Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
14/11 Đúng vị trí, làm điều phải làm.
- Viết bởi Lc 17, 7-10
Đúng vị trí, làm điều phải làm.
Thứ Ba tuần 32 thường niên.
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đầy tớ vô dụng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tôi tớ vô dụng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.
Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.
Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).
Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).
Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.
Suy niệm 3: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
Suy niệm 4: Nô lệ không đòi gì
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
Suy niệm 5: Đến để phục vụ
Xem thêm CN 27 TN C
Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời...! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển...
Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ... Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.
Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão... Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ...
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và hy vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.
Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
Suy niệm 7: Tin vào Thiên Chúa nên ta tin vào bản thân
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao?”.
Suy niệm
Người tôi tớ Chúa dù mọi hoàn cảnh: Thành công đứng trước mặt Thiên Chúa luôn nhận mình là người đầy tớ vô dụng vì đó là sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Ngay cả lúc gian nan nhất, nơi người tôi tớ có đức tin hạt cải, Thiên Chúa luôn ở cùng và với mình làm cuộc dời non lấp biển phong ba cuộc đời.
Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi và bạn luôn nhận mình vô dụng, để sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Dù trong cương vị nào, chúng ta cũng là tôi tớ của Thiên Chúa, người tôi tớ đòi hỏi chính mình luôn khiêm cung nhỏ bé, tin tưởng phó thác vì Thiên Chúa dùng mình làm việc, còn bản thân chỉ là người tôi tớ vô dụng. Người tôi tớ phải tin vào Thiên Chúa, vì chính Ngài làm việc nơi chúng ta, dù giữa bao gian truân thử thách. Chính vì tin vào Thiên Chúa nên chúng ta tin vào bản thân: Chúa ở nơi tôi và tôi có thể “dời non lấp biển”. Tin vào bản thân không phải là tự phụ coi mình là hơn tất cả, nhưng bản thân có đức tin hạt cải tin vào Thiên Chúa, cùng Ngài tôi sẽ vượt qua tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Ngay cả nơi những khiếm khuyết thể lý và tâm linh: “Tôi ý thức tôi mong manh. Đồng thời, tôi ý thức là tôi đang hành trình gian khổ trên đường độc đạo theo chân Chúa Kitô. Đức tin điều trị vết thương tâm linh nơi tôi” (Theo Nguyễn Văn Thành).
“Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, vô duyên hơn tất cả, vô duyên hơn tất cả… Nhưng con tin Chúa chân thành... tin Chúa chân thành...”.
Ý lực sống
“Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. (Ga 15,5).
Suy niệm 8: Khiêm nhường trong phục vụ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tiếp tục chương 17, Đức Giêsu đã dựa vào dụ ngôn người đầy tớ của ông chủ để dạy các Tông đồ tinh thần khiêm nhường trong phục vụ. Đức Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác đều là bổn phận. Chúng ta không nên huênh hoang, tự đắc với những gì mình làm được vì tất cả mọi sự đều do Chúa ban. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên phải có thái độ khiêm tốn khi phục vụ.
2. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một ông chủ hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí... là những việc lành mà Thiên Chúa buộc phải thưởng bội hậu cho họ. Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Đức Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác mà thôi (Hiền Lâm).
3. Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ánh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Đức Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi”. Đầy tớ là người làm tất cả mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Đức Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã không xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha sao (R.Veritas)?
4. Người đầy tớ trong câu chuyện cũng hữu dụng đấy chứ. Vì hữu dụng, ông chủ mới nuôi đầy tớ trong nhà. Quả thật, hằng ngày người ta làm việc đủ thứ việc nào là đồng áng, nào là chăn chiên; lại còn phục vụ bàn ăn cho chủ. Nhưng người đầy tớ của Chúa thì vừa vô dụng, vừa hữu dụng. Vô dụng bởi vì Chúa là Đấng hoàn hảo vô cùng. Chúng ta có làm công kia việc nọ gọi là làm cho Chúa thì cũng không vì thế mà Chúa được hoàn hảo hơn. Nhưng hữu dụng ở chỗ Ngài muốn chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa ngõ hầu “làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn”, trong đó mưu ích cho chính chúng ta nữa (5 phút Lời Chúa).
5. Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường. Bởi vì tất cả những khả năng, những thành công, những việc lớn nhỏ chúng ta làm được đều do Chúa ban, không có Chúa chúng ta không làm gì được và cũng không làm được gì. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên không được huênh hoang tự đắc, nếu huênh hoang đề cao cái tôi, khuếch đại giá trị của mình, tự cho mình là có công trạng hay không có mình thì không xong hay không hoàn thành được. Đó là kiêu ngạo mà thôi. Xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn biết làm việc trong ý hướng ngay lành và nhất là trong tinh thần khiêm nhường.
6. Truyện: Khiêm tốn là một điều khó.
Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi”.
Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?
Ông liền trả lời: “Có”. Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi”.
Suy niệm 9: Bài học phục vụ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
B.... nẩy mầm.
1. 1Cr 4,7: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của mình” đều không phải là của mình thực:
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư?: cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
2. Trong một tập thể, nếu ai cũng coi mình là đầy tớ của người khác thì việc chung sẽ chạy đều. Còn nếu ai cũng muốn làm kẻ chỉ huy thì sẽ thế nào?
3. Quan niệm ‘sống đạo để lập công’: quan niệm của Pharisêu, của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
4. Ta sống tốt chỉ có giá trị nhằm gợi lên lòng thương xót và sự nhân hậu của Chúa, ta không có quyền đòi hỏi gì; hoặc nếu có đòi, thì hãy đòi trong tâm tình của đứa con nhỏ vòi vĩnh trong tình thương. - Thân phận ta, về một khía cạnh nào đó, có thể ví như thân phận người đang chờ án tử hình, nay vì tin vào lòng nhân hậu Chúa, ta làm tốt để cố vớt vát lấy lòng Chúa và cố đền bù những thiệt hại tan hoang mình đã gây ra.
5. Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
6. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận ấy thôi” (Lc 17,10b)
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên. Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…
Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?
Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).
Suy niệm 10: Phục vụ trong khiêm tốn
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu có 4 lời khuyên dành cho các môn đệ. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói đến ba điều: Không được làm gương mù, phải tha thứ, phải có lòng tin. Hôm nay, chúng ta nói đến điều cuối cùng: phục vụ trong khiêm tốn.
1. Chúa Giêsu đã tuyên bố công khai: Con người đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng để phục vụ mọi người, (Mt 21,33t). Toàn thể cuộc đời của Chúa lúc nào cũng xoay quanh chân lý duy nhất này, đó là “làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha “ (Mt 26,21; Lc 24,26). Bởi vậy, những môn đệ của Chúa cũng phải theo chân Chúa mà phục vụ như thế. Phục vụ xong thì nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, chúng tôi làm việc mình phải làm” (Lc 17,10).
Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của ta” đều không phải thực là của mình.
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư? Cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi: “Nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế?” Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên Đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng, Ta sử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
2. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.
Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10b)
Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,-- nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào”.
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và còn là một bác sĩ thừa sai.
Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng của thế kỷ”.
Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.
Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá thư ấy lập tức bị phản đối ngay.
Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan tính”.
Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.
Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:
- Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.
- Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.
- Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.
- Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn tràn trề sinh lực.
14/11 Đúng vị trí, làm điều phải làm
- Viết bởi Lc 17, 7-10
Đúng vị trí, làm điều phải làm.
Thứ Ba tuần 32 thường niên.
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đầy tớ vô dụng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tôi tớ vô dụng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.
Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.
Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).
Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).
Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.
Suy niệm 3: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
Suy niệm 4: Nô lệ không đòi gì
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
Suy niệm 5: Đến để phục vụ
Xem thêm CN 27 TN C
Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời...! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển...
Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ... Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.
Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão... Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ...
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và hy vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.
Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
Suy niệm 7: Tin vào Thiên Chúa nên ta tin vào bản thân
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao?”.
Suy niệm
Người tôi tớ Chúa dù mọi hoàn cảnh: Thành công đứng trước mặt Thiên Chúa luôn nhận mình là người đầy tớ vô dụng vì đó là sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Ngay cả lúc gian nan nhất, nơi người tôi tớ có đức tin hạt cải, Thiên Chúa luôn ở cùng và với mình làm cuộc dời non lấp biển phong ba cuộc đời.
Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi và bạn luôn nhận mình vô dụng, để sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Dù trong cương vị nào, chúng ta cũng là tôi tớ của Thiên Chúa, người tôi tớ đòi hỏi chính mình luôn khiêm cung nhỏ bé, tin tưởng phó thác vì Thiên Chúa dùng mình làm việc, còn bản thân chỉ là người tôi tớ vô dụng. Người tôi tớ phải tin vào Thiên Chúa, vì chính Ngài làm việc nơi chúng ta, dù giữa bao gian truân thử thách. Chính vì tin vào Thiên Chúa nên chúng ta tin vào bản thân: Chúa ở nơi tôi và tôi có thể “dời non lấp biển”. Tin vào bản thân không phải là tự phụ coi mình là hơn tất cả, nhưng bản thân có đức tin hạt cải tin vào Thiên Chúa, cùng Ngài tôi sẽ vượt qua tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Ngay cả nơi những khiếm khuyết thể lý và tâm linh: “Tôi ý thức tôi mong manh. Đồng thời, tôi ý thức là tôi đang hành trình gian khổ trên đường độc đạo theo chân Chúa Kitô. Đức tin điều trị vết thương tâm linh nơi tôi” (Theo Nguyễn Văn Thành).
“Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, vô duyên hơn tất cả, vô duyên hơn tất cả… Nhưng con tin Chúa chân thành... tin Chúa chân thành...”.
Ý lực sống
“Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. (Ga 15,5).
Suy niệm 8: Khiêm nhường trong phục vụ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tiếp tục chương 17, Đức Giêsu đã dựa vào dụ ngôn người đầy tớ của ông chủ để dạy các Tông đồ tinh thần khiêm nhường trong phục vụ. Đức Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác đều là bổn phận. Chúng ta không nên huênh hoang, tự đắc với những gì mình làm được vì tất cả mọi sự đều do Chúa ban. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên phải có thái độ khiêm tốn khi phục vụ.
2. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một ông chủ hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí... là những việc lành mà Thiên Chúa buộc phải thưởng bội hậu cho họ. Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Đức Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác mà thôi (Hiền Lâm).
3. Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ánh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Đức Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi”. Đầy tớ là người làm tất cả mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Đức Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã không xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha sao (R.Veritas)?
4. Người đầy tớ trong câu chuyện cũng hữu dụng đấy chứ. Vì hữu dụng, ông chủ mới nuôi đầy tớ trong nhà. Quả thật, hằng ngày người ta làm việc đủ thứ việc nào là đồng áng, nào là chăn chiên; lại còn phục vụ bàn ăn cho chủ. Nhưng người đầy tớ của Chúa thì vừa vô dụng, vừa hữu dụng. Vô dụng bởi vì Chúa là Đấng hoàn hảo vô cùng. Chúng ta có làm công kia việc nọ gọi là làm cho Chúa thì cũng không vì thế mà Chúa được hoàn hảo hơn. Nhưng hữu dụng ở chỗ Ngài muốn chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa ngõ hầu “làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn”, trong đó mưu ích cho chính chúng ta nữa (5 phút Lời Chúa).
5. Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường. Bởi vì tất cả những khả năng, những thành công, những việc lớn nhỏ chúng ta làm được đều do Chúa ban, không có Chúa chúng ta không làm gì được và cũng không làm được gì. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên không được huênh hoang tự đắc, nếu huênh hoang đề cao cái tôi, khuếch đại giá trị của mình, tự cho mình là có công trạng hay không có mình thì không xong hay không hoàn thành được. Đó là kiêu ngạo mà thôi. Xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn biết làm việc trong ý hướng ngay lành và nhất là trong tinh thần khiêm nhường.
6. Truyện: Khiêm tốn là một điều khó.
Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi”.
Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?
Ông liền trả lời: “Có”. Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi”.
Suy niệm 9: Bài học phục vụ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
B.... nẩy mầm.
1. 1Cr 4,7: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của mình” đều không phải là của mình thực:
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư?: cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
2. Trong một tập thể, nếu ai cũng coi mình là đầy tớ của người khác thì việc chung sẽ chạy đều. Còn nếu ai cũng muốn làm kẻ chỉ huy thì sẽ thế nào?
3. Quan niệm ‘sống đạo để lập công’: quan niệm của Pharisêu, của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
4. Ta sống tốt chỉ có giá trị nhằm gợi lên lòng thương xót và sự nhân hậu của Chúa, ta không có quyền đòi hỏi gì; hoặc nếu có đòi, thì hãy đòi trong tâm tình của đứa con nhỏ vòi vĩnh trong tình thương. - Thân phận ta, về một khía cạnh nào đó, có thể ví như thân phận người đang chờ án tử hình, nay vì tin vào lòng nhân hậu Chúa, ta làm tốt để cố vớt vát lấy lòng Chúa và cố đền bù những thiệt hại tan hoang mình đã gây ra.
5. Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
6. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận ấy thôi” (Lc 17,10b)
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên. Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…
Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?
Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).
Suy niệm 10: Phục vụ trong khiêm tốn
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu có 4 lời khuyên dành cho các môn đệ. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói đến ba điều: Không được làm gương mù, phải tha thứ, phải có lòng tin. Hôm nay, chúng ta nói đến điều cuối cùng: phục vụ trong khiêm tốn.
1. Chúa Giêsu đã tuyên bố công khai: Con người đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng để phục vụ mọi người, (Mt 21,33t). Toàn thể cuộc đời của Chúa lúc nào cũng xoay quanh chân lý duy nhất này, đó là “làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha “ (Mt 26,21; Lc 24,26). Bởi vậy, những môn đệ của Chúa cũng phải theo chân Chúa mà phục vụ như thế. Phục vụ xong thì nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, chúng tôi làm việc mình phải làm” (Lc 17,10).
Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của ta” đều không phải thực là của mình.
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư? Cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi: “Nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế?” Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên Đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng, Ta sử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
2. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.
Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10b)
Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,-- nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào”.
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và còn là một bác sĩ thừa sai.
Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng của thế kỷ”.
Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.
Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá thư ấy lập tức bị phản đối ngay.
Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan tính”.
Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.
Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:
- Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.
- Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.
- Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.
- Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn tràn trề sinh lực.
13/11 Bổn phận với đồng loại
- Viết bởi Lc 17, 1-6
Bổn phận với đồng loại.
Thứ Hai tuần 32 thường niên.
"Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
Lời Chúa: Lc 17, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Làm cớ vấp ngã
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không hay nào đó
bị coi là gây sốc hay phản cảm.
Có những chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan.
Xì-căng-đan gốc là một từ Hy Lạp dùng trong Tân Ước (scandalon)
để chỉ một viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9),
hay một duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41).
Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan.
Nơi bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng
về những xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu.
Ngài nhìn nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1).
Nhưng Ngài lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó.
Cột cối đá lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi
thì tốt cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội
cho một trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2).
Những kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của Chúa.
Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người.
Tuy hiền lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng
với những kẻ làm gương xấu khiến người khác phạm tội.
Ngài muốn bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh.
Ngài không muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ,
khiến họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến.
Trong bài diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô,
thánh Phaolô đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên,
“giảng dạy những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30).
Làm cớ cho người khác phạm tội
là một tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú.
Chúng ta cho mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng.
Nhưng khi làm như vậy, chúng ta lại không để ý
đến những thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm
của những người anh em yếu đuối trong cộng đoàn,
cũng như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13).
Thánh Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô.
Không thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em
đã được Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11).
Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay,
cái tốt và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng.
Một biến cố mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết.
Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn,
khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.
Làm thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây?
Làm thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã?
Mong có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai
khi tiếp thu đủ thứ thông tin từ mọi nguồn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”.
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều.
“Chớ chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:
“Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!” Amen.
(Chân phước Charles Foucauld)
Suy niệm 2: Huyền đồng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thường sống theo xác thịt. Chỉ biết có mình. Dễ với mình. Khó với người. Hôm nay Chúa dậy ta sống theo Thần Khí. Một chân trời mới mở ra. Người ta ngặt nghèo với bản thân. Không dám làm điều gì xấu. Không chỉ là làm điều xấu cho tha nhân. Thậm chí không được làm gương xấu nữa. “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã”. Nhưng đối với tha nhân lại phải rất rộng lượng. Phải tha thứ mãi mãi. “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha cho nó”. Ta chỉ đạt tới cảnh giới đó khi có đức tin vững mạnh. Mọi sự sẽ theo sự điều khiển của ta. Ta có đức tin vững mạnh khi hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Khi đó ta có sức mạnh của Thiên Chúa. Nhìn người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Đối xử bằng tấm lòng của Thiên Chúa. Yêu thương bằng trái tim của Thiên Chúa.
Sách Khôn ngoan dạy ta đạt tới cảnh giới đó bằng một tiến trình. Yêu chuộng đức công chính. Thành tâm kiếm tìm Chúa. Khiêm nhường và tuyệt đối tin tưởng. Không lý luận quanh co. Không thử thách Thiên Chúa.Không sống theo xác thịt. Tránh xa thói lọc lừa gian dối. Khi ta thanh tẩy tâm hồn rồi, ta sẽ được Đức Khôn Ngoan. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở trong ta. Thần Khí sẽ ngập tràn cõi đất. Sẽ “bảo toàn mối hợp nhất giữa muôn vật muôn loài. Sẽ thấu hiểu mọi lời mọi tiếng” (năm lẻ).
Khi đạt tới cảnh giới đó Nước Trời hiển trị. Muôn người sẽ sống trong hạnh phúc. Đó chính là trách nhiệm của đạo Chúa. Vì thế những người môn đệ phải rèn luyện bản thân. Sao cho có đức tin vững mạnh. Sao cho hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để có tấm lòng Thiên Chúa. Nghiêm ngặt với bản thân. Rộng lượng với tha nhân. Đó chính là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ người môn đệ Ti-tô. Và căn dặn ông phải đào tạo người như thế: “Thật vậy, giám quản với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối” (năm chẵn).
Chỉ khi đạt tới Thiên Chúa ta mới hoàn toàn làm chủ bản thân. Mới thấu hiểu và yêu mến anh em thật tình.
Suy niệm 3: Sống Là Liên Ðới
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: "Tôi có phải là người giữ em tôi đâu!"
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không có liên hệ đến người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
Suy niệm 4: Chối Bỏ Trách Nhiệm
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.
Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông". Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách nhiệm".
Trong một buổi lễ qui tụ hàng ngàn người chống đối ông Estrada, Ðức Hồng Y Sin, tổng giám mục Manila, cũng đã thách thức nhà lãnh đạo Phi lúc đó rằng: "Liệu ông có thể nhìn thẳng vào nhân dân Phi, nhất là giới trẻ, và nói với họ rằng ông là một con người gương mẫu cho họ không". Người dân Phi nào cũng biết rằng ông Estrada đã và đang dan díu với nhiều phụ nữ cũng như cờ bạc và rượu chè thâu đêm suốt sáng. Nhà lãnh đạo của một quốc gia được trao phó cho trách nhiệm phục vụ công ích. Công ích ấy không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế, nó còn bao hàm cả những giá trị tinh thần và đạo đức. Do đó, ngoài tài năng, nhà lãnh đạo nào cũng còn được đòi hỏi phải có tác phong đạo đức. Nói cách khác, ông được đặt vào vị trí cao nhất trong nước để trở thành ngọn đèn pha cho nhiều người. Trong cụ thể, ông phải là một mẫu người đáng được đề cao về tư cách làm người, về đời sống gia đình, v.v... Ðây cũng là trách nhiệm mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Thật ra, đây không phải là trách nhiệm dành riêng cho những môn đệ của Chúa Giêsu mà là trách nhiệm làm người. Ðã làm người thì ít hay nhiều, cách này hay cách khác, ai cũng phải có trách nhiệm với những người anh chị em của mình.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp cụ thể về trách nhiệm đối với tha nhân: một là phải tránh làm gương mù cho anh em, hai là phải tha thứ cho anh em. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu làm cho chúng ta nhớ lại câu hỏi mà Thiên Chúa đã đặt ra cho Cain sau khi Cain đã sát hại em mình là Aben: "Cain, em của ngươi đâu?" Cain đã trả lời: "Tôi có phải là người đã giữ em tôi đâu". Câu trả lời của Cain là lời thú nhận về một trách nhiệm mà ông muốn chối bỏ. Thái độ của Cain vẫn thường được lập lại trong cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu chúng ta. Làm thiệt hại người anh em bằng nhiều cách khác nhau đã đành, đối xử với người anh em như một phương tiện đã đành, chúng ta cũng thiếu trách nhiệm đối với người anh em bằng thái độ dửng dưng. Mặc ai sống chết, chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng chúng ta.
Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ chỉ bị xét xử dựa trên cách cư xử của chúng ta đối với người anh chị em của chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đồng hóa với mỗi tha nhân. Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được tỉnh thức để nhận ra Ngài trong mỗi một tha nhân và đối xử với người ấy như với chính Ngài.
Suy niệm 5: Toa thuốc nuôi sống cộng đồng
Đức Giêsu nói: “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.”
Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bẩy lần, rồi bẩy lần nó trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc. 17, 1b+4-5)
Đức Giêsu ban cho các môn đệ mấy quy tắc về cách cư xử của các phần tử trong Giáo hội.
Loại bỏ gương mù:
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không dựa vào sự khôn ngoan loài người. Kẻ xấu dùng gương mù để bóp nghẹt đức tin và khiêu khích sự chống đối, có khi nổi loạn chống cả Thiên Chúa. Những người nhỏ bé như người nghèo khó, bị áp bức, bị khinh chê, rất dễ xúc động khi gặp những người giàu, những luật sĩ phản đối và gây cho họ sa ngã, mất tin tưởng và hy vọng. Con người ta dễ gây ra gương mù và mắc vào tội lỗi đáng chịu hình phạt nặng nề. Người ta không thể tha thứ gương mù trong Giáo hội, như thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô.
Toa thuốc tha thứ:
Giáo hội là một cộng đồng anh chị em tội lỗi đang được thánh hóa. Khi ai phạm tội và gây lây lan cho những người khác, người ta phải lo giúp họ ăn năn trở lại. Lòng thương người phải noi theo lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, phải biết tha thứ, dù bảy lần trong một ngày, nếu là cần thiết.
Sự tha thứ chân thực do lòng yêu mến. Người ta chỉ có thể giúp anh chị em mình và hướng dẫn họ ăn năn nếu có ý thức hiểu biết cảnh ngộ cùng khốn và đau khổ của họ, cần có lòng tốt vô vị lợi và xả kỷ.
Sức mạnh của lòng tin:
Ý thức rõ ràng về lời kêu gọi của Đức Giêsu, các tông đồ cầu nguyện Người ban thêm lòng tin cho mình. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các ông thấy lòng tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức rất mạnh mẽ. Lòng tin tự phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa đem lại can đảm và sức mạnh để có lòng tha thứ. Và đồng thời, còn làm cho kẻ tội lỗi ăn năn trở về.
Sự phó thác này tăng thêm tình yêu cho các phần tử của Hội thánh và rất cần để chống lại những ảnh hưởng chia rẽ của tội lỗi. Và tình yêu có sức hoạt động mạnh mẽ và hữu hiệu để tăng thêm lòng tin của các phần tử của Hội thánh.
RC
Suy niệm 6: Sống chứng nhân thì hơn là thày dạy
Xem thêm CN 26 TN B và thứ Năm tuần 7 TN -CN 23 và 24 TN A - thứ Ba tuần 3 MC, thứ Tư và thứ Năm tuần 19 TN
Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”. Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại, không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!
Thật thế, Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đề cao đời sống chứng nhân nơi người môn đệ khi Ngài dùng phương pháp phản biện để làm toát lên tính quan trọng của gương sáng. Ngài nói: “Vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này”. Nêu gương xấu là điều tắc trách, nhưng gây nên cho những trẻ nhỏ, những người bé mọn, người kém đức tin là một tội ác vì tính chất nguy hiểm khôn cùng của nó!
Gương xấu được ví như một thứ ôn dịch và có nguy cơ lây lan rất cao.
Gương sáng thì khó làm, khó sống, nhưng gương xấu thì quá dễ làm, dễ bắt trước. Làm gương sáng cần phải có một sự cố gắng cao với nhiều hy sinh, từ bỏ. Nó được ví như một người leo núi với tất cả sự cố gắng, hy sinh... Còn gương xấu thì thực sự chẳng khác gì một người buông mình xuống núi, chúng ta không cần phải cố gắng thì vận tốc rơi xuống cũng sẽ nhanh chóng...
Như vậy, với bản tính của con người, chúng ta dễ hướng chiều về điều xấu hơn điều tốt. Dễ làm điều bất chính hơn điều thiện. Vì thế, tội lỗi luôn có cơ hội len lỏi vào trong suy nghĩ và hành động của chúng ta hơn là điều tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần nhớ lại ánh sáng đức tin ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để sống cuộc đời nhân chứng cho xứng đáng với ơn đã lãnh nhận. Cần làm cho hình ảnh Đức Kitô hiền lành, dễ thương, giàu lòng thương xót ngay trong cuộc sống, qua lời nói, hành động và việc làm của chúng ta.
Tuy nhiên, để sống được điều đó, chúng ta cần phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Bởi vì nếu không có đức tin, chúng ta khó có thể tha thứ, kiên trì, tôn trọng và nâng đỡ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con đã trở nên những người gây ra gương mù gương xấu cho người khác. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con can đảm, trung thành sống cuộc đời chứng nhân. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Trách nhiệm giúp nhau sống thánh thiện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành phần tử dân Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta phải làm chứng cho sự thánh thiện: không làm gương xấu và giúp nhau sửa lỗi lầm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con người có tính xã hội. Chúng con không sống đơn độc, nhưng lệ thuộc lẫn nhau. Khi con sống, là con sống với nguời khác, sống cho và sống nhờ người khác. Cách riêng trong đời sống tinh thần, người trên phải hướng dẫn giáo dục người dưới, người đi trước chỉ đường cho kẻ đến sau. Anh em bạn bè phải giúp nhau nên tốt. Tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm về nhau trong tình huynh đệ.
Lạy Chúa, được gia nhập Hội Thánh, chúng con phải chịu trách nhiệm giúp nhau sống thánh thiện hơn. Con có bổn phận lo cho chính minh và còn có trách nhiệm với tha nhân đang sống chung quanh con, nhất là đối với trẻ nhỏ. Thế mà, suốt bao năm tháng qua, không biết được mấy lần con là ngọn đèn dẫn dắt người khác bước đi theo con đường của Chúa. Và có lẽ cũng không thiếu những lúc con đã trở nên chướng ngại vật cản đường anh em đến với Chúa, vì đã làm gương xấu cho họ. Con đã dửng dưng truớc lỗi lầm của tha nhân vì chưa biết khích lệ nhau nên thánh.
Lạy Chúa Giêsu, con sợ lời cảnh báo của Chúa. Xin Chúa giúp con sống đời chứng nhân bằng những gương sáng, bằng cuộc sống thánh thiện trong môi trường hằng ngày. Xin giúp con thay vì thúc đẩy lôi kéo nhau đến tội lỗi, thì trái lại, biết dẫn đưa nhau tới đời sống thánh thiện bằng lời nói, bằng việc làm, và bằng cả cuộc sống. Amen.
Ghi nhớ: “Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó”.
Suy niệm 8: Tránh cớ vấp phạm và hãy tha thứ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu dạy các tông đồ những đức tính phải có trong đời sống cộng đoàn: chúng ta không được làm gương xấu, xúi giục hay nên cớ cho người khác phạm tội bằng bất cứ hình thức nào vì đời sống của chúng ta ảnh hưởng đến anh chị em chung quanh. Chúng ta phải biết góp sức xây dựng cho nhau trong yêu thương, quảng đại và tha thứ. Khi chúng ta đối diện với cuộc sống, điều quan trọng là phải có đức tin vững mạnh để chiến đấu với thử thách cam go. Đức tin càng lớn mạnh, con người càng làm được những điều phi thường.
2. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói đến hai bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không thành cớ vấp phạm cho người khác; hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh thánh đã nói đến tính liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adong đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”.
3. Đừng nên cớ vấp ngã. Chúng ta có thể hiểu “Cớ vấp ngã”có thể là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chết có lẽ không xấu, nhưng do ở trong một hoàn cảnh nào đó không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Ví dụ như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì nó sẽ thành cớ khiến nhiều người vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể có nhiều người, tất nhiên không thể không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy “đề phòng” đừng trở thành cớ vấp ngã, nhất là đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho người khác. Đức Giêsu phán xét rất ngặt đối với chúng ta về vấn đề này.
4. Tha thứ không giới hạn. Chúng ta thường nói “quá tam ba bận”, như thế đã là hiểu, ấy thế mà trong Tin Mừng Chúa dạy phải tha thứ tới bảy lần. Hơn nữa, theo ngôn ngữ Do thái, con số 7 là con số đủ, tha đến 7 lần có nghĩa là không đưa ra một hạn định nào cho sự tha thứ. Đức Giêsu trên Thập giá đã “kêu xin Chúa Cha” tha thứ cho người đóng đinh mình; thánh Têphanô khi bị ném đá cũng “cầu xin Chúa” tha thứ cho những kẻ bách hại... Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ.
5. “Quá tam ba bận” đã là quá nhiều để có thể thông cảm cho người lầm lỡ. Ấy vậy mà Đức Giêsu dạy ta tha thứ không chỉ có thế. Thử tưởng tượng, một người làm việc một ngày tám tiếng mà lỗi phạm đến bảy lần, mà cứ mỗi lần như thế ta lại phải tha thứ!!! Hành động tha thứ chỉ phát xuất được từ chính “tâm nhân hậu”. Tâm nhân hậu không chỉ là yêu thương thế nào cũng được, mà là yêu bằng một trái tim thật lớn, đến độ không sự xúc phạm nào có thể làm quị ngã; và là yêu bằng một tình yêu sung mãn đến độ tha thứ luôn mãi mà không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ bị nghèo đi. Tâm nhân hậu như thế chỉ có nơi Đức Giêsu. Nhưng ta có thể xin Ngài cho ta được điều đó (5 phút Lời Chúa).
6. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta đối với đời sống đức tin của người anh em chúng ta. Sống đức tin là trở thành người trách nhiệm đối với tha nhân. Sống đức tin thiết yếu là là ràng buộc vào số phận của người anh em mình. Không có cuộc sống đức tin nào, dù âm thầm đến đâu mà không tạo nên một ảnh hưởng nơi người khác. Không có một biểu lộ đức tin nào mà không là một củng cố và nâng đỡ cho người khác. Đức tin của người Kitô hữu chính là ngọn đuốc soi sáng và sưởi ấm lòng người, do đó, khi đức tin ấy trở thành nguội lạnh thì chắc chắn sẽ có biết bao người chìm trong tăm tối lầm lạc (R.Veritas).
7. Truyện: Tuyên xưng đức tin trong cuộc sống.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng; trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vỉ sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao”?
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
Suy niệm 9: Cuộc sống chung trong tập thể
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca gom chung 3 lời dạy của Chúa Giêsu. Tất cả đều rất thực tế cho cuộc sống chung trong tập thể:
1. Cớ vấp ngã: Cớ vấp ngã là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chất có lẽ không xấu, nhưng do nó ở trong một hoàn cảnh không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Cũng như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì sẽ khiến người ta vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể nhiều người, tất nhiên không thề không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy đề phòng đừng trở thành cớ vấp ngã cho người khác.
2. Việc sửa lỗi anh em: Trong tập thể thì đương nhiên cũng có nhiều khi một người nào đó xúc phạm tới mình. Khi đó ta hãy nói thẳng với người đó. Nếu người đó hối hận thì ta phải tha thứ. Cho dù sau đó người ấy lại lỗi phạm nữa thì cũng vẫn phải tha thứ nữa.
3. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
B.... nẩy mầm.
1. Được làm và nên làm: Có những việc tôi có thể làm, nhưng tôi không nên làm, bởi vì làm trong hoàn cảnh cụ thể nào đó và làm trước hạng người nào đó thì việc đó sẽ trở thành một cớ vấp phạm. Bởi đó tuy được làm nhưng tôi không nên làm.
2. Nếp sống của ta sẽ gây ảnh hưởng trên người khác, dù ta cố ý hay không. Ảnh hưởng về phạm vi thể lý lẫn tinh thần: ‘Hữu xạ tự nhiên hương’, ‘Gần mực thì đen gần đèn thì sáng’. Đây là vấn đề trách nhiệm đối với tha nhân trong cuộc sống. Do đó cần lưu tâm tới những ảnh hưởng tốt xấu ta gây nên trong cộng đoàn.
3. Tha thứ là gì? Là mùi thơm mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
4. Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ: đây cũng là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.
5. Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?
-........
6. Đức tin: một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
7. “Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng không có không có những cớ làm cho người ta vấp ngã, nhưng khốn cho những kẻ làm cho người ta vấp ngã”. (Lc 17,1)
Nghe tin thằng “Hiền bụi đời” sắp về lại cái xóm nhỏ này sau thời gian khá dài trong trại giam, thỉnh thoảng người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục, cưa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo. Hôm ấy hắn trở về với khuôn mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp. Dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm bán hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bắt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười gượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “… Vì muốn trả thù đời”.
Mỗi ngày của tôi cũng có không ít những cái liếc mắt, bỉu môi trước niềm vui khám phá của người bạn, những cái cười mỉa mai, không phục…
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức điều con đang làm. (Hosanna)
Suy niệm 10: Bổn phận con người đối với đồng loại
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Trong tác phẩm: “Hãy giúp nhau làm lại cuộc đời”, xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẩu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời sự tàn tạ của mình. Điển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẩu xuống các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm, năm đó đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi chiếc xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Eva; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”.
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nếp sống của ta sẽ gây ảnh hưởng trên người khác, dù ta cố ý hay không. Ảnh hưởng về phạm vi thể lý lẫn tinh thần: “Hữu xạ tự nhiên hương”, “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.” Đây là vấn đề trách nhiệm đối với tha nhân trong cuộc sống. Do đó cần lưu tâm tới những ảnh hưởng tốt xấu ta gây nên trong cộng đoàn.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Đó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
Suy niệm 11: Bài học cho đời sống tập thể
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta 3 điều. Tất cả đều rất thực tế cho cuộc sống chung hay cho đời sống tập thể:
1. Trước hết, Chúa nói về cớ vấp ngã: Cớ vấp ngã có thể là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chất có lẽ không xấu, nhưng do ở trong một hoàn cảnh nào đó không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Ví dụ như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì nó sẽ thành cớ khiến nhiều người vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể có nhiều người, tất nhiên không thể không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy đề phòng đừng trở thành cớ vấp ngã, nhất là đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho người khác. Chúa sẽ phán xét rất ngặt đối với chúng ta về vấn đề này.
Vào khoảng giữa thế kỷ trước, có một vị Linh mục già thánh thiện sống ở Wimpfen, vùng Westphalie. Mỗi tối, khi mặt trời lặn, Ngài có thói quen đi ra nghĩa địa và ở đó lần một chuỗi cầu cho các linh hồn ở luyện ngục. Ngày kia, một người bạn của Ngài hỏi lý do việc tối nào ngài cũng đi ra nghĩa địa như thế, và đây là câu trả lời:
- Tôi đã làm cha sở họ đạo này lâu năm, và biết đâu do lỗi của tôi khi không làm gương tốt, khi không chu toàn những gì tôi phải làm, tôi đã mang lỗi với những người bây giờ đang nằm dưới lòng đất lạnh này. Tôi sợ phải trả những khoản nợ ấy sau khi chết, do đó mỗi ngày tôi phải lần hạt cho những người đang nằm ở đây, để nhờ hành vi bác ái này cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, đền bù các thiếu sót mà tôi có thể đã phạm...!
Không nên than trách kẻ khác, nhưng hãy tự kiểm điểm đời sống mình.
2. Thứ hai, về việc tha thứ và sửa lỗi anh em: Sống trong tập thể khó mà tránh khỏi những va chạm gây nên những phiền hà cho nhau. Người ta thường nói: Chung thì đụng mà đụng thì đau mà đau thì khổ. Chúng ta phải can đảm tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Châm ngôn Trung Hoa có câu: “Tha thứ là mùi thơm mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát”.
Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.
Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?
Anh không trả lời.
3. Cuối cùng, là về đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin cho mình và cho nhau. Nếu có lòng tin thì mọi sự sẽ tốt đẹp và sẽ làm được những điều phi thường.
Cuộc sống đức tin sẽ có ảnh hưởng rất tốt đối với đời sống cộng đoàn.
Ðây là câu châm ngôn Mẹ Têrêsa để lại như linh đạo cho các Nữ tu thừa sai bác ái, như nền tảng của các hoạt dộng của Tu hội”. Thành quả của sự yên lặng là lời cầu nguyện - Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của phục vụ là hòa bình”.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao?”
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh Giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xảy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ rằng, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
12/11 Tỉnh thức
- Viết bởi Mt 25, 1-13
Tỉnh thức.
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN năm A
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình.
Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. "Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn".
Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng Người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi".
"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
MỤC LỤC
1. Vừa mang đèn, vừa mang dầu--‘Manna’
2. Trinh nữ khôn ngoan--TGM. Ngô Quang Kiệt
3. Khôn ngoan đích thực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
4. Khôn và dại--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
5. Hãy tỉnh thức và chờ đợi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
6. Dụ ngôn mười cô phù dâu--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
7. Cẩn thận, Sẵn sàng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
8. Sẵn sàng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
9. Khôn hay dại--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
10. Cách thức chờ đợi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
12. Chú rể kia rồi, ra đón đi!--Lm. Trầm Phúc
13. Đón Chúa--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
14. Tỉnh thức--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
15. Sẵn sàng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
16. Niềm hy vọng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
17. Khôn ngoan và khờ dại--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
18. Suy niệm của Lm. John Trần Khả
19. Mười người trinh nữ--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
20. Sống ngày cuối đời--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
21. Cho ngày hôm nay--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
22. Chàng rể đến trễ--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
23. Sống khôn ngoan--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
24. Suy niệm của JKN
25. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa--Lm. Vũ Thái Hòa
26. Suy niệm của Lm Augustine S.J.
27. Khôn ngoan và khờ dại--Lm. PX. Vũ Phan Long
28. Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng—Lm. Mark Link
29. Chú giải của Noel Quesson
30. Chú giải của Fiches Dominicales
31. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
32. Dự liệu, phó thác và tỉnh thức--An Phong
33. Người khôn kẻ dại--Lm. G. Nguyễn Cao Luật
34. Để tránh việc “quá trễ” --‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
35. Ánh sáng không bao giờ bị dập tắt--Sr. Barbara E. Reid--Văn Hào SDB, chuyển ngữ
36. Hãy giữ đôi mắt của các bạn luôn mở rộng--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
37. Sự khôn ngoan của người tín hữu hôm nay--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
38. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
39. Hãy sẵn sàng vào dự tiệc Nước Trời
40. Bắt hụt
41. Sẵn sàng
42. Thức tỉnh
43. “Ta không biết các ngươi”
44. Mười cô trinh nữ
45. Khôn và dại
46. Chúa sẽ đến
47. Sẵn sàng
48. Tỉnh thức
49. Tỉnh thức
50. Sẵn sàng
51. Một chủ đề về sự chết và sự sống
52. Chuẩn bị sẵn sàng
53. Dọn lòng đón Chúa
1.Vừa mang đèn, vừa mang dầu--‘Manna’
Suy Niệm
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ,
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
"Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!"
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?
Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2.Trinh nữ khôn ngoan--TGM. Ngô Quang Kiệt
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
3.Khôn ngoan đích thực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Khôn ngoan cũng có nhiều loại. Có người khôn thành khôn dại, có người như thể dại mà thực sự lại là người khôn. Người khôn ngoan đích thực là người biết sống sao để luôn hạnh phúc, đời này lẫn đời sau.
1. Sự sống đời sau
Nhiều người cho rằng tiền bạc mang lại cho người ta hạnh phúc, và người ta miệt mài đi tìm tiền bạc, quên gia đình, quên cha mẹ con cái, quên cả hưởng thú vui mỗi ngày với những người thân. Nhiều người không thành công nên cả đời vất vả long đong mà cũng chẳng kiếm được nhiều tiền như họ mong ước, họ không hạnh phúc, và vẫn tưởng rằng có tiền là có hạnh phúc. Cũng có người may mắn hơn, kiếm được nhiều tiền nhưng khi đã có lắm tiền, đã có danh vọng chức quyền, họ cũng nghiệm ra tiền bạc danh vọng chức quyền cũng không mang lại cho họ hạnh phúc. Với những người này, kinh nghiệm đã dạy họ chân lý; bài học này đã tốn bao thời gian và đã phải trả một giá khá mắc.
Có người cho rằng nếu chết là hết, thì khi đang sống người ta phải tận hưởng thú vui bằng mọi giá. E rằng quan niệm này cũng không đúng vì nếu hiểu hưởng thụ theo nghĩa chơi bời phóng túng, thì cũng đâu làm cho người ta hạnh phúc. Tuy nhiên, một chân lý mọi người cần biết, đó là con người không chỉ có đời sống tại trần thế này. Chết chưa phải là hết đối với con người. Con người có đời sống mai hậu. Con người có hạnh phúc ở đời sống mai hậu hay không, tùy thuộc cách sống của họ ở đời này. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Thessalônica nhắc nhở các Kitô-hữu: sự sống đời sau đang chờ đợi họ.
Nếu chỉ có cuộc sống tại thế, Ngôi Lời Thiên Chúa chẳng cần phải nhập thể làm người. Nếu chỉ có cuộc sống tại thế này, Đức Yêsu phục sinh hay không, chẳng có nghĩa lý gì với con người. Mầu nhiệm nhập thể chỉ xảy ra, khi con người có sự sống đời sau; Đức Yêsu đã sống lại nên chết đâu phải là hết, vì nếu con người chết là hết thì Đức Yêsu không cần phải sống lại, vì lúc đó Ngài có sống lại hay không, với con người đâu có ích lợi gì.
2. Khôn ngoan và dại khờ
Những người dại, chỉ nghĩ đến giây phút này mà không biết nhìn xa hơn; còn những người khôn họ không chỉ nghĩ đến giây phút hiện tại mà còn biết nhìn cả đến tương lai nữa. Năm cô gái dại khờ hôm nay, không biết nhìn cho tương lai. Người ta mang đèn, năm cô cũng mang đèn; nhưng đèn để làm gì nếu không có dầu. Nếu một người chỉ mang danh Kitô-hữu, mà không sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì chẳng ích lợi gì cho họ. Họ chẳng được gì, họ cũng chẳng được vào dự tiệc cưới.
Người dại là người không biết mình sống để làm gì, không biết làm sao để hạnh phúc đích thực ở đời này và cả ở đời sau nữa. Họ lấy điều phụ làm điều chính, và điều chính lại cho là phụ. Có thể nói, những người chọn và miệt mài chỉ đi tìm tiền bạc, danh vọng chức quyền, là những người dại. Có thể những người này nghĩ rằng họ sẽ để lại cho con cái họ món tiền lớn, gia tài kếch xù, để con cái họ hưởng hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, có nhiều người con của những gia đình cha mẹ giầu có lại hư vì chính tiền của cha mẹ để lại cho, vì những người này ỷ lại vào số tiền đó, ăn chơi và không chịu học hành, nên không thành người lương thiện và hữu ích.
Những người khôn, là những người không chỉ nghĩ đến đời sau, nhưng còn để ý đến giây phút hiện tại nữa. Họ cố gắng sống hạnh phúc ngay ở giây phút này, trên đời này và lúc này. Họ muốn tìm bình an và hạnh phúc. Những người này nếu có đời sống gia đình, họ không chỉ lo đi làm kiếm tiền nuôi sống chính mình và gia đình, lo cho tương lai con cái, mà họ còn biết tận hưởng niềm vui mỗi ngày bên người bạn đời và bên con cái họ nữa. Thiên đàng đối với họ, không chỉ ở đời sau mà ngay tại đời này, trong đời sống mỗi ngày của họ.
3. Người khôn ngoan đích thực là người kính sợ Thiên Chúa
Khôn ngoan là điều ai cũng mong ước và tìm kiếm. Những người hiền triết là những người đi tìm khôn ngoan; họ nghĩ rằng họ biết được nguyên nhân và lý lẽ thâm sâu của sự vật, và họ để lại những lời dạy khôn ngoan cho thế hệ tương lai. Những người đi học, là những người muốn học những lý lẽ khôn ngoan của thế hệ đi trước truyền lại. Mỗi dân tộc đều có kho tàng văn chương khôn ngoan của riêng họ, để dạy lại cho con cháu. Dân tộc Việt Nam chúng ta cũng có kho tàng khôn ngoan phong phú. Ca dao tục ngữ là một phần của kho tàng này.
Dân tộc Do Thái cũng có kho tàng khôn ngoan của họ, và đối với họ người khôn ngoan là người kính sợ Thiên Chúa. Kính sợ Thiên Chúa, làm cho người ta trở thành người khôn. Vì một khi kính sợ Thiên Chúa, người ta không làm gì trái giới răn của Ngài; hơn nữa, người ta còn làm theo điều Thiên Chúa muốn và dạy dỗ, đó là yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Kính trọng tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân, sẽ làm con người dễ thương và được yêu thương nhiều hơn, và như vậy làm người ta hạnh phúc hơn từng ngày.
Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, Ngài là nguồn mọi khôn ngoan. Người sống theo lời Ngài dạy bảo là người khôn. Người sống theo lời dạy của Thiên Chúa, không chỉ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc qua việc hưởng thụ, nhưng còn tìm được niềm vui và hạnh phúc nơi chính niềm vui và hạnh phúc của người khác nữa. Những người này tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ con người; và với những người này không ai tước mất hạnh phúc của họ được. Đây là những người phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, vì họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và Ngài sẽ làm tất cả những gì tốt lành cho họ. Họ hạnh phúc khi phục vụ con người, và hạnh phúc trong niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
2. Thiên Chúa có muốn con người có được sự khôn ngoan đích thực không? Tại sao?
3. Bạn đang đeo đuổi tìm kiếm điều gì? Điều đó có mang lại cho bạn hạnh phúc không?
4.Khôn và dại--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Lời Chúa đề cập đến năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Thế nào là khôn ngoan và khờ dại?
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích:
Theo chiều kích tự nhiên, khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập" (1V. 5, 9-14).
Theo chiều kích siêu nhiên, khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết" (Dn. 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: "Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan" (Cv. 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa "Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl. 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: "Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan" (Hc. 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv. 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1. 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc. 11,31). Cho nên Bài đọc I đã hô hào ta khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu (Kn. 6, 12-16)
Bài Tin mừng cho thấy năm cô khôn ngoan. Các cô đã được theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Đây là tiệc cưới nước Trời muôn ngàn vinh quang rực rỡ, và hạnh phúc vô cùng.
Các cô đáng được hưởng hạnh phúc vinh quang đó vì các cô khôn ngoan biết lo chu toàn nghĩa vụ của mình, đã sửa soạn đầy đủ đèn dầu thắp sáng cho đám tiệc được vui mừng rực rỡ. Các cô đã coi trọng nhiệm vụ mình để tôn trọng chú rể, mong đợi giờ phút chú rể đến, dù bất cứ lúc nào, các cô đã sẵn sàng tất cả mọi sự, các cô có thiếp ngủ, các cô vẫn an giấc, không còn lo âu, áy náy sợ chi nữa. Chỉ cần có tiếng hô to là các cô thức dậy theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Thánh Phaolô thấy giáo hữu Thessalonica đã khôn ngoan sống theo lời Chúa, nên ngài đã an ủi họ đừng có buồn phiền về người an giấc ngàn thu như những người không tin tưởng, những người khờ dại. Vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Chúa Giêsu... được ở cùng Chúa mãi mãi (Thes. 4, 13-18)
Trái lại, những kẻ khờ dại như năm cô đem đèn mà không có dầu. Những kẻ này quá tệ! Chúng lơ là lười biếng, thờ ơ nguội lạnh bỏ bê nhiệm vụ, chúng khinh thường những việc trọng đại như tiệc cưới, coi khinh chàng rể, xách đèn đi mà không coi gì tới đèn có dầu hay không. Sống quá bừa bãi, bê tha gì đâu đâu, còn chính nhiệm vụ quan trọng của mình lại không lo. Đối với hạng người bê bối này, chủ bảo: “Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô là ai cả". Chúng đã không biết chủ, không kính trọng chủ, làm cho đám tiệc thiếu niềm vui vì thiếu ánh sáng, tối tăm, cho nên chúng đáng phải trong tối tăm. Khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần ban ra và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, những người chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trong vinh quang với Chúa (Thes. 4,16), còn "những kẻ đã không làm cho chính Ta, sẽ bị đuổi vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 46).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan tỉnh thức, luôn luôn sẵn sàng lo chu toàn ý chủ, chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc Chúa trao phó. Như thế, chúng con đã chứng tỏ được lòng trung tín tôn thờ và kính mến Chúa hết lòng. Xin đừng bao giờ để con dám bỏ bê khinh thường việc chuẩn bị đi đón Ngài, kẻo bị loại ra khỏi tiệc cưới nước Trời.
5.Hãy tỉnh thức và chờ đợi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Con người ai cũng phải nghĩ tới tương lai. một tương lai đầy hy vọng và tốt đẹp. Người khôn ngoan thật là người phải biết chuẩn bị cho tương lai tươi sáng đang đón chờ tức là phải nhắm đến cái cùng đích của mình. Cùng đích của mình là phải chiếm hữu được Nước Trời. Cuộc sống ở trần gian này là một thời ước mong và chờ đợi.
Những bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nói về sự chờ đợi đó và sống trong sự chờ đợi này ngõ hầu không phải vỡ mộng vô phương cứu chữa sau khi chờ đợi. Nhưng nhiều người đã vỡ mộng thật! Nếu vào ngày chúng ta chết, vì thiếu khôn ngoan và lo xa, chúng ta lại nghe Chúa phán: “Ta không biết các ngươi”.
Cuộc sống trần gian chỉ là cuộc hành trình về Quê Trời. Đã nói đến hành trình thì phải nói đến hành trang, mà hành trang của Kitô hữu là chiếc đèn đầy dầu, tức là một cuộc sống lành thánh và đầy công phúc. Cuộc sống ở đời này rất bấp bênh, kết thúc lúc nào không ai biết vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”!
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Một khi đã chuẩn bị sẵn sàng thì chúng ta sẽ được bình yên, không còn lo sợ trước cái chết vì “Cẩn tắc vô ưu” mà!
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Kn 6,13-17.
Trong bài đọc một này Thánh Kinh thôi thúc chúng ta tìm sự khôn ngoan, vì Khôn ngoan là món quà cao qúi mà Thiên Chúa ban cho con người. Hãy tìm kiếm khôn ngoan và Khôn ngoan sẽ đáp ứng, Khôn ngoan sẽ đến gặp chúng ta như một người bạn. Nhờ có khôn ngoan mà con người biết sống thế nào cho phải, tìm ra cái gì phải tìm. Nhờ có đức tính này mà con người có thể định hướng được cuộc đời của mình mà không sợ lạc hướng.
Đối với người Kitô hữu, sự khôn ngoan ấy được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Ta là đường, là sự thật và sự sống”. Ai theo Ngài sẽ tiến tới con đường cứu độ.
2. Bài đọc 2: 1Tx 4,13-18.
Thánh Phaolô vui mừng vì thấy tín hữu Thessalonica đón nhận Tin mừng do Ngài rao giảng và sống đức tin vững vàng. Nhưng họ có một tâm trạng lo âu: họ đang mong chờ đến ngày tận thế để được gặp Chúa Giêsu, nếu họ chết trước thì họ sẽ không được gặp Ngài.
Nhưng thánh Phaolô làm cho người Thessalonica yên tâm bằng cách cho họ tin chắc rằng: khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi. Vì thế, họ hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến trong tinh thần tin tưởng.
