưng là cần thiết.
Người Lamã nói rằng: errare umanum est! Làm người là sai lỗi. Người Việt Nam cũng có câu tương tự: Nhân vô thập toàn, không ai hoàn hảo cả. Sinh ra trên đời này mỗi người đều có xã hội tính, nên ai có liên hệ và có trách nhiệm đối với người khác, ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác để hoàn thiện mình, để sống tốt hơn, nhất là khi sai lỗi, lầm lạc, ai cũng cần đến sự hướng dẫn, lời khuyên và lời cầu nguyện của người khác.
Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi. Vì thế không được phép nói cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.
Trong thực tế, nhiều lúc chúng ta làm ngược lại với hướng dẫn trên của Chúa. Thay vì chúng ta phải giữ kín sự thật và thuyết phục người anh em sai lỗi trước khi nói người thứ ba cùng giúp, thì chúng ta lại nói toạc móng heo lầm lỗi của họ ra, làm ai cũng biết. Như thế sẽ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Cần phân biệt việc sửa lỗi hoàn toàn khác với việc nói xấu người khác. Sữa lỗi là một việc nên làm, còn nói xấu là một trọng tội. Vì thế chúng ta cần tế nhị, khôn ngoan và đúng lúc.
Câu chuyện sau đây nói lên thái độ tế nhị cần có khi sửa lỗi cho nhau:
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (hy vọng trong cộng đoàn chúng ta không có cô nào được người khác cho ăn táo trong nhà thờ nhé!).
Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.
Chúng ta có thể thưa với Chúa là: Lạy Chúa xin cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, sự Can đảm để thay đổi những điều con có thể và sự Khôn ngoan để phân biệt sự khác biệt. Amen.
42.Nghệ thuật sửa lỗi--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện...
***
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.
1. Sửa lỗi cho nhau:
- Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:
+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.
+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.
- Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.
+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.
- Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.
- Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.
43.Nghệ thuật nói--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về người sửa lỗi. Chúa dạy, khi sửa bảo nhau cần có một trình tự theo bác ái qua bốn bước. Bước thứ nhất là “một mình anh với nó thôi”; “nếu nó không chịu nghe” thì qua bước thứ hai là “hãy đem theo một hay hai người nữa”; “nếu nó không nghe họ” thì bước thứ ba là “hãy đi thưa Hội Thánh”. Bước cuối cùng “Nếu Hội Thánh mà nó cũng không nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Nhưng nên nhớ Chúa luôn coi trọng người ngoại và thu thuế ! Vì thế ta có thể nói, chỉ còn cách phó thác người đó cho Chúa mà thôi !
Trong những bước ấy, phải ưu tiên bước một: giữa hai người với nhau. Thông thường, chẳng ai thích bị “sửa lưng” hay “sờ gáy”. Thư gởi tín hữu Do thái nhận định như sau: “đã hẳn bị sửa dạy ngay tại trận thì hình như vui chẳng có, chỉ có buồn; nhưng về sau (mới thấy) nó sinh lợi cho những ai nhờ đó mà được luyện tập: tức là hoa quả bình an công chính” (Dt 12,11). Để việc sửa lỗi có kết quả, cần phải cho người ấy thấy là mình yêu thương họ, muốn họ nên tốt. Chính Chúa cũng làm như vậy: “vì Chúa thương ai, Người mới sửa dạy, con nào Người nhận, Người mới cho đòn” (Dt 12,6).
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót nên Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống (x.Ed 18,23).
Sách Samuel 1 kể rằng: vì ghen tương, vua Saolô quyết tâm giết Đavit, nhưng hoàng từ Gionathan đã tìm cơ hội thuận tiện, rồi khôn khéo và chân thành trình bày với vua cha: “Thưa cha, con trộm nghĩ: Đavit không làm gì chống lại cha. Tất cả những điều anh ta làm đều tốt đẹp và hữu ích cho cha cũng như cho dân Israel… Chính cha đã thấy những việc anh ấy làm và cha đã vui mừng…”. Những lời nói chân thành và hợp tình hợp lý của Gionathan, khiến nhà vua suy nghĩ. Sau đó, nhà vua trả lời: “Vậy, nhân danh Thiên Chúa hằng sống, cha hứa sẽ không tìm giết Đavit nữa”.
Sách Samuel 2 kể câu chuyện hấp dẫn. Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của tướng Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua. Đavít tìm cách ‘bán cái’ cho Uria. Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ăn uống no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà. Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết Uria ngoài chiến trường.Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua.(x.2 Sam 11 và 12).
Vua Đavít đã phạm tội đoạt vợ giết chồng, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Khi người ta không tự thấy được tội lỗi của mình để sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ. Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải khôn ngoan lựa lời. Natan trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt”. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm”. Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta”. Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải (Lm Ignatiô Trần Ngà).
Tiên tri Natan đã thành công khi sửa lỗi cho vua Đavit. Đó là cả một nghệ thuật nói năng khôn ngoan.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, Đức cha Bùi Tuần viết: tôi nhận thấy Chúa Giêsu dạy tôi về sự nói năng.
Chúa dạy tôi phải biết nghệ thuật nói với:
Để nói với tha nhân, Chúa dạy tôi phải nói lời xây dựng. Chúa dạy thật rõ ràng: “nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Sửa dạy chứ không lên án, xây dựng chứ không loại trừ. Điều này đòi phải có lòng yêu thương và coi mọi người là anh chị em thân thiết của mình.
Để nói với tha nhân, Chúa cũng dạy tôi phải nói lời tế nhị. Khi góp ý với ai đó thì cần phải kín đáo “riêng ngươi và nó thôi”, bởi nếu không thì chuyện bé cũng sẽ xé ra to. Điều này cần sự tôn trọng, và tin tưởng lẫn nhau. Tôn trọng cái tốt vẫn luôn còn nơi mỗi người. Tin tưởng rằng ai, dù lỗi lầm đến đâu vẫn có khả năng hoán cải nên tốt hơn.
Để nói với tha nhân, Chúa còn dạy tôi phải nói lời đối thoại. Chỉ nói khi có “riêng ngươi và nó thôi” còn có nghĩa là biết trao đổi, biết đối thoại với nhau. Điều này cần có thái độ kiên nhẫn và biết sẵn sàng lắng nghe, biết chấp nhận khác biệt của nhau.
Chúa cũng dạy tôi phải biết nghệ thuật nói cùng, đúng hơn là phải cùng nhau nói với Chúa.
Khi nói cùng nhau tức là hiệp thông với nhau trong tình huynh đệ. Hiệp thông luôn là một lời mời gọi trong Giáo Hội, là dấu chỉ của Nước Trời. Càng hiệp thông với nhau, chúng ta gắn bó với Chúa và Giáo Hội.
Khi nói cùng nhau trong Chúa tức là cùng nhau cầu nguyện. Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời sẽ ban cho họ điều đó”.
Lời Chúa ngày hôm nay thật thiết thực với cuộc sống con người. Lời Chúa mời gọi tất cả chúng ta biết hoán cải, biết đổi mới trong cung cách nói năng hằng ngày: nếu như xưa kia chúng ta thường nói lời chỉ trích, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời xây dựng; nếu như xưa kia chúng ta thích nói lời gắt gỏng, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời tế nhị; nếu như xưa kia chúng ta chỉ muốn nói lời ra lệnh, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời đối thoại; và nếu ngày xưa chúng ta thường sống khép kín, thì hôm nay Chúa mời chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để có thể cùng nhau dâng lên Người những lời nguyện cầu.
Sửa lỗi cho anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, mục đích là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Lời nói góp ý xây dựng phải có nội dung, ý hướng và cung cách.
Nội dung lời nói phải là sự thực. Đã nói thì phải nói sự thực. Nhưng không phải sự thực nào cũng nên nói. Gán cho người điều xấu không có, đó là vu khống. Tiết lộ hay phổ biến điều xấu người ta có, đó là nói hành. Gièm pha, thêm bớt xuyên tạc, đó là những hình thức và mức độ khác nhau của vu khống và nói xấu.
Ý hướng lời nói phải là sự thiện.Nói để thông tri. Nói để xây dựng. Nhưng có khi nói sự thực với chủ ý phô trương, có khi nói đạo đức với thêm ý quảng cáo chính mình, có khi chỉ trích sự tội kẻ khác với thâm ý hại họ và đề cao bản thân, có khi bênh vực chân lý với hậu ý bênh vực tự ái.
Cung cách lời nói phải là lịch sự.Nói là truyền thông tư tưởng, nhưng cũng đã diễn tả chính mình.Có nhiều kiểu nói cộc cằn, biểu lộ tâm hồn thiếu tế nhị. Có những giọng nói hách dịch, tố cáo một khuynh hướng kiêu căng. Có những lời nói cứng cỏi phơi bày một tính tình nghèo thiện cảm.
Chọn lời mà nói. Chọn chữ mà dùng. Ăn phải nhai, nói phải nghĩ. Nói hợp với người nghe. Việc đó không dễ. Chắc không phải vô cớ mà thánh Giacôbê đã quả quyết: “Ai không lỗi trong lời nói, người đó là người hoàn toàn” (Gc 3,2). (x. Nói với chính mình, Đức cha Bùi Tuần)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con học bài học sửa lỗi cho nhau thật tốt đẹp trong mọi mối tương quan. Xin cho chúng con ơn phân định khôn ngoan để biết suy xét, nói năng và hành động khi sửa lỗi cho nhau. Amen.
44.Trừng phạt hay phục hồi?--Lm Nguyễn Khoa Toàn
Nếu ai đó am hiểu và theo dõi nội tình chính trị tại tiểu bang New South Wales ở Úc Châu tuần qua, rồi lồng những bài đọc Chúa Nhật 23 thường niên tuần này, chắc hẳn người ấy sẽ tìm được một vài điểm trùng hợp thật ngẫu nhiên. Và một bài học đời vô cùng ý nghĩa...
Chuyện là một buổi chiều cuối tuần chỉ vài ngày sau khi Thủ Hiến Bob Carr đột ngột từ chức, Thủ Lãnh Đối Lập John Brogden đã không ngờ 'vận đỏ' đến với mình sớm đến thế. Cùng một vài nhân viên phụ tá, John đã 'chén thù chén tạc' tại khách sạn năm sao Hilton ở Sydney vừa mới tân trang.
Theo nhiều quan sát viên thời cuộc, với tình hình hiện tại và với tình trạng kinh tế có chiều hướng đi xuống, ai cũng chắc rằng chiếc ghế Thủ Hiến của tiểu bang đông dân nhất Úc Châu này sẽ lọt vào tay một thanh niên một vợ một con mà tuổi đời chưa quá 40 này. Cả một tương lai chính trị sáng tươi đang chờ đợi...
Nhưng sáng thứ hai tuần qua, hình như sau một cuối tuần vật vã với luơng tâm, và có lẽ nhất là khi báo chí địa phương đã đánh hơi được một vài lời nói và cử chỉ khiếm nhã với một vài phụ nữ buổi chiều định mệnh ấy, John Brogden đột ngột từ chức. Đến chiều thứ ba, khi nhật báo The Daily Telegraph quyết định phanh phui thêm một vài hành vi lem nhem khác trong quá khứ, Brogden lặng lẽ rời nhà không một lời từ biệt cùng vợ Lucy và đứa con trai đầu chưa tròn hai tuổi Flinders, tạt vào nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm ở Mona Vale rồi sau đó đến văn phòng riêng. Và bằng vài liều độc dược, Brodgen cắt gân máu kết liễu đời mình.
Dư luận liền chia làm hai phía khi đuợc hung tin. Một bên tố cáo báo chí đã đi quá trớn, xâm phạm thô bạo vào đời sống tư riêng. Bên kia phản pháo cho rằng nhiệm vụ của báo chí là thông tin cho đại chúng biết những gì cần biết nhất là từ những đại diện dân cử. Nói một cách khác, theo lời ký giả Damien Murphy, John Brogden là nạn nhân của công lý trừng phạt (punitive justice) chứ không phải công lý phục hồi (restorative justice).
Công lý phục hồi nhắm đến một sự cân bằng giữa người gây ra sự cố, nạn nhân và gia đình cùng xã hội chung quanh. Vì thế, mục đích tối hậu của công lý phục hồi không phải là trừng phạt những là hoán cải người gây ra lầm lỗi. Hoán cải không phải là bưng bít che đậy mà là khôn khéo nhẹ nhàng tế nhị nhưng dứt khoát cứng rắn giúp cho kẻ lỡ bước sa chân kia thấy sự việc sai trái của mình đồng thời tạo mọi điều kiện để người ấy có cơ hội trở về đuờng ngay nẻo chánh.
Bài Phúc Âm hôm nay là một biểu chứng hùng hồn là nền công lý phục hồi cần đuợc triển khai trong mọi khía cạnh của đời sống từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng đoàn và từng xã hội. Bước đầu tiên là phục hồi danh dự và nhân phẩm của nạn nhân và của cả người gây ra tội phạm. "Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi dạy sửa nó, riêng ngươi và nó thôi." Chỉ riêng ngươi và nó thôi vì tiến trình hoán cải con nguời đòi buộc khá nhiều nhạy bén tế nhị và rất nhiều tha thứ cảm thông.
Càng thiếu tế nhị cảm thông tha thứ bao nhiêu thì càng dẫn đưa người lầm lỗi vào ngõ cùng hụt hẫng. Họ mất niềm tin. Và chẳng còn hy vọng. Và khi không còn ai để cấy niềm tin và khi không còn nơi nào để bấu hy vọng vào, cái chết là một kết luận đã rồi!
45.Biết mình biết người--Lm. Fx. Trần Phương
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta đối với nhau trong cộng đoàn. Không ai là một hòn đảo, vì trong Đức Kitô, chúng ta đều là anh chị em, những phần tử của chung một gia đình.
Cuộc đời con người thật ngắn ngủi, do đó tất cả chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để làm những việc lành phúc đức khi chúng ta còn có cơ hội, bằng cách quan tâm tới những kẻ yếu đuối và hèn kém, khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Điều đó không có nghĩa làm cho chúng ta trở thành những kẻ tò mò, thích xen vào chuyện của người khác hay can thiệp vào cuộc sống riêng của họ. Tình yêu dành cho tha nhân phài được xử lý một cách lịch thiệp và khôn ngoan và phải luôn nhớ rằng khía cạnh quan trọng nhất của một đời sống tốt đẹp chính là quên đi tất cả những việc mình đã làm cho người khác.
Thật vậy, không có cuộc sống chung nào mà con người không phải đau khổ vì đồng loại mình. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để khuyên giải cho những kẻ lầm đường lạc lối. Tuy nhiên, việc sửa lỗi cho nhau rất khó thực hiện trong đời sống thường ngày. Vì thế, khi phải can thiệp vào chuyện khó xử này, chúng ta phải thật sự tế nhị, khéo léo và khôn ngoan. Bởi vì, thực tế đã chứng minh rằng, một lời nói bất cẩn hoặc khuyên giải một cách thái quá có thể gây nên sự đổ vỡ lớn lao hơn.
Xét trên một khía cạnh nào đó, việc sửa lỗi cho nhau giống như một “con dao hai lưỡi”, vì rất dễ dàng gây nên sự đụng chạm, thậm chí có thể cướp mất đi tình bạn thân thiết mà ta đã có trước đây. Cha ông ta thường nói, ‘im lặng là vàng’ nhưng cũng có lúc thì ‘im lặng là đồng lõa’. Trong một số trường hợp, chúng ta cần có một quyết định dứt khoát vì nếu không hành động kịp thời thì những việc làm sai trái đó tiếp tục có cơ hội hoành hành. Hơn nữa, nếu chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em mình thì chúng ta nên xét lại ý nghĩa và đòi hỏi của giới luật yêu thương mà chúng ta hằng tuân giữ. Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, những gì chúng ta làm phải được phát xuất từ lòng bác ái, chứ không phải là thái độ ‘bới lông tìm vết’ hoặc lên lớp dạy bảo người khác.
Chúng ta không thể gây nên đau khổ cho những người chung quanh, nếu chúng ta nói mình yêu thương họ. Thật vậy, một chút tâm tình kèm theo những lời nói chân thành có thể làm cho bầu khí trở nên nhẹ nhàng và làm cho vấn đề trở nên tốt đẹp hơn. Nên nhớ rằng, không một ai trong chúng ta là người hoàn hảo, nên khi nói lên điều sai lỗi của người khác, chúng ta cũng cần chuẩn bị để lắng nghe họ nhận định về những thiếu sót của mình.
Nếu mỗi người có thể chấp nhận sửa lỗi cho nhau và nếu chúng ta nhận thấy mình có sự khác biệt so với người khác, hãy sẵn sàng chấp nhận thiếu sót của mình và mở rộng lòng mình để giao hòa với nhau. Những ngôn từ nặng nề và thái độ hung hãn không phải là lối xử sự của những người được mệnh danh là Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc giao hoà với anh chi em đồng loại khi Ngài nói: “Khi các con đến bàn thờ để dâng của lễ, nếu nhớ ra rằng mình đang có đìều bất hoà với anh chị em, hãy để của lễ đó, quay về làm hoà với anh chị em mình trước, rồi hãy đến dâng của lễ.” (Mt 5, 23-24).
Thử hỏi ai trong chúng ta là người chấp nhận Lời Ngài và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình?
46.Dân ngoại--Lm. Vũ Đình Tường
Người Thiên Chúa giáo Việt Nam có thói quen gọi người không cùng tôn giáo với mình là 'người ngoại'. Kiểu gọi vắn tắt này gây hiểu lầm cho các tôn giáo bạn. Khi dùng từ 'người ngoại' người nói ngụ ý chỉ người đó là người ngoài Thiên Chúa Giáo. Trong khi người nghe lại hiểu từ 'người ngoại' là người ngoại giáo, không có đạo. Cách hiểu thông thường, bình dân này gây tai hại trong tôn giáo. Có người đặt vấn đề không lẽ chỉ có Thiên Chúa giáo mới là đạo còn các tôn giáo khác đều không phải là đạo. Thực ra từ nguyên thuỷ 'người ngoại' không có ý nói người khác vô đạo hay coi thường các tôn giáo khác mà chỉ muốn nói người đó ngoài tôn giáo với mình. Kinh Thánh dùng từ 'người ngoại' khác với cách hiểu thông thường chung trong đại chúng.
Kinh Thánh dùng từ 'người ngoại' với hai ý. Ý thứ nhất chỉ những người không cùng tôn giáo Kitô. Ý thứ hai chỉ những Kitô hữu không sống theo tinh thần Phúc Âm, thiếu yêu thương và tha thứ. Họ sống trong cộng đoàn nhưng hành xử như người ngoài cộng đoàn. Đức Kitô còn dùng hình ảnh khác nói đến các Kitô người ngoại, đó là hình ảnh sói đội lốt chiên làm công việc cắn phá, âm thầm giết hại chiên. Bởi vì chúng mặc áo chiên nên khó nhận ra tính lang sói ẩn núp sau dáng điệu hiền từ của chiên. Chỉ sau khi trở thành nạn nhân lúc đó chiên mới nhận ra tính lang sói. Khi đã là nạn nhân thì không còn tư thế để phanh phui tính lang sói. Cũng có thể chiên bị chết còn đâu cơ hội để báo cho cộng đoàn biết sói đang sống giữa bầy chiên.
Như vậy trong đoàn chiên luôn có sói trá hình, đội lốt. Trong cộng đoàn Kitô hữu luôn có 'người ngoại' sống chung. Kitô hữu trở thành 'người ngoại' khi Kitô hữu chọn lối sống theo ý riêng mình. Bề ngoài thì họ là Kitô hữu như những người khác nhưng bên trong họ không có chất Kitô hữu trong mình. Chính vì thế mà khó phân biệt ai là Kitô hữu chân chính; ai là Kitô hữu ngoại lai. Kitô hữu ngoại lai sống chung với các Kitô hữu chân chính, ăn nói như những Kitô hữu chân chính. Họ cũng nhân danh cộng đoàn nói về Chúa, cũng nói về yêu thương, bác ái, cũng đôi khi, thỉnh thoảng tham dự thánh lễ, sinh hoạt chung trong cộng đoàn, đôi khi họ còn hăng say tranh đấu dành quyền lợi cho cộng đoàn. Những sinh hoạt trên có thể qua mặt, làm cho một số người hiểu lầm họ là Kitô hữu chân chính. Thực ra họ là Kitô hữu ngoại lai. Họ qua mặt loài người mà không thể qua mặt Đức Kitô, Đấng không nhìn bề ngoài mà thấu suốt bên trong tâm hồn con người. Đại đa số chúng ta đánh giá người khác qua việc đạo đức mà quên phần thánh thiện. Đức Kitô không nhìn người khác bằng hành động đạo đức bên ngoài. Ngài nhìn phần đạo đức xuất phát từ trong tâm hồn. Đạo đức đến từ tâm hồn được gọi một từ riêng là thánh thiện. Đạo đức bề ngoài không giúp cho người đó nên thánh. Chỉ có phần đạo đức thực sự đến từ trong tâm hồn, phần thánh thiện mới giúp cho Kitô hữu nên thánh. Đạo đức thánh thiện thực sự được thánh Phaolô nhắc lại điều Chúa dậy tóm gọn trong giới luật yêu thương.
Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Đó là: Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham... Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác Rm13,8-10
Câu đáp ca trong thánh lễ hôm nay cho biết dấu chỉ của Kitô hữu chân chính là Kitô hữu có lối sống khiêm nhường.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
Kitô hữu ngoại lai là Kitô hữu nghe tiếng Chúa nhưng vẫn cứng lòng. Như thế nào là cứng lòng, biến hoá, thoái hoá thành Kitô hữu dân ngoại. Phúc âm đưa ra thí dụ sau.
Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.Mt 18,15tt.
Kitô hữu không nghe lời giáo huấn của người lãnh đạo cộng đoàn trở thành Kitô hữu ngoại lai, chọn sống theo lối sống riêng, thích đấu tranh. Kitô hữu phạm lỗi mà từ chối nghe sửa dậy thì không thể là Kitô hữu chân chính. Bởi Kitô hữu chân chính khi lỗi phạm họ nghe theo lời chỉ dậy, sửa sai. Kitô hữu dân ngoại thiếu tinh thần khiêm nhường. Từ chối nghe theo hướng dẫn của người lãnh đạo cộng đoàn. Coi mình quan trọng hơn cả mọi người. Sống trong cộng đoàn để lợi dụng cộng đoàn làm bàn đạp gây thanh thế cho mình thì không thể coi là thành tâm phục vụ cộng đoàn.
Chúng ta hãy xin ơn chớ cứng lòng khi nghe tiếng Chúa.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. Tv 94,9.
47.Sinh hoạt trong đạo--Lm. Vũ Đình Tường
Sinh hoạt chung trong cộng đoàn dân Chúa là một nghệ thuật. Nghệ thuật sinh hoạt chung trong cộng đoàn đòi chấp nhận khác biệt và cảm thông. Cảm thông bao gồm cả việc chấp nhận thay đổi, quan tâm đến khó khăn của người và thực thi tình bác ái. Những điều này mang lại bình an và hài hoà trong đời sống mỗi thành viên và chung cho cả cộng đoàn. Mỗi người có cách sông riêng của cá nhân mình và những thành viên khác cần tôn trọng, với điều kiện cách sống riêng đó không ngược lại với tinh thần yêu thương, tha thứ trong Kinh Thánh. Bất đồng, tranh cấp, bất hoà xảy ra trong sinh hoạt chung là điều không thể tránh khỏi. Khi điều đó xảy ra tốt hơn hết là nên giải quyết càng sớm càng tốt. Mong rằng cứ làm lơ đi một thời gian bất hoà, tranh chấp sẽ chết theo thời gian là trốn tránh trách nhiệm của người lãnh đạo trong cộng đoàn. Bất hoà có thể không chết nhưng trở thành điều tai tiếng chung cho cả cộng đoàn và chia rẽ, bè phái là điều không thể tránh khỏi. Một khi đã có bè, phái, rạn nứt thì việc hàn gắn trở nên khó hơn và vấn đề giao hoà trở nên khó hơn gấp bội. Cá nhân và cộng đoàn thiệt thòi chỉ có kẻ ‘lợi dụng cơ hội’ là lợi hơn cả. Bất đồng dù lớn hay nhỏ đều gây nên rạn nứt và người lãnh đạo cộng đoàn cần tìm cách kiến tạo bình an cho cộng đoàn cũng như giúp các thành viên học khôn từ bất đồng và mục đích quan trọng nhất là giúp thành viên trung thành với đời sống đức tin. Danh Chúa không thể nào cả sáng nơi cộng đoàn có tranh chấp, bất hoà.
Cộng đoàn giải quyết bất hoà trong tâm tình yêu thương và công chính, không phải giải quyết theo phe phái hay thiên vị phe nhóm nhưng công tâm trong bác ái, yêu thương. Khi gặp vấn nạn phức tạp tiếng nói chung của người có trách nhiệm cần thể hiện tiếng nói của cả nhóm, không phải tiếng nói của người có uy tín nhất trong nhóm mà là tiếng nói chung cả nhóm đồng tâm như thế mới thể hiện được tiếng nói chung của cộng đoàn. Một khi tiếng nói chung bị từ chối người đó coi như tự tách mình ra khỏi cộng đoàn vì không công nhận quyền lãnh đạo chung của cộng đoàn. Từ chối như thế là tự chọn sống ngoài cộng đoàn, dù vẫn đang sống trong cộng đoàn nhưng cách xử thế là ngoài cộng đoàn. Trong truờng hợp này cộng đoàn không còn cách nào khác bằng cách thừa nhận tính cách chọn lựa của cá nhân đó. Chọn sống ngoài cộng đoàn chính là chọn đời sống của kẻ không tin Chúa hay đời sống của dân thu thuế. Người thu thuế thời Đức Kitô là người không tôn thờ Thiên Chúa nhưng là người cộng tác với thế lực ngoại bang để làm hại chính dân mình.
Tiếng nói chung của ban lãnh đạo là tiếng nói của con người nhưng tiếng nói đó được chính Đức Kitô xác nhận là cần thiết. Khi họ hội họp bàn về công việc chung trong tinh thần cầu nguyện chân thành, cởi mở và tinh thần bác ái thì họ nhận được ân sủng Chúa. Đức Kitô hiện diện trong các buổi sinh hoạt cầu nguyện thành tâm như thế. Cộng đoàn đức tin là nơi giúp giải quyết những bất đồng, chia rẽ nhưng cũng là nơi phát sinh bất đồng, chia rẽ. Cộng đoàn nâng đỡ, ủi an và chia sẻ khó khăn của mọi thành viên nhưng thành viên cũng có trách nhiệm chu toàn bổn phận cộng đoàn.
48.Giêsu: người cảnh báo trong chân lý và tình thương--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Quan sát các nhóm vật sống trên trái đất, người ta dễ nhận thấy có những cá thể làm nhiệm vụ cảnh báo. Cá thể cảnh báo đứng ở những nơi cao hơn, thoáng đãng hơn, giúp quan sát dễ hơn. Khi có dấu hiệu khả nghi, đe dọa, chúng phát tín hiệu để cả nhóm di chuyển đến nơi an toàn.
Cảnh báo được hình thành từ kinh nghiệm, nhằm duy trì, bảo vệ sự sống. Không ai phủ nhận giá trị khách quan của nhiệm vụ cảnh báo.
Đối với con người có trí khôn, cảnh báo trở thành một ngành khoa học công nghệ cao phục vụ chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, con người toàn diện còn cần sự cảnh báo thiêng liêng để sống xứng đáng phẩm giá Chúa ban, được hạnh phúc và sự sống muôn đời.