3. Bài Tin mừng: Mt 25,1-13.
Dụ ngôn 10 cô trinh nữ nói lên sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa là biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa quang lâm. Chúa sẽ đến nhưng chúng ta không biết ngày nào giờ nào. Việc chúng ta phải làm là hãy dự trữ đầy đủ dầu đèn tức là phải tỉnh thức. “Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Chắc chúng ta thắc mắc về một chi tiết: 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại vay mượn dầu. Phải chăng chi tiết này nói lên tính ích kỷ của các cô khôn ngoan? Chắc không phải thế! Chúa Giêsu muốn dùng chi tiết này để nói rằng trước số phận đời đời không ai có thể giúp ai được, mỗi người phải tự lo lấy. Vậy mỗi người phải tự lo bằng cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tỉnh thức và sẵn sàng.
I. BỐI CẢNH CỦA DỤ NGÔN.
1. Phong tục cưới hỏi người Do thái.
Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do thái.
Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ Palestine. Ông viết: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy? Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp: “Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành”.
Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Theo ý của công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng: “Kìa, chàng rể đang đến”. Việc đó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra.
Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
2. Ý nghĩa dụ ngôn.
Dụ ngôn này nhằm cảnh cáo những thính giả gần là người Do thái và những thỉnh giả xa là chúng ta ngày hôm nay là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
* Dụ ngôn nhằm trực tiếp vào người Do thái. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, cả lịch sử của họ đúng ra là một cuộc sửa soạn cho cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa, lẽ ra họ phải chuẩn bị cho Ngài tới. Nhưng họ đã không chuẩn bị đóp tiếp Ngài, vì thế họ đã bị loại ra như 5 cô trinh nữ khờ dại.
* Dụ ngôn còn gián tiếp cảnh cáo chúng ta khi chúng ta không chuẩn bị đón tiếp Chúa đến trong ngày tận thế và nhất là trong ngày sau hết của đời mình. Chúng ta quá mải mê với đời sống ở trần gian, chỉ biết tìm hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi hạnh phúc thật đời sau. Chúng ta rất dễ lần nữa trễ nải đến nỗi không còn thời giờ chuẩn bị mình đến gặp Chúa vì Chúa đến rất bất ngờ.
* Dụ ngôn này nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ. Cl Tassin viết: “ Dụ ngôn về lụt đại hồng thủy trình bầy cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo truớc mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục, Chuá phải là linh hồn của thời gian chờ đợi. Hội thánh sống với lòng mong đợi ngày cánh chung ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày”. (Tassin, l’Évangile de Matthieu, Centurion, tr 260).
II. BÀI HỌC ĐƯỢC RÚT RA.
Ngày xưa, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do thái không chịu chuẩn bị cho Ngài đến trong việc cứu chuộc loài người, nên họ đã bị loại ra ngoài và dành cho các dân tộc khác. Ngày nay, với dụ ngôn này, Chúa cũng cảnh cáo chúng ta đừng quá mê man sự thế gian mà quên đi giờ chết của mình. Chúa sẽ đến gọi chúng ta ra khỏi đời này một cách bất ngờ và ngày giờ nào chúng ta không biết. Chỉ có một điều chúng ta phải làm là tỉnh thức và sẵn sàng.
1. Mọi người đều phải chết.
Kinh nghiệm người đời cho hay: không ai có thể sống mãi. Từ xưa đến này, người ta đã nỗ lực đi kiếm tìm thuốc trường sinh, nhưng đã thất bại. Bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu vĩ nhân lừng danh thế giới đã qua đi, chỉ còn lưu lại trên sử sách. Vì thế người ta mới đặt một dấu hỏi và tự trả lời: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết? Theo Kinh thánh, ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi, tất cả đều đã chết. Vì thế người ta mới nói:
Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
Biết là mọi người sẽ phải chết đấy, nhưng mấy ai nghĩ đến sự chết để dọn mình?
Nhà nhiếp ảnh Mạnh Đan có chụp một bức hình thần tình. Bức hình trình bầy hai nhân vật: một cụ già đang quay lưng đi, một thiếu niên đang quay mặt lại. Và tác giả đã đặt cho bức hình ấy một tên không thể khéo đẹp hơn: QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI.
Thật vậy, quá khứ và tương lai, hay là lớp người già và lớp người trẻ, là hai hạng người ngồi châu lưng lại cho nhau. Lớp người trẻ nhìn về phía trước mặt. Lớp người già nhìn về phía sau lưng. Vì thế Thánh Kinh nói: “Trẻ thì mộng tới tương lai, già thì chiêm bao về quá khứ” (Joel 3,1).
Tâm lý trẻ già khác nhau đấy: người thì nhìn về quá khứ, người thì nhìn về tương lai. Nhưng cả hai ít khi nghĩ đến sự chết kể cả người già, vì chết là một cái gì bi quan làm mất đi niềm vui của cuộc sống. Do đó, người ta tạm quên đi để hưởng trọn cuộc đời đầy bấp bênh này.
Tuy niên, cũng có những người khôn ngoan biết lo xa để chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn của mình. Vua Ferdinand II của Pháp, ở trong phòng giấy và nơi ngủ, ngài dạy phải viết câu này: “Annos aetrenos in mente habui” (Tôi hằng nhớ những năm vô tận).
2. Giờ chết đến bất ngờ.
Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng lời khuyên: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Lời khuyên dụ tỉnh thức ở đây giống như câu đầu của dụ ngôn chủ nhà (Mt 24,42) vì không biết ngày nào giờ nào ông chủ về, nên người đầy tớ phải tỉnh thức luôn. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng này giữ con người ở tình trạng thường xuyên sống trong ơn nghĩa Chúa và gia tăng việc lành phúc đức mỗi ngày một hơn.
Truyện: núi lửa Vésuve.
Cách đây hơn 1900 năm, núi lửa Vésuve đã phun lên ở Italia. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompéi đã bị chôn dưới lớp phún thạch tới 18 bộ (gần 6 mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần đây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên.
Mọi người cũng phải ngạc nhiên về những điều khám phá được... Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Bằng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân.
Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang cuốn chặt đứa con trong tay mình, hoặc một lính gác Rôma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới lúc cuối cùng... Nhưng cũng có người chết đang lúc nhậu nhẹt, có người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. (Cf M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 322-323)
3. Phải chuẩn bị sẵn sàng.
Hai bài đọc hôm nay nhắc cho chúng ta phải sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. Khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như 5 trinh nữ khôn ngoan kia không hay lại chẳng chuẩn bị gì như 5 trinh nữ khờ dại?
a) Phải sống khôn ngoan.
Người ta thường nói: “Khôn ba năm dại một giờ”(Tục ngữ). Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải cố gắng suốt cả đời vì “chỉ có ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, chỉ thiếu khôn ngoan một chút là trở thành dại, đem đến sự tai hại khôn lường. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta đâu là sự khôn ngoan đích thực và phải hành động ra sao để có sự khôn ngoan đó.
Như chúng ta đã biết có nhiều loại khôn ngoan: khôn ngoan chủ quan hay khách quan, khôn ngoan do kinh nghiệm hay do học hỏi, khôn ngoan xưa hay ngày nay. Và mọi sự khôn ngoan không luôn có tầm quan trọng như nhau vì có những thứ khôn ngoan chỉ hữu dụng tạm thời hay tùy cơ ứng biến, lại có những thứ khôn ngoan có giá trị bất biến mà ai cũng phải công nhận. Một trong những thứ khôn ngoan quan trọng đó mà dụ ngôn đề cập tới: “Mọi người sống ở trần gian sẽ qua đi, chỉ cần một việc quan trọng là chiếm hữu cho được Nước Trời”. Đây là sự khôn ngoan mà Chúa muốn truyền dạy chúng ta như một chân lý căn bản hướng dẫn một cuộc đời và chi phối tận gốc rễ mọi sinh hoạt của con người mong đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban.
Truyện: Diogène bán sự khôn ngon.
Triết gia ngoại đạo Diogène dọn một chỗ ỡ giữa thành Athènes. Ở đó, ông treo một tấm bảng có đề chữ: “Đây có bán sự khôn ngoan”. Một người kia thấy câu đó, liền sai đầy tớ đem tiền đến mua. Diogène bỏ tiền vào túi rồi trả lời:
- Hãy về thưa lại với chủ câu này: “Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích”.
Người chủ cho đó là một câu đầy giá trị. Ông truyền khắc câu đó bằng chữ vàng và treo trước cửa nhà. Như vậy, ông muốn nhắc nhở kẻ khác năng nhớ đến mục đích của con người sống trên mặt đất này, vì đó là điều quan trọng nhất.
b) Sẵn sàng đón Chúa đến.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân liên quan đến mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự tỉnh thức và sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải trong một thời gian nào thôi vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa sọan có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và nhân đức nữa Đúng như người ta nói:
“Đèn không dầu như cầu không nhịp”.
Đèn không dầu thì đốt không cháy, cũng như cầu không nhịp thì người đi bộ cũng như người đi xe có ngày sẽ bị té xuống sông. Con người khôn ngoan phải biết lo cho tương lai. Khôn ngoan của con người là phải cùng đích của mình, mà muốn tới cái cùng đích ấy thì phải chuẩn bị cách tỉnh thức và sẵn sàng vì “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
c) Phận ai người ấy lo.
Có một điều làm cho chúng ta suy nghĩ: việc 5 cô trinh nữ khôn ngoan từ chối không cho 5 cô trinh nữ khờ dại vay mượn dầu. Chi tiết này xem ra có vẻ nói về cái tính ích kỷ của 5 cô khôn ngoan, nhưng dầu sao nó cũng có ý nghĩa. Có thể đây là một chi tiết nói lên sự cô độc của con người khi chết. Mỗi người phải tự lo lấy cho mình, không ai giúp ai được. Con người sẽ một mình ra trước mặt Thiên Chúa, cùng với tất cả những gì mình có.
Đây là tư tưởng làm cho triết gia và nhà thần học Đan mạch Kierkegaard (1813-1855) ông tổ của trào lưu tư tưởng triết học hiện sinh, suy nghĩ và gợi hứng cho ông viết cuốn “Le concept d’angoisse” và suy tư một hệ thống triết học bi quan về thân phận con người.
Tuy nhiên đối với những người công giáo, chúng ta nhận định chân lý trên mà không sợ hãi lo lắng, bi quan. Trái lại, từ chân lý đó ta sẽ cố gắng để sống, định liệu lấy chính đời sống đời đời của ta bằng đời sống hiện tại vì biết rằng một mình ta sẽ ra trước toà Chúa.
Lúc đó, mỗi người sẽ lãnh nhận lấy hậu quả của mọi hành vi mình trong cuộc sống, hoặc được thưởng hoặc bị phạt. Việc thưởng phạt này do chính lương tâm của ta tự quyết định vì gieo thứ nào thì gặt thứ ấy như thánh Phaolô đã dạy:
Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.
Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. (Ngạn ngữ)
Qua tư tưởng các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể rút ra được bài học thực hành: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt. Giờ chết, giờ gặp Chúa của mỗi người chắc chắn sẽ xẩy ra, nhưng có một điều không chắc là không biết nó sẽ xẩy ra khi nào. Chúa không muốn ta biết giờ chết vì muốn để ta tập luyện tinh thần phó thác: tin vào Chúa quan phòng và tình thương của Chúa. Đồng thời chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, phải lo cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách sống tốt lành, sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa. Chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời như người ta nói: “Sống lành chết thiêng”.
6.Dụ ngôn mười cô phù dâu--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Chúa nhật 32 Mt 25,1-13
A. Hạt giống...
Dụ ngôn mười cô phù dâu: dạy về sự tỉnh thức:
- Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (chàng rễ) đến.
- Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô đến.
- Tỉnh thức là lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).
- Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.
B.... nẩy mầm.
1. 5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.
2. Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.
3. Dầu mà tôi phải luôn chuẩn bị đầy đủ cho cây đèn linh hồn tôi là những gì?
4. Trong bài Tin Mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp thế mà lại không chia xẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không? Thưa nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bời vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh tôi lắm nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san xẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh.
Bởi vậy, mỗi người tự gánh tránh nhiệm về cuộc đời mình, tu thân tích đức thì mình nhờ, chuốc lấy tội lỗi thì mình chịu.
5. Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")
6. “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả:
20% được hỏi liền trả lời: “Chúng sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích”.
Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi môt đời sống hạnh phúc và đầy đủ”.
Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó? Hay chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến gọi ta.
Lạy Chúa Giêsu, bao giờ Chúa đến gọi con, hôm nay hay ngày mai? mùa thu hay mùa xuân? Xin Chúa giúp con để con luôn tỉnh thức chờ ngày đó. (Hosanna)
7.Cẩn thận, Sẵn sàng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Khi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh cụ thể thường ngày để giúp cho người ta dễ hiểu về mầu nhiệm Nưới Trời. Nước Trời như hạt cải, Nước Trời như chuyện mở tiệc cưới. Và hôm nay Đức Giêsu nói, Nước Trời giống như chuyện mười cô trinh nữ trong đám rước dâu. Vậy chúng ta tự hỏi: Bài dụ ngôn hôm nay muốn nói gì? Và qua dụ ngôn ấy, Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta?
Đọc dụ ngôn này chúng ta thấy có điều không ổn, bởi vì chàng rể đến chậm, nên các cô phù dâu ngủ cả. Một điều khác nữa chúng ta thấy là chàng rể trong dụ ngôn đã không cư xử như những chàng rể thông thường. Đây là một chàng rể đặc biệt và một tiệc cưới cũng đặc biệt, bởi trong tiệc cưới đó, mọi người phải tuân giữ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường. Và điều khiến người ta thắc mắc và để ý hơn cả đó là đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới, chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu. Chỉ có mười cô cùng nhóm với nhau thôi mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn, cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy.
Năm cô có đèn nhưng lại hết dầu xin năm cô còn đèn thắp sáng, lại còn dầu dự trữ nữa, thế mà không san sẻ cho bạn. Không những thế, lại còn nói: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến. Lúc có dầu có đèn thì chàng rể đã đến và cửa đã đóng. Các cô gõ cửa, chú rể đích thân ra, nhưng trả lời một cách khắc nghiệt: “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, “không biết”. Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo.
Chúng ta nên nhớ đây chỉ là một dụ ngôn thôi, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu chỉ muốn dạy chúng ta một bài học là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Chàng rể đặc biệt đó chính là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phụ dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người dại người khôn. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không. Chúng ta thấy mười trinh nữ phù dâu, các cô khôn, cô dại đều ngủ cả, chứ đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau, là ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó. Nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất nên ai khôn thì sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta.
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh thức, sẵn sàng và phải có đèn. Đèn ở đây là chính tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho ngọn lửa đời sống đạo đức của chúng ta luôn cháy sáng như ngọn lửa hồng đầy sức sống. Với dầu cầu nguyện và việc lành, chúng ta sẽ giữ đèn của chúng ta luôn cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa.
Chúng ta không biết ngày hay giờ nào Thiên Chúa đến, nên phải chuẩn bị để khi Người đến chúng ta có thể vào được Nước của Người. Tất cả những gì Chúa Giêsu nói trong bài dụ ngôn này được coi như là một lời cảnh báo yêu thương Chúa dành cho chúng ta, thức tỉnh tâm hồn ta sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào. Vì thế, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là chúng ta phải luôn sống tốt lành. Amen.
8.Sẵn sàng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: "Sau sáu..." chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu "Sau sáu..."nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
9.Khôn hay dại--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúng ta đang sống vào những tuần cuối cùng của năm phụng vụ, vì thế các bài Tin Mừng của những Chúa Nhật cuối năm, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay, đều hướng chúng ta về thời gian tận cùng, về cái chết. Khi nào, lúc nào sự kiện đó xảy đến? Không ai biết trước, cho nên, phải khôn ngoan tính toán, để luôn luôn sẵn sàng. Đó là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta qua dụ ngôn mười cô trinh nữ phù dâu cầm đèn đi đón chàng rể.
Trước hết, chúng ta nên biết qua tục lệ của người Do Thái về vấn đề rước dâu. Tục lệ Do Thái thường rước dâu về ban đêm, trước khi rước dâu, hai họ đôi bên đã có những bữa tiệc linh đình khoản đãi bà con họ hàng. Rồi một ngày nào đó, đàng trai chọn một giờ tốt nhất từ sau khi hoàng hôn xuống, để đến rước cô dâu về. Khi đi rước, họ thường chọn con đường xa nhất để đi cho người ta biết mặt cô dâu, chú rể, và người ta có thể chúc mừng đôi tân hôn ngay trên đường đi. Nhóm phù rể mang đuốc soi đường, nhóm phù dâu cầm đèn soi mặt đôi tân hôn cho thêm lộng lẫy. Có khi có ban nhạc đi theo giúp vui ca hát lôi kéo sự chú ý của nhiều người. Tới nhà trai, mọi người vào dự tiệc cưới.
Trong dụ ngôn hôm nay, đặc biệt nhấn mạnh đến những cô phù dâu, đó là mười cô trinh nữ, đang cùng với cô dâu chờ nhà trai đến rước dâu về. Có năm cô khôn và năm cô dại. Chúng ta nên nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn mà thôi, chứ làm gì lại có những cô phù dâu khờ dại đến thế: quần áo chỉnh tề và trang sức lộng lẫy, mà lại quên đổ dầu vào đèn, nhất là đang lúc vui vẻ như vậy mà lại ngủ mệt làm sao được? và giả như không có dầu thì đi chung dưới ánh sáng của những cô bạn khác, chứ ai lại khờ đến nỗi lúc đó còn đi mua dầu?
Cũng thế, làm gì có chuyện nhà trai chậm trễ đến nỗi mãi nửa đêm mới tới? Và khi tới chẳng lẽ không có tiếng kèn, tiếng hát, tiếng nói chuyện để làm cho nhà gái biết đã đến hay sao mà lại phải có tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón”, rồi khi đã vào phòng tiệc, cần gì phải đóng cửa, và chú rể tỏ ra quá khắc nghiệt đối với các cô phù dâu đi mua dầu đến trễ? Xin nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn, chứ không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào như thế. Dụ ngôn dựa vào tục lệ cưới xin để diễn tả một chân lý hay để dạy một điều gì đó.
Thực vậy, ở đây Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thụôc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy một bài học là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể, nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại. Ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày tận số, ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên, đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Nói rõ hơn, Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người đều có hai kiếp phải sống và được sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết một lần, đó là điều tất nhiên, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra một lần. Sự chết đến với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày giờ chết, còn hầu hết đều không hay biết gì cả. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn sẵn sàng, và do đó cố gắng sống tốt lành, thánh thiện.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? năm cô phù dâu bị gọi là dại, vì đã không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, nghĩa là ơn cứu độ của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng, sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời, sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, mình khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời ”, chẳng hạn trong vụ hỏa hoạn thảm khốc tại trung tâm thương mại quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng mười, hơn 50 người đã thiệt mạng, những người ấy có biết hôm ấy là ngày cuối cùng của mình không? Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng định được tuổi nao mình sẽ từ biệt cõi đời, đó là quyền phép trong tay Chúa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta hãy nhớ: đời sống hiện nay, tuy là tạm bợ, nhưng sẽ quyết định đời sống mai sau của chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để đem lại cho mình hạnh phúc ở đời này và cả hạnh phúc đời sau. “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Được bao nhiêu người khôn biết tìm về quê thật để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu? Đồng thời cũng biết bao người dại đến nỗi phải sa hỏa ngục trầm luân muôn đời? Khôn hay dại là tùy mỗi người chúng ta.
10.Cách thức chờ đợi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chờ đợi là hai từ mà chúng ta vẫn nói trên môi. Chờ đợi một ai đó. Chờ đợi một chuyến đi. Chờ đợi một sự kiện. Một ngày có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi. Nếu một chiều đứng lặng và quan sát nơi đường phố, chúng ta sẽ thấy những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua, những chiếc taxi xếp hàng dài chờ đón khách, những người đi lại chờ đèn để băng đường, những người ăn xin chờ đợi một tấm lòng, …
Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta chờ đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ai đó từng nói rằng chờ đợi là hạnh phúc, nhưng cũng có người bảo rằng chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Song, không ai có thể trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi và đôi khi chúng ta cứ phải chờ, chờ rất nhiều, rất lâu đơn giản vì không thể nào làm khác được.
Có bài hát viết rằng: “Em vẫn từng đợi anh, như hoa từng đợi nắng, như gió tìm rặng phi lao, như trời cao mong mấy trắng.”. Sự chờ đợi đích thực không phải là không làm gì, là án binh bất động mà là tìm kiếm, là hành động để không bỏ lỡ cơ hội gặp lại người mình yêu.
Như vậy, chờ đợi để đón nhận một niềm vui, chờ đợi là để tiếp tục một công việc. Chờ đợi là nhịp cầu để chúng ta hoàn thành một công việc, hoàn thiện một ước mơ. Chờ đợi là một điểm nhấn cần có trong cuộc sống để chúng ta nắm bắt những cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.
Chúa Giêsu nói rằng cuộc sống chúng ta cũng có một bến đợi. Nơi bến đợi đòi hỏi chúng ta phải làm việc. Bến đợi cuộc đời đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để luôn chu toàn bổn phận. Tỉnh thức để luôn chuẩn bị đủ dầu thắp sáng giữa đêm tối đầy những cạm bãy rình chờ. Đừng như những trinh nữ khờ dại vì lười biếng mà bỏ lỡ cơ hội dự tiệc vui Nước Trời. Hãy sẵn sàng như các cô trinh nữ khôn ngoan luôn tỉnh thức để được cùng tân lang vào trong phòng tiệc.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá! "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!".
Đáng tiếc cho các cô khờ dại là có đèn, nhưng đèn lại không đủ sáng khi Chúa đến, vì Chúa đến quá bất ngờ khiến dầu đã cạn, ánh sáng đã không còn.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen.
11.Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
- Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
- Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
- Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
- Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Đó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị cho cõi đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.
Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa - yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.
- Có những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với vợ con nên tối ngày rượu chè, cờ bạc... gây khổ đau cho vợ con
- Có những người vợ biếng nhác việc nhà "đi vác tù và hàng tổng", họ tham gia rất nhiều hội đoàn nhưng lại thiếu trách nhiệm với tổ ấm của mình.
- Có những người con lười biếng chỉ biết ăn chơi, đua đòi nhưng lại thiếu trách nhiệm với chính bản thân của mình nên sa đà tội lỗi.
Họ là đại diện cho các cô phụ dâu thiếu chuẩn bị dầu nến bước vào đời sau. Vì ngày tân lang tới hay có thể nói là ngày chết của mỗi người chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta không ai biết trước được ngày ra đi. Không ai biết được cách thức ra đi. Do đó, sự khôn ngoan luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức trong mọi sự. Phải chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Phải có trách nhiệm với cuộc sống để khi ra đi chúng ta luôn mang tâm trạng bình an. Chúng ta sẽ không hối tiếc vì để lịm tắt ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen.
12.Chú rể kia rồi, ra đón đi!--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ Nước Trời.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, câu Kinh Thánh này đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI làm tăng thêm giá trị khi chọn nó làm đề tài cho thông điệp đầu tay của Ngài.
Phải, “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tất cả phải quy tụ về đó. Đó là Nguồn Gốc và là Nồng Cốt của đạo công giáo.
Chúa Giêsu nói đến tình yêu và đôi khi Ngài cũng xem mình như chàng rể trong tiệc cưới Nước Trời: “Bao lâu tân lang còn ở với họ, làm sao họ có thể ăn chay?” Trong dụ ngôn này, Ngài không nói rõ, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, chàng rể mà chúng ta đang thức đêm chờ đợi, chính là Ngài.
Trước khi tìm hiểu nội dung của dụ ngôn, chúng ta hãy tìm hiểu nhanh một vài tập tục của dân Do Thái xưa mới có thể hiểu được Chúa muốn nói gì với chúng ta trong dụ ngôn.
Thời các tổ phụ, đám cưới thường được tổ chức suốt bảy ngày. Ví dụ như đám cưới của Sam-sơn (xem Tl 14,13tt). Các bạn bè đàng gái đến chung vui có cả Sam-sơn, và trong lúc uống rượu với nhau họ bày ra trò chơi câu đố. Sam-sơn được quyền ra câu đố trước. Chàng nói: “Trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố của tôi thì…”
Làm sao có thể đãi khách suốt bảy ngày như thế? Thời nay, đám cưới của các công chúa, hoàng tử thì có thể tổ chức suốt ba ngày, nhưng các đám cưới người dân chỉ tổ chức một ngày bên đàng gái, một ngày bên đàng trai là xong, không ai có giờ đi đám cưới, nếu kéo dài.
Thời các tổ phụ, sở dĩ người ta có thể tổ chức suốt bảy ngày, vì sáu ngày trước không phải là đám cưới mà chỉ là những ngày ăn uống vui chơi với người thân và bạn bè, chưa phải là ngày chánh lễ. Những người đến dự thường là bà con bạn bè, mang theo một món quà, một con chiên, con bò hay bình rượu…, nhà đám lấy đó đãi khách. Như thế, nhà đám dù nghèo cũng có thể đãi tiệc suốt bảy ngày mà không tốn kém bao nhiêu. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu chỉ nói đến ngày chánh lễ khi chàng rể đến rước cô dâu. Khách được mời phải đợi đến khi chú rể đến mới nhập tiệc. Trong số những người đợi chàng rể có mười cô trinh nữ cầm đèn múa hát để rước chàng rể.
Thời Chúa Giêsu, vẫn còn những tục lệ đó. Người ta thường tổ chức tiệc cưới vào ban đêm vì trời mát và người ta có thể vui chơi đến sáng hôm sau. Trong những dụ ngôn khác, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải tỉnh thức như đầy tớ đợi chủ về, không biết giờ nào là như thế. Tiệc cưới tại Cana, Thánh Gioan không nói rõ là ban đêm hay ban ngày, chỉ nói đến vấn đề thiếu rượu, vì khách đông hơn dự tính và trong bảy ngày tiệc, đôi khi không mấy ai để ý đến việc tiếp tế rượu… Hơn nữa, trước khi rước chàng rể, hai họ còn phải thương lượng nhiều vấn đề, về những điều kiện cưới hỏi, của cải…Lắm lúc cuộc thương lượng kéo dài đến khuya, vì thế không thể hẹn trước giờ nào.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thánh Kinh thường dùng ngôn ngữ của tình yêu để nói đến mối liên hệ sâu xa giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa yêu dân Người như một người chồng yêu vợ mình tha thiết. Vì thế, khi dân Do thái bỏ Chúa chạy theo các thần ngoại, là phạm tội ngoại tình. (Tiên tri Hô-sê, Giê-rê-mi-a, I-sa-i-a…).
Hình ảnh tiệc cưới được Chúa Giêsu sử dụng để chỉ Nước Trời vì đó là một tiệc vui của tình yêu. Nước Trời chính là niềm vui bắt nguồn từ tình yêu, và tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự, có thể với tư cách là phù dâu mang đèn đến đón chàng rể. Nhưng có thể chúng ta là cô dâu diễm phúc chăng? Nhưng phải chờ đợi.
Cả lịch sử dân Do thái là một chờ đợi tha thiết. Chàng rể là Đấng Cứu Độ chưa đến. Chúng ta cũng đang đợi chờ chàng rể thần linh.
Chúng ta có chờ đợi không? Sự chờ đợi của chúng ta có chứa đầy yêu thương hay chỉ chán buồn theo năm tháng? Chàng rể thần linh sẽ đến nhưng không biết lúc nào…
Mười cô trinh nữ thắp đèn chờ đợi. Giáo hội cũng thắp đèn chờ đợi. Trong Giáo Hội luôn có những người khôn ngoan và những người khờ dại vô lo…Thời gian chờ đợi kéo dài vô tận…Mọi người đều thiếp đi…
Nhưng giữa đêm khuya có tiếng réo gọi: “Này chàng rể đến! Hãy ra nghênh đón”. Các cô trinh nữ khôn ngoan đã sẵn sàng, đèn các cô cháy sáng, vì họ đã biết lo liệu, còn các cô kia thì…ôi thôi, đèn đã hết dầu!
Chúng ta kiểm tra xem đèn của chúng ta có đầy dầu không? Dầu của tình yêu, của vâng phục, và của trung thành…?
Các cô khờ dại nhận thấy rằng, mình đã quá hớ hênh, và giờ đây trễ rồi. Các cô khôn ngoan không thể cho mượn dầu vì dầu chỉ đủ cho mỗi người thôi. Các cô này không phải ích kỷ, nhưng vì không ai có thể cho mượn công đức của mình cũng như không thể vay mượn tình yêu.
Khôn ngoan là làm cho cuộc sống tràn trề tình yêu. Khôn ngoan là “xây nhà trên đá”, là tuân giữ lời đã được trao ban. Khờ dại là “xây nhà trên cát” hay chỉ biết nói “Lạy Chúa, lạy Chúa mà không thi hành”.
Chàng rể đến!
Đây là thời gian quan trọng nhất. Những ai đủ điều kiện sẽ vào bàn tiệc và cửa sẽ đóng lại.
Nước Trời là khoảnh khắc lượng giá cuộc sống. Tất cả được quy tụ nơi giây phút quyết định đó. Nếu chúng ta không sẵn sàng dầu đèn, không ai sẽ chấp nhận chúng ta: “Ta không biết các ngươi”.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ kết thúc. Ngày Chúa đến không hẹn trước. Ngày đó sẽ quyết định hạnh phúc vĩnh cửu hay sự khốn khổ của mọi người.
“Thiên Chúa là Tình Yêu ”.
Tình yêu của Ngài không bao giờ sứt mẻ hay lụi tàn, dù những làn sóng hận thù hôm nay có vùi dập nó, muốn bôi xóa dấu vết của nó trong thế giới. Nhưng tình yêu đó vẫn sáng ngời trên biển hận thù gian ác.
Chúng ta là những người được gọi để thắp lên ngọn đèn tình yêu cho tiệc cưới Con Chiên. Chúng ta làm được gì bằng cuộc sống nhỏ bé của chúng ta? Chúa không đòi chúng ta làm gì cho Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Hạnh phúc này chỉ có thể có được khi tình yêu trở thành điểm hẹn cho những người dám thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây”. Chúa gọi Ab-ra-ham, ông trả lời: “Con đây!” Chúa gọi Gia-cob, ông đáp: “Lạy Chúa, con đây!” Chúa gọi Mô-sê, ông cũng thưa: “Này, con đây!”
Chúng ta cũng sẽ được gọi dù trong đêm hay ban ngày, chúng ta sẵn sàng thưa vâng.
Hôm nay, chàng rể thần linh cũng đến, Ngài sẽ đưa chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Ngài. Bàn tiệc này sẽ là khởi điểm cho bàn tiệc trong Nước Trời mà mọi người được mời tham dự. Chúng ta đừng để lỡ cơ hội. Hãy thắp đèn sẵn chờ Ngài đến, như tân nương của sách Khải Huyền: “Xin Ngài ngự đến!”. “Đấng làm chứng cho những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ đến”. Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22,17.20)
13.Đón Chúa--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Nhận diện Chú Rể ngày cưới…
Dụ ngôn vẫn được quen gọi là ‘mười trinh nữ’ nằm trong số các dụ ngôn được tác giả Mát-thêu dồn vào hai chương 24 và 25 của sách Tin Mừng khi ngài đề cập tới thời đại cánh chung, đồng thời kêu gọi giữ thái độ luôn sẵn sàng. Sẵn sàng không chỉ như một tư thế chung chung, như khi chuẩn bị làm một công việc nào đó; ở đây nó được so sánh với chờ mong để nhận diện và đón tiếp một nhân vật. Nhân vật này, trong nhiều dụ ngôn khác, được sánh với ông chủ, ông vua, hay một bậc vị vọng quyền quí đi xa về, thì trong dụ ngôn này lại mang bộ mặt một chú rể. Mười trinh nữ cầm đèn sẵn sàng nhận diện chú rể trong ngày cưới (đúng hơn đêm cưới) hẳn phải hàm chứa một nội dung nào đó hết sức quan trọng: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể”.
Như vậy chú rể chính là Con Người quang lâm trong ngày sau hết của Mt 24:37, có nghĩa là trong ngày quang lâm Con Người sẽ có khuôn mặt rạng rỡ của một chú rể ngày cưới. Khuôn mặt chú rể ngày cưới không thể mang bộ tịch của một ông hoàng thịnh nộ, không thể có điệu bộ nghiêm khắc của một quan tòa xét xử… Chú rể ngày cưới sẽ là khuôn mặt rạng rỡ yêu thương, thâm chí say đắm trong yêu đương, và Kitô hữu chúng ta phải là những người đầu tiên nhận diện được khuôn mặt đó. Ngọn đèn các trinh nữ cầm trong tay và thắp sáng lên chính là để làm công việc nhận diện này: giữa đêm tối, họ phải là những người đầu tiên nhận ra khuôn mặt say đắm yêu đương của Chú Rể, và soi cho mọi người được biết để cùng nhận ra, và tiến vào bữa tiệc cưới Nước Trời.
Trong ngày rửa tội ngọn đèn đức tin của mỗi tín hữu đã được thắp lên. Ngọn đèn này trước nhất phải soi sáng để chúng ta nhận ra dung mạo của một Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Bí tích rửa tội Tân Ước không mang nội dung chính là dục lòng thống hối ăn năn để được xóa sạch mọi tội lỗi, nhưng là để nhận biết Thiên Chúa cứu độ và từ nhân. Rửa tội không chỉ biến tôi thành một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn, trao cho tôi ngọn đèn thắp sáng để tôi tham gia vào cuộc đón rước Chú Rể. Bao lâu ngọn đèn còn cháy sáng, bấy lâu tôi còn có thể nhận diện được Người trong đêm tối. Chú Rể có thể đột ngột xuất hiện, Người có thể tới từ bất cứ đâu, vào bất cứ giờ giấc nào… “Chú rể kia rồi, ra đón đi”, thì tôi vẫn luôn luôn nhận ra Người với nét yêu thương không thể nhầm lẫn.
Thế nhưng ngọn đèn này vẫn có thể bị tắt ngúm bất cứ lúc nào vì cạn dầu. Cho dầu có là một Kitô hữu đạo đức tốt lành (như hình ảnh các trinh nữ đi đón chàng rể) tôi vẫn luôn có nguy cơ không nhận diện được Thiên Chúa tình yêu, Người Cha yêu thương khi Ngài đến. Tự nó, việc nhận ra một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, cao sang sẽ không là quá khó. Cựu Ước và rất nhiều tôn giáo khác (như Hồi Giáo chẳng hạn, với sự tôn trọng tuyệt đối dành cho Đấng Allah), thậm chí một nền triết học thuần túy, cũng có thể đạt tới trình độ này. Cho dầu việc suy tôn đó có hoàn toàn đúng, thì diện mạo Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô cất công xuống thế để loan truyền lại giống với dung mạo một chú rể hơn: Chú Rể rạng rỡ yêu đương. Kitô hữu phải là các trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể này. Thế nhưng éo le thay, ngọn đèn nào thì cũng có thể bị tắt, nhất là khi cạn dầu giữa đêm hôm; vậy thì dầu đó là gì, chúng ta tự hỏi? Tông đồ Phao-lô khảng định không có Thần Khí thì chẳng có nghĩa tử, thì chẳng ai có thể kêu lên với Thiên Chúa ‘Ab-ba, Cha ơi!’ (Rm 8:15-16). Như vậy có nghĩa là ngay cả các Kitô hữu có thể tay vẫn cầm ngọn đèn nhưng lửa thì đã tắt vì cạn dầu nên chính họ giữa đêm khuya không thể nhận ra dung mạo đúng của Chú Rể… Và rồi thì cánh cửa tiệc cưới yêu thương sẽ đóng lại, tiếng Chú Rể vọng ra “Tôi không biết các cô là ai cả!”, vì điều quan trọng hơn cả đối với các trinh nữ Kitô hữu này sẽ không là gì khác hơn nhận dạng ra, và đón tiếp Chú Rể của tiệc cưới yêu thương.
Câu chuyện dụ ngôn này đưa một Kitô hữu như tôi đi đến kết luận: sống như một trinh nữ (luân lý tốt lành, đạo hạnh) là điều tốt đẹp và cần thiết, nhưng chưa hẳn là chính yếu. Điều hệ trọng hơn cả vẫn luôn là “vừa mang đèn, vừa mang chai dầu theo” để duy trì nơi tôi khả năng nhận dạng Chú Rể và đón tiếp Người bất cứ lúc nào và nơi đâu Người đến. Hội Thánh qua các bí tích (nhất là bí tích Rửa tội, Giải Tội, Thánh Thể và Sức Dầu bệnh nhân…), không chỉ nhằn giúp tôi giữ cho mình được sống như một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn là bảo đảm tuôn đổ dầu Thánh Thần trên tôi hầu có thể nhận ra diện mạo Chú Rể tiệc cưới. Và nếu Chú Rể có bất chợt tới giữa đêm khuya tăm tối đi nữa (và đêm khuya đó rất có thể là hình ảnh tình trạng tâm hồn tội lỗi của tôi và của nhân loại), đèn tôi vẫn chưa tắt vì còn đầy dầu Thánh Thần, điều làm tôi nhận ra ngay được dung mạo nhân từ của Người, và cùng “đi theo người vào dự tiệc cưới”.
Lạy Chúa là Chú Rể tiệc cưới Nước Trời, trong mọi biến cố cuộc sống, khi Chúa bất chợt đến dưới bất cứ hình thức nào và cả giữa đêm đen tối tăm nhất, xin cho con ơn luôn cầm trong tay ngọn đèn cháy sáng với dầu Thánh Thần để con nhận ra dung mạo Đấng Cứu Độ thân thương của con. Và nếu giờ chết bất chợt đến với con dưới bất cứ hình thức nào và trong trạng thái tâm hồn nào đi nữa, con chỉ xin Chúa cho con vẫn duy trì được khả năng nhận ra khuôn mặt đầy yêu thương của Chú Rể, và được theo vào gia nhập bàn tiệc cưới Nước Trời. Amen.
14.Tỉnh thức--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ơn khôn ngoan là ơn sủng của Chúa Thánh Thần. Ngày xưa, vua Sôlômon chỉ xin Thiên Chúa cho được ơn khôn ngoan để phân biệt phải, trái và xét xử dân cho công bằng chính trực. Chúa đã ban cho vua được ơn khôn ngoan và mọi ơn cần thiết nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả: Sự khôn ngoan sáng tỏ và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng (Kn 6, 13). Người đời thường nói: Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét. Người khôn ngoan là người học biết được lý lẽ ở đời. Biết đường đi nước bước. Biết sự giới hạn của mình. Càng hiểu biết về chính mình thì càng khôn. Chưa chắc người biết nhiều sự ở đời đã là người khôn. Người khôn là biết những gì mình cần phải biết, gọi là trí tuệ. Biết hướng nhìn lên trời cao, nhìn xuống và biết quan sát vạn vật chung quanh. Người khôn nhận biết được nguồn gốc, ý nghĩa và cùng đích của vũ trụ muôn loài và con người.
Sự khôn ngoan giúp chúng ta nhận biết mọi sự đang hiện hữu trong ý nghĩa đích thực của nó. Khôn ngoan cao siêu và sâu thẳm như tình yêu. Tình yêu không có giới hạn. Sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa cao vời tuyệt đối. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài và quan phòng đặt để một trật tự lạ lùng trong vũ trụ. Một vũ trụ diễn tiến không ngừng trong không gian và thời gian. Mọi loài thụ tạo có sự sống đều có khả năng truyền sinh một cách độc đáo tuyệt vời. Khôn ngoan là một ơn và cũng là một nhân đức. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn toàn và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm (Kn 6, 15). Chúng ta cần cầu xin ơn khôn ngoan và cũng phải trau dồi học hỏi kinh nghiệm để học khôn. Ca dao Việt Nam có câu: Con ơi, hãy nhớ lời cha: Học khôn học khéo cho tầy người ta, con đừng học thói chua ngoa. Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
Trong bài phúc âm hôm nay kể câu truyện năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan chuẩn bị đi đón chàng rể: Năm cô khờ dại mang đèn, mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình (Mt 25, 3-4). Mỗi ngày, chúng ta gặp gỡ nhiều người. Có những người hiền lành, hòa ái và dễ thương. Có những người dễ tính, thiện cảm, vui vẻ và vồn vã. Có người cộc cằn, thô lỗ và khó chịu. Có người kiêu căng, tự phụ và hống hách, Cũng có những người trầm tư, ít nói và lặng lẽ. Có người sống thiên về lý trí, hiếu học và hiểu biết. Có kẻ sống tình cảm, ủy mị và hay cảm thương. Mỗi người một tính khí khác nhau. Trong câu chuyện có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Sự khờ dại đây không phải là bị chậm trí, kém thông minh mà là sự lơ đễnh, khinh thường và bất cẩn. Họ đã không biết nhìn xa trông rộng để dự liệu. Họ khờ vì họ bị thiển cận thiếu sự chuẩn bị.
Chờ đến phút cuối cùng, họ đã đi cầu cứu, nhưng giờ đã đến, các cô khác không thể giúp đỡ: Những cô khờ dại nói với những cô khôn ngoan rằng: Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của các em đã tắt cả (Mt 25, 8). Giờ chàng rể đến thật bất ngờ, khi không chuẩn bị sẵn sàng, các cô sẽ không được vào dự tiệc cưới. Các cô khờ dại đã bị lỡ một cơ hội. Cơ hội này chỉ đến có một lần. Các cô khôn ngoan cầm đèn và có cả bình dầu mang theo. Các cô khôn đã kịp thời dầu đèn ra đón chàng rể và vào dự tiệc cưới. Sự khôn ngoan ở đời chính là sự tỉnh thức đón nhận mọi sự cố có thể xảy đến: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào (Mt 25, 13). Hãy tỉnh thức như người lính canh hay như người đứng gác cửa để nhận biết những sự việc xảy ra chung quanh.
Có một câu truyện kể bởi một danh hài. Anh ta đã đạt tới đỉnh cao chuyên nghiệp. Anh ta rất giầu có và thành công trong đời. Ngay tới hôm nay, những danh hài chuyên nghiệp bắt chước ông ta. Nhưng lối sống của ông ta thường thấy mâu thuẫn với đời sống của phúc âm. Tuy nhiên khi về cuối đời, ông đã dùng nhiều thời giờ để đọc Kinh Thánh. Một vài người đã hỏi ông tại sao ông đã làm điều này và ông trả lời: Tôi đang đi tìm kiếm bất cứ lỗ hổng nào mà tôi có thể tìm. Tôi đã biết một hay hai người như thế, khi cuộc đời sắp mãn, họ để lại một món tiền lớn để xin các Thánh Lễ cho họ sau khi họ chết. Điều này sẽ rất hoài nghi, khi nhắm vào số tiền này như một loại bảo hiểm hỏa hoạn cho kiếp sống ngày sau? Chúng ta hãy nhớ rằng con đường lên thiên đàng là thiên dàng. Ngay bây giờ chúng ta có quyền tự do chọn lựa đi theo con đường này. Đừng chờ cho đến phút chót. E rằng chúng ta sẽ bị lỡ chuyến tầu.
Việc trì hoãn rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thường chờ nước tới chân rồi mới nhảy. Thường thì những phút cuối thì động lực làm việc mạnh hơn và dễ sinh hiệu qủa hơn. Trong đời sống đạo, chúng ta không cần phải chờ đến phút chót rồi mới ăn năn sám hối trở về cùng Chúa. Chẳng khác gì chúng ta đang đi tìm một lối tắt hay một lỗ hổng để bước vào thiên đàng. Nếu chúng ta muốn cuộc sống này có một cùng đích tốt, chúng ta phải chuẩn bị và sống tốt ngay từ bây giờ. Hãy vui hưởng hoa trái tốt lành và hoan lạc mà chúng ta đang có trong ngày hôm nay. Thời gian rất quí báu. Có biết bao nhiêu người đang phải phấn đấu từng giây phút để sống còn nơi các bệnh viện, bệnh xá và phòng cấp cứu. Người ta nói rằng còn nước còn tát để níu kéo sự sống.
Bất ngờ! Chẳng ai học được chữ ngờ. Luôn luôn có những sự bất ngờ xảy ra trong đời. Những sự cố xảy ra bất ngờ như sấm sét, mưa bão, động đất, sụt lở và sóng thần... Có những tai nạn xảy ra đột ngột do môi trường chung quanh. Có những cái chết bất ngờ trong chiến tranh, tai nạn và bệnh hoạn. Cái gì cũng có thể xảy ra trong mọi nơi và mọi lúc. Làm sao chúng ta có thể chuẩn bị trong tỉnh thức? Nói hay viết thì dễ, nhưng đi vào cuộc sống lại là một thách đố khó lường. Trong đời sống, ai ai cũng có những niềm hy vọng và ước muốn cho tương lai. Ai cũng có những dự tính gần hoặc xa. Chúng ta dễ dàng bị lo ra, thiếu xót và lỡ dở chần chừ trong nhiều công việc. Dù biết rằng thần chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng chúng ta vẫn ỉ y và bình chân như vại. Tự vấn, nếu hôm nay Chúa gọi về, tôi đã chuẩn bị được gì? Con chưa sẵn sàng, Chúa ơi! Người khôn ngoan là người biết dự phòng, lo liệu và luôn sẵn sàng tỉnh thức trong mọi trạng huống cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta bước đi trong niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô đã chết và sống lại, đó là chìa khóa và là bảo chứng ý nghĩa của cuộc đời. Vững tin vào Chúa Kitô là một mối lợi. Chúng ta dõi bước theo lối bước của Chúa sống đức tin mỗi ngày trong khi mong chờ Chúa lại đến. Thánh Phaolô khuyến khích rằng: Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đến đem họ làm một với Người (1Thess 4, 14). Vinh phúc bất diệt là sự liên kết với Đấng Trung Gian vạn vật. Ơn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra đối tượng tuyệt hảo và phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không còn phải sợ hãi, lo âu hay quanh quẩn không cùng đích. Chúa Giêsu đi trước để chuẩn bị chỗ cho chúng ta. Tiệc cưới đã sẵn sàng. Chúng ta hãy cầm đèn cháy sáng trong tay để chung vui tiệc cưới Nước Trời.
Lạy Chúa, mỗi giây phút sống đều là hồng ân. Xin cho chúng con biết quý trọng từng phút giây trong cuộc đời. Cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan để chúng con biết nhận ra ý nghĩa đích thực của sự sống đời này và đời sau để được sống theo thánh ý Chúa.
15.Sẵn sàng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả' (Mt 25,8).
Khởi đầu sự sống, mỗi một loài thụ tạo chấp nhận một định mệnh riêng biệt và độc lập. Chúng ta không có quyền chọn lựa cho sự khởi đầu hiện hữu. Được sinh ra ở đời là một hồng ân cao cả. Bước vào cuộc sống đa dạng, chúng ta cùng đồng hành với tha nhân trên cùng một khoảng đường, theo một lý tưởng và bị giới hạn trong một thời gian và không gian. Số mệnh từng người gắn liền với cuộc sống ngay từ giây phút đầu tiên khi được thụ thai trong cung lòng mẹ. Trong sự hiện hữu đó đã có tiềm ẩn chất chứa mọi khả năng và vốn liếng để sinh hoa kết trái. Mới đây tôi được nhìn xem chùm ảnh của nhiếp ảnh gia Thụy Điển Lennart Nilsson, ông đã dành 12 năm để tìm chụp những bức ảnh về việc thụ thai và phát triển thai nhi trong tử cung người mẹ. Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng cuộc sống của tôi đã trải qua những chu kỳ phát triển nhiệm mầu như thế. Không ai có thể giải thích tiến trình hình thành con người được.
Tin tưởng mọi sự đều nằm trong sự quan phòng của Tạo Hóa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao lại có người giầu, kẻ nghèo và người dại, người khôn? Khôn dại do bẩm sinh hay do thái độ chọn lựa? Suy gẫm bài Phúc âm về sự chuẩn bị của 10 cô trinh nữ, có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Mỗi cô phù dâu đều có dầu đèn mang theo bên mình để soi lối cho chính mình. Các cô không thể dựa dẫm vào người khác để vay mượn và mỗi người có trách nhiệm giữ đèn cho sáng để canh thức đợi chờ. Nói đến đèn cháy sáng là nói đến biểu tượng của đức tin. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, linh mục trao đèn sáng cho cha mẹ đỡ đầu và đọc lời nguyện: Ông bà anh chị, là những bậc cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho em nhỏ đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin, nhờ đó, khi Chúa đến, em được ra đón người với toàn thể các Thánh trên trời.
Mỗi người chúng ta đã được nhận lãnh ánh sáng đức tin. Đức tin cần được trau dồi, hun đúc và chăm nom bảo vệ như cô phù dâu lo lắng cho đèn dầu đầy đủ. Có đèn mà không dầu thì đèn trở thành vô ích. Cuộc sống đạo mà không có đức tin soi đường dẫn lối, thì chúng ta sẽ đi trong tối tăm và lạc hướng. Chúa ban cho mỗi người một khả năng để tự lo liệu. Chúng ta không thể dựa vào kết qủa lòng đạo của người khác khi ra trình diện trước mặt Chúa, như các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả' (Mt 25,8). Không được. Đức tin không thể cho vay mượn được. Mỗi người phải sống và thực hành đức tin của mình. Đèn cần dầu, cuộc sống Kitô hữu cần có đức tin. Đức tin là nhân đức đối thần và là ân sủng Chúa ban. Các môn đệ của Chúa Giêsu vẫn cầu xin Chúa ban thêm đức tin: Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con."(Lc 17,5). Trước những việc lạ lùng của Chúa, các môn đồ nhận biết sự yếu kém đức tin của mình. Các ngài không thể hiểu và khó có thể lãnh hội những điều Chúa truyền dạy. Chúa Giêsu phán: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em (Lc 17,6).
Tự vấn xem chúng ta thuộc vào nhóm các cô phù dâu khôn hay dại. Ai trong chúng ta cũng có đèn nhưng dầu dự trữ có được bao nhiêu. Xét mình trước mặt Chúa, chúng ta đã làm thế nào để chăm sóc, vun tưới và trau dồi cho đức tin của chúng ta? Chúng ta thường nhận lãnh các Bí Tích Hòa Giải và lãnh nhận lương thực bởi trời qua Bí Tích Thánh Thể, nhưng mấy khi chúng ta rà soát lại đèn dầu còn hay đã cạn. Theo Chúa là bước đi trong niềm tin phó thác. Chúng ta đừng tưởng lầm rằng mình đã gặp gỡ Thiên Chúa một cách hữu hình cụ thể nơi một vài sự kiện lạ hay hình thức lạ là đủ cho đời sống đạo. Sống đạo là hành trình của đức tin. Đôi khi chúng ta còn phải lần mò trong đêm tối. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những kẻ có niềm tin: Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! (Ga 20,29).
Tại sao trong mỗi thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta phải tuyên xưng đức tin qua Kinh Tin Kính? Hoặc sau mỗi lần linh mục đọc lời truyền phép trên bánh và rượu đã xướng lên: Đây là mầu nhiệm đức tin. Đức tin là đèn soi và là chỗ tựa vững chắc. Đã nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ khi thuyền gặp cơn bão: Đức Giêsu nói: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!". Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ (Mt 8,26). Các môn đệ lo lắng đủ điều trong cuộc sống mà quên sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã dậy: Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!(Lc 12,28).