Lời Chúa hôm nay trình bày kế hoạch cứu độ được thực hiện trong Chúa Kitô: công trình cảnh báo trong chân lý và tình thương.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, nói về việc Chúa gởi các vị ngôn sứ làm nhiệm vụ cảnh báo, canh chừng cho nhà Israel.
Trước hết, họ phải là người được Thiên Chúa tuyển chọn, cắt đặt, mới đủ tư cách trở thành người phát ngôn: “Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel” (Ez 33, 7).
Kế đến phải là người trung tín và trung thực:
* Trung thành trong ơn gọi và sứ vụ đã lãnh nhận, không thối lui, nản chí trước những thử thách, gian truân. Trong mọi hoàn cảnh vẫn giữ được lòng trung thành cho đến chết, mới xứng đáng lãnh nhận triều thiên sự sống. Thánh tử đạo Phao-lô Phạm Khắc Khoan (chịu chém tại Ninh Bình) trả lời quan tổng đốc: “Cả đời tôi thuyết giảng đạo thập giá, không lẽ gì tôi chối bỏ và chà đạp thánh giá” (cf. Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam). Lòng trung tín là điều kiện tiên quyết của người được chọn và được sai đi.
* Trung thực: chuyển tải đúng nội dung sứ điệp ủy thác, không thêm, bớt, cắt nghĩa theo cảm quan loài người, phải cảnh báo khi thuận, cũng như nghịch cảnh. Chúa nói với vị ngôn sứ: “Ngươi nghe lời miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết” (Ez 33, 7). Sự trung thực với Lời làm cho ngôn sứ bị thiêu đốt, sống trong mòn mỏi, bách hại mọi lúc, mọi nơi, nhưng đó lại là phần thưởng Chúa hứa cho những ai hết lòng trung tín: “Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2, 10c).
Đòi hỏi đối với vị ngôn sứ trong bài sách thánh, cũng là đòi hỏi đối với tất cả thừa tách viên Lời Chúa trong Giáo Hội. Các linh mục phục vụ Lời, phải rao giảng Lời Chúa, không quảng diễn sự hiểu biết cá nhân, lại càng không được lợi dụng giảng đài để công kích, thóa mạ, trút giận lên đoàn chiên. Các ngài phải noi gương Chúa Giê-su lấy lời hiền lành, khiêm tốn và nhất là gương sáng đời sống, khích lệ dân Chúa để khao khát nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành, chuyên chăm lắng nghe, thực hành Lời Chúa.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, đặt những nguyên tắc nền tảng trong việc sửa lỗi. Không chỉ nêu nguyên tắc, những trên tất cả, Ngài thực hành các nguyên tắc, làm mô phạm cho tất cả chúng ta.
Giê-su là mục tử nhân lành, hiểu biết nhu cầu đoàn chiên. Người lấy lời hằng sống và chính thịt máu mình làm lương thực nuôi chiên. Sẵn sàng đối đầu với muông sói để bảo vệ chiên. Chữa lành mọi thương tích, bệnh tật, để chiên được sống và sống dồi dào.
Rõ ràng, Giê-su là người cảnh báo có thẩm quyền, thực thi sứ vụ trong chân lý và tình thương. Nơi Người, mọi ý muốn của Thiên Chúa đều được thực hiện: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó cho kẻ bị thương tích, giải phóng cho kẻ bị tù đày..., loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18 – 19).
Ngài cảnh báo bằng những bước phù hợp tâm trạng mỗi đối tượng: sửa lỗi rất quyết liệt, dứt khoát, không nhục mạ, chà đạp nhân phẩm người phạm lỗi, trái lại, tạo niềm vui mừng, hy vọng cho kẻ trỗi dậy trở về.
Bước 1: Sửa lỗi kín đáo, gặp gỡ cá nhân. Không làm cho người sai lỗi phải xấu hổ trước đám đông. Mục đích nhắm tới là sự hoán cải, không biến họ thành đề tài đàm tiếu, nạn nhân của kỳ thị khinh khi.
Bước 2: Nếu bước 1 bất thành, mới cần đến nhân chứng, ép người phạm lỗi chấp nhận sự thật. Cuối cùng, mới đưa ra cộng đoàn, không nhằm trừng phạt, nhưng đặt họ trong tình trạng lưu đày. Tình trạng sau cùng này cũng là cơ may giúp họ nhận ra ý Chúa, quyết tâm trỗi dậy trở về nhà Cha, như người con hoang đàng đã làm.
Trên tất cả, người được chọn làm nhiệm vụ cảnh báo phải mặc lấy tâm tư của Chúa, giầu lòng xót thương. Cảnh báo trong chân lý và tình thương, mới có thể đưa họ về với Chúa.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, xác định linh hồn của mọi hoạt động tông đồ là “tình yêu” và là mối dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Nếu con người chỉ mắc nợ nhau bằng tình yêu tương thân tương ái, họ sẽ giúp nhau nên hoàn hảo.
Dạy dỗ, cảnh báo trong chân lý và tình thương là chu toàn lề luật mến Chúa, yêu người và cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Đối với Phao-lô, tình yêu là ngôn ngữ của trời, vì nó phát xuất từ Thiên Chúa, cội nguồn tình yêu tuyệt đối. Đức ái là con đường siêu vời dạy chúng ta biết sống kiên tâm, nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ, cảm thông, biết chia vui cùng lòng chân thật.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách sửa lỗi cho nhau. Đây là nhiệm vụ quan trọng và tế nhị. Làm thế nào sửa lỗi, cảnh báo để người sai lỗi có thể chấp nhận thực trạng tâm hồn mình? Trước hết cần đến ơn Chúa và sự khôn ngoan để có thể cảnh báo họ đúng nơi, đúng lúc. Ơn Chúa đến với chúng ta qua cầu nguyện. Tôi có cầu nguyện nhiều cho họ không? Phải cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, ban ơn khôn ngoan, ban lòng thương xót Chúa, để việc chúng ta làm có sức lay động tâm hồn người nghe, giúp họ tự vấn lương tâm: “tôi phải làm gì?” như dân chúng từng xin thánh Gio-an Tiền Hô chỉ dạy.
Cần ý thức mình cũng là tội nhân. Phải luôn hoán cải, canh tân. Chỉ khi mắt tâm hồn mình sáng, mới có thể làm người dẫn đường cho tha nhân.
Trên tất cả, cảnh báo bằng gương sáng đời sống đạo đức có sức lôi kéo và thuyết phục hơn rất nhiều: “lời nói như gió lung lay, gương lành như tay lôi kéo”. Kitô hữu phải là ánh sáng, là men, là muối cho trần gian, có như thế, nhiệm vụ cảnh báo và sửa lỗi của chúng ta mới đem lại kết quả mong muốn, vì luôn được đặt trên nền tảng: chân lý và tình thương.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong ngày chủa nhật hôm nay. Amen.
49.Một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ--Lm. Minh Anh
“Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đặt chúng ta trên một con đường khá gay gắt, một con đường có tên là yêu thương, con đường có tên là kiếm tìm nhưng cũng là một con đường có tên là cứu độ. Thiên Chúa đặt Êzêkiel làm người tìm kiếm dân Chúa, đưa những người lầm lạc trở về; với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ ra tuần tự các bước trên con đường ấy: bước yêu thương, bước khiêm hạ, bước gặp gỡ và quan trọng nhất, nhìn nhận kẻ lầm lạc là người anh em. Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Hội Thánh Chúa Kitô là một Hội Thánh lữ hành; ở đó, không phải tất cả con cái Hội Thánh là thiên thần, là cá lớn, là lúa tốt; nhưng ở đó, khi mọi người đang trên đường nên thánh, còn có cả những con người yếu đuối như chúng ta và nhiều khi, đáng thương hơn chúng ta về phần linh hồn. Thiên Chúa muốn chúng ta đi tìm kiếm họ. Đó cũng là những con người đang được Thiên Chúa xót thương, Người muốn chúng ta thương xót nhau; đó có thể là những tội nhân, những cỏ lùng và dù gì đi nữa, thì trước hết đó vẫn là người anh em, chị em của tôi; những người đáng được tôi yêu thương như chính bản thân như giới răn thứ hai đòi hỏi.
Trong bài đọc thứ nhất, Thiên Chúa nói với Êzêkiel, “Khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng, ‘Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết’; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi”. Êzêkiel không thể thoái thác lời Thiên Chúa, ông phải đến với dân, cũng như chúng ta không thể không cất bước đi tìm kiếm người anh em đang trên đường hư mất. Như việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người mang ý nghĩa cứu độ thế nào, thì cuộc tìm kiếm người anh em lầm lỗi của chúng ta cũng mang tính cứu độ như thế; yêu thương ai, trước hết là muốn cho người ấy được cứu độ. Vì thế, tìm kiếm người anh em là một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ.
Thánh Vịnh đáp ca hôm nay là một lời van xin của những ai được sai đi trong yêu thương ngỏ với người anh em lầm lạc của mình, “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, ‘Các ngươi đừng cứng lòng’”. Đó phải là một lời van xin thực sự chứ không phải là một mệnh lệnh; một lời van xin như Thánh Ambrôsiô đã van xin Augustinô quay trở về, “Với chúng ta, Đức Kitô là tất cả! Nếu con có một vết thương cần phải chữa lành, Đức Kitô chính là vị lương y; nếu con khát khô vì cơn sốt, Đức Kitô chính là dòng suối mát; nếu con cảm thấy chán nản vì những bất công trong cuộc đời, Đức Kitô chính là Đấng công bình và rất mực công minh; nếu con cần giúp đỡ, Đức Kitô là sức mạnh; nếu con sợ chết, Đức Kitô là sự sống; nếu con khát mong nước thiên đàng, Đức Kitô là con đường dẫn về thiên quốc; nếu con ở trong bóng tối, Đức Kitô chính là ánh sáng… Hãy nếm thử và hãy nhìn xem, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc cho những ai cậy trông nơi Người!”.
Đặc biệt với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu phác hoạ một trình tự tiệm tiến của một lộ trình yêu thương và tìm kiếm vốn đòi hỏi sự bền chí khi chúng ta đi tìm người anh em đáng thương của mình. Con đường này được đặt nền móng trên lòng thương xót và sự khiêm hạ, một con đường mà Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai thành tâm cầu xin. Thông thường, khi một ai đó sai lỗi, chúng ta phê phán, lên án và quên mất người ấy là anh em, chị em; hậu quả là chúng ta dễ dàng loại trừ; đó là dấu hiệu của việc thiếu thương xót. Thương xót thật sự sẽ giúp chúng ta nhận thức sai lỗi của người anh em như là cơ hội cho một tình yêu lớn lên và đó phải là khởi đầu cho bước kiếm tìm. Bởi thế, việc công khai tội của người anh em không bao giờ là bước đầu tiên, thay vào đó là âm thầm cầu nguyện, tìm kiếm, ước ao gặp gỡ và hoà giải.
Vậy làm sao để tiếp cận người anh em, nhất là khi họ chống lại chúng ta? Đây là một công việc vô cùng khó khăn vốn đòi hỏi nhiều lời cầu nguyện, hy sinh, nỗ lực và sáng tạo. Trước hết, trong yêu thương, tìm kiếm đối thoại chỉ giữa hai người; tiếp đến, nếu cần, mời những người đáng tin trợ giúp; và sau cùng là đưa đến Hội Thánh. Mục đích cuối cùng là Thiên Chúa, là sự thật, để sự thật đó có thể phục hồi sớm nhất mối tương quan hiệp nhất của người anh em với Chúa và Hội Thánh. Chỉ sau khi đã cố gắng hết sức mà vẫn hoài công, chúng ta mới nghĩ đến việc rũ bụi chân và phó thác người anh em cho lòng thương xót của Thiên Chúa và đừng quên cầu nguyện và hy sinh cho họ gấp bội; cả khi điều xấu nhất xảy ra, hành vi rũ bụi chân vẫn là một hành vi yêu thương vốn vẫn hy vọng một ngày nào đó, người anh em sẽ nhận ra hệ trọng của những lầm lỗi họ gây nên để quay trở về. Qua thư Rôma hôm nay, chúng ta được Thánh Phaolô nhắc nhở, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Một lần nọ, khi một nhóm 50 người trong cùng một công ty đang tham dự một cuộc hội thảo thì bất ngờ, vị diễn giả dừng lại và quyết định làm một hoạt động nhóm. Mỗi người được trao một quả bóng để viết tên mình lên đó bằng một bút lông. Toàn bộ số bóng được thu lại và để vào một căn phòng. Những người tham gia sau đó, được yêu cầu trong vòng năm phút, tìm lại quả bóng có tên mình. Tất cả nháo nhào đi tìm; họ xô xát, húc đẩy nhau, tạo thành một mớ hỗn độn người và bóng trong căn phòng. Năm phút trôi qua trong hỗn loạn, không ai tìm được quả bóng đang bay lên rơi xuống của mình. Vị diễn giả tiếp tục yêu cầu những người tham gia chọn ngẫu nhiên một quả bóng trong phòng và tìm kiếm người có tên được ghi trên quả bóng. Thật đáng kinh ngạc, trong không khí thân thiện, chưa tới năm phút ai nấy đã cầm trên tay quả bóng ghi tên mình.
Anh Chị em,
Đẹp thay bước chân người đi loan báo Tin Mừng, loan tin bình an; và cũng đẹp thay bước chân ai đi tìm kiếm người anh em, chị em đang hư mất của mình. Mỗi chiếc bóng trong câu chuyện tượng trưng cho tình yêu, phẩm giá, sự tha thứ và lòng xót thương của chúng ta dành cho người anh em đáng thương mà chúng ta đang kiếm tìm. Hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta; trái tim của chúng ta chỉ được lấp đầy khi trái tim ai đó cũng được lấp đầy và thương tích ở đó được chữa lành. Thánh Phaolô thật chí lý, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương; vì yêu thương là chu toàn lề luật”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ai cũng được Chúa thương, và xem ra, ai cũng nói, Chúa thương họ nhất và con cũng thế. Xin cho con biết thương người anh em lầm lỗi của con, cho con biết cất bước đi tìm họ, một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ”, Amen.
50.Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị!--Anmai
"Nhân vô thập toàn": một câu nói như gói ghém phận người. Là người, có ai dám tự cho mình, tự nhận mình là hoàn hảo.
Lỗi: sống trên cái cõi trần này ai là người không mắc lỗi!
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác!? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm "mổ". Khi Ngài đem ra bàn cơm "mổ" rồi thì hình như cả Học Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời Học Viện.
Lỗi thì dĩ nhiên lúc nào cũng có nhưng cách sửa lỗi rất khác nhau. Với cái nhìn và cái suy nghĩ hết sức bình thường của mình, tôi thiển nghĩ rằng ai cũng muốn được hành xử với nhau, được người khác sửa lỗi như Cha giáo thời đệ tử của tôi chứ chẳng ai muốn cách hành xử như Cha giáo thời Học Viện. Vì lẽ là con người, ai cũng có danh dự, cũng có lòng tự trọng cả và vì thế, chuyện sửa lỗi là một vấn đề không phải là nhỏ trong cuộc sống nhưng là vấn đề lớn mà chúng ta thường gặp trong đời thường.
Trang tin mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta cách sửa lỗi hết sức tế nhị của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhạy cảm và phải nói là hết sức nhạy cảm trước những người phạm lỗi. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu là một nhà giáo dục tài ba, khéo léo, thu phục lòng người. Ngài chinh phục con người bằng cái tâm, bằng tấm lòng chứ không phải bằng luật lệ, bằng lý trí. Chúa Giêsu là thầy dạy nhân bản vì lẽ cách cư xử của Ngài với những con người tội lỗi, yếu đuối hết sức là nhân bản.
Ngày hôm nay, giữa cái xã hội phát triển hết sức chóng mặt, thành tựu khoa học đạt mức này tầm kia nhưng bên dưới đó toát lên một lối sống nhân bản, lối sống chỉ biết mình mình. Không biết nói có quá hay không nhưng hình như ngày hôm nay người ta sống thiếu nhân bản, sống thiếu tình con người với nhau.
Trở lại với sách ngôn sứ Edêkien mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Đức Chúa - Thiên Chúa của Israel - về sự quảng đại, về lòng bao dung, về lòng tha thứ của Đức Chúa: "Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết... nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại...". Chúng ta thấy đó, từ Cựu Ước đến Tân Ước Thiên Chúa tỏ cho con người, cho chúng ta biết Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy lòng mến với con người, cách riêng là những con người tội lỗi. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi sự cải hoá của con người. Dù con người có lầm lỗi đến đâu đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa vẫn chờ và vẫn đợi.
Nhìn lại cuộc sống của mỗi người chúng ta qua trang Tin mừng theo Thánh Matthêu và sách Êdêkien xong chúng ta cảm thấy quá xấu hổ. Xấu hổ vì lẽ lúc nào chúng ta cũng hăm hăm bêu xấu người khác hơn là hơn là sửa lỗi chân tình. Điều nghịch lý vẫn diễn ra trong chính con người chúng ta. Vẫn oang oang và thật to tiếng để đọc mỗi ngày: "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con". Mình muốn Chúa tha cho con người tội lỗi của mình còn anh chị em mình xúc phạm đến mình mình lại không chịu.
Thử đặt mình trước mặt Chúa chúng ta thấy buồn cười cái con người của mình. Mình thì phạm biết bao nhiêu tội mà toàn là những tội tầy đình. Tội mình phạm mình rất khéo bưng bít nhưng nào bưng bít trước mặt Chúa. Thế nhưng chúng ta thấy đó, Chúa vẫn lặng yên và chờ đợi sự hoán cải của chúng ta còn chúng ta thì sao trước con người yếu đuối. Cái bệnh, cái tật xấu của người Việt Nam đó là buôn dưa lê. Hễ ngồi đâu là bươi móc và nói xấu anh chị em đồng loại mình. Hễ cứ tụm năm tụm ba lại là đem anh chị em mình lên bàn mổ. Rất buồn cười, trong tập thể, trong cộng đoàn, trong sở làm hay trong các hội đoàn, các ca đoàn khi người ta tụ tập với nhau một nhóm người thì bỗng chốc những câu chuyện qua lại trao đổi của họ khó có thể tránh được cái chuyện là đem một người trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn lên bàn mổ. Khi ấy thì mạnh ai nấy nói và nói một cách hết sức vô tư không hề để ý đến danh dự của người mà mình đang đem lên bàn mổ. Tại sao mình không tìm dịp, tìm cách để mà sửa lỗi những người mình muốn sửa mà phải làm như thế. Thử đặt trường hợp ta là người bị đem lên bàn mổ thì ta sẽ nghĩ thế nào? Ta thấy khó chịu, bực mình mà tại sao ta lại đối xử với người khác như vậy? Ta sống sao thiếu bác ái, sống bất công vậy?
Lý do tại sao ai cũng biết, đó chính là do lòng bác ái nơi con người ngày càng hẹp lại. Con người người ngày hôm nay đã đi vào lối sống mackeno, lối sống chủ nghĩa cá nhân để rồi chỉ biết mình chứ ngoài ra không biết ai khác nữa. Vì không biết ai khác ngoài ta nên ta mới hành xử với anh chị em đồng loại như thế.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta mang luật đời, luật Giáo hội, luật hội dòng, luật tu hội ra để mà hành xử với anh chị em đồng loại. Chúng ta quên đi trên luật hay giữ luật không gì đẹp hơn là chu toàn lề luật như Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật... Đã yêu thương người thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13,8.10). Chúng ta cứ chăm chăm vào luật lệ và quên đi tình bác ái, lòng mến nên chúng ta cứ đi làm hại đồng loại bằng cách nói hành nói xấu ném đá anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại phạm lỗi thay vì phải hết sức tế nhị đi sửa cho họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy, đã nhắc lại cho chúng ta bài học hết sức là tuyệt vời về sửa lỗi cho nhau. Muốn hành xử như Ngài, không khác gì hơn là chúng ta phải có lòng mến. Lòng mến đấy không tự nhiên mà có nhưng lòng mến đó phát xuất từ đời sống chiêm niệm, đời sống cầu nguyện và lòng biết ơn. Nếu chúng ta chiêm niệm chúng ta sẽ thấy được Chúa yêu ta thế nào và khi nhận ra Chúa yêu thương ta thì ta sẽ sống yêu anh chị em đồng loại như vậy. Khi yêu anh chị em đồng loại thì chúng ta sẽ sửa lỗi, sẽ hành xử với những con người yêu đuối khác lối hành xử của con người ích kỷ, độc ác.
Nguyện xin Thiên Chúa là Vua của tình yêu đến, ở lại và đổ tràn đầy tình yêu của Ngài xuống trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta biết yêu thương anh chị em đồng loại và hành xử bác, ái tế nhị với anh chị em đồng loại hơn. Amen.
51.Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Ba đoạn trong bài Tin Mừng mà Giáo Hội đem ra làm bài học có vẻ khác nhau xa, như thể Chúa đã lần lượt nói về những vấn đề riêng biệt. Cứ sự thực thì những lời nói của Chúa Giêsu đều gặp nhau trong cái thực tại là cộng đoàn Kitô giáo. Trong cộng đoàn thường có những luật lệ sống chung, và hơn nữa, giáo quyền có phép ban hành những luật sống đó và cuối cùng tất cả đều được thực hiện nhân danh Đức Kitô và chính vì thế mà có Chúa Kitô hiện diện trong đó.
1) Những luật sống chung trong Giáo Hội –trong cộng đoàn Kitô giáo đều nhắm đến đối tượng chính là làm cho Đức Ái được mọi người tôn trọng. Chúa chỉ dẫn cho chúng ta cách thức phải giữ trong trường hợp có tranh chấp. Công việc đầu tiên phải làm là tạo sự gặp gỡ, giữa cá nhân và cá nhân trong ước muốn tìm hiểu nhau hơn. Có hai trường hợp có thể xảy ra, dựa trên ý nghĩa của câu nói: “Nếu người anh em của con phạm tội”. Theo nghĩa đầu tiên thì hễ người nào phạm đến Thiên Chúa cách tỏ tường, trong trường hợp này, phải bắt đầu bằng cách giữ kín điều lầm lỗi mà mình biết được, rồi với thái độ thông cảm, tìm cách đưa người anh em ra khỏi chỗ lầm lạc. Theo nghĩa thứ hai, hễ người nào đó có lỗi với chúng ta, tức là làm hại đến chúng ta, lúc đó phải tìm cách giúp người anh em có lỗi hiểu rõ sự thiệt hại đã gây ra cho chúng ta, rồi không làm nữa. Nếu công việc đầu tiên ấy tỏ ra không có kết quả, lúc đó người ta mới chạy tới cộng đoàn để xin sửa trị kẻ lầm lỗi. Và nếu lúc đó kẻ ấy cũng không sửa mình, ta vẫn không có quyền khai trừ, không cầu nguyện và không tha thứ cho kẻ ấy, nhưng ta có cớ để cắt đứt ít nhiều mối tương quan thuộc phạm vi xã hội.
2) Điều mà chúng con ràng buộc ở dưới đất… Ta vừa thấy Chúa ban cho “Giáo Hội”, cho cộng đoàn Kitô giáo, quyền xét xử cách ăn ở của một trong các thành phần của Giáo Hội. Giáo Hội chỉ có thể làm được điều này nhờ những kẻ cứng đầu, những người có trách nhiệm. Người ta có quyền đi từ Giáo Hội, quan niệm dưới khía cạnh quyền bính, đến con người của các vị thủ lãnh. Trong Giáo Hội toàn thể các tín hữu sống Đức tin, nhưng do ý muốn của Chúa Kitô, cũng có những người mang trách nhiệm giáo dục đức tin và giúp kẻ khác thực hành đức tin cách trung thành. Đó là các tông đồ với vị thủ lãnh là Phêrô. Ngày nay ta có các giám mục và vị thủ lãnh là Đức Giáo Hoàng. Ở điểm này, một đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu có nói rõ về vai trò nổi bật của Phêrô và qua đó vai trò của Đức Giáo Hoàng (Mt 16, 19). Xin xác định điểm này là Phêrô xưa vốn là Giám mục của giáo phận La mã. Đức Giám mục của La mã đích thân là người kế vị của Phêrô. Người tiếp tục giữ quyền hành và chức vụ của Phêrô. Các vị tông đồ khác lập thành Giám mục đoàn đầu tiên, mặc dầu không được cơ cấu hóa nhưng là có thực. Ngày nay các vị Giám mục là những người kế vị tập thể các tông đồ với các quyền hạn và chức vụ của các ngài. Do ý muốn của Chúa Kitô, Phêrô có quyền trên toàn thể các tông đồ. Cũng thế, Đức Giáo Hoàng ngày nay cũng có quyền trên đoàn thể các Giám mục. Cái quyền ấy nằm trong địa vị nổi bật đối với cá nhân Người và cũng là quyền quyết định trong việc chia sẽ một công việc chính yếu là cai quản Cộng đoàn của Giáo Hội.
3) Cộng đoàn sống trung thành với đức tin và đức ái lôi kéo sự hiện diện của Chúa Kitô. Khi các Kitô hữu, dầu là ít ỏi và nếu chỉ có hai người đi nữa, mà tụ họp với nhau nhân danh Đức Giêsu thì Người ở giữa họ. Điều ấy có nghĩa là, khi chỉ có hai người công giáo với nhau, và nếu họ biết thông cảm trong đức tin và đức ái, họ làm thành một tế bào của giáo hội. Không biết người ta có thấy được tầm quan trọng của điều này trong đời sống gia đình, lúc hội họp anh chị em trong khu phố hay trong những hoạt động chung để mở rộng Nước Chúa? Một nhận xét quan trọng: lẽ dĩ nhiên là một tế bào của Giáo Hội chỉ có giá trị khi giữ được liên lạc và đoàn kết với Giáo Hội phổ quát cách mật thiết.
52.Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Alfonso
Tin Mừng Mt 18: 15-20: Sửa lỗi đòi sự tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Đây là một bổn phận và bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân.
Suy niệm
Có lần có người hỏi chứ trên đời này, đố biết sợi dây gì dài nhất? Thưa đó là sợi dây kinh nghiệm. Cho nên chúng ta cứ phải rút kinh nghiệm hoài hết lần này đến lần khác. Vâng, sống trong trần gian này, đã là con người chắc chắn có những lúc chúng ta lầm lỗi, sai sót, và có câu danh ngôn rằng “Ai nên khôn mà chẳng dại một lần”. Và thực tế mà nói, không chỉ dại một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Và với trẻ nhỏ mà phạm lỗi thì bị cho là non dại, lớn mắc lỗi thì bị cho là thiếu trưởng thành, trung niên mà mắc lỗi thì bị cho là chưa chín chắn, người già mắc lỗi thì gọi là bảy mươi chưa gọi là lành. Vậy mới nói, người mắc sai lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Chính vì thế mà cuộc sống chúng ta như sỏi đá cần có nhau để giúp sửa lỗi cho nhau.
Qua bài đọc thứ I, Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Êdêkiel răn dạy chúng ta: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Đối diện với những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, chúng ta không được phép làm ngơ theo chủ nghĩa “mackeno” nghĩa là mặc kệ nó, hoặc “Ui, khôn thì nhờ, dại thì chịu”. Đời sống con người mang tính xã hội, cho nên có tính liên đới với nhau và có nghĩa vụ giúp nhau hoàn thiện. Tôi có bổn phận giúp người anh em quay trở lại đường ngay nẻo chính theo đạo lý làm người, và làm con Chúa, không được dửng dưng để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi.
Hành vi bác ái Kitô giáo không phải chỉ là giúp đỡ vật chất hay tiền của mà thôi, nhưng còn là giúp nhau hoàn thiện. Chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau trong tình bác ái. Đúng như thế, sửa lỗi không phải chỉ trích, công kích, rêu rao lỗi lầm của nhau. Chỉ trích thường thiếu bác ái, thiếu tinh thần xây dựng cho nhau. Sửa lỗi đòi sự tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Đây là một bổn phận và bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân.
Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em mình đầy tình bác ái Kitô giáo.
– Bước thứ nhất là đối thoại để giúp người anh em nhận ra điều sai trái từ hành động hay lời nói của họ. Việc này cần phải hết sức tế nhị để tránh gây tổn thương cho người anh em. Vâng, “khen thưởng công khai, sửa sai thầm kín”, cho nên bước đầu tiên chỉ riêng mình với người mình muốn góp ý để giữ thanh danh, thể diện cho họ.
– Sau khi đã thực hiện bước thứ nhất mà không thành công thì mới tiến tới. Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là người thân hoặc bạn hữu của người mình cần góp ý hoặc người uy tín được mọi người nể trọng nhằm giúp họ nhận ra lời góp ý đó mang tính khách quan, không phải vì sự ghét bỏ loại trừ nhau.
– Nếu vẫn không thể lay chuyển được sự ươn ngạnh của người phạm lỗi, Chúa Giêsu dạy chúng ta mới đi đến Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng vì “quốc có quốc pháp, gia có gia qui. Con người ta sống bên cạnh luật còn có lệ để giúp người trong cộng đoàn giữ kỷ cương. Chính môi trường cộng đồng cũng có ảnh hưởng hình thành và uốn nắn đời sống tâm tính một người.
– Nếu người phạm lỗi vẫn cứng lòng, Chúa chỉ cho chúng ta bước thứ tư: kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế. Và chúng ta biết, đây là những hạng người cần đến lòng xót thương hơn là sự loại trừ. Chẳng phải chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói với chúng ta trong Tin mừng theo thánh Luca (Lc 5,31-32) đó sao: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Điều này cho thấy khả năng thuyết phục của con người không phải lúc nào cũng thành công, vì thế hãy chạy đến với Chúa và nhờ Người giúp sức. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta được ơn hoán cải. Chúa Giêsu không bao giờ cho phép chúng ta bỏ cuộc ngay cả khi với sức lực con người không thể nào lay chuyển nổi.
Đã có nhiều trường hợp, như mẹ Têrêsa Calcutta giúp cho người vô gia cư được tìm lại niềm vui cuộc sống, thánh Monica đã nhờ lời cầu nguyện hoán cải được chồng con….
Chuyện kể về nhà tù Challapalca, trại giam có độ cao 4800 mét so với mực nước biển. Nét đặc trưng của nhà tù này là nằm trong một khu vực khắc nghiệt, trên các dãy núi không thể tiếp cận được, cách xa khỏi các khu dân cư, hầu như không có bất kỳ thông tin liên lạc nào nơi đây bị xem như “hỏa ngục trần gian”, nơi giam giữ những tù nhân khét tiếng. Người ta sợ đến đó, lính canh phải hết sức để ý. Nhưng cha Gigi Ginami, một linh mục làm việc tại Roma, đã đến thăm và giúp cho nhiều tù nhân hoán cải, thay đổi cuộc sống. Đức cha Ciro Quispe Lopez, Giám mục địa phương, nghe biết rằng có một linh mục từ Roma đã đến trại tù này và muốn tiếp tục trở lại đó để gặp gỡ các tù nhân, ngài đã không tin vào tai của mình. Đức cha tự hỏi: Nhưng mà một nhân viên giáo triều Roma làm gì ở đây, ở độ cao 4600 mét như thế? Hoạt động nguy hiểm này đã được đức cha Quispe Lopez và chính cha Gigi Ginami thuật lại trong cuốn sách “Angel” được đặt theo tên của một trong những tù nhân nguy hiểm nhất bị giam tại đó: Angel, và cũng là nhân vật chính của cuộc hoán cải gây sốc. Cuốn sách “Angel” kể lại những cuộc hồi sinh thầm lặng nhưng cũng hêt sức kỳ diệu, nhờ sứ vụ của cha Ginami.
Tại Challapaca, nơi mà một Thánh lễ đã được cử hành trong nhà tù, tại hành lang của trại cải huấn, nơi các lính canh và tù nhân đã sống hòa bình với nhau trong 60 phút. Đó là một kỷ lục. Đức cha Quispe Lopez cho biết giây phút chúc bình an cũng thật an bình, như đang diễn ra tại một giáo xứ. Đức cha nói: “Nó khiến tôi can đảm và cả tôi cũng đi đến ôm chào mỗi tù nhân và chúc bình an cho họ. Cha Gigi đã đến ngồi giữa các tù nhân mà không chút lo lắng bất an hay sợ hãi. Tôi tự hỏi: Điều gì đã khiến vị linh mục từ Vatican đến nơi này, với những tù nhân nguy hiểm nhất, những con người bị bỏ rơi? Tôi không thể tin vào mắt mình”. Cha Gigi nói với các tù nhân bằng tiếng Tây Ban Nha: “Anh em đừng ngoái nhìn lại đàng sau; hãy nhìn về phía trước”. Angel cũng ở trong số tù nhân này, một trong những tù nhân đáng sợ nhất ở nhà tù. Anh đã xin cha Gigi giải tội cho anh. Người lính gác không rời mắt khỏi Angel, theo lệnh chống bạo động, không bao giờ hết lo sợ rằng anh ta có thể làm hại vị linh mục.
Khi nhìn thấy Angel xưng tội, cả người lính gác cũng quỳ gối xuống ở một góc phòng giam và cởi bỏ mặt nạ xuống. Cha Gigi nhìn thấy những giọt nước mắt của kẻ sát nhân. Cha nói với anh ta: “Angel, nếu anh thật sự muốn trở thành một con người mới và và đền bù tội ác mà anh đã gây ra, nếu anh có tiền, hãy sử dụng nó cho những người là nạn nhân của anh, xin lỗi họ, sống những năm ở trong nhà tù này và dâng những khó khăn vất vả cho những người anh đã giết và hành hạ. Sau đó, chúng ta hãy ôm chào nhau và cùng đọc kinh Kính Mừng Maria”.
Lạy Chúa, bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng con không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn, nhưng cảm thông với yếu đuối của tha nhân. Cần loại trừ tội lỗi nhưng nhưng không được tẩy chay anh chị em mà phải vực họ dậy từ vũng bùn đen tối để giúp họ làm lại cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tình bác ái khi sửa lỗi và giúp nhau trên con đường hoàn thiện làm con cái Chúa. Amen.
53.Chúng ta là người canh chừng một người khác--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Bộ phận dự báo thời tiết bị buộc phải báo trước những cảnh báo cho mọi người về những hoàn cảnh nguy hiểm có thể xảy ra, ví dụ như bão tố, lụt lội. Những nhân viên trong bộ phận dự báo thời tiết không bị tố cáo bởi bổn phận của họ phải đưa ra những giả định mà dân chúng lại không muốn nghe cảnh báo theo cách đó, hoặc cảnh báo áp đặt trên họ và làm cho họ giận dữ hay mang các tin tức xấu đến làm làm cho dân chúng cảm thấy bất an.
Phụng vụ trong Chúa Nhật này làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta có trách nhiệm đối với những người khác. Những cơn bão đã nổ lên trong đời sống của nhiều người, những người mà các bạn quen biết và yêu thương. Bộ phận dự báo thời tiết không thể ngăn cản được lũ lụt hay bão tố, nó chỉ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm bao nhiêu có thể, để cho mọi người chuẩn bị đón nhận hay tránh xa tai hoạ. Không giống như những nhân viên dự báo thời tiết, chúng ta có thể thật sự xoay chuyển được những cơn bão cá nhân ra chỗ khác, đặc biệt là khi chúng ta cảnh báo kịp lúc.
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện là Thiên Chúa chỉ định chúng ta là người canh chừng người khác như Người đã chỉ định tiên tri Êzêkiel. Chúng ta phải nhận ra rằng món nợ trói buộc chúng ta với tình yêu tha nhân, bao gồm trong việc can đảm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm hoặc những tai hoạ sắp xảy ra.
Nhiều thiếu niên đã bực tức với vha mẹ và thầy cô giáo của chúng vì các ngài đã cảnh báo chúng về những điếu thuốc, những chai rượu, say xỉn và chuyện phái tính. Bọn chúng nghĩ rằng mình đã đủ lớn “để thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa”, rằng bọn chúng không còn “khờ” đâu. Bọn chúng ước ao được đối xử giống như những người trưởng thành và nói về những chuyện khác. Áp lực trên những người có trách nhệm với lũ trẻ thật lớn lao, nhưng chúng ta chỉ hối tiếc khi chuyện đã xảy ra mà chúng ta không cảnh báo trước.
Những người trưởng thành biết rõ hơn những bạn trẻ, nhưng họ vẫn mắc sai lầm. Thường thường chuyện đó xảy ra khi một cuộc hôn nhân tan vỡ, một người bạn nói: “Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, tôi thấy trước chuyện này sẽ đến thôi”.
Một số người sẽ lắc vai người bạn và hỏi: “Vì sao anh không báo hay nói trước với tôi về chuyện ấy?”
Một người đàn ông hay một phụ nữ mất việc vì ông hay bà ấy quá say xỉn do uống nhiều bia rượu. Đó là điều xảy ra mà không hề bất ngờ, thường thường người ta không chú ý đến vị hôn phu, bạn bè hoặc người cộng tác. Thật là xấu hổ nếu không có người can đảm đứng lên và nói: “Bạn cần sự giúp đỡ. Hãy đến với tôi trong một buổi họp mặt của nhóm AA”.
Dân chúng của những thời đại khác nhau có thể dần dần lạc xa khỏi Giáo Hội. Họ trở nên bất thường trong việc đi tham dự thánh lễ. Chẳng mấy lúc, họ chỉ còn đi hai lễ là Giáng sinh và Phục sinh, rồi sau đó là chẳng đi một lễ nào hết. Họ mất đi cảm thức về sự định hướng và mục đích của đời sống. Có thể là bởi không có người nào nồng nhiệt mời họ lưu lại Giáo Hội, hoặc khẩn nài họ trở lại với việc thực hành đức tin công giáo của họ?
Thật không dễ dàng chút nào khi phải cảnh báo người khác. Họ có thể ra đi và mất luôn. Nhưng giống như tiên tri Êzekiel, chúng ta phải làm một người canh chừng những người khác. Món nợ mà chúng ta nợ trói buộc chúng ta vào tình yêu dành cho người khác, bao gồm việc buộc phải cảnh báo người khác về những nguy hiểm thiêng liêng trong đời sống của họ, hay tha lỗi cho những người không tin chúng ta hay bổn phận của chúng ta. Chúng ta không thể lạm dụng khi cho rằng người hay thắc mắc sẽ không muốn lắng nghe chúng ta, hoặc ông (bà) ấy sẽ bỏ đi và giận dữ, hoặc là vì chúng ta không thích hợp với loại công việc như vậy.
Trong Thánh lễ chúng ta hợp giọng cùng mọi người để cầu nguyện cho tha nhân. Sự cầu nguyện này sẽ dẫn chúng ta tới lẽ phải. Chúng ta biết rằng lẽ phải là chấp nhận trách nhiệm đối với những người khác.
54.Sửa lỗi nhau--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Tại một tu viện kia, có ông thầy ngang ngược, ban đêm trốn ra khỏi tu viện; có lẽ ông thầy đang gặp khủng hoảng gì đó. Nhiều người bảo người ta thấy ông thầy này về khuya lắm. Cha giáo bận tâm lo lắng không biết làm sao giúp người anh em mình vượt qua được tình trạng khủng hoảng này. Cha giáo lấy tràng hạt ra đọc kinh. Chục kinh thứ nhất không thấy ông thầy về; chục kinh thứ 2 cũng chẳng thấy ông thầy đâu; chục kinh thứ 3 còn dang dở thì nghe thấy tiếng mở cửa. Ông thầy về tới- đồng hồ cũng đã điểm 1h. Cha giáo lặng lẽ chỉ nói với người anh em: ngủ sớm đi em kẻo mai mất lễ. Nào ngờ, thời gian thấm thoát- ông thầy trơ thành một linh mục rất dễ thương – gần gũi, yêu thương, cảm thông với anh chị em giáo dân của mình.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay vì không ai trong chúng ta là người hoàn hảo; thánh thiện hết. Vì thế, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi cho nhau.
- Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
- Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
- Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi xa hội đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn.
- Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận như Lời Chúa Giêsu hôm nay nói: "Thầy bảo thật: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Như vậy, bác ái Kitô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Bác ái Kitô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn, như Ngôn sứ Ezekien đã đón nhận sứ điệp từ trời cao: “Hỡi con người, Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Itraen” ngươi hãy nói cho những kẻ lầm đường lạc lối biết đường trở về nẻo chính đường ngay để nó được sống. Đó cũng chính là sứ điệp mà Chúa cũng nói với cộng đoàn – nói với từng người chúng ta. Chúng ta không phải là những người hoàn toàn vô trách nhiệm với anh em chị em của mình; tất cả chúng ta sống liên đới với nhau trong ân nghĩa. Không ai là một hòn đảo giữa cuộc đời này, chúng ta có trách nhiệm trong cuộc đời của nhau; trong sự thành toàn của nhau trên con đường tiến về Vương quốc.
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, biết lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, để kiện toàn anh chị em chúng ta ngày càng nên trọn lành thánh thiện như lòng Chúa mong muốn. Amen.
55.Tin mừng mời gọi chúng ta cổ võ cho tình thương và công lý--Jaime L. Waters
(Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Nếu bạn thường tập trung vào hành vi và hạnh phúc của riêng mình mà không quan tâm đến hành động của người khác, các bài đọc của Chúa nhật XXIII Thường niên hôm nay đặc biệt dành cho bạn. Bài đọc thứ hai là lời nhắc nhở yêu thương tha nhân, bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng mời gọi chống lại việc đồng lõa với sự hư hỏng.
Trong Thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô trích một phần của Mười điều răn vốn mời gọi hành vi cư xử đạo đức (Xh 20,13-17; Đnl 5,17-21). Ngài nói rằng các tín hữu chu toàn lề luật khi “yêu mến người khác như chính mình”, một lệnh truyền trong sách Lêvi mà trong Tin mừng Chúa Giêsu cũng trích lại. Thông thường, ở đây từ sử dụng cho tình yêu (Agape) được nhấn mạnh như một hành động quên mình, mô phỏng theo tình yêu Thiên Chúa dành cho các thụ tạo. Lời mời gọi yêu thương “như chính mình” cũng rất quan trọng. Nó thêm sự tương tác qua lại cho “phương trình tình yêu”, đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh phương cách đối xử với người khác theo cách chúng ta muốn được đối xử. Điều này nhắc nhớ chúng ta suy nghĩ đến cách thức những hành động của mình ảnh hưởng đến người khác. Như các sự kiện trong thời gian vừa qua cho thấy nhiều người đã bị đối xử với sự khinh miệt và coi thường hơn là với tình yêu. Nếu chúng ta không muốn bị đối xử như vậy, chúng ta cũng không nên cư xử với người khác theo cách đó; hơn nữa, chúng ta không nên chọn lựa những người lãnh đạo công khai cổ võ sự thù ghét hơn là yêu thương.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách ngôn sứ Êdêkien, vị ngôn sứ được nhắc bảo để cảnh báo mọi người về cuộc sống giữa như hư hỏng. Thiên Chúa hướng dẫn Êdêkien nói cho những kẻ gian ác phải lo sửa chữa hành vi của họ. Nếu ông đã cảnh báo, mà họ vẫn không chịu thay đổi, thì người gian ác sẽ phải chịu kết tội do hành động của họ. Nhưng nếu Êdêkien từ chối lên tiếng chống lại kẻ ác, thì Thiên Chúa khiển trách cả ông và những người gian ác.
Bài đọc này nắm giữ một vật quý báu quan trọng: sự thất bại khi chống lại sự hư nát khiến bạn trở thành người thụ động tham gia vào sự hư nát. Nếu bạn thấy các nhà lãnh đạo hư hỏng về mặt đạo đức mà bạn vẫn chọn lựa họ vì lợi lộc ích kỷ cá nhân, vì thiển cận hoặc ngây ngô có chủ ý, thì bạn đã góp phần vào sự hư hỏng trong xã hội. Chúa Giêsu cũng khẳng định một sứ điệp tương tự trong Tin mừng.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về cách họ nên phản ứng trước hành vi tội lỗi của những người trong cộng đoàn. Thay vì phớt lờ, họ phải đề cập và cố gắng sửa chữa sự hư hỏng. Nếu gặp phải một người phạm lỗi chống lại họ, thì các môn đệ Chúa Giêsu phải đối diện với những kẻ phạm tội ấy. Nếu người đó từ chối thay đổi, Chúa Giêsu khuyên nên có một nhóm hai hoặc ba người để đối chất với người đó, một biện pháp pháp lý kêu gọi các nhân chứng tham gia và giúp tạo áp lực cho hành vi đạo đức. Nếu người đó vẫn không có động lực để thay đổi, thì Chúa dạy cần có cộng đoàn nhiều người hơn để lên tiếng về sự hư hỏng này. Sau đó, Chúa Giêsu trao quyền cho cộng đoàn, khi nói rằng “những gì con cầm buộc dưới đất,thì trên trời cũng cầm buộc; và những gì con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ”.
Trong bài Tin mừng của Chúa nhật XXI Thường niên, quyền năng này được trao cho Phêrô khi ông lãnh nhận chìa khóa Nước Trời, điều này được hiểu là trao quyền lãnh đạo cho Phêrô. Trong bài đọc Chúa nhật hôm nay, toàn bộ cộng đoàn được trao quyền để các thành viên nắm vấn đề và sửa chữa những hành vi sai trái. Tin mừng cho chúng ta biết rằng chúng ta có bổn phận đối với những sai lỗi đạo đức của người khác: kêu gọi họ hoán cải và tránh thông đồng với tội lỗi của họ. Điều đó thôi thúc chúng ta lên tiếng cổ võ tình thương và công lý trong xã hội, đồng thời yêu cầu những nhà lãnh đạo cũng làmnhư vậy.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/gospel-calls-us-promote-love-and-justice
56.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa lầm lỗi của mình và của người khác, giữa việc sửa sai lỗi của mình và sửa sai lỗi người khác, cái nào quan trọng hơn? Có cần phải sửa lỗi cho anh em mình không? Tại sao?
2. Cộng đoàn, xã hội hay Giáo Hội trong đó mình đang sống có thể có những sai lỗi không? Mình có trách nhiệm sửa sai tập thể không?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, ai cũng có lỗi. Bản thân ta cũng có lỗi
Trên đời này, ngoại trừ Đức Giêsu mà ta tin tưởng là hoàn toàn vô tội và không hề lầm lỗi, thì chẳng ai là người hoàn hảo: «nhân vô thập toàn». Ai cũng có lầm lỗi, và ai cũng đều được mời gọi «nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Vì thế, ai cũng cần được sửa lỗi.
Tự nhận ra lầm lỗi hay sai trái của mình, rồi tự sửa đổi, là điều tốt nhất, lý tưởng nhất, nhưng quả rất khó. Tâm lý chung của mọi người là «thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới» (Mt 7,3). Vì thế, mình dễ thấy lỗi của người khác hơn lỗi của mình; ngược lại, người khác dễ thấy lỗi của mình hơn thấy lỗi của họ. Vì thế, để trở nên hoàn thiện, chúng ta hãy giúp nhau nhìn thấy lỗi của mình, bằng cách người này chỉ lỗi cho người kia. Chẳng hạn trong gia đình thì vợ chồng chỉ lỗi cho nhau, cha mẹ con cái chỉ lỗi cho nhau. Trong các cộng đoàn, trong giáo xứ hay trong Giáo Hội cũng vậy.
Điều ấy nói thì dễ, nhưng trong thực tế, không ai thích người khác chỉ lỗi cho mình. Khi có ai chỉ lỗi cho ta, dù có nhận ra người ấy nói đúng, ta vẫn cảm thấy bị xúc phạm khiến ta nóng mặt, nổi quạu, huống gì trường hợp người ấy nói không đúng, hoặc ta không nhận ra người ấy nói đúng. Vì ai cũng coi «cái tôi» của mình quá lớn! Người chỉ lỗi cho ta, dù thiện chí, nhiều khi cũng phải hứng chịu những «trận lôi đình», sự giận hờn, ác cảm, thậm chí sự trả đũa của ta. Nhưng nếu ta ý thức mình chỉ là con người bất toàn, có những lầm lỗi mà mình không hề biết, và nếu ta thật sự mong muốn mình trở nên hoàn thiện, ta sẽ cảm thấy vui mừng và biết ơn khi có người cho ta biết sự sai trái hay thiếu sót của ta. Sự vui mừng và biết ơn khi được sửa lỗi là một điểm thực tế để biết mình có thật sự khiêm nhường và thánh thiện không.
2. Ai cũng phải sửa lỗi. Bản thân ta cũng phải sửa lỗi
Một khi đã nhận ra lỗi của mình, vấn đề kế tiếp là quyết tâm sửa lỗi. Điều này cũng không luôn luôn dễ dàng, vì những sai lỗi nhiều khi là những thói quen cố hữu, lâu năm, hoặc phát xuất từ một quan niệm hay một thành kiến. Bỏ đi một quan niệm hay thành kiến quả rất khó khăn. Ngoài ra, những sai lỗi có thể gắn liền với một quyền lợi hay một thú vui nào đó " đôi khi rất lớn" của ta. Từ bỏ sai lỗi nhiều khi đồng nghĩa với từ bỏ một quyền lợi, một thú vui, một chứng ghiền. Nhưng dẫu thế nào, hễ là điều xấu, là sai trái, thì ta phải sửa sai, nhất là khi nó tai hại cho tha nhân, xã hội, hoặc cho chính bản thân ta. Có chịu sửa lỗi, ta mới trở nên hoàn thiện hơn.
3. Sửa lỗi cho người khác là một việc bác ái
Tự sửa lỗi mình là điều quan trọng nhất trước khi sửa lỗi người khác. Nhiều người chỉ quan tâm sửa lỗi người khác, còn mình thì … chẳng bao giờ chịu sửa:
«Chân mình những lấm mê mê,
lại cầm bó đuốc mà rê chân người» (Ca dao).
Điều đó thật đáng mỉa mai! Tuy nhiên, nếu chỉ sửa lỗi mình mà không hề quan tâm giúp tha nhân sửa lỗi, thì một cách nào đó ta chưa đủ tình thương chân thành đối với họ. Chính Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng khuyên ta phải sửa lỗi cho anh em.
Nhưng hãy xét xem động lực nào thúc đẩy ta sửa lỗi cho anh em? Động lực vị kỷ hay vị tha? Ta muốn sửa lỗi anh em vì yêu thương họ và muốn họ nên hoàn thiện hơn? Hay ta muốn lên mặt chứng tỏ họ kém ta và ta hơn họ? Hay ta chỉ muốn giải quyết ổn thỏa sự thiệt thòi khó chịu họ gây ra cho ta? Cùng là việc sửa lỗi anh em, nhưng một đằng có giá trị yêu thương, được Thiên Chúa chúc phúc, và người được sửa lỗi đón nhận vui vẻ; một đằng chỉ là một hành vi ích kỷ, chẳng mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa, và thường gây bực tức nơi người bị sửa lỗi.
4. Phương cách sửa lỗi người khác
Tình thương, tính vị tha là điều hết sức cần thiết khi ta muốn sửa lỗi anh em. Nhưng không đủ, cần khéo léo, có nghệ thuật, nhất là thể hiện được tình thương hay đức ái. Đức Giêsu có đưa ra một tiến trình sửa lỗi anh em.
a) Một mình mình với người anh em có lỗi: «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi». Khi ta có lỗi, ta không muốn lỗi của ta được quảng cáo để ai cũng biết ta có lỗi. Nếu có ai muốn sửa lỗi cho ta, ta muốn người ấy kín đáo nói với ta, và chỉ nói với ta thôi, để sau khi sửa lỗi xong, ta như người không hề phạm lỗi ấy. Tại sao ta không làm như thế khi sửa lỗi người khác? Làm như thế, ta chứng tỏ mình tôn trọng danh dự và uy tín của người kia, đó là điều tối thiểu của lòng bác ái.
Nếu lầm lỗi ấy chỉ mang tính cá nhân, không gây tại hại hay tổn thất cho người khác hoặc cộng đoàn, thì ta nên dừng lại ở đây. Bổn phận bác ái của ta tới đây kể như xong. Hãy để cho đương sự quyền tự do, sửa lỗi hay không là tùy họ. Ta phải công nhận điều này: ai cũng có một số tật xấu, sai lỗi, và ai cũng có quyền có một số tật xấu hay sai lỗi nào đó, miễn là không làm hại đến người khác hay xã hội. Nếu con người trong xã hội không có quyền này thì xã hội ấy rõ ràng là thiếu tự do, thiếu nhân quyền. Ta cần tôn trọng tự do của người khác. Chỉ trừ trong gia đình hay trong tu viện: khi con cái hay tu sinh cần được giáo dục, thì tất cả mọi tật xấu đều cần được sửa sai cho dù không đến nỗi có hại cho tha nhân hay xã hội.
b) Dùng biện pháp mạnh hơn: «Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân». Để sửa lỗi, không phải lúc nào nhỏ nhẹ riêng tư cũng thành công, nhất là khi người được sửa lỗi không đủ thiện chí, hoặc người sửa lỗi chưa đủ uy tín hay tiếng nói chưa đủ mạnh. Nếu lầm lỗi này có hại cho nhiều người hoặc cho xã hội, thì người sửa lỗi có bổn phận phải áp dụng một phương pháp mạnh hơn, nhưng cần tiệm tiến, không nên đốt giai đoạn.
- Trước hết nên tìm một hai người khác có uy tín và tình thương đối với người sai lỗi để cùng họ sửa lỗi cho người ấy. Như thế sẽ có một tiếng nói mạnh hơn khiến người kia phải suy nghĩ và sửa lỗi.
- Nếu vẫn không được thì sao? Đức Giêsu nói: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh», nghĩa là nên báo cho những người có trách nhiệm đối với người ấy. Chẳng hạn trong gia đình thì có cha mẹ, trong giáo xứ thì có cha sở, trong tu viện thì có cha bề trên, trong giáo phận thì có giám mục, ngoài xã hội thì có chính quyền hay tòa án các cấp… Nếu là người trong Giáo Hội thì nên xử lý nội bộ trước, chừng nào không được thì mới nên đưa ra ngoài đời. Nói chung, sửa lỗi cần phải theo một tiến trình tiệm tiến, từ riêng tư đến công khai, từ nội bộ ra ngoại bộ, từ nhỏ thành lớn, từ đề nghị thành ép buộc… Không nên đốt giai đoạn.
c) Biện pháp cuối cùng khi tất cả mọi biện pháp đều thất bại: Đức Giêsu nói: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế». Nếu đã tìm đủ mọi cách để sửa lỗi mà đương sự không nghe, vẫn tiếp tục con đường sai lầm có hại cho tha nhân và cộng đoàn, thì phải dùng một biện pháp thật mạnh, là loại trừ họ khỏi cộng đoàn, coi họ như người ngoại hoặc người thiếu thiện chí. Nên nhớ, cho dù có dùng đến biện pháp này, thì biện pháp này vẫn chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ của tình thương, nghĩa là vẫn phải duy trì họ trong tình thương của mình.