Đức tin sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua những khó khăn và gian truân của cuộc sống. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta đang sống giữa một xã hội đang chuyển mình đổi thay. Sự thay đổi quan niệm sống về mọi khía cạnh đạo lý, luân lý, triết lý và luân thường đạo lý. Văn hóa sự chết len lỏi vào mọi lãnh vực của đời sống. Ngay trong đời sống đạo cũng có những dành dật, lôi kéo, mơ hồ và đôi khi mê tín dị đoan chen lẫn. Không thiếu những mục tử giả dạng và dùng tài khéo để kéo lôi được nhiều người tin theo. Đối diện với trăm ngàn mối, chúng ta phải hết sức cẩn thận chọn lựa hướng đi cho mình. Nếu chúng ta sống trong sự thật và sống như con cái sự sáng giữa ban ngày, không ai có thể làm hại hay phê bình bắt bẻ chúng ta. Mọi cách thế áp dụng thực hành sống đạo cần minh bạch và rõ ràng. Chúng ta không cần biện minh tranh cãi mà cần sự tỉnh thức. Mỗi người có một cuộc sống và một đường để đi tới. Hãy giữ vững đức tin và chuẩn bị sẵn sàng: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào. (Mt 25,13). Chúng ta không biết ngày giờ Chúa gọi, cách tốt nhất là đèn dầu sẵn sàng để khi Chúa đến, chúng ta cùng ra đón Ngài với đèn cháy sáng trong tay.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Các bị bô lão hay những trẻ em đều có một ngày mới giống nhau. Ai cũng phải đối diện với cái đang và sẽ xảy đến. Chúng ta không thể nói rằng năm nay tôi đã 70 hay 80 tuổi, tôi không còn phải lo lắng hay chuẩn bị gì nữa. Dù là tuổi nào, chúng ta vẫn đang trên đường lữ hành. Có người yên trí hơn vì nghĩ rằng họ đã có bảo hiểm nhân thọ và các thứ bảo hiểm khác cho cuộc sống. Chúng ta biết dù có bảo hiểm gì đi nữa, mỗi tối trước khi đi ngủ, ai cũng phải xem xét cửa rả then cài, chốt khóa và điện ga bếp núc on/off cẩn thận. Công việc rất đơn giản nhưng là một sự chuẩn bị rất cần thiết trong cuộc sống đời thường. Có nghĩa là dù tuổi nào chúng ta cũng phải ở tư thế sẵn sàng.
Chỉ có một con đường dẫn tới quê thật mà Chúa Giêsu đã mở: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14,6). Đi theo Chúa là đi vào con đường của sự thật. Chúa Giêsu đã nói với những người Do-thái và cả với chúng ta ngày nay: "Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8, 31-32). Điều mà mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức là chúng ta đang ở đâu? Sống thế nào? Đặt niềm tin, niềm cậy và phó thác vào ai? Ai là Đấng mà chúng ta đang tôn thờ? Khốn khổ nhất là khi chúng ta mãn phần dưới thế và bước vào cuộc sống mai hậu, chúng ta đến trước tòa Chúa trình diện và xin Chúa mở cửa cho: Nhưng Người đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi' (Mt 25,12). Vậy là bao công lao dã tràng và còn gì để nói. Chúng ta đã lỡ chuyến tầu.
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc của sự dối trá. Người ta nói: Cây ngay không sợ chết đứng. Chúng ta cũng hiểu: Sự thật thì mất lòng nhưng rồi nói phải củ cải cũng phải nghe. Chúng ta cẩn thận đừng chọn thần tượng nào trong cuộc sống đời này. Ai trong chúng ta cũng chỉ là con người yếu đuối, tội lỗi và phàm tục. Chúng ta không thể vay mượn hay dựa vào uy tín của ai khác để kể công trước mặt Chúa. Khi đến giờ đã định, mỗi người chúng ta phải tự đứng trên chân của mình và chịu trách nhiệm về đời mình. Chỉ có một Đấng có thể cứu độ linh hồn chúng ta, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta đến nguồn sống tuyệt hảo là Chân Thiện Mỹ.
Lạy Chúa, xin thêm dầu đức tin để đèn của chúng con được luôn cháy sáng và giúp chúng con tiếp tục bước theo Chúa cho đến cùng. Xin Chúa đưa tay dẫn dắt chúng con về bến bình an.
16.Niềm hy vọng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sáng hôm nay, tôi đi thăm một cụ bà tuổi đã ngoài 90 tuổi, tên bà là Margaret Grossenbacher. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, bà thường xin xưng tội. Xong xuôi mọi nghi thức, cụ bà mời tôi ngồi và kể lể vài tâm sự. Bà sống một cuộc đời khá dài nhưng cũng hơi đơn côi. Bà không lập gia đình, nên không có chồng con chi cả. Ông bà nội ngoại chết trước khi bà sinh ra. Cha mẹ theo đạo Tin Lành và đã chết. Người thân còn lại là gia đình của người chị. Họ chỉ có một đứa con nuôi và vài đứa cháu. Bà trở lại đạo Công Giáo khi còn trẻ và cả đời làm cô giáo dạy học. Tuy 91 tuổi, bà còn rất tỉnh táo. Tính đếm tiền bạc để dâng cúng đều đặn cho nhà thờ và việc bác ái. Bà không sợ chết và luôn phấn chấn hy vọng vào sự sống ngày sau. Sáng nay bà nói: Đêm qua bà nằm mơ là sau khi chết, chẳng có gì ở thế giới bên kia. Bà hỏi tôi: Không biết giấc mơ có thật hay không? Tôi chỉ biết trả lời: Hãy tin vào Chúa Kitô phục sinh là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc.
Niềm hy vọng vào sự sống đời sau là niềm hy vọng tuyệt đối. Đánh đổi bằng nhiều hy sinh của cuộc đời trên trần thế để mong đạt vinh quang sự sống lại. Trong sách Macabêô quyển thứ hai kể câu truyện bảy anh em bị bắt cùng với mẹ mình. Vua ép họ ăn thịt heo, lỗi phạm lề luật Thiên Chúa đã cấm. Từ anh lớn đến người em nhỏ đều khẳng khái trung kiên một lòng thà chết không hề lỗi luật. Động lực lớn nhất trong tâm trí là tin tưởng vào phần thưởng sự sống đời đời: Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mac 7, 9). Niềm tin tưởng tuyệt đối đánh đổi bằng cả mạng sống mình.
Chúng ta biết rằng người đời có thể dùng sức mạnh để hủy diệt mạng sống của nhau. Tổ chức xã hội con người có thể cầm tù, đánh đòn, làm khổ thân xác và khủng bố tinh thần nhưng họ không thể tước đoạt ý chí và sự tự do lương tâm của con người. Không ai có thể phủ nhận niềm tin trong tâm hồn người khác. Sức mạnh của niềm tin vững vàng nơi bảy anh em đã vượt trên sự đau khổ và sự chết: Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu” (2Mac 7, 14). Cả bảy anh em can đảm đối diện với cái chết. Chết để được sống. Vui hưởng sự sống đời đời.
Câu truyện cưới vợ gả chồng của bảy người anh em trong bài phúc âm bàn về sự sống lại ngày sau. Các thầy Sa-đốc dựa vào lý luận của cuộc sống vợ chồng đời này để kết luận sự việc đời sau. Các thầy từ chối tin vào sự sống lại ngày sau. Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Không có một ai đang sống trên đời có kinh nghiệm hay sự hiểu biết gì về đời sau. Đây là vấn đề của niềm tin. Thiên Chúa đã từng bước mạc khải cho con người về mầu nhiệm sự sống và sự chết qua Chúa Giêsu Kitô. Đời sống con người có mục đích và có cùng đích. Sinh ra là khởi đầu. Sống là cuộc lữ hành. Chết là điểm đến.
Mỗi người có một cuộc đời dương thế. Khi đã kết thúc cuộc đời dương thế là bước sang một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về điểm đến: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20, 36). Những người đã chết, thân xác bị hủy diệt và linh hồn tiếp tục hiện hữu. Chúa Giêsu khai mở một chân lý vĩnh cửu là linh hồn hiện hữu ngang hàng với các thiên thần. Thiên thần hiện hữu nhưng vô hình. Đây là thế giới của những kẻ đã mãn cuộc đời dương thế. Thiên Chúa không sáng tạo vũ trụ con người để bị hủy diệt trở về hư không. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Chúa Giêsu xác tín về sự sống lại ngày sau: Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (Lc 20, 38).
Người tôi tớ Chúa, Đức cố Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn văn Thuận, là tấm gương sáng ngời cho những ai bị lung lạc niềm tin và sự hy vọng. Trong thời gian bị cải tạo tù đầy, niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh đã chiếm trọn trái tim của ngài. Dù trong tù, mỗi ngày ngài dâng thánh lễ tạ ơn. Ngài nêu gương hiền hòa và khiêm nhường. Không ai là kẻ thù trong tim ngài. Ngài dạy cho các anh cai tù học biết ngọai ngữ Anh và Pháp, dạy hát thánh ca bằng tiếng Latinh. Chính các cán bộ nhân viên cai tù hát kinh ‘Veni Creator’ của đạo Công Giáo. Người bị tù đã cải tạo những người cai tù bằng đức tin và niềm hy vọng. Nơi nhà giam, Đức Cố Hồng Y đã sống trong hy vọng và đã viết cuốn ‘Con Đường Hy Vọng’. Hy vọng là lối bước vào tương lai. Niềm hy vọng sẽ làm cho đời sống vui tươi, phấn khởi và an bình.
Khi tôi đang viết bài suy niệm này, có phôn reo. Người thơ ký báo là có hai người muốn gặp việc khẩn cấp. Tôi xuống văn phòng gặp một người đàn bà lớn tuổi và một ông trẻ hơn. Cả hai chị em đều là người công giáo. Bà bắt đầu khóc lóc và kể lể mọi khó khăn đang gặp phải. Bà đang đối diện với quá nhiều khổ đau chồng chất. Một người em và mẹ mới qua đời tuần qua. Người con gái mới bỏ nhà ra đi sống với bạn gái (Lesbian). Một đời chắt chiu tiền bạc của cải, giờ đây tất cả dũ cánh ra đi. Bà còn phải mang căn bệnh hiểm nghèo, lục phủ ngũ tạng đều nhiễm bệnh. Bà sợ phải mổ xẻ và sợ chết. Ngồi bên cạnh bà là người em 51 tuổi mới vừa trở về sau 31 năm ở trại tù giam. Bà nói rằng chú em mãn ở trong khám tù, nay lại vào khám lo. Bà đang mất niềm hy vọng. Không biết bám víu vào đâu. Sầu khổ, khóc lóc và sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Bà đang tự đóng khung cuộc đời. Của cải niềm vui trần đời không thể cứu vãn. Một lời khuyên, chỉ có một lối thoát duy nhất là đặt niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh.
Thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô nói đến niềm vui và niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Mọi thú vui của thế gian rồi cũng sẽ trôi qua, chỉ có ân sủng của Chúa là niềm an ủi bất diệt: Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp (2Thes 2, 16). Chúa Kitô đã phục sinh từ cõi chết, Ngài là trưởng tử của những kẻ yên giấc. Ngài đã sống lại và đã hiện ra nhiều lần với nhiều người. Người vẫn đang sống. Đây là niềm hy vọng tuyệt đối cho tâm hồn. Chúng ta tin tưởng vào Chúa Kitô. Chúng ta có Lời để sống, có đường để dõi theo, có cùng đích để hướng tới và có nhà để về. Chúa Giêsu phán rằng nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Chúa sẽ trở lại đón chúng ta về.
Muốn hưởng sự sống đời đời, chúng ta phải dõi bước theo Chúa Kitô và cùng chịu đựng với Ngài. Con đường duy nhất dẫn tới sự sống đời đời là con đường thập giá của Đức Kitô: Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô (2Thess 3, 5). Theo Chúa, vào qua cửa hẹp đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ và chịu thiệt thòi vì danh Chúa. Với tha nhân, thực hành bác ái yêu thương. Cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp ngày nay để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Mỗi ngày nối kết bậc thang đi lên bằng những việc tốt và việc thiện nho nhỏ. Con đường lên thiên đàng là thiên đàng rồi.
Lạy Chúa, Chúa là sự sống lại và là sự sống. Chúa là Alpha và Ômega, là đầu và là cùng đích. Chúng con đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Xin Chúa đón nhận chúng con vào Nước Chúa. Chúng con sẽ được ngang hàng với các thiên thần. Hạnh phúc ngàn đời bên Chúa.
17.Khôn ngoan và khờ dại--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời.
Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đám cưới để nói về Cánh Chung. Đây là dịp của niềm vui chứ không phải là nổi buồn, hạnh phúc chứ không đau khổ.
Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói đến lễ cưới và các trinh nữ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan với thái độ sẵn sàng và năm cô trinh nữ khờ dại với việc chểnh mảng ngu ngơ là những biểu tượng của những cách sống của con người (GLCG # 1950). Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào thích hợp đối với cuộc sống trần gian? (Lumen Gentium, 48, 50, 68; GLCG # 972).
Khôn ngoan hay khờ dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng và chuẩn bị hay không.
1. Khôn và dại theo Thánh kinh
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích.
Tự nhiên: khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập" (1V 5, 9-14).
Siêu nhiên: khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết" (Dn 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: "Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan" (Cv 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: "Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan" (Hc 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1, 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc 11,31).
Người khôn ngoan là người nghe và sống lời Chúa. Người dại khờ là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành. Chúa Giêsu dạy: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát." (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Chúa Giêsu còn khẳng định: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa" là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời." (Mt 7, 21)
2. Thái độ khôn ngoan.
Khôn ngoan là một ân ban Thiên Chúa trao tặng cho con người để họ biết cách sống theo đường lối của Ngài. Người khôn ngoan là biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao (GLCG # 2500).
Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang theo bình dầu, họ có chuẩn bị cho trường hợp chàng rể đến muộn. Họ luôn sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh Chúa Giêsu đến trần gian. Người đến nhiều lần với chúng ta trong cuộc đời và đến trong ngày sau hết của từng người. (x. 2 Tim 4,6; 2Pr 1,14).
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm. Bài đọc I mời gọi chúng ta hãy khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu. (Kn 6, 12-16).
Cuộc đời kitô hữu khác nào như một cuộc nghinh đón chàng rể và chàng rể đây chính là Đức Kitô, vị thẩm phán. Tin Mừng nói chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là đến vào lúc người ta không ngờ. Rồi khi chàng rể đến, chàng sẽ “đóng cửa lại”. Ý nghĩa thiêng liêng của câu nói là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị, như năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Ngày xưa, dân Chúa chuẩn bị vượt qua Biển Đỏ cũng có thái độ như thế. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Văn sĩ E. Hemingway có viết một quyển tiểu thuyết, nhan đề “ngư ông và biển cả”, kể lại cuộc vật lộn uổng công của lão ngư phủ người Cuba tên là Xăngtiagô với biển khơi. Ông câu được một con cá kình, nhưng vì cá quá to, ông đành phải cột cá bên mạn thuyền để kéo vào bờ. Buồn thay, trên đường về, lũ cá mập đã đánh ra hơi và xúm vào rỉa thịt. Khi về tới bến, con cá to chỉ còn là bộ xương mà thôi.
3. Không thể nào trình diện Chúa với hai bàn tay trắng.
Thái độ khờ khạo.
Lễ cưới theo nghi thức Tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều hướng mắt về cô dâu lộng lẫy trong trang phục lễ cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên cung thánh đón tiếp cô dâu.
Trong nghi thức đám cưới Do thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về quà cáp, của hồi môn…vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Các cô dại không hề chuẩn bị gì cho trường hợp đó. Theo tập tục cưới hỏi của người Do Thái, chú rể sẽ đến nhà cha cô dâu để đón cô về nhà mình. Những cô trinh nữ phù dâu có nhiệm vụ cầm đèn cùng với cô dâu đón chú rể, làm thành một đám rước cô dâu về nhà chú rể, và ở đó, một tiệc cưới linh đình sẽ được tổ chức. Một khi đã nhận nhiệm vụ, các cô trinh nữ đó có nhiệm vụ phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó của mình.
Năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến họ hết dầu. Các cô trinh nữ khờ dại, vì sự thiếu chuẩn bị đúng đắn của mình, đã bị loại khỏi niềm vui của tiệc cưới và không thể làm gì để thay đổi thực tế bi đát đó được nữa.
Giống như các cô trinh nữ khôn ngoan, các cô trinh nữ khờ dại cũng được mời gọi đi đón chàng rể rồi vào dự tiệc cưới. Các cô biết chàng rể chắc chắn sẽ đến. Các cô cũng tha thiết mong chờ chàng rể đến. Điều các cô thiếu là một sự chuẩn bị sãn sàng và đầy đủ những thực tại cần thiết để có thể thực hiện được lời mời gọi và nhiệm vụ dàng cho các cô và nhờ đó được thỏa lòng mong ước của mình. Các cô mang đèn nhưng không mang dầu theo. Sai lầm của các cô không phải ở chỗ các cô không hướng lòng về biến cố chàng rể đến, mà là ở chỗ các cô đã không có sự chuẩn bị phù hợp cho biến cố đó. Được mời gọi làm thành viên của đoàn đón chàng rể thôi, chưa đủ. Biết rằng chàng rể sẽ đến vào một lúc nào đó thôi, chưa đủ. Còn phải có sự chuẩn bị thích hợp nữa.
Hãy luôn chuẩn bị sẵn sàng.
Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng!
Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có khi cũng phôi pha. Cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
18.Suy niệm của Lm. John Trần Khả
Một trong những cái quan trọng khi chúng ta lái xe là phải có bánh xe xơ-cua để dự phòng cho những lúc không may bị nổ lốp hoặc xì hơi giữa đường. Đây là một sự khôn ngoan thông thường mà mọi người lái xe đều phải biết. Tuy nhiên đôi khi cũng xẩy ra cho một số người sau khi xe của họ bị bể bánh giữa đường và lúc đó mới khám phá ra là họ không có bánh xe xơ-cua hay bánh xe xơ-cua của họ đã bị xì hơi. Điều này càng làm cho họ bối rối, lo lắng và khó chịu khi nó lại xảy ra ban đêm giữa xa lộ hay ở những quãng đường hẻo lánh tối tăm và vắng vẻ. Nếu không may xảy ra chuyện như thế, thường thì chúng ta phải đi bộ một quãng thật xa để tìm người giúp đỡ. Hậu quả là sẽ bị trễ hẹn hay không đến được địa điểm đúng giờ dự định. Sau khi tìm được người giúp thì thường họ sẽ hỏi, "Tại sao không chịu kiểm soát trước khi lái xe xem bánh xe xơ-cua có ở đó, hay có còn tốt hay không?" Ai cũng biết đây là điều cần thiết mỗi khi lái xe, nhưng nhiều khi chúng ta coi thường không để ý.
Cảnh tỉnh
Đây cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ của bài Tin Mừng hôm nay. Những điểm chúng ta cần quan tâm chú ý:
- Tỉnh thức đợi chờ
- Chàng rể đến bất ngờ
- Phải có dầu đèn
Chúng ta luôn cần phải có thái độ tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa Kitô vào bất cứ ngày giờ nào. Những cô trinh nữ khôn ngoan đã biết lo liệu chuẩn bị cầm đèn và mang theo dầu do đó họ đã không trở nên nạn nhân của tình trạng bất ngờ. Những cô khác đã không biết lo liệu phòng xa; họ đã có thái độ ỷ y, dửng dưng coi thường, nghĩ rằng chàng rể còn lâu mới đến, nhưng giữa lúc đêm khuya, lúc mọi người tắt đèn đi ngủ thì không ngờ chàng rể đến. Chúa Giêsu nói rằng việc Ngài đến lần thứ hai cũng bất ngờ giống như thế. Ngài cảnh tỉnh chúng ta, “Hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, hay giờ nào!" Các Kitô hữu đầu tiên cũng đã hy vọng Chúa đến vào thời điểm của họ; nhưng cho đến nay sau 20 thế kỷ, Ngài vẫn chưa đến. Con người chúng ta dễ cảm thấy tình trạng "thức lâu chầu mỏi." Chờ lâu quá không thấy Chúa đến, nhiều người đã coi thường, hay không tin là Ngài sẽ đến lần thứ hai. Họ bắt đầu ngủ thiếp đi trong những sinh hoạt của cuộc sống trần thế. Và Chúa Giêsu kết luận họ là những người khờ dại. Khờ dại chỉ vì không biết tỉnh thức và không biết lo liệu chuẩn bị sẵn sàng.
Khôn ngoan hay khờ dại?
Khi nói đến tinh thần và việc chuẩn bị đón Chúa Kitô đến lần thứ hai thì chúng ta một là người khôn ngoan, hai là kẻ khờ dại, một là sẵn sàng hai là không chứ sẽ không có sự dung hòa ở trung lập không khôn mà cũng không khờ. Theo như câu truyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng thì có một nửa số người khôn ngoan, và một nửa số người khờ dại. Một nửa sẽ được vào Thiên Đàng để dự tiệc cưới với Chúa Kitô và một nửa sẽ không được vào. Một nửa sẽ được hưởng hạnh phúc và một nửa thì không. Chúng ta sẽ thuộc vào một trong hai nhóm này. Như vậy chúng ta thuộc vào loại nào? "Tôi, Ông, Bà, Anh, Chị, Em, chúng ta là người khôn ngoan hay người khờ dại? Là người thuộc thành phần được vào hay không được vào phòng tiệc với Chúa Kitô?"
Sự khờ dại đây không phải là vì trí khôn ngu dốt không biết, hay là bởi không có học thức, không có bằng này hay cấp nọ, hoặc vì sự quên sót không mang dầu đốt đèn. Sự khôn ngoan đây cũng không phải là vì trí khôn thông minh sáng suốt, học cao hiểu rộng, bằng này cấp kia. Điều chính yếu là có sống trong tinh thần tỉnh thức và tin tưởng đợi chờ hay không? Đèn của chúng ta có dầu hay không có dầu?
Gần đây có những người phao đồn tin sẽ có hiện tượng tối ba ngày ba đêm và rồi sẽ tận thế. Không biết nghe mặc khải nào hay lời khuyên của ai, nhiều người ở một số nơi đã lo đi mua mấy thùng nến và nhiều thùng chứa nước để nhờ các cha làm phép đem về phòng trữ ở trong nhà. Làm như thế không phải là sự khôn ngoan phòng xa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Nến phép và nước phép đó không phải là dầu đèn của Kitô hữu chúng ta. Nếu ngày Chúa đến mà chỉ thấy chúng ta có nến phép và nước phép, thì nến phép và nước phép đó cũng không có sức mạnh để đưa chúng ta vào Thiên đàng với Thiên Chúa. Năm cô trinh nữ được gọi là khôn ngoan vì họ mang đèn và có mang theo dầu. Còn những cô khờ dại có mang đèn những không mang dầu theo.
Khủng hoảng hết dầu
Thế giới nếu không biết tự chế trong việc tiêu thụ năng lượng thì cũng có ngày bị khủng hoảng thiếu thốn dầu xăng. Trong đời sống tinh thần nếu chúng ta không cẩn thận và khôn ngoan thì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng hết dầu thiêng liêng. Có dầu thiêng liêng hay hết dầu thiêng liêng chính là lý do phân cách giữa người khôn ngoan và người khờ dại. Người được vào phòng tiệc và người phải đứng ở ngoài. Các Kitô hữu chúng ta là đèn soi thế gian. Đèn đó chỉ được cháy sáng khi có dầu. Đức tin nơi Chúa Kitô chính là dầu làm cho đèn Kitô hữu được cháy sáng. Đức tin ấy chính là lý do quyết định được vào hay ở ngoài. Giữ tình liên hệ mật thiết với Chúa Kitô qua việc sống đức tin, việc học hỏi Kinh Thánh, tham dự và cử hành các bí tích, làm những việc đạo đức; những lời kinh nguyện sớm hôm; những việc hy sinh bác ái và tình yêu đối với tha nhân, nhất là những người nghèo khổ chính là những giếng dầu tiếp tế cho đèn chúng ta được tiếp tục cháy sáng để đón và đi theo Chúa Kitô vào trong nước hằng sống.
Đối với chúng ta, đây là một bài học rất rõ ràng. Chúng ta không phải là đang đối diện với một dịp dự tiệc cưới đặc biệt ở trần gian. Chúng ta cũng không phải là đang đối diện với tình trạng có bánh xe xơ-cua hay là không. Nhưng là sự cứu rỗi đời đời của linh hồn chúng ta. Khi bị bể bánh xe giữa đường mà không có bánh xe xơ-cua, chúng ta cảm thấy bức rứt khó chịu với chính mình. Chúng ta có thể bị trễ hẹn hay trễ công việc và làm cho một số người khác phải chờ đợi. Chúng ta trách mình tại sao lại lơ đễnh thiếu cẩn thận như thế. Tuy nhiên những phiền toái đó chỉ là những phiền toái tạm thời ở đời này. Nhưng khi đối diện với sự sống đời đời; đối diện với việc Chúa Kitô bất ngờ đến lần thứ hai, nếu chúng ta cũng vô tâm không sẵn sàng cho đèn có dầu để đốt cháy sáng thì sự phiền toái đó sẽ là sự phiền toái đời đời. Giống như năm cô trinh nữ khờ dại, chúng ta sẽ phải đứng ở ngoài và nghe tiếng nói nghiêm khắc từ bên trong vọng ra, "Ta không biết các ngươi là ai!"
Trên thực tế, thật buồn và đáng lo ngại. Nhiều khi chúng ta đã dại khờ lo lắng quan tâm cho thân xác mình và cho những nhu cầu đời này hơn là lo lắng quan tâm đến Nước Trời, đến nhu cầu của người khác và đến sự sống phần linh hồn của chính mình. Nhiều khi mối bận tâm của chúng ta không phải là lo khai thác các giếng dầu thiêng liêng, nhưng mà là lo khai thác mỏ tiền mỏ bạc trần thế; lo xây dựng sự nghiệp đời này, và chểnh mảng lơ là không hết tâm chu đáo chuẩn bị cho ngày đón chúa Kitô đến lần thứ hai. Nhiều khi việc làm, việc đi chơi, đi chợ, đi shoping, hay ngủ nghỉ, thể dục thể thao, kiêng cữ, vẽ mặt vẽ mày, sửa ngực sửa mũi làm đẹp thân xác được chúng ta coi là cần thiết và ưu tiên hơn là việc cầu nguyện, đọc kinh dâng lễ tu thân, tập luyện nhân đức, và làm việc lành. Cứ nhìn vào tất cả các sinh hoạt hàng ngày của chúng ta và kiểm điểm tâm tư cũng như cách hành xử của chúng ta thì chúng ta sẽ biết mình là người khôn ngoan hay khờ dại. Chúng ta là người có dầu sẵn trong đèn hay là người khủng hoảng thiếu dầu đức tin.
217 người trên chuyến bay của hãng EgypAir 990 khởi hành từ New York ngày 31 tháng 11 năm 1999 vừa qua đâu có ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời họ. Việc đó có thể xẩy ra cho bất cứ ai trong chúng ta. Và khi đó thì chúng ta sẵn sàng hay không sẵn sàng? Đèn chúng ta còn dầu để cháy sáng hay không? Nếu đèn có dầu thì chúng ta là những người khôn ngoan, nhưng nếu đèn hết dầu thì sẽ bị xếp vào loại những cô trinh nữ khờ dại. Chúa Giêsu dạy chúng ta dụ ngôn này là Ngài muốn tất cả chúng ta là những người khôn ngoan.
Một câu truyện
Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy và nói, "Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt. Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!"
Ít năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, "Trẫm sửa soạn lên đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giã."
Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, "Tâu bệ hạ, thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan trọng này chưa?"
Nhà vua trả lời, "Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị gì cả."
Quan hầu cận liền nói, "Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này, bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!"
(Paul J. Wharton, Stories and Parables for Preachers and Teachers. “Preparing for Death" p. 67).
19.Mười người trinh nữ--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng.
Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.
Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: "Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa". Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chúa có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: "Lạy Chúa, này con xin đến". Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa?
Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:
- Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
- Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.
20.Sống ngày cuối đời--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
Thưa anh chị em, những con số trên đây có lẽ không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xuyên qua kết quả của cuộc thăm dò này, chúng ta cũng có thể đọc được một tâm trạng chung của con người khi đứng trước cái chết; đó là nỗi sợ cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt cho chúng ta trong giờ phút này, chúng ta sẽ làm gì?
Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết:
Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?”. Một số em bé trả lời: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện”. Một số em khác cho biết: “Con sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành…”. Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con có chết, thì giờ này con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Đó là câu trả lời của thánh trẻ Luy Gonzaga. Và câu trả lời đó đã làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận trong lúc này, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày: giờ nào việc nấy.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Vì thế, thưa anh chị em, qua câu chuyện dụ ngôn 10 cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Vì ngày giờ Chúa đến sẽ bất ngờ, không được báo trước. Dụ ngôn cho thấy có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Có nhiều người bị trách là “khôn nhà dại chợ”. “Khôn” những chuyện vặt vãnh mà lại “khờ” những chuyện trọng đại. “Khôn” những chuyện nhất thời hôm nay để rồi “dại” những chuyện ngàn đời mai sau. Có lẽ 5 cô khờ dại này đến giờ chót mới khôn ra (khôn đột xuất) và chạy đi mua “khôn”thì không kịp nữa rồi! Vì thế, chúng ta phải biết khôn ngay đi! Tin Mừng hôm nay đã cảnh giác chúng ta tỏ tường rồi đấy!
Bài học về sự khôn ngoan đã được Chúa Giêsu nói đến trong ví dụ về người khôn xây nhà trên nền đá (Mt 7, 24). Đó là người “nghe và thi hành Lời Chúa”. Khôn là chuẩn bị sống ngày hôm nay không gì khác hơn là “nghe và thi hành Lời Chúa”. Trung thành sống điều này là ta đã xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc để có thể đứng vững trong đêm tối âm u hay trong mưa sa bão táp. Ngược lại, không thi hành Lời Chúa, ta sẽ bị coi là kẻ khờ dại, vì đã xây nhà đời mình trên nền cát…
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn ở trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Đừng chậm trễ nữa, thưa anh em chị em, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phát xét cuối cùng.
Anh chị em thân mến, hôm nay vẫn còn thời giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thời giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thời giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rể cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn Tin-Yêu thắp sáng trong tay, họ sẽ được sung sướng gặp mặt Chúa: Thánh nữ Têrêxa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng âu yếm thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, nét mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại, ra đi nhẹ nhàng. Đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút, tối ngày 30 tháng 9 năm 1897.
Hai người trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn thắp sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Người Tình Lang” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa đến,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng…
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nóng cháy
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
21.Cho ngày hôm nay--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Trong mục “cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi trẻ có đăng một bài với tựa đề “cho ngày hôm nay” như sau:
Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiểu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát điên rồi – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.
***
“Năm cô trinh nữ khôn ngoan” là những con người của ngày hôm nay. Các cô không hối tếc cho ngày hôm qua, cũng không lo lắng cho ngày mai, vì ngày hôm nay, các cô đang cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào dự tiệc cưới.
“Năm cô trinh nữ khờ dại” mãi mãi là những con người của ngày hôm qua. Cho dù các cô có đi mua thêm dầu, rồi cầm đèn cháy sáng trong tay, nhưng đã quá muộn, vì cửa đã đóng. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sang chờ chàng rể đến, để vào dự tiếc cưới Nước Trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sang? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,4). Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn ngoan vừ amang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là Ánh Sáng Đức Tin luôn chiếu tỏa từ này chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu BÁc ái yêu thương. Chỉ có dầu Tình yêu mới thắp sáng được cây đèn Đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matheu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ “tỉnh thức” trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu với lại đầy.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! – Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cũng cạn. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi, lời kinh có khi cũng phôi pha, cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi Suối Nguồn Yêu Thương, chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
***
Lạy Chúa, xin thương đổ tràn vào long chúng con dầu Tình yêu của Chúa, để chúng con thắp sáng mãi ngọn đèn Đức tin mà Chúa đã cho mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là ngày hôm nay chúng con đang chờ đón Chúa đến trong cuộc đời chúng con. Amen.
22.Chàng rể đến trễ--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Ngữ cảnh của đoạn 25, 1-13 là Chúa Giêsu kêu gọi hãy luôn luôn tỉnh thức vì không ai biết ngày Người đến (24:36-25:46). Ý tưởng nầy được lập lại nhiều lần dưới nhiều dạng khác nhau (24:36.42.50; 25:13). Liên kết với hai dụ ngôn đi trước, đoạn 25:1-13 có chung một số từ ngữ như phronimos, “khôn ngoan” (24:45; 25:2), kurios, “Chúa”, “chủ” (24:42.45-50; 25:11), chronizò, “đến trễ” (24:48; 25:5), hetoimos, “sẵn sàng” (24:44; 25:10). Chủ đề của đoạn nầy tiếp tục là sự sẵn sàng để chờ đón Chúa đến.
Về bố cục có thể phân chia như sau: 1/ Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (25:1-5); 2/ Hành động của các trinh nữ (25:6-9); 3/ Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13). Cách phân chia nầy dựa trên sự xuất hiện và phân bố của động từ exerchomai (c. 1.6), aperchomai và eiserchomai (c. 10). Tất cả đều diễn tả hành động “đi” của các trinh nữ. Hai lần đầu (c. 1 và 6) họ cùng chung một hướng là đi đón chàng rể. Lần cuối cùng (c. 10) họ đã chia tay và đi hai hướng khác nhau. Năm cô khờ dại ra đi để mua dầu và sẽ đứng ngoài cửa, còn năm cô khôn ngoan đi vào phòng tiệc cưới với chàng rể.
Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (cc. 1-5)
Matthêô lấy dụ ngôn sắp được kể để so sánh với Nước Trời. Đặc biệt ở đây Matthêô dùng động từ homoioò ở thì tương lai thụ động (x. 18:23; 22:2), “Nước Trời sẽ được ví như …”. Nước Trời không được so sánh như mười cô trinh nữ, nhưng như những gì sẽ xảy ra cho các cô ấy vào kết thúc dụ ngôn. Nước Trời sẽ đến một thời điểm quyết định: những ai sẵn sàng thì được vào, những ai không sẵn sàng thì phải đứng bên ngoài cửa.
Theo phong tục, vào ngày cưới chàng rể đi về nhà cha mẹ cô dâu để rước nàng. Rồi các trinh nữ rước đôi tân hôn về tận nhà chàng rể và ở đó họ tổ chức lễ cưới và tiệc cưới. Các trinh nữ phải mang theo đèn và dầu khi phải rước vào ban đêm. Mục đích của việc mang đèn theo là “đi ra đón chàng rể”. Ngoài bản văn nầy, nymphios, “chàng rể”, chỉ xuất hiện thêm một lần khác ở 9:15, và ám chỉ Chúa Giêsu.
Mười cô trinh nữ được chia làm hai nhóm: năm cô khờ dại tương phản với năm cô khôn ngoan (c. 3). Cặp “khờ dại” (7:26) và “khôn ngoan” (7:24) gặp lần đầu tiên ở dụ ngôn xây nhà. Và gần hơn Matthêô nói đến người đầy tớ khôn ngoan (24:45). “Khờ dại” hay “khôn ngoan”, không quy chiếu về các khả năng trí tuệ, nhưng hệ tại sự thận trọng và quyết định. Sự khôn ngoan hay khờ dại của các cô trinh nữ như là một tình trạng; động từ “là” ở thì quá khứ chưa hoàn thành (imperfect). Câu chuyện trong dụ ngôn nầy là một thí dụ điển hình: các cô khờ dại “không mang theo dầu”, trong khi các cô khôn ngoan “mang theo dầu” (c. 4).
Chàng rể đến chậm, trái với sự mong đợi của các trinh nữ; “de”, “nhưng” mang tính cách trái ngược (adversative). Không một lý do nào đưa ra giải thích sự chậm trễ nầy. Sự chậm trễ của chủ/Chúa cũng được nói đến trong dụ ngôn trước (24:48). Trong khi chàng rể chưa đến, các cô trinh nữ đều rơi vào tình trạng như nhau là buồn ngủ và ngủ thiếp đi. Không giống với dụ ngôn trước, người đầy tớ khôn ngoan là người phải thức tỉnh chờ đợi cho đến khi chủ về và mở cửa cho chủ. Vậy sự khác biệt giữa các cô trinh nữ là mang theo dầu cho đèn của mình hay không.
Hành động khác biệt của các trinh nữ (25:6-9)
Phần thứ hai mở đầu bằng tiếng kêu báo chàng rể đến lúc nửa đêm (c. 6). Đến “nửa đêm” là đến bất ngờ lúc mà các trinh nữ đều ngủ say. Điều nầy liên hệ đến câu kết là không ai biết “ngày và giờ” của Chúa đến (c. 13; x. 24:48.50.51). Bởi việc đến bất ngờ nầy mà sự khôn ngoan và khờ dại của các trinh nữ sẽ được tỏ lộ.
Lần cuối cùng nhắc đến hành động chung của họ là tất cả các trinh nữ đều “chỗi dậy và sửa soạn đèn của họ” (c. 7). Hai câu kế tiếp 8 và 9 là cuộc đối thoại giữa hai nhóm, và nội dung liên quan đến đèn và dầu của họ. Lúc nầy các động từ chuyển sang thì hiện tại diễn tả hành động đang diễn ra. Đèn của các trinh nữ khờ dại đang bị tắt, và họ xin các trinh nữ khôn ngoan dầu bằng một mệnh lệnh “Hãy cho chúng tôi dầu” (c. 8). Đáp lại các trinh nữ khôn ngoan dùng hai mệnh lệnh: “hãy ra đi” và “hãy mua” (c. 9). Bên sau hình ảnh đèn ngún tắt của các trinh nữ khờ dại là sách Châm ngôn 13:9; Gióp 18:5.
Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13)
Sang phân đoạn cuối nầy các trinh nữ không còn đi chung một hướng và làm chung một hành động nữa; họ đã cùng đi ra, exerchomai, đón chàng rể (c. 1.6). Trong câu 10, động từ “đi” được dùng đến 3 lần để diễn tả những gì xảy ra cho các trinh nữ. Khi các trinh nữ khờ dại ra đi, aperchomai, chàng rể đến, erchomai, và các trinh nữ khôn ngoan đi vào, eiserchomai, dự tiệc cưới với chàng rể. Lúc nầy các trinh nữ khôn ngoan được gọi là những người đã chuẩn bị/sẵn sàng, hetoimos. Từ nầy được dùng trong dụ ngôn trước khi trong lời kêu gọi phải sẵn sàng vì không biết giờ nào Con Người sẽ đến (24:44). Vậy “khôn ngoan” có thể hiểu là “sẵn sàng/đã chuẩn bị” cho ngày giờ Chúa đến. Các trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị cho việc chàng rể đến trễ. Hình ảnh “cửa đóng lại” nhấn mạnh sự kiện là người đứng ngoài không thể vào được hơn là những người đã vào dự tiệc cưới bên trong.
Câu 11 và 12 là cuộc đối thoại giữa chàng rể bên trong cửa và các trinh nữ khờ dại đứng bên ngoài. Một mẫu tương tự như thế tìm thấy trong Lc 13:25. Sự tương phản giữa các trinh nữ ở đây vẫn còn: trong khi cửa đóng lại với các trinh nữ khôn ngoan ở bên trong, còn các trinh nữ đứng bên ngoài thì xin mở cửa, “Hãy mở cửa cho chúng tôi!”. Họ đã bị từ chối. Chàng rể bây giờ được gọi là “Chúa”. Tiếng kêu của các trinh nữ khờ dại Kurie, kurie, “Lạy Chúa, lạy Chúa” lúc nầy là áp dụng cụ thể cho lời Chúa Giêsu đã nói trước về những người không thực hành ý muốn của Chúa (7:20-23). Những ai không thực hành ý Thiên Chúa thì không được Thiên Chúa nhận biết. Cũng thế, các trinh nữ khờ dại bị chàng rể tuyên bố là không biết họ, vì họ đã không quan tâm chuẩn bị cho mình để có thể đón rước chàng rể bất cứ tình huống nào.
Dụ ngôn kết thúc bằng một huấn dụ “Vậy hãy tỉnh thức…” (c. 13). Liên từ oun, “vậy”, chỉ huấn dụ nầy rút ra từ dụ ngôn trên. Động từ grègoreò, “tỉnh thức”, Matthêô chỉ dùng trong các dụ ngôn nói về việc Chúa đến vào ngày giờ không ai biết (24:42.43; 25:13) và trong đoạn Chúa Giêsu và các môn đệ trong vườn Cây Dầu (26:38.40.41). Trong cả hai trường hợp, “tỉnh thức” có nghĩa là “sẵn sàng”, như chủ nhà phải chuẩn bị nếu như biết kẻ trộm sẽ đào ngạch vào nhà, hay như các tông đồ phải sẵn sàng để trợ lực Chúa Giêsu khi Người đang “buồn sầu cho đến chết” (26:38), và để chống lại cám dỗ mà các ông rất dễ sa vào là bỏ rơi Chúa (c. 26:41). Vậy “tỉnh thức” có nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng những gì cần thiết cho chính mình để có thể vào dự tiệc Nước Trời khi Chúa đến.
Khi viết dụ ngôn về các cô trinh nữ, Matthêô nhắm đến những người Kitô hữu. Họ như các trinh nữ đang cầm đèn đi đón Chúa Kitô. Họ có thể là những người khờ dại và khôn ngoan. Việc vào Nước Thiên Chúa còn tùy vào mỗi người. Khởi đầu ai cũng giống nhau, nhưng kết thúc có thể hoàn toàn khác. Sự khôn ngoan đích thực là chuẩn bị cho mình những điều Thiên Chúa mong muốn để có thể đón tiếp Người.
Mặc dù Chúa Giêsu vẫn mời gọi kiên trì trong việc cầu nguyện và gõ cửa, “ai gõ cửa sẽ được mở cho” (7:7), cửa sẽ không mở ra cho những ai đã không sẵn sàng.
23.Sống khôn ngoan--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Dụ ngôn mười cô trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan là dụ ngôn có thể nói rất quen thuộc với Kitô hữu. Và chúng ta lại dễ dàng đón nhận bài học là phải tỉnh thức sẵn sàng một cách rất tự nhiên khi chúng ta đã nhìn nhận rằng không ai biết được “cái giờ Chúa đến” với mình, nghĩa là cái giờ mình phải giả từ trần gian. Tuy nhiên, thử hỏi thế nào là khôn ngoan thì hẳn không ít người phải chần chừ hoặc ngần ngại trả lời cách dứt khoát và rõ ràng.
Dưới cái nhìn nhân loại thì khôn ngoan là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí. Theo viễn tượng này thì người khôn ngoan là người biết sử dụng trí khôn để phân biệt cái này với cái kia, sự vật này với sự vật khác, biết phân biệt điều đúng với điều sai, cái tốt với cái xấu, điều hơn với điều kém… Người khôn ngoan còn biết phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, cái gì là bản chất, cái gì là hiện tượng… Sự khôn ngoan dưới góc nhìn này được thủ đắc bằng luyện tập và một vài môn học giúp rèn luyện khả năng phân biệt đó là môn toán học, môn luận lý học…
Vì là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí, mà trí khôn con người xem ra bị điều kiện hoá bởi thời gian, tuổi tác. Qua cái ngưỡng cửa tuổi bảy mươi thì nói chung khả năng phân biệt, phán đoán của con người giảm dần. “Càng già, càng lẩn thẩn” là một hiện thực như tất yếu. Thế mà Kitô hữu chúng ta mỗi lần tham dự lễ an táng một người cao niên lại được nghe trích đọc bài trích sách Khôn ngoan: “Người đầu bạc thì khôn ngoan và tuổi già là một cuộc đời thanh sạch” (Kn 4,9) (*). Không thể hiểu sự khôn ngoan của câu trích Lời Chúa này theo nhãn quan nhân loại mà cần phải có cái nhìn khác.
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật 32 TN A trình bày về Đức Khôn Ngoan như sau: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…” (Kn 6,12 tt). Đức Khôn Ngoan ở đây như được nhân cách hoá. Nó không còn là một thuộc tính của trí khôn mà là một ai đó. Nếu ta thay cụm từ “Đức Khôn Ngoan” bằng cụm từ “Thiên Chúa” thì ý của đoạn văn sẽ rõ ràng và dễ hiểu. Như thế, dưới ánh sáng Lời mạc khải thì Đức Khôn Ngoan được đồng hoá với chính Thiên Chúa, Đấng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Ái. Đoạn trích sách Khôn ngoan còn tiếp rằng để đạt tới Đức Khôn Ngoan thì cần chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan và yêu mến là tuân giữ lề luật (x.Kn 6, 17-18).
Như thế người khôn ngoan không chỉ là người biết phân biệt mà trên hết là người có tấm lòng biết yêu mến. Dưới cái nhìn này thì chúng ta mới hiểu được người đầu bạc là người khôn ngoan. Tuổi đời càng cao thì con tim người ta càng dễ mở rộng. Tấm lòng của các cụ ông, cụ bà dành cho cháu con thì hẳn ta đã rõ. Nhiều vị dường như chưa chịu nhắm mắt, xuôi tay, khi chưa thấy cháu con yên bề gia thất. Sốt sắng với việc Nhà Chúa thì ít ai bì với người cao tuổi. Quả thật, dù cho “đa thọ thì đa nhục”, nghĩa là tuổi đời càng chồng chất thì lỗi lầm càng thêm nhiều, nhưng chính khi biết lấy những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho chúng ta, chứ không phải do bởi lau chén dĩa bên ngoài (x.Lc 11,37-41).
Trở lại với năm cô trinh nữ khôn ngoan của bài dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Các cô được gọi là khôn ngoan vì các cô có tấm lòng với cô dâu, chú rể, với dòng tộc hai họ. Đi đón chàng rể với đèn đầy dầu là một động thái của người có tấm lòng biết lo xa, liệu trước. Các cô tính trước, lo xa không phải vì mình mà vì chính cô dâu, chú rể…Trái lại, năm cô trinh nữ khờ dại là những cô phù dâu ít có tấm lòng với chú rể, cô dâu. Vẫn có đó nhiều cô phù dâu trong các tiệc cưới ngày nay chỉ lo “xoe xua” làm nổi cho bản thân mà chẳng để ý gì đến người khác. Quả là một sự khôn lanh theo kiểu thế gian là tìm mọi dịp để lăng xê chính bản thân mình.
Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay: “dầu đèn” theo văn hóa thời bấy giờ có ý nghĩa là những việc tốt, việc lành. Người đã có tấm lòng biết yêu mến thì không bỏ qua một cơ hội dù nhỏ, để làm điều tốt, việc lành cho tha nhân. Và những việc tốt, những việc lành chính là hành trang của người tỉnh thức sẵn sàng khi Chúa đến. Dù Chúa đến bất cứ giờ nào họ luôn có đủ đầy hành trang là các việc tốt để trình diện Vua các vua, Chúa các chúa, Đấng đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Không ai muốn làm người ngu dại. Ai cũng thích được nhìn nhận là khôn ngoan. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa, dĩ nhiên là để làm đẹp lòng Chúa và vì chính hạnh phúc đời đời của chúng ta.
-------------------
(*) Đoạn trích sách Khôn Ngoan 4,9 Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là: “Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ”.
Một vài bản văn Anh ngữ về đoạn trích Kn 4,9 như sau: “But wisdom is the gray hair unto men, and an unspotted life is old age.” Hoặc “But the understanding of a man is grey hairs. And a spotless life is old age.”
Một bản Pháp ngữ dịch: “Mais la prudence de l'homme lui tient lieu de cheveux blancs, et la longue vieillesse, c'est une vie sans tache.”
Bản dịch khác: “c'est cheveux blancs pour les hommes que l'intelligence, c'est un âge avancé qu'une vie sans tache.” (La Bible de Jérusalem)
Không biết nguyên bản thế nào, nhưng so với một vài bản văn Anh ngữ và Pháp ngữ trên đây thì nội dung đoạn trích Kn 4,9 của bản dịch đang dùng trong sách bài đọc hiện hành khá tương đồng với nhau hơn là bản văn dịch của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh.
24.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề về điều kiện không có không được để về được Quê Trời là gì không? Nếu không có điều kiện cần thiết ấy thì việc lữ hành vất vả của ta có ích lợi gì không? Vấn đề quan trọng như thế tại sao ta lại không quan tâm?
2. Nếu Thiên Chúa cho cả những người không có tình yêu, vẫn còn ích kỷ, ghen ghét, hận thù... vào Thiên Đàng, thì Thiên Đàng ấy có hạnh phúc được không? Thiên đàng ấy có khác gì trần gian không?
3. Đức tin hay tình yêu là “vé” để vào Nước Trời. Nhưng thứ đức tin không việc làm, chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, thứ tình yêu không cụ thể, chỉ nói ngoài môi miệng, có thể dùng làm “vé” vào Nước Trời được không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Mô tả lại dụ ngôn
Theo phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn. Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp, chờ đợi... trở thành “công cốc”!
2. Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở thành “sôi hỏng bỏng không”, “nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Dụ ngôn trên có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng. Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu... để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.
Rất nhiều Kitô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin cho mình được “ái mộ những sự trên trời” (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Kitô hữu ấy có được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Kitô hữu đang cố gắng thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Kitô hữu được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7, 23). Để tránh tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.
3. Nước Trời là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống vị tha
Nước Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét, hận thù... thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người mới vào được Nước Trời.
4. “Đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì “người ta được trở nên công chính nhờ đức tin” (Rm 3, 22); “Ápraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (4, 3). Chúng ta, những Kitô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Giacôbê thì đó là “đức tin có việc làm” và “đức tin không việc làm”. Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là “đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”.
“Đức tin đắt giá” là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là “đắt giá” là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn “đức tin rẻ tiền” là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: “Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,14.17). “Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng” (2,20).
Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: “tình yêu đắt giá” và “tình yêu rẻ tiền”, nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Giacôbê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).
Tóm lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm, tức thứ “đức tin đắt giá”. Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).
Vậy cái “vé” cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là “đèn có dầu” để chúng ta - những “cô phù dâu” - thắp sáng lên khi đón “chàng rể” - là Đức Kitô - vào “tiệc cưới Nước Trời”.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con. Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.
25.Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa--Lm. Vũ Thái Hòa
Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.
Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.
Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Kitô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!
Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Kitô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.
Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Kitô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.
- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.
- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Kitô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?
Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Kitô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang...), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.
26.Suy niệm của Lm Augustine S.J.
Cô gái người Ðức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 khi vừa tròn 24 tuổi, giữa lúc cuộc đời còn tràn đầy sức sống. Trước lúc từ trần, cô đã để lại những dòng chữ thật tuyệt vời trong quyển nhật ký của mình.
"Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người." (Rm 8,28)
"Cách đây một năm, lúc đó tôi vừa phải dọn bài thi y khoa khá quan trọng, vừa cùng các bạn sửa soạn cho ra một tờ báo trẻ. Tôi cảm thấy mệt mỏi nên đã đi khám bệnh và phải trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Sau lần siêu âm đầu tiên, tôi biết chắc mình đã mắc một chứng bệnh khá trầm trọng. Tôi cảm thấy bất lực. Mọi việc tôi làm trở thành vô dụng và không còn gì đáng kể nữa. Mới được 22 tuổi, không nghĩ mình có thể chết trẻ như vậy được, tất cả con người tôi nổi dậy chống lại viễn cảnh đen tối ấy.
Ngày hôm sau bác sĩ đến cho biết tôi mắc bệnh Hodgkin, một chứng bệnh gây sưng lá lách, gan và thận. Tôi không cầm được nước mắt vì biết đó là một căn bệnh nan y. Nhưng ngay lúc đó tôi nhớ đến lời của thánh Phaolô: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Tôi cũng nghĩ đến Chúa Giêsu lúc Ngài phải vác thánh giá và xin vâng theo thánh ý Chúa Cha, tâm hồn tôi tràn ngập bình an.
Nhiều khi vừa học bài tôi vừa nghĩ: "Nhưng Chúa Giêsu sẽ hỏi mình điều gì trong kỳ thi cuối cùng? Ta đói và con đã cho ta ăn... Ðiều này đã giúp tôi không chú trọng vào chuyện thi cử, nhưng vào chuyện yêu thương người khác, sửa soạn một bữa điểm tâm chẳng hạn, hay làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào với tình thương yêu.
Cô Johanna cầm đèn sáng đi đón chàng rể: "Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu"
Có lúc tôi muốn bỏ hẳn việc học hành vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp hành nghề. Nhưng tôi đã xua đuổi ý nghĩ này ngay, vì thánh ý của Chúa rất rõ với tôi trong phút hiện tại: tôi phải tiếp tục học. Học mà không cần nghĩ đến đậu hay rớt. Cứ thế tôi sửa soạn mỗi ngày cho cái chết của tôi: Vâng theo thánh ý Chúa, chẳng ai tự dưng mà nên thánh. Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu: việc học, cách cư xử với người khác, mọi chuyện lặt vặt, vì tôi không thể làm những việc lớn.
Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sự, nhưng trước hết, tôi mong chờ tình thương yêu của Chúa như một chút mùi vị của Thiên Ðàng được nếm trước..." (trích theo Ðỗ Minh Trí, SJ., Ði Tìm Anh Em; trang 177-178)
Những dòng chữ trên đây của cô Johanna phần nào giúp ta dễ lãnh hội nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, nhất là tinh thần sẵn sàng đón Chúa của người Kitô hữu.
Có một điều chắc chắn đó là ai cũng phải đối diện với cái chết một lần, nhưng điều này xảy ra vào lúc nào thì không ai lường trước được cả. Ðối diện với sự thật này, con người có những thái độ khác nhau. Có người thì sợ hãi đến nỗi tìm cách chối bỏ, coi như không có cái chết, bằng việc lao vào những thú vui xác thịt, thế trần... Nhưng cũng có người bình thản đón nhận cái chết y như ý Chúa muốn.
Niềm tin Kitô cho ta biết ý nghĩa của sự chết, đó chính là lúc Ðức Kitô trở lại để đem ta về với Ngài, để Ngài ở đâu thì ta cũng sẽ ở đó cùng Ngài (x. Ga 14,3). Ðó cũng là lúc Ngài cất khỏi lòng ta mọi buồn phiền lo lắng và ban cho ta niềm vui trọn vẹn (x.Ga 16,22).
Việc đón chờ Ðức Kitô của người Kitô hữu, được sánh với việc các cô trinh nữ cầm đèn sáng đi đón chàng rể trong dịp lễ cưới. Các cô là những người được tuyển chọn và được mời vào hưởng niềm vui của bàn tiệc. Như các cô trinh nữ trong dụ ngôn, người Kitô hữu cũng được tuyển chọn bởi Cha (x.Ga 17,6) và bởi Ðức Giêsu: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15,16). Ðáp lại điều "được tuyển chọn", các cô trinh nữ phải chăm lo chu toàn bổn phận được trao phó cho mình, đó là sửa soạn dầu đèn cho chu đáo. Cũng vậy, người Kitô hữu đáp lại tình yêu Chúa dành cho mình, qua việc Ngài tuyển chọn mình, bằng nỗ lực chu toàn bổn phận của người môn đệ đi theo Ðức Kitô.
Ðức Kitô hằng vâng theo thánh ý Cha, bất chấp những đau khổ và cái chết mà Ngài phải nếm chịu, trải qua. Bước theo Ngài, người Kitô hữu cũng không ngần ngại trải qua nhiều đau khổ để học thưa tiếng xin vâng ý Cha như Ngài (x.Dt 5,8). Chỉ có những cô trinh nữ chu toàn bổn phận chăm lo đèn dầu đầy đủ mới được hưởng niềm vui của bàn tiệc cưới. Cũng vậy, chỉ có những Kitô hữu nào sống trọn tinh thần xin vâng ý Chúa như Thầy của mình mới được vui hưởng chính hạnh phúc Thiên Ðàng của Thầy (x. Ga 17,13).
Khi Thiên Chúa tuyển chọn một ai, Ngài không đòi người đó phải làm những điều lớn lao vượt sức mình; ngược lại, Ngài mời họ làm những công việc bổn phận bé nhỏ bằng một tình yêu vĩ đại. Làm việc vì yêu mến là cách thế tuyệt hảo của sự đáp trả trước sự kiện được tuyển chọn vì yêu. Người Kitô hữu biết chắc rằng, Ðức Kitô đang đợi chờ mình ở cuối đường đời, tựa như chàng rể sẽ có lúc gặp gỡ những cô trinh nữ đang cầm đèn cháy sáng, để chính Ngài ngỏ lời cùng họ: "Hỡi kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa..." (Mt 25,34). Hạnh phúc thay cho những ai đã không ngừng sống đời yêu mến, luôn thưa tiếng xin vâng ý Chúa! Họ quả thực là những cô trinh nữ khôn ngoan: luôn chăm lo cho bình dầu tình yêu hằng ở mức dư tràn, để lòng mình hằng hướng về việc đón chờ Chúa Kitô trở lại.
Giáo Hội nhắc nhở các Kitô hữu: Quê hương chúng ta ở trên trời (x. Pl 3,20)
Chúng ta đang sống trong những tuần lễ cuối năm phụng vụ. Khi sử dụng đoạn Mt 25,1-13 làm bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật 32 Thường Niên này, Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta đích điểm của đời mình là vui hưởng hạnh phúc Quê Trời. Như bao con người khác, người Kitô hữu chúng ta cũng có một lần giã biệt cõi đời. Thế nhưng đó không phải là điều kinh hoàng khiến ta hoảng sợ. Ngược lại, đó là ngày vui mừng khôn tả, ngày ta được trọn vẹn đi vào kết hiệp với Chúa. Thái độ của người Kitô hữu đứng trước cái chết phải là thái độ thanh thản, tin yêu và đợi chờ. Ðức Kitô chắc chắn sẽ trở lại để gặp gỡ mỗi người chúng ta trong giờ chết của mình. Vậy chúng ta cần nỗ lực chờ đợi Ngài với đôi tay luôn cầm đèn cháy sáng, đó chính là việc luôn chu toàn thánh ý Chúa bằng một tình yêu trổi vượt.
Như cô Johanna, cũng có lúc ta thấy mình ham sống và sợ chết, nhất là khi đời ta còn trẻ, việc ta còn nhiều... Cô Johanna đã biết nhìn lên Ðức Giêsu để học với Ngài thái độ vâng phục kế hoạch nhiệm mầu mà Chúa muốn dành cho cô. Cô cũng sẵn sàng để cho Lời Chúa dìu dắt mình đi, giữa lúc bản thân mình gần như bất lực. Cô đã tìm thấy sự bình an đích thực khi buông mình cho thánh ý Chúa, một sự bình an do chính Ðức Kitô ban tặng (x. Ga 14,27). Cô đã cảm nhận hạnh phúc Thiên Ðàng ngay khi còn tại thế. Gương sống của cô Johanna cũng là lời mời gọi cụ thể của Chúa muốn ngỏ cùng ta là những môn đệ của Ngài: Hãy phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa, đó là cách duy nhất ta đáp lại tình yêu Ngài. Sự phó thác trọn vẹn này phải được cụ thể hoá qua cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại của ta trong tình yêu. Lòng ta chắc chắn sẽ cảm nhận niềm vui náo nức của Thiên Ðàng ngay tại thế, khi ta hướng trọn về Ðức Kitô, tựa như các cô trinh nữ đã sẵn sàng dầu đèn để đón chờ chàng rể đến, bất chấp sự trễ muộn.
Tình yêu Chúa nơi lòng ta cũng có thể bị tàn lụi khi ta không hâm nóng nó bằng những công việc phục vụ anh em mình. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng tình yêu đó là sống tình yêu. Nhờ tình yêu mãnh liệt, người Kitô hữu can đảm sống đời mình từng ngày trong niềm hy vọng vui hưởng Nước Trời, đó là hạnh phúc bất tận mà Thiên Chúa hằng dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài.
27.Khôn ngoan và khờ dại--Lm. PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong ngữ cảnh là các chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này được liên kết với hai dụ ngôn trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x. 24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng” ([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu truyện có đề tài là một cuộc rước dâu, nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói về người tôi tớ trung thành và người tôi tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ, khoảng thời gian này được nêu bật do sự chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của người đóng vai trò đó.
Đọc từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu ở ngay giữa thời gian Israel đã từ khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ khước các sứ giả của Người (23,34) và thời gian chờ đợi Con Người ngự đến (24,4b-14).
2.- Bố cục
Khi đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ đến một vở kịch với hành động ngắn và nhanh, với những thay đổi thường xuyên và với một điểm mở nút xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ. Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
1) Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ);
2) Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và giấc ngủ;
3) Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung đột;
4) Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô được vào và những cô không được vào;
5) Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ chối;
* Kết luận (25,13).
Trạng từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về “khung bên ngoài”.
3.- Vài điểm chú giải
- Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có nghĩa là Nước Trời giống như các trinh nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận của loài người cũng giống như số phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người” (25,31).
- trinh nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa lập gia đình, là bạn của cô dâu.
- dại … khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt 7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên đá”; ở 24,45, người khôn là người biết sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
- đèn … dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho thêm phần trang trọng.
- vì chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể đến chậm do phải điều đình vào phút chót về những điều khoản của khế ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha mẹ cô dâu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của Người. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này, vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà thôi.
Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều xảy ra như nhau cho cả mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ, và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo tích cực và tiêu cực để họ có thể ướm cho mình.
* Cảnh 2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và giấc ngủ
Vì chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như không có một hành động nào, hành động bị “treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh 3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung đột
Đến đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt mọi sự chuyển động. Một lời loan báo, một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có thể nghe được từ đàng xa. Đàng này, tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh khắc của sự thật đã đến. Chú rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số dầu dự trữ không đủ cho cả mười chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng mới được theo đoàn rước và dự tiệc cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”. Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột, nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột. Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ, thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô diễn tả một tình trạng bất khả kháng thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm tay.
* Cảnh 4: Điểm mở nút (10): những cô được vào và những cô không được vào
Các biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó, động cơ của bài tường thuật được thực hiện: chàng rể đến và đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới được đi theo chú rể. Cửa được đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả. Cửa đưa vào tiệc cưới không được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có thể đi vào được.
* Cảnh 5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô nại tới sự quen biết đã từng có với chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi cửa có nét bi thương; dường như các cô nại tới lòng từ bi thương xót của chú rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước; chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt 7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện được mời vẫn không tránh cho người kia khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới (22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành người gác cửa cứng rắn, khẳng định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây, dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể (nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi với chú rể cũng như lời chú rể trả lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung. Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế, được vào/không được vào tiệc cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết luận (13)
Câu kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ, câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu truyện không trực tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa đến. Thật ra, sự canh thức ở đây chủ yếu hệ tại quyết định của các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù được chờ đợi, Đức Kitô sẽ đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc 13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ sở cả.
Thuộc về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không đương nhiên là đồng đều với mỗi người. Để được như thế, mỗi người cần phải sống phù hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết đối với mỗi người. Người ta có thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự khờ dại.
Nếu trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là một lễ cưới. Để cho các hình ảnh được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm thường. Đời sống trên trời là một cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng trinh khiết (x. 19,12).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô hữu là người ta đã có được mọi phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình đang sống và có một ý chí cương quyết hành động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
2. Kết thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi, hẳn là người ta chẳng để ý là đèn của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì. Hẳn là người ta cũng không từ chối mở cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ, hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
3. Phán quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta, nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống này mà thôi.
4. Chúng ta không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ thiếu trong đèn của chúng ta.
5. Mục tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo huấn cho Hội Thánh. Độc giả được biết rằng không phải tất cả những người được gọi đến với lễ cưới của chú rể sẽ thật sự được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các tín hữu để tách những người được chọn với những người được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là được gọi nhưng là được thử thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc làm.
28.Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng—Lm. Mark Link
VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
Chủ đề: Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng.
1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.
Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. "Như một tên trộm viếng vào ban đêm". (1 Tx 5: 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.
Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Điều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: "Ta không biết các ngươi". Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?
- Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?
- Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?
- Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?
Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Đây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; "Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ" (Dt 4: 12-13).
Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Đây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?
Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.
Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là "Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh" thường đọc sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: "Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra".
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
29.Chú giải của Noel Quesson
Trong tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc. Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)... kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của Con Người (Mt 24,26-44)... ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về, Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 - 25,30)... Cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46)...
Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể...
Ngay từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là "parthènoi". Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.
Khi Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể... và Giáo Hội, mọi người chúng ta là người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: "Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.
Trong mười cô đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.
Chúng ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày, một cái chết tàn bạo.
Người vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)... Giờ đây "vụ án" của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23, 34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô "lơ đễnh", dại dột, những người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn đề người điên dại "môrai" và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên" không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch đạo", kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm chi có Chúa 'Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để chỉ "người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực hành": (Mt 7,24) - "những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17). Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc trống rỗng hoặc lơ đễnh.
Đây là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa được đặt ra... một sự "được thua" được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?
Vì chú rể đến chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.
Nếu câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong "bài giảng thời cánh chung", những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn "người đầy tớ chờ chủ”, người đầy tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).
Hãy chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết". Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.
Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
"Nửa đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20; Mc 13,35-36). "Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). "Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ mà người ta không ngờ" (Mt 24,44), "lóe sáng như tia chớp" (Mt 24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây phút của Thiên Chúa... giây phút của cuộc gặp gỡ... giây phút mà, đối với mỗi người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một tiếng kêu thảng thốt.
Không một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…
Trong lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi giật mình không?
Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Trong câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại... Tất cả đều thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con. Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?
Chỉ cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn thê trong Diễm Ca (5,2). "Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức". Vâng, lạy Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.
Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn".Đúng lúc các cô đi mua, thì chú rể tới..."
Vào đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.
Rõ ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi... anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu... anh em hãy giữ lại cho mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói khá nhiều điều ngược lại.
Nhưng Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu! Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta hãy nghe phần cuối của câu chuyện.
Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”
Các cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc, nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn giờ.
Rõ ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên Chúa: "Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!". Thế đấy không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời" (Mt 7, 21-23).
Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Câu nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người. Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ. Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi có canh thức không?
30.Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:
Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, "diễn từ về thời cánh chung". Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: "khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.
Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): "Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: "thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng", Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.
Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: "nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Và kết luận: "Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: "Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!
Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:
Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.
Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
Hồi l: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ "được mời dự tiệc cưới". Cầm đèn "ra đi đón chú rể". Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô "thiếp đi rồi ngủ cả".
Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình "nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi". Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi nào là "biết phòng xa", "thận trọng", "khôn". Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là "khôn" những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này "vừa mang đèn, vừa mang dầu theo". Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là "dại". Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là "dại" kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ?
Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: "Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi' với!, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: "Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa... Bấy giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).
Màn kết: với lời khuyên: "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào". Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus l'histoire vraie”, Centurion, trang 383).
2. Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước "giờ" chú rể đến, "ngày" Chúa trở lại. Cl Tassin nhận xét: "Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa". Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ "nhận ra" thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là "người khôn", theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp: "Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày" ("L'evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong "Le Règne des cieux s'est approché, Desclee de Brouwer, trang 335- 336).
"Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ" (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo... Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!". Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: "Kìa chú rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì... "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào..." Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy" (25,40).
2. “Con ve và con kiến" (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự "khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa... và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi".
31.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ": Công thức nhập đề này, duy nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ, nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một nghĩa với câu 31: "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người... ".
"Đi đón lang quân": Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
"Các cô thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian cuộc lễ.
"E không đủ cho cả chúng em và các chị": Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23) và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải "thức dậy" (sống lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành; nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang bình thản tâm hồn.
Ta cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên nhẫn của' ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
2. Chúa đến, và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ. "Nửa đêm, có tiếng kêu..." như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ. Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một "con đường Đamas" xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
3. Nhưng hăng hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ "bé mọn" quanh ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta. Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.
32.Dự liệu, phó thác và tỉnh thức--An Phong
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới. Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.
33.Người khôn kẻ dại--Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Tỉnh thức trong tình yêu
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ "đến trễ", nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự "tỉnh thức". Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phao-lô: "ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết "lắng nghe và thi hành" những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành ""trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này"" (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguổn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. ""Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô."" (Ga 17,3)
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào."
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khỗ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: "vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán" (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn,
ngọn đèn tạo ánh sáng,
kho báu trong ngăn tủ,
Man-na trong Hòm Bia.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con. H. Suso.
34.Để tránh việc “quá trễ” --‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Dụ ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội. Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn? Đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
1) Sẵn sàng có nghĩa là đã chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
2) Sẵn sàng có nghĩa là lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của chúng ta.
3) Hậu quả những cố gắng trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết, chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có thực.
35.Ánh sáng không bao giờ bị dập tắt--Sr. Barbara E. Reid--Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Những ai đã sẵn sàng, vào tham dự tiệc cưới (Mt 25,10).
Mỗi khi xuất hành đi đâu, tôi luôn chuẩn bị chu đáo. Tôi cẩn thận mang theo những vật dụng cần thiết cho cá nhân cũng như cho cả những người cùng đi với tôi. Tôi xem đó như một công việc phải làm, tựa như các cô trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin mừng hôm nay. Tuy nhiên, khi đọc lại dụ ngôn, tôi thấy có điều gì hơi trái khoáy. Những cô gái đã chuẩn bị dầu và đèn để canh thức đón chàng rể, là những cô khôn ngoan, nhưng lại tỏ ra ích kỷ, không biết chia sẻ, khi các bạn thực sự đang có nhu cầu, vì đèn của họ chẳng còn chút dầu nào. Thay vào đó, các cô gái lại khuyên các bạn làm một công việc xem ra có vẻ ngốc nghếch và khó khả thi. Họ nói với các bạn giữa đêm khuya hãy ra hàng mà mua dầu để thắp sáng những ngọn đèn của mình. Làm sao chúng ta có thể chấp nhận lối ứng xử, xem ra có vẻ ích kỷ và kỳ cục như vậy?
Tuy nhiên, nhiều nhà chú giải và bình luận Kinh Thánh nhắm đến một điều căn cơ khác quan trọng hơn. Sự ích kỷ không muốn chia sẻ của các trinh nữ khôn ngoan, không phải là một chi tiết quan trọng, cũng không phải là sứ điệp mà bài Tin mừng muốn nêu ra. Đây là dụ ngôn nói về ngày chung thẩm. Trong ngày đó, từng người sẽ bị xét định theo những việc làm tốt lành mà họ đã thực hiện hay đã sao lãng. Tương tự như thế, trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đã nói “Anh em hãy chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc tốt lành anh em làm và ngợi khen Thiên Chúa” (Mt 5,16). Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, dầu để thắp sáng những ngọn đèn được sánh ví như những công việc ngay lành, mà chúng ta không thể sẻ chia cho bất cứ ai khác.
Dầu sao, dụ ngôn vẫn đưa ra cho chúng ta sự đối kháng, khiến chúng ta cảm thấy nhức nhối khi giám định lại lương tâm nơi mỗi người. Đó là sự đối kháng giữa các phạm trù: Người khôn ngoan và kẻ khờ dại, những người biết chuẩn bị sẵn sàng và những người lơ đễnh, người được đón mời vào tiệc cưới và người khác lại bị từ chối, khi cửa đã khóa kín. Thánh Matthêu cũng nhiều lần nhắc đến những cặp phạm trù tương phản khác giống như thế để chúng ta so chiếu, ví dụ “ lúa tốt và cỏ lùng, chiên và dê, nhà xây trên đá và nhà xây trên cát, kẻ khôn ngoan và người khờ dại…”. Trong cuộc sống thực tiễn hằng ngày, con người của chúng ta dường như vẫn đang ở lưng chừng giữa những thái cực này. Vẫn còn đó một ít khờ dại, khi chúng ta đang cố vươn đạt tới sự khôn ngoan. Hoặc có lẽ ai chúng ta cũng biết phải chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sự sẵn sàng đó vẫn mãi chẳng bao giờ tròn vẹn.
Tuy nhiên, khi đọc lại đoạn văn trong bối cảnh của toàn thể Tin Mừng, chúng ta sẽ an tâm, không còn gì phải lo sợ. Bởi lẽ, dụ ngôn cũng đảm bảo cho chúng ta rằng, khi ta biết đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa để đón vị Tân Lang và đi vào sự kết hợp thân tình với Ngài, cho dầu còn những khiếm khuyết, chúng ta vẫn là những con người đang chuẩn bị cho giờ phút viên thành sau hết. Chúng ta chờ đợi phút giây chung thẩm mang tính quyết định, để đón gặp Đấng mà chúng ta yêu mến, bằng những quyết tâm mỗi ngày để vươn lên, hoặc để cố gắng sống một cách ngay lành. Mỗi lần chúng ta châm đầy dầu vào ngọn đèn của chúng ta, cho dù không đủ dầu dự trữ để sẻ chia cho người khác khi họ cần đến, thì ánh sáng của Đức Kitô vẫn có thể làm ngập tràn ngọn đèn nơi ta, và chúng ta vẫn có thể chia sẻ ánh sáng đó cho anh chị em của mình.
Khi nói với Giám mục Isaac Nineveh thuộc thế kỷ thứ 7, về sự khôn ngoan linh thánh trong Thánh Kinh, John Shea đã diễn tả như sau “Như một ngọn đèn nhỏ được thắp lên bằng dầu, đến khi dầu đã cạn và ngọn đèn sắp tắt, hoặc như một con suối nhận nước mưa từ trời, khi trời hết mưa và dòng suối trở nên cạn kiệt, thì vẫn còn đó một tình yêu bất tận, như mạch nước vọt trào từ lòng đất, mạch nước đó sẽ mãi mãi không bao giờ khô cạn”. Những con người khôn ngoan là những người luôn biết kết hiệp chặt chẽ với dòng sông tình yêu của Đức Kitô, một dòng sông chẳng khi nào cạn kiệt. Dầu nơi ngọn đèn của họ sẽ không bao giờ vơi, và ngọn lửa sẽ không bao giờ lịm tắt. Như bài đọc thứ nhất hôm nay nói tới: Khôn ngoan chính là chúng ta ý thức rằng sức lực con người vốn mong manh và yếu đuối. Những cố gắng của chúng ta không đủ làm cho ngọn đèn nơi ta được thắp sáng lên mãi. Song, sự Khôn ngoan tự nó là một nguồn sáng không bao giờ mù tối, và sự Khôn ngoan vĩnh hằng đó sẽ tìm đến với chúng ta. Những cô trinh nữ đã canh thức suốt đêm khuya, chìm lặng trong bóng tối. Họ sẽ vui mừng khi ánh bình minh tỏa sáng và Đấng Khôn Ngoan vĩnh hằng vẫn đang ngồi bên cổng để đợi, để chờ. Ngài vẫn luôn ngong ngóng chờ đợi chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Vả lại, cánh cửa khép lại của phòng tiệc cưới không phải là một động thái cánh chung cuối cùng. Khi quyền năng của Thiên Chúa như một luồng sáng soi chiếu, phá tan phiến đá lấp che cửa mộ, thì Đấng Khôn Ngoan hằng hữu vẫn luôn luôn dùng tình yêu Ngài để mở toang cánh cửa tâm hồn chúng ta, biến ngọn đèn của chúng ta đang cạn dầu thành một ngọn đèn mãi luôn cháy sáng. Ngài sẽ dẫn đưa chúng ta đến dòng sông huyền nhiệm, trong đó luôn tuôn chảy dồi dào mạch nước. Đó chính là mạch nước của ánh sáng và tình yêu không bao giờ vơi cạn.
36.Hãy giữ đôi mắt của các bạn luôn mở rộng--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Chúa Giêsu rất thích những đám cưới, Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên ở Cana, Người đã vui thích ám chỉ đến những bữa tiệc đám cưới như biểu hiệu của thiên đàng. Một trong những biếm hoạ về đám cưới thế tục là cô dâu đã đến trễ và để cho mọi người phải chờ đợi cô ta tại nhà thờ, nhưng trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, chú rể là người đến trễ. Có một số điều buồn cười trong việc này, khi chúng ta thấy chú rể được giới thiệu đây chính là Chúa Giêsu. Chú rể đã đến trễ làm cho một nửa số cô phù dâu làm hết dầu của họ và chìm vào giấc ngủ. Chúng ta không biết họ suy nghĩ những gì, nhưng có vẻ là họ đã mất hết kiên nhẫn đối với chú rể, họ là những kẻ ngu đần. Những cô phù dâu khác thì không chỉ tỉnh thức mà họ còn mang theo đủ dầu cung cấp cho họ. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng họ sẵn lòng chờ đợi chú rể bao lâu như chú rể muốn, họ là người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm này giống như bao dụ ngôn khác là một bài Phúc Âm phức tạp trong chính ý nghĩa của nó. Khi chúng ta tiến gần tới cuối năm phụng vụ, sẽ kết thúc trong hai tuần tới, giải thích theo phụng vụ thì bài Phúc Âm là tận cùng của thời gian khi Đức Kitô sẽ đến một lần nữa trong vinh quang. Ngày đó không ai biết. Mọi thế hệ khôn ngoan của Kitô giáo, thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Thessalonica, đã giới thiệu một sự chờ đợi cuộc trở lại của Chúa Giêsu cách kiên nhẫn. Chính chúng ta trong mọi Thánh Lễ tuyên xưng sau kinh Lạy Cha rằng, chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng “việc đến của Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
Ngay trước khi rước lễ chúng ta nghe vị linh mục tuyên bố: “Phúc cho những ai được gọi đến dự tiệc bữa tối với Người”. Điều này không phải ám chỉ tới bữa tiệc ly trong quá khứ nhưng là bữa tiệc trên trời trong tương lai. Trích dẫn này được lấy trong sách Khải huyền đoạn 19 câu 9. Thánh Gioan trong một thị kiến đã thấy một đám cưới cao cả trên thiên đàng. Một thiên thần đã nói với ngài: “Hãy viết những điều này: phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Hãy chờ đợi cách kiên nhẫn bữa tối này, đó là sự khôn ngoan. Chúng ta được gọi là những người khôn ngoan trong khi chờ đợi việc ngự đến của Chúa. Bởi vì sự tận cùng của thời gian không còn bao xa. Có lẽ là đúng, có lẽ là không. Nếu Người không đến sớm, Thiên Chúa sẽ đến trong giờ chết của chúng ta. Đó là một khoảnh khắc nhìn hướng về phía trước với một niềm hy vọng vui mừng. Từ quan điểm của một con người và là điều khó để theo, tự nhiên chúng ta sợ sự chết và bám lấy cái sống và không giống như những cô phù dâu, chúng ta không vội vàng trong việc đợi chờ Chúa đến. “Thiên đàng có thể chờ đợi”, đó có thể là tâm tình của chúng ta. Chúng ta hãy chú ý tới điểm này của Phúc Âm đó là: chờ đợi, tỉnh thức sẵn sàng gặp Chúa khi nào Ngài đến.
Giáo Hội trong sách phụng vụ các giờ kinh đã khẩn nài chúng ta hãy sửa soạn cho cái chết vào mỗi đêm trước khi chúng ta đi ngủ. Và ngủ là một biểu tượng của sự chết. Như khi chúng ta đi ngủ, Giáo Hội đề nghị rằng chúng ta nên có tâm tình Chúa Giêsu khi Người sắp chết: “Lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Sự hiệp lễ là một sửa soạn cho sự chết. Một người Công Giáo khi sắp chết được chuẩn bị và hướng dẫn để lãnh nhận sự rước lễ như “của ăn đàng”, là thực phẩm cho một hành trình từ đời này đến đời sau. Ngay cả khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể qua việc hiệp lễ trong Thánh Lễ chúng ta hãy để tâm nghĩ đến sự chết, nhưng luôn luôn tin vào sự sống lại từ cõi chết của chúng ta. Khi đứng để lãnh nhận Thánh Thể đó là một dấu hiệu của đức tin. Hành vi đạo đức đó là “hãy giữ đôi mắt các bạn mở rộng vì các bạn không biết ngày nào, giờ nào”.
37.Sự khôn ngoan của người tín hữu hôm nay--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Ở đời, để thành công trong công việc làm ăn ai mà không trải qua những lần dại khôn hay vấp ngã trong cuộc đời? Nhưng sau mỗi lần vấp ngã, thất bại, khôn dại, con người ta rút ra bài học cho bản thân mình từ đó sẽ không còn gặp phải trường hợp tương tự sẽ có thể tự tin mà trở nên khôn và thành đạt. Thế nên nhà thơ Tố Hữu nói: “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại - Ai nên khôn mà không dại đôi lần”. Còn nhà Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Ở đời có dại mới có khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại. Khôn mà hiểm độc là khôn dại. Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn”. Như vậy, cái dại và cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà ở nơi sự ứng xử để thành đạt tinh thần và vật chất trong cuộc sống.
Ngược lại, qua dụ ngôn 5 cô khôn ngoan và 5 cô khờ dại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta là con cái Chúa, là Kitô hữu phải khôn và ngoan trong đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả cuộc hội ngộ cánh chung như cuộc hẹn của các trinh nữ đi đón vị Lang Quân là chính Ngài. Thế nhưng trong cuộc hẹn này, kẻ được gặp, người lại không! Yếu tố quyết định để gặp được Chàng Rể Giêsu chính là thái độ sống của mỗi người. Các cô được gọi là khôn, vì họ biết dự trữ dầu để giữ đèn sáng mãi. Thế nên cho dù Lang Quân có chậm đến, các cô vẫn sẵn sàng dầu đèn để đến gặp Ngài. Đấy là cái khôn của người môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì cùng đích cuộc đời của mỗi chúng ta đều là được gặp Đức Lang Quân Giêsu.
Tháng cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về đích điểm đời mình để biết thay đổi đời sống tội lỗi, vô cảm của chúng ta với Chúa và tha nhân ngay từ bây giờ. Chẳng ai có thể sống thay cho chúng ta, nghĩ thay cho chúng ta hay hành động thay chúng ta… vì mỗi người có vị trí không thể thay thế và phải chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình ngay đời này và đời sau. Đó là chất dầu được chiết xuất từ chất sống của mỗi người trong từng ngày sống bằng cách quảng đại, thực thi công bằng, sống chân thật, khiêm tốn, an hoà, yêu thương, tha thứ, hy sinh, phục vụ và cầu nguyện cho hết mọi người còn sống hay đã qua đời, đặc biệt những người thân trong gia đình trong tháng báo hiếu này.
Khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa cho nên sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa vì chưng Ngôn sứ Đaniel nói: "Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl. 4, 6). Vì vậy, ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên người khôn ngoan. Luật Chúa chính là Lời Chúa và chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó nên nói: "Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv 119,72). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc 11,31). Cho nên Lời Chúa trong bài đọc I kêu gọi chúng ta hãy tìm kiếm và yêu chuộng đức khôn ngoan và rồi bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy khôn ngoan làm cho đèn đức tin chúng ta luôn cháy sáng nhờ luôn có chất dầu: yêu thương, tha thứ, hy sinh… nhờ đó trong ngày sau hết “Khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx 4,16-17).
Như vậy, chúng ta trước hết hãy sống theo khôn ngoan của Thiên Chúa được được cả đời này và đời sau, đừng sống theo sự khôn ngoan của người đời. Vì vậy, Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”( Lc 13, 24), nghĩa là đừng khôn ngoan theo người đời để đi tìm những của cải, danh vọng và vui thú trong tội lỗi ở đời này mà “hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt cũng không đục phá” ( Lc 12, 33). Sắm những báu vật ở trên trời, và quan tâm đúng mức đến phần rỗi của mình là sự khôn ngoan mà người tín hữu chúng ta phải kiếm tìm trên hết mọi sự,vì “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống (mất linh hồn) thì nào có có lợ gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” ( Mt 16, 26). Đó là sự khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta tìm kiếm để sống niềm tin có Chúa, có hạnh phúc đời đời đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Chúa trên hết mọi sự trong trần thế này. Nói thế không có nghĩa là chúng ta không được phép tìm tiền bạc để chi dùng cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện, sức khỏe cho mình và cho gia đình thân thuộc, chúng ta phải được phép chứ nhưng trong tinh thần của Lời Chúa và luật của Hội Thánh dạy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là người tín hữu sống trong một thế giới ngày một thêm tục hóa, phi nhân, vô cảm và vô luân, chúng ta hãy tránh xa sự khôn ngoan của người đời mà hãy sống sự khôn ngoan của Thiên Chúa để không những mưu ích cho phần rỗi của mình, cho tha nhân khi còn sống hay đã qua đời qua việc sống hết mình với Chúa, với các giới răn của Người và yêu thương tha nhân như chính mình qua việc cầu nguyện, bác ái, hy sinh và phục vụ ngõ hầu mai sau Chúa Giêsu sẽ đón rước chúng ta vào dự Tiệc Cưới như cô năm khôn ngoan hôm nay vì chúng ta là người luôn cầm đèn có dầu và cháy sáng mãi. Với niềm tin đó, mời ÔBACE đứng lên tuyên xứng Đức Tin….
38.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu cho các Đẳng linh hồn. Trong thánh này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta nhớ tới các linh hồn trong Luyện ngục. Đồng thời, đây là thời gian cuối năm phụng vụ.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài Lời Chúa trong các ngày cuối năm phụng vụ này thường nói về sự chết, sự phán xét, về số phận đời sau, về sự tận cùng của vũ trụ. Cụ thể, đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, nói về sự Chúa đến bất ngờ qua hình ảnh chàng rể trong dụ ngôn Mười trinh nữ. Chính vì Chúa đến bất ngờ nên đòi buộc mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Thiết nghĩ, trong bối cảnh này và qua dụ ngôn Mười trinh nữ hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niệm ba điểm sau đây:
Trên đây chỉ là một số thí dụ về những cái chết không theo qui luật thông thường. Nhưng dầu có theo qui luật thông thường đi nữa, thì con người cũng không thể biết mình chết lúc nào. Cho nên, cuối đoạn Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta rằng: “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Nơi khác, Ngài nói: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Ngài còn dùng dụ ngôn “chủ nhà” để nhắc nhở mọi người tỉnh thức, đề phòng cái chết như đề phòng kẻ trộm (Mt 24,42). Thánh Phêrô và Thánh Phaolô cũng nhắc lại lời của Đức Giêsu rằng: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Vì không biết chết lúc nào và vì cái chết đến bất ngờ nên đòi hỏi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng.
1. Mọi người đều phải chết
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển đông, dân chúng ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thuỷ Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thuỷ tinh làm sông ngân hà, lấy vàng ngọc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống sợ chết ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
Thật vậy, “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết? Sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã phán với Adong rằng: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (x. St 3,19). Sau này, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Vì vậy, ai cũng chết: Có những người chết khi còn trong bụng mẹ; Có những người chết khi tuổi còn niên thiếu; Có những người chết khi tuổi con thanh niên; Có những người chết khi tuổi còn trung niên; Có những người chết già trăm tuổi hay hơn nữa như Kinh Thánh cho biết: ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi. Nhưng, cho dù sống thọ đến trăm tuổi hay hơn nữa thì cũng phải chết. Đó là qui luật chung của hết thảy mọi người.
2. Không biết chết lúc nào
Mặc dầu biết chắc chắn rằng đã là con người thì ai cũng phải chết nhưng không ai biết mình chết lúc nào. Đây là một bí mật chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Theo qui luật thông thường thì con người được sinh ra, lớn lên, già yếu và chết: ông bà chết trước cha mẹ; cha mẹ chết trước con cái; con cái chết trước cháu chắt…Nhưng trong thực tế, qui luật đó không đúng với hết mọi người. Bởi vì có những bậc ông bà, cha mẹ phải khóc lóc tiễn đưa con cái, cháu chắt, như ca dao Việt nam có câu:
“Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời.”
Cũng có những người con khi công thành danh toại muốn đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, vậy mà cha mẹ chẳng còn (cha mẹ chết sớm hơn qui luật thông thường). Cái chết không theo qui luật thông thường chính là do bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố... Ở Việt Nam, mỗi năm có 94 000 người chết vì bệnh ung thư; ít nhất 15 000 người chết do tai nạn giao thông; khoảng 300 người chết và mất tích do thiên tai. Ngoài ra, còn có những người chết do chiến tranh, khủng bố…Chẳng hạn, ở Mỹ, vụ khủng bố 1/9/2001 làm 2996 người chết; vụ xả súng ở Las Vêgas ngày 01/10/2017 vừa qua làm chết 50 người; Vụ xả súng tại một nhà thờ Baptist nhỏ ở Texas hôm 5/11/2017, có ít nhất 26 người chết.
3. Tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào?
Chúng ta cần tỉnh thức và sẵn sàng theo hai khía cạnh sau đây:
Theo khía cạnh tiêu cực: chúng ta phải cố gắng chu toàn các bổn phận bằng cách tuân giữ luật Chúa, luật Hội thánh và các nhiệm vụ được giao phó, không phạm tội, kể cả những tội nhẹ cố tình. Nếu lỡ sa ngã phạm tội cần phải sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Theo khía cạnh tích cực: không chỉ giữ mình sạch tội mà còn phải ra sức làm nhiều việc lành phúc đức như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, đọc kinh lần hạt, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình…tương tự như năm cô khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn và dầu.
Một đề nghị khác của Thánh An-phong cho việc tỉnh thức và sẵn sàng, đó là: Thứ nhất, hãy làm ngay bây giờ những điều tôi phải làm trước khi chết; Thứ hai, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi ước ao “phải chi mình đã làm”; Thứ ba, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi không làm được.
Câu chuyện của Thánh Saviô sau đây cũng là bài học cho mỗi người chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng:
Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi: “Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
Saviô trả lời rằng: “Con vẫn tiếp tục chơi!”
Cha Boscô hỏi tiếp: “Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
Saviô trả lời rằng: “Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống tinh thần của năm cô trinh nữ khôn ngoan để dù Chúa đến bất cứ lúc nào chúng con cũng sẵn sàng ra nghinh đón Chúa. Amen.
39.Hãy sẵn sàng vào dự tiệc Nước Trời
Chúa Giêsu là một vì Thiên Chúa cao trọng nhưng cũng là một Con Người bình dân, yêu mến quê hương. Ngài gắn bó với quê hương của Ngài nên Phúc âm hôm nay trình bày Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc của quê hương, hình ảnh về cưới xin mà ai cũng có thể nhận ra bài học mà Ngài muốn nói đến. Bài học đó là chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.
Thông thường trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết muốn nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nhưng ngày nào Chúa đến thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Hơn nữa, dụ ngôn này còn muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy đến bất ngờ, bất ngờ đến nỗi không ai không ai biết trước được. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chứng kiến những cái chết, có người chết già là chuyện đương nhiên, nhưng cũng có nhiều người chết khi tuổi còn trẻ trung, cuộc đời họ lên như diều gắp gió. Cái chết không buông tha cho bất cứ một ai! Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ngờ, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, chúng ta có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải thực hành đạo, sống đạo và ghi nhiều công phúc nữa. Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại.
Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sống đạo và có công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn Chúa ban cho người nào là của riêng người đó, không cho được, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại ơn Chúa cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sống đạo và ơn Chúa cần phải sắm sửa hằng ngày hằng giờ cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải đứng ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Vì thế, qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, là các việc lành, việc tốt, việc bác ái, việc thương người, việc chia xẻ cho những người thiếu thốn bất hạnh vv... Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn rồi.
Mỗi khi lên giường ngủ, chúng ta nên kết sổ cuộc đời chúng ta. Hãy Xét mình, sám hối, ăn năn tội cách trọn hằng ngày trước đi ngủ. Hãy tạ ơn Chúa, xin Chúa tha tội và phó dâng cuộc đời trong tay Chúa và Đức Mẹ. Hãy sám hối và phó thác cho Chúa, sẵn sàng vào tiệc cưới. Đừng chậm trễ nữa, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: "Lạy Chúa, lạy Chúa" ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: "Ta không biết các ngươi!" Câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phán xét cuối cùng.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây.., thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Hôm nay vẫn còn thờ giờ để chúng ta "khôn", vẫn còn thờ giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thờ giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rễ cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để khi Chúa đến, Chúa sẽ vui mừng khi thấy chúng con tỉnh thức, và Chúa sẽ đưa chúng con vào dự tiệc trong vương quốc vĩnh cửu của Chúa. Amen.
40.Bắt hụt
Mười cô trinh nữ chuẩn bị đi đón chàng rể. Cả mười cô đều đã sẵn sàng. Ví như chàng rể đến đúng giờ, đúng với quan niệm của mọi người, đúng với lối suy nghĩ chắc chắn của các cô, thì hẳn không có chi để mà nói. Thế nhưng chàng rể lại đến trễ cho nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Khi chàng rể đến, thì những cô đã sẵn sàng, theo chàng rể bước vào phòng tiệc. Và đến lúc bấy giờ, chúng ta mới nhận thấy rằng có năm cô chưa thật sự sẵn sàng và đã bắt hụt chàng rể.
Lịch sử các tôn giáo đã ghi lại lời biết bao nhiêu lần bắt hụt như thế. Chẳng hạn trong Cựu Ước, từ 700 năm trước Giáng sinh, hình ảnh Đấng Cứu Thế đã được loan báo và qua nhiều thế hệ, toàn thể dân Thiên Chúa, đặc biệt là các vị chức sắc trong đền thờ, có một quan niệm, một hình ảnh rõ ràng và chính xác về Đức Kitô dựa theo Kinh Thánh, để rồi họ đã yên chí ngủ thiếp đi trong ý niệm đó. Khi Đức Kitô đến họ đã bắt hụt Ngài bởi vì họ không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế khác với khái niệm mà họ đã có.
Còn Giáo Hội, có bao giờ Giáo Hội đã bắt hụt Đức Kitô không nhỉ? Cách đây hơn 20 năm, một linh mục dòng Chúa Cứu Thế đã kể lại câu chuyện bắt hụt của mình như sau: Từ Vườn Xoài về Phú Nhuận, ngài chứng kiến một tai nạn, người chết nằm cong queo, ngài thấy mình không còn gì để mà làm cho nạn nhân nữa. Đến ngã tư đèn đỏ, ngài quay lại và thấy một bà già tháo chiếc khăn quàng, cúi xuống và phủ lên mặt người xấu số. Cử chỉ đó làm cho vị linh mục giật thót người và ý thức rằng mình có thể là một nhà tu mà vẫn bắt hụt Đức Kitô trong những sự kiện cụ thể hằng ngày. Tôi rất cảm động trước chứng từ ấy và quyết sẽ không bao giờ vô tâm trước một người bị tai nạn như thế. Hai mươi năm qua, tôi chưa chứng kiến một tai nạn chết người nào, nhưng cách đây hơn một tháng có một học trò cũ đến thăm tôi. Thấy em buồn, tôi đã thao thao bất tuyệt nửa giờ để động viên em bằng những lời đạo đức đao to búa lớn. Vài ngày sau, tôi biết rằng em đến thăm tôi lần cuối trước khi tự tử. Nhưng rất may mà được cứu sống. Tôi bang hoàng nhận ra rằng nếu hôm đó tôi thức tỉnh lắng nghe hơn, thì hẳn đã giúp em bỏ đi được cái quyết định dại dội ấy. Thế đấy, một linh mục lo cho người sống đã bắt hụt Đức Kitô khi Ngài đến qua một người chết. Rút kinh nghiệm, tôi sẵn sàng đón tiếp Ngài qua một người chết, và tôi đã bắt hụt Ngài khi Ngài đến với tôi qua một người sống mà tôi suýt giết chết. Chúng ta đã có dịp nói nhiều về việc canh tân đổi mới, phải chăng đến lúc này thì ai ai cũng đã đổi mới rồi và bây giờ chúng ta có quyền ngủ yên bởi vì chúng ta đã thuộc kinh bổn, đã khám phá ra Đức Kitô, thế nhưng lời cảnh báo của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức, vẫn còn mang tính chất thời sự nóng bỏng của nó.
41.Sẵn sàng
Cách đây 1900 năm, núi lửa Vesuve đã phun lên ở Ý. Toàn bộ thành phố Rompei đã bị chôn vùi dưới lớp phún xuất thạch dày tới 6 mét và giữ nguyên dạng như thế cho đến nay. Khi các nhà khảo cổ khai quật, mọi người đều ngạc nhiên và sửng sốt. Phún xuất thạch đã làm đông cứng tất cả trong tư thế đang có khi tai hoạ đổ xuống: Thân xác con người bị huỷ hoại, nhưng trong khi huỷ hoại, chúng đã để lại những lỗ trống trên lớp tro cứng. Người ta dùng thạch cao đổ vào những lỗ trống ấy và khôi phục lại được hình dạng của các nạn nhân. Chẳng hạn một người mẹ đang ôm chắt đứa con trong vòng tay của mình, một người lính Rôma đang đứng thẳng tại trạm gác với đầy đủ vũ khí, anh ta đã trung thành với bổn phận cho tới giây phút cuối cùng. Một người đàn ông tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, rải rác chung quanh là năm xác chết, có lẽ là những kẻ định cướp số vàng trên.
Tất cả những hình ảnh này là một bức tranh sống động làm nổi bật chủ đề của thánh lễ hôm nay. Đó là ngày tận thế, ngày kết thúc vũ trụ vật chất này, ngày Chúa trở lại trong vinh quang chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng lại xảy ra một cách bất ngờ, như tên trộm viếng thăm vào ban đêm, như chàng rể đến muộn khi các cô phù dâu đã thiếp ngủ. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, để chờ đón không phải chỉ ngày cuối cùng của vũ trụ, mà còn là ngày cuối cùng của đời mình, lúc chúng ta phải tính sổ với Chúa.
Vào giây phút trọng đại ấy, liệu chúng ta có sẵn sàng như những cô trinh nữ khôn ngoan, hay lại chẳng chuẩn bị gì cả như những cô trinh nữ dại khờ, để rồi sẽ phải nghe lời phán quyết lạnh lùng: Ta không biết các ngươi. Tất cả những ý nghĩ trên không phải là những điều chúng ta nghe qua rồi để ngoài tai, hay mặc cho nó chìm vào quên lãng. Trái lại phải trở nên như một tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta, để thôi thúc và lôi kéo chúng ta ra khỏi một cuộc sống tội lỗi. Chúng ta là những người thật may mắn và diễm phúc, bởi vì Chúa còn dành cho chúng ta một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này có thể là lâu hay mau, sáu bảy chục năm hay chỉ đôi ba ngày, chúng ta không được biết, nhưng khoảng thời gian này cũng đủ để chúng ta ăn năn sám hối, thay đổi nếp sống, làm lại cuộc và sắm sẵn cho mình những hành trang cần thiết, để bất kỳ lúc nào Chúa gõ cửa viếng thăm thì chúng ta luôn sẵn sàng thưa lên với Ngài: Lạy Chúa, này con xin đến.
42.Thức tỉnh
Tờ báo Digest thuật lại tai nạn xe hơi xảy ra trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1994, nguyên do là cô Jacqueline 16 tuổi vừa nhận được bằng lái xe, nhân ngày nghỉ cô đã mời các bạn đi siêu thị, trong xe có 3 người bạn trai và một người bạn gái. Họ vui vẻ thuật lại cho nhau nghe về những thú vui của ngày lễ, vì quá vui nên Jacqueline đã để lạc tay lái, xe lao vào đường ngược chiều. Và bất ngờ một xe khác ngược chiều đã tông vào xe của cô, hậu quả là 4 người đều thiệt mạng.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy cái chết đến với cô Jacqueline và các bạn của cô rất bất ngờ. Họ không bao giờ nghĩ mình lên chiếc xe này rồi đi không bao giờ trở lại. Họ không ngờ Thiên Chúa đến với họ bất ngờ như vậy.
Thiên Chúa đã gọi cô Jacqueline và các bạn của cô đi cách rất bất ngờ, khi người ta không bao giờ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra thì lại xảy ra. Cũng thế Thiên Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta cách bất ngờ như thế, vào lúc chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Do đó, mà hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười cô trinh nữ để nói về việc thức tỉnh chờ ngày Chúa đến. Dụ ngôn này dựa theo phong tục cưới hỏi của người Palestin thờ Chúa Giêsu theo luật Môisen cưới hỏi không có tính cách tôn giáo như ngày hôm nay. Việc cưới hỏi thường làm về ban đêm. Năm bảy hôm trước ngày cưới, hai bên nhà trai nhà gái đãi tiệc bạn hữu của mình. Rồi ngày cưới hai họ nhập lại ăn uống ở bên nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất là đêm rước dâu, chập tối chàng rể cúng các bạn phù rể, tay mang bó đuốc lên đường đi đến nhà gái, khi đó cô dâu và các bạn phù dâu sửa soạn đèn sẵn cho chàng rể đến. Khi mọi sự sẵn sàng đám rước dâu khởi hành. Về tới nhà trai là vào tiệc cưới ngay. Đèn các cô phù dâu phải đủ đốt chờ chàng rể đến, và phải thêm bình dầu để đốt khi ăn tiệc. Tại tiệc cưới đèn các cô phù dâu phải treo thành hình vòng hoa ánh sáng quanh cô dâu chú rể.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu ví mình như một chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày phán xét để mở tiệc cưới và ban phúc thiên đàng cho loài người. Những người thức tỉnh và sẵn sàng sẽ được hưởng phúc. Những người chểnh mảng là những cô khờ dại sẽ bị loại ra ngoài. Thiết nghĩ qua dụ ngôn Chúa vẫn muốn mỗi người chúng ta là những người thức tỉnh và sẵn sàng. Nhưng để làm được điều đó, đòi hỏi chúg ta phải biết chuẩn bị như năm cô khôn ngoan bằng cách:
1. Làm tròn trách nhiệm trong cuộc sống.
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho những nến bạc, nén bạc sức khỏe, nến bác thời giờ và Ngài cũng không quên trao cho trách nhiệm để cộng tác với Ngài trên cuộc đời lữ hành. Ở đây chúng ta cũng thấy Thiên Chúa đã ban cho các cô khờ dại cũng như các cô khôn ngoan. Nhưng kết quả cuối cùng thì trái ngược nhau, các cô khôn ngoan "được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới". Còn các cô khờ dại thì phải ở bên ngoài. Ở đây không muốn nói đến sự khôn ngoan thức tỉnh theo kiểu người đời, nhưng là sự khôn ngoan vì Nước Trời. Sự khôn ngoan được thể hiện bằng hành động cụ thể, với một quyết tâm và thao thức muốn đón Chúa, muốn đợi Chúa. Và luôn sẵ sàng trả lời "Lạy Chúa, con đây" bất cứ lúc nào Ngài muốn.
Sẵn sàng như thế đòi hỏi chúng ta phải làm tròn trách nhiệm với Chúa, với bề trên, với anh em và cả với bản thân nữa... Năm cô khờ dại hôm nay đã biết đốt đèn thì cần phải có dầu, nhưng lại thờ ơ không mang theo. Nếu xét về trách nhiệm thì các cô khờ dại đã không làm tròn bổn phận được giao. Nhìn lại đời sống chúng ta, mỗi người đều được Thiên Chúa giao cho công việc "cầm đèn ra đón chàng rể". Chắc chắn trong thâm tâm mỗi người đều muốn chuẩn bị, nhưng đôi khi ước muốn đó chỉ mới thể hiện ở lòng ao ước. Rồi ngày lại qua ngày, đến lúc "chàng rể đến" tôi vẫn không có dầu để đón chỉ vì tôi quá thờ ơ, vô tâm không chịu làm tròn trách nhiệm ngay ở giây phút hiện tại.
2. Sống trong ân sủng.
Các cô khôn ngoan đã đem dầu đầy đủ nên không cần phải lo sợ chàng rể đến cách bất ngờ nữa. Vì đả chuẩn bị đầy đủ và biết chắc chắn mình có đủ dầu. Ở đây muốn nói đến những người có đời sống đạo tốt thật sự, họ luôn sống trong ơn nghĩa Chúa để chờ ngày Chúa gọi về với Người. Một khi chúng đạt tới mức độ "ngụp lặn trong ân sủng" thì ngay cả cuộc sống đời này cũng không cảm thấy thiếu thốn, không thấy lo sợ va luôn được bìh an. Muốn được như vậy đòi mỗi người phải nỗ lực bản thân rất nhiều, đôi khi còn phải chấp nhận hy sinh từ bỏ để được sống trong ân sủng Chúa.