5. Can đảm sửa lỗi cho Giáo Hội và xã hội
Không chỉ trên bình diện cá nhân mà một tập thể, một cộng đoàn, một xã hội hay một Giáo Hội cũng có thể sai lỗi và cũng cần được sửa lỗi.
Nếu cộng đoàn của mình có những khiếm khuyết phương hại tới trật tự hay sự phát triển chung của chính cộng đoàn, của xã hội hoặc Giáo Hội, thì các thành viên, nhất là những người lãnh đạo trong cộng đoàn ấy, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai. Sống trong một xã hội có cơ chế bất công, đàn áp, chỉ phục vụ cho một đảng phái hay một thiểu số, bất chấp quyền lợi của đa số dân chúng, thì người trong xã hội ấy, nhất là Kitô hữu, có nhiệm vụ tìm cách cải thiện, đem lại sự công bằng, hợp lý và ổn định cho xã hội.
Nếu trong Giáo Hội mình đang sống có những sai trái, thì tất cả các thành viên, nhất là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai để Giáo Hội nên hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn hiện nay Giáo Hội đang quá quan tâm tới những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà thiếu chiều kích sống đạo nội tâm: rất cần điều chỉnh lại. Hoặc trong ba chức năng quan trọng ngang nhau của người Kitô hữu, Giáo Hội đang có chiều hướng chỉ quan trọng hóa chức năng tư tế (thờ phượng) mà coi nhẹ hoặc bỏ lửng chức năng vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội, ngoại cảnh) và ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương). Vì thế, trong một xã hội đầy bất công và đàn áp, lối sống đạo què quặt như thế có thể trở thành một thứ thuốc phiện tinh thần làm tê liệt sức đấu tranh cần phải có của quần chúng để chống lại những bất công hay tệ nạn của xã hội.
Thiết tưởng Giáo Hội cần có những nỗ lực sửa sai hơn tất cả mọi tổ chức hay thế lực khác, để Giáo Hội trở nên hoàn thiện, vì chính Giáo Hội luôn luôn rao giảng và cổ võ sự thánh thiện, hoàn hảo như một lệnh truyền của Đức Kitô. Giáo Hội cần phải làm gương trong lãnh vực này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin giúp con ý thức bổn phận trước tiên và trọng đại nhất của con là trở nên hoàn thiện. Nhưng con không thể nên hoàn thiện một mình, con cũng có bổn phận giúp người khác, trong đó có những người chung quanh con, và hơn nữa, cộng đoàn của con, xã hội và Giáo Hội con đang sống. Tất cả đều được Cha mời gọi nên hoàn thiện. Xin cho con biết khéo léo trong việc làm cho tha nhân nên hoàn thiện. Amen.
57.Sửa lỗi theo Lời Chúa dạy--Lm Trần Bình Trọng
Muốn tìm điểm nổi bật nơi cộng đồng đức tin Kitô giáo, người ta phải tìm những giá trị tinh thần và thiêng liêng. Cộng đồng đức tin không cổ võ phe phái cũng không nhắm đến việc tranh chấp hay thắng bại. Cộng đồng đức tin chú tâm đến việc chữa trị cá nhân đã lỗi phạm cũng như chữa trị cộng đồng bị sứt mẻ vì lỗi phạm của cá nhân. Người Do Thái cổ xưa coi việc sửa trị như là phương thế giáo dục luân lý. Họ tin việc cha mẹ đưa con cái vào kỷ luật là cần thiết. Vì thế trong Sách Êdêkien, Thiên Chúa truyền cho vị ngôn sứ cảnh giác và sửa dạy dân chúng. Còn lời Chúa trong Phúc âm hôm nay dạy ta đi theo ba giai đoạn trong việc sửa lỗi khi người anh em phạm tội. Giai đoạn một là sửa riêng người súc phạm nhằm tránh làm mất mặt đương sự. Giai đoạn hai là gọi hai người làm chứng để thuyết phục phạm nhân. Giai đoạn ba là đưa vấn đề ra trình bày trước cộng đồng tín hữu để bảo toàn sức khoẻ tâm thần của cá nhân cũng như cộng đoàn (Mt 18:15-16).
Động lực khiến người tín hữu sửa bảo người khác như Chúa dạy trong Phúc âm là động lực yêu thương. Có yêu thương và quan tâm, người ta mới sửa bảo. Sửa bảo người khác là bổn phận và trách nhiệm của người dân được chọn trong đạo cũ như sách ngôn sứ Êdêkien dạy: Nếu... ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết, vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó (Ed 33:8). Lời Thánh kinh đây có nghĩa là người ta phải chịu trách nhiệm một phần vì đã làm thinh. Tình yêu Kitô giáo đòi người ta nhắc nhở cho người khác nhất là những người duới quyền giáo huấn của mình như con cái, học sinh nếu chúng đi vào đường lầm lỗi.
Nếu thời đại mà người ta đang sống là thời đại buông thả thì người ta coi nhẹ việc sửa bảo. Sống trong một văn hoá đề cao chủ nghĩa cá nhân, thì người ta thường không muốn sửa bào, để mặc kệ người khác, ai có thân nấy lo. Sống trong một xã hội mà văn hoá của xã hội đó nhậy cảm, hoặc sống vào thời đại mà văn hoá của thời đại đó trở nên nhậy cảm, thì việc sửa bảo khó được chấp nhận. Gặp người có tự ái cao, thì người muốn sửa bảo, phải dè dặt khi nói động đến chân lông kẽ tóc của họ, vì sợ họ nổi da gà hay rợn tóc gáy. Và nếu như vậy thì xét về phương diện thiêng liêng và luân lý sẽ không mang lại lợi ích thiêng liêng cho người phạm lỗi vì đương sự không được ai nhắc bảo. Người phạm lỗi không có cơ hội trở nên hoàn thiện như Chúa muốn người môn đệ trở nên hoàn thiện (Mt 5:48). Việc sửa sai là cần thiết nên người tín hữu không thể đợi tới khi mình trở nên hoàn thiện mới sửa người khác. Người được sửa lỗi phải hiểu rằng người sửa lỗi cũng có những khuyết điểm của họ, nhưng về phương diện nào đó, họ cũng có bổn phận nhắc nhở người làm lỗi. Chỉ khi người ta chịu để cho người khác sát sà bông thì mới tẩy rửa đươc những ghét gúa ra khỏi thân mình.
Một trong những điều khó khăn mà người ta gặp trong việc giao tế hàng ngày là khi phải nói ra cho ai điều mà họ không muốn nghe. Nếu trong gia đình mà từ nhỏ lúc nào cha mẹ cũng bênh con, thì sau này con cái thường có khuynh hướng không muốn chấp nhận lỗi lầm, nhưng tìm cách biện hộ. Nếu còn nhỏ mà đứa con hay được khen thay vì khuyên răn không nên làm, chẳng hạn như lấy của người khác đem về nhà dùng, thì sau này đứa con có thể mắc vào tật xấu đó. Theo lối suy nghĩ thông thường của loài người thì người hay biện hộ lỗi lầm được coi là khôn. Tuy nhiên xét trên bình diện giữa người với người thì người hay biện hộ thường là người ít có bạn thân. Người hay biện hộ cho mình trước mặt người khác cũng thường hay biện hộ cho mình trước mặt Chúa. Và khi người ta biện hộ cho mình trước mặt Chúa thì ơn Chúa khó thấm nhập vào tâm hồn được. Đó là trường hợp của người Pharisêu đã biện hộ cho mình khi cầu nguyện trước mặt Chúa. Chúa bảo người này về nhà không được nên công chính (Lc 8:14).
Ta thường nghe nói yên lặng là vàng. Tuy nhiên có những trường hợp mà không nói ra có nghĩa là dung thứ việc làm sai trái. Sửa bảo không phải là chuyện dễ làm vì có thể làm cho người được sửa bảo phải mất mặt và làm mất tình bạn hữu. Vì thế mà người làm việc sửa bảo cần làm trong tinh thần tế nhị và bác ái. Người làm việc sửa bảo cần cầu nguyện để xin ơn khôn ngoan trong việc sửa bảo.
Trong Phúc Âm hôm nay Chúa dạy, để có thể nhận ra lỗi lầm, người ta cần phải biết lắng nghe. Khi mà người ta không muốn nghe hay không muốn hiểu thì người khác có cố gắng cắt nghĩa, giải thích thế nào đi nữa cũng vô hiệu. Vậy ước gì hôm nay ta biết lắng nghe và suy gẫm lời Đáp Ca trong thánh lễ: Ước chi hôm nay anh em nghe tiếng Chúa! anh em đừng cứng lòng (Tv 94:8).
Lời cầu nguyện xin được chấp nhận sửa sai:
Lạy Chúa là Đấng hoàn thiện hoàn hảo.
Con xin cảm tạ Chúa đã dạy bảo con
về đường lối thiện hảo của Chúa.
Chúa còn dạy loài người phải sửa lỗi cho nhau.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn,
biết chấp nhận những yếu hèn và tội lỗi của mình
để con biết mở rộng tâm hồn khi được sửa lỗi.
Cũng xin cho con dược nhận thức rằng
việc trở nên hoàn thiện là lệnh truyền của Chúa. Amen.
58.Chúa Nhật 23 Thường Niên--Lm. Trần Văn Luận
NẾU NÓ NGHE NGƯƠI, THÌ NGƯƠI ĐÃ LỢI ĐƯỢC NGƯỜI ANH EM
Chúng ta đã nghe nhiều lần về câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc âm. Chúa Giêsu đã đối xử với bà như thế nào? Chúa đã không xét đoán hành động của bà; Ngài đã nói: Ta cũng không lên án bà, về đi và đừng phạm tội nữa (Gn 8,11).
Qua bài Phúc Âm hôm nay, một lần nữa Chúa muốn dạy chúng ta đừng xét đoán kẻ khác, nhưng hãy giúp đỡ, sửa dạy người anh em.
Việc sửa dạy người anh em không phải là chuyện dễ dàng, vì mình không thể lường được phản ứng của người kia như thế nào, không biết họ có chấp nhận thiện chí của mình hay lại cho là mình nhiều chuyện, vì đèn nhà ai người ấy sáng, mắc mớ gì tới mình. Hơn nữa mình cũng chưa hoàn hảo thì làm sao dám sửa chữa người khác, mình cần sửa mình trước đã.
Thái độ của người sửa dạy: Người sửa dạy hãy dùng tình yêu để chia sẻ những nhận định, ý kiến của mình, lời nói thành thật, khiêm nhường, nêu lên những cái lợi, cái hại của sự việc hơn là nói những lời ép buộc bắt người khác nghe theo ý mình. Sửa dạy khác với xét đoán, vì khi xét đoán, có thể vì ác cảm hoặc chỉ biết có một khía cạnh mà xét đoán sai lầm. Còn sửa dạy là muốn cho người đó được trở nên tốt đẹp, trở nên hoàn hảo hơn, hoặc giúp sửa lại một việc vì vô tình đã có những hành vi sai lầm.
Thái độ của người được sửa dạy: Khi có người sửa dạy mình thì hãy bình tĩnh, mỡ rộng tâm hồn để lắng nghe, sáng suốt nhận ra sai lầm, khiêm nhường nhận những lời khuyên và cố gắng sửa chữa càng sớm càng tốt. Không nên cố chấp, cứng đầu, thiếu tinh thần cảnh giác.
Những ai có thể sửa chữa người khác? Tất cả mọi người đều có thể dùng lời lẽ tốt đẹp để sửa chữa người khác. Vì tình thương sẽ hoán đổi được con người. Cha mẹ sửa chữa cho con cái, ngược lại con cái cũng giúp cho cha mẹ sửa chữa các lỗi lầm. Thầy sửa chữa trò, vợ chồng sửa chữa cho nhau để tình yêu thêm đằm thắm hơn. Bề trên sửa chữa cho người dưới, hoặc ngược lại người dưới giúp bề trên sửa lỗi mình.
Ngoài ra những vị có quyền rao giảng Lời Chúa cần phải nói thằng, nói thật để người khác sửa chữa lối sống cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Nếu ta nuôi con chó giữ nhà, khi có người lạ hoặc kẻ gian đến mà chó không biết sủa thì nào có ích gì? Cũng vậy, người có nhiệm vụ giảng dạy mà vì lý do nào đó không dám nói sự thật thì cũng chẳng có ích gì, thà rằng không có còn hơn.
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con sống tốt lành như Chúa, và Chúa cũng muốn chúng con giúp những anh em khác sống tốt lành. Xin cho con lòng yêu mến Chúa hết lòng, yêu mến tha nhân, vì yêu thương là chu toàn lề luật. Xin cho chúng con biết kết hợp với nhau trong việc cầu nguyện, để Chúa ở giữa chúng con nơi trần gian này và ngày sau vô cùng.
59.“Hãy đi sửa dạy nó”--Lm Gioan B. Phan Kế Sự
“Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”
Sửa dạy anh em, sửa sai những lầm lỗi hay nắn lại những lệch lạc thường là những công việc “tế nhị nhạy cảm” và ai cũng muốn tránh; trừ một số người sinh ra để kết án anh em: kẻ độc tài và gian ác!
Trách người cũng chính là trách mình. Nhận xét người cũng chính là vạch trần những cái xấu của mình. Sửa sai người cũng làm cho chính mình bị nhột nhạt và khó chịu. Một điều thật đơn giản là ai trong chúng ta cũng thật nhiều lầm lỗi, lắm khi còn nhiều thiếu sót hơn anh em mình. Tệ hơn, nó còn là bình phong, là tấm lá chắn cho những lầm lỗi của mình.
* Chúa yêu thương và đặc biệt quan tâm đến từng người chúng ta. Chúa luôn luôn muốn chúng ta thuộc về Người và không muốn ai trong chúng ta phải hư đi. Nhắc nhở anh em, tạo điều kiện giúp anh em trở lại con đường ngay, là Chúa muốn từng người chúng ta, cùng với Ngài, giúp cho người anh em mình trở về chính lộ, tránh đi những sai lầm đáng tiếc để trở thành một con người tốt. Trong cách xử thế, Chúa dạy chúng ta trước hết phải biết tôn trọng anh em “riêng ngươi và nó thôi”. Tình thương của Thiên Chúa luôn tạo điều kiện, dịp may, cơ hội để mỗi người chúng ta sống tốt hơn. Ngừơi đời vẫn thường dạy “chị ngã em nâng”.
* Phải có lòng tự trọng. Việc sửa sai phải đặt nền tảng trên đức bác ái Kitô giáo, chứ chẳng phải là sự bố thí của kẻ trên với kẻ dưới, càng không phải là sự kết án độc tài, độc ác như là một quan tòa đối với một tội nhân. Thái độ đặt anh em như là đối thủ để lên án, mà không hề biết tôn trọng, hỏi han lý lẽ, tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân, chỉ làm cho anh em ngày càng đi sâu vào sự hận thù, mất niềm tin và thất vọng. “Hãy đi sửa dạy nó” Chúa muốn mỗi người khi sống bên cạnh nhau, luôn là những người bạn chân thành, quảng đại và có trách nhiệm với nhau trước những lầm lỗi của anh em mình. Ai trong chúng ta mà chẳng có lần lầm lỗi và yếu đuối. Chính vì thế, việc bảo ban, nhắc nhở cho anh em mình, cũng chính là cơ hội để mỗi người “tự thức tỉnh mình”. Hãy hết sức tránh thái độ kẻ cả với anh em, với cộng sự của mình.
* Nền tảng của luân lý rất rõ ràng “Phương tiện xấu không thể biện minh cho mục đích tốt”. Vì thế, việc sửa dạy nhau không dựa trên “những lời đồn đóan”, càng không thể dựa trên những lời vu khống, bịa đặt, bêu giễu của những kẻ ác tâm. Chuyện không đơn giản là sửa sai, trách móc hay trừng phạt anh em bằng mọi thủ đọan; mà chính là tính minh bạch, công tâm và nhất là vì lợi ích cho cộng đòan chứ không phải nhằm vào việc thi hành quyền lực.
Việc sửa dạy anh em không phải là chuyện dễ, càng không được tùy tiện! Mỗi người trong chúng ta đều có cái hay cái dở, vì chẳng ai trong chúng ta là hòan hảo. Phải biết đặt mình vào chính hòan cảnh cụ thể của anh em, bởi chính chúng ta khi sống trong hòan cảnh đó, nhiều khi tình trạng của chúng ta coi chừng lại còn tệ hại hơn. Cũng đừng đem bụng ta để suy đóan bụng người, vì nhiều khi chúng ta suốt đời chỉ sống trong nhung lụa, môi trường “đi nâng về hứng”, còn anh em luôn phải đối diện với bao khó khăn, nhục nhằn. Mục đích của việc sửa dạy là “Phải được lợi cho người anh em”, chứ không phải lợi dụng cơ hội để đạp anh em tận xuống đáy bùn đen!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, con người chúng con thật yếu đuối lầm lỡ, bởi chúng con mãi mãi là một thụ tạo bất toàn và hay sa ngã. Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn ý thức về sự bất tòan của mình để có đủ thiện chí tiếp nhận những lời nhắc nhủ của anh em và luôn sẵn lòng tha thứ cho anh em. Xin hãy uốn nắn chúng con thành những người con ngoan hiền, dễ dạy để mãi mãi là những người con yêu dấu của tình thương Chúa. Amen.
60.Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức là cho đến cùng.
Số phận của tha nhân cũng là số phận của chính ta:
Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha). Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với người con cái Chúa.
Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân, không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.
Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất.
Đức ái là động lực, là hình thức và là mục đích của việc sửa sai nhau:
Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:
- Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây: Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.
- Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm, những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng lòng khoan dung, tha thứ.
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả. Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ, thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy nhớ lời dạy của thánh Giacôbê: “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5,19-20)
61.Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó lòng chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Tại sao vậy? Thưa! Đơn giản là vì tâm lý chung của mọi người đa phần là bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của ta hơn là lỗi của họ.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình hãy sửa lỗi cho anh em. Tuy nhiên, theo lẽ thường, muốn thành công, người môn đệ phải có được tâm tình như: yêu thương chân thành, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Bỏ một trong các bước trên, thành công là điều khó có thể xảy ra!
1. Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình:
Trước tiên, khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: “Nhân vô thập toàn” và lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của mình. Chính thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Khiêm tốn nhận ra mình tội lỗi, yếu đuối và bất toàn sẽ mang lại cho ta bài học về sự thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung. Ngược lại, nếu không khiêm tốn, ta dễ rơi vào tình trạng vô cảm, dửng dưng với người tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hẳn chúng ta không những không được Thiên Chúa tha thứ cho chính mình, nhưng Người sẽ đòi nợ ta theo lẽ công bằng. Lúc ấy, chúng ta cũng là những người sẽ bị kết án vì sự bất nhân của mình với anh chị em đồng loại.
Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, ông chủ đã lên án con người “cạn tình ráo máng” này khi nói: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông" (Mt 18,32-34).
Như vậy, khi sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu nhờ động lực của đức ái, chúng ta mới có thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa để đón nhận sự tha thứ cho chính mình và diễn tả tình yêu đó cho người khác trong khi sửa lỗi cho họ.
2. Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng:
Thứ đến, là sửa lỗi cho anh chị em mình trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng: Đức Giêsu đã nói rất rõ: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18, 15).
Thường thì con người dễ nghe những lời tâm sự, kín đáo, tế nhị, chân tình hơn là những sự nạt nộ, kết tội... hơn nữa, một mình ta với người được sửa lỗi nói lên tính riêng tư và mang lại cảm giác an toàn, kính trọng vì họ đang được yêu thương.
Thật vậy, nếu không có sự tôn trọng, nhẹ nhàng, tế nhị và kín đáo, chúng ta không thể hiểu được tâm trạng của người tội lỗi!!! Bởi vì, thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Mặt khác, người sai lỗi thường rơi vào tình trạng bất ổn về lương tâm, nên tinh thần, thái độ của họ rất mỏng dòn, yếu đuối và dễ buông xuôi. Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị là có thể đổ bể mọi vấn đề... và vô tình, chúng ta lại đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
Như vậy, cần phải có thái độ trân trọng với người mà tôi đang muốn giúp đỡ họ. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em, là bạn, và trên hết là hình ảnh Thiên Chúa. Trân trọng nữa là vì nơi họ vẫn còn đó những suy tưởng tích cực và lương tâm chân chính thủa ban đầu mà Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tâm hồn họ, vì thế, tận sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn được tiếng nói lương tâm thúc đẩy để “làm lành lánh dữ” và cách nào đó họ vẫn khao khát tìm về Chân, Thiện, Mỹ.
Mặt khác, khi chúng ta nhẹ nhàng để chỉ cho người anh chị em của mình thấy được lỗi của họ mà sửa, ấy là lúc biểu hiện của tâm hồn một người thánh thiện, chân thành chứ không phải nhân cơ hội này, mình hạ thấp nhân phẩm và nhấn chìm họ xuống để mình được vươn lên trong sự huênh hoang, tự mãn... hãy mặc lấy tâm tình của một người bạn hơn là người chỉ giáo; có tâm tình của một người cha hơn là một quan tòa...
Làm được điều đó, chúng ta sẽ loại bỏ điều oán ghét, giận hờn... để chỉ vì một động lực duy nhất là tình yêu, một mục đích nguyên tuyền là muốn cho người anh chị em chúng ta được trở nên tốt hơn mà thôi.
3. Sửa lỗi trong kiên trì và cầu nguyện:
Cuối cùng, khi thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Cần phải có nhiều phương án. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta những phương án như sau: gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn (x. Mt 18,15-17). Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âu tinh!
Tuy nhiên, kiên trì là điều cần, nhưng không thể đóng vai trò quyết định. Thật vậy, mọi chuyện sẽ không thể thành công và sẽ trở thành “công dã tràng” nếu phủ nhận ơn Chúa và cậy dựa vào khả năng thuần túy của ta.
Như thế, đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác. Bởi vì: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
Bên cạnh đó, người sửa lỗi phải có sự can đảm chấp nhận sự thiệt thòi về mình khi dám nói lên sự thật, bởi vì đôi khi bị hiểu lầm, ghen ghét, ganh tỵ và bị trả thù ngang qua những sự thật mà ta đã nâng đỡ...
Mong sao, khi đứng trước lỗi lầm của người khác, chúng ta đừng rơi vào tình trạng: khắt khe hoặc vô cảm. Bởi vì khắt khe, chúng ta sẽ hướng chiều về sự loại trừ khi can thiệp cách thô bạo nhằm đẩy lui người anh chị em vào bóng tối. Còn thờ ơ, chúng ta lại rơi vào tình trạng lãnh cảm, tức là không cần quan tâm, bỏ rơi. Tất cả những điều đó hoàn toàn là một “tấm vải đen”, “một bầu trời u ám” cho cả người sửa lỗi và người được sửa lỗi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cho chúng con biết sửa lỗi anh chị em trong tinh thần khiêm tốn và thánh thiện. Xin Chúa cũng ban cho chúng con ơn can đảm, trung thành trong sự thật khi thi hành công việc khó khăn này. Amen.
62.Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của Tin Mừng Mátthêu, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến "người anh em phạm tội" (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
3.- Vài điểm chú giải
- Người anh em (15): Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong một gia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong một cộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các "con cái Israel" thuộc về cùng một "nhà", các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một "nhà thiêng liêng" (x. 1 Pr 2,5).
- phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ "phạm tội" ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ "làm cớ cho sa ngã" (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của "người anh em".
- sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là một lời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự ("Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó"). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: "Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà". Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).
- chinh phục (15): Động từ kerdainô có nghĩa là "thủ đắc được, chiếm được" vật gì. Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là "chinh phục một con người". Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
- không nghe (17): Động từ parakouô có nghĩa là "nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn", nên cũng có nghĩa là "không nghe; không vâng lời".
- một người ngoại... một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như một hiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc một người anh em có lỗi là một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không một ai bị Thiên Chúa quên lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em "phạm tội" (ho adelphos hamartêsê). "Tội" là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em ("đối với anh; chống lại anh", eis se). Tuy thế, "tội" mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.
Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để "tranh thủ" người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: "chinh phục (ekerdêsas) được người anh em" (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.
Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, "nếu nó không nghe (parakousê) họ", thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lạp trên "tảng đá" Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng một hành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: "hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế". Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi (18)
Rất có thể câu nói về "cầm buộc và "tháo cởi" này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố một phán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội Thánh.
* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. "Hai" là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở cuối lênh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiẹn diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc một mình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là "danh Đức Giêsu". "Danh" là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; "nhân danh" có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là một cuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm ("phạm tội"), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không một ai được phép nói về một người anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2. Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành một cộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác, một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: "Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất". Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
4. Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên một trong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
63.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ANH EM SỬA LỖI NHAU
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Chữ “anh em” có một nghĩa đặc biệt trong Giáo Hội sơ khai không?
2. Làm sao giải thích lời nói nặng nề của Chúa Giêsu: “Hãy kể như ngươi ngoại và ngươi thu thuế” (c. 17)?
3. Đoạn văn này nói về các lỗi công khai hay riêng tư? Nặng hay là nhẹ?
4. Việc nại đến “hai hay ba nhân chứng” (c. 16) có đưa đến hậu quả biến việc sửa bảo riêng tư thành một phiên tòa xử kín không?
5. Đâu là ý nghĩa của câu “ngươi đã lợi được anh em ngươi”?
6. Phải chăng đoạn văn này có thể dùng làm nền tảng Thánh Kinh cho Tôn giáo Pháp đình?
7. Đâu là ý nghĩa tổng quát của việc anh em sửa lỗi nhau, nếu được đặt lại trong toàn bộ văn mạch của chương 18?
8. Hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Giêsu cho ta thấy trong các câu này phải chăng có tính pháp lý?
1. Chủ đề chính yếu của đoạn văn trước (18, 1- 14) là ý niệm “kẻ nhỏ”, bây giờ ý niệm “anh em” lại nằm hàng đầu trong lời giảng huấn của Chúa Giêsu.
Chữ “anh em”, cũng như chữ “kẻ nhỏ” và “kẻ nghèo”, phải được hiểu theo hai nghĩa. Nó không những chỉ tình họ hàng liên kết các người con của cùng một cha theo máu huyết, nhưng còn biểu thị các mối tương quan nối kết mọi phần tử của cùng một cộng đoàn thiêng liêng. Như “con cái Israel” đều thuộc về một “nhà”, thì các môn đồ Chúa Kitô, được qui tụ “nhân danh Người”, cùng lập thành một “nhà thiêng liêng” (1Pr 2, 5). “Chúng con hết thảy đều là anh em”, Chúa Giêsu sẽ nói với họ như thế (23,8). Tình huynh đệ này đặt cơ sở trên mối liên hệ siêu nhiên mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập, trong bản thân Người, giữa Chúa Cha và mọi kẻ thuộc về Người (12,48; 28, 10). Và bạn từ trên sẽ trở thành danh xưng thông dụng nhất để chỉ các Kitô hữu trong Giáo Hội sơ khai (Cv 9, 17; 15, 23; 16, 40; v.v…;Rm 14, 10; 1Cr 15, 6; Cl 1, 2 v.v…). Vì tình huynh đệ vốn tạo nên mối giây nối kết các phần tử của cộng đoàn họ được phát xuất từ việc họ cùng tái sinh và cùng được làm con cái Thiên Chúa (Rm 12, 19; 1 Pr 1, 22; 1 Ga 4, 20- 21).
2. Vì đến từ một người anh em nên việc trách cứ không phát xuất từ ý thức cá nhân của kẻ khác, nhưng từ người, với tư cách là anh em, đại diện cho thực thể Giáo Hội, được qui tụ nhân danh Chúa Giê-su và quanh Người. Bởi thế, điều thoạt tiên có vẻ như một thủ tục nghiêm trị và tuyệt thông, nếu đọc các câu 15- 18 độc lập với văn mạch của chúng, thực ra chỉ là canh thức của một thủ tục tố tụng nhân ái; quả vậy, ba lần vận động ấy phải được hiểu, dưới ánh sáng của dụ ngôn đi trước, như là một cố gắng phục hồi lại trong mối hiệp nhất với cộng đoàn kẻ đã tách lìa ra. Đây là cách thể hiện lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa theo thủ tục nhân loại.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả, đó là kiểu nói hãy kể như người ngoại và người thu thuế” (c. 17) mà mới thoạt nghe vẻ đầy khinh miệt. Làm sao giải thích việc thay đổi ngôn từ này nơi Đấng đã từng ngây ngất trước niềm tin của các người ngoại đạo (8, 10 ; 15, 26), hay đúng hơn của “chư dân” (othnikos : x. 5, 47 ; 6, 7), nơi Đấng mà thiên hạ tố cáo là đã ăn uống với những thu thuế và quân tội lỗi (9 ; 11) ? Kỳ thực, ở đây Chúa Giêsu gọi “người ngoại và người thu thuế” những kẻ mà các tín hữu đều bó tay bất lực không tài nào nhủ bảo khuyên răn. Đối với người anh em “chẳng màng nghe” ấy (parakouein: c.17), Kitô hữu không có trách nhiệm trực tiếp nữa, chỉ còn việc giao họ lại cho bàn tay Chúa Cha, vì thấy mình chẳng có cách nào để giúp họ hơn được. Thành thử ở đây Giáo Hội xuất hiện như một thực thể khác biệt với trần gian, theo kiểu dân Do thái khác với chư quốc, với dân ngoại là những kẻ không chia sẻ niềm tin của họ, và khác với hạng thu thuế, những kẻ bất lương nổi tiếng từng làm hoen ố trước mặt dân ngoại cái đức tin này.
Vì thế Giáo Hội (hạn từ trở lại ở đây như đã xuất hiện ở 16, 18) trước tiên là một cộng đoàn trong đó ai nấy đều có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Riêng đối với những kẻ tách lìa ra khỏi, bất chấp mọi cố gắng khuyên nhủ của anh em, người ta chỉ còn biết phó dâng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì chẳng phải là sau cùng vị Mục tử lên đường tìrn kiếm con chiên lạc đó sao (c. 12). Cho nên rốt cuộc, cộng đoàn này không luỹ thuộc máy vào các nỗ lực nhân loại, vốn có thể kết thúc bằng một thất bại, cho bằng vào Chúa Cha trên trời.
3. Nhưng trong đoạn văn này, người ta đề cập đến các lỗi công khai (chú giải của BJ, chú thích) hay riêng tư thầm kín? Thưa hình như thủ tục Chúa Giêsu ấn định liên hệ tới các lối ghi nhận trong đời sống riêng tư; điều này phù hợp với Gl 6, 1 và Gc 5, 19. Dù sao, rõ ràng là bản văn đang nghiên cứu không nhắm đến trường hợp làm gương xấu công khai, là những trường hợp mà, theo 1Cr 5, 1- 5 và 1Tm 5, 20, thuộc về kỷ luật Giáo Hội. Đây là những “tội thầm kín” mà một người anh em chẳng may biết đến. Đàng khác, chính sự tiệm tiến của thủ tục, bắt đầu bằng việc hội kiến đơn giản giữa hai người, hình như nhắm làm sao giữ kín điều xấu chừng nào có thể và bảo toàn danh dự của người anh em. Sau cùng đây là những tội nặng mà tự bản chất, đứa đến việc loại ra khỏi cộng đoàn, như quyết định tạm thời của Giáo Hội cho thấy.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nếu anh em ngươi trót phạm tội”: câu giả thiết này từ môi miệng Chúa Giêsu thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giêsu khuyên kẻ chứng kiến lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi về "cọng rác và cái xà" (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) - cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian" - cho thấy rõ một công việc như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối. Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của Chúa Thánh Thần? "Ngươi đã lợi được anh em người". Không phải “lợi được" một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.
"Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa": Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.
"Hãy thưa với cộng đoàn (Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng "Giáo Hội". Câu này, với 16, 18, là hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18). Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ "chẳng màng nghe Giáo Hội", nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự không còn là "anh em" nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.
"Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc": Việc chuyển đột ngột từ số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ "các ngươi". Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2. 10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.
"Nếu hai người trong các ngươi ": Thoạt nhìn, giây liên lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em, thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa Giêsu”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ", trong việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.
"Ta ở giữa họ": Trong sách "Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ" (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah (tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở") thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40, 34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.
KẾT LUẬN
Đoạn văn này cho ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.
Ngoài ra đoạn này còn cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không ngừng hân hoan trên cõi thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái.
Vì ta thấy chúng đi tiếp sau câu: "Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này". Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng. Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Chúa.
2. Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa. Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. "Không ai là một hòn đảo"....
3. Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận lời vì Người đã long trọng tuyên bố: "Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con" (Ga 11, 42)?
64.Chú giải theo Fiches Dominicales
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.
Sau lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền "Cêsarée Phiìipphê" đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc âm Matthêu "diễn từ về đời sống Giáo Hội". Những hướng dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của "Cha trên trời".
J. Potin báo trước: "Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội "của ông", nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ "bé nhỏ" tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những "con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người "anh em" đã "phạm tội".. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.
2….Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau.
Sửa đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người "anh em" đã "phạm tội" này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để "chinh phục"người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: "trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội". Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, "ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế". Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên "bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: "Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: "Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành việc "sửa lỗi anh em" là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động "nhân danh" Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này".
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: "Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người đó "vấn đề của nó" và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị khi nói sau lưng họ...
Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội... Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: "Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.
2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong chương 18 mà ta quen gọi là "diễn từ về cộng đoàn các môn đệ", là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó..." (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn - Chính Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó - nhưng không phải vì thế bỏ cuộc: "nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi... nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội..." (Mt 18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc như người thu thuế.... Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ "ngoại đạo" chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về "những người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như "kẻ ngoại đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa "không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: "Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm: "... Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau" và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.
65.Suy niệm của Noel Quesson
Đức Giêsu bảo các môn đệ:"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
“Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh", nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người... kể cả Giáo Hội!"Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình...
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta " yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó..." “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy... bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:"Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa "đất” và "trời” có sự tương giao?
Giữa "thời gian" và "vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này... được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng... Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không "nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như' thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả... ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được... "Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời"…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. " '
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
66.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Thánh Phaolô đã thú nhận: “Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11). Đúng như người ta thường nói: “nhân vô thập toàn”.
Thực tế là như vậy, nhưng để nhận ra sự bất toàn của mình, chấp nhận mình có tội không phải là chuyện dễ dàng. Câu chuyện Vua Đa-vít là một ví dụ. Ông đã phạm tội ngoại tình, gian dối, giết người. Vậy mà ông vẫn che dấu và không nhận ra tội lỗi của mình. Bằng chứng là sau khi nghe tiên tri Na-than kể câu chuyện “người giàu cướp chiên của người nghèo” (x. 2Sm 12,1-4), ông còn “bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: Có ĐỨC CHÚA hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót”(x. 2 Sm 12, 5-6). Cho đến khi Na-than nói thẳng: “kẻ đó chính là Ngài…”(x. 2 Sm 12, 7). Bấy giờ vua Đa-vít mới chấp nhận tội lỗi của mình và ăn năn thống hối.
Qua câu chuyện trên cho chúng ta thấy, vai trò của tiên tri Na-than hết sức quan trọng, đã giúp Đa-vít nhận ra tội lỗi của ông. Vì thế, trong cuộc sống chung, sửa lỗi cho nhau là một điều cần thiết và cũng là một trách nhiệm: Trách nhiệm của Cha mẹ đối với con cái; trách nhiệm của cha xứ đối với con chiên; trách nhiệm bề trên đối với bề dưới; trách nhiệm của thầy cô đối với học trò; trách nhiệm của mỗi người khi sống chung với nhau. Hơn nữa, là người kitô hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta lãnh nhận sứ mạng tiên tri. Vai trò của tiên tri là phải rao giảng Lời Chúa, phải lên tiếng để kẻ tội lỗi thay đổi đời sống của họ. Nếu tiên tri mà không lên tiếng để cho kẻ tội lỗi phải chết thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Bài đọc I, tiên tri Ezêkiel đã nói rất rõ ràng rằng: “Nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi” (Ed 33,8-9). Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “khi thấy anh em lỗi phạm thì hãy đi sửa dạy nó…” (x. Mt 18,15).
Nhưng phải sửa dạy như thế nào? Nhìn vào cuộc sống, người ta thường dùng nhiều phương cách khác nhau để sửa lỗi kẻ khác. Những nhà cầm quyền thường sửa lỗi kẻ khác theo khung hình phạt qua một tòa án: án treo, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Họ cũng có thể sử dụng hình phạt như tra tấn, phạt kinh tế hay tịch thu tài sản.
Còn trong sinh hoạt đời thường của các gia đình hay cộng đoàn, tùy vào hoàn cảnh và phong tục người ta có thể dùng những hình thức khác nhau để sửa lỗi: Chẳng hạn, cha mẹ có thể dùng lời nói để dạy con cái, nhưng cũng có khi phải dùng roi để dạy con cái với châm ngôn “yêu con cho roi cho vọt”. Cũng vậy, bề trên có thể sửa dạy bề dưới một cách âm thầm hay công khai tùy vào sự khôn ngoan và tùy vào từng trường hợp cụ thể. Nhưng không phải người nào cũng biết sửa dạy kẻ khác một cách khôn khéo. Với danh nghĩa sửa dạy, người ta có thể tố cáo nhau, phơi bày tội lỗi của nhau nhằm mục đích bêu xấu, trù dập, hạ uy tín…
Đối với chúng ta là những người kitô hữu, là môn đệ của Đức Giêsu thì sao? Chúng ta phải sửa dạy nhau theo phương cách mà Đức Giêsu đưa ra qua bài Tin mừng hôm nay. Phương cách đó mang tính tiệm tiến, đi từ kín đáo đến công khai. Cụ thể có ba bước sau: Bước thứ nhất, giữa ta với người sai lỗi (x. Mt 18,15). Bước này phải hết sức kín đáo và tế nhị. Phải lựa lời mà nói: “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Phải khôn khéo giúp người anh em nhận ra sai lỗi của mình. Bước thứ nhất này hết sức quan trọng, nếu thành công thì quá tốt, ta được lợi người anh em. Nếu người anh em không nghe, lúc đó chúng ta mới dùng bước thứ hai: “Đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng” (x. Mt 18,16). Thông thường để dễ thuyết phục, một hoặc hai nhân chứng này cần phải là người có uy tín trong cộng đoàn. Bởi vì, khi họ có uy tín thì tiếng nói, lời khuyên của họ mới dễ thuyết phục. Hy vọng bước thứ hai này, người sai lỗi sẽ chấp nhận sửa sai. Nhưng nếu người anh em không nghe thì chúng ta dùng bước thứ ba, tức là đưa ra cộng đoàn, nhằm mục đích gây áp lực cho người sai lỗi, để mong muốn người anh em chấp nhận sửa lỗi. Cuối cùng, nếu người anh em vẫn ngoan cố không chịu nghe thì hãy “kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế” (x. Mt 18, 17). Khi kể nó như người ngoại giáo hay như người thu thuế không có nghĩa là cắt đứt hay loại trừ nó một cách hoàn toàn. Nhưng còn một cách thế khác để chúng ta liên hệ và hy vọng nó sẽ thay đổi, đó chính là cầu nguyện. Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho người anh em đó, nhất là cầu nguyện chung trong cộng đoàn. Bởi vì, lời cầu nguyện chung của cộng đoàn dễ dàng được Chúa chấp nhận. Chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy” (Mt 18, 19-20).
Trong thực tế chúng ta thường mắc phải hai sai lầm này: Sai lầm thứ nhất, chúng ta “công khai hóa” lỗi lầm của anh em với cộng đoàn, bỏ qua bước thứ nhất và bước thứ hai. Vì thế, người sai lỗi cảm thấy bẽ mặt, hậu quả là có nhiều người con phải bỏ nhà ra đi, nhiều thành viên phải bỏ cộng đoàn, nhiều giáo dân không dám đến nhà thờ nữa. Sai lầm thứ hai, sau khi xong bước thứ ba, chúng ta thường không còn quan tâm gì đến người sai lỗi nữa: Có những bậc cha mẹ loại trừ con cái một cách dứt điểm; Có nhiều bề trên không còn liên lạc gì với người bề dưới. Vì thế, người sai lỗi không còn có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tóm lại, sửa lỗi cho nhau đó là bổn phận của mỗi người chúng ta, và khi sửa lỗi cần theo sự chỉ dẫn của Đức Giêsu. Mặt khác, trong tất cả những bước sửa lỗi trên đây phải thực hiện trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Nghĩa là mong muốn cho người có lỗi sửa sai, thay đổi đời sống để trở thành con người tốt hơn. Người sửa lỗi không bao giờ được phép có những hình thức nào đó mang tính trù dập hay loại trừ người anh em sai lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn có trách nhiệm sửa lỗi cho anh em theo phương cách của Chúa chỉ dạy. Đồng thời, xin cho chúng con luôn biết nhận ra sự sai lỗi của mình, nhờ đó mỗi người chúng con ngày càng trở nên tốt hơn. Amen.
67.Cha Ta sẽ ban cho--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được bàn đến là các trẻ nhỏ và những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).
Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: - Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); - Quyền bính buộc tội và tha tội (c. 18); - Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20).
Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra vấn đề là phải đối xử như thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố cục các câu nầy như sau: - Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), - Các cách sửa lỗi (cc. 15b-17a), - Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh sử nói đến việc “phạm lỗi”, hamartano. Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis + một người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp ngã” là tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp đến một cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi cần đến cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn “người anh em” được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi và người bị xúc phạm. Động từ elenchò là hapax trong Matthêô. Trong tin mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển trách”, elenchò, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elencho trong ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là “mở ra, trải ra, chỉ cho một người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc sửa lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouo, mang ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn là “hoán cải” (7:24; 10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdaino, “kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải một người anh em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc ấy cũng được kể là thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em của ngươi”.
Kết quả có thể là tiêu cực, “Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng hơn. Phải cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba người, như thấy điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklèsia ở đây chỉ cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.
Nếu cách sửa lỗi cuối cùng vẫn không đạt kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c. 15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”, nghĩa là như người chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người nầy.
Việc Matthêô kể ra đến ba giai đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết của việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết sức và bằng mọi cách đưa người anh em trở về.
Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ đối với người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình thuật trước, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các động từ được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết về tội.
Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20)
Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm” (c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở trên. Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến việc một người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói đến sự hoà hợp của các môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được Chúa Cha nhậm lời về “những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20). Động từ symphòneo, nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có nghĩa là “cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện “gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách sửa lỗi họ mà không thành công.
Câu 20 khai triển ý tưởng việc cầu nguyện trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô" là tụ họp để cầu nguyện, là tụ họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20 bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.
Sửa lỗi người anh em phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn cứu độ.
68.Phương cách sửa lỗi cho nhau trong cộng đoàn--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU.
Các thành viên trong cộng đoàn Hội thánh phải tế nhị sửa lỗi cho nhau và cầu nguyện chung với nhau: Khi có ai sai lỗi, thì cần sửa lỗi lần lượt qua 4 bước như sau: Bước một là đi gặp riêng để nhắc nhở kẻ có lỗi. Nếu họ không chịu nghe thì sang bước thứ hai là đưa thêm một hay hai nhân chứng. Nếu họ vẫn cố chấp thì sang bước thứ ba la đưa họ ra trước cộng đoàn nhờ xem xét. Nếu họ vẫn cố chấp không muốn nghe cộng đoàn thì sang bước thư tư là kể họ như người ngoại đạo và phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. Lời cầu nguyện nếu muốn được Chúa chấp nhận thì cần cầu nguyện chung với cộng đoàn, vì Chúa Giêsu hứa sẽ hiện diện và ban ơn khi hai ba người hiệp nhau lời cầu xin nhân danh Người.
CHÚ THÍCH:
- C 15-16: + Người anh em: Anh em nói đây là anh em cùng một cộng đoàn đức tin (x. Mt 23,8; 28,10). + Phạm tội: Không nhất thiết phải là tội xúc phạm đến người sửa lỗi, nhưng là những lỗi nặng nề, công khai, gây gương mù gương xấu và làm tổn thương cho sự hiệp nhất cộng đoàn. Qua đó cho thấy Hội thánh không chỉ gồm những người tốt lành hoàn hảo, mà còn có cả những tội nhân xen lẫn như dụ ngôn cỏ lùng đã cho thấy. + Hãy đi sửa lỗi nó: Ở đây Đức Giêsu dạy phải đi sửa lỗi cho kẻ có tội do đức bác ái đòi hỏi. Vì mỗi thành viên trong cộng đoàn đều có trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức của anh em mình. Sự sửa lỗi này không mâu thuẫn với lời dạy tránh xét đoán anh em và đừng đòi lấy cái rác ra khỏi con mắt anh em, đang khi có cái xà trong con mắt mình (x. Mt 7,1-5). Như vậy sửa dạy không phải là khiển trách miệt thị kẻ có tội, nhưng để giúp tội nhân nhận ra lỗi của mình và thành tâm sám hối. + Một mình anh với nó mà thôi: Đây là sửa lỗi của một cá nhân, nhằm tôn trọng và giữ thể diện cho kẻ có lỗi. Nếu cách này không hiệu quả thì mới tiếp tục các cách tiếp theo. + Được món lợi là người anh em mình: Món lợi không có nghĩa là “lời” thêm được một người bạn hay chiến thắng được một đối thủ. Nhưng là giúp cho Hội thánh khỏi bị mất một thành viên. + Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có của người đi sửa lỗi khi đối diện các tội nhân cứng lòng cố chấp. Việc đem theo một hay hai người nữa là để giúp tội nhân ý thức hơn về tội của mình, như luật Mô-sê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào. Phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Đức Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội, nhưng là những người có uy tín, để giúp tội nhân sám hối sửa lỗi.
- C 17-18: + Đi thưa Hội thánh: vì Hội thánh đã được Chúa ban cho quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội thánh không phải để xét xử, nhưng để tội nhân có dịp hoán cải hầu xứng đáng được ơn giao hòa. + Kể nó như một người ngoại: Nếu kẻ có tội có thái độ cố chấp không muốn sửa lỗi, thì sẽ bị coi là “người ngoại đạo hay kẻ thu thuế”, nghĩa là người lạc giáo. Từ nay Hội thánh không có trách nhiệm trực tiếp đối với họ và chỉ còn biết phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. + Dưới đất anh em cầm buộc những điều gì: Đức Giêsu trao cho Nhóm Mười Hai cũng một thứ quyền cầm buộc và tháo cởi trao cho tông đồ Phê-rô (x. Mt 16,19). Qua đó cho thấy Hội thánh có quyền thiết lập luật lệ cho các tín hữu. Khi trao quyền cầm buộc tháo cởi cho Nhóm Mười Hai, Đức Giêsu không bãi bỏ quyền đã trao cho tông đồ Phê-rô. Nhưng Người chỉ muốn các môn đệ phải liên kết với Phê-rô là đầu khi ra các phán quyết về đức tin và luân lý. + Dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì…: Mọi phán quyết của Hội thánh ở trần gian về đức tin và luân lý mà được công đồng bàn thảo biểu quyết và được Đấng kế vị thánh Phê-rô công bố, thì sẽ Chúa ban cho ơn bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm, và được Thiên Chúa trên trời phê chuẩn.
- C 19-20: + Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em họp lời cầu xin bất cứ điều gì: Lời cầu nguyện riêng của mỗi người trong phòng kín là cách cầu nguyện khiêm tốn đẹp lòng Chúa (x. Mt 6,6). Nhưng lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại đẹp lòng Chúa hơn và dễ được Chúa chấp nhận hơn. Cầu nguyện chung là một phương thức duy trì đức ái và sự hiệp nhất cộng đoàn. Khi hội họp, các tín hữu cần lưu ý hai điều quan trọng: một là phải hội họp nhau trong tình bác ái và sự hiệp nhất. Hai là phải nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là nhằm xây dựng Hội thánh của Chúa và làm cho Tin mừng ngày một lan rộng. + Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy: Đây không phải là họp nhau mang tính thế tục, nhưng họp nhau nhân danh Đức Giêsu, để được Người dạy dỗ với ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. + Có Thầy ở đấy với họ: Trong thời Cựu ước, Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người qua hình cột mây đậu trên Nhà Tạm che nắng ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (x. Xh 40,34-38). Người cũng hứa sẽ hiện ra nói chuyện với dân Ít-ra-en trên nắp Hòm bia Giao ước (x. Lv 16,2). Đến thời Tân ước, không những Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện mỗi khi cộng đoàn họp nhau cầu nguyện, mà cả những khi họ họp nhau nhân danh Người. Người hiện diện để giúp họ xây dựng tình yêu thương hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau, hòa giải những mối bất hòa chia rẽ và duy trì sự hiệp thông giữa cộng đoàn.
CÂU HỎI:
1) Phải chăng Nước Trời hay Hội thánh ở trần gian chỉ gồm những thành phần tốt lành thánh thiện? 2) Các tín hữu cần đối xử thế nào đối với những thành viên mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng? 3) Cần phải sửa lỗi cho nhau qua mấy bước? 4) Tại sao phải thưa kẻ có tội với Hội thánh? 5) Hội thánh ra vạ tuyệt thông cho những loại tội nhân nào và nhằm mục đích gì? 6) Phải chăng ở đây khi cũng trao cho Nhóm Mưới Hai quyền cầm buộc và tháo cời (x Mt 18,18), Đức Giêsu gián tiếp truất quyền đã trao cho Tông đồ Phê-rô trước đó (x Mt 16,19)? 7) Tại sao lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại có giá trị hơn lời cầu nguyện riêng của cá nhân ở nơi kín đáo? 8) Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện giữa cộng đoàn trong những trường hợp nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời Chúa: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18,15).
2. Câu chuyện: Ngôn sứ Nathan sửa lỗi cho vua Đavít
Ngày nọ Đức Chúa đã sai ngôn sứ Na-than đến với vua Đa-vít. Ông vào gặp vua và nói với nhà vua: “Có hai người trong cùng một thành, một người giàu và một người nghèo. Người giàu thì có rất nhiều chiên dê và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó và nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông, ông coi nó như một đứa con gái của ông. Một hôm người giàu có khách đến thăm. Ông ta không bắt chiên dê hay bò của mình mà lại sai gia nhân đi bắt con chiên cái của người nghèo kia mang về làm thịt đãi khách”. Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với lối hành xử của kẻ giàu có ấy và nói với Na-than rằng: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và vì đã không có lòng thương xót”. Bấy giờ Na-than mới nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en. Chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ta mà làm điều dữ trái mắt Ta? Ngươi đã dùng gươm đâm chết U-ri-gia người Khết. Vợ của y thì ngươi đã cướp lấy làm vợ ngươi. Còn chính y thì ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia người Khết làm vợ ngươi”. Đức Chúa phán thế này: “Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật”. Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi thật đã đắc tội với Đức Chúa” (x 2 Sm 12,1-13).
3. Suy niệm:
Hội thánh gồm các tín hữu có đức tin và đã được thánh hóa nhờ các bí tích. Nhưng bao lâu còn ở trần gian, các tín hữu cũng vẫn bị sai lỗi như bao người khác. Họ có thể sai lầm và phạm phải nhiều tội lỗi, gây gương mù gương xấu và nên cớ vấp phạm cho anh em lương dân. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy các bước sửa lỗi cho anh em, để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa giúp tội nhân tu sửa ngày một hoàn thiện hơn.
1. Sửa lỗi là một hành vi yêu thương:
Đức Giêsu dạy các tín hữu không được im lặng khi thấy anh chị em mình có lỗi, nhưng phải mạnh dạn và thẳng thắn góp ý, giúp họ nhận ra lỗi lầm để sửa đổi (x. Mt 18,15). Vì “Thiên Chúa không muốn cho những kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống”.
- Nhiều khi chúng ta không dám thẳng thắn sửa lỗi tha nhân vì sợ chạm tự ái khiến họ tức giận, sợ bị mất quyền lợi hay sợ bị trả thù nên đành giữ thái độ im lặng. Im lặng như thế là đồng lõa với tội ác và kẻ xấu sẽ “được đằng chân lân đằng đầu”.
- Cũng cần phân biệt giữa khiêm tốn sửa lỗi với thái độ tọc mạch “vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết”, hay thái độ lên mặt “thầy đời” khi mình chưa đủ tư cách sửa lỗi tha nhân, như người Việt có câu: “Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Chính Đức Giêsu đã quở trách các Biệt phái và luật sĩ về thái độ đạo đức giả này: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (Mt 7,3-5).
- Ngoài ra, sửa lỗi còn là một việc làm thể hiện tình yêu thương, giống như bổn phận của cha mẹ là phải răn dạy con cái: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”; hoặc: “Sinh con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”. Thấy một người đi vào con đường dẫn đến đầm lầy nguy cơ bị sụt lún mà im lặng không cảnh báo để họ phòng tránh thì đó chính là một tội ác. Thấy một người làm một điều sai lỗi, có thể gây thiệt hại lớn cho bản thân, gia đình và xã hội mà ta không chịu can ngăn thì cũng là một trọng tội như luật pháp đã qui định: “Tội lỗi bổn phận gây hậu quả nghiêm trọng”!
2. Sửa lỗi lẫn nhau là tích cực xây dựng hiệp nhất cộng đoàn:
Góp ý sửa lỗi anh em phải do tình thương thôi thúc. Nhưng bản thân mỗi người chúng ta cũng cần được người khác sửa lỗi mới có hy vọng nên hoàn thiện. Một cộng đoàn trưởng thành là khi phát hiện có điều gì sai trái thì các thành viên sẽ liệu cách sửa lỗi cho nhau. Lời góp ý phải phát xuất do động lực yêu thương, chứ không do lòng ganh ghét thù hằn cá nhân. Mỗi người cần biết khiêm tốn lắng nghe các góp ý của anh em, thậm chí còn phải nghe cả những lời phê bình chỉ trích của những kẻ đang thù ghét chống lại mình nữa.
Nhiều người nghĩ rằng: Hãy “cố chịu đấm ăn xôi”, ráng chịu đựng những lời phê bình mà không thực tâm muốn hoán cải. Từ đó sẽ dẫn đến tình trạng đối xử với nhau “Bằng mặt chứ không bằng lòng” và bầu khí cộng đoàn bị ô nhiễm. Trái lại, nếu mọi người đều ý thức nhân vô thập toàn, để khiêm tốn nhận lối và giúp nhau sửa lỗi, thì sẽ tr ánh được gương mù gương xấu… Cộng đoàn sẽ ngày một an vui, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa do có Chúa hiện diện như Người đã nói: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. (Mt 18,20).
3. Phải sửa lỗi cho nhau như thế nào?
Giống như bác sĩ giải phẫu một khối u ác tính. Nếu thiếu kinh nghiệm hay thao tác nhanh ẩu không đúng kỹ thật thì không những không chữa lành được khối u mà còn có nguy cơ làm cho khối u bị “di căn” gây thiệt hại lớn hơn cho bệnh nhân. Cũng vậy, sửa lỗi cho anh em đòi chúng ta phải theo một số nguyên tắc như Đức Giêsu đã đề ra trong Tin mừng hôm nay là phải tế nhị, kín đáo và kiên nhẫn.