Lạy Chúa, trên cuộc sống lữ hành có rất nhiều chông gai ngăn cản con đến với Chúa, có nhiều quyến luyến cám dỗ làm con u mê. Xin Chúa cho con biết thức tỉnh để đón Chúa trong bất cứ giây phút nào trong đời con. Amen.
43. “Ta không biết các ngươi”
Bữa tiệc cưới kỳ lạ khởi đầu tốt đẹp: có đến mười cô phù dâu! Chúng ta nghĩ đến những chiếc áo dài đẹp và những nụ cười, chú rể hơi vụng về, cô dâu xinh xắn.
Có điều này phá tan sự thơ mộng: năm trong số mười cô này bị coi là “khờ dại”. Người ta chú ý đến họ và vạch ra sự thiếu lương tri của họ. Đặt ra những câu hỏi về năm cô “khôn ngoan” từ chối chia sẻ dầu trong đèn của họ là điều vô ích vì đây không phải là vấn đề. Một dự ngôn vạch ra đường lối của mình mà không quan tâm tới những yếu tố không phù hợp.
Cho nên chúng ta hãy thử đi thẳng vào bài học về dầu bị thiếu. Sự thiếu sót nào có nguy cơ làm cho chúng ta trở thành nhữngkẻ khờ dại?
Người khờ dại trong dụ ngôn chính là người Kitô hữu đã lên đường nhưng không chuẩn bị. Người đó tức khắc rơi vào trong một cuộc sống tầm thường, ít có tính cách Tin Mừng. Năm cô khờ dại biểu thị cho những kẻ ít can đảm, những kẻ bị tước vũ khí do sự chờ đợi và thời gian. Họ có nguy cơ bị giật mình khi nghe la lên: “Đây là chàng rể, đây là sự gặp gỡ Chúa!”
Tuy nhiên chúng ta nghĩ đến sự gặp gỡ cuối cùng. Chúng ta biết rằng để thành công thì phải gặp được Chúa Giêsu ở dưới thế gian này, trong Kinh nguyện, Thánh thể, Tin Mừng, bí tích người anh em (Mt 25,40). Nhưng tất cả những điều này phải trả giá và chúng ta làm chậm kỳ hạn: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu”. Chúng ta làm như thể mình là chủ thời gian vậy!
Thậm chí khi đang tĩnh tâm, dưới cú sốc của một biến cố hoặc một chứng cứ gây xáo trộn, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta cũng không nghe được lời van xin lo lắng của Ngài, bởi vì Ngài biết rõ chúng ta: “Các con hãy luôn luôn tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào giờ nào”.
Do đó phải nghĩ đến giờ phút này mà thôi hay sao? Không, sẵn sàng để nghe tiếng gọi này, chính là sống hết mình điều mà chúng ta đang sống. “Linh đạo hiện tại”, có nghĩa là sử dụng tốt cuộc sống hằng ngày, trở nên những ứng viên tốt nhất để gặp gỡ Chúa. Ý nghĩa có tính cách Tin Mừng của thời gian là: hôm nay phải chuẩn bị dầu cho ngày mai, đồng thời phải luôn luôn can đảm để sống Tin Mừng vào bất cứ lúc nào trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.
Nếu không, sẽ phải đi đến cùng những bữa tiệc cưới buồn này, sẽ phải đứng ngoài cửa phòng tiệc và nghe những lời nặng nề hơn nữa, xoá tan mọi niềm hy vọng: “Ta không biết các ngươi”. Vào ngày tận thế Chúa Giêsu sẽ chỉ công nhận “những người của Ngài”, tức những kẻ đã cố gắng làm ánh sáng Tin Mừng không biết mệt mỏi bằng cách không ngừng dự trữ dầu.
Nếu câu nói dễ sợ “Ta không biết các ngươi” đập vào chúng ta như Chúa Giêsu muốn, chúng ta hãy suy niệm về hai cách xử sự: những cô khôn ngoan, những cô khờ dại. Còn chúng ta, cái đèn chúng ta ở đâu?
44.Mười cô trinh nữ
Anh chị em thân mến,
Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh là: "sắp sẵn". Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào, vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể sống riêng rẽ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu... Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cùng nói lên một chủ đề như thế. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Lễ cưới của người Do thái: đây là dịp người do thái tổ chức lễ lạc linh đình. Nhà giàu hoặc có địa vị, lễ cưới sẽ kéo dài đến 7 ngày, có khi hơn nữa; nhà nghèo thì 3, 4 ngày... Câu chuyện tiệc cưới ở Cana, chỉ một mình thánh Gioan thuật lại, cũng cho thấy vì tiệc kéo dài nhiều ngày, nên họ đã tiêu thụ một lượng rượu rất lớn. Sáu chum đá, mỗi chum đựng được trên 80 lít; vậy vị chi ít nữa hơn 500 lít rượu, Chúa Giêsu đã làm cho số nước đó thành rượu; đó là chưa kể rượu gia chủ đã chuẩn bị trước. Xem ra người do thái uống rượu có thua ai đâu?...
Ta lại nói tới chuyện rước cô dâu, là chuyện chính của bài dụ ngôn hôm nay: hình như việc cô dâu đợi chàng rể đến rước về nhà mới, là một nghi lễ có phần cầu kỳ và trang trọng. Toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rễ. Họ đứng hai bên đường ca hát chúc tụng. Chú rễ có vai trò quan trọng, nên mọi người phải chờ đợi và đón chú rễ. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rễ phải đến nhà gái buổi chiều để thương lượng về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn...Việc rước cô dâu có thể vào ban đêm, nên cũng có thể chú rễ trì hoản giờ đón, để cho thêm hồi hộp. Vì không dự báo trước nên các người phù dâu phải ở trong tư thế thức tỉnh, chuẩn bị sẵn sàng....
b/.- Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa thuật dụ ngôn mười cô trinh nữ, một câu chuyện khá sống động. Đọc qua, người ta có thể hiểu phần nào được nội dung Chúa muốn nói gì. Nhân vật chính trong câu chuyện, không phải cô dâu chú rễ, mà là mười cô phù dâu. Các cô trinh nữ này khi được mời làm phù dâu, họ lấy làm vinh hạnh lắm, vì thế không ai muốn việc làm của mình bị hỏng cả. Vậy mà trong tiệc cưới này, các cô lại sơ xuất chết người; vì chàng rễ đến quá trể, lại tiệc tùng suốt ngày, nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả... Bất thần, chàng rễ đến, họ đi ngay phòng tiệc rồi đóng cữa lại. Năm cô khờ dại, đã bị từ chối không cho vào dự tiệc....
Chính thái độ của các cô khôn ngoan và của các cô không phòng xa, đó là điễm chính Chúa muốn nói: Hình ảnh các cô khôn ngoan biết tỉnh thức sẵn sàng, đồng thời cũng chuẩn bị hành trang, là đầu và đèn... Ngày Nước Trời đến lần cuối cùng, sẽ là ngày bất ngờ không ai biết trước được, nên mọi người phải sẵn sàng tỉnh thức, và mang đầy đủ hành trang, vì lúc đó chẳng ai có thì giờ để giúp đỡ ai được nữa... Nếu không tỉnh thức, không sẵn sàng, đợi đến khi sự việc ập đến, rõ ràng quá trễ; có hối tiếc cũng quá muộn rồi!
Câu chuyện: Con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm, đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với 2.200 hành khách, ngày 10/04/1912. Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó nữa...Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ, khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều Chúa Nhật, nó chìm hẳn, mang theo 1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con. Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác, dù nó to lớn.... 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không? Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Trên đời này, ai biết chuẩn bị trước, biết tính toán kỷ lưỡng, biết đề phòng xa, họ sẽ có nhiều cơ may để thành công trong cuộc sống lắm. Về cuộc sống mai sau, ai biết tỉnh thức, biết chuẩn bị hành trang sẵn như mấy cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin mừng Chúa Nhật hôm nay, họ sẽ nhiều cơ may được vào Nước Trời. Phần chúng ta, chúng ta nghĩ làm sao đây?
45.Khôn và dại
Nước Trời là tiệc cưới. Ăn tiệc cưới thì phải có y phục lễ cưới xứng đáng. Nói khác hơn là trinh nữ khôn có đèn và dầu đầy bình "sẵn sàng" mọi lúc dù chàng rể đến muộn. Chúng ta hãy xem xét chi tiết của dụ ngôn các cô trinh nữ khôn và dại. Là trinh nữ chưa đủ còn phải khôn "có đèn có dầu". Sạch như trinh nữ còn cần phải có việc lành có thưởng.
Vài điểm chú giải
- Các cô dại có đèn mà không có dầu còn các cô khôn có đèn và dầu đầy đủ: đèn hết dầu đèn tắt, thiếu dầu thì không đồt đèn cho sáng được.
- Chàng rể đến muộn: Theo tục lệ Do thái rước dâu ban đêm vào lúc bên gái bất ngờ để có cớ chọc "quê" mà vào tiệc nhậu cho ngon rồi động phòng (nên đàng gái phải cho người cầm đèn chạy tới chạy lui ngoài đường luôn để "trinh sát" bên trai không thấy có bất ngờ).
- Các cô dại nói với các cô khôn rằng "xin cho chúng em chút dầu": Không được hiểu là chuyện đời thường "đèn đuốc rước dâu" mà là chuyện cánh chung, là ngày phán xét.
- E không đủ cho chúng em và các chị: Giờ phán xét mỗi người lo cho mình còn không xong, dư đâu mà cho. Những người đợi giờ chót mà xin thì hãy nhìn đây.
- Các chị ra hàng mà mua: dầu, áo cưới thì có thể ra hàng mà mua còn việc lành, bác ái thì đi đâu mà mua. Vả lại hết giờ rồi. Hối cũng không kịp.
-....Chàng rể đến, các cô sẵn sàng thì cùng vào phòng tiệc cưới và cửa đóng lại: Nước trời không có cửa. Ý nói hết giờ. Không còn làm gì được nữa.
- Thưa ngài xin mở cửa cho chúng tôi với, tôi không biết...: Các cô ấy không có đủ diện mạo để "được nhận biết" (thiếu dầu, đèn không cháy sáng, nhìn không thấy, không biết). Đi xuống luyện ngục mà luyện cho sáng rồi trở lại thì được vào.
- Vậy anh em hãy sẵn sàng vì anh em không biết ngày nào giờ nào: Lời căn dặn cuối cùng được lập lại như một "điệp khúc" không nhàm tai "sẵn sàng".
Giờ phán xét các cô "khôn" được theo chàng rể vào phòng ăn tiệc cưới. Các cô "khờ" bị không biết, bị bỏ ở ngoài.
Khôn là có đèn có dầu đầy đủ. Dại là có đèn mà không đủ dầu khi chàng rể đến, không đốt đèn sáng lên được, không được nhìn thấy, không được cho nhập đoàn rước vào nhà tiệc ăn cưới. Cách nói tượng trưng. Đủ là khôn, thiếu là dại.
Là sao? Trinh nữ là có đời sống trong sạch, không có tội. Có đèn, là tín hữu, là kẻ tin. Không có dầu là đức tin không có có việc làm như lời thánh Giacôbê. Việc làm cùa đức tin là làm những điều Đức Giêsu dạy. Chúa Nhật 31 chúng ta đã nghe Đức Giêsu dạy là khiêm tốn phục vụ. Chúng ta sẽ chịu phán xét về tình yêu (mẹ Têrêsa Calcutta).
Xin các chị cho chúng em chút dầu! Sao không chia sẻ, người một chút để đốt đèn lên cùng vào ăn tiệc cho vui cả nhà. Tới đó mà còn ích kỷ! Ích kỷ mà vào thiên đàng? Dạy người ta ích kỷ? ai nấy lo, đèn nhà ai nấy sáng? Những người không lo đợi nước tới trôn mới nhảy thì lý luận như vậy. Thưa không phải là chuyện "giờ đây" mà là chuyện giờ cánh chung, ngày phán xét, khi không còn làm được gì nữa. Hết giờ. Kẻng đã đổ. Mỗi người có đủ thời giờ và phương tiện Chúa ban để "có đủ dầu" mà hời hợt, ơ hờ, cả cố chấp, chỉ lo làm bậy, quýnh quá thì xin xỏ.
E không đủ cho các em và các chị. Giờ phán xét mỗi người lo cho bản thân còn chưa xong. Chỉ các thánh tử đạo là được "tuyển thẳng". Têrêsa Hài Dồng Giesu còn phải bay ngang luyện ngục, nếm thử hơi nóng của lửa rồi mới lên thiên đàng. Đừng đợi tới "bến" rồi xin. Những người "đợi giờ chót" mà xin Chúa hãy coi đây mà biết lo.
Đập cửa kêu xin thì chàng rể là Chúa Giêsu sẽ trả lời "lạnh ngắt" ta không biết là ai vì không có đèn sáng, tối thui làm sao thấy mà nhận cho ra. Còn một vài hạt bụi cũng không sáng đủ. Xuống luyện ngục mà thanh luyện cho trắng tinh rồi trở lại sẽ được nhận thấy.
Quá khắt khe, quá hẹp làm sao ai lên được! Có. Chúa ban cho tất cả đủ thời giờ và phương tiện. Khi cho thì Chúa vô cùng rộng rãi và Chúa phán xét theo như đã cho. Khi Chúa hỏi "sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới" thì người ấy cứng họng". Hãy thực tế, đừng vớ vẩn. Chúa công bình, không hẹp hòi, không khắt khe. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy nhớ đủ ba điều kiện: là Trinh nữ (trong sạch), có đèn (có đúc tin), có dầu đủ (đời sống bác ái phục vụ nhiệt tình). Tóm tắc là sẵn sàng. Giờ phán xét là vậy. Chỉ có sẵn sàng. Có bao nhiêu người sẵn sàng? 5/5? Không thấy ai sẵn sàng trừ một ít các thánh.
46.Chúa sẽ đến
Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?
Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.
Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.
Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.
Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:
- Kìa chàng rể đến.
Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.
Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.
Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.
47.Sẵn sàng
Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết:
- Chàng rể sắp đến.
Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.
Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau:
- Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…
Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay.
Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.
Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.
Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.
Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.
Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.
Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.
Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không?
48.Tỉnh thức
Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan. Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp hàng dọc theo bờ tường; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế. “Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu?” Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu?” “Đồ dùng của con?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách đến đây, trọ qua đường”. “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời, “tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu diễn tả thái độ sẵn sàng của năm cô trinh nữ khôn ngoan và sự ngu xuẩn của năm cô trinh nữ khờ dại. Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào cho thích hợp đối với cuộc sống trần gian?
Sự khôn ngoan là một tặng phẩm được Thiên Chúa ban cho con người để biết cách sống thánh thiện theo đường lối của ngài. Sự khôn ngoan không thể bị nhầm lẫn với sự hiểu biết hay kiến thức của trí óc con người. Kiến thức của con người rất giới hạn, và cuộc sống lại đầy những huyền bí. Sự huyền bí tối cao là Thiên Chúa. Và người khôn ngoan là con người biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh của Chúa Giêsu đến trần gian, cũng có thể cắt nghĩa đó là những lần Chúa Giêsu đến với chúng ta trong cuộc đời, và cũng có thể hiểu đó là lần chúng ta phải đối diện với Thiên Chúa qua cái chết.
Những du khách tới Paris và Rheims đã chiêm ngưỡng những bức tượng điêu khắc bằng đá từ thời Trung Cổ minh hoạ dụ ngôn hôm nay. Chúa Giêsu được đặt ở chính giữa giống như chú rể. Ở bên phải của Ngài là năm cô trinh nữ khôn ngoan dưới ánh đèn tươi sáng tượng trưng cho dân ngoại. Họ đứng vây quanh Đấng Thiên Sai. Ở bên trái là những cô trinh nữ khờ dại, những người Do thái, đang nhìn buồn bã vào những cái đèn dầu tối om. Họ bước đi trống rỗng và quay lưng lại với Đức Giêsu.
Thánh Bênêđictô đã muốn các tu sĩ trong nhà dòng của ngài mỗi ngày phải nghĩ về sự chết. Ngài đã dạy các tu sĩ rằng: “Hãy giữ cái chết trước mặt của các bạn hằng ngày”. Đây chính là truyền thống của sự khôn ngoan. Nếu chúng ta nhận ra rằng ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của mình trên trái đất, chúng ta sẽ cố gắng làm những việc tốt đẹp, phải sống thế nào cho xứng đáng, không phải vì sợ, nhưng vì chúng ta muốn ra đi bằng an, muốn chết thánh thiện và thảnh thơi.
Tướng Baden Powell of Gilwell (1857-1941) của Anh Quốc, người sáng lập phong trào Hướng đạo đã để lại “Thông Điệp Cuối Cùng Của BiPi” cho các hướng đạo sinh như sau:
Các Hướng Đạo sinh thân mến.
Nếu các bạn đã có bao giờ xem vở kịch “Peter Pan” thì hẳn sẽ nhớ rằng lão tướng cướp đã luôn luôn làm sẵn bài diễn văn giã biệt cõi đời của mình vì e ngại rằng khi quỷ vô thường đến lão sẽ không có thì giờ để thực hiện điều ấy nữa. Đối với tôi cũng hầu như vậy, cho nên, mặc dầu chưa đến lúc, tôi cũng muốn làm như thế trong những ngày này và tôi xin gửi đến các bạn vài lời từ biệt.
Xin nhớ rằng đây là những lời cuối cùng của tôi – nên mong các bạn hãy để tâm suy nghĩ. Tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc nhất và tôi mong muốn mỗi bạn cũng có một cuộc đời hạnh phúc như thế.
Tôi tin tưởng rằng Đấng Tạo Hóa đặt để chúng ta trong thế giới tươi vui này để được hạnh phúc và hưởng cuộc sống. Hạnh phúc không đến từ sự giàu sang, cũng chẳng phải nhờ thành công trong sự nghiệp, cũng không phải sự tự do buông thả. Một bước dẫn đến hạnh phúc là các bạn cần giữ mình khoẻ mạnh khi còn niên thiếu, như vậy các bạn sẽ trở nên hữu ích và có thể hưởng cuộc đời khi trưởng thành.
Việc học hỏi thiên nhiên sẽ cho các bạn thấy có biết bao nhiêu điều đẹp đẽ và kỳ diệu mà Đấng tạo Hoá đã lập ra thế giới này để các bạn thụ hưởng. Hãy thỏa mãn với những gì các bạn đã đạt được và hãy tận dụng nó. Hãy nhìn khía cạnh sáng sủa của sự vật thay vì mặt phía trái.
Nhưng con đường thật sự để được hạnh phúc là đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Hãy cố gắng lưu lại cho thế giới này một chút gì đẹp hơn là các bạn đã tìm thấy và khi đến phiên các bạn từ giã cõi đời, các bạn có thể ra đi trong hạnh phúc với sự cảm thụ rằng với bất cứ giá nào, các bạn đã không phung phí thời gian và đã làm hết sức mình.
Hãy “sắp sẵn” trong lối này, là sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Hãy luôn luôn thực hành lời hứa hướng đạo ngay cả sau khi các bạn không còn là một thiếu niên và Thượng Đế giúp các bạn thực hiện điều đó. Bạn của các bạn.
Theo câu châm ngôn “sắp sẵn” của các hướng đạo sinh, chúng ta phải sống giống như những cô trinh nữ khôn ngoan, luôn luôn sẵn sàng đáp trả điều sẽ xảy ra trong cách tốt đẹp nhất và đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
49.Tỉnh thức
Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.
Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.
Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi!
Thánh Augustinô đã chú giải như sau: “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này!
Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.
Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.
50.Sẵn sàng
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
51.Một chủ đề về sự chết và sự sống
Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, "Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ."
Có một điều chủ yếu giá trị và sâu xa của Thánh Kinh nơi làm việc trong đoạn đơn giản này. Một trong những tường thuật rõ ràng nhất của chủ yếu này thì đã được tìm thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan -- Phúc Âm của "Sự Sống Lại". Phúc Âm Thánh Gioan chia ra làm hai phần. Phần đầu, Gioan kể lại câu chuyện về sứ vụ công khai của Chúa Giêsu vòng quanh những dấu hiệu sống lại. Những dấu hiệu đầu tiên này xẩy ra khi Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Sự biến đổi mầu nhiệm nước thành rượu là một dấu hiệu của Chúa đang làm trong cuộc sống chúng ta đó là biến đổi đau buồn thành niềm vui, thất vọng thành hy vọng, sự chết thành sự sống. Trong bẩy chương đầu của Thánh Gioan, chúng ta tìm thấy sự tham khảo về sự sống lại được lập đi lập lại. Điểm cao nhất trong chương bẩy vẫn còn một dấu hiệu sống lại vĩ đại khác đó là sự sống lại của Lazarô từ cõi chết. Giữa đoạn này, Chúa Giêsu nói, "Ta là sự sống lại." Lúc đó, có một sự thay đổi: Từ chương mười hai trở đi các tông đồ kể về sự chết và sự sống lại của Chúa. Đặt giữa hai đoạn này của Phúc Âm giống như một hạt kim cươmg trong một khung cảnh đẹp, Chúa Giêsu đã nói một câu rất hợp với lẽ thường tình tự nhiên: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mỉnh, nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hoa trái" (Jn 12:24). Thiên nhiên làm chứng cho chu kỳ sáng tạo của sự chết và sự tái sinh. Chúa Giêsu, qua sự chết và sự sống lại, làm chứng cho sự hiện diện của chu kỳ này trong mỗi người chúng ta.
Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm lạnh. Cô y tá nói với bé: "Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây." Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: "Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ." Thật ra, định mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh trong thân xác thiêng liêng sáng láng.
Lãnh vực nào trong cuộc sống của bạn nơi mà một vài người chết đang xẩy ra? Người đàn bà khóc lóc đau buồn mổi lần phải rời tới khu nhà mới trong câu chuyện trên là một thí dụ điển hình. Có thể vì cao niên mà những khả năng, sức mạnh, cảm tình đang bị chết dần. Cũng có thể là vì cắt đứt tình bạn hữu. Cũng có thể vì một vài tình trạng nơi làm việc hoặc hàng xóm. Dù bất cứ là cái gì và bất cứ ở đâu liên quan tới nó bây giờ và bắt đầu hiểu cái gì Chúa Giêsu đang nói với bạn rằng: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nót thối đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái." Khi chúng ta nhận ra tiến trình này trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần hiểu sự cần thiết của sự từ bỏ cái gì mà đang mất hoặc đã mất.
Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, "Bạn là một vũ khí lợi hại nhất tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này." Một vài năm trước đây, cô Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, "Tôi từ bỏ những thứ đó để tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời." Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về trời! Sự chết và tái sinh!
Bất kể chúng ta thế nào, thì ngày giờ chúng ta cũng đã được ghi sổ. Giầu hay nghèo, nổi tiếng hay không. Không trừ một ai. Sự chết tuyên bố chiến thắng tất cả. Tuy nhiên trong sự chiến thắng hiện nay chúng ta phải vượt qua. Chúng ta chỉ học được cái gì để sống bởi sức mạnh của Thiên Chúa khải hoàn để có khả năng nói như Thánh Phaolô, "Ô sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu... Tạ ơn Chúa, Người đã cho chúng ta sự chiến thắng trong Đức Giêsu Kitô" (1 Cor 15:55,57). Trong sự liên kết với những người Kitô hữu trung thành của mọi thời đại chúng ta có thể tiếp tục cuộc hành trình, hy vọng nhắm tới sự chiến thắng của cuộc sống trong ngày hạnh phúc cuối đời.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm ngày hôm nay nói về ngày thế mạt liên quan đến sự biết trước được giờ nào chú rể đến tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này tượng trưng cho ngày giờ sắp đến của bữa tiệc đời đời của chúng ta là những người bạn thân vĩnh viễn của Ngài. Đây là cảnh tái sinh của chúng ta trong "trời mới và đất mới khi trời cũ, đất cũ đã qua đi" (Rev 21:1). "Vậy, hãy tỉnh thức" Chúa Giêsu khuyên, "vì các ngươi không biết ngày cũng chẳng rõ giờ" mà chú rể sẽ đến và bữa tiệc sẽ bắt đầu.
Những cây đèn bằng chứng của chúng ta đã đươc đổ đầy dầu hy vọng. Hãy vang dội lại những tiếng kèn reo mừng của các thánh và thiên thần, đóng dấu bằng máu tử đạo, và tin tưởng chắc chắn vào lời nói hy vọng này của Đấng Cứu Thế là ở giữa sự chết này chúng ta đang sống.
52.Chuẩn bị sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại, làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày, nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.
Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì chúng biết dự trữ, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như thế.
Chúa Giêsu mời gọi mọi người suy nghĩ về dụ ngôn những trinh nữ đi đón chàng rể, trong số đó có những cô biết chuẩn bị chu đáo, còn có những cô chỉ lo những gì hào nhoáng bên ngoài. Tất cả các cô đều được mời gọi và chuẩn bị. Nhìn bên ngoài mọi người như nhau, mọi người đều lo công việc của mình, công việc đáp lại lời mời gọi. Nhưng để lời đáp có giá trị hay không, đến giờ phút quyết định thì mọi việc mới sáng tỏ. Trong giờ phút đó những người được gọi là khôn ngoan, là những người biết đáp lại lời mời cách trọn vẹn, họ biết chuẩn bị thật chu đáo cho lúc cần thiết. Còn những người bị gọi là khờ dạy, họ cũng chuẩn bị, nhưng chỉ chuẩn bị với hình thức bên ngoài, họ cũng lo lắng, cũng làm việc, nhưng chỉ làm những gì mà bao nhiêu người nhìn thấy, chỉ làm những gì mà họ thích, chứ không phải làm những gì cần thiết.
Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai.
Lời nói lạnh lùng khô khan cho những người không biết chuẩn bị xứng đáng. Lời nói đó trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói khi xưa, nhưng lời đó cũng là lời mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu không chỉ nói cho những người ngày xưa mà thôi, nhưng cho mọi người và mọi thời.
Chúng ta để một ít phút hồi tâm, nhìn lại con người của mình, nhìn lại lời mời gọi mà chúng ta đã lắng nghe từ khi lãnh Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta cũng nhìn lại sự chuẩn bị của mỗi người cho đến ngày hôm nay như thế nào? Hằng ngày mỗi người làm việc không có thời gian nghĩ ngơi, làm việc thật vất vã. Mỗi người lo cho cuộc sống riêng tư, lo cho bản thân, còn lo cho gia đình, cho những người thân. Ngoài ra còn có lúc cũng lo giúp cho những người xa lạ, cũng có lúc làm những việc gọi là bác ái. Hơn thế nữa mỗi người đang là người Công Giáo, ngoài đời sống vật chất gia đình, còn phải có bổn phận với Chúa: dự lễ ngày Chúa nhật, cũng có xưng tội, rước lễ, cũng sống bình thường. Không có làm gì đáng trách, cũng không phiền hà trách móc người khác bao giờ. Nếu chỉ như thế, thì ngọn đèn cuộc đời của chúng ta giờ đây, cần cho cháy sáng, không biết nó sẽ ra sao? Vì nó chỉ là chiếc đèn, nhưng bên trong nó không có gì hết thì làm sao nó có thể cháy sáng được.
Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm thật sự của mình mà chu toàn, nếu chúng ta còn nhìn thấy được những cảnh thương tâm trước mắt mà con tim thổn thức, để rồi đôi tay phải hành động, đôi chân không thể ngồi yên vì đang có người cần đến chúng ta. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng thở than để an ủi, lắng nghe những lời phiền trách để biết sữa đỗi cho tốt hơn, lắng nghe những lời tốt đẹp để sống tốt hơn theo thánh ý Chúa; lúc đó chúng ta đang tìm chất dầu dự trử cho ngọn đèn cuộc đời của mình. Những lúc đó chúng ta làm việc như con kiến, không cần ai biết đến, nhưng đây là việc cần thiết phải làm. Như thế thì bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng không sợ hoàn cảnh bất ngờ xảy đến.
Xin Chúa ban sự khôn ngoan của Chúa cho mỗi người chúng con để biết chuẩn bị cho mình luôn cháy sáng trước mặt Chúa.
53.Dọn lòng đón Chúa
Cái chết làm loài người sợ hãi nhưng không tránh khỏi được. Nhiều người cố gắng kéo dài sự sống bằng nhiều phương pháp khác nhau để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận nó. Đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là đi vào một cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta sống theo lời dạy của Thầy Giêsu Chí Thánh, đời đời chúng ta sẽ được một cuộc sống hạnh phúc vô vàn. Nếu chúng ta không tin giữ lời Đức Giêsu, mãi mãi chúng ta sẽ phải hối hận! Biết chắc điều đó sẽ đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn để được nghênh đón Chúa Giêsu ngự đến và vui mừng nhận phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ trung thành với Người.
Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn đều biết mình đang chờ gặp chàng rễ và mong được vào dự tiệc với Người. Tuy nhiên, các cô không biết giờ chàng rễ đến, năm cô khôn ngoan biết chắc chàng rễ sẽ đến nên đã chuẩn bị sẵn sàng. Khi chàng rễ đến, tất cả đều muốn được đón chàng rễ vào dự tiệc. Thế nhưng, 5 cô khờ dại vì không chuẩn bị trước nên không có dầu thắp đèn để đón chàng rễ! Chúng ta biết cuộc đời này có hạn và chúng ta sẽ phải tiến đến đời sau, nhưng có một số người lại không lo chuẩn bị cho cuộc sống đời đời, chưa lo làm việc lành dù được Chúa nhắc nhở thường xuyên.
Nhiều người vì không muốn cực khổ nên không chịu học hỏi, không muốn phục vụ, không dệt nên một cuộc đời có ý nghĩa, không cố gắng sống tốt nên mất luôn cả đời này và đời sau. Để biết đúng hay sai, chúng ta hãy trở về với lòng mình mình và cầu nguyện với Chúa. Lúc đo, lương tâm chúng ta sẽ mách cho chúng ta biết mình như thế nào, đang được dồi dào ơn nghĩa Chúa hay đang sống èo uộc vì thiếu sót bổn phận với Chúa, với tha nhân hay với chính mình. Khi chúng ta không lo tròn bổn phận thì lương tâm trách móc, khi chúng ta làm điều lành thì tâm hồn bình an. Ai chểnh mảng bổn phận trong đời sống, thì trong giờ chết có đủ công phúc để vào nước Trời không? Vậy, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa và thực hành đầy đủ, làm tròn mọi bổn phận trong cuộc sống trong niềm Tin Cậy Mến. Nếu Chúa có đến chậm thì chúng ta cũng hãy kiên tâm giữ đạo, không được buông lơi, nhưng biết lo làm việc lành phúc đức và việc bổn phận hàng ngày. Nếu chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì giờ Chúa đến bất ngờ cũng sao, vì chúng ta luôn luôn ở trong ân nghĩa Chúa.
Chúng ta đừng bắt chước năm cô khờ dại. Các cô này đã dại đến cả hai lần: từ đầu các cô đã không mang dầu theo và khi chàng rễ đến muộn cũng không biết lợi dụng thời gian chờ đợi để sắm sửa cho đủ dầu. Chính sự chểnh mảng không đem dầu theo đã khiến các cô bị loại trừ, không còn là người trong tiệc cưới với chàng rễ nữa. Những ai không sống đạo tốt và không lo cho phần rỗi đời sau của mình thì cũng vậy.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong đợi chờ, cho đến giờ chết của chúng ta. Nhưng chúng ta không đợi chờ cách thụ động mà phải tranh thủ lập công, đền tội, luôn trung thành với ơn nghĩa Chúa. Đến lúc chết mới sám hối thì không còn kịp nữa! Khi cửa đã đóng lại thì muôn đời không vào được nữa, những lời van xin trong giờ phán xét là không còn giá trị và Chúa sẽ không đón nhận.
Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến, vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức, trung thành sống trong ơn nghĩa Chúa và tin tưởng phó thác vào sự quan phòng và tình thương của Chúa
11/11 Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn.
Thứ Bảy tuần 31 thường niên. – Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ.
"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối,
thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Lời Chúa: Lc 16, 9-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.
Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn.
Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.
Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Làm tôi tiền của
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền
người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật…
Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa:
đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi.
Ngay cả các Kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa,
và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài,
cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay.
Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của,
nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này.
Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13).
Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai.
Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của?
Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi.
Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ.
Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do thái cổ
có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa.
Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi,
nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa,
thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13),
nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha.
Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin.
Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân
thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất.
Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo.
Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn
cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời.
Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại.
Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta,
để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời?
Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô.
Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái,
để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện.
Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi,
và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi.
Dù không phải là một Kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật,
nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải.
Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm,
nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc.
Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân,
đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường.
Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy niệm 2: Chúa là tất cả
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Suy niệm 3: Sử dụng tốt tiền của
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
Suy niệm 4: Giáo Huấn Của Chúa Giêsu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn Suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi Suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của.
Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em.
Suy niệm 5: Tích trữ tiền của thế nào?
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện.
Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếc trước mặt Thiên Chúa.
RC
Suy niệm 6: Không được làm tôi hai chủ
Xem lại CN 25 TN C
Tham nhũng trong xã hội hôm nay đang là cái tật khó cắt bỏ. Nó được ví như căn bệnh ung thư hay Sida của thời đại này! Tham nhũng cũng là đầu mối gây nên những điều bất chính khác. Có thể nói: tham nhũng như là nguyên nhân đệ nhất trong mọi nguyên nhân tiêu cực.
Tại sao lại xảy ra như vậy? Thưa điều đơn giản là con người ngày nay chỉ biết nghĩ đến mình mà không biết cảm thương người khác. Chúa của họ là cái bụng, là đồng tiền, vì thế, họ tìm mọi cách để vươn lên chức nọ việc kia, hầu có cơ hội kiếm trác...
Hôm nay, Đức Giêsu thấy được sự nguy hại của đồng tiền trong tiến trình theo Chúa của người môn đệ, vì thế, Ngài đã nói: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Thật là nguy hiểm cho đời môn đệ! Nếu vì tiền, hẳn người môn đệ sẽ không chu toàn bổn phận trong lòng mến; sẽ thượng tôn điều bất chính và tận dụng mọi cơ hội để khai thác nguồn lợi cho mình...; sẽ bất nhân với anh chị em; ích kỷ, kiêu ngạo và chối bỏ cùng đích của chính mình, thay vì tìm Nước Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho người khác. Đồng tiền nó cũng rất dễ làm cho Lương Tâm bị chết nghẹt và đôi khi uốn nắn Thánh Ý của Thiên Chúa theo chủ đích của chính mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khởi đi từ chính mình để biết sống ngay thẳng, biết đặt cùng đích của chúng ta là Nước Trời để hướng tới. Có thế, chúng ta mới trở thành người trung tín trong việc quản lý gia sản của Thiên Chúa qua vai trò là tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khám phá ra giá trị của Nước Trời để biết sử dụng của cải theo ý Chúa, ngõ hầu chúng con sẽ trở thành những người tôi tớ trung tín và khôn ngoan. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Không đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chỉ mình Ngài đáng được tôn thờ. Ta không được đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, và Chúa muốn con biết sử dụng đúng ý Chúa. Của cải vật chất tự nó là tốt vì là kết quả của lòng Chúa thương. Nhưng Chúa dạy con phải làm chủ nó, để phục vụ Thánh Ý Chúa và phục vụ anh em.
Cám dỗ lớn nhất của loài người chúng con là trở nên tôi tớ cho tiền bạc và của cải trần gian. Con dễ say sưa làm giàu, thu vén bạc tiền mà quên đồng loại. Con dễ trở nên ích kỷ: “Ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi”. Con vô tình coi tiền bạc trên hết, trở thành nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Trong cuộc sống của con, đã có lần con phế bỏ Chúa khỏi lòng con. Con để tiền của thay thế vị trí của Chúa nơi lòng con khi con dùng phương tiện bất chính để làm giàu.
Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con để suốt đời con luôn biết làm tôi Chúa. Xin cho con đừng vì tham việc mà bỏ lễ Chúa Nhật, xin cho con đừng vì tham lời mà làm hại anh em.
Đặc biệt, xin cho con biết khôn ngoan như người tôi tớ trong
Tin mừng: biết dùng của cải là ân huệ Chúa ban mà sinh lợi thiêng liêng cho linh hồn con. Xin cho con luôn quảng đại mở rộng đôi tay chia sẻ những của cải Chúa ban, để giúp đỡ những anh em đang khốn khó hơn con. Xin cho con nhận ra rằng: một hạt gạo cho đi vì yêu mến Chúa sẽ trở thành một hạt vàng ân phúc tô điểm cho linh hồn con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con”.
Suy niệm 8: Người quản lý tín trung của Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đức cha Tihamer Toth đã kể lại cho chúng ta câu chuyện về nhà điêu khắc Michel Ange làm việc như thế nào.
Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào”.
Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm. Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác, làm cho cái miệng tươi hơn lên”.
Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá”.
Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là sự nhỏ nhặt”.
Suy niệm
Chúng ta cùng được Chúa mời gọi vào việc quản lý chung tùy theo nhiệm vụ được trao phó. Chúa Giêsu khẳng định tư cách của người quản lý là phải hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Cho nên, người quản lý theo Tin Mừng đòi hỏi không đặt mình quỵ lụy dưới sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vốn làm điên đảo bao nhà quản lý như thực tế mà chúng ta đã thấy nơi xã hội hôm nay. Người quản lý mà Chúa mời gọi tôi và bạn trở nên là sự tận tụy công vụ cho anh em đồng loại, đó là thể hiện sự tín trung của người làm tôi Thiên Chúa, cho nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Hơn lúc nào hết, đất nước và xã hội chúng ta cần những nhà quản lý theo ý muốn của Thiên Chúa: Người quản lý vì dân vì nước, những kẻ làm tôi cho tiền bạc, sẵn sàng vì “chủ tiền” mà phản bội hay thỏa hiệp cần phải loại trừ ra khỏi hàng ngũ những người quản lý.
Thật thế, trong việc quản lý đời mình và nhiệm vụ được giao, chúng ta cùng suy tư tâm tình của thánh Phaolô: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6,7). Người gieo sự công chính trong cuộc đời sẽ gặt hoa trái công chính như người có năm nén làm lời năm nén, anh đã có lãi mà còn được cho thêm (x. Mt 25,29).
Người gieo sự tín trung sẽ gặt hái được niềm tin…
Ý lực sống
“Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,27).
Suy niệm 9: Dùng tiền của mua Nước trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi người phải biết lo cho tương lai vĩnh cửu, khi biết dùng những của cải đời này sao cho ích lợi cho kho tàng mai sau trong nơi vĩnh cửu, để không bị nô lệ cho những của cải thế gian, nhưng biết chọn Chúa là chủ của đời mình. Vì thế Chúa bảo chúng ta phải biết lựa chọn: chọn Chúa hay của cải, bởi vì Chúa đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13).
Vào lúc khởi nguyên thế giới, Thiên Chúa đã thấy rằng: tất cả những gì Ngài làm để phục vụ con người đều tốt cả. Vậy Đức Giêsu không lên án những của cải vật chất nhưng chỉ lên án việc con người sử dụng của cải cách bất chính thôi. Vì vậy, Ngài nói đến “tiền của bất chính” như một sức mạnh nô lệ hoá con người, khi khiến họ trở thành bất lương trong việc chiếm đoạt và sử dụng nó, và đặt con người dưới quyền thống trị của nó. Nhưng người ta cũng có thể dùng tiền bạc mà làm giàu cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết cho Timôthêô nên khuyên người giàu có đời này “làm giàu về việc lành, ban phát rộng rãi và nghĩ đến kẻ khác, để thu góp một kho tàng sẽ làm vốn cho tương lai và để đạt được sự sống thật”.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra đòi hỏi: “Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của”, bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự huỷ, chối bỏ cùng đích của cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).
Vì thế, Tin mừng hôm nay trước hết mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm về thái độ của chúng ta đối với của cải trần thế mà Thiên Chúa đã tạo dựng và ban phát cho chúng ta, để chúng ta hưởng dùng và phụng sự Ngài. Bao lâu của cải trần thế là phương tiện giúp con người đạt tới cùng đích, thì bấy lâu chúng ta còn là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Trái lại, khi tiền của đã trở thành cùng đích của cuộc sống, thì dĩ nhiên con người hiến tế cho nó không chỉ mạng sống của mình, mà còn hy sinh những gì quý giá và cao cả nhất trong trong cuộc sống, như nhân nghĩa, tình người, công bình, cũng như bác ái yêu thương.
Con người ai mà không thích tiền, ai mà không ham có nhiều tiền để tiêu dùng. Chúa dạy cho các môn đệ bài học về việc sử dụng tiền của. Tiền bạc là “đầy tớ tốt”, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách hữu hiệu cho mình và cho người khác; nhưng nó lại là “ông chủ xấu”, nếu ta để tiền bạc lôi cuốn chúng ta vào chuyện bất chính, khi bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền hoặc khi sử dụng đồng tiền cho mục đích xấu. Người môn đệ Chúa hãy sử dụng tiền của cách khôn ngoan, dùng tiền để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi linh hồn của mình và tha nhân (5 phút Lời Chúa).
Gần đây ở nước Anh, bác sĩ Roger Henerson đã đặt ra cụm từ “Hội chứng ám ảnh về tiền bạc”, để nói đến những triệu chứng tâm sinh lý của người quá ham mê tiền của. Ông nhận xét: “Lo lắng thái quá về tiền bạc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tâm trạng căng thẳng”.
Hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ về cám dỗ của đồng tiền. Việc đi theo Chúa đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa hay tiền của, chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta phải biết sử dụng tiền bạc như phương thế, để mưu ích cho chính mình trên hành trình tìm kiếm Nước trời.
Truyện: Đồng tiền trên trời
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu dạy về tiền của
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
- Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”.
- Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau.
- Phải coi tiền của là đầy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
- Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”: Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
a/ Tiền của có thể biến người sở hữu nó trở thành nô lệ cho nó;
b/ tiền của có thể được người ta tôn lên ngang hàng với Thiên Chúa, thậm chí cao hơn Thiên Chúa nữa!
2. Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ nó hay làm nô lệ nó:
- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác, dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như mất hồn…
- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều xấu…
3. Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước (Góp nhặt).
Suy niệm 11: Thái độ đối với tiền bạc
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu muốn ta phải có một thái độ đối với tiền bạc. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
Tiền bạc là con dao hai lưỡi nên rất nguy hiểm.
Đây là những tư tưởng được loan truyền đó đây trong xã hội hôm nay.
Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh thượng.
Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân thế – tất thảy trân trọng.
Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta trên tất tật!
Túng tiền, tư tưởng, tinh thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .
Thiếu tiền, thâm thủng, tủi thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)
“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao.
Bẻ cong chân lý lật nhào công minh
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh
Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa
Buồn thay! “Vật chất” làm vua
“Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn!
Tiền nhiều: mặc kệ. . .vẫn hơn
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ)
Tiền bạc có thể làm cho người ta ra mù quáng, không còn phân biệt được thật giả.
Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.
Người ta bắt anh và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta như thế?
Anh ta đáp lại:
- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu, tôi chỉ thấy vàng thôi.
Vì tiền bạc, nhiều người đã đánh mất cả lương tâm, cả tình người.
Như vậy, có phải có tiền là có tất cả hay không? Một con người bình thường với một bộ óc lành mạnh, không bệnh tất cũng có thể trả lời là không mà không sợ sai lầm.
2. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
Đây là những lời khuyên của một người mẹ giành cho đứa con bé nhỏ yêu quí của mình:
Thứ ba, ngày 29
Enricô của mẹ,
Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì”.
Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).
10/11 Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
- Viết bởi Lc 16, 1-8
Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
Thứ Sáu tuần 31 thường niên. – Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Lời Chúa: Lc 16, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hành động khôn khéo
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân.
Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc.
Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình,
Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ.
Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này.
Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa,
Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ.
Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính.
Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối.
Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ.
Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không.
Anh không được bào chữa gì cho chính mình.
Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp.
Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?”
Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý.
“Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3).
Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh.
“Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia,
sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (c. 4).
Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi.
Anh đã gọi các con nợ của chủ đến,
và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ.
Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn.
Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia.
Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi.
Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm.
Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại.
Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này,
thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4).
Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh.
Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1).
Đúng anh là một tên quản gia bất lương.
Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc.
Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh.
Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8).
Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình,
dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ.
Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta
lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này.
Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt.
Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy.
Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện.
Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng,
nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có,
để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Suy niệm 2: quản gia khôn ngoan
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Hành xử khôn khéo
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
Suy niệm 4: Kẻ bất lương
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
Suy niệm 5: Quản lý bất trung
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
RC
Suy niệm 6: Hãy khôn ngoan theo tin mừng
Xem thêm CN 25 TN C
Khi nói đến Đức Giêsu, chúng ta biết Ngài là Đấng Chân Thật, vì thế, Ngài luôn bênh vực sự thật và tố cáo bất công, gian tham... Ấy vậy mà bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta ngỡ ngàng khi Đức Giêsu đề cao thái độ gian lận, giả dối của tên quản lý bất trung!
Tin Mừng kể lại: khi hắn biết chắc mình không còn được trọng dụng nữa vì những thất thoát mà hắn gây nên. Người quản gia này đã sử dụng mánh khóe theo kiểu: “Dùng phương tiện xấu để đạt được mục đích tốt”. Vì thế, anh ta đã gọi từng con nợ của chủ đến hỏi về số nợ, rồi lấy văn tự ra, viết giảm số nợ đi. Đây là một hình thức biển lận của chủ mà tên quản lý bất lương gỡ gạc vào những giờ phút chót trước khi bị xa thải.
Sau khi kể dụ ngôn này, nhiều người chưng hửng khi thấy ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó khôn ngoan, nhanh nhạy khi hành động cách khôn khéo!
Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề có thái độ tôn vinh hay chấp nhận hành vi bất chính của người quản gia này, nhưng ngang qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ và cho mỗi chúng ta rằng: phải khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, biết tận dụng mọi cơ hội và biến cố để loan báo Tin Mừng, biết chuẩn bị cho tương lai, biến chúng thành những cơ may để gặp gỡ Chúa, ngõ hầu đạt được Nước Trời làm gia nghiệp.
Nếu người quản gia kia đã khôn khéo và mánh khóe thì mỗi chúng ta hôm nay cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống.
Vậy đâu là mục đích và lẽ sống của chúng ta? Hẳn không phải là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú... Những thứ đó không phải là mục đích, điểm đến của người Kitô hữu. Nhưng mục đích tối hậu của chúng ta chính là Nước Trời. Vì thế, ngay giây phút này, mỗi chúng ta hãy biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu mai ngày trên Thiên Quốc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Khẩn cấp sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người quản lý “bất lương” phải chạy đua với thời gian bằng cách sáng suốt có những hành động kịp thời, để giúp anh ta có cơ hội sống còn sau này. Chúng ta cũng cần phải khẩn cấp với thái độ sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, các trang Tin Mừng thường nhắc đến tính khẩn cấp và bất ngờ của việc Chúa tái xuất hiện. Chúa sẽ đến với từng người trong các biến cố cuộc sống, nhưng nhất là Chúa sẽ đến trong giờ phút kết thúc cuộc đời tại thế.
Vâng, lạy Chúa, con sẽ phải tính sổ cuộc đời mình. Đó là việc khẩn cấp, vì con không thể biết chắc chắn, con sẽ giã từ cuộc đời vào lúc nào. Vì khẩn cấp, con phải điều chỉnh ngay thái độ sống của con đối với Chúa và đối với anh em. Vì khẩn cấp, con cần thực hiện ngay những lời Chúa dạy và thực hành ngay những điều được học biết về giáo lý của Chúa. Vì khẩn cấp, con cần sử dụng thời gian cách hữu ích và lợi dụng từng cơ hội, từng biến cố để biến thành những cơ may gặp Chúa, gặp anh em, và để làm việc thiện chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu.
Lạy Chúa, hành trình về vĩnh cửu là lối đường con phải đi một mình, và những ngày chuẩn bị cũng không ai thay thế con được. Con chỉ biết cậy dựa nơi Chúa, và tìm thấy sức mạnh nơi sự trợ giúp của Chúa mà thôi. Cuộc hành trình về vĩnh cửu đã bắt đầu. Từng ngày con sống là từng phút giây hướng về Chúa. Từng ngày qua đi là từng bước con rút ngắn khoảng cách tiến về đời sống vĩnh cửu. Xin Chúa giúp con luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống vì Chúa và cho Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”.
Suy niệm 8: Hãy là người quản lý sống theo Tin Mừng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mạnh Thường Quân là người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:
Ngài có định mua gì về không?
Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân:
Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
Đó là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước...
Suy niệm
Trọng tâm câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý. Thánh Luca không nói mọi chi tiết về người quản lý này bất lương ở chỗ nào. Không biết ông có tham nhũng ăn chặn của được giao trách nhiệm, vơ vét vào túi riêng như các tham quan hôm nay hay không, chỉ biết rõ là ông bị chủ bãi chức vì phung phá của nhà chủ. Như thế, cái tối thiểu của người quản lý là anh đã không chu toàn bổn phận: Bảo toàn và sinh lợi trên gia sản mà anh có trách nhiệm được giao
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thời đó ở Palestine, người quản gia thay thế gia chủ quản lý tất cả tài sản và làm một cách tốt nhất để tài sản đó được sinh lợi. Người quản gia không có lương nên có quyền cho người khác vay tài sản của chủ mình vừa làm lợi cho chủ vừa làm lợi cho chính mình. Cho nên, trong lúc thỏa thuận, ông có thể ghi số lượng lời trội hơn, vì phần lời cho chủ và phần lời cho chính ông như là lương của ông. Nhờ đó, khi thu số vốn cho vay ngoài phần lời phải có cho chủ, ông được phép thu số dư làm của riêng mình. Cho nên, khi biết mình sắp bị bãi nhiệm, người quản gia trong dụ ngôn tính lại cho những người vay mượn phần của mình, chỉ ghi lại số lượng ông chủ phải thu hồi. Do đó, người chủ không bị thiệt mà người nợ lại biết ơn người quản gia. Người quản gia sửa đổi số lượng ít đi, không phải vì ông đã làm hại cho chủ, mà ông chịu thiệt thòi phần của chính ông để khôn khéo xếp đặt dự tính cho tương lai chính mình. Như vậy, người quản gia này trước đó không chỉ hoang phí tài sản của chủ không biết vào mục đích gì (có thể vào túi riêng: Tham nhũng) nhưng lợi dụng chức vụ bóc lột người nghèo quá mức. Tuy nhiên, ông đã biết “sửa sai” trong giờ chót, biết “nhả ra chút ít của bất chính” để mong tìm được con đường hậu vận khi bị bãi chức. Dưới góc độ tính toán, ông được khen vì xử lý kịp hoàn cảnh lúc “không ổn” của mình để tìm bãi đáp và hạ cánh an toàn.