+ Tế nhị: Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người bị sửa lỗi, để biết khi nào nên nói và nói như thế nào để người bị sửa lỗi không bị chạm tự ái và sẵn sàng hợp tác tu sửa.
+ Kín đáo: Là phải góp ý riêng, không để cho người khác biết, hầu tránh cho kẻ có lỗi khỏi mặc cảm xấu hổ và bị người khác khinh thường xa lánh.
+ Kiên nhẫn: Là không nóng vội và đừng đòi phải có kết quả trước mắt, nhưng biết kiên nhẫn chờ đợi để kẻ có lỗi có thêm thời gian suy nghĩ như người ta thường nói: “Mưa dầm thấm lâu!” hoặc “Dục tốc bất đạt!”.
4. Cụ thể các bước sửa lỗi cho anh em theo lời Chúa dạy:
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã dạy các môn đệ về bốn bước khi sửa lỗi cho anh em như sau:
Một là đi gặp riêng giữa ta và người có lỗi.
Hai là nếu họ không nhận lỗi thì sẽ đi chung với một hoặc hai nhân chứng, không phải để làm áp lực mà để mọi việc được sáng tỏ và khách quan hơn, nhờ lời phân giải của các nhân chứng. Bước này gọi là “ba mặt một lời”.
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe, thì tiến tới bước thứ ba là đưa kẻ có lỗi ra trước cộng đoàn. Không phải để xét xử kết án, nhưng để nhờ thế giá của cộng đoàn mà kẻ có lỗi sẽ dễ hồi tâm tu sửa (x. Mt 18,20).
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe cộng đoàn, thì sang bước cuối cùng là tách họ ra khỏi cộng đòan Hội thánh, để họ không có điều kiện tác hại đến cộng đoàn. Tương tự như trường hợp một bàn chân bị hoại tử, nếu không kịp thời xử lý thì tình trạng họai tử sẽ ngày càng nặng hơn lan sang các bộ phận khác. Vì thế nếu sau một thời gian không khỏi, bác sĩ điều trị sẽ quyết định “đọan chi”, nghĩa là loại bỏ phần bị hoại tử tới khớp cổ chân cổ tay hay đầu gối… để tránh tình trạng hoại tử ngày một lây lan. Những tội nhân cố chấp trong sự sai trái về đức tin và luân lý sẽ bị coi như “dân ngoại hay người thu thuế”, nghĩa là không còn thuộc về Hội thánh nữa. Từ đây Hội thánh không chịu trách nhiệm đối với họ, mà chỉ còn biết phó thác họ cho lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
4. Thảo luận:
1) Bạn nên phản ứng thế nào khi bị người khác phê bình về các hành vi sai lỗi của bạn? 2) Cụ thể khi làm việc trong một công sở hay công ty xí nghiệp mà cấp trên tham nhũng, chúng ta nên làm gì để vừa tránh bị họ cô lập đào thải, đồng thời cũng giữ được sự công minh chính trực của người tín hữu môn đệ Đức Giêsu?
5. Nguyện cầu:
- Lạy Chúa Giêsu. Xưa Chúa đã từng có các người bạn thân là 3 chị em gia đình ở Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,5.11). Chúa cũng không coi các môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn nghĩa thiết, để tâm sự vui buồn với các ông (x. Ga 15,15). Hôm nay, chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có những người bạn thân, để nâng đỡ chúng con trên bước đường đời.
- LẠY Chúa. Dù giữa chúng con có những khác biệt, nhưng xin Chúa ban cho chúng con hiệp nhất nên một trong tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết thật tình yêu thương nhau, biết nâng đỡ an ủi nhau mỗi khi bị thất bại, biết động viên khen ngợi nhau trong những thành công, và nhất là sẵn sàng góp ý xây dựng để cùng nhau thăng tiến. Xin cho chúng con trở nên những môn đệ đích thực của Chúa, nhờ việc năng học hỏi suy niệm Lời Chúa, nhờ đó, chúng con có thể trở thành bạn hữu của anh em.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
69.Trách nhiệm liên đới
Sống trong xã hội, con người có sự liên đới với người khác. Họ sống cùng và sống với người khác. Họ có trách nhiệm sửa lỗi để xây dựng cho nhau. Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho chúng ta về bài học sửa lỗi cho nhau.
Do tội nguyên tổ nên con người mang thân phận yếu đuối, lỗi lầm...Khuynh hướng xấu cùng với những việc làm bất chính, đã đi sâu vào trong bản ngã của con người. Nó không chỉ hiện diện mà còn hoành hành, thao túng và gây nên biết bao tai hoạ cho con người. Trong thư Roma, Thánh Phaolô cho ta thấy cái ác quả tai hại: "Vì một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và bởi tội mà có sự chết". Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu thương muốn con người phải biết tha thứ, sửa lỗi cho nhau theo tinh thần bác ái, tinh thần của Chúa Giêsu, đưa dẫn người khác về cùng Chúa: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó..."(Mt 15,18). Chúa dạy chúng ta hãy biết lấy tình thương, tình người để cư xử với người khác, coi họ là anh em, nhất là khi họ có lỗi lầm thiếu sót. Một cách tế nhị, kín đáo, chúng ta làm sao để giúp cho anh em nhìn ra những sai sót của mình. Trường hợp chúng ta là người có lỗi thì hãy khiêm tốn, ý thức lỗi lầm, thiếu sót của chính mình, để nhờ đó cũng biết quay về cùng Chúa, theo Lời Ngài mời gọi, để được cứu sống.
Nếu việc làm một mình sửa lỗi cho anh em chưa có hiệu quả, hãy kêu gọi sự cộng tác, góp phần của người thân hay những người có uy tín: "Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa...(Mt 18, 16).
Còn nếu như có những lúc chúng ta cảm thấy bó tay, bất lực trước những sự dữ, điều xấu của người này, kẻ khác..thì chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa, chạy đến cùng Chúa cầu xin Chúa ra tay giúp họ sửa lỗi chính mình: "..Còn nếu nó không nghe, thì hãy kể nó như người ngoại hay người thu thuế"...(Mt 18, 17).Khi lời nói của ta hay của nhiều người chưa được chấp nhận thì chúng ta hãy tiếp tục giúp họ bằng lời cầu nguyện, bằng gương lành là sự hy sinh, lòng quảng đại, tinh thần hiệp nhất,...Họ đang cần nhiều thật nhiều sự trợ giúp của chúng ta, hãy sẳn sàng cho cách thức mới đầy tình người, giàu lòng đạo đức,..
Trong thư Roma Thánh Phao nói: "Yêu thương là chu toàn lề luật"(Rm 13, 10). Chúa mời gọi chúng ta hôm nay, yêu người không những là không làm thiệt hại cho người khác mà còn biết giúp người khác khắc phục, sửa đổi bản thân, để họ luôn đi trong đường nẻo của Thiên Chúa. Đây là trách nhiệm liên đới, là bổn phận của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa không muốn chúng con dửng dưng trước những lỗi lầm của người khác, gương xấu của anh em, phần rỗi của họ...mà là dạy cho chúng con có trách nhiệm với người anh em, sửa lỗi cho họ. Không những thế Chúa còn muốn chúng con biết khéo léo, tế nhị, khi sửa lỗi cho nhau. Đàng khác chúng con còn nhận ra rằng chúng con nên biết khiêm tốn để đón nhận ý Chúa, lời Giáo Hội dạy bảo để chúng con sẳn sàng sửa chữa những lỗi lầm của mình, siêng năng cầu nguyện để biết rõ và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, để ngày sau nhiều người được vào hưởng niềm vui Nước Trời.
70.Anh em sửa lỗi cho nhau.
I. Giải thích bản văn
c.15 + "Anh em": Bài diễn từ về nếp sống cộng đoàn (chương 18) đặt cơ sở trên sự kiện là các Kitô hữu phải coi nhau là "anh em". Thật vậy "anh em" không phải chỉ là những người cùng cha cùng mẹ với nhau, mà còn là những người cùng thuộc một cộng đoàn tín ngưỡng với nhau. Đức Giêsu sẽ nói về sau rằng "tất cả chúng con là anh em nhau" (23,8). Bởi đó trong Giáo hội khởi thủy, các Kitô hữu quen gọi nhau là "anh em" (x. TđCv 9,17 15,23 16,40 Rm 14,10 1Cor 15,6 Col 1,2).
+ Lỗi phạm: chi tiết này chứng tỏ Đức Giêsu không ảo tưởng về nếp sống cộng đoàn của Giáo hội Ngài:không phải là luôn hoàn hảo đâu, vẫn còn có lỗi phạm. Vấn đề là: bản chất của lỗi phạm ấy thế nào: lỗi kín hay lỗi công khai? lỗi trực tiếp đến ta hay lỗi không trực tiếp hại ta? TOB cho rằng đây là lỗi công khai và lỗi nặng, lỗi này không nhất thiết phải đụng chạm trực tiếp tới ta (nếu Kitô hữu chỉ can thiệp khi người khác lỗi phạm trực tiếp tới mình thì không có tinh thần cộng đoàn. Ở đây đang bàn về tinh thần cộng đoàn). Bởi vậy lối dịch "Phạm đến con" là không đúng.
+ Hãy đi sửa bảo: không nên hiểu là "đi xét đoán" vì ở Mt 7,1-5 Đức Giêsu đã khuyên môn đệ đừng xét đoán ai. Động từ ở đây là "sửa bảo" elegcho có nghĩa là cố gắng sữa chữa trong tình bác ái để thu phục 1 người có lỗi. Nói cách khác, mục đích không phải để kết án mà là để thu phục.
+ "Được lợi" (tiếng Pháp: gagner): không có nghĩa là đã thắng được 1 kẻ thù, cũng không có nghĩa là giữ được 1 người ban cho ta, mà có nghĩa giáo hội:giữ được 1 phần tử giáo hội khỏi tách rời xa giáo hội.
c 16- Đnl 19,15 "Theo miệng 2,3 nhân chứng thì việc mới vững". Đức Giêsu trích dẫn câu này nhằm dạy ta kiên nhẫn và khôn ngoan:chớ vội 1 mình kết luận về lỗi người khác; nhờ có 2,3 người nữa thì cũng tránh được ý kiến chủ quan nhiều khi độc đoán.
c 17 - "Trình với giáo hội":không phải cho Giáo hội lên án, mà cho GH long trọng khuyên bảo một lần nữa kẻ có lỗi hãy hối lỗi.
- "Kẻ ngoại hay người thu thuế": Đức Giêsu không hề khinh chê 2 hạng người này. Ngài đã từng khen đức tin của 1 người ngoại (Mt 8,10 15,28), đã từng ăn chung với những người thu thuế (9,11). Vậy những chữ "kẻ ngoại và thu thuế" Đức Giêsu dùng ở đây chỉ có nghĩa là những người mà Kitô hữu bất lực không hoán cải được, không còn trách nhiệm đối với họ nữa. Một người phạm lỗi mà ngoan cố không nghe lời thân tình của 1 người bạn, của 1 nhóm bạn, và của cả tập thể Giáo hội, thì không phải GH khai trừ người đó, nhưng chính người đó do tội và do sự ngoan cố của mình, đã tự lìa khỏi Giáo hội.
c 18- Lý do giáo hội có tiếng nói sau cùng mang tính quyết định là vì GH đã được Đức Giêsu ban quyền "chìa khóa". Vấn đề là quyền này được ban cho ai? Có người hiểu chữ "chúng con" ở đây là từng người trong GH. Lối giải thích này đã bị công đồng Triđentinô lên án. Ở Mt 16,19 quyền chìa khóa được trao cho một mình Phêrô với tư cách thủ lãnh GH. Ở đây không phải Đức Giêsu lấy lại quyền ấy từ tay Phêrô để trao cho từng phần tử GH, nhưng là trao cho tập thể GH trong tinh thần liên kết với vị thủ lãnh là người duy nhất nắm quyền chìa khóa.
- Những câu 19,20 xem ra bàn về 1 chuyện khác không ăn nhập gì với chuyện ở những câu trên. Nhưng thực ra có liên quan vì đều cùng chung tinh thần cộng đoàn:sửa lỗi nhau cùng trong tinh thần cộng đoàn, cầu nguyện cũng phải trong tinh thần cộng đoàn. Vì thế không nên hiểu chữ "hai người" theo nghĩa 1 nhóm nhỏ tách ra khỏi nhóm lớn mà được Chúa chúc lành.
II. Nhận định.
Đoạn này soi sáng ý nghĩa của tội:tội không chỉ là 1 việc cá nhân ai làm nấy chịu, mà là việc của cộng đoàn:mọi phần tử trong cộng đoàn đều có trách nhiệm về tội của 1 người trong cộng đoàn, do đó đều phải cố gắng hoán cải để người có tội không vì tội đó mà bị xa cách khỏi cộng đoàn.
Đoạn này cũng cho ta 1 hình ảnh đẹp về Giáo hội:GH là 1 cộng đoàn "anh em" trong đó mọi phần tử đều liên kết nhau trong việc sửa lỗi nhau và trong lời cầu nguyện.
71.Nhân danh Thầy
Theo bản tính yếu đuối của con người, sự tha thứ không phải là việc dễ làm, và không phải ai cũng có thể dễ dàng tha thứ được. Nhất là tha thứ cho kẻ thù giết hại chính mạng sống của mình. Phải là những người có tâm hồn cao cả, noi gương Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm khi Ngài chết trên cây Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Tám mươi chín người thân thuộc họ hàng của Simon Wiesenthal đã bị giết chết bởi những người lính Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Simon đã trở thành một con người đi săn bọn Đức Quốc xã để trả thù. Ông bắt đầu cuốn sách bằng một kinh nghiệm của chính ông, một tù nhân trong trại tập trung. Một ngày nọ ông bị lôi kéo ra khỏi hàng lao động và được đưa lên cầu thang phía sau đi tới một căn phòng tối om trong bệnh viện. Một người y tá dẫn ông vào phòng, rồi bỏ ông ở đó một mình với một khuôn mặt được băng bó trắng xoá đang nằm trên giường. Một người lính Đức đã bị thương rất nặng, toàn thể khuôn mặt được băng kín. Với một giọng nói run rẩy, người lính Đức đã tự thú tất cả tội lỗi với Wiesenthal. Anh nói về những phương pháp tàn bạo mà đơn vị của anh đã sử dụng để giết người Do Thái. Rồi anh tự thú nhận những tội ác do chính anh đã làm.
Một vài lần Wiesenthal đã cố gắng rời bỏ căn phòng, nhưng mỗi lần như thế cái hình hài giống như bóng ma đã vươn tới và van xin anh ở lại. Cuối cùng, sau 2 giờ đồng hồ, người lính đã nói với Wiesenthal lý do tại sao anh được mời đến đây. Anh nói: “Tôi biết rằng điều tôi đang xin hầu như quá lớn đối với anh. Nhưng không có câu trả lời của anh, tôi không thể chết bình an được”. Anh van xin sự tha thứ vì tất cả những người Do Thái anh đã giết. Wiesenthal ngồi im lặng một lúc. Ông nhìn vào khuôn mặt băng bó của người lính Đức. Sau cùng, ông đứng dậy bỏ căn phòng ra đi không nói lời nào. Ông đã bỏ lại người lính trong nỗi thống khổ không được tha thứ!
Đây là câu chuyện thật về Wiesenthal. Nó được coi như một trường hợp cực đoan, tuy nhiên, tôi tin rằng trường hợp như vậy không phải là không thường xảy ra đối với chúng ta. Tha thứ cho một người đã gây ra đau khổ cho chúng ta là một trong những điều khó khăn nhất mà một người Kitô hữu được kêu gọi để làm.
Vào ngày 11.9.2001. Alfred Braca là một trong số hàng ngàn người đã chết trong những cuộc tấn công vào toà nhà Thương Mại Thế Giới. Bà quả phụ Jean, và bốn người con đã mất đi một người chồng, người cha trong buồn sầu. Một tháng sau, Jean Braca đã nhận được một cú điện thoại từ tổng đài điện thoại hãng MCI. Người tổng đài đã chuyển cho bà một tin quan trọng: những lời cuối cùng của Alfred Braca, chồng bà.
Trước khi toà nhà tháp đôi sụp đổ, Alfred Braca đã gọi điện thoại cho nhân viên tổng đài của hãng điện thoại MCI và yêu cầu bà chuyển lời cuối cùng của ông cho gia đình. Ông đã nói với họ rằng ông rất yêu thương mọi người trong gia đình. Ông biết rằng ông đang ở trong một tình thế rất nghiêm trọng. Và muốn cho gia đình biết ông và 50 người khác đã quy tụ lại với nhau để cầu nguyện trong giây phút nguy kịch này. Và đây là hành động cuối cùng của họ trước khi chết.
Căn nguyên của khủng bố có thể là sự hiểu lầm, hận thù và bạo động. Sức mạnh quân sự không thể bứng rễ được nó. Bom đạn và tên lửa không thể bay tới phá huỷ sự hận thù trong lòng con người được. Trái lại, sự hận thù càng gia tăng hơn nữa. Nó chỉ có thể được cải hoá bằng sự cảm thông, lòng yêu thương và cầu nguyện.
Đây chính là lời kêu gọi tha thứ, hoà giải, yêu thương và cùng nhau cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay: “Ở đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
72.Sửa lỗi
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. Thực vậy, một cộng đoàn du lớn hay nhỏ, không phải lúc nào cũng chỉ có những con người tốt lành và thánh thiện. Trái lại rất nhiều kẻ cũng đã sai lỗi, cũng đã đi ngược lại với đường lối và chủ trương. Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta sẽ phải xử trí ra làm sao?
Nhiều người, trong chúng ta chủ trương trong một khuynh hướng cực đoan, đó là phải loại trừ tức khắc những kẻ phạm lỗi ra khỏi cộng đoàn, với nhiều lý do xem ra chính đáng: Nào là để giữ uy tín cho cộng đoàn, nào là để duy trì sự thánh thiện của cộng đoàn, nào là để ngăn đe cho tội lỗi khỏi lây lan.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nghĩ và đã hành động một cách khác. Đối với Người vấn đề chính yếu đó là phải làm thế nào cho kẻ phạm tội biết ăn năn trở lại. Người đã từng tuyên bố Người đến vì những con chiên lạc, để họ biết tìm về đường ngay nẻo chính. Người đến để đem lại sự sống chứ không phải cái chết. Lần kia người ta dẫn đến trước mắt Người một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Chiếu theo luật lệ hiện hành, thì chị sẽ bị ném đá cho đến chết. Còn Chúa Giêsu thì khác, thay vì ném đá, Người đã nói lên những lời tha thứ: Con hãy về và đừng phạm tội nữa.
Tính cách lành mạnh của một cộng đoàn không dựa trên sự thánh thiện của mỗi người, nhưng dựa trên mối quan hệ giữa các người trong cộng đoàn có khả năng làm cho kẻ phạm tội chỗi dậy, dựa trên một tình liên đới huynh đệ.
Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là bao che, là xí xoá. Tin Mừng cho chúng ta thấy một cuộc đấu tranh bền bỉ trong tình huynh đệ, nhưng không khoan nhượng. Khởi đầu bằng sự sửa lỗi giữa hai người với nhau, để giữ uy tín cho kẻ phạm lỗi trước mặt cộng đoàn khi họ trở lại. Vấn đề không phải là phạt, mà là sửa. Nếu không có kết quả, thì việc sửa lỗi sẽ được thực hiện với sự chứng kiến của người thứ ba. Và nếu kẻ phạm lỗi vẫn tứ tiếp tục ngoan cố, thì vấn đề sẽ được đưa ra cộng đoàn và nếu cũng không có kết quả, thì bấy giờ kẻ phạm lỗi mới bị coi như không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những bước đi này cho thấy một sự kiên nhẫn, cũng như tính cách quyết liệt đối với những sai lỗi. Bằng sự sửa lỗi, chúng ta giúp nhau thăng tiến bản thân. Đồng thời đó cũng là cách thức chúng ta cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội.
73.Nhắc bảo.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay tôi muốn chia sẻ về bổn phận nhắc bảo lẫn nhau.
Trước hết, điều chúng ta nhắc bảo phải là những sai lỗi. Không phải chỉ những sai lỗi đến chúng ta hoặc gây thiệt hại cho chúng ta, mà còn là những sai lỗi nói chung, những tội phạm bề ngoài, gây nên gương mù gương xấu. Mục đích chúng ta nhằm tới không phải là để phê bình chỉ trích, mà là để cứu thoát người anh em, trình bày cho họ biết những sai lỗi để uốn nắn sửa đổi mà thăng tiến bản thân như lời Chúa phán:
- Nếu nó nghe con thì con sẽ cứu được nó… và con được lợi thêm một người anh em.
Thực vậy, tội lỗi là sự ác to lớn và nặng nề nhất, là sự lầm lạc tai hại nhất, vì thế nhắc bảo người anh em cũng là một công việc bác ái cao thượng nhất. Hơn thế nữa, nếu không nhắc bảo, nhiều khi còn có hại cho chúng ta và chính chúng ta cũng phải liên đới phần nào trách nhiệm đối với linh hồn người khác mà một ngày kia chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tôn nhan Chúa.
Thế nhưng phải nhắc bảo như thế nào? Chúa Giêsu đã phân chia thành ba giai đoạn. Trước hết là phải nhắc bảo riêng tư giữa họ và ta. Nếu giải pháp đó không xong, thì dùng giải pháp thứ hai, đó là hãy giải quyết với hai hay ba nhân chứng, chứ không phải là tố cáo và đưa nhau ra tòa. Nếu giải pháp thứ hai cũng không xong, thì phải đem đến cho Giáo Hội. Giáo Hội ở đây có thể là Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội nói chung. Cụ thể là nhờ đến quyền bính phần đạo, chứ không phải là quyền bính phần đời, vì đây không phải là trường hợp để trừng phạt, mà là trường hợp để cải hóa. Đến lúc đó, mà họ còn không nghe nữa thì phải coi như người ngoại giáo và bị loại ra khỏi Giáo Hội.
Để xác quyết cho quyền bính của Giáo Hội, Chúa Giêsu đã nói thêm:
- Sự gì các con cầm buộc, thì trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo cởi thì trên trời cũng tháo cởi.
Như chúng ta cũng vừa nói: Nhắc bảo anh em là một nghĩa vụ bác ái đòi buộc chúng ta phải thực hành, nhưng phải thực hành với tinh thần siêu nhiên, và với cách thức phù hợp với tâm lý.
Trong việc phân rẽ đông tây của gia đình Kitô giáo, những người con của Giáo Hội đã có những lầm lẫn đáng tiếc trải dài nhiều thế kỷ chưa thể hàn gắn. Về lý, Giáo Hội có đủ lý nhưng về cách thức thi hành thì đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc, chính vì thế mà Đức Phaolô VI đã xin lỗi anh em Chính Thống cũng như Tin lành về những điều đáng tiếc ấy. Đây là một hành động đáng chúng ta suy nghĩ.
Trong việc nhắc bảo cũng vậy, nếu không khéo léo và tế nhị thì có thể đi đến chỗ đổ vỡ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta tiên vàn hãy nhắc bảo riêng tư để tìm lấy một sự cảm thông chân tình.
Với chúng ta ngày hôm nay chúng ta thường nghe nói nhiều đến từ ngữ đối thoại, tuy nhiên người ta đã lạm dụng hành động này. Bởi vậy trong bức thông điệp “Ecclesiam Suam” Giáo Hội của Ngài. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã định nghĩa đối thoại là một nghệ thuật thông cảm siêu nhiên. Sự đối thoại đòi cả hai bên những điều kiện sau đây:
Đó là phải rõ ràng và minh bạch, không úp mở, không dấu diếm cũng như không thủ đoạn.Tiếp đến là phải hiền dịu, xuất phát từ tình yêu và lòng kính trọng lẫn nhau và sau cùng là tín nhiệm, tin ở lời mình nói và thiện chí chấp nhận của người nghe.
Hãy áp dụng những điều kiện ấy trong việc nhắc bảo lẫn nhau, để chúng ta thực hiện được một hành vi bác ái cao thượng, đẹp lòng Chúa.
74.Sửa lỗi
Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ huy sự lưu thông. Dòng thác xe cộ và dân chúng xoay quanh chú. Bất thình lình chú phát hiện ra một người đi bộ cứ băng qua đường khi còn đèn đỏ. Chú liền thổi còi, giơ tay ngăn chặn và bước qua chỗ người vi phạm và nhận thấy đó là một người đồng hương. Chú bình tĩnh nhưng kiên quyết giải thích: Bạn hãy đợi một chút, khi đèn xanh bật sáng mới được đi. Với một nụ cười ngượng ngập, người vi phạm trở lại lề đường, nhìn đèn đỏ đổi sang vàng và rồi bước đi khi đèn xanh bật sáng. Tuy nhiên, thay vì đi thẳng qua, thì người đó lại nhún nhảy đi tới gần người cảnh sát gốc Việt Nam và thì thầm khi đi ngang qua viên cảnh sát: Chú hãy ý tứ, đừng cho những người da vàng này đi qua mặt.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta áp dụng vào điều Chúa Giêsu nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Lỗi phạm ở đây không phải chỉ là những xúc phạm đến bản thân chúng ta mà còn là tất cả những hành vi sai trái, khả dĩ gây nên gương mù gương xấu. Sửa lỗi người khác là bổn phận của một số người như chú cảnh sát Việt Nam trong câu chuyện, như cha mẹ, thầy dạy, huấn luyện viên và những người có trách nhiệm. Nhưng vấn đề là làm thế nào để thi hành điều đó. Câu chuyện trên cho chúng ta một số gợi ý.
Trước hết là khía cạnh tích cực. Thực vậy, chú cảnh sát không nhấn mạnh đến điều lầm lỗi là qua đường khi đèn đỏ, nhưng nhấn mạnh đến điều cần thiết là chỉ đi qua đường khi đèn xanh bật sáng. Chú không la hét cho người khác nghe được, nhưng chỉ nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết với người vi phạm. Chú bảo người ấy điều phải làm cũng như điều phải tránh.
Tiếp đến là lời nói của chú thật đúng lúc và tế nhị. Tất cả đều giúp ích cho việc sửa lỗi anh em. Vì như chúng ta thường bảo: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhiều khi chỉ vì những lời nói thiếu tế nhị, chúng ta chỉ tạo nên những bực bội và tức tối, khiến cho hành động thiện chí của chúng ta trở thành uổng công vô ích mà thôi. Đồng thời khi chỉ ra lầm lỗi của người khác, chúng ta nên lưu ý: Lầm lỗi đó không xúc phạm quá nhiều đến chúng ta; nhưng là lỗi nghịch với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. Lầm lỗi của họ có thể làm mất lòng chúng ta, nhưng quan trọng hơn, đó là làm mất lòng Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã nhắc nhỏ: Chúng ta có thể đem theo một hay hai người khác để sửa sai. Và cuối cùng, nếu người ấy vẫn không chịu nghe, thì cực chẳng đã, mới phải trình bày với Giáo Hội hay vị có thẩm quyền. Còn nếu như chúng ta được người khác nhắc bảo thì hãy có can đảm lắng nghe và chấp nhận nếu như những lời nhắc nhở đó là đúng, bằng không chúng ta sẵn sàng bỏ qua, không vì chút tự ái vụn vặt mà làm cho bầu khí trở nên căng thẳng, bởi vì: Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
75.Hoà giải
Yêu thương là ước mong và làm điều tốt cho người mình yêu. Một trong những điều tốt mà chúng ta nên làm và phải làm là giúp nhau nên trọn lành, nên tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Đã mang thân phận của con người thì không ai là không có những lần lỗi phạm. Chúng ta cần hình nhận sự thật đó để can đảm giúp người khác sửa sai và giúp chúng ta khiêm tốn đón nhận những góp ý và sửa lỗi của người khác dành cho mình. Chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng: nếu mình còn có người giúp sửa sai và chỉ ra lỗi phạm của mình thì hãy lấy đó làm niềm vui vì biết rằng mình còn được người khác yêu thương.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng: sửa lỗi người khác và giúp người khác nhận ra lỗi lầm của mình không phải là chuyện dễ. Nó là một nghệ thuật. Nếu không khéo trong việc này, chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài. Bởi thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta một phương thế để giúp những người sai lỗi mà chúng ta nên áp dụng cách triệt để trong sự khéo léo và khôn ngoan của ta.. vì giúp nhau nên lành thánh trở nên bổn phận bó buộc đối vớI người Kitô hữu chúng ta.