Giữa những thực tế hoang tàn vì tham nhũng trong xã hội, Lời Chúa đang văng vẳng bên tai chúng ta về tư cách người quản lý: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Ngài mời gọi chúng ta trở nên người quản lý theo Tin Mừng: Quản lý của cuộc sống riêng mình; quản lý tốt với những gì chúng ta có: tài năng, khuyết điểm... như người chủ biết tận dụng cái cũ, cái mới trong kho cuộc đời (x. Mt 13,52) để làm cho cuộc đời thêm phong phú và quản lý việc công nếu được giao trách nhiệm gánh vác: Hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Ý lực sống
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Suy niệm 9: Phải lo tìm hạnh phúc đời sau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại dụ ngôn người quản lý bất lương, để trình bày bài học phải biết khôn ngoan sử dụng tiền của đời này để mưu ích cho phần rỗi đời đời. Thật thế, con người ngày nay rất khôn khéo khi tính toán để tìm hạnh phúc đời này. Nhưng sự khôn ngoan đích thực thì ít có ai tìm được, hay cố gắng đi tìm. Cũng như người quản lý trong Tin mừng hôm nay, ông đã dùng sự khôn khéo gian manh để tìm hạnh phúc cho đời sống của ông. Qua đó, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta phải biết dùng sự khôn ngoan của mình để sử dụng gia tài Chúa ban: sức khỏe, thời gian, tiền của... mà tìm lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý: Đức Giêsu không khen việc lỗi đức công bằng này, vì việc làm này là gian lận của chủ, đây là cái lỗi. Tuy nhiên, Chúa khen anh vì biết tận dụng tất cả những khả năng và điều kiện, địa vị sẵn có, để có lợi cho về sau của mình. Anh khôn khéo vì biết tận dụng những ngày cuối cùng còn lại trong nhiệm vụ, để lấy lòng người khác, để tạo một ảnh hưởng và chỗ dựa sau này, biết tận dụng thời gian và những điều kiện có sẵn để lo cho số phận tương lai của mình. Dụ ngôn chỉ dừng lại với ý nghĩa là, tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban và là của Chúa, điều quan trọng là chúng ta biết dùng những ân huệ Chúa ban để giúp đỡ tha nhân, và chính điều này sinh lợi cho chúng ta khi chúng ta không còn được quản lý thân xác và những ân huệ đó nữa.
Mặc dầu người quản lý trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Đức Giêsu đã rất khéo lấy hình ảnh người quản lý đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình, nên họ đã sử dụng chúng không theo ý của Chúa. Hãy biết noi gương người quản lý này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Mọi sự trần thế không theo chúng ta về đời sau! Chính vì thế, Đức Giêsu dạy chúng ta một điều vô cùng khôn ngoan, là hãy “dùng tiền bạc và những giá trị trần thế để mua lấy bạn hữu để sau này họ sẽ đưa chúng ta về nơi an nghỉ đời đời”.
Kho tàng Nước trời của mỗi người chúng ta tuỳ thuộc việc chúng ta sử dụng kho tàng trần thế của mỗi người chúng ta như thế nào. Khi chúng ta tiêu xài cho riêng mình thì kho tàng Nước trời của chúng ta trống rỗng! Trái lại, khi chúng ta cho đi, cho những người bất hạnh, tàn tật, khổ đau là kho tàng Nước trời của chúng ta tăng gấp bội! Tất cả mọi người đều là những người thủ quỹ của Thiên Chúa! Mọi khả năng, sức khoẻ, thời giờ, địa vị... tất cả đều của Chúa trao ban, chúng ta hãy trở thành người quản lý tốt, để đời sống chúng ta đem lại vinh quang.
Qua câu chuyện trên đây, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: nếu người đời có sự khôn ngoan và mánh khoé, thì các môn đệ cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích họ theo đuổi trong cuộc sống. Đâu là mục đích và lẽ sống của người Kitô hữu? Nếu mục đích của cuộc sống chỉ là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú và những gì sẽ qua đi, thì điều đó có đáng cho con người đầu tư cả cuộc đời không?
Với người môn đệ Chúa Kitô, sự khôn ngoan ấy cũng được tỏ lộ qua thái độ của họ đối với của cải trần thế. Họ là những người khôn ngoan thực sự, khi họ luôn ý thức rằng: của cải trần thế này không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để đạt tới cùng đích. Sống như thế nào để của cải trần thế không trở thành một chủ nhân sai khiến và biến mình thành nô lệ. Sống như thế nào để xuyên qua mọi thực tại chóng qua của đời này biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, sống như thế mới thực sự là sống khôn ngoan (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Ông Mạnh Thường Quân
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân đến bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.
Suy niệm 10: Chuẩn bị tương lai đời đời
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Phong tục do thái: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
2. Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?...).
3. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Mặc dù người quản lý trong dụ ngôn này không tốt cho lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản lý làm dụ ngôn. Chúa muốn nhắc rằng đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải xử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình.
2. Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
3. “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại.” (Lc 16, 8b)
Ở đời, “biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Người quản gia bất lương trong dụ ngôn xưa, hơn ai hết, biết rõ thực trạng tội lỗi của mình, và biết chắc nguy cơ bị sa thải là không tránh khỏi. Điều hơn người là y dám nhìn thẳng vào sự thật và dùng hết khả năng còn lại của mình để đổi lấy tình thân hữu, dự phòng cho tương lai. Y đã thành công do biết nhìn xa trông rộng.
Ở đây Thiên Chúa không có ý định ủng hộ những hành động mưu lợi bản thân, mà qua đó Ngài muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý: dự phòng cho tương lai. Đời này đã có thể an tâm, còn dự phòng cho cuộc sống đời sau, hẳn hạnh phúc hơn nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng cuộc sống đời này để mua lấy cuộc sống đích thực nơi quê trời. (Hosanna).
Suy niệm 11: Sử dụng của cải theo đúng ý Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Mặc dù người quản gia trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản gia này để làm nên một dụ ngôn dạy đời. Chúa muốn nhắc rằng, đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình nên họ đã sử dụng chúng không theo đúng ý Chúa.
Hãy biết noi gương người quản gia này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi vào cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chúng tọi chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Thế tiền-cho-đi là tiền khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi ấy ở đây.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
2. Chúa nói: "Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại." (Lc 16, 8b)
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử:
- Người khôn có sống lâu không?
Khổng Tử đáp:
- Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!
Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.
+ Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật
+ Phận là người dưới, mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
+ Mình ngu, mà mình kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.
Ba thứ chết ấy thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.
Phần chúng ta, chắc chắn là chúng ta đều muốn sống và sống lâu, nhất là sống đời đời. Muốn thế chúng ta biết sống cho thật khôn ngoan.
Đức Giáo Hoàng Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.
Một hôm, cha Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến, gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó đựng gì? Cha Claudius không đoán được.
Lúc đó, Đức Thánh Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa. Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra, nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!
Vì thế ta đã hành động theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài này."
Vâng! Phải chọn cho mình một con đường để thể hiện cuộc sống của mình. Thành công hay thất bại đều lệ thuộc vào sự chọn lựa căn bản này.
Đây là những lời được viết trên tường của căn nhà dành cho các trẻ em ở Calcutta:
Hãy dành thì giờ suy nghĩ
Ðó là nguồn sức mạnh
Hãy dành thì giờ để cầu nguyện
Ðó là sức mạnh toàn năng
Hãy dành thì giờ cất tiếng cười
Ðó là tiếng nhạc của tâm hồn
Hãy dành thì giờ chơi đùa
Ðó là bí mật để trẻ mãi không già
Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu
Ðó là ưu tiên Thiên Chúa ban cho
Hãy dành thì giờ để cho đi
Vì một ngày quá ngắn để ích kỷ
Hãy dành thì giờ cho bác ái
Ðó là chìa khóa cửa thiên đàng. Amen.
09/11 Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
- Viết bởi Ga 2, 13-22
Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ.
Thứ Năm tuần 31 thường niên – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính.
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
* Thánh đường Latêranô là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Contantinô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”.
Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa.
LỜI CHÚA: Ga 2, 13-22
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa: Ed 47,1-2.8-9.12; 1Cr 3,9c-11.16-17; Ga 2,13-22
1. Tôi Sẽ Xây Dựng Lại--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự--TGM Giuse Nguyễn Năng.
3. Cung hiến thánh đường Latêranô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
4. Đền thờ tâm hồn--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
5. Cung hiến Thánh đường Latêranô--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
6. Cung hiến thánh đường Latêranô--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
7. Latêranô và những ngôi Đền Thờ--Lm. Vũ Xuân Hạnh
8. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
9. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
10. Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
11. Lễ cung hiến thánh đường Lateranô—Lm Đan Vinh
12. Cung hiến Thánh Đường Latêranô--Lm Hồ Thông
13. Tẩy uế Đền Thờ--tgpsaigon.net
14. Thanh tẩy--Lm Trần Ngà
15. Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
16. Chúa Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm PX Vũ Phan Long, ofm
17. Đền Thờ sống động--AM Trần Bình An
18. Biểu tượng của đức tin--P. Trần Đình Phan Tiến
19. Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa--Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
20. Lễ cung hiến đền thờ Lateranô--Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
21. Đền thờ mới
22. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
23. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
24. Latêranô
25. Nhà thờ trở nên cộng đồng
26. Nhà thờ của giáo xứ
1.Tôi Sẽ Xây Dựng Lại--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh,
là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma,
là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà
để dành riêng cho việc phụng tự.
Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa,
thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu.
Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân
cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ.
Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại,
mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.
"Hãy phá hủy Ðền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại."
Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem.
Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài,
thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại,
thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới.
Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này.
Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng,
mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8),
và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).
Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định
"Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17).
Hơn thế nữa, ngài còn nói:
"Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ.
Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà
có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy.
Ðền thờ là những con người sống động.
Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh,
một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần.
Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó.
Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài,
chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự.
Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán,
Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha.
Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy,
vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều.
Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ.
Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.
Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần,
cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế.
Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa
để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ,
nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thân xác là Ðền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
2.Đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Thân Thể Đức Kitô Phục Sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho mọi người. Mỗi người Kitô hữu cũng phải trở thành một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa đã ban cho giáo xứ chúng con có được ngôi thánh đường, để hàng ngày chúng con đến hiệp thông với nhau trong lời kinh, trong tiếng nguyện cầu, nhất là cử hành thánh lễ.
Lời Chúa hôm nay còn mạc khải cho con biết chính Thân Thể Phục Sinh của Chúa là đền thờ mới. Đền thờ đích thực là nơi thờ phụng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật. Nhờ lòng tin vào Chúa, nhờ hiệp nhất với Chúa qua bí tích Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu cũng là một ngôi đền thờ của Chúa.
Lạy Chúa, có những lúc con xót xa vì những ngôi thánh đường bị đóng cửa. Con tiếc xót vì những ngôi thánh đường bị biến thành nhà kho, khách sạn… Còn đền thờ Chúa nơi chính bản thân mình, con lại bỏ hoang. Những nỗi lo toan cho cuộc sống hằng ngày, miếng cơm manh áo, tiền bạc…, cùng với những tội lỗi dần theo năm tháng chồng chất đầy lòng con, đã làm ngôi đền thờ nơi con nên hoen ố, xấu xa.
Lạy Chúa, xin Chúa thanh tẩy và giúp con vất bỏ những gì làm xấu xa đền thờ Chúa nơi tâm hồn con. Xin ơn thánh hoá tưới gội và trang điểm cho con nên xứng đáng đón Chúa trong bí tích Thánh Thể. Xin cho con biết ẩn mình nơi Chúa để tâm hồn được trong sạch, bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Người có ý nói đền thờ là thân thể Người”.
3.Cung hiến thánh đường Latêranô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
* lịch sử
Đại thánh đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ XII cũng được dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo Hoàng, được mang danh là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”.
Sau khi chiến thắng các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế, Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm 313 công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các tín hữu lục tục từ các hang toại đạo bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt bớ nữa.
Hoàng đế Constantin làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I đã thánh hiến đại thánh đường và cự ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại đây.
Đền thờ này được gọi là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có ngai toà của Đức Giáo Hoàng.
Qua các trận hoả hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức của Pháp... đại thánh đường Lateranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy 28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn, Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến Đền Thờ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Hành động của Chúa Giêsu hôm nay rất đặc biệt: bình thường Ngài rất hiền hòa, thế mà hôm nay Ngài la lối, lật nhào bàn ghế, lấy dây làm roi mà quất...
2. Tại sao? Chính Ngài nói rõ: “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán”. Câu này hàm chứa nhiều ý nghĩa:
- Đền thờ là nhà của Thiên Chúa, phải dùng để thờ phượng Thiên Chúa.
- Nhưng lắm khi người ta đã biến đền thờ thành nơi buôn bán (nghĩa đen: như trong chuyện này; nghĩa bóng: dùng tiền bạc lễ vật để mong mua lấy ơn Chúa).
3. Trong những câu đối đáp với người do thái, Chúa Giêsu còn cho biết thêm chính thân thể Ngài là Đền thờ.
B.... nẩy mầm.
1. Nhiều người đến nhà thờ như đi chợ để mua bán: họ đưa cho Chúa tiền bạc, hoa đèn, lễ vật và đòi Chúa đưa cho họ những ơn mà họ muốn. Những người ấy có khác gì những kẻ buôn bán trong Đền thờ Giêrusalem ngày xưa bị Chúa đánh đuổi đâu?
2. Hs 6,6: “Ta muốn tín nghĩa chứ không phải tế tự, và nhận biết Thiên Chúa hơn là lễ thượng hiến”.
3. Chính Chúa Giêsu mới là Đền thờ đích thực. Bởi vậy, đến nhà thờ mà không gặp Chúa Giêsu thì cũng như không đến nhà thờ. Trong mọi sinh hoạt cuộc sống ở mọi nơi mà gặp được Chúa thì cũng như đang ở trong nhà thờ.
4. 1 Pr 2,5 “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng”; 1 Cr 3,16 “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”
5. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã không ngại phá đổ những gì lệch lạc hầu sắp xếp lại sự thờ phượng Thiên Chúa cho đúng hướng. Tâm hồn mỗi người chúng ta cũng là một đền thờ. Nếu hôm nay Chúa Giêsu ra tay, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? lật nhào những gì? lấy roi quất những gì?
6. Nhà thờ gỗ đá đã khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn. Việc xây dựng nhà thờ vật chất làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn. Vì thế, trong lễ khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài đã giảng như sau: “Điều đã diễn ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh chị em được cưa, được bào, được ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ”. 1. Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
7. “Các môn đệ của Ngài nớ lại Lời đã chép trong Thánh Kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2,17)
Khi thấy những kẻ buôn bán xâm lấn Đền thờ, Đức Giêsu đã dám xông đến và xua đuổi họ mà không sợ phản kháng, chống đối. Ngài cũng đã hy sinh mạng sống để thiết lập một Đền thờ mới cho Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với loài người.
Phần tôi, tôi đã làm những gì để xây dựng và tô điểm cho ngôi Đền tờ tâm hồn? Nhiều lần tôi đã không dám chống lại, nhưng còn đồng lõa với những kẻ làm ô uế đền thờ tâm hồn tôi. Vâng, chính lúc tôi phạm tội là lúc tôi biến đền tờ tâm hồn thành nơi đổi chác, buôn bán: nào là tiền tài, ích kỷ; nào là danh vọng, địa vị…
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã dám làm tất cả vì Đền thờ. Hôm nay xin cho con dám chấp nhận mọi khổ đau, khó nhọc để xây dựng một đền tờ xứng đáng cho Chúa (Hosanna)
4.Đền thờ tâm hồn--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Mohandas Karamchand Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của người dân trong đấu tranh bất bạo động.
Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng tộc. Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, Do Thái hay lương dân...
Quyết định học đạo, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.
Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin”. Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về nhà và không theo đạo Kitô.
Suy niệm
Lễ Vượt qua và các dịp lễ quan trọng của dân Do Thái. Người trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đền thờ dự lễ. Không chỉ người lân cận trong vùng, mà mọi dân Do Thái khắp thế giới có điều kiện cùng trở về đền thánh.
Người hành hương đến đền thờ thường dâng lễ vật như bò, chiên, chim câu..., chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu cũng dâng lễ vật khi dâng Chúa vào đền thánh (x. Lc 2,24). Cho nên, ở đền thánh có người bán bò, chiên, bồ câu để phục vụ cho việc lễ tế của người Do Thái. Người ta phải đổi tiền Rôma sang tiền Do Thái để nộp thuế đền thờ mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp nửa đồng bạc Do Thái (x. Mt 17,27). Một số người khác đổi tiền để tự nguyện dâng cúng cho đền thờ (x. Lc 21,1-2).
Với sự hiện diện của thú vật, đền thờ là nơi thánh bị ô uế và những người đổi tiền đã làm tục hóa sự thánh thiêng của đền thờ. Cho nên, Đức Giêsu đã lên tiếng: “Đừng biến nhà Cha ta thành một cái chợ” (Ga 2,16), và Ngài đã đánh đuổi phường buôn bán cùng với các loài thú vật ra khỏi đền thờ, để trả lại sự thánh thiêng của nơi thờ phượng Thiên Chúa.
Chính trong khi thanh tẩy đền thờ - một đền thờ được xây dựng bằng đá cho việc tôn thờ Thiên Chúa, Chúa Giêsu hé mở cho nhân loại biết một sự tôn thờ mới được hình thành nơi thân thể Ngài: “Cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu nói đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thân thể được phục sinh sẽ là đền thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực như văn sĩ Tertullianô khẳng định: “Đức Kitô là đền thờ thật của Thiên Chúa, đền thờ mở cho tất cả, nơi Thiên Chúa đón nhận sự thờ kính thật sự”. Cho nên, việc tôn thờ Thiên Chúa từ nay không chỉ trong đền thánh Giêrusalem lộng lẫy bằng đá với các trang trí vàng ròng, nhưng việc thờ phượng dựa trên căn bản trong chính Ngài: “Là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), với thân thể phục sinh của Ngài. Cách thờ phượng trong chính sự thật, được Ngài mạc khải cho nhân loại khi hé mở cho phụ nữ Samaria (x. Ga 4,21.23).
Tham dự vào mầu nhiệm sự chết, phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin và làm vào những gì Ngài dạy. Người Kitô hữu trở nên đền thờ của Thiên Chúa như thánh Phaolô viết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?.Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16-17).
Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!”, lời đó trực tiếp nói với tôi với bạn, với tất cả mọi tín hữu tin vào Chúa Kitô - đền thờ mới của Thiên Chúa, vốn thường xuyên bị tục hóa, ô uế do chính tội lỗi, cần được thanh tẩy. Thật thế, cần cố gắng thanh tẩy không ngừng, bằng tâm tình sám hối và dấn thân bác ái, đặc biệt trong Mùa Chay, để đền thờ tâm hồn người tín hữu luôn là nơi Thiên Chúa ngự …
Ý lực sống
“Thân xác là đền thờ Thiên Chúa” (1Cr 6,19), “xin Ngài thanh tẩy” (Tv 50,4).
5.Cung hiến Thánh đường Latêranô--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được, vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do Thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, giáo họ nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng, nhưng luôn phải có vẻ trang nghiêm đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt, nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương!
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo, và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại,thông cảm và tha thứ.
Tôn trọng đền thờ chúng ta
Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68,10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giày ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta.
Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, màu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!”
Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”
6.Cung hiến thánh đường Latêranô--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Đây là vương cung thánh đường xưa nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất trong số rất nhiều thánh đường ở Roma.
1. Theo lịch sử thì đền thờ này được xây nên ngay sau khi Hội Thánh vừa thoát ra khỏi tình trạng hang toại đạo có nghĩa là vừa thoát ra khỏi tình trạng bị bắt bớ dưới các triều hoàng đế Rôma. Năm 313 lệnh bắt đạo được bãi bỏ. Năm 320 tự do tôn giáo được pháp luật công nhận và bảo hộ. Sự việc này đã làm nức lòng các tín hữu và ngay lập tức người ta nghĩ ngay đến việc phải xây dựng những đền thờ để làm công việc thờ phượng Chúa cho xứng đáng. Trong số những nhà thờ được xây vào lúc đó người ta đặc biệt chú ý đến ngôi đền thờ dành cho vị Giám Mục Roma đồng thời cũng là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội phụ trách. Chính Hoàng đế Constantinô đã xin biến nơi ông đã được rửa tội trong cung điện Latêranô để làm cơ sở cho việc xây dựng ngôi đền thờ này. Người ta cũng đã khiêng cái bàn thờ nơi các Giám mục Roma đã từng dâng lễ trong những năm bị bắt bớ về đặt ở trong ngôi thánh đường mới. Lúc đầu người ta dâng đền thờ này để kính Đấng Cứu Thế. Về sau người ta lại gọi đền thờ này là Vương cung Thánh đường dâng kính Thánh Gioan Tẩy giả. Rồi từ đời này qua thời đại khác, đền thờ Latêranô luôn được coi là Nhà thờ chính tòa của các vị Giám mục thành Roma mà tất cả các Giáo Hội trên Thế giới đều coi là Giáo Hội Mẹ. Đến thế kỷ thứ XVI thì ngôi vị này mới được chuyển đổi qua một ngôi Đền thờ mới: đó là Đền thờ thánh Phêrô hiện ở trong cung điện Vaticanô. Xét về phương diện lịch sử và ý nghĩa, thì sự thay ngôi đổi vị này không có ảnh hưởng gì đến ngôi đền thờ đặc biệt chúng ta mừng kính hôm nay. Chính vì thế mà hằng năm cả Hội Thánh vẫn hướng về nó như người mẹ muôn thuở đã sinh ra hàng hà sa số những người con trên mặt đất này.
Như vậy, về phương diện lịch sử chúng ta thấy việc mừng kính có một giá trị rất thiết thực. Nó hướng chúng ta về một quá khứ hào hùng của Giáo Hội, một quá khứ nói theo kiểu của Renan đã có thời phải thở bằng máu, nhưng lại là một quá khứ dể lại những tấm gương về đời sống anh hùng, về niềm tin bất khuất và nhất là về một lòng yêu mến vô bến bớ đối với Thiên Chúa, làm cho những thế hệ đi sau phải noi gương. Nhắc lại những biến cố như thế thật là việc nên làm nhất là đối với chúng ta ngày hôm nay.
2. Nhưng thử hỏi có phải khi mừng lễ cung hiến thánh đường Lateranô, Giáo Hội chỉ có ý nhắm tới mục đích này mà thôi không? Không! Giáo Hội còn muốn cho chúng ta nghĩ tới những mục đích khác.
Như anh chị em đã biết: Đền thờ có một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt của cộng đoàn dân Chúa.
* Ta thấy trong Cựu Ước đến thờ có một giá tri rất lớn: Đền thờ là nhà của Thiên Chúa.
* Đến thời Tân ước thì chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đẩy nó lên một cấp độ cao hơn. Đây không phải là đền thờ bằng những nguyên liệu đất đá nhưng là bằng chính cõi lòng của con người. Trong câu truyện Chúa thanh tẩy đền thờ mà bài Tin Mừng hôm nay ghi lại chúng ta thấy được điều đó.
Như vậy thì chúng ta đã rõ việc mừng lễ cung hiến đền thờ Lateranô hôm nay không phải chỉ là một việc làm ôn lại lịch sử mà là một việc làm củng cố niềm tin của chúng ta. Chúng ta mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa. Mỗi người là đền thờ cũng có nghĩa là mỗi người có chỗ cho Chúa trong tâm hồn của mình. Một thi sĩ Đức nói: Chúa có giáng sinh ra cả 100 lần ở Belem cũng vô ích cho bạn nếu Ngài không sinh ra được ở trong băng hoại hồn của bạn” Như vậy thì trách nhiệm của mỗi người thật nặng nề. Thánh Phaolô nói một câu mà tôi cho là rất khủng khiếp: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy”.
Vậy phải biết quí trọng con người chúng ta. Anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải làm gì để chu toàn được bổn phận đó? Tôi xin để nghị một vài công việc.
Giống như một toà nhà muốn cho nó được đứng vững và tồn tại lâu dài chúng ta phải biết bảo trì nó. Bảo trì bằng cách săn sóc chăm lo cho nó. Chăm lo như thế nào?
1. Trước hết hãy lo cho nó được sạch sẽ. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã mô tả tầm hồn của một người tội lỗi là tâm hồn chất chứa đầy những thói hư tất xấu như “gian tà, giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu không” và Chúa bảo “đó là những cái làm cho con người ra ô uế”(Mt 15,19-20). Một tâm hồn như thế không thể xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa được.
2. Tiếp theo muốn cho một ngôi nhà được đẹp đẽ chúng ta phải biết trang hoàng cho nó. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã mô tả tâm hồn thánh thiện là một tâm hồn được trang hoàng bằng hoa quả của Thánh Thần. Hoa quả đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ” (Ga 5,22-23)
3. Sau cùng một ngôi nhà dù được trang hoàng đẹp đẽ cách mấy đi nữa nhưng nếu nó không có sức sống thì nó cũng trở thành vắng lạnh không phát huy được tác dụng. Hãy làm cho tâm hồn chúng ta bằng cách để cho ơn Chúa hoạt dộng trong chúng ta. Thánh Phaolô dã dám tự hào mà noí: “Tôi đã không để cho ơn Chúa ra vô ích trong tôi”
Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dường như quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện ra Bà liền hỏi Chúa: - Lạy Chúa lúc tâm hồn con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?
Chúa trả lời: - Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.
- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?
- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?
- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.
- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha, Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp”
7.Latêranô và những ngôi Đền Thờ--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!
Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.
Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
8.Cung Hiến Thánh Đường Latêranô--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thánh đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp. Đền thờ này do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đền thờ này đã được cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa chân cho các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
9.Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Việc dùng một nơi đặc biệt để cầu nguyện và thờ phượng đã có từ rất xa xưa. Tuy nhiên, mãi khoảng năm 1000 trước Công nguyên ngôi đền thờ đầu tiên mới được vua Solomon xây dựng tại Giêrusalem để dành riêng cho Thiên Chúa, công trình này mất khoảng bảy năm rưỡi, lễ cung hiến đền thờ kéo dài tám ngày, và hằng năm được người Do Thái nhớ lại.
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Giáo hội bị bách hại không thể xây dựng đền thờ, buộc phải cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa tại nhà riêng hoặc trong các hầm mộ, hay trên các ngôi mộ của các vị tử đạo.
Năm 313 sau khi hoàng đế Constantinô ban hành đạo luật cho phép các kitô hữu tự do hành đạo, đền thờ đầu tiên được cất. Hoàng đế đã nhượng cho Đức Giáo hoàng Melchiade khu đất của dòng họ Laterani, và truyền xây đền thờ. Năm 324 thánh Giáo hoàng Silvestro cử hành lễ cung hiến đền thờ mang tước hiệu kính Chúa Cứu thế này, và chỉ từ sau thế kỷ VI mới thêm các tước hiệu hai thánh Gioan Tiền hô và Gioan thánh sử, từ đó được gọi là đền thánh Gioan Lateranô. Sau đó vào năm 334 Constantinô cho xây một giếng rửa tội nơi mà thánh Giáo hoàng Silvestro rửa tội cho ông, một dinh giáo chủ, nơi các giáo hoàng cư ngụ cho đến khi di chuyển sang Avignon. Đền thờ Lateranô hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày cung hiến được mệnh danh là “mẹ của tất cả các đền thờ ở Rôma và trên toàn thế giới”.
Câu hỏi được đặt câu hỏi: Cung hiến nhà thờ này có nghĩa là gì? Tại sao phải mừng kỷ niệm cách trọng thể?
Giữa lòng thế giới, trước cái nhìn của Thiên Chúa và loài người, trong một hành vi đức tin khiêm tốn và vui mừng, con người với khả năng trí tuệ khôn lường Chúa ban là những kiến trúc sư, thợ mộc, thợ nề, nghệ nhân ưu tú, kiến thiết công trình nghệ thuật đã dùng những tài nguyên thiên nhiên như phiến đá, cây gỗ, đất cát, xây dựng lên một khối lượng vật chất là đền thờ. Đây là một dấu chỉ hữu hình về Thiên Chúa vô hình, Đấng là Ánh sáng, là chiều cao cả và là chính vẻ đẹp.
Trong bối cảnh ấy, vị kiến trúc sư đã nối kết thực tại thế giới và lịch sử cứu độ. Ông đã đưa vào trong thánh đường này những viên đá, cây cối và đời sống con người, để tất cả công trình sáng tạo đều hợp tiếng chúc tụng Chúa. Ông đã vượt thắng sự tách biệt giữa lương tâm con người và lương tâm Kitô, giữa cuộc sống ở trần thế chóng qua này và sự cởi mở đối với đời sống vĩnh cửu, giữa vẻ đẹp của vạn vật và Thiên Chúa Đấng là chính vẻ đẹp, bằng những viên đá, những đường nét, mặt bằng và chiều thẳng.
Đền thờ là thân thể Chúa Kitô
Salomon đã xây cho minh một ngôi đền bằng đá và gỗ vì ông là một tiên tri, … Còn Thiên Chúa hằng sống Đấng dựng nên cả đất trời, ngự trên chín tầng trời… Tại sao Thiên Chúa lại đòi xây dựng một đền thờ? Phải chăng Ngài bị tước mất chỗ ngự? Hãy nghe lời Stêphanô lên tiếng trước Công nghị, trước lúc chịu khổ hình: “Còn Salômôn, đã xây nhà cho Người. Nhưng Ðấng Tối Cao hẳn không phải ngụ nhờ trong những vật tay phàm làm ra, như tiên tri đã nói” (Ac 7,47- 48). Vì thế từ đó đền thờ được xây để tiên báo thân thể Đức Kitô. Đền thờ đầu tiên chỉ là “bóng” của các điều sẽ đến; còn với Ðức Kitô mới có “mình”. (Col 2,17): khi ánh sáng xuất hiện, bóng tối sẽ rút lui. Hiện nay chúng ta tìm kiếm đến thờ do vua Salomon xây ư? Chỉ còn một đống đổ nát. Tại sao nó bị đổ nát? Thưa là vì thực tại mà ông loan báo đã hoàn thành. Đền thờ đích thực là chính thân mình Chúa Kitô, cũng bị đổ vỡ, nhưng Người đã trỗi dậy, và sẽ không bao giờ đổ nát nữa…(Thánh Augustinô 354-430, Bài giảng số 3, 4; PLS 2, 664)
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa
Còn thân xác chúng ta thì sao? Là chi thể của thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết sao? thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô!” (1Cr 6,15). Khi nói:“Thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô” nghĩa là thân xác chúng ta liên kết với đầu là Đức Kitô “Ngài là đầu của Thân mình” (x. Cl 1, 18), làm thành một đền thờ duy nhất, đền thờ Thiên Chúa.
Cùng với thân mình Đức Kitô, thân xác chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Trước khi được thanh tẩy, chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên: Vì thế, thánh Phaolô đã nói: “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy” (1 Cr 3,16-17).
Gia đình là đền thờ
Như Thánh Gia Nazareth khi xưa, hoàn cảnh sống ngày nay đã biến đổi sâu xa và người ta đã đạt được những tiến bộ rất lớn trong các lãnh vực kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Chúng ta không thể hài lòng với những tiến bộ ấy. Chúng ta còn phải luôn nghĩ đến những tiến bộ về luân lý, như sự quan tâm, bảo vệ và giúp đỡ gia đình, vì tình yêu quảng đại và không thể phân ly giữa một người nam và một người nữ là khung cảnh hữu hiệu và là nền tảng sự sống con người trong khi được cưu mang, sinh ra, lớn lên và kết thúc tự nhiên. Nơi nào có tình thương và lòng chung thủy, thì nơi đó tự do đích thực được nảy sinh và trường tồn.
Hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.
Chúng ta muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Chúng ta muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa: Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.
10.Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
11.Lễ cung hiến thánh đường Lateranô—Lm. Đan Vinh
TÌM HIỂU:
1) Lịch sử của và cấu trúc thánh đường La-tê-ra-nô:
Vương cung Thánh đường thánh Gio-an La-tê-ra-nô là một trong những ngôi thánh đường đầu tiên của Hội thánh Công giáo. Thánh đường này được hoàng đế Con-stan-ti-nô xây dựng và được thánh hiến vào năm 324 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Đây là nhà thờ chánh tòa của Giám Mục thành Rôma là Đức Giáo Hoàng, và được mang danh là “Mẹ của mọi nhà thờ” trên thế giới. Cũng giống như các đền thờ khác, thánh đường La-te-ra-nô đã nhiều lần bị hỏa hoạn. Đến thế kỷ thứ 16, đã đươc xây dựng lại như ngày nay dưới thời Đức Giáo Hoàng Sis-tô V (1585-1590).
Thánh đường La-tê-ra-nô có chiều dài 130 m, chia thành 5 gian. Gian chính dài 87 m, rộng 16 m, có tượng 12 tông đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào thánh đường, bên phải có cây đàn phong cầm vĩ đại với 2000 ống. Sau tòa giảng là Giếng rửa tội mà theo truyền thuyết, tại đây hoàng đế Con-stan-tine đã được Đức Giáo Hoàng Sil-ves-tro ban bí tích rửa tội. Phía ngoài bên trái nhà thờ, có cây tháp cao tới 47 mét làm bằng đá hoa cương màu đỏ.
2) Về đại lễ Vượt Qua của đạo Do thái:
Đối với dân Do thái, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ do Mô-sê lãnh đạo để về Đất Hứa là xứ Ca-na-an. Lễ Vượt qua được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Ni-san, tức tháng 4 Dương lịch. Mọi người Do thái từ 12 tuổi đều tham gia cuộc hành hương về Giê-ru-sa-lem tham dự đại lễ. Cả những người Do thái tản mác khắp thế giới cũng về tham dự ngày đại lễ quan trọng nhất trong năm này. Dầu ở đâu, người Do thái vẫn ước mơ được về dự lễ Vượt Qua tại thành Giê-ru-sa-lem quê nhà ít nhất một lần trong đời. Trong thời gian giảng đạo, vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đều về thủ đô dự lễ cùng với các môn đệ.
3) Thuế Đền Thờ là thuế nào?
Đây là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên hằng năm phải đóng vào đên thờ Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm, người Do thái phải đóng thuế đền thờ trị giá nửa đồng siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Đồng siếc-lơ là loại tiền đơn giản do đền thờ phát hành, Các đồng tiền này phân biệt với đồng tiền Rô-ma: Trên đồng tiền này không có hình và ký hiệu của hoàng đế Rô-ma như tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội. Để tạo điều kiện giúp người dân đóng thuế cho đền thờ, các tu tế cho lập các bàn đổi từ đồng tiền Rô-ma sang đồng tiền Đền thờ. Tiền huê hồng từ tiền Rô-ma sang đồng siếc-lơ băng một phần tư ngày công lao động. Do đó số tiền thuế Đền thờ và số lợi tức do việc đổi tiền mang lại là rất lớn.
4) Tại sao Đức Giê-su nổi giận và Người đã làm gì với bọn người này?:
– Điều khiến Đức Giê-su nổi giận là những tệ nạn bóc lột khách hành hương với giá cắt cổ của bọn con buôn do các thượng tế cấp phép hoạt động. Thật là tồi tệ khi tôn giáo đã bị bon đầu mục và đám con buôn Do thái lạm dụng trục lợi bất chính, gây bao thiệt hại cho người nghèo..
– Bên cạnh bàn đổi tiền, một số người lại mang bò, chiên, bồ câu đến bán cho khách thập phương dâng vào đền thờ. Luật này quy định các con vật được dâng làm của lễ phải lành lặn không mang tỳ vết. Các con vật trước khi dâng phải qua cuộc kiểm định. Tuy nhiên mỗi con vật được mua bán trong đền thờ lại đắt gấp 15 lần so với bên ngoài.
– Chính những điều này đã khiến Đức Giê-su bức súc nổi giận. Người đã lấy các đoạn dây thừng bện lại làm roi và đuổi bọn con buôn cùng đoàn vật là chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người cũng làm tung tóe và lcòn ật đổ bàn ghế của chúng.
5) Phải đánh giá thế nào về cơn giận của Đức Giê-su?
– Trong Tin mừng rất ít khi Đức Giê-su tỏ thái độ nóng giận. Trừ vài ba trường hợp nặng lời quở trách thói giả hình của người Pha-ri-sêu (x. Mt 23,13-32), hay trách mắng Si-mon Phê-rô (x. Mt 16,23), còn Đức Giê-su luôn tỏ ra bình thản trước các biến cố xảy ra: Người đón nhận nụ hôn phản bội của môn đồ Giu-đa (x. Mt 26,50); im lặng trước những lời vu cáo buộc tội của các đầu mục Do thái trước thượng hội đồng Do thái (x. Mt 26,59-63), im lặng khi bị cáo gian trước tòa Phi-la-tô (x.Mt 27,12); Người cũng cầu xin Chúa Cha tha tội và bào chữa lỗi cho những kẻ hành hạ Người “vì họ không biết việc họ làm” (x Lc 23,34).
– Vậy tại sao Đức Giê-su lại nỗi giận, xua đuổi con buôn ra khỏi đền thờ và nói: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16), vì: “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).
Qua những từ: Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a xưa đã trách mắng dân Do thái ( x Gr 7,11).
– Đức Giê-su đã làm một cuộc thanh tẩy Đền thờ do lòng yêu mến nhà Chúa, như lời thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Về sau dân Do thái đã quyết định giết Đức Giê-su khi xét xử Người trước thượng hội đồng và tòa Phi-la-tô (x Mt 26,65-66).
3. SUY NIỆM:
1) Vai trò của nhà thờ thời Cựu Ước và Tân Ước:
Trong thời Cựu ước, đền thờ và hòm bia giao ước là những nơi đặc biệt dành riêng cho việc thờ phượng như lời Đức Chúa: “Từ nay Ta sẽ ghé mắt nhìn và lắng tai nghe lời cầu nguyện dâng lên ở nơi đây. Vì Ta đã chọn và thánh hoá nhà này, để muôn đời Danh Ta ngự tại đây” (2 Sb 7,15-16). Điều này giải thích thái độ nổi giận của Đức Giê-su với những người đổi tiền bạc trong đền thờ, vì họ đã biến nhà thờ phượng Chúa Cha thành nơi buôn bán (x. Ga 2,16). Trong thời Tân Ước, Đức Giê-su có lần đã khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri-a: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… Giờ những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21-23). Tuy nhiên, nhà thờ và nhà tạm vẫn luôn là nơi cầu nguyện, cử hành việc phụng tự và là nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa.
2) Tại sao Hội thánh mừng kính một ngôi thánh đường bằng vật chất?:
Hôm nay là lễ cung hiến Đền Thờ La-tê-ra-nô. Có người thắc mắc: tại sao Hội thánh lại mừng kính mừng một ngôi thánh đường, thay vì thờ kính Chúa, Đức Mẹ hay các thánh như thường lệ? Sở dĩ Hội thánh mừng kính thánh đường La-tê-ra-nô, vì là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, và là biểu hiệu của hai điều quan trọng này: Một là nói lên sự hiệp nhất của các tín hữu, là nơi liên kết mọi thành phần trong cộng đoàn trở thành thân mình mầu nhiệm của Chúa là Hội thánh. Trong đó Đức Giê-su là đầu, và mọi tín hữu đều là anh em của nhau. Hai là thánh đường là nơi sinh hoạt đức tin: Hằng ngày hằng tuần, các tín hữu hội họp trong nhà thờ để cùng cầu nguyện và làm việc thờ phượng tạ ơn và cầu xin các ơn lành hồn xác.
3) Phải chăng chỉ cần giữ đạo tại tâm, không cần phải đến nhà thờ?:
Có những người cho rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, nên người ta có thể cầu nguyện với Ngài bất cứ lúc nào và ở đâu, chứ không cần phải đến nhà thờ mới thờ phường được.
Thực ra, nên nhớ rằng: loài người chúng ta có 5 giác quan, nên cần phải có những biểu hiệu bên ngoài như nhà thờ, bàn thờ, tượng ảnh, đèn nến… để khơi dạy đức tin và tâm tình đạo đức trong lòng của các tín hữu. Chính khi đến nhà thờ hiệp thông cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời. Ngoài ra, nhờ có nhà thờ hữu hình mà các tín hữu cũng được nâng đỡ rất nhiều về đức tin. Khi làm việc thờ phượng chung tại nhà thờ, người tín hữu sẽ được ăn hai của ăn là Lời Chúa và Mình thánh Chúa. Ngoài ra khi bị khô khan, nếu biết cậy trông và phó thác mọi sự trong quyền năng của Chúa khi cầu nguyện tại nhà thờ thì đức tin của chúng ta sẽ ngày một tăng cường.
4) Vai trò quan trọng của nhà thờ đối với đức tin:
a) Nhà thờ là trung tâm sinh hoạt đức tin của người tín hữu: Nhà thờ là nơi gắn liền mọi sinh hoạt đức tin: Từ khi mới sinh, ta đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để lãnh nhận bí tích rửa tội. Đến tuổi khôn, chúng ta được xưng tội, rước lễ lần đầu và thêm sức trong nhà thờ. Khi lỡ sa ngã phạm tội, chúng ta đến nhà thờ để được lãnh ơn giao hòa với Chúa qua bí tích giải tội. Khi lập gia đình, đôi thanh niên nam nữ cùng nhau đến nhà thờ cử hành bí tích hôn phối. Khi một người đươc gọi lên chức thánh, chúng ta đến nhà thờ chính toà tham dự thánh lễ truyền chức phó tế và linh mục. Khi bị bệnh nặng có nguy cơ tử vong, chúng ta đến nhà thờ xin linh mục ban bí tích xức dầu bệnh nhân, hoặc mời linh mục đến tư gia hay bệnh viện ban các bí tích sau hết. Rồi khi nhắm mắt lìa đời, thân xác chúng ta lại được người thân rước ra nhà thờ tham dự thánh lễ an táng trước khi được chôn cất tại nghĩa trang hay hỏa thiêu và được gửi tro cốt vào trong nhà chờ phục sinh.
b) Thái độ phải có khi vào nhà thờ:
-Về y phục: Nhà thờ không những là nhà của Thiên Chúa, mà còn là nhà của Hội thánh, trong đó mỗi tín hữu là một thành viên. Khi đến gặp gỡ một nhân vật quan trọng, chúng ta phải ăn mặc lịch sự đẹp đẽ. Cũng vậy, khi đến gặp Chúa Giê-su tại nhà thờ, chúng ta cần chuẩn bị một tâm hồn thanh sạch, với thái độ trang nghiêm phù hợp, để biểu lộ niềm tin tưởng và yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa và chắc chắn sẽ làm vui lòng Ngài.
-Cử chỉ tôn kính: Thánh đường công giáo nếu được cung hiến sẽ trở thành nơi thờ phượng chung. Trong thánh đường luôn có Chúa Giê-su Thánh thể hiện diện trong nhà tạm, nên cần phải biểu lộ đức tin bằng cử chỉ tôn kính như bái gối, cúi mình. Người Do thái hay Hồi giáo khi đến Đền thờ luôn tỏ thái độ tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật, bằng việc để giày dép ở ngoài nhà thờ.
– Thờ Chúa trong tâm hồn: Mỗi người tín hữu đều có bổn phận biến tâm hồn trở thành một nhà thờ, xứng đáng cho Chúa vào ngự trị. Trong ngôi thánh đường thiêng liêng này, mỗi người chúng ta có bổn phận thắp lên ngọn nến đức tin, giúp chúng ta vững bước trên đường tin yêu phó thác. Trái tim của chúng ta phải là bàn thờ, mỗi ngày được dâng lên Chúa của lễ cao quý là tâm tình yêu mến biết ơn kèm theo những việc lành cụ thể để kết hiệp với lễ vật cao trọng nhất là Chúa Giê-su, đã dâng mình trên thánh giá xưa, nay tiếp tục tái hiện trong bí tích Thánh thể trên bàn thờ để nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ.
– Xây dựng tâm hồn trở thành đền thờ của Thiên Chúa: Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và được cung hiến khi chúng ta chịu phép rửa tội như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3,16). Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá. Bởi vì đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Giê-ru-sa-lem đi nữa thì một ngày kia, cũng sẽ bị sụp đổ như lời Đức Giê-su: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6). Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.
5) Dốc quyết: Đền thờ nói tới ở đây chính là thân thể của Đức Giê-su mà mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa Giê-su chính là một đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, trong tinh thần và chân lý (Ga 4,24). Mỗi người quyết tâm làm gì để biến thân xác nên đền thờ dâng kính Thiên Chúa?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Tin mừng lễ kính đền thờ La-tê-ra-nô hôm nay cho thấy Chúa đã nổi giận thẳng tay xua đuổi bọn con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã làm ô uế đền thờ khi biến một nơi dành để thờ phượng Thiên Chúa thành nơi buôn bán đầy xảo trá bất công và gian ác. Xin Chúa cũng hãy ngự vào lòng con mỗi lần con dự lễ và rước lễ, xin hãy xua đuổi các tội lỗi và các thói hư ra khỏi lòng trí chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng trở thành ngôi đền thờ sống động của Thiên Chúa. Amen.
12.Cung hiến Thánh Đường Latêranô--Lm Hồ Thông
Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.
Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed 47, 1-2, 8-9, 12
Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr 3, 9-11, 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga 2, 13-22
Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.
Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ýnghĩa mới.
1. Thực tại địa lý.
Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2. Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.
Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).
Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3. Bên phải Đền Thờ:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.
4. Đền Thờ.
Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.
Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1. Nhà Thiên Chúa.
Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2. Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.
Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1. Khung cảnh bên ngoài.
Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế - đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.
Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
13.Tẩy uế Đền Thờ--tgpsaigon.net
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2,16)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.
Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).
“Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
“Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16; 14,26).
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích...gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
14.Thanh tẩy--Lm Trần Ngà
Từ thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem...
Chúa Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường...” ( Mt 11, 29 )
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các ông. (Lc 9, 54)
Khi có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ ám (Ga 7, 20), là người dại dột... Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo, Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy mà... khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”, dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt 12, 20 )... giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất bình xiết bao!
Đến thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian, vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn... chứ không phải bằng gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin hãy hồi tâm...
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn mình trong đó... để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
15.Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Ðền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Ðây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Ðó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Ðây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
16.Chúa Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1. Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Ga có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17;Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và các bản văn song song) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL: Mc 11,28 và các bản văn song song).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng dung hòa (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL, có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Ga. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do Ga 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tCN (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 sau CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất. Còn khi đọc TM Ga, chúng ta thấy ít nhất Đức Giêsu lên Giêrusalem ba lần để tham dự lễ Vượt Qua (Ga 2,13; 6,4 và 11,55).
2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Ga đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ngài trung thành với quan điểm ngài đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (2,4.11): ngài muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, ngài muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
Đặt vào trong ngữ cảnh TM IV, chúng ta thấy bài này nối tiếp truyện Tiệc cưới Cana ở 2,1-11. Trong truyện Tiệc cưới Cana, có nhiều phạm trù chỉ thời gian (trước/sau; thiếu/dồi dào; rượu xoàng/rượu ngon); trong bài tường thuật Thanh tẩy Đền Thờ, lại có nhiều phạm trù chỉ không gian (Đền Thờ/xua đuổi/khỏi nơi đây/nhà Cha tôi). Do đó, có thể nói rằng, trong ngày đầu, tác giả Gagiới thiệu Đức Giêsu như là Đấng thánh hóa cả những thời gian lẫn những không gian thánh thiêng của Israel.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3. Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tô hierô, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh, có thể gọi là “cung thánh”). Từ ngữ hierôn được dùng 13 lần (x. cả naon trong Ga 2,19.20.21).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17):Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu lạ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay.
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng tiêu cực vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong TM IV, tác giả không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và Dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của Dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy…”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy…”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Từ ngữ naos có thể hiểu là Đền Thờ đúng nghĩa.
- bốn mươi sáu năm (20):Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay cung cấp tiền bạc sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (1 Cr 3,16 và 12,27; x. Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô Phục Sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại … Họ tin (22): Mc cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Ga thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Ga ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 15/16,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh Ga 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23):Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4. Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào mộtđại lễ khác. Đây không phải là mộtlễ của mộtđôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh mộtthôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho họ thành mộtdân độc lập và thành Dân Ngài.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã làm tăng thêm tình trạng náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu chữa lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới mộtphương diện hoàn toàn khác. Là mộtngười khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra mộtsự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quý nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc šeqel bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là mộtsinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Người. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến … Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim… Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ) …” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứDacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp bằng biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng … Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới “Giờ” rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 68/69: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân …”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Tv này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 68/69,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 68/69,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc. 19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đức Giêsu đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy …”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy …”. Trong bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể làm như thế được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý nhắm vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn. Trong TM IV, có nhiều lần người Do Thái hiểu lầm Đức Giêsu; thường các hiểu lầm đó liên hệ đến mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu (Kitô học Ga): 2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Ga cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến mộtcái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứHôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu mến Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Chúa Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Chúa Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Chúa Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình.Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờvà xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5. Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Người phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bộ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như mộtsự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề ra những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có mộttrọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua mộtđoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
17.Đền Thờ sống động--AM Trần Bình An
Vào năm 1866, Cha Trần Lục thừa lệnh Đức Cha Chiêu (Mgr. Theurel) đến kinh đố Huế, triều yết Vua Tự Đức, để xin trả lại làng Vĩnh Trị cho người Công Giáo, ngài có dịp quan sát các đền đài, lăng tẩm thật lộng lẫy. Cha Trần Lục tự hỏi: “Tại sao một vì Vua trần thế thì ở trong một ngôi đền lộng lẫy như thế, mà Vua Trên Trời lại không ở một ngôi đền như vậy?” Từ cuộc thăm viếng này, ngài nảy ra ý định xây một ngôi đền theo kiến trúc dân tộc Việt Nam, như các đền lăng tẩm ở Huế, để dâng kính Thiên Chúa, dâng kính Mẹ Maria và các Thánh…
Năm 1891, Cha Trần Lục khởi xây Nhà thờ kính Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, cũng gọi là Nhà Thờ Lớn, bây giờ là Nhà Thờ chính tòa Phát Diệm, sau này thánh hiến ngày 7.10. 1991. Nhà thờ 4 mái ngói, xây theo phong cách Á đông, pha chút Gô tích. Cả kiến trúc gồm có 9 vì kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Nhà thờ dài 74 mét, cao 16 m, rộng 21m. Có 48 cột lim lớn, trong đó 16 cột ở giữa, chu vi mỗi cột 2,35 m, cao 11m và nặng 7 tấn. Trên mỗi cột khắc tên Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse. Nhà thờ gồm 9 gian: gian cung thánh, gian kiệu và 7 gian giáo dân. Gian cung thánh đặt một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối, dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa, làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Chiêm ngưỡng, Bà Yvonne Schultz xúc động: “Các Ngài hãy ngắm cả cái bàn thờ chính đục nổi, chạm bóng mà sơn son thiếp vàng chói lọi… Có lẽ khắp hoàn cầu không có những nhà thờ nào rực rỡ như trong nhà thờ ở Phát Diệm, trùng trùng điệp điệp những bức phù điêu, càng vào trong, càng lộng lẫy.” (Illustration, 9.11.1929)
Gian cung thánh hoàn toàn chạm trổ, sơn son thiếp vàng lộng lẫy trên gỗ theo kiểu Á đông, với mây, tre trúc và các hoa văn dân tộc, mà đường nét, màu sắc vẫn còn rực rỡ sau hơn 100 năm. Ngoài ảnh Đức Mẹ Mân Côi, Thánh Đa Minh và Thánh nữ Catarina, củng như các thiên thần, Cha Sáu còn khắc họa đậm nét Giáo hội tại Việt Nam qua chân dung 6 vị Tử Đạo: Thánh Anê Đê Lê Thị Thành, Thánh Micae Hồ Đình Hy, Thánh Phêrô Cao, Thánh Phao lô Phan Khắc Khoan, Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ. Trên tường hai bên, 14 bức phù điêu Đàng Thánh Giá chạm nổi trên gỗ khá tinh vi nghệ thuật. (Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả, Nhà thờ chính tòa Phát Diệm, Trần Lục)
Hành hương Nhà thờ chánh tòa Phát Diệm phong phú bản sắc kiến trúc, để cùng nhau hướng tâm hồn mừng lễ cung hiến Đền thờ Latêranô, cũng được gọi là “Mẹ và là đầu của mọi nhà thờ trên thế giới.” Tin Mừng Thánh Gioan tường thuật Đức Giêsu tẩy uế đền thờ Giêrusalem, để mời gọi Kitô hữu thanh luyện tâm hồn mình, xứng đáng trở nên Đền Thờ sống động, như chính Người đã thực thi gương mẫu.
Đền Thờ khiêm nhu
Vào Đền Thờ, nổi cơn giận thánh, Đức Giêsu lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”(Ga 2, 15-16)
Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi Lời Chúa còn xung thiên nộ khí, dữ dội, đau đớn, nhức nhối, phẫn uất và xót xa hơn thế nữa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mt 21, 13; Mc 11, 17; Lc 19, 46)
Đức Giêsu luôn mong đợi tín hữu khiêm tốn, ý thức thân phận tội lỗi, phản bội, đến Đền Thờ cầu xin ăn năn, sám hối, như người thu thuế thành tâm đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực, vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13)
Xua đuổi của cải, tiền bạc, gian xảo, lưu manh, chức tước, danh lợi, kiêu căng, bất nhân, ra khỏi tâm hồn, là noi gương Đức Giêsu đã xua đuổi khỏi Đền Thờ chiên bò, bồ câu, tiền bạc. Ngày xưa, Môsê đã buộc tư tế phải thanh tẩy toàn thân trước khi bước vào Lều Hội Ngộ. (Xh 40, 32) Bởi vì, không ai làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. (Mt 6, 24; Lc 16, 13)
Đền Thờ hạnh ngộ
Trong các đại lễ, Đức Giêsu vẫn lên Đến Thờ gặp gỡ Cha Người (Lc 2, 41-50). Đồng thời Đền Thờ còn là nơi gặp gỡ tha nhân, như người công chính Simêon và ngôn sứ Anna. (Lc 2, 25-35; 36-38). Hằng ngày, Đức Giêsu đều sốt sắng cầu nguyện sáng tối, để Đền Thờ Người luôn được hạnh ngộ với Chúa Cha. Cũng như Người luôn tìm đến và kêu gọi những con chiên lạc bầy, lem lấm tội lỗi, bất hạnh, người thu thuế, kẻ bán hoa, người hoang đàng, nghèo khổ, bệnh tật, …
Mỗi khi cầu nguyện, suy gẫm, mỗi khi viếng Thánh thể, đọc và nghe Lời Chúa, rước Mình Thánh Chúa, là tín hữu được tiếp đón Chúa ngự vào Đền Thờ cá nhân. Đồng thời, mỗi khi xả kỷ vị tha, dấn thân, phục vụ cộng đồng, giúp đỡ người nghèo khổ, là Đền Thờ tín hữu cũng đón tiếp, gặp gỡ tha nhân chân tình, chứa chan thương yêu. Như thế, Đền Thờ sống động trở thành nơi hạnh ngộ giữa Thiên Chúa và tha nhân. “Ta bảo thật, mỗi lần anh em làm những sự ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì được kể như làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31-40).
Đền Thờ hiến tế
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.” (Tv 69, 10) Lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn và chết trên thập giá sau này của Người, vì hoàn toàn vâng phục thực hiện Thánh Ý Chúa Cha, muốn cứu độ con người khỏi cái chết đời đời.“Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2, 19) Đền Thờ là chính thân thể Đức Giêsu sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, sau ba ngày phục sinh.
Với tư cách là chi thể của Đức Giêsu, mỗi Kitô hữu đều là Đền Thờ của Thiên Chúa. “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6,15) Vì thế Thánh Phaolô khuyên tín hữu sống sao xứng hợp để tôn thờ Thiên Chúa: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1)
Hiến dâng thân thể cho Thiên Chúa là noi gương Đức Giêsu hiến thân, Mình và Máu đổ ra cứu chuộc thế gian, sẵn sàng chịu mọi khổ nhục, tra tấn, roi vọt, hoạn nạn vì danh Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.” (Lc 9, 23)
“Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác Thánh Giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác Thánh Giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (Đường Hy Vọng, số 171)
Lạy Chúa Giêsu, Người vốn là Đền Thờ Thiên Chúa, kinh xin Người cải hóa, canh tân, thanh tẩy Đền Thờ bản thân chúng con trở nên xứng đáng để long trọng đón tiếp, hạnh ngộ Chúa và tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vinh dự trở nên Đền Thờ Thiên Chúa, khi Mẹ thưa hai tiếng “Xin Vâng.”Kính xin Mẹ dạy chúng con luôn biết chân thành thưa hai tiếng ấy cùng Chúa luôn. Amen.
18.Biểu tượng của đức tin--P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn. Đức Giêsu – Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trở nên Hữu Hình như phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi. Là biểu tượng của tình thương, lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vốn dĩ là Thiên Chúa, nên vô hình, siêu nhiên, nên chi không đáp ứng tính tự nhiên hữu hình cho phàm thế. Vì vậy, Người đã trở nên hữu hình cho phàm nhân và vì phàm nhân. Vì vậy, “Người đã từ Trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và đã làm Người” (Kinh Tin Kính).
Như vậy, khi nói đến biểu tượng là nói đến sự nhìn thấy tỏ tường, đó là nhu cầu của phàm nhân. Vâng, nhưng ý nghĩa phần chia sẻ hôm nay xin mượn cụm từ “BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN” làm chủ đề. Vâng, như vậy, chủ đề chia sẻ hôm nay nói lên điều gì, thưa quý vị. Thưa, nói lên: “Công Trình Cứu Chuộc” của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Bởi vì, Người là Thiên Chúa thật và là Người thật. Muốn nhận ra Người là Thiên Chúa thật, thì phải có Đức Tin, như vậy, Đức Tin mang ý nghĩa siêu nhiên. Còn nếu muốn nhận ra Người là Người thật, thì phải tin vào Giáo Hội của Người.
Hôm nay, Giáo Hội Công Gíao Mừng Kính Lễ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LATERANO, điều nầy có nghĩa là Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu qua Giáo Hội. Vì Giáo Hội được mệnh danh như là “Hiền Thê của Đức kitô”. Như vậ, biểu tượng của Đức Tin là Giáo Hội, biểu tượng của Giáo Hội là Đức Kitô.
Theo đó, một biểu tượng hữu hình đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, đây là một chứng tích vật chất, nhưng là một kỳ tích thiêng liêng, bởi vì, nơi thờ phượng, nơi hình thành lên, nhờ sự nhen nhúm của biết bao thánh tích anh hùng tử đạo, những vị thánh tiên khởi của giáo đoàn Roma, đã xây dựng nên bởi Đức Tin và máu đào. Có thể nói, trước khi Đạo Công Giáo lan rộng khắp nơi trên hoàn cầu, thì nơi đây chính là căn nhà đầu tiên để tôn thờ Thiên Chúa, theo Đường Lối của Đấng Cứu Thế Giêsu. Đây là ngôi Thánh Đường không những mang tính nghệ thuật cao cho đến nay, không lỗi thời, mà còn là một biểu tượng của niềm tin thời sơ khai. Mặc nhiên, nơi đây là “cái nôi” của Giáo Hội, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Là biểu tượng của tình thương, để từ đây lan tỏa khắp bốn phương, hầu thực thi Lời dạy của Đức Kitô, là: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, Nhân DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN” (Mt 28, 19).
Nếu chúng ta có dịp chiêm ngắm một ngôi thánh đường ở trong nước có tuổi đời trên một trăm năm, trăm năm mươi năm, sừng sững nguy nga, trang nghiêm mà duyên dáng, toát lên nét thánh thiện cổ kính, mang tính lịch sử, vượt trên ý nghĩa tôn giáo, mà ai ai cũng ngưỡng mộ. Vâng, đó là một chứng tích về thời gian của một niềm tin, về mặt hữu thể.
Còn chính tại trung tâm của Giáo Hội Công Gíao Hoàn Vũ đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, biết như vậy, để chúng ta được tự hào, vì có một thánh Đô nguy nga tráng lệ biểu tượng của niềm tin Kitô giáo. Vì mặc nhiên, chúng ta được phép tự hào trong Chúa, như thánh Phao-lô day: “Thưa anh em, những gì là tốt đẹp, thì anh em hãy tự hào trong Chúa…”.
Vì: “Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantino xây và được ĐGH Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh đường nầy được tiếp tục là nhà thờ Chính Tòa của Đức Giáo Hòang, Giám Mục Rôma. Vì vậy, được gọi là: “Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis”, là Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. Chiều dài 130 m, có 5 gian, gian chính dài 87 m, rộng 16m. Có 12 tượng thánh Tông Đồ bằng cẩm thạch trắng. Bước vào Đền Thờ, bên phải c1o đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Sylvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất 47m, và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ ở Ai-cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Giáng Sinh. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng của Giáo Phận Rôma, vì vậy Đền Thờ thánh Gioan ở Laterano mang ý nghĩa nhắc nhở “Hồng Ân Rửa Tội” với tất cả ý nghĩa của ơn nầy, hầu nhắc nhở các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô (Trích tài liệu của Roma).
Theo đó, chúng ta thấy, Thánh Đường Laterano là một nơi biểu tượng tôn giáo, niềm tin và tính lịch sử trọng đại, mà mọi tín hữu khắp hoàn cầu đều mong muốn tìm về, để chiêm ngưỡng kỳ tích vừa hữu thể, vừa thiêng liêng, đó là Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano.
Bây giờ xin trở lại phần suy niệm Lời Chúa hôm nay (Ed 47, 1-2;8-9; 12) (1Cr 3, 9c- 11; 16-17) (Ga 2, 13-22).
KhởI đi từ bài đọc I (Ed 47, 1-2: 8-9;12), cho chúng ta thấy một mầu nhiệm từ nguồn nước Thanh Tẩy. Đó là “BIỂU TƯỢNG NƯỚC THÁNH TẨY”, mà sau nầy Giáo Hội dùng Lời Kinh Thánh nầy mà lập nên lời kinh rảy Nước Thánh trước mỗi Thánh Lễ. Nước này chảy đến đâu đều được tẩy rửa và có sự sống nơi đó. Ý nghĩa nầy tượng trưng Bí Tích Thánh Tẩy, là chính Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người. Như vậy, chính là “BIỂU TƯỢNG CỦA NIỀM TIN”, cho mọi kẻ tin.
Tiếp đến là Bài đọc II thánh thư thánh Phao-lô (1Cr 3, 9c -11; 16-17) thánh Phao-lô xác tín cách quả quyết, đền thờ của Thiên Chúa chính là Thân xác và linh hồn của người Kitô hữu. Vì mỗi Kitô hữu chính là đền thờ của Thiên Chúa, vì Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong họ. Theo đó, thân xác và linh hồn của những ai bước theo Đức Kitô đều được thánh hiến cho Thiên Chúa. Vì vậy, ai phá hủy đền thờ tâm hồn và thân xác của họ, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. (C 16-17).
Thánh vịnh 45, 2, 4: 12 cho thấy “Chúa là Đồn lũy chở che con”, chính là dòng nước sự sống nơi đó là Thánh Điện của Thiên Chúa muôn muôn đời.
Theo đó, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay (Ga 2, 13-22), là phần B. Lễ Vượt Qua thứ I. Thuộc PHẦN 1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI- THUỘC PHẦN. II- SỨ VỤ RAO GIẢNG CỦA CHÚA GIÊSU.
Có thế thấy, đây là điểm nổi bật của Tin Mừng theo thánh Gioan, bởi vì mở đầu cho hành trình cứu chuộc của Đức Kitô, Người lên Giêsusalem, việc đầu tiên Người làm là tẩy uế Đền Thờ. Một công việc, một hành động mà giới luật sĩ, biệt phái cho là phạm thượng. Bởi vì, sau khi được xây dựng lại ( lần III), thì đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm. Nhưng, Chúa Giêsu bảo: “Hãy phải nó đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại.” Vì, mặc nhiên, Đền Thờ Giêrusalem vật chất nầy đã bị phá hủy và xây dựng lại hai lần rồi, chứ không phải là đền thờ nguyên thủy. Chúng ta thấy, khi nói như thế, Chúa Giêsu đã dùng một biểu tượng của sự tự nguyện “nộp mình” chịu chết cho nhân loại, tiêu biểu là dân tộc Israel. Một dân tộc mà Thiên Chúa đoái thương trước hết. Sự ô uế, tội lỗi công khai phức tạp điễn ra nơi Đền thánh, là phạm thánh, tuy mục đích ấy là phục vụ đền thánh. Thiên Chúa không đồng ý việc thờ phượng như vậy. Chúa Giêsu, trước khi tự nguyện nộp mình, thì đây là một trong những sứ vụ của Người. Chúng ta thấy tầm quan trọng như thế nào trong việc Chúa Giêsu tẩy uến Đền Thờ. Người rất mực hiền lành và nhân từ, điểm nầy nổi bật trong việc tự nộp mình chịu chết, nhưng khi xúc phạm đến Đền Thờ, việc phụng thờ Thiên Chúa cách chính đáng, thì Người không thể dửng dưng. Việc làm nầy hoàn toàn phù hợp với tư cách Thiên Sai của Chúa Giêsu, chúng ta thấy, sự hiền lành và khiêm nhường tuyệt đối nơi Chúa Giêsu, không phải là sự thiếu trách nhiệm trong việc xúc phạm đến Thiên Chúa trong việc tôn thờ. Sự hiền lành của Chúa Giêsu phát xuất từ chân lý, từ tình thương cứu độ nhân loại. Nhưng, việc “giận dữ” trong việc xua đuổi sự ô uế là việc của Đấng Thiên Sai. Chúng ta có nhắm mắt làm ngơ khi nhìn thấy sự thờ phượng thiên cháu bị xúc phạm không? Chúng ta có ngụy biện rằng thờ phượng Thiên Chúa trong tâm hồn là đủ, khi thấy những cớ sở thờ phượng bị ô uê theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Chúng ta có can đảm lên tiếng bênh vực theo khả năng của mình hay làm ngơ, “sống chết mặc bay, của thầy bỏ tú”. Những cơ sở của Giáo Hội bị trưng dụng, bị chiếm hữu phi pháp, bị lấy đi bỏ phế, không sử dụng, không cho sử dụng vì mục đích tôn giáo. Chúng ta có biết: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây phải bị thiệt thân”( Ga 2, 17) không? Hay chúng ta bàng quang cho rằng: “Nhiệm vụ rao giảng là chính chứ không phải là cơ sở vật chất”. Chúng ta có mặc lấy sự can đảm của Chúa Thánh Thần trong việc “Tẩy uế đền thờ” như Chúa Giêsu không?
Căn cứ Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy việc “tẩy uế đền thờ” mà hôm nay Chúa Giêsu thực hiện, chính là một trong những việc đầu tiên của Người khi thi hành sứ vụ công khai. Sau việc kêu gọi các môn đệ, đi theo Người. Sau phép lạ “Tiệc Cưới Ca-na “, thì đây là sự kiện quan trọng trong bối cảnh thực thi sứ vụ công khai của Người. Đây cũng là “chi tiết” chỉ có nơi Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 2, 13 -22).
Thiết nghĩ đây chính là “Lửa mến nhiệt thánh tông đồ” của mỗi Kitô hữu, cũng là một trong những sứ vụ truyền giáo, mà qua hàng ngàn, hằng lớp những người bước theo Chúa Kitô phải mặc lấy đó là:
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải bị thiệt thân”. (Ga 2, 17).
Vì đây cũng là trọng tâm trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Chứ đừng nghĩ rằng: Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng là chính “chứ không phải là đất đai”. Vô hình trung, quên mất trách nhiệm đề cao công bằng trong xã hội, theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội. Thật tiếc thay!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng lửa nhiệt thành mà thiêu đốt sự nguội lạnh, để tăng lòng mến là sự nhiệt thành lo việc nhà Chúa là Cha trên Trời, mà dùng lửa Thánh Linh để thanh tẩy. Xin cho những ai bước theo Chúa cũng quyết tâm thực hành điều Chúa truyền dạy. Dù phải tổn hao tâm lực, vì sự nhiệt thành ấy là lửa mến trong chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen./.
19.Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa--Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi
Thánh Gio-an mô tả Chúa Giê-su luôn là một con người nhiệt tâm, nhiệt tâm với những sứ mệnh Chúa Cha trao ban và nhiệt tâm với tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của Người.Sự nhiệt tâm ấy được biểu lộ qua những công việc Người làm trong khi thi hành kế hoạch cứu độ.Biến cố Người đuổi những kẻ buôn bán và đổi tiền bạc ra khỏi Đền Thờ chỉ là một trong những hành vi được thúc đẩy bởi động lực nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.Vậy chúng ta học được gì qua hành động này của Chúa Giê-su?
Thánh Gio-an ghi lại thời gian xảy ra sự kiện là “gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái”. Chắc chắn đây là thời điểm Giê-ru-sa-lem náo nhiệt do khách hành hương lui tới, đồng thời cũng là dịp để các con buôn tha hồ “bóc lột” họ trong những dịch vụ buôn bán.Đền Thờ không nhận tiền ngoại quốc, nên người ta phải đổi ra tiền Do-thái.Thế là những kẻ đổi bạc bắt chẹt khách hành hương để làm giàu.Những kẻ buôn bán chiên bò cũng chẳng chịu thua, tìm đủ cách lợi dụng lòng mộ đạo của khách hành hương mà tăng giá chiên bò lên.Thật đúng là “sào huyệt của bọn cướp” như lời Chúa Giê-su đã nhận định (Mát-thêu 21:13)!Thấy cảnh chướng tai gai mắt xúc phạm đến Đền Thờ của Cha Người, Chúa Giê-su thẳng tay tìm cách “thanh tẩy”, trước hết là những ô uế bên ngoài như chiên bò và tiền bạc, rồi đến những ô uế bên trong là lòng tham lam của cải và bất kính đối với Thiên Chúa.Tuy nhiên Người cũng đủ khôn ngoan và bình tĩnh để không đi tới bạo động, bằng cách “lấy dây làm roi” đánh đuổi cả người lẫn loài vật ra khỏi Đền Thờ.Dây roi đâu có giết được người ta, mà mục đích chỉ là xua đuổi họ thôi!
Như vậy, chúng ta nhận thấy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa đòi hỏi người ta phải nhận biết những giới hạn.Đâu phải hễ cứ nhiệt tâm lo việc nhà Chúa là có quyền phê bình chỉ trích tất cả những gì không vừa ý mình.Linh mục không thể “nhiệt tâm” đến độ lên tòa giảng là lớn tiếng mắng mỏ con chiên bổn đạo.Giáo dân cũng không vì nhiệt tâm mà kéo bè kéo cánh tìm cách nói xấu và hạ uy tín của linh mục hay của những người làm việc tông đồ cho giáo xứ.Lại có những thứ nhiệt tâm trá hình, mượn “lòng yêu nước” để lên án cách cư xử khôn ngoan của các giám mục đối với một số chính sách của chính quyền…
Trái ngược với thứ nhiệt tâm để bảo vệ che chở mình là thứ “nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”.Nhiệt tâm cách này thì không ai có thể qua mặt được Chúa Giê-su.Vì hăng say rao giảng Tin Mừng, Người đã trở thành cái đích cho những soi mói, bắt bẻ, dọa nạt của những kẻ thù là nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư.Vì thương xót người tội lỗi, yếu đau bệnh tật, bị ma quỷ cầm buộc, mà Chúa Giê-su đã bất chấp luật ngày sa-bát để bênh vực, chữa lành và tha thứ tội lỗi, để rồi Người bị kết án là không tuân thủ Lề Luật và truyền thống cha ông.Cuối cùng, vì nhiệt tâm đối với toàn thể nhân loại đang nằm dưới ách nô lệ tội lỗi và sự chết, Chúa Giê-su đã chịu “thiệt thân” theo nghĩa đen, chết nhục nhã trên thập tự, để chu toàn “việc nhà Chúa” là phục hồi cho họ sự tự do và chức phận làm con cái Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Vương cung Thánh đường Latêranô là một biểu tượng của Giáo Hội Chúa Ki-tô, giống như Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là biểu tượng của Do-thái giáo ngày xưa.Theo dòng lịch sử, Đền Thờ đã bị phá hủy, còn Thánh đường Latêranô tuy trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn kiên vững.Chúa Giê-su đã hứa gìn giữ Giáo Hội được bền vững trước quyền lực tử thần (Mát-thêu 16:18) vì nền móng của Giáo Hội là chính Chúa Giê-su Ki-tô.Nhưng Giáo Hội không chỉ là những ngôi thánh đường bằng gỗ đá hay kim loại, mà chủ yếu là mỗi Ki-tô hữu bằng xương bằng thịt, như thánh Phao-lô quả quyết:“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cô-rin-tô 3:11,16).
Vậy lễ cung hiến Thánh đường Latêranô hôm nay là một nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về lòng nhiệt tâm đối với việc nhà Chúa. Mọi tín hữu hãy tùy theo khả năng và những đặc sủng Chúa ban mà cố gắng xây dựng Giáo Hội tại trần gian.
20.Lễ cung hiến đền thờ Lateranô--Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Hôm nay chúng ta mừng lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô. Đây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, giám mục thành Rôma, và là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà, để dành riêng cho việc phụng tự. Đồng thời nhà thờ là nơi các tín hữu họp nhau để tôn thờ, cảm tạ Chúa và cử hành mầu nhiệm đức tin. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chỉ nơi đây, con người mới gặp gỡ được Thiên Chúa trong niềm tin.
Mừng kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một công trình mang tính lịch sử. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ lớn lao hơn, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Ngài đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”.
Như thế, Đức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem, nhưng Ngài muốn nói đến chính đền thờ thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại; thân thể bị giết chết và được phục sinh. Đức Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới, mọi tín hữu được mời gọi bước vào Đền Thờ này.
Anh chị em thân mến,
Hội Thánh sánh ví như một Đền Thờ thiêng liêng và mỗi tín hữu là một viên đá sống động, mà Đức Kitô là tảng đá nền.
Thánh Phaolô khẳng định “ Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh em”. Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”. Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu chúng ta đều là Đền Thờ thiêng liêng, được thánh hiến qua Bí tích rửa tội.
Đền thờ Giêrusalem là nơi để thờ phượng Thiên Chúa; nhưng người Do thái đã tục hóa biến đền thờ thành nơi tụ tập buôn bán, đổi chác… vì thế, Chúa Giêsu đã thịnh nộ xô đổ bàn ghế, xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ.
Theo tư tưởng của thánh Phaolô tông đồ, tâm hồn mỗi Kitô hữu cũng là một đền thờ, thế nhưng, nhiều Kitô hữu đã biến đền thờ tâm hồn mình thành nơi đổi chác, buôn bán khi quá bận tâm về tiền tài, đam mê xấu, danh vọng thấp hèn, địa vị trần thế…
Mỗi người chúng ta, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân -lúc này đây- thử xét xem: Nếu hôm nay Chúa Giêsu ‘bước vào’ đền thờ tâm hồn tôi, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? Ngài xua đuổi những gì? Ngài hất đổ những gì?
Chớ gì nhân ngày mừng kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô, Mẹ của các nhà thờ Công giáo trên toàn thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi bảo vệ ngôi nhà thờ giáo xứ chúng ta. Hơn nữa, không chỉ làm đẹp ngôi nhà thờ vật chất này, mỗi người chúng ta cũng nên ý thức giữ gìn tâm hồn luôn trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, chúng ta cũng luôn mở rộng vòng tay, sẵn sàng chia sẻ với những anh chị em bất hạnh, để tất cả chúng ta cùng liên kết với nhau trong một tình yêu. Nhờ đó, chúng ta có thể xây dựng một ngôi Đền thờ thật đẹp, ấm cúng tình người, tình Chúa, nơi mà muôn dân có thể đến để tôn thờ cảm tạ Chúa.
Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho giáo xứ chúng ta có được ngôi nhà thờ khang trang, để hằng ngày, chúng ta đến gặp gỡ Chúa hiệp thông với nhau trong lời kinh, nhất là cử hành thánh lễ thờ phượng tôn vinh Chúa. Đồng thời, chúng ta càng hạnh phúc hơn khi được Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn mình.
Tuy nhiên, vì mải mê lo toan cho cuộc sống hằng ngày, cùng với những tội lỗi chất chồng theo năm tháng, ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta lắm khi trở nên tục hóa. Vì thế, xin Chúa thanh tẩy đền thờ tâm hồn chúng ta như Chúa đã thanh tẩy đền thờ Giêrusalem năm xưa.
Qua lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết quan tâm trân trọng nhà thờ, vì nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi thờ phượng Chúa. Xin cho chúng ta biết gìn giữ đền thờ tâm hồn trong sạch để xứng đáng là nơi Chúa ngự. Amen.
21.Đền thờ mới
Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
22.Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
+ Ghi nhớ
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.
+ Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
23.Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.
- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3. Một vài câu hỏi cá nhân
- Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
- Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?
24.Latêranô
Hôm nay chúng ta mừng kính ngày cung hiến đền thờ Latêranô, đền thờ đầu tiên của Giáo hội La mã, được coi như là mẹ của các đền thờ khác. Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám mục Rôma. Đền thờ này được hoàng đế Constantinople xây dựng vào năm 320, thời gian Giáo hội vừa thoát khỏi cơn bách hại tàn khốc để bước vào giai đoạn huy hoàng.
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh thiêng, là nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận những sự thờ kính và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống thần linh.
Chắc hẳn nơi cư ngụ của các thần linh không thuộc trần gian này, nhưng có thể nói, đền thờ đồng hóa với nơi cư ngụ ấy, nhờ đó con người giao tiếp được với thế giới của các thần linh. Chính trong chiều hướng này mà chúng ta tìm thấy những hình ảnh của đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, nhưng đó mới là một dấu chỉ tạm thời, sẽ được thay thế bằng thân xác Đức Kitô với Giáo hội của Ngài, như là một đền thờ mới và có tính cách vĩnh cửu.
Vào thời các tổ phụ, người Do thái không biết đến đền thờ, cho dù họ vẫn có những nơi thánh để kêu cầu với Đức Giavê như Bêtal, như Sichem, như Sinai…Nhưng rồi sau đó, họ đã dùng một thánh điện lưu động, để Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân chúng đang được Ngài dẫn qua sa mạc. Đó là nhà tạm với hòm bia giao ước.
Sau khi người Do thái đã tiến vào miền đất hứa và lập thành vương quốc, bấy giờ Đavid mới nghĩ đến việc xây dựng đền thờ dâng kính Thiên Chúa. Ước mơ ấy được Salomon thực hiện. Ông đã xây dựng đền thờ Giêrusalem với tất vả vẻ huy hoàng của triều đại ông, và Thiên Chúa đã nhận đền thờ ấy như nơi cư ngụ của Ngài. Vì thế, đền thờ Giêrusalem trở nên trung tâm sinh hoạt chính trị về tôn giáo của người Do thái. Người ta từ khắp nơi hành hương về Giêrusalem vào những dịp lễ lớn để cầu nguyện, kết hiệp và tôn thờ Thiên Chúa.
Năm 587 trước công nguyên, đền thờ Giêrusalem bị vua Nabucodonosor phá hủy và bắt một số người Do thái phải lưu đày sang Babylon. Sống dưới ách nô lệ với những đau khổ và nặng nhọc, nhưng lòng họ vẫn hướng về đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng, bây giờ đền thờ Giêrusalem đã bị đổ vỡ hoang tàn. Vì thế, họ đã tìm thấy một chiều hướng tôn thờ mới, đó là tôn thờ thiêng liêng, tôn thờ trong tâm hồn vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Trong Tân ước, đền thờ chính là thân xác Đức Kitô: Đền thờ ấy bị phá hủy nhưng dã được xây dựng lại trong ba ngày. Đây mới chính là đền thờ vĩnh cửu, không do tay người trần thế làm nên, nhưng do chính Ngôi lời. Đền thờ ấy nói lên sự hiện diện thiết thực của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ngoài ra, các Kitô hữu còn ý thức rằng chính họ kết thành đền thờ mới, đền thờ thiêng liêng nơi thân thể Đức Kitô, đó chính là Giáo hội. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa, thiết lập trên Đức Kitô. Ngài là nền móng, là đầu và là viên đá góc tường.
Còn chúng ta thì sao? Tâm hồn mỗi người cũng phải là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục đã nói với chúng ta: Hỡi thần ô uế, hãy xéo đi, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thần Linh Thiên Chúa.
Bao lâu sạch tội trọng, bao lâu còn sống trong ân nghĩa Chúa thì linh hồn chúng ta chính là một ngôi đền thờ sống động cho Thiên Chúa. Trái lại, khi phạm tội trọng, chúng ta là những kẻ dám nói với Thiên Chúa như sau: Hỡi Thiên Chúa, xin Ngài hãy ra khỏi tâm hồn tôi để nhường chỗ cho ma quỷ.
Chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn mình cho trong sạch, xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, chứ đừng biến nó thành hang trộm cướp. Chúng ta hãy noi gương bắt chước ông Giakêu đã tiếp đón Chúa tại nhà mình. Chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại cho ông niềm vui mừng và hy vọng, để rồi ông đã hoán cải bản thân, làm lại cuộc đời. Hãy sửa đổi những sau lỗi để tâm hồn chúng ta thực sự là một đền thờ được dâng hiến cho Thiên Chúa.
25.Nhà thờ trở nên cộng đồng
Hai anh chị kia sắp cưới. Trong khi chuẩn bị hôn nhân, họ xin cha làm lễ cưới tại một cảnh thơ mộng trên núi. Họ ngạc nhiên thấy cha nói không được. Họ phải làm lễ cưới tại nhà thờ xứ của họ. Họ tỏ ra bất mãn. Cha cho biết đó là luật của địa phận nhưng họ thắc mắc làm sao đám cưới của họ mà họ không được làm nơi họ muốn?
Điều anh chị này thắc mắc có liên quan đến lễ chúng ta cử hành hôm nay, lễ kỷ niệm Dâng Hiến Thánh Đường Lateranô. Thánh đường này từ thế kỷ thứ 12 vẫn được coi là mẹ, là đầu của các nhà thờ. Thánh đường này cũng là nhà thờ chính toà của Đức Giáo Hoàng.
Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta nghĩ đến nhà thờ của giáo xứ, cộng đoàn chúng ta.
Nhà thờ tượng trưng cho thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô và mỗi Kitô hữu được kêu gọi để xây dựng thân thể mầu nhiệm này. Nhà thờ ví như bào thai cho ra đời những người con cùng một trí một lòng truyền tụng và phục vụ Nước Trời.
Để thực hiện điều đó, mỗi nhà thờ luôn thực hiện việc xây dựng cộng đồng. Như các đường chỉ được dệt với nhau thành tấm vải, mỗi người cũng có một sứ vụ hiệp thông trong trong chiều hướng để sứ vụ chung được kết quả tốt đẹp trong tinh thần Chúa Kitô.
Những người trong giáo xứ hoặc là lạnh nhạt với mọi người và điều đó không xứng với Kitô Giáo; hoặc mọi người tích cực liên hệ đến giáo xứ, kiến tạo một cộng đồng một trí một lòng.
Mỗi lần chúng ta tham dự vào một bí tích nhắc nhớ chúng ta mục đích của bí tích là xây dựng thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong sự dấn thân chung đó là hiệp thông và thi hành sứ mệnh. Vì thế bí tích được khuyến khích cử hành tại nhà thờ. Nhà thờ trở nên nơi liên kết, để tinh thần thân thiện được triển nở chứ không phải chỉ là nơi tụ họp của những muốn giữ thái độ xa lạ.
Chúng ta cố gắng làm cho giáo xứ chúng ta nên cơ hội thuận tiện cho tinh thần hợp nhất Chúa Kitô được phát triển. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ chia rẽ, không thể đầu hàng trước các phe nhóm.
Giống như cặp anh chị sắp cưới được nói cho biết là họ cử hành bí tích hôn phối của họ nơi nhà thờ của họ. Cùng với những lý do khác, các giáo dân cùng cử hành với họ, dâng họ lên Chúa, cầu nguyện cho họ, và nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Để kết thúc, chúng ta đọc lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: "Anh em không còn là người xa lạ, là khách ngoại bang. Anh em là công dân của các thánh, là phần tử nhà của Chúa."
26.Nhà thờ của giáo xứ
Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.
Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.
Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.
Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và giúp đỡ cho những người chung quanh.
Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?
08/11 Dứt khoát đi theo Chúa.
- Viết bởi Lc 14, 25-33
Dứt khoát đi theo Chúa.
Thứ Tư tuần 31 thường niên.
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Lời Chúa: Lc 14, 25-33
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Từ bỏ hết
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Suy niệm 2: Mặc lấy Chúa Kitô
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Suy niệm 3: Từ Bỏ Ðể Theo Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Suy niệm 4: Hy Sinh Từ Bỏ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Suy niệm 5: Muốn có huy chương vàng
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
RC
Suy niệm 6: Điều kiện để làm môn đệ
Xem CN 23 TN C
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Từ bỏ tất cả để theo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Phải từ bỏ tất cả để theo Chúa. Người tín hữu phải ý thức điều ấy cho thật rõ và chọn lựa dứt khoát, bởi vì đây là việc dấn thân suốt cuộc đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con theo Chúa và chọn Chúa. Đó phải là ưu tiên hàng đầu, không có điều gì trên đời này có thể hơn được, dù đó là tình máu mủ ruột thịt, dù đó là chính bản thân con.
Lạy Chúa, thực sự con vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa, con chưa hiểu tại sao con phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa. Thế nhưng chân lý quan trọng này Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho con. Chúa dạy con tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người. Chúa dạy con: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không được ích gì”. Chúa dạy người thanh niên giàu có rằng: để được sự sống đời đời thì về bán hết của cải rồi theo Chúa.
Lạy Chúa, dù con không hiểu, nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Xin cho con tin vào Lời Chúa dạy để con vững bước theo Chúa, để con xác tín mãi mãi rằng chính Chúa là con đường đưa đến sự sống. Bước đi theo Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con. Vì thế xin giúp con sẵn sàng từ bỏ những lợi ích khác. Xin cho con nhận ra rằng từ bỏ mọi sự vì Chúa không phải là dại khờ, thua lỗ, nhưng là một mối lợi và khôn ngoan. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Suy niệm 8: Thập giá là cái phải mang để đi theo Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.
Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
Suy niệm
Trên đường lên Giêrusalem, bằng một động tác mang tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường”, Ngài dạy cho tất cả những ai muốn theo Ngài bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Vác thập giá theo chân Chúa như R. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trở bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Ngài” (Theo L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique, tập 2, Cerf, trg 157).
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi môn đệ vác thập giá, nhưng chính Ngài đã vác thập giá trước, Ngài vác thập giá, thập giá gánh nặng tội của cả nhân loại. Thập giá mà Ngài vác là từ bỏ chính mình và chấp nhận Thiên ý của Chúa Cha (x. Mt 26,39.42.44; Mc 14,36; Lc 22,42). Người môn đệ của Chúa mang thập giá là chấp nhận con người mình, là mang thập giá niềm tin vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày bằng sự cố gắng không rên rỉ. Như tông đồ Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (x. 2Cr 12,7-9). Và Phaolô vẫn tiếp bước hành trình thập giá của người môn đệ rao giảng tình yêu: “Chúng tôi luôn mang trên mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu” (2Cr 4,10).
Thập giá được vác trên vai của mỗi người cũng là ánh sáng cứu độ soi đường như thánh Gioan Kim khẩu Suy niệm và xác tín: “Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kìm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành luỹ cho những kẻ bị vây hãm”.
Ước chi tôi và bạn mang tâm tình của thánh Phaolô mỗi ngày khi vác thập giá: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống
“Thập giá trở nên tiếng kêu tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa” (Maurice Zuldel).
Suy niệm 9: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Lúc này Đức Giêsu không còn ở nhà ông biệt phái nữa, nhưng trên đường đi Giêrusalem, có dân chúng theo Người rất đông. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói với họ: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Như vậy, để trở nên môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải cùng đi con đường của Ngài và đường của Ngài là từ bỏ, là đón nhận Thập giá.
Trên đường đi Giêrusalem, có rất đông người cùng đi, có người đi cho vui, có người có thiện cảm với Chúa muốn là môn đệ của Ngài, nên Đức Giêsu đã quay lại cho họ biết những điều kiện để làm môn đệ của Ngài: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Thực ra, việc từ bỏ, vác thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt tới mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đức Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài với hết mọi sự và với sức lực của mình trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài đến hết mọi sự để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa (R.Veritas).
Theo những điều kiện Đức Giêsu nói, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đen hoặc theo nghĩa bóng. Có nhiều người đã hiểu theo nghĩa đen, nên đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo, có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền để theo Chúa. Có những vị khác đã bước qua con cái hay sẵn sàng chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình, để ra đi dâng mình cho Chúa; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt, để khỏi trở thành dịp tội cho kẻ khác. Đó là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Nhưng những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa trên đây: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận cộng đoàn mình sống làm gia đình, và nhận những người cùng chí hướng làm anh chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và trong sạch (Theo Lm. Phạm Văn Phượng).
Trong xu thế của thời đại hưởng thụ và tích luỹ này, nói đến “từ bỏ hết những gì mình có” xem ra là một thứ “cung đàn lạc điệu”. Tuy nhiên, đối với những người con cái Chúa”, đó là hai điều kiện tất yếu và tiên quyết, vì không từ bỏ cũng đồng nghĩa là không thể trở nên môn đệ của Chúa Kitô được. Ơn gọi làm “con cái Chúa” là chấp nhận sự điên rồ của Thập giá, cớ vấp phạm cho người đời. Có “từ bỏ hết những gì mình có”, là biết “nói không” với thế gian, ma quỷ và xác thịt mới có thể là “sen” mọc “giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là đèn để “gần mực” mà chẳng “đen”, nhưng chiếu sáng cho cả nhà. Vì thế, đòi hỏi trước tiên đối với người môn đệ của thời đại hôm nay là từ bỏ lối sống hưởng thụ tích lũy, điều mà người thời đại hôm nay đang theo đuổi (5 phút Lời Chúa).
Sống trọn những cam kết của bí tích Thánh tẩy, sống trọn danh Kitô hữu, điều đó đôi khi đòi hỏi nhiều hy sinh. Thế nhưng chỉ thái độ dứt khoát chọn lựa và quyết tâm theo đuổi đến cùng mới thực sự làm chúng ta xứng danh Kitô. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại lối sống đạo xem chúng ta có đặt Chúa và giá trị Tin mừng vào địa vị ưu tiên trong cuộc sống hay chưa.
Truyện: Giới Tử Thôi và công tử Trùng Nhĩ
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chặn lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại, nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn, thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
Suy niệm 10: Điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
2. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
3. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
B.... nẩy mầm.
1. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành Chúa Giêsu nói rõ với “rất đông người” đang đi theo Ngài. Người ta theo đạo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với mọi người rằng theo Ngài thì phải từ bỏ (bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống), và lại còn phải vác thập giá. Dĩ nhiên, sự từ bỏ và vác thập giá không phải luôn là hiện thực, nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy khi hoàn cảnh xảy đến thì mới xứng đáng làm môn đệ Ngài. Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác thập giá.
2. Có người thờ thập giá nhưng không vác thập giá. Có người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu nhưng không quý chuộng thập giá mình. Những người đó không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
3. “Hãy vác thập giá hằng ngày”: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !” (John Newton).
4. “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy ?
- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa. (Hosanna).
Suy niệm 11: Theo Chúa đòi hỏi những gì?
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu" (Lc 14,25). Họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Jêrusalem". Có lẽ họ nghĩ rằng, đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói rõ ra: "Những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo") thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa và phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì mới xứng đáng với Chúa.
Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành.
Thế nhưng, trong thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác Thập Giá.
Ngược lại nếu biết từ bỏ, phần thưởng sẽ thật lớn:
Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.
Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.
Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó".
Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
2. Chúa bảo: "Hãy vác Thập Giá hằng ngày" (Lc 14,27)
Newton nói: "Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng, ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (Newton).
Người ta kể rằng, có một đoàn người kia vác Thập Giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây Thập Giá đè trên vai, trong đó có một người vác một cây Thập Giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc.
Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đi đến bên bờ một vực thẳm: Bên bờ bên kia Chúa đang đợi sẵn, nhưng ngặt một nỗi là không có một cây cầu nào bác qua để sang bên đó.
Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây Thập Giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây Thập Giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên này với sự tuyệt vọng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vác Thập giá mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
06/11 Ân Huệ Tặng Không
- Viết bởi Lc 14, 12-14
Ân Huệ Tặng Không.
Thứ Hai tuần 31 thường niên.
"Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".
Lời Chúa: Lc 14, 12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.
Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đáp lễ
(Lm Nguyễn Cao Siêu SJ)
“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”:
đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người.
Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó,
không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des).
Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai.
Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc:
bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có.
Ngài đưa ra lý do: “Kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12).
Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc:
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13).
Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này,
vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14).
Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc.
Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang,
để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời.
Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu,
Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý.
Đó là khi làm điều tốt cho ai
ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.
Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.
Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản.
Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó.
Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không.
Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này.
Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết,
không kết thân với những người giàu có và thế lực,
để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta.
Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị,
những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ.
Có khi những người đó chẳng ở đâu xa.
Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm.
Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý,
chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn.
Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt,
trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình.
Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu.
Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới:
Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ.
Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tâm tình của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thông thường “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Yêu những người yêu mình. Làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Bữa tiệc là để cám ơn những người đã tốt với mình. Nay tỏ lòng tốt lại. Để mong nhận được lòng tốt hơn nữa. Đó là vòng tròn ơn nghĩa. Là trần gian thường tình. Đó là vụ lợi. Đó là đã hưởng lợi trần gian rồi.
Chúa dậy điều khác hẳn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc”. Tại sao có phúc? Có phúc vì không được lợi về vật chất ở đời này. Cùng lắm chỉ được dân nghèo quí mến. Nhưng sẽ được phúc đời sau. Vì “ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Có phúc vì mặc lấy tâm tình của Chúa. Vì cùng Chúa xây dựng Nước Trời.
Đó là chia sẻ “sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào”. Tâm tình của Chúa là tình yêu. Luôn đi bước trước. Để “muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người”. Đã thương cứu độ không những Ít-ra-en mà cả mọi dân trên thế giới chỉ vì họ không vâng phục. “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”. Thật lạ lùng tâm tình của Chúa. Thật cao sâu lòng thương xót của Người. Đó là nguồn cội mọi ơn lành cho ta (năm lẻ).
Vì thế, thánh Tông đồ mời gọi chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Chúa. Đó là hãy “có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Đó chính là mời dự tiệc những người nghèo khổ, tàn tật. Đó chính là cho đi mà không mong được đáp lễ (năm chẵn).
Mặc lấy tâm tình của Chúa. Hành động theo đường lối của Chúa. Đi bước trước. Cho đi không mong đền đáp. Ta cùng Chúa xây dựng Nước Trời ngay trên trần gian. Bắt đầu từ bây giờ.
Suy niệm 3: Bác Ái Vô Vị Lợi
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng nhau" hoặc "Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: "Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại".
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
Suy niệm 4: Tình Yêu Là Ân Huệ Tặng Không
“Trái lại khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc. 14, 13-14)
Khi kêu gọi quý khách hạ mình xuống để được vào nước trời, bây giờ Đức Giêsu chỉ dẫn chủ mời cần điều chỉnh mọi hành động của ông theo tình yêu Thiên Chúa để yêu người.
Tình yêu vụ lợi không được cứu độ.
Đối với dân Do thái, mời ăn tiệc là tỏ lòng thân ái và tình bạn. Họ chỉ mời những bạn hữu, anh chị em, cha mẹ, bà con và những người láng giềng giàu có, để mong được mời lại. Hành động của họ không đặt nền tảng trên tình yêu như Chúa truyền dạy. Đó là cách yêu mình, yêu vụ lợi.
Đức Giêsu không nói đừng bao giờ mời bạn hữu. Những người lương dân thường làm thế, nhưng đó không phải là dấu chỉ môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ phải tìm theo Chúa, không được đòi Chúa phải theo mình trong mọi việc của mình. Môn đệ phải sẵn sàng yêu mến, và chia sẻ cơm áo cho những người Chúa yêu, như kẻ nghèo khổ, què quặt, mù lòa.
Chỉ có ơn tặng không mới mở được cửa nước trời.
Con đường của Chúa vượt tới từ bỏ chính mình, tới vô vị lợi tuyệt đối. Nếu bạn mời những kẻ bất hạnh, họ không thể mời lại bạn, bạn mở con tim ra cho họ bằng một tình yêu vô tư, tặng không, như chính Thiên Chúa yêu họ.
Trước đó, bạn sẽ thấy hạnh phúc và phần thưởng trong ngày sống lại và phán xét.
Chính Chúa Giêsu ban bữa tiệc tình yêu và truyền lại cho các môn đệ làm mà nhớ đến cái chết hy sinh của Người. Trong bữa tiệc thánh đặc biệt này, Người không phân biệt và loại trừ một ai. Bữa tiệc Thánh Thể này cần mở ra mời hết mọi người, không phân biệt giai cấp xã hội, chủng tộc hay phẩm giá của họ.
Ta chỉ cần đọc lại thư của thánh Gia-cô-bê và những thư của thánh Phao-lô để nhận thấy Giáo hội sơ khai đã tha thiết nhắc lại lời dạy của Đức Giêsu nói với biệt phái khi họ mời Người.
Tình yêu là một ân huệ Thiên Chúa tặng không cho ta. Ta đã được cho không, thì phải tặng lại một cách quảng đại vô vị lợi.
RC
Suy niệm 5: Cần có cái nhìn hướng về nước trời
Tại Sài Gòn, rất nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng Đậu”. Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là: bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, Tp. Sài Gòn.
Quán ăn phục vụ từ 10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.
Khi mở quán như thế, nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!
Hôm nay, Đức Giêsu xem ra cũng có vẻ bất thường khi nói với ông thủ lãnh những người Pharisêu khi mời Ngài đến dự tiệc rằng: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”. Câu nói này của Đức Giêsu quả thật là bất thường theo lối suy hiểu của con người. Không chỉ có một lần này, mà đọc lại các trang Tin Mừng, chúng ta thấy có rất nhiều lần Đức Giêsu dùng lối nói như vậy. Chẳng hạn như: Hiến Chương Nước Trời và những lời chúc phúc: “Phúc cho người nghèo, khóc lóc, đói khát, bắt bớ, tù đầy...”; hay khi đưa ra nguyên tắc éo le cho những ai muốn theo mình: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống đời đời”; hay “ai muốn làm lớn thì phải làm đấy tớ mọi người”; hoặc cứ để kẻ chết chôn kẻ chết...; còn khi nói về sự lựa chọn: Ngài đã lựa chọn: “Sẵn sàng bỏ 99 con chiên để đi tìm cho kỳ được 1 con chiên bị lạc; người đàn bà tìm được đồng xu đánh mất, thì lại mời cả xóm đế chung vui...!”.
Tại sao Đức Giêsu lại có cái nhìn như thế? Thưa là vì Ngài có một cái nhìn siêu nhiên, tức là cái nhìn hướng thượng, cái nhìn cứu độ. Chỉ những ai có cái nhìn như thế, hẳn mới đón nhận được giá trị cứu độ của nó đằng sau sự kiện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như thế để được cứu độ, bởi lẽ khi chúng ta hành động vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù..., ở đời này, họ không có gì để trả ơn cho chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ là người thay họ trả ơn gấp trăm cho chúng ta ở đời này và đời sau.
Có thể với lối nhìn như thế, nhiều người sẽ khinh chê, dè bửu, nhưng nếu bây giờ chúng ta dám lội ngược dòng để sống cốt lõi của Tin Mừng, thì trong cuộc sống mai hậu, chúng ta sẽ xuôi dòng để tiến về Quê Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu và sống ý nghĩa của Tin Mừng, để sau này, chúng con được vui hưởng hạnh phúc trên Quê Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Bác ái vô vị lợi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu của Chúa bao trùm tất cả mọi người, không phân biệt một ai. Ngài mời gọi chúng ta sống như Ngài: cư xử với nhau cách quảng đại và vô vị lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay đang bị đảo lộn, giá trị vật chất nhiều lúc được đặt trên giá trị tinh thần. Cuộc sống giữa con người với nhau thường dựa trên sự trao đổi song phương, hợp đồng hai chiều. Vì vậy, người ta ái ngại khi kết thân làm bạn với những người nghèo khổ, cô thân cô thế.
Lạy Chúa, khi suy gẫm Lời Chúa hôm nay, con nhận ra mình chỉ là kẻ nghèo khó thấp hèn, nhưng suốt bao nhiêu năm tháng qua, Chúa đã ban cho con vô vàn ân huệ mà không đòi hỏi gì cả. Chúa đã ban tặng nhưng không. Phần con đã so đo tính toán hơn thiệt. Khi giúp ai việc gì, con bắt họ trả công, đền ơn đáp nghĩa. Khi ai tặng một món quà, thì con cũng nhớ một dịp nào đó để tặng lại. Thậm chí, đôi lúc cho thì ít mà muốn nhận lại thì nhiều, hoặc tệ hơn nữa, nhận vào mà không muốn cho đi. Con muốn giao du với người giàu sang quyền quý, còn người nghèo khổ, con ngại ngùng gặp gỡ, tình thương dành cho họ chỉ là những lời an ủi ngoài môi, chứ trong lòng không một chút xót thương, cảm thông.
Lạy Chúa, con đã coi của cải vật chất trọng hơn con người. Con đã sống ích kỷ và vô tâm trước tình thương Chúa dành cho con, và xin ban cho con một quả tim của Chúa, để con sống quảng đại, biết cho đi mà không cần tính toán, biết trao ban mà không mong đền đáp. Xin giúp con biết phục vụ trong tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.
Suy niệm 7: Hãy có tinh thần chia sẻ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Qua bữa tiệc hôm qua, Đức Giêsu đã dạy thực khách bài học về khiêm nhường (Lc 14,7-11), hôm nay Ngài lại dạy thêm bài học về việc chia sẻ, biết cho đi. Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại: “bánh ít cho đi, bánh quy cho lại”, hay Tây phương cũng có câu: “Do ut des”: tôi cho anh để anh cho lại. Cho đi mà không được lại thì tinh thần dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình. Đàng này, Đức Giêsu lại dạy: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu?
2. Thật sự mà nói, thường thì mọi người chúng ta làm cái gì cho nhau cũng muốn có qua có lại, thậm chí tham lam theo kiểu “thả con tép bắt con tôm”, “thả con săn sắt bắt con cá rô”, hoặc “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tự bản chất chúng ta cho thấy có một sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa giầu và nghèo, khi dọn tiệc, chúng ta vẫn ưu tiên mời người giầu, và nếu đang lúc dùng bữa, gặp người giầu chúng ta vẫn dễ dàng mời họ hơn thấy một người ăn mày đi qua...
Nói tóm lại, chúng ta bỏ ra thì muốn thu lại, thậm chí muốn thu lại hơn gấp nhiều lần, chứ ít ai trong chúng ta có được một lòng quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khó. Chúng ta vẫn lấy tiêu chuẩn “công bằng kiểu làm ăn kinh tế” để đối xử với nhau, thì điều này chúng ta là Kitô hữu cũng chẳng hơn gì, vì người ngoại họ cũng làm được hơn cả chúng ta, bởi làm việc lành mà được đáp lại, nghĩa là được thưởng công rồi, nên chẳng còn công phúc gì trước mặt Thiên Chúa cả (Hiền Lâm).
3. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: ”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc” (Lc 14,13).
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Đức Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Đức Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yêu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
4. Tình thương của Đức Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ân huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ (Mỗi ngày một tin vui).
5. Cậu bé đói lả ăn cắp ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa con gái ông không thể trả tiền viện phí. Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện phí, kèm theo dòng chữ: ”Viện phí của ông đã được thanh toán cách đây hơn 20 năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta bài học về cách làm ơn và cho đi. Ngài không dạy chúng ta làm ơn cho những người có khả năng đáp trả, nhưng cho những người thiếu thốn, nghèo khó. Khi ấy, chính Thiên Chúa sẽ thay họ trả cho chúng ta.
Đức Giêsu là tấm gương sáng chói về tinh thần cho đi cách quảng đại. Ngài đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” để đến với con người, sống như con người, hiến dâng mạng sống cho con người, mà không đòi hỏi bất kỳ sự trả ơn, đền đáp nào.
6. Truyện: Tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất cả những người hấp hối không có nơi nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những người nghèo khổ này được tìm thấy một cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.
Một buổi tối nọ, người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái và dịu hiền của một người mẹ. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ Têrêsa:”Thưa bà, tại sao bà lại săn sóc tôi như thế”?
Với tất cả lòng ưu ái, mẹ Têrêsa đã trả lời:”Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc”.Trên khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng lên một niềm vui. Bà cố gắng để thì thào với Mẹ:”Xin bà hãy lặp lại câu đó một lần nữa đi”.
Mẹ Têrêsa mỉm cười nói:”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh phúc”. Và như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều thào:”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa đi”.
Cuối cùng bà ta cố nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có lòng quảng đại mới ban phát được.
Suy niệm 8: Phục vụ vô vị lợi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng việc mời khách dự tiệc để dạy bài học phục vụ vô vị lợi:
1. “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18).
2. “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
B.... nẩy mầm.
1. Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Cho như thế không có giá trị bao nhiêu vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại dù người ta có cho lại mình thì chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người. Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
2. Ăn chung với nhau còn biểu lộ sự thông hiệp, liên đới. Chúa Giêsu là kẻ muốn thông hiệp liên đới với tất cả mọi người, do đó Ngài không ngại ăn chung với một thủ lãnh biệt phái mặc dù hai bên khác quan điểm với nhau (x. đoạn phía trước: 14,1-6). Ngài cũng không ngại ăn chung với những người tội lỗi (x. Mt 9,10-13). Trong đoạn Tin Mừng này, người thủ lãnh biệt phái đã khá cởi mở khi mời Chúa Giêsu đến ăn chung với mình. Chúa Giêsu khuyến khích ông tiến thêm một bước nữa là hãy hiệp thông liên đới với những người mà địa vị xã hội thấp kém hơn ông bằng cách mời họ cùng ăn uống với ông.
3. “Phần thưởng ai cũng muốn có. Nhưng phần thưởng đến từ đâu và lúc nào, đấy mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta hãy suy tính xem phần thưởng tạm bợ trong thời gian có hơn được phần thưởng vĩnh cửu không? Phần thưởng của anh em có hơn được của Thiên Chúa không? Phần Chúa, Chúa nhắn: “Hãy tìm của Nước Trời trước” (Mt 6,33) (Trích "TMCGK ngày trong tuần" ).
4. “ Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc“ (Lc 14, 13-14)
Có một nỗi đau quặn thắt trong tôi, khi tôi được tin một người thân sắp bị mù. Có một tình thương len lõi trong tôi mỗi khi tôi nhìn thấy những người nghèo khó, tàn tật. Nhưng dường như đó chỉ là cảm xúc pha lẫn thương hại. Chưa một lần nào tôi nghĩ đến chuyện phải là một cái gì đó cho họ.
Lời Chúa hôm nay, mở ra cho tôi một tình yêu mới: “Yêu như Chúa yêu”, nghĩa là dám dấn thân cho tình yêu và nhất là không chỉ yêu những người danh giá địa vị, mà cả những người nghèo khó, tàn tật. Tôi nguyện đến với họ để chia sẻ với họ những gì tôi có, cả niềm vui và hy vọng nữa.
Lạy Chúa! Xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người nghèo khó, tàn tật, để con có thể đến với những người anh em đó dễ dàng hơn. (Hosanna).
Suy niệm 9: Việc phục vụ vô vị lợi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Qua việc mời khách dự tiệc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về việc phục vụ vô vị lợi:
“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc”. (Lc 14, 13-14)
Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế, động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Việc cho như thế không có giá trị bao nhiêu, vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại, dù người ta có cho lại mình thì họ cũng chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người.
Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại, vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
Có một người nông phu Trung Quốc tên là Wong Ly, một người tuy nghèo nhưng vốn có lòng quảng đại và nhân hiền. Một hôm, ông từ trên đồi xuống, vác trên vai một bó lá đem về lợp lại mái nhà. Đi đường mỏi mệt ông ngồi nghỉ chân dưới bóng một cây cổ thụ bên đường. Một con bướm thật đẹp đủ màu sắc bay tới đậu trên bó lá, ông vừa đưa tay đuổi đi vừa nói:
- Bướm đẹp quá, hãy bay đi hưởng tự do mà Chúa đã ban cho mi.
Nhưng con bướm vẫn không chịu bay đi, rồi ông lấy dây, nhẹ tay buộc con bướm vào cành lá với ý định đem về cho các con ông chơi. Vừa xuống dưới chân đồi, ông gặp một phụ nữ, vai mang gánh lúa, tay dắt đứa con gái nhỏ. Trông thấy con bướm trên bó lá, cô bé gọi mẹ:
- Mẹ ơi, bướm đẹp quá mẹ xin cho con đi.
Nghe vậy, ông Wong Ly dừng chân, đặt bó lá xuống đất, tháo dây cột con bướm, đưa cho cô bé và nói:
- Đây cháu hãy cầm lấy con bướm này, nhưng đừng làm hại nó nhé.
Bà mẹ đứa trẻ cũng dừng chân, đặt gánh xuống và nói với ông Wong Ly:
- Ông thật là người tốt bụng, tôi không có gì đền ơn ông, chỉ xin ông nhận mấy trái cam sành này…trái cam tôi mới hái đây.
Ông nhận quà, ra về, cám ơn và nói:
- Tôi sẽ đem về cho vợ con tôi, vì cả nhà tôi chưa bao giờ được thấy những trái cam to và mọng nước như thế này.
Đi được một quãng, ông gặp một người lái buôn ngồi nghỉ dưới bóng cây bên đường với những gói tơ lụa đủ màu. Người lái buôn đứng dậy nói với Wong Ly:
- Tôi đi đường từ sáng đến giờ sắp kiệt sức vì trời nóng bức, không một miếng cơm cũng không một ngụm nước, ông có gì cho tôi uống giải khát để lấy lại sức không?
Ông Wong Ly động lòng thương, rút mấy trái cam sành trong túi ra và nói:
- Ông hãy nhận lấy mấy trái cam ngon ngọt này, nó sẽ giúp ông giải khát và chúc ông lên đường bình an.
Người lái buôn vui mừng nhận ba trái cam, rồi rút trong bao ra một tấm lụa và nói:
- Xin cám ơn lòng tốt của ông, và xin ông nhận cho tấm lụa này để nói lên lòng biết ơn của tôi.
Wong Ly tiếp tục lên đường về nhà, vai mang bó lá, tay cầm tấm lụa. Về tới đầu làng, ông nghe tiếng chân ngựa và tiếng cười xôn xao, như có ai quan trọng sắp đi qua đây, ông vội đứng sang một bên, chờ ngóng xem có chuyện gì xảy ra.
Một lúc sau, có xe của công Chúa và lính hầu cận tiến tới, đang lúc lúng túng Wong Ly nghe tiếng công Chúa gọi lại, vì muốn xem tấm lụa đẹp ông cầm trên tay. Ông đến gần và lễ phép thưa:
- Thưa bà, nếu bà thích, kẻ hèn này xin kính tặng bà.
Công Chúa cầm lấy tấm lụa ngắm nghía tỏ vẻ hài lòng và nói:
- Ngươi thật là tốt bụng, ta cũng muốn tặng cho ngươi một món quà.
Vừa nói công Chúa vừa đặt vào tay ông một cái túi nhỏ rồi ra đi. Ông cầm chặt túi nhỏ trên tay, vác bó lá trên vai, bước mau về nhà. Vào tới nhà, ông gọi vợ con tới gần và mở túi nhỏ của công Chúa ra xem. Mắt ông sáng lên khi thấy trong túi đầy những đồng tiền vàng.
Ông ngạc nhiên tự hỏi, tôi sẽ làm gì với sự giàu có này, rồi ông tự trả lời:
- Được rồi, tôi sẽ làm cho những người nghèo khổ nhất trong làng này được hạnh phúc.
Rồi ông phân phát, chia sẻ cho những người nghèo khổ trong làng. Và dĩ nhiên, người hạnh phúc nhất trong làng chính là ông Wong Ly. Từ đó, ông được đặt tên là “Người hạnh phúc”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại hơn. Amen.
Suy niệm 10: Phục vụ vô vị lợi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại? Thường người ta tính toán rất kỹ khi đến với nhau. Hòn đất ném đi, hòn chì phải ném lại. Cho đi mà không được lại thì dần dần tình thân sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình.
Còn ngược lại, Ðức Giêsu dạy rằng: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho những người không có khả năng đền đáp. Cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Ðấy mới là cho thật tình, cho hết lòng.
Chúng ta sẽ chọn lối sống nào: của người đời, hay của Ðức Giêsu?
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: “Có qua có lại, mới toại lòng nhau” hoặc “Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu”. Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: “Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có qua có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
05/11 Nói và làm
- Viết bởi Mt 23, 1-12
Nói và làm.
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN năm A
"Họ nói mà không làm".
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm.
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy".
Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10; 1Tx. 2, 7b-9.13; Mt. 23, 1-12
MỤC LỤC
1. Là anh em với nhau--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 3
2. Quyền bính để phục vụ--TGM. Ngô Quang Kiệt 5
3. Chỉ có một Cha--Vikini--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 7
4. Chỉ có một--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 9
5. Tư cách của người lãnh đạo--Lm Giuse Đinh Lập Liễm.. 11
6. Người có trách nhiệm hướng dẫn người khác--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 15
7. Hãy sống thành thật--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP. 19
8. Đóng kịch--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng. 21
9. Những anh hùng cứu độ--Lm. Mark Link, SJ. 22
10. Thiên Chúa của tình yêu--Lm. Mark Link, SJ. 24
11. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 26
12. Nghịch lý trong đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 31
13. "Họ nói mà không làm!"--Lm. Quốc Toản, CRM.. 33
14. Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường. 34
15. Bí quyết trở nên người cao cả--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà. 35
16. Quyền bính để phục vụ--An Phong. 37
17. Hướng đến sự thật—Lm G. Nguyễn Cao Luật, OP. 38
18. Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự. 40
19. Hãy sống trong sự thật--‘Niềm Vui Chia Sẻ’ 41
20. Sống chân tình--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc. 43
21. Biệt phái giả hình--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia. 44
22. Đừng sống giả dối kiểu biệt phái!--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP. 46
23. Sống chân thành--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 48
24. Hãy nghe… nhưng đừng theo…--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. 50
25. Họ nói mà không làm--Lm. Trầm Phúc. 53
26. Sống đạo gương mẫu--Lm. Minh Vận, CRM.. 55
27. Các kinh sư và Pharisiêu giả hình--JKN.. 57
28. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest 59
29. Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất, và không để cho một người nào khác--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller 60
30. Chú giải của Fiches Dominicales. 61
31. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 64
32. Chú giải của Noel Quesson. 68
33. Làm chứng cho Chúa--Lm. Thu Băng, CRM.. 71
34. Chớ giả hình, kiêu ngạo--Br Vincent Quốc Thanh. 72
35. Phục vụ--Lm. Joshepus Quang. 73
36. Sống thật--Trầm Thiên Thu. 75
37. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 78
38. Suy niệm của Lm. John Trần Khả. 80
39. Linh mục là Cha-- theo “Bạn muốn biết”, Radio Veritas--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 83
40. Chỉ có một Cha. 85
41. Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?. 87
42. Hạ xuống và nâng lên. 88
43. Khiêm nhường. 89
44. Khiêm nhường. 90
45. Điểm "A" cho sự cố gắng! 91
46. Đạo đức thật và đạo đức giả. 92
47. Đầy tớ. 93
48. Đầy tớ. 95
49. Đóng kịch. 97
50. Sống thực. 98
51. Trách kẻ giả hình. 100
52. Tuân giữ và phục vụ. 102
53. Nói mà không làm.. 103
54. Sống chân thành và khiêm tốn. 104
55. Nói và làm.. 105
56. Làm lớn phải phục vụ. 106
57. Chứng nhân. 108
58. Lãnh đạo: là lãnh đạn--Như Hạ. 109
1.Là anh em với nhau--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha,
là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8).
Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa
và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha, thì
vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy
sự giả hình của một số người pharisêu,
có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa
thành thờ mình, làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám "đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
2.Quyền bính để phục vụ--TGM. Ngô Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
3.Chỉ có một Cha--Vikini--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật chẳng nhận ra Người: "Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người" (Ga. 1, 10). Không nhận biết Người, mà chúng vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc - Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo (Đạo đức kinh ch. I). Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah) "There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God" (Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài). Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển, hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã có xu hướng tự nhiên về Người: "Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người" (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn "Kính nhi viễn chi" và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương. Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn "ngồi trên toà Môisê...." Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường... Họ thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12).
Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: "Ta đã làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân". "Ta sẽ trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi". Bởi lẽ: "các ngươi đi trệch đường; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi". (Bài đọc I -Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy chúng ta: "Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha trên trời" (23,9). Cha trên trời thế nào? Thưa là "Đấng ngự trên trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt. 5,45).
Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là "Đấng vô cùng toàn thiện" (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi "anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù, biết cầu nguyện tha thứ cho nhau" (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên "hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho anh em" (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng danh Cha, như thánh Phaolô "khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ". Xin cho chúng con biết quý mến anh em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
4.Chỉ có một--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Đức Yêsu nói đừng cho phép mình gọi ai là thầy vì chỉ có một thầy là Đức Kitô, và cũng đừng gọi ai dưới đất là cha vì chỉ có một Cha trên trời, còn tất cả là anh em của nhau. Dường như không làm theo lời Đức Yêsu, vẫn không phải là làm trái ý Ngài!
1. Chỉ có một Cha trên trời
Không có ai là không có cha mẹ, mỗi người đều được cha mẹ sinh ra, và mỗi người đều gọi các đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, thế mà hôm nay Đức Yêsu lại dạy đừng gọi ai dưới đất là cha. Lý do Đức Yêsu đưa ra để giải thích lời dạy: vì tất cả chỉ có một Cha ở trên trời.
Quả thật tất cả chúng ta có cùng một Cha ở trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” Thiên Chúa là Cha của tất cả, Ngài tạo dựng tất cả, Ngài sinh mỗi người qua cha mẹ mình. Thiên Chúa là Cha thật, và cha mẹ trần gian được tham gia chức “cha” của Thiên Chúa. Cha mẹ trần gian cộng tác với Thiên Chúa qua việc tạo dựng con người. Cha mẹ chúng ta cùng với chúng ta đều gọi Thiên Chúa là Cha.
Cha mẹ không có quyền tuyệt đối trên người con. Luật pháp trần thế cũng như luật đạo đều cho phép con cái được tự do khi tới mức độ tuổi trưởng thành nào đó, hoặc trong lãnh vực nào đó. Chẳng hạn một số nước cho con cái tới tuổi 21 được hoàn toàn tự do định đoạt đời sống của mình. Luật đạo dạy con cái được quyền tự do lập gia đình với người mình thương yêu chứ không phải vâng lời cha mẹ làm trái ý mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tuyệt đối trên con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng. Có những cha mẹ trần gian không yêu thương nên giết con mình khi con mình còn trong bào thai, hoặc bỏ con không nhận nuôi khi người con đó đã được sinh ra. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương tất cả và từng người: “Có người mẹ nào không thương con mình sinh ra, nhưng cho dù có người mẹ nào bỏ con mình, thì Ta cũng không bao giờ bỏ ngươi.” Cha mẹ trần gian được trao sứ mạng yêu thương con cái đại diện Chúa, hầu con cái nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua cha mẹ, chính vì vậy người cha người mẹ được tham dự chức “cha” của Thiên Chúa. Để làm tròn sứ mạng của mình, cha mẹ phải luôn yêu thương con cái, để thực sự là chứng nhân và là dấu chỉ tình yêu của Cha trên trời.
2. Chỉ có một thầy là Đức Kitô
Ai trong chúng ta cũng có những thầy ở trần gian, và gần như không thể làm theo lời Đức Yêsu “đừng gọi ai là thầy,” thế mà Đức Yêsu vẫn dạy: “đừng gọi ai dưới đất là thầy,” vì tất cả chỉ có một thầy là Đức Kitô.
Đấng dạy con người về Thiên Chúa đúng đắn nhất, là Lời Thiên Chúa, là Lời nhập thể, là Đức Yêsu. Chỉ có Ngài mới biết Thiên Chúa thật, và là Đấng mặc khải đích thực Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người thầy đúng nghĩa nhất, chỉ là Đức Kitô. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua Ngài và với Ngài, con người chắc chắn tới được cùng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng cho chúng ta tham dự chức “thầy” của Lời Thiên Chúa qua việc mời gọi chúng ta hãy làm chứng về Thiên Chúa cho anh chị em chúng ta. Chính Đức Yêsu cũng sai gởi các môn đệ Ngài: “anh em hãy đi rao giảng cho muôn dân, dạy họ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” Những người dạy đàng ngay lẽ chính, dạy người khác về Thiên Chúa, cũng được tham dự chức “thầy” của Đấng Kitô. Tuy nhiên, có lúc con người khi cộng tác với Thiên Chúa trong chức vụ “thầy,” thay vì giúp người khác biết rõ hơn về Thiên Chúa, lại che mờ Thiên Chúa không để Ngài toả sáng như Ngài là. Chỉ có một thầy đích thực, là Đức Kitô.
3. Sự thật sẽ giải phóng anh em
Lời dạy của Đức Yêsu hôm nay giúp con người ý thức về con người thực của mình. Chỉ có Thiên Chúa là Cha thật của mỗi người; chỉ có Đức Yêsu là vị thầy đích thật của con người. Những người khác được gọi là cha là thầy, là được tham dự chức cha chức thầy của Thiên Chúa Cha và của Lời nhập thể. Hiểu như vậy, khi chúng ta gọi ai là cha là thầy, chúng ta thấy rõ giới hạn của người đó, cũng như thấy rõ thiên chức cao cả người đó đang hành xử.
Thầy chỉ là thầy, khi giúp người khác nhận ra sự thật. Sự thật ở đây không chỉ là chân lý, hiểu như một phán đoán hay một lời tương ứng với thực tại, nhưng là chính Thực Tại Uyên Nguyên. Là thầy, nghĩa là qua lời hay cung cách cư xử của người này, giúp người khác nhận ra hoặc vươn tới Thiên Chúa.
Người thầy đích thực của con người, là Đức Kitô, là Thánh Thần Thiên Chúa. Chính Thánh Thần soi sáng con người, giúp con người qua những dấu chỉ nhận ra thực tại uyên nguyên là chính Thiên Chúa, giúp con người có sức mạnh thiêng liêng để đi trọn con đường về với Cha trên trời. Thiên Chúa là Đấng giúp con người nhận ra chính mình, giúp con người nhận biết đâu là chính đâu là phụ, giúp con người tự do thoát mọi ràng buộc để sống hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nếu bạn tiếp tục gọi các đấng sinh thành ra bạn là cha, và những người dạy bạn là thầy, bạn có làm trái lời Đức Yêsu không? Tại sao?
2. Sứ mạng “tiên tri” của Kitô-hữu có thể xem là ơn gọi “làm thầy” không? Tại sao?
3. Theo bạn, có một loại “thầy” nào mà không dùng lời để dạy không? Xin minh giải.
5.Tư cách của người lãnh đạo--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Người ta thường nói:”Tốt danh hơn lành áo”(Tục ngữ) hay “Hổ tử lưu bì”(Hổ chết để da), tất cả đều nói lên chân lý này: trên đời ai cũng muốn có danh thơm tiếng tốt, ngay cả sau khi chết. Danh thơm tiếng tốt phải phát xuất tự con người, cả trong lẫn ngoài, chứ không phải chỉ có cái mẽ bề ngoài, nhất là cái bề ngoài giả dối.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình: có thì nói có, không thì nói không. Đừng đưa cái giả dối bề ngoài mà loè mắt thiên hạ. Chúa dạy các môn đệ hãy nghe và thực hiện những lời dạy dỗ của luật sĩ và biệt phái dạy vì họ được trao ban quyền giáo huấn ; nhưng Chúa cảnh giác mọi người: đừng bắt chước việc họ làm vì những việc làm của họ chỉ có tính cách khoe khoang, muốn cho người ta biết tới để ca ngợi họ.
Còn chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình để lúc nào ngôn hành cũng đồng nhất, không cần sống kiểu cách như nhiều người chủ trương: “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại”(Tục ngữ). Tốt nhất trong mọi trường hợp hãy cố ở khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt người ta, vì Chúa đã phán:”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Mt 23,12).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ml 1,14 – 2,2.8-10.
Sau khi dân Do thái được vua Cyrô cho hồi hương, đền thờ được xây dựng lại, việc thờ phượng Chúa phát triển rầm rộ. Nhưng với thời gian, đà tiến của những ngày đầu tiên dừng lại . Từ đó, việc thờ phượng dần dần xuống cấp, các tệ nạn phát sinh như dung túng cho việc ly dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân ; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Tiên tri Malakia xuất hiện vào thế kỷ V trước công nguyên tuyên sấm lời Chúa. Tiên tri qui trách nhiệm về các nhà lãnh đạo tôn giáo về sự xuống cấp trầm trọng ấy, đặc biệt là các tư tế: họ làm nhiệm vụ một cách chểnh mảng, chỉ lo tìm lợi riêng. Thiên Chúa dùng tiên tri Malakia nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với Giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
+ Bài đọc 2: 1Tx 2,7-9 . 13.
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Thessalonica vềø cách hành xử của Ngài đối với họ:Yêu thương săn sóc họ như người vú nuôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu cả mạng sống của Ngài. Khỏi làm phiền lòng họ trong việc nuôi ăn, Ngài đã muốn tự túc bằng một nghề lao động chân tay. Ngài vui mừng khi thấy họ đón nhận Tin mừng do Ngài giảng dạy như chính Lời Chúa.
+ Bài Tin mừng: Mt 23,1-12.
Các nhà lãnh đạo của dân Do thái, đặc biệt là luật sĩ và biệt phái là những “rabbi”, bậc thầy của dân, có nhiệm vụ dạy dỗ. Nhưng lời nói và việc làm của họ không am hợp nhau, chức vụ và cách sống của họ không tương xứng. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ cũng là cho chúng ta.:
a) Phải tôn trọng chức vụ của họ vì họ ngồi “trên toà Maisen” mà giảng dạy. Hãy làm theo những gì họ dạy.
b) Nhưng đừng bắt chước việc họ làm vì họ là người kiêu căng, cứng cỏi, hám danh, thích chỉ tay năm ngón.
c) Ngược lại, Chúa đòi ở các môn đệ phải có thái độ khác: phải thành thực, thẳng thắn, khiêm nhường và phục vụ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai tự nâng mình lên.
I. NHỮNG NGƯỜI LUẬT SĨ VÀ BIỆT PHÁI.
Bất kỳ ai cũng tỏ ra khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của một người nào đó. Chúa Giêsu cũng cảm thấy như vậy, đặc biệt đối với những luật sĩ và biệt phái. Chúng ta thử xem họ sống như thế nào mà trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta đừng theo gương họ.
1. Địa vị của họ trong xã hội.
Họ là những người được “ngồi tòa Maisen”, nghĩa là những người kế vị Maisen, có quyền chính thức giải thích luật Maisen. Chúa Giêsu công nhận các luật sĩ và biệt phái có quyền chính thức. Vì thế, dân chúng và các môn đệ phải lắng nghe và tuân giữ những lời họ nói vì đây là tiếng nói của Thiên Chúa. Mọi người phải tôn trọng họ vì họ là những bậc thầy, những người được chính thức giảng dạy.
2. Những nết xấu của họ.
Nết xấu triền miên của luật sĩ và biệt phái là giả hình giả bộ, giả nhân giả nghĩa. Trong lòng và bộ điệu bên ngoài khác hẳn nhau. Họ chỉ là những người diễn kịch, cách sống của họ chỉ có bề ngoài, chứ không có bề trong. Họ thuộc vào hạng người:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều)
Dựa vào Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể vạch ra một số nết xấu nổi bật của họ:
a) Hám danh cầu lợi.
Mọi công việc họ làm đều có tính cách cầu lợi, muốn cho mọi người chú ý đến mình, ca ngợi mình , cho nên họ mới:
* Nới rộng thẻ kinh:
Thẻ kinh đây là tấm da mỏng, trên có viết 4 đoạn Kinh thánh quan trọng (Xh 13,1-10 ; 13,11-16 ; Đnl 6,4-9 ; 11,13-21) Thể kinh có mục đích rất tốt là nhắc nhở người ta luôn nhớ đến luật Chúa. Người Do thái thường đeo thẻ này mỗi khi đọc kinh cầu nguyện ; các luật sĩ và biệt phái đeo những thẻ này dài hơn, rộng hơn và nết chữ đậm mầu hơn để người ta chú ý và cho mình là đạo đức.
* May dài tua áo:
Áo khoác ngoài của người Do thái giống như tấm khăn mỏng, 4 đầu dính tua bằng len làm giải buộc, có mầu tím tượng trưng trời, mục đich nhắc nhở người ta nhớ đến các giới răn (Ds 15,38-40 ; Đnl 22,12). Chính Chúa Giêsu cũng mang tua áo (Mt 14,36, Mc 6,56 ; Lc 8,44).
Các người Do thái đều mang tua áo, nhưng các luật sĩ và biệt phái thì tăng kích thước quá đáng để có ý khoe mình sốt sắng đạo đức hơn người.
b) Ưa được tôn trọng và ưu đãi.
Luật sĩ và biệt phái muốn được người ta tôn trọng và biệt đãi nơi công cộng, nhất là trong đám tiệc và nơi hội đường.
* Nơi đám tiệc và hội đường:
Theo phong tục , người Do thái xếp chỗ theo tuổi tác và chức vụ hay tài trí, cũng giống như ở Việt nam chúng ta. Tuổi tác và chức vụ là cái dễ nhận ra, nhưng còn tài trí và khôn ngoan thì khó nhận ra. Các luật sĩ và biệt phái muốn tỏ ra là mình tài trí khôn ngoan, nên thường chọn những chỗ cao nhất.
* Nơi phố xá:
Người Do thái có thói quen chào người trên mình trước theo tuổi tác hay chức vụ của họ. Các luật sĩ và biệt phái ưa được bái chào nơi phố xá và còn thích được xưng hô là “Thầy” (x. Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng CN, A, tr 319-320).
c) Họ nói mà không làm.
Các luật sĩ và biệt phái phải dạy dỗ và đòi hỏi người ta giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc. Họ chất những gánh nặng của lề luật trên vai người dân mà họ không động tay đến. Họ nói mà không làm. Họ là những người ngôn hành bất nhất, họ thuộc hạng người:”Mồm miệng đỡ chân tay”.
3. Chúa Giêsu nhắc nhở.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận những người luật sĩ và biệt phái có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng. Do đó, khi họ thi hành nhiệm vụ nhân danh Chúa thì phải nghe và thi hành những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại bảo đừng bắt chước hay noi theo những việc họ làm? Phải chăng họ đã làm những điều bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng ra gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
II. TÂM LÝ CỦA NGƯỜI TỰ NÂNG MÌNH LÊN.
Những người tự nâng mình lên là những người kiêu ngạo. Họ ham danh vọng, ham tiếng khen, thích được tỏ vinh quang ra cho người ta thấy, nhưng đấy chỉ là vinh quang ảo, không có thật. Tất cả là do trí tưởng tượng của họ bầy ra và tự gán cho mình vinh dự ấy. Cái uy tín không phải mình tự tạo ra và gán cho mình nhưng phải do người khác tặng cho mình qua nhận xét của người ta.
Những luật sĩ và biệt phái muốn cho người ta chào mình với danh hiệu “Thầy”. Tước hiệu Thầy để gọi các luật sĩ và biệt phái kể ra thì mới lắm, bắt đầu từ ông Simon con ông Hittel, ông giáo huấn đời Hêrôđê cựu nhân.
Từ câu 8 -12 nói riêng với các tông đồ, Chúa Giêsu khuyên giữ đức khiêm nhường. Chúa không bài trừ khỏi Giáo hội tất cả những tước hiệu đáng kính. Trong một xã hột trật tự tất nhiên phải có. Song đòi hỏi cho được và giận hờn khi không được lại là một chuyện khác. Chính những luật sĩ và biệt phái đã muốn, đã ước ao được cái danh dự hão mình không đáng được ấy.
Truyện: Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.
(Báo Cg và Dt, Giáng sinh 1995, tr 281)
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
1. Nội thánh ngoại vương.
Suy nghĩ về bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải tự hỏi mình: đời sống chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Ngôn hành của chúng ta đồng nhất hay bất nhất? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người nọ, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không. Có ngày mọi sự kín đáo sẽ bị phơi ra ánh sáng, lúc đó mới “cháy nhà ra mặt chuột”. Phải cố sống sao cho trung thực trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt mọi người.
Truyện: Hai người bộ hành.
Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng:”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ”.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Câu truyện trên đây cho chúng ta hiểu rằng bản chất của người Kitô không hệ tại những tô điểm bên ngoài. Chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Cây Thánh giá mang vào cổ cũng chẳng thể biến ngay một người trở thành Kitô hữu được.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay đòi hỏi chúng ta phải lo sao cho đời Kitô hữu của mình có được sự thống nhất trong ngoài… Nhất là giữa niềm tin và cuộc sống có sự ăn khớp với nhau. Bởi vì nếu không như thế chúng ta sẽ chẳng khác nào mồ quét vôi và thành trò hề cho thiên hạ mà thôi.
Ngày xưa, vua Thành Thang và vua Thương được người đời gọi là “thánh vương” vì các vị đó có một đời sống tốt lành gương mẫu, trong ngoài ăn khớp với nhau. Chính vì thế, người Á đông lấy câu nói của Vương dương Minh làm châm ngôn cho cuộc sống của mình hằng ngày:”Nội thánh ngoại vương”: bên trong là một vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
2. Hãy hạ mình xuống.
Người đời ai cũng có tham sân si, ai cũng muốn cho mình vượt trên các người khác, nhất là những người lãnh đạo. Có những người kiêu căng đã tự tôn mình lên làm chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên phương Đông. Nabuchodonosor, César, Néron bên phương Tây. luật sĩ , biệt phái và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ ; họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy xác chết thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên tòa Maisen...” Họ làm như thế cốt làm cho người ta thấy.
Chúa khuyên mọi người hãy biết tự hạ, nhất là các cấp lãnh đạo. Trong bài đọc I hôm nay Thiên Chúa đã dùng tiên tri Malakia mà khiển trách họ. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn đưa ra một mô hình người lãnh đạo gương mẫu theo Tin mừng: như Mt 20,24-28 ; Ga 13,1-20vv...
* Tấm lòng của người lãnh đạo: yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
* Phương châm của người lãnh đạo: tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ được mình hướng dẫn.
* Cung cách của người lãnh đạo: hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
Truyện: Đức Giáo hòang Gioan 23
Đức Gioan 23 đã kể lại kinh nghiệm của Ngài như sau:
“Khi tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo tôi:”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng”. Tôi đã áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng”.
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.
(Thiên Phúc, Tất cả là hồng ân, tr 12)
“Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm nhường, vì người khiêm nhường nhận biết sự thật. Mà Chúa là sự thật, nên Chúa không chấp nhận sự lừa dối. Xin cho con luôn biết sự thật về con chính là lúc thụ tạo yếu hèn và bất toàn. Xin cho con luôn ý thức rằng tất cả những gì con có, từ tiền bạc của cải vật chất, cho đến những tài năng của trí tuệ, tất cả đều thuộc về Chúa. Và xin cho con luôn biết quảng đại để trao lại cho những ai cần đến con. Vì con biết rằng Chúa sẽ thương yêu con nhiều hơn”. Amen.
6.Người có trách nhiệm hướng dẫn người khác--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Khuyến cáo những người có trách nhiệm hướng dẫn người khác
"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta" (Mt 23,4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay nói về trách nhiệm hướng dẫn người khác. Trong chúng ta, nhiều người có trách nhiệm hướng dẫn: kẻ thì hướng dẫn gia đình, người thì hướng dẫn một nhóm người trong họ đạo hoặc ngoài xã hội. Trách nhiệm hướng dẫn rất nặng nề và đòi hỏi rất nhiều, kẻo "mù dẫn mù, cả hai lăn cù xuống hố".
Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa dạy cách hướng dẫn người khác. Ðồng thời chúng ta cũng hãy nài xin Chúa trợ lực để chúng ta có thể chu toàn trách nhiệm của mình.
II. Gợi ý sám hối
Nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn người khác, nhưng chúng ta chưa có một đời sống gương mẫu để làm gương cho những người được chúng ta hướng dẫn.
Nhiều khi chúng ta còn làm gương xấu.
Chúng ta để ý nhiều đến vinh dự của mình, mà ít quan tâm phục vụ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ml 1,14-2,2.8-10)
Ngôn sứ Malakhi rao giảng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, khi ấy Ðền thờ đã được xây dựng lại xong. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái chỉ quan tâm tổ chức các lễ nghi bề ngoài, không quan tâm hướng dẫn tinh thần dân chúng.
Từ đó phát sinh nhiều tệ nạn: các lễ vật dâng tiến cho Chúa là những con vật đui mù què quặt, thậm chí là những con vật ăn cắp; dung túng cho việc li dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Thiên Chúa bảo ngôn sứ Malakhi nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
2. Ðáp ca (Tv 130)
Tv này là lời cầu nguyện của một tín hữu chân thành. Tác giả nguyện sống khiêm tốn "mắt chẳng liếc nhìn cao", "không lo nghĩ những chuyện lớn lao" mà chỉ chuyên chăm "lo giữ linh hồn cho êm can và thanh thản", luôn trông cậy vào Chúa "như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu".
3. Tin Mừng (Mt 23,1-12)
Ðức Giêsu nói về giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời của Ngài, tức là các luật sĩ và các người biệt phái:
Một mặt, Ngài bảo mọi người phải tôn trọng chức vụ của họ, vì họ "ngồi toà Môsê", và hãy làm theo những gì họ dạy.
Nhưng mặt khác đừng noi theo hành vi của họ, biểu hiện những thói xấu như: chỉ tay năm ngón, hám danh, kiêu căng.
4. Bài đọc II (1 Tx 2,7-9.13)
Cung cách lãnh đạo của Thánh Phaolô:
"Chúng tôi đã trở thành những kẻ bé mọn giữa anh em"
Ðối xử với tín hữu "như người vú nuôi nâng niu con cái mình"
Sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu, ngay cả mạng sống mình.
Cố gắng tự lực cánh sinh để không trở thành gánh nặng cho giáo đoàn.
IV. Gợi ý giảng
1. Vinh quang ở đâu?
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngã mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng ra đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dạ dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn tây nhiều tai họa cho người khác nữa.
Theo lời dạy của Chúa Giêsu thì khác hẳn: "Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ mọi người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Chúa không chỉ dạy bằng lời. Ngài còn làm gương, Ngài đã dẫn chứng bằng cả cuộc đời hiến thân phục vụ trong khiêm tốn của mình. Thập giá của Ngài là một bằng chứng không thể phủ nhận được.
Quả thật, Chúa Giêsu đã ý thức rất rõ bản chất và danh vị của mình. Nhưng Ngài sẵn sàng chọn sự rốt hèn, hết mình phục vụ, không ngại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử của mình, và cuối cùng dám để cho người ta bóc lột cả đến danh dự và sự sống thân xác của Ngài nữa.
Tất cả là để làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa tình yêu và vì hạnh phúc của con người mà Ngài sẽ thu phục trong vương quốc Thiên Chúa.
Tưởng chứng Thập giá là một ngõ bí, một sự hạ nhục và huỷ diệt. Nhưng thực ra, nhờ Thập giá mà Chúa Giêsu đã mở ra con đường phục sinh vinh quang. Ngài đã trở thành bất tử và được nâng lên tột cùng, để rồi cũng lôi kéo mọi người lên theo.
Như thế, chúng ta hiểu rằng: vinh quang thật không khởi từ danh vị nhưng được xác định qua những nỗ lực và khiêm tốn phục vụ. Cái đáng tin, đáng phục không phải ở lời nói, quyền lực, mà là ở cuộc sống phản ảnh sự chân thực, ở khả năng cống hiến và mức độ dấn thân để sống yêu thương cách xứng đáng.
Chúng ta hãy nhìn lên "tòa thập giá" của Chúa Giêsu để tìm những lời dạy chí lý và khám phá ra những phương cách chia sẻ vinh quang đích thực và vững bền. (Lm Nguyễn thanh Tước, Tây Ninh. Trích trong báo CgvDt số đặc biệt giáng sinh '95, trang 281-282)
2. Mô hình người lãnh đạo gương mẫu
Mô hình này dựa trên những lời Ðức Giêsu dạy và chính gương của Ngài được ghi lại trong các sách Tin Mừng, như Mt 20,24-28; Mt 23,1-32; Ga 13,1-20 v.v.
Tấm lòng của người lãnh đạo: yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
Phương châm của người lãnh đạo: tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ mình hướng dẫn.
Cung cách của người lãnh đạo: hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
3. Những thói xấu mà người lãnh đạo dễ mắc phải
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay vạch rõ những thói xấu mà những người lãnh đạo dễ mắc phải:
Lo tìm vinh dự cho mình, mà quên tìm lợi ích cho thuộc cấp.
Thái độ quan liêu, coi rẻ thuộc cấp.
Sai khiến người khác làm, phần mình thỉ chỉ tay năm ngón.
Quên phục vụ người khác, mà bắt người khác phục vụ mình.
4. Suy nghĩ về cái "làm" và cái "thấy"
Cái "làm" của chúng ta dễ bị ảnh hưởng tác động của cái "thấy".
- Nếu "làm để cho người ta thấy", thì: khi người ta thấy thì chúng ta cố gắng làm cho thật tốt để được người ta khen; nhưng khi không ai thấy thì chúng ta hoặc không làm, hoặc làm cẩu thả.
- Nhưng cái "thấy" của người ta thế nào? Người ta chỉ có hai con mắt và chỉ hiện diện ở một nơi, cho nên có cái người ta thấy và có cái người ta không thấy.
- Ngay cả khi người ta thấy đi nữa thì làm sao? Có khi người ta thấy việc chúng ta làm và người ta khen hoặc chê; nhưng nhiều khi người ta dù có thấy nhưng thờ ơ chẳng có ý kiến khen chê gì cả (thí dụ chúng ta đi một đoạn đường, chúng ta thấy rất nhiều việc, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng đâu có ý kiến gì); có khi mình làm việc tốt, người ta thấy nhưng lại hiểu sai và cho là việc xấu (thí dụ chuyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính thương chồng định lấy kéo cắt dùm một sợi râu của chồng, có người thấy thế tố cáo Thị Kính muốn dùng kéo giết chồng).
- Còn cái "thấy" của Chúa thế nào? Có câu hát: "Con kiến đen, nằm trên hòn đá đen, mà trời tối đen Ðức Chúa Trời cũng thấy". Nghĩa là Chúa thấy hết mọi sự, ở khắp mọi nơi. Không gì mà Ngài không thấy. Và khi thấy thì Chúa luôn đánh giá: nếu thấy ta làm điều tốt thì Chúa vui và thưởng ta, còn thấy ta làm điều xấu thì Chúa buồn và phạt ta.
Ðức Giêsu dạy chúng ta đừng làm như người biệt phái "Họ làm mọi sự cốt cho người ta thấy", nhưng hãy cố gắng luôn sống dưới cái nhìn của Chúa, làm gì dù có người thấy hay không, dù việc lớn hay việc nhỏ, việc chung hay việc riêng, hãy luôn làm vì muốn đẹp lòng Chúa.
5. Chuyện minh họa
a/ Tiền giả
Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không? Thưa có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu giả hình (W.E. Biederwolf).
b/ Ông vua ở truồng
Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: "Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng". Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh "Áo ta có đẹp không?" Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: "Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!". Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin.
1. Hội Thánh luôn dùng đời sống phục vụ mà xoa dịu đau khổ của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội Thánh / để qua đó Hội Thánh có thể giới thiệu Chúa cho mọi nước mọi dân.
2. Trên thế giới ngày nay / từ những khu nhà ổ chuột ở các thành phố / cho tới tận những miến xa xôi hẻo lánh / rừng thiêng nước độc / lúc nào cũng có những người thiện nguyện / đang hy sinh cả tuổi thanh xuân / hạnh phúc riêng tư / và cả mạng sống của mình nữa / để phục vụ những anh chị em bất hạnh nhất của xã hội / những Ðức Kitô bị bỏ rơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / gìn giữ những anh chị em ấy luôn được an toàn / và cho họ tìm được niềm vui trong việc phục vụ tha nhân.
3. Ngày nay / bên cạnh rất nhiều người trẻ có tâm hồn quảng đại / âm thần phục vụ / thì cũng có một số người khác chỉ biết ăn chơi trác táng / hưởng thụ ích kỷ / không bao giờ biết quan tâm đến nỗi thống khổ / của những người nghèo chung quanh mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / biết sống cho một lý tưởng cao đẹp.
4. Sẵn sàng giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn / là một trong những cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vui với người vui / và khóc cùng người khóc như Thánh Phaolô đã dạy.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; còn ai muốn đứng đầu trong anh em, thì phải làm đầy tớ anh em". Xin ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Là những người nhận trách nhiệm lãnh đạo một số người nào đó, chúng ta dễ bị cám dỗ hám danh, bắt người ta phục vụ mình, kiêu ngạo v.v. Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy thành khẩn xin Chúa giúp chúng ta khỏi sa vào những chước cám dỗ ấy.
VII. Giải tán
Thánh lễ vừa xong, Anh chị em hãy trở về chu toàn những trách nhiệm của mình trong tinh thần phục vụ, khiêm tốn và yêu thương.
7.Hãy sống thành thật--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Trong một tỉnh kia, người ta tổ chức một buổi thuyết trình về Công giáo tiến hành. Họ mời ông X, là người đạo đức và có tài diễn thuyết để nói chuyện với mọi người. Trước mặt công chúng đông đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp, ông X lên diễn đàn nói rất hùng hồn, rất trôi chảy và rất hay. Đại ý ông nói như sau: “Lúc này hơn bao giờ hết, người Công giáo chúng ta phải hoạt động tích cực trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực xã hội và từ thiện. Đối với những người chung quanh, chúng ta phải vui vẻ, hòa nhã, nhẫn nhịn, dễ cảm thông và giúp đỡ.v.v..”. Dứt lời, mọi người vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau đó, ông X lên xe ra về. Trong số thính giả đến nghe buổi diễn thuyết đó, có một người ở cạnh nhà ông X, tâm trí còn đang thán phục bài thuyết trình vừa hay vừa thức thời của ông, nghe thấy trong nhà ông X có tiếng càu nhàu và la rầy người giúp việc, người ấy tò mò lắng nghe. Câu chuyện xảy ra như sau: khi ông X diễn thuyết về, chị giúp việc dọn cơm cho ông. Đồ ăn rất ngon, nhưng có món xào hơi mặn. Ông X khó chịu, gắt gỏng và gọi chị giúp việc lên hỏi: “Ai nấu món này?” - “Dạ, thưa con” - “Tại sao mặn đắng thế? tao có phải là tù đâu mà cho ăn uống thế này?” - “Xin ông tha cho con, con đang đau nên vô ý nêm quá tay ”. Tức thì cái đĩa xào bay xuống sàn nhà, đổ vỡ tung tóe. Rồi ông X đứng lên tuyên bố: “Tháng này tao sẽ trừ lương mày”. Nói xong ông lên xe ra tiệm ăn. Tác giả câu chuyện này kết luận: “Ngôn hành tương phản là thế. Lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. Trên đời không thiếu những người như ông X”.
Câu chuyện trên cũng đúng với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tố giác trước dân chúng và khuyến cáo họ: phải đề phòng tính cách giả hình, bôi bác của các kinh sư và các người Pharisêu. Qua đó, Chúa dạy chúng ta phải sống thành thực, nói và làm trước sau như một.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các kinh sư và những người Pharisêu có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt, đáng khen. Nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, giữa ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất, không đi đôi với nhau, họ rao truyền Lời Chúa, yêu cầu người khác phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không tuân giữ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp giả hình trong bổn phận, còn với chính mình, lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là cái đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ. Và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế, hãy sống thành thực: nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Tìm hiểu bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ: những người kinh sư và Pharisêu không còn, nhưng lối sống, cách sống của họ chưa chết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối vẫn hiện diện khắp nơi, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hóa, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bề ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình giả dối ai mà không ghét. Thế nhưng, người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách xử sự bên ngoài
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: Nếu muốn thành công, thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng, đừng bao giờ nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng. Dầu trong bụng có ghét người ta thậm tệ, bên ngoài phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội thiếu gì những người: “bang mặt mà không bằng lòng”. Thành ra, để phân biệt được: ai là người chân chính, ai là kẻ giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn, thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế, mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng. Có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hay đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy giấu diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột” . Giả như chúng ta sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công, thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
8.Đóng kịch--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pha-ri-sêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật", nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận, còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu, Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pha-ri-sêu không còn, nhưng lối sống của Pha-ri-sêu chưa chết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế,chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hóa, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta thường đồng ý rằng:muốn được kẻ khác kính nể,cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẻn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dầu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: "Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm". Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt chuột". Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ va tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
9.Những anh hùng cứu độ--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: “Thập giá là dấu chỉ của Tình Yêu, là lời mời gọi đến Tình Yêu và là sự mặc khải về Tình Yêu.”
Cách đây nhiều năm các rạp hát có chiếu một cuốn phim nhan đề Little Lord Fauntlroy (Tiểu chủ Fannilleroy) nói về một cậu bé 7 tuổi đến sống với ông nội là một người giàu có đang quản lý nhiều công nhân dưới quyền. Ông lão bản chất là con người ích kỷ và độc ác, nhưng cậu nhỏ quá thần tượng ông mình, nên không thể nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình quảng đại và tốt bụng. Cậu bé thường nói với người ông: "Nội ơi! Thiên hạ chắc hẳn yêu ông biết dường nào! Cháu dám cá là họ yêu nội hầu như cũng nhiều bằng cháu yêu nội vậy !".
Ðể rút ngắn câu chuyện, tình yêu của cậu bé dần dà làm mềm mại trái tim ông già, và ông đã trở nên loại người tốt mà đứa cháu vẫn nghĩ cho ông.
Câu chuyện này giống như một dụ ngôn của Chúa Giêsu cho thấy tình yêu Ngài dành cho chúng ta có thể thay đổi chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh để trở nên loại người giầu yêu thương như Ngài vẫn thấy nơi tiềm năng chúng ta.
Tình yêu nằm nơi trọng tâm lời dạy và cuộc đời Chúa Giêsu. Và trong tất cả hành vi của Chúa Giêsu, không hành vi nào biểu lộ tình yêu Ngài rõ rệt hơn việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự.
Và điều gì khiến cho việc chịu đóng đinh thập tự là bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Chúa Giêsu như thế?
Trước hết, việc chịu đóng đinh thập tự là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Không tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 15: 13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản: Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu và vì thế đáng giá, thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác đựơc. Nói tóm lại, chẳng ai đem đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu đến mức Ðức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
Thứ đến, bên cạnh dấu hiệu của tình yêu, việc chịu đóng đinh cũng là lời mời gọi đến với tình yêu. Ðây là một cách diễn tả bằng hình ảnh điều mà Chúa Giêsu đã thường dùng ngôn từ để nói: "Các con hãy thương yêu nhau như Ta đã yêu thương các con"(Ga.15, 12).
Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta như thế chứng tỏ Ngài nghĩ rằng tình yêu của chúng ta là quí giá. Ngài dạy chúng ta rằng chúng ta có thể giúp đỡ kẻ khác bằng tình yêu của mình giống như Ngài đã dùng tình yêu của Ngài để giúp đỡ chúng ta.
Các bậc tôn sư cho chúng ta thấy rằng lòng tự trọng của tuổi trẻ sẽ tiến bộ rất nhiều khi họ khám phá ra tình yêu của họ là đáng giá. Chúng ta có thể thấy đựơc sự đổi thay sâu xa khi một sinh viên dấn thân vào một chương trình phụng sự chẳng hạn: dạy kèm thêm cho các sinh viên lớp nhỏ hơn, đọc sách cho người mù nghe, hoặc thăm viếng người già cả. Thường đây là lần đầu tiên họ khám phá ra mình có giá trị, mình có khả năng giúp đỡ tha nhân.
Như thế, điều thứ hai mà thập giá chúng ta đem lại là lời mời gọi chúng ta yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Nó giúp chúng ta khám phá được tình yêu chúng ta là đáng giá, chúng ta có thể dùng tình yêu của mình để giúp đỡ tha nhân.
Thứ ba, ngoài dấu chỉ tình yêu chúng ta như lời mời gọi đến với tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn là sự mặc khải cho chúng ta về tình yêu rằng tình yêu thương kéo theo đau khổ.
Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã mặc khải điều ấy cho chúng ta, vì điều ấy chống lại sự dối trá đang liên tục xẩy ra hằng ngày trên màn ảnh truyền hình cho rằng người ta có thể gíup kẻ khác mà mình chẳng phải mất mát gì hết. Vị bác sĩ trên truyền hình cứu chữa bệnh nhân mà bản thân chẳng hề đau khổ gì cả. Vị luật sự trên truyền hình bảo vệ cho kẻ bị áp bức bóc lột mà bản thân ông chẳng bị đau thương gì hết. Viên sĩ quan cảnh sát cứu đứa bé bị đối xử tàn nhẫn mà chính ông không hề bị đối xử tệ như vậy bao giờ. Giáp bào sáng loáng của những anh hùng cứu độ trên truyền hình này chỉ dơ bẩn thôi chứ chẳng bao giờ bị mẻ hay bị hư. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy yêu thương và giúp đỡ kẻ khác bao giờ cũng kéo theo đau khổ cho chính mình.
Không đau khổ sao được khi phải nhẫn nại với một kẻ thân yêu quát mắng chúng ta.
Không đau khổ sao được khi phải thứ tha giống như ông bố của đứa con hoang đàng và phải đón đứa con ương ngạnh trở về nhà.
Không đau sao được khi phải khiêm tốn nhìn nhận giống cậu con trai hoang trong câu chuyện ấy rằng mình đã sai lầm.
Ðôi khi tôi nghĩ: nếu chúng ta có luật bắt buộc phải ghi trên bao bì những thực phẩm có hai dòng chữ: "thực phẩm này có thể hại cho sức khoẻ bạn" thì chúng ta cũng nên có luật là các chứng thư hôn thú phải được ghi thêm dòng chữ sau: "Tình yêu chắc chắn kéo theo đau khổ".
Ðiều này dẫn chúng ta tới chủ điểm sau cùng là: chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì đã dấn thân vào tình yêu. Chúng ta nên vui mừng khi phải đau khổ với cùng một người về cùng một việc hết ngày này qua ngày nọ. Chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì bị mất đi một cơ hội để hãnh diện, hoặc mất đi một vinh dự hay một dịp thăng quan tiến chức.
Tại sao chúng ta lại nói lên một điều khó tin như thế? Arthur Godfrey ngôi sao truyền hình trước đây có cho chúng ta lời giải thích tuyệt vời trong bài viết đăng trong cuốn "The Guideposts Treasury of Faith (1970) (Cẩm nang hướng đạo đức tin). Trên bức tường nơi văn phòng làm việc của mình, Godfrey thường treo một tấm biển ghi: "Lạy Chúa, con thà chịu lửa đốt hơn là phải làm vật phế thải".
Godfryey nói rằng tấm biển đề nhắc ông câu chuyện về bác thợ rèn nọ, dù phải chịu nhiều tai ương mà vẫn vững tin nơi Chúa. khi một kẻ vô đạo hỏi bác ta làm thế nào bác có thể vẫn giữ niềm tin vào Chúa dù chịu biết bao tai ương, bác liền trả lời: "Khi tôi chế tạo một dụng cụ, tôi thường lấy một thanh sắt và nung lửa. Ðoạn tôi đập nó trên đe để xem nó có độ cứng không. Nếu