1. Mạnh dạn góp ý cho người sai lỗi:
Bản chất của Hội thánh là thánh thiện, nhưng Hội thánh đang cưu mang những con người chưa thánh và tội lỗi trong đó với ước mong giúp họ nên thánh và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã, bởi lẽ, tất cả chúng ta làm nên một thân thể và thông hiệp với nhau, mang những vết thương của nhau.
Chỉ ai yêu thương thật sự mới góp ý chân thật và thẳng thắn. Nhiều lúc, chúng ta chỉ dám nói sau lưng và nói quá nhiều những lỗi lầm của người khác. Hành động như thế, không lợi gì cho anh em của ta mà cũng chẳng lợi gì cho ta vì ta mang tội nói xấu anh em mình. Chúng ta không dám góp ý thẳng với anh em mình có thể vì chúng ta sợ: người khác giận mình, sợ người khác không đón nhận, sợ mất quyền lợi của mình...góp ý xây dựng là một dấu chỉ của yêu thương, chứ không phải là vạch lá tìm sâu. Nếu không phải vì đức yêu thương, ta tránh sửa lỗI người khác mà ta không có nhiệm vụ.
2. Tế nhị và tôn trọng kẻ sai lỗi:
Góp ý và sửa lỗi cho người khác là một nghệ thuật. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta những bước tiến hành để sửa lỗi cho người anh em của mình. Trước hết là sự gặp gỡ của ta với đương sự một cách âm thầm và kín đáo trên nguyên tắc là tôn trọng nhau. Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp thì ta nên đem theo vài người nữa. Làm thế không phải là gây áp lực nhưng để vấn đề được sáng tỏ thêm và khách quan hơn. Nếu đương sự vẫn không nghe thì phảI đưa họ đến với cộng đoàn để cộng đoàn sửa sai họ. Nếu họ vẫn không chịu đón nhận thì có nghĩa là tự họ đã cô lập họ, tự họ tạo ra bóng đêm cho mình.
Như thế, việc góp ý nên tiến hành qua nhiều giai đọan. Thái độ và tâm tình cần có của người sửa lỗi là tế nhị, tôn trọng, yêu thương, kiên nhẫn với kẻ sai lỗi. Chúng ta cần có trái tim yêu thương của Chúa để luôn thao thức và quyết tâm đưa những kẻ lầm đường lạc lối về với Chúa: " Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống."
Hội thánh là một gia đình yêu thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để được góp ý.
Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
76.Tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi nhau nhằm mục đích tốt cho nhau. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu.
Sống dưới bầu trời này mọi người đều là anh em của nhau: "tứ hải giai huynh đệ". Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia dình của Ngài.
"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó".
Chúa Giêsu nhắc chúng ta trách nhiệm đó. Vấn đề ở đây không có ý nói về việc tôi can thiệp vào đời tư của người khác, nhưng chúng ta phải ý thức hơn đó chính là trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em mình, giúp cho tha nhân sống tốt hơn, vì ích lợi cho chính người anh em đó, vì ích chung của Giáo Hội.
Tuy nhiên, việc sửa lỗi tha nhân, giúp đỡ anh em sửa đổi con người mình là một công việc tế nhị, khó khăn, không mấy dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng phải hy sinh và kiên nhẫn. Khi sửa lỗi tức là tôi đang can thiệp, đang đụng chạm trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: đầu tiên, cá nhân đối diện cá nhân.
Kế đến, nếu người phạm lỗi không chịu nghe những lời góp ý để sửa lỗi lầm, thì chúng ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý. Việc này sẽ thấu tình đạt lý và có sức hoán cải hơn.
Cuối cùng, nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo. Đây quả là một biện pháp khôn ngoan và hữu ích. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm lỗi. Mặt khác, biện pháp đó còn giúp cho người có lỗi có dịp hồi tâm, có cơ hội phản tỉnh để nhận ra sự thiếu sót, lỗi lầm của mình. Khi đó, không một tội nhân nào còn có lý do gì khác để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, của tình nghĩa huynh đệ. Phải thi hành bác ái với tình yêu anh em. Chúng ta giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành và hoàn thiện khi chủ ý đóng góp đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân lý và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá huỷ đồng thời có thể đẩy lui những điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ phải ý thức đáp trả cho được.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tha thứ, biết giúp cho nhau được thăng tiến hơn, được sửa chữa những lỗi lầm của mình, được hoàn thiện trong tình yêu của Chúa. Amen.
77.Nhắc nhở cách nào?
Anh chị em thân mến,
Bà Coritanbul, người Ba lan gốc Do thái. Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã. Sau chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha thứ cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để lại. Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt bà. Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể thực sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để con có thể tha thứ như Chúa..." Câu chuyện của bài Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa... Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Mỗi người trong cộng đoàn, trong Hội thánh đều có trách nhiệm với việc sửa lỗi anh em mình. Vì mỗi Kitô hữu đều là chi thể trong Thân thể mầu nhiệm, mà Chúa Kitô là đầu, nên có mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ; lại vừa là con cái Thiên Chúa, vừa là anh em với nhau, nên trách nhiệm sửa lỗi cho nhau càng thêm tế nhị và cần thiết. Lỗi ở đây thường là lỗi nặng và công khai, có tính cách gây gương xấu và làm tổn thương đến cộng đoàn.
Trách nhiệm sửa lỗi là trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức của anh em, để giúp anh em nên tốt; dĩ nhiên trước tiên bằng lời cầu nguyện, sau là bằng tình bác ái, khôn ngoan.
Cách sửa lỗi, ở đây chú trọng tới người sửa lỗi hơn là tội nhân. Thiên Chúa đòi mọi người có trách nhiệm về sự hoàn thiện của anh em. Nhưng để việc sửa lỗi có kết quả tốt, cần phải kiên nhẫn, khôn ngoan, bác ái và tha thứ...Mạch văn ở đây muốn nói về chuyện sửa lỗi, hơn là bắt lỗi. Tất cả đều được thực hiện trong tình yêu thương và kiên trì của Hội thánh. Nếu người được sửa lỗi không nghe, đó là điều bất đắc dĩ, là do chính họ...
b/. Trong việc sửa lỗi, chúng ta cần phân biệt: người sửa lỗi và người có lỗi:
Phía người thiện chí giúp sửa lỗi: cần kiên nhẫn, từ từ, bác ái và khôn ngoan: không phải thấy anh em mình có lỗi là đã vội lên án. Vì thế, việc sửa lỗi được thực hiện trong tình bác ái, không phải là một sự khiển trách đầy khinh miệt hay la mắng kiêu căng, nhưng với niềm hi vọng tạo điều kiện cho tội nhân có cơ hội hối lỗi và sửa mình. Cách sửa dạy này vừa có tính cách liên đới trách nhiệm, vừa có tính cách bác ái và phục vụ...
Phía người có lỗi: cần có tinh thần phục thiện. Người sửa lỗi cần gây ý thức, để họ biết nhận thiếu sót của mình, biết phục thiện khi bị vấp ngã. Sẽ giúp họ không cố chấp chống lại cộng đoàn, cũng không sống trong thảm nảo "gậm nhấm tội lỗi của mình", nhưng biết nhìn nhận thiếu sót, yếu đuối, đồng thời mạnh mẽ vươn lên trong niềm tin yêu và an bình...
Câu chuyện: Trong sách tu hành xưa có kể: Có hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm trời, họ trở về. Một người thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có vẻ ốm yếu, tâm trạng lại bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả thời gian qua, tôi nhận ra mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa yêu thương tôi quá chừng, vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù lại tình thương của Chúa...Còn người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được yên tâm, khi nghĩ mình không làm sao thoát khỏi án phạt đời đời... Qua câu chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ nhiên người thanh niên kia không phải không có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn năn kiểu đó chưa đủ...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Sửa lỗi nhau để giúp nhau nên tốt là điều cần, nhưng nếu việc làm đó vì phô trương, khoe khoang, sẽ không đem lại lợi ích cho ai cả; trái lại hậu quả tai hại sẽ lớn hơn nhiều. Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta hiểu được rằng muốn sửa lỗi anh em, cần thiết phải thành tâm, yêu thương họ như Chúa, nhất là ý thức để Chúa hoán cải họ hơn là chính mình hoán cải...
78.Chu toàn bổn phận
Anh chị em thân mến.
Tham gia giao thông trên đường bộ, chúng ta thấy nhiều biển báo được dựng trên đường. Những biển báo đó nhắc nhở cho những ai tham gia giao thông tuân hành luật lệ quy định để bảo đảm an toàn cho mình và cho người khác. Thỉnh thoảng còn có những người làm nhiệm vụ nhắc nhở trực tiếp: những người công an giao thông, họ có trách nhiệm nhắc nhở cho những người điều khiển các phương tiện giao thông tuân hành luật lệ để an toàn tính mạng. Thế mà hằng ngày đều có những tai nạn giao thông, làm cho biết bao người rơi vào hoàn cảnh mà không ai muốn bao giờ. Chúng ta thử nhìn xem tại sao có sự kiện như thế: trước tiên là những người tham gia giao thông; được nhắc nhở cách này hay cách khác, nhưng họ không lắng nghe, nhìn thấy những biển báo, nhưng họ không thi hành, họ cứ làm theo những gì mình muốn, nên tai nạn xảy ra. Còn những người có trách nhiệm nhắc nhở thì sao? Họ không hoàn thành trách nhiệm của mình, nhưng họ lợi dụng tình hình, để tìm mối lợi riêng tư, khiến cho mọi việc trở nên khó khăn hơn. Những người được nhắc nhở không thể nào lắng nghe họ được, họ tìm cách trốn tránh và cứ làm theo những gì mình muốn. Thế là tai nạn càng trầm trọng hơn. Nếu mỗi người ý thức được công việc của mình và thi hành cho tốt thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn nhiều.
Chúa Giêsu nói đến trách nhiệm và bổn phận để giúp cho anh em được tốt qua bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe. Hãy nhắc nhở anh em trong tình bạn chân thành, để ngươi lợi được người anh em. Sự chân thành sẽ làm cho mọi người dể chấp nhận. Với sự chân thành sẽ dễ làm cho người khác nhận được những gì mình cần phải làm. Nếu vì một lý do nào khác mà không có sự chân thành thì người nghe sẽ khó chấp nhận hơn, nếu sự chân thành càng ít thì kết quả sẽ càng kém đi. Nếu với tất cả sự chân thành, bằng mọi phương pháp có thể thực hiện mà vẫn không kết quả, thì một tai nạn xảy ra ngoài ý muốn, vì khi đó người nghe nhưng như không nghe gì, thấy cũng như không thấy gì, họ chỉ biết hành động mà không biết mình đang làm gì.
Thật khó chịu khi có người nào đó dám chỉ ngay vào vào những khuyết điểm hay tật xấu của mình. Càng khó chịu hơn nữa, khi việc làm của một người không muốn cho ai biết, lại có người dám đến chỉ ngay vào việc bí mật đó và bảo hãy thay đổi. Câu nói: nhân vô thập toàn, mỗi người đều biết. nhưng cái biết và đi đến chấp nhận thì thật là xa vời.
Có lúc nào trong cuộc sống, chúng ta chợt suy nghĩ và nhìn lại con người của mình, xem hiện tại của ngày hôm nay như thế nào, để nhìn lại quá khứ mà so sánh xem chúng ta có dám tự hào về hôm nay của mình không? Ngày hôm nay có tốt hơn ngày hôm qua? Có tốt hơn một năm về trước? Nếu so sánh nhiều hơn nữa thì niềm tự hào về tưổi đời của một người đối với chúng ta như thế nào? Nếu ngày hôm nay chúng ta thấy mình nhẹ nhàn hơn, vui vẽ hơn, dễ chấp nhận người khác hơn và biết giúp đỡ mọi người nhiều hơn thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó, trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe, biết chấp nhận và biết thay đổi những gì cần thiết. Còn nếu chúng ta chỉ biết tự hào về tuổi đời của mình, để quá bảo vệ bản thân mà không muốn ai chạm tới cho dù là lời nói, thì khi đó, chúng ta đã già rồi:
Già vì đôi mắt chúng ta mờ nên không còn nhìn thấy gì nữa, không còn nhìn thấy điều tốt để thực hiên cũng không còn nhìn thấy điều không tốt để tránh xa. Kể cả bản thân cũng không thể nhìn thấy để biết phải sống thế nào cho đúng.
Chúng ta già vì đôi tai chúng ta không còn khả năng lắng nghe, kể cả những lời hay, đẹp chúng ta cũng không thể nghe. Những lời dạy bảo chúng ta cũng không để lọt tai được, thì làm sao chúng ta có thể nghe được những lời kêu than chỉ trích những việc làm sai trái của chính mình được. Như thế thì những hành động, những việc làm tốt làm sao chúng ta có thể thực hiện được?
Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết nói những điều hữu ích và thực hành những việc làm tốt thì thật là hạnh phúc.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta để biết sống theo thánh ý Chúa.
79.Dám khiển trách
Tôi biết có ít người có thể thành công làm điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa bảo anh em và chỉ ra lỗi lầm của người đó khi chỉ có mình ngươi với người đó mà thôi”. Chúng ta có nói, phải, chúng ta có nói nhưng nói sau lưng người khác. “Cô bé tóc nâu ấy, bạn có biết không? Nó chẳng đáng thương chút nào cả!” Hoặc chúng ta xem họ có sạn trong đầu, chúng ta la lên, hung dữ, vụng về, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khéo léo và đầy yêu thương: “Bạn hãy chỉ cho người đó biết lỗi lầm của họ, nhẹ nhàng khuyên bảo họ khi chỉ có hai người mà thôi. Nếu người đó lắng nghe bạn thì bạn đã chinh phục được người đó rồi”. Chinh phục họ. Để hiểu rõ thiếng này, cần phải nghĩ đến tiếng la lên của người cha có đứa con hoang đàng: “Con ta đã mất và nay đã tìm lại được!”. Khi nói về một tội phạm với những tình cảm này, chúng ta có cơ may chinh phục họ. Chinh phục họ! Chứ không phải giao chiến với họ. Chúng ta thường khiển trách, nhưng có lẽ chúng ta không tin rằng đó là một hành vi Tin Mừng, do đó điều này đòi buộc có một con tim của Tin Mừng.
Cái gì nổi lên trong tim tôi lúc tôi sắp sửa chửi mắng? Người bị chất vấn sẽ nhanh chóng phát hiện ra ý thích dễ sợ đó là làm nhục mà ít người sửa phạt tránh được. Hoặc nêú chúng ta đặt mệnh lệnh và danh dự lên trên tất cả, thì chúng ta khó mà chủ được cơn giận của chúng ta: “Bạn có biết bạn đặt chúng tôi vào hoàn cảnh nào hay không?” Nói chung, họ bất cần: “Đây là vấn đề của tôi!”.
Chúng ta có tìm ra được giọng nói để bảo họ: “Đây cũng là vấn đề của tôi!”. Tôi không thể tỏ ra dửng dưng. Bạn hãy bỏ qua những vụng về của tôi, có điều bạn hãy nghe tôi nói điều tôi âu lo về bạn, tôi yêu thương bạn”.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta luôn yêu thương ngay cả khi đó là điều rất khó, nếu không thì “yêu thương” có nghĩa là gì? Chúng ta có lẽ sẽ phải đóng khung những điều rất khó khăn gay go. Tất cả các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm đều nói điều đó. Giờ đây, khi chúng có nguy cơ bị lưu ý, chúng ta băát đầu tấn công: “Bạn rao giảng, nhưng bạn có thực hành đạo đức của bạn hay không?” Hãy thử nói vui (nếu có thể được!): “Bạn có lý, tôi thấy cọng rơm của bạn chứ không phải cái xà nhà của tôi. Nhưng dầu sao thì chúng ta cũng hãy nói về cọng rơm của bạn”. Những lời khiển trách thì khó mà được tiếp nhận và chúng ta cần đến an bình đến nỗi chúng ta sẽ cố gắng tránh né bổn phận khó nhọc này. Ít ra chúng ta không phải là một kẻ hay la rầy bẳm sinh, và thế là ở đây phải xem xét kỹ vấn đề! Thường thì chúng ta cho qua, nhưng ý muốn yên lành bằng bất cứ giá nào chắc chắn không phải theo tinh thần Tin Mừng. Biết bao lần một lời nói thông minh, yên lành và yêu thương đã cứu được một kẻ nào đó? Có chung quanh họ những người bạn là những người thấy rõ ràng và than vãn mà không dám tiến bước: “Phải nói với họ...”. Thế thì bạn hãy nói đi. Bạn hãy để cho Chúa Giêsu thúc đẩy. Đấng đã nói với bạn: “Hãy cố gắng chinh phục”.
80.Giáo Hội
1) Giáo huấn của Giáo Hội
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp cá nhân, người Công giáo không nại đến quyền bính ngay, nhưng haỹ cùng nhau giải quyết công việc, ở đây phải tuyệt đối dè dặt. Tuy nhiên, nếu thấy thực hiện như thế không ích gì, bởi vì vấn đề khá quan trọng, phải tìm đến nhân chứng; nhờ đó, cuộc tranh luận tuy còn tính cách cá nhân, những mỗi bên sẽ có nhiều lý do thuận lợi hơn để xác định lập trường. Tuy vậy, nếu bên nào cố chấp làm cho cuộc tranh luận bế tắc, phải cần đến quyền bính Giáo Hội phân xử. Quyền bính Giáo Hội là toà án luân lý và tôn giáo tối cao, không chịu một kháng án nào nữa: Phán quyết do quyền bính Giáo Hội cũng có giá trị ở dưới thế như ở trên trời. nhưng ngày nay, ta còn có thể chấp nhận giá trị bất khả kháng của phán quyết Giáo Hội nữa không?
Giáo Hội vẫn có chức vụ chính thức và quyền bính đích thực. Giáo Hội có quyền xử án và tuyên án. Ai bất tuân Giáo Hội, không còn là chi thể của Giáo Hội, họ bị coi như lương dân hay một tội nhân công khai. Quả thực, trước hết, Giáo Hội chuyên lo về lãnh vực thiêng liêng, nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chỉ chú trọng đến nội giới, linh ứng, ơn sủng. Giáo Hội còn là một cộng đoàn có quyền lợi, nhiệm vụ và thẩm quyền. Giáo Hội vô thể chế, vô quyền bính, không phải là Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Kitô vô cùng sáng suốt đã lưu ý đến những yếu đuối khốn nạn của nhân loại để giúp chúng ta vượt qua, nhờ tinh thần nội tâm biết hoan hỉ dễ dàng tuân phục quyền bính. Khi tình yêu càng mãnh liệt, việc tuân phục càng dễ dàng, và lúc đó, có quyền bính cũng không mấy cần thiết. Nhưng hiện nay, tình yêu chưa ngự trị mọi nơi, nên còn phải lo củng cố quyền bính và công lý. Vậy nên Giáo Hội Đức Kitô mới vừa quan tâm đến tinh thần bên trong và phận vụ bên ngoài.
2) Cộng đồng cầu nguyện
Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức do quyền bính và những người nắm giữ quyền bính tạo thành, nhưng mỗi lần các tín hữu họp nhau nhân danh Đức Kitô, là một Giáo Hội nhỏ bé hiện hình. Kinh nguyện liên kết nhân loại với nhau và với Đức Kitô, để làm thành một cộng đoàn của Đức Kitô. Ngoài lối cầu nguyện riêng tư trong phòng kín, còn có loại kinh nguyện cộng đoàn có tầm quan trọng và hiệu quả đặc biệt, vì loại kinh nguyện này không những chỉ liên hệ đến các cá nhân, nhưng đến cả cộng đoàn. Đức Kitô ngự giữa các tín hữu đang tụ họp. Đó là Đức Kitô mầu nhiệm, cầu nguyện để bảo đảm lời xin sẽ được chấp nhận. Vậy ngoài yếu tố chế định pháp lý và yếu tố thiêng liêng nội tâm, Giáo Hội còn ẩn chứa yếu tố mầu nhiệm của Đức Kitô. Mầu nhiệm kỳ diệu là chính sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Kitô giữa chúng ta. Đó là dữ kiện tiên quyết giúp ta nhìn nhận quyền bính chế định và tuân theo đòi hỏi luân lý siêu nhiên, đồng thời tin tưởng vào lời hứa nhận lời ta cầu nguyện. Giáo Hội không có Đức Kitô chỉ là một tập hợp nhân loại. Đức Kitô không có Giáo Hội chỉ là một cá nhân đơn độc. Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội đó là chân lý thấy trong Tin Mừng. Cũng như cành nho kết hợp với đầu mình, người tín hữu phải kết hợp với Đức Kitô. Chỉ khi nào hiểu biết như thế ta mới nắm trọn chân lý.
81.Làm đẹp.
Có một câu chuyện kể với tựa đề ‘Chiếc thùng bị thủng’ như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ: - Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình ba bước. Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự tin trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị có trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do chính Chúa thiết lập. Giáo Hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân. Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là cái tôi đầy kiêu hãnh. Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu thương họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ, nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”.
82.Nhắc bảo
Như nhiều lần chúng ta đã xác quyết: chúng ta không sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta phải nương tựa vào nhau rất nhiều.
Chẳng hạn: về phương diện xã hội, chúng ta lao động sản xuất ra lúa gạo hầu người khác có cơm ăn, thì đồng thời người khác cũng có bổn phận lao động đem lại cho chúng ta vải vóc và những vật dụng cần thiết khác.
Về phương diện con người. Mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta, đều tạo nên một ảnh hưởng trên người khác, đồng thời, mỗi lời nói mỗi hành động của người khác cũng ảnh hưởng trên chúng ta. Bởi vậy, chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Một trong bổn phận về mặt tinh thần đó là hãy nhắc bảo những lầm lỗi cho nhau, để nhờ đó mà uốn nắn, sửa đổi hầu thăng tiến bản thân, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi khuyết điểm của mình. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến qua bài Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu không bao giờ khuyến khích chúng ta dò xét kẻ khác, nhất là những người ở trong cùng một xứ đạo với mình. Tất cả những lời khuyên của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể được hiểu như là một biểu lộ của tình bác ái. Vì chính Chúa đã nói: Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời không muốn cho một người nào bị hư đi.
Như thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho chúng ta bổn phận phải ân cần chăm sóc đến anh em về mặt tinh thần và thiêng liêng. Giúp người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay nâng đỡ người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu.
Nếu có một vài Kitô hữu chuyên môn xía vào chuyện thiên hạ, theo kiểu bới bèo ra bọ, vạch áo cho người xem lưng thì ngược lại, có một số giáo dân khác lại kém dấn thân, chỉ biết có mình với Chúa, theo kiểu an phận, mũ ni che tai.
Thế nhưng, ở đây Chúa Giêsu đưa ra một quan điểm khác, Ngài dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hờ hững trước tình trạng thiêng liêng của anh em tôi. Hơn nữa, chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ, hay yếu đuối, nên rất có thể một ngày kia người khác cũng có dịp thi hành cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy đối với tôi. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ thay chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết.
Nói tóm lại, trước những sai lỗi của kẻ khác, chúng ta hãy có can đảm nói cho họ biết trong tình thương và tế nhị. Đồng thời, khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm lắng nghe. Nếu sai thì chúng ta sẵn sàng bỏ qua, còn nếu đúng, thì chúng ta hãy coi đó như một tiếng chuông báo động Chúa gửi đến để cảnh tỉnh chúng ta. Vì như tục ngữ Tây phương đã bảo: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta còn ai chê ta mà chê phải ấy là thầy ta.
83.Tương trợ
Mọi người là anh em con cùng một Cha, do đó chúng ta phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Khi anh em lỗi phạm, chúng ta có bổn phận sửa lỗi và trợ lực cho họ bằng nhiều cách khác nhau như: cầu nguyện, nhắc nhở, sửa dạy... theo từng bước: sửa dạy riêng, nhờ thêm vài người, nếu không được thì trình với cộng đoàn giải quyết.
Để một phạm nhân sám hối, trước hết phải cầu nguyện hết lòng cho người đó. Cần có ơn trợ giúp của Chúa thì phạm nhân mới mau nhận thức rõ những sai lầm và ăn năn sám hối đúng mức. Khi đã cầu nguyện cho họ, thì lời khuyên của chúng ta mới dễ đạt kết quả. Tôi biết một người bỏ đi nhà thờ nhiều năm, không ai khuyên được ông ấy. Nhưng vì thương cho hoàn cảnh ông nên nhiều hội đoàn cùng họp nhau lại cầu nguyện, làm việc hy sinh... kết quả là ông đã xin đi xưng tội và trở lại giữ đạo đàng hoàng trong tháng đó. Nếu chúng ta biết cầu nguyện cho mọi người trong sự khiêm nhường thì Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho họ và cho chúng ta được ý thức sống trong tình mến Chúa luôn.
Việc sửa lỗi có thể được thực hiện cách nhẹ nhàng bằng lời khuyên của bạn bè, của người thân trong gia đình, của việc nêu gương sáng về tình yêu thương và niềm tin mạnh mẽ vào Chúa. Thường thì tội nhân dễ có ý nghĩ tiêu cực sau khi phạm lỗi, do đó cần có người giúp cho họ vượt qua sự ngại ngùng, sự cố chấp do tự ái hoặc sự sợ hãi, thất vọng...
Việc sửa lỗi cho anh em là điều cần thiết nhưng cũng hết sức tế nhị để bảo toàn thanh danh cho anh em đó. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ ràng từng bước sửa dạy cho các môn đệ và các ngài truyền lại cho chúng ta. Nếu anh em trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi, nên cầu nguyện trước, sau đó đến gặp gỡ, khuyên răn... Vấn đề là giúp người anh em hoán cải, nên người tốt chứ không có ý chỉ trích hay bêu xấu họ. Tuy nhiên, nếu người đó không chịu nghe thì phải gọi thêm vài người có uy tín để giúp họ nhận thức về tội của mình. Nếu người đó vẫn cố chấp, không hối lỗi thì còn giải pháp cuối cùng là trình với người có trách nhiệm trong Giáo hội để giúp cho tội nhân có thái độ dứt khoát sửa mình. Nếu họ vẫn khăng khăng không hối lỗi thì họ phải tự gánh lấy hậu quả.
Chúa Giêsu có quyền tha bắt tội nhưng Ngài đến trần gian không nhằm để trừng phạt hay dùng quyền bắt mọi người tùng phục mình, Ngài có cách sửa dạy rất hay bằng lời giảng dạy, bằng dụ ngôn và bằng chính đời sống thánh thiện của Ngài. Ngài đối xử nhân từ với mọi người, dù họ là người tội lỗi hay đạo đức, người đơn sơ khiêm tốn hay kẻ cứng lòng không tin. Chúa Giêsu tỏ ra kiên nhẫn đối với nhân loại. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho Hội thánh quyền tha bắt tội dưới đất: "dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy" (Mt 18,18). Tuy nhiên, Hội thánh cũng đang noi theo gương Chúa kitô đối xử nhân từ với tội nhân và sẵn sàng ban ơn tha tội cho những ai thật lòng thống hối. Hội thánh dùng quyền để phục vụ, để cứu chữa, không nhằm để trừng phạt. Chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu và Hội thánh là Thân thể mầu nhiệm của Người để sống trung thành với lời Chúa dạy, sống đúng theo huấn quyền của Hội thánh và tỏ lòng quý mến mọi anh em.
Nếu mọi người biết yêu thương nhau và quyết một lòng một ý xin Chúa điều gì, chắc Chúa không nỡ từ chối chúng ta. Chúa Giêsu tuy đã lên trời vinh hiển nhưng Ngài không bỏ chúng ta mồ côi. Ngài đang ở giữa chúng ta, ban các Bí tích cho chúng ta, ở trong chúng ta để hướng dẫn, gìn giữ và giúp sức cho những ai thành tâm kêu cầu Người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những con người yếu đuối, còn kém lòng tin cậy mến Chúa và lơ là bổn phận sửa dạy lẫn nhau, xin cho chúng con luôn biết nhận ra tình yêu Chúa đối với bản thân mình, để yêu mến Chúa và khiêm tốn đón nhận những lời khuyên răn, góp ý của những người xung quanh cũng như dám khuyên bảo anh em khi cần thiết. Từ nay, chúng con quyết tâm sống tương trợ, yêu thương, hiệp nhất với mọi người để công việc truyền bá Phúc Âm được lan rộng và thấm sâu vào lòng mọi người.
84.Nhân danh Thầy
Một vị linh mục chánh xứ nọ nghe tin có một giáo dân sắp bỏ nhà thờ, không chịu tham dự thánh lễ nữa. Người giáo dân phản kháng này trước đây đã thường lập luận rằng ông có thể liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa một cách dễ dàng giống như đi ra ngoài cánh đồng tiếp xúc với thiên nhiên. Vào một tối mùa đông, linh mục chánh xứ đã đến thăm người con miễn cưỡng này trong tình thân hữu. Hai người ngồi nói chuyện hàn thuyên với nhau trước lò sưởi, cố ý tránh né đề cập đến vấn đề đi nhà thờ. Sau một lúc, vị linh mục chánh xứ cầm lấy cái kẹp than trên kệ kế bên lò sưởi, lôi kéo một cục than lớn ra khỏi ngọn lửa. Ngài đặt cục than hồng đang cháy giở ra ngoài lò sưởi. Cả hai đều chăm chú nhìn cục than trong im lặng. Cục than bị rút ra khỏi ngọn lửa liền ngưng cháy thật nhanh, và biến thành màu xám tro, trong khi các cục than khác trong lò cứ tiếp tục cháy sáng. Lời nhắn nhủ lặng lẽ của linh mục chánh xứ đối với người giáo dân ương ngạnh đã được đón nhận. Sau một hồi lâu thinh lặng, ông quay sang cha xứ và nói: “Chúa nhật tới con sẽ đi lễ”.
Bài Phúc âm hôm nay có ba phần: phần thứ nhất nói về việc sửa sai lỗi lầm của người anh chị em, phần thứ hai nói về sự tha thứ, và phần thứ ba là hiệu quả của lời cầu nguyện. Yếu tố chung nối kết tất cả các phần lại với nhau chính là cộng đoàn, hay Giáo Hội. Đức tin, cậy, mến của chúng ta không thể bị cô lập, nhưng phải sống trong sự liên hệ với những người khác. Không có cộng đoàn, đời sống tinh thần của chúng ta sẽ chết giống như cục than hồng đưa ra khỏi ngọn lửa.
Cộng đoàn của Matthêu đa số là người gốc Do Thái, nhưng cũng pha trộn những tín hữu ngoại kiều. Vì thế, nên có những bất hoà, đụng chạm, tranh chấp. Để phân giải những chia rẽ xảy ra trong cộng đoàn, thánh sử nhìn vào lời Chúa khuyên dạy, dựa trên uy tín và sức mạnh của thần khí hiện diện trong cộng đoàn hay Giáo Hội để sửa dạy những sai lầm, kêu gọi sự hoà giải, tha thứ và cùng đồng tâm nhất trí với nhau trong lời cầu nguyện.
Phúc âm hôm nay cũng được công bố trong bối cảnh phân rẽ hiện tại của thế giới và đặc biệt của nước Hoa Kỳ tưởng niệm những nạn nhân của vụ khủng bố xảy ra ngày 11.9.2001 ở thành phố New York, Washington D.C., và Pennsylvania. Biến cố đã qua đi, nhưng điều làm tôi lưu ý nhất là những thánh lễ Chúa nhật sau ngày khủng bố 11.9, nhà thờ đầy nghẹt giáo dân tham dự. Tại sao thế? Tôi tin rằng vì tất cả mọi người đang cố gắng đi tìm cho mình một ý nghĩa giữa những thảm kịch giết người tàn bạo vô nghĩa. Chúng ta cần đến sức mạnh, sự nâng đỡ và hướng dẫn của cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng ta cần đến nhau để tìm về với Thiên Chúa.
85.Sửa lỗi nhau
Đã là con người, khi đã biết sử dụng trí khôn, hay khi còn sử dụng được trí khôn bình thường, thì còn lầm lỗi, và còn lầm lỗi là còn cần được sửa chữa, như ca dao tục ngữ đã nhìn nhận: “Tha thứ là bệnh của trời, lỗi lầm là bệnh con người chúng ta”. Quả thực, Thiên Chúa sinh ra chúng ta, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người mỗi tính, không ai giống ai: người thì nhanh nhẹn, người thì chậm chạp, người thì hăng say năng nổ, nhiệt tình, người thì tiêu cực, ơ hờ, lười biếng, người thì mau miệng, người thì chậm nói, người thì mạnh bạo, người thì nhút nhát: “Bá nhân bá tánh”, trăm người thì có trăm tính cách khác nhau. Vì thế, mỗi người phải phát huy ưu thế của mình, và tận dụng nó trong việc giúp đỡ anh em mình cái mặt yếu kém của họ, không được ỷ vào ưu điểm Chúa ban mà lên mặt tự phụ khinh thường người khác.
Hơn nữa nhân vô thập toàn, không ai là hoàn hảo, tuyệt đối không bao giờ sai lầm hay thiếu sót. Trái lại, còn thường xuyên lầm lỗi và thiếu sót nữa, nên chỉ bảo cho nhau, góp ý xây dựng cho nhau, sửa lỗi lẫn nhau là một điều cần thiết. Đây là một cách cư xử rất khó khăn, rất phức tạp, đòi hỏi phải hết sức tế nhị và phải làm.
Chúa Giêsu hiểu biết tâm lý con người, Ngài biết rõ chúng ta yếu đuối, hay lầm lỗi, thiếu sót và cần sửa chữa, nên Ngài đã chỉ dạy chúng ta một cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị. Đó là khi chúng ta muốn sửa lỗi ai, chúng ta phải ý tứ làm từng bước như Chúa chỉ dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, thì mới kết quả và thành công.
Bước thứ nhất hay việc đầu tiên là gặp gỡ riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi. Gặp gỡ và nói chuyện với nhau trong tình thân ái, kín đáo và chân thành. Gặp gỡ như vậy, một đàng sẽ giúp chúng ta hiểu nhau, thông cảm nhau và biết đúng sự thật hơn. Đàng khác, sẽ giúp cho người sai lỗi thấy được lỗi lầm của họ để sửa chữa và phục thiện.
Sau khi đã gặp gỡ riêng rồi mà vẫn không kết quả, người sai lỗi vẫn cứng lòng, tự ái, cố chấp, thì mời một hoặc hai người làm nhân chứng và cùng góp ý. Nhiều người nhiều bộ óc, tất nhiên sẽ uy thế hơn, cao kiến hơn, vừa minh chứng cho lòng thành thật của chúng ta, vừa cho người sai lỗi thấy rõ và phải nhìn nhận điều sai trái của họ.
Nếu vẫn không kết quả, khi ấy mới đưa ra cộng đoàn hay đưa đến người có thẩm quyền để giải quyết. Chúng ta hãy nhớ đưa ra người có thẩm quyền trong Giáo Hội chứ không phải người có thẩm quyền ngoài xã hội. Tức là chúng ta không bao giờ kiện cáo nhau để đem nhau ra tòa án phần đời. Chẳng hay ho gì mà còn mang tiếng cho đạo nữa. Chúng ta cũng phải nhớ là chỉ sau khi đã gặp gỡ riêng và nhờ người khác góp ý rồi mới đưa tới người có thẩm quyền. Có những người đưa ngay vụ việc tới người có quyền, hoặc là để ton hót, lấy điểm hoặc là vì lòng ghen ghét, ganh tị, tức giận, như thế sẽ làm tổn thương tự ái và hậu quả sẽ tệ hại hơn.
Nếu đã làm hết cách theo khả năng mà vẫn không kết quả, thì hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Thiên Chúa là cầu nguyện cho họ. Chúng ta cầu nguyện và cộng đoàn cầu nguyện, chắc chắn lời cầu nguyện ấy sẽ được Chúa nhận lời. Chúng ta hãy nhớ: việc góp ý xây dựng hay sửa lỗi nhau phải nhằm mục đích là để giúp họ trở nên tốt hơn. Chúng ta phải sửa lỗi anh em trong tình mến chứ không phải vì lòng tự ái, không phải vì ganh tị, lại càng không phải vì tức giận, thù ghét.
Đàng khác, chúng ta cũng phải để ý đến vấn đề tâm lý nữa, tức là để ý đến thời gian, không gian và cách cư xử nữa. Có việc chúng ta góp ý lúc này thì không kết quả, nhưng lúc khác lại có kết quả, hoặc chỗ này thì được việc, nhưng chỗ khác lại thất bại. Nhất là cách hành sử: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “Lời ngọt thì lọt đến xương”. Như thế sẽ không làm tổn thương lòng tự ái hay danh dự của người sai lỗi và họ dễ dàng phục thiện hơn.
Vì vậy, về phía người góp ý hay sửa lỗi phải ý tứ: đừng bao giờ đứng vai trò quan tòa xét đoán anh em. Có khi một điều không đáng gì, nhưng chúng ta lại quan trọng hóa hay phóng đại to ra, khiến vấn đề trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Như thế, người sai lỗi sẽ rút lui về chính mình, căm hờn và tức giận, rồi phản ứng mạnh hơn.
Còn về phía người được góp hay sửa lỗi, thì phải bình tĩnh và khiêm tốn. Đây là một dịp ơn Chúa đến với mình, đây là một lần Thiên Chúa quan phòng gửi sứ giả của Ngài đến với mình, nên hãy khiêm tốn đón nhận. Bởi vì ai phản đối ta, ai chê trách ta, mà chê phải, trách đúng, thì đó là ông thày dạy ta mà ta không phải trả tiền, như những câu danh ngôn mà các nhà giáo dục thường nói: “Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta. Ai chê ta mà chê đúng, đó là thầy ta. Ai nịnh hót ta, nịnh hót cả điều sai lỗi của ta, đó là thù địch của ta. Ai phản đối ta, mà phản đối đúng, đó là thày dạy ta mà không lấy tiền”.
Sau hết chúng ta nhớ, trước khi góp ý xây dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi sáng và hướng dẫn: “Lạy Chúa, trước khi con sửa lỗi anh em, xin Chúa nhắc con hãy nhớ rằng: con cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng hơn họ nữa. Xin Chúa, nếu vì bổn phận, con phải sửa lỗi, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán anh em. Xin cho con luôn biết rộng lượng bao dung với người khác, vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con”.
86.Tế nhị--Huệ Minh
Kính thưa Cộng Đoàn
Con người thì làm rất nhiều việc. Và người ta vẫn thường nói là: Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Đúng cái khả năng con người, nó đối diện với tất cả cái khó khăn cuộc sống, và đặc biệt đấu tranh sinh tồn. Con người có cái bản năng sinh tồn rất cao, nhưng mà một trong những điều khó, con người khó làm và có thể nói thẳng là: kết cuộc không làm được. Đó là để cho người khác đi sửa lỗi của mình. Bởi vì, đơn giản mỗi người sinh ra ai cũng có một cái tôi rất lớn. Không chịu thua ai và không chịu chấp nhận mình có lỗi bao giờ. Và tìm đủ mọi cách để mình biện luận, và mình cho mình rằng tốt hơn người khác, để mình có thể kết án người khác một cách rất nhẹ nhàng.
Có một người ví von cái hình ảnh rất hay: Mỗi một người có hai cái ba lô, một cái đằng trước, một cái đằng sau. Một cái đằng trước là chứa đựng những công đức, những việc lành, những việc tốt của người đó. Còn ba lô phía sau là những tội lỗi những yếu đuối của phận người. Và trên con đường xếp hàng đi về thiên đàng, người trước kẻ sau, và không ai thấy được cái lỗi của mình, và chỉ thấy toàn là những nhân đức, những việc tốt đẹp của mình. Và buồn cười rằng, người ta lại thấy cái thiếu sót của người khác rất rõ ràng. Bởi vì, cái túi xấu, cái tội lỗi chình ình ngay trước mắt. Và không ai có thể sửa lỗi mình được. Bởi vì mình đâu có lỗi! Mình là thắng mà, mình là nhất mà!
Thế nhưng rồi, ngày hôm nay, Chúa Giêsu rất gần gũi với cuộc đời con người. Chúa Giêsu rất bình dị với con người. Chúa Giêsu rất nhẹ nhàng và Chúa Giêsu rất tinh tế. Chúa Giêsu gợi lên cho các môn đệ cái cung cách hành xử, cái cung cách tế nhị: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, thì hãy sửa dạy riêng nó mà thôi!
Nếu mà nó nghe ngươi rồi thì tốt rồi! Còn nếu mà nó không nghe nữa, thì kêu thêm một vài nhân chứng nữa! Và nếu mà nó không nghe nữa hãy trình với cộng đoàn.Và nếu mà nó không nghe nữa thì coi như người ngoại giáo hay là người thu thuế. Chúa Giêsu gợi lên cho con người ta cách hành xử ở từng cấp bậc nhẹ nhàng.
Giữa mình với người bạn, giữa mình với đối phương, rồi giữa mình với vài ba người, giữa mình với cộng đoàn. Nhưng mà dường như: Lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta thấy, chúng ta thi hành ngược lại.
Chính bao giờ, chúng ta can đảm để đi sửa lỗi người anh em với riêng ta. Nhưng mà, chưa chi hết người ta vẫn nói là, chuyện trong nhà chưa tỏ, ngoài ngỏ đã hay. Trong một cộng đoàn, trong một gia đình nhỏ hay bị cái bệnh này. Ai cũng muốn đi khoe lỗi của người khác cho người ngoài nghe. Chính vì vậy gia đình và cộng đoàn nó xáo trộn. Bởi vì, người trong nhà đi mét tội người trong nhà với người khác, chứ làm gì người ngoài biết được tội của người trong nhà.
Ví dụ: Trong một gia đình có 4, 5 người anh chị em với nhau, họ hàng với nhau, có cái gì đó lục đục với nhau thì chỉ có trong nhà biết thôi! Nhưng được một cái ơn rất là hàng xóm biết, công ty biết, bạn bè biết. Mà lẽ ra cái chuyện nó tế nhị vô cùng.
Trong nhà tu cũng vậy! Năm ba người đang ở chung với nhau. Có chuyện gì người ta vẫn thường nói: ông bà đóng cửa dạy nhau. Nhưng mà nó buồn cười, trong nhà chưa dạy nhau, cả nước ngoài có thể biết được cơ. Người đó là xấu, bởi vì mình là tốt. Và đem đủ thứ chuyện người khác, kể cho người ngoài nghe. Còn mình lúc nào cũng là người thành công. Mình là người tuyệt vời. Mình là người hoàn hảo, và có thể tạm gọi là như thế đi! cho là mình hoàn hảo đi,! Nhưng mà Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất, ta vừa nghe đó.
Nếu mà mình thấy được người khác làm lỗi mà mình không bảo người khác sửa lỗi, thì mình cũng phải đáng tội chết. Bởi vì lúc đó, mình trở thành một con người gian ác, vì mình đã không đón nhận sự trở lại của anh em đồng lọai của mình và mình muốn loại trừ người đó ra khỏi Cộng Đoàn. Và lúc đó, mình đâu có được bình an, bởi vì mình đã vô cảm. Thái độ vô cảm của mình, mình đã không cho người đó hối lỗi và mình muốn dìm người đó cho đến chết.
Cuộc đời người ta vẫn thường nói với nhau: 70 chưa gọi là lành. Có thể ngày hôm nay ta thánh thiện đó, nhưng mà cũng có thể ngày mai ta là một người khác. Bởi vì, ta vô cảm trước sự yếu đuối của anh chị em đồng loạt. Ta không can đảm, cũng như ta không đủ tế nhị, tinh tế để sửa lỗi cho người khác Có khi là phản ứng ngược lòng chúng ta chúng ta à. Muốn cho người anh em sửa lỗi nhưng rồi chúng ta lại đi mét tội người anh em đó cho cả giáo xứ biết, cho cả Cộng đoàn biết. Để giáo xứ và cộng đoàn khinh người đó, và tâng bốc mình lên. Để rồi sự thật vẫn là sự thật, con người mình như thế nào, thì mọi người vẫn nhìn vào mình và họ tự đánh giá mình.
Ngày hôm nay giáo dân rất là tinh tế. Họ có thể chỉ có thể nhìn nhận và họ nhận định tất cả các giáo sĩ, tất cả những vị mục tử, không cần đến nói xấu nhau. Và ngay như trong gia đình cũng vậy, cũng chẳng cần nói xấu nhau đâu! Chỉ cần những cái hành xử, những cái lời ăn tiếng nói thì mình thấy được rằng mình là ai và người khác là anh không cần phải đi nói xấu người khác.
Và điều quan trọng Chúa mời gọi chúng ta là: Anh em có lỗi phạm, mình cũng phải hết sức tinh tế.
Và thực sự ra, công tâm mà nói thử đi, mình đặt mình trước mặt Chúa: «Ai là người vô tội», để rồi mình đi nén đá người khác. Có lúc mình hăng say mình ném đá người khác, mình chà đạp người khác. Nhưng thật sự ra mình đầy tội đấy chứ!
Có hơn nhau ở cái chỗ mình khéo, mình lấp liếm cái tội của mình, để người khác không thấy. Nhưng từ trong đáy lòng, từ trong lương tâm, thì Thiên Chúa, lương tâm của chúng ta biết rõ chúng ta hơn ai hết.
Và rồi, thánh Phaolô trong thư của ngài Gửi tín hữu Roma nhắc nhở cho chúng ta một điều rất hay Anh em thân mến, anh em đừng mắc nợ ai điều gì, ngoài lòng yêu mến. Vì ai yêu người thì giữ trọn lề luật. Đó là, đó là gì? Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp chớ làm chứng gian, chớ mê tham. Nhưng Thánh Phaolô nói:
Tất cả đều tóm lại lời này: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình lòng yêu thương không làm hại kẻ khác và yêu thương là chu toàn lề luật.
Không ai là một hòn đảo cả. Sống là một chuỗi ngày tương quan: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Ngày sau mỗi người chúng ta cũng sẽ được lên thiên đàng, nếu chúng ta sống trọn vẹn tình nghĩa mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta sống ích kỷ chúng ta làm hại người khác chúng ta không sửa lỗi người khác để người khác không được lên thiên đàng chắc chắn gì chúng ta được lên thiên đàng đâu.
Bởi vì chúng ta sống là sống cộng đoàn. Chúng ta sống là sống tập thể một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Dẫu rằng ông bà ta không phải là người có đạo Công Giáo, nhưng ông bà ta vẫn thường dạy: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
Chẳng lẽ trên thiên đàng: 99 người người hân hoan, để nhìn thấy một con người rơi xuống hỏa ngục hay sao?
Chính vì một con người tội lỗi, chính vì một con chiên hoang đàn đó, mà Chúa Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Để chữa lành, để băng bó vết thương, để tha thứ, để âu yếm, để chở che con người tội lỗi đó. Và như con chiên lạc, con chiên bệnh hoạn CHÚA Giêsu đã ôm trên vai và vác về với cộng đồng. Nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta là ai? mà chúng ta lại phê phán! Chúng ta lại xét đoán anh em.
Cách đây ít lâu, buổi tối giật mình thức dậy, bỗng nhiên thấy có một cái chương trình văn nghệ gọi là live stream, à thì một số ca sĩ nổi tiếng đi về cái vùng đâu Bà Rịa hát cho đêm cuối cùng, cho bố chồng của cô Thúy Nga nghe có nhiều giọng ca rất nổi tiếng như Quang Lê, Lệ Quyên, Đàm Vĩnh Hưng và Dương Triệu Vũ.
Thì vô tình nghe được, bản thân con cảm thấy hay! Là nếu mà mình đi vào phòng trà thì người ta vẫn hát nhép và những chương trình hay của họ, họ vẫn hát nhép. Nhưng hôm đó, họ thật sự là họ hát live, họ hát live là sao? Nghe theo tiếng trống tiếng đàn mà họ hát. Hát như thế họ mới bộc lộ được cái giọng ca thật của người nghệ sĩ thế!
Nhưng đáng tiếc thay, một số người chạy vào Comment bảo rằng là hát dở, Lệ Quyên xấu. Xin lỗi, xấu, nhưng mà mình có hát hay được như Lệ Quyên đâu! Xấu nhưng mà mình có hát hay được như Đàm Vĩnh Hưng đâu? mình hát như thế nào, mà mình chê người ta. Mình hát như thế nào? mình đẹp như thế nào? mà nhục mạ người khác trong khi đó mình chẳng là gì cả! Mà thưc sự ra rất là vô duyên không chịu đi ngủ người ta đâu có bắt mình coi mình tự chạy vào coi xong rồi dìm hàng người ta, rồi chê trách người ta. Con cảm thấy rất là buồn cười, rất là vô duyên.
Thì nói đến đây, trong câu ca dao tục ngữ của người Việt Nam mình: Chuồn chuồn chê khỉ rằng hôi, khỉ quay lại bảo: cả họ mày thơm.
Nhiều khi mình chỉ thấy cái xấu của người khác, mình thấy cái tội của người khác thôi, mà không bao giờ thấy cái tội của mình. Để bất cứ ai nào đó, sửa lỗi cho mình là mình phùng mang, trợn má, xù lông nhím. Mà mình lấy cái lông nhím đó, bắn vào người khác khi họ sửa lỗi cho mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta. Để chúng ta mặt lấy cái tâm tình yêu thương, như Thánh Phaolô mời gọi: «yêu thương là chu toàn lề luật». Để chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại, sửa lỗi và tha thứ cho họ. Cũng như, Chúa vẫn thường thương xót, sửa lỗi và tha thứ cho mỗi người chúng ta. Amen.
87.Khó nói--Huệ Minh
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Tin Mừng hôm nay là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm...
***
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Chúa Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Giáo Hội.
Không gì khó nói hơn việc đi sửa lỗi người khác. Vì nhiều lý do. Trước hết, lý do bản thân: tôi cũng chẳng hay ho gì mà dám lên mặt dạy đời. Và bao nhiêu lý do khác. Nếu cùng là người trong nhà với tôi: bụt nhà không thiêng. Nếu không phải là người nhà với mình: thôi thì đèn nhà ai nhà nấy rạng. Bao giờ người ta cũng có lý do để né tránh vấn đề gai góc này. Chắc phải “uống mật gấu” mới đủ dũng khí để “sửa lỗi cho người khác” bởi chưng cục tự ái của mỗi người chẳng khác nào trái bom hẹn giờ không biết lúc nào sẽ nổ tung lên.
Ta thấy chương 18 Tin Mừng Mátthêu gồm những giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của người môn đệ trong cộng đoàn. Ở đây ta đọc thấy điểm căn bản cho giáo lý về Giáo Hội như một sự hiệp thông, một cộng đoàn, một thân thể của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: "Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ". Ðây là yếu tố quyết định cho lời cầu xin của chúng ta, vì chính Chúa Giêsu mới là Ðấng làm cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.
Tin Mừng hôm nay là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm.
Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, sự nâng đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn.
Lời Chúa cho ta phương thức về cách sửa lỗi anh em mình. Sửa lỗi cho người khác quả là điều không dễ, vì, hoặc ta viện lý “tôi là ai mà dám làm điều đó?”, hoặc thái độ lạnh cảm “đâu can gì đến tôi”, hoặc sợ “làm ơn mắc oán”, hoặc lên mặt sửa lỗi một cách quá đáng để rồi nhấn chìm người anh em của mình!
Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta, những người theo Ngài, phải và biết sửa lỗi cho anh em của mình khi biết họ đang đi lạc hướng. Nhưng phải sửa như thế nào? Quả là một vấn đề!
“Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”. (18, 15) Đây là phương thức đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy. Khi sửa lỗi cho anh em, ta phải có tâm tình đơn sơ, nhẹ nhàng, tế nhị và phải tâm niệm rằng: “nhân vô thập toàn”. Trước tiên hãy nói chuyện với người anh em của mình như một người bạn. Không gì dễ nghe hơn là những lời tâm sự nhẹ nhàng, tế nhị và đầy tôn trọng. Đó cũng là điều dễ hiểu thôi, vì con người có lòng tự ái và thích được cảm thông, tôn trọng, hơn là phải lắng nghe những lời chỉ trích cay cú. Nếu không tế nhị trong chuyện này, thay vì mang một người tội lỗi trở lại với cộng đoàn, ta lại vô tình đánh mất người anh em của mình trong giây lát. Thiết nghĩ trong việc này cần có cả một nghệ thuật lẫn một tình yêu cao thượng!
Nếu không có tấm lòng yêu thương, chúng ta khó mà làm được bất cứ điều gì, huống chi khi chúng ta muốn đưa người anh em của mình trở về với yêu thương và sống trong sự thật. Thánh giáo phụ Augustinô khuyên dạy: “Hãy yêu và làm những gì bạn muốn ; nếu bạn thinh lặng, hãy thinh lặng vì yêu ; nếu bạn nói, hãy nói vì yêu ; nếu bạn sửa lỗi, hãy sửa lỗi vì yêu ; nếu bạn tha thứ, hãy tha thứ vì yêu ; hãy nắm giữ trong sâu thẳm con tim bạn gốc rễ của tình yêu …” (Suy niệm Thư thứ nhất của thánh Gioan, bài VII, 8). Vâng, tình yêu là cội nguồn, là chìa khóa của tất cả và có thể chắp cánh cho những thứ khác vươn xa!
Và ta thấy Chúa Giêsu đưa ra qui tắc vàng: muốn sửa lỗi cho nhau, phải được thúc đẩy bởi tình bác ái, phải tôn trọng danh dự của nhau và nhắm đến lợi ích đích thực của người anh em. Việc đi gặp riêng “một mình anh với nó thôi” tạo điều kiện cho một cuộc đối thoại ôn hoà, tôn trọng lẫn nhau và giúp nhau nhận ra ý Chúa.
Nếu ta có tình yêu thật sự, nếu ta ta vẫn chưa sửa được lỗi của người anh em mình, đừng buông xuôi và chán nản! Hãy thêm lời cầu nguyện! Với ơn Chúa và với tình mến thương của cộng đoàn, người anh em của chúng ta sẽ dần dần hồi tâm tu sửa, vì chúng ta biết rằng, trong sâu thẳm, con người luôn luôn đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.
Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung. Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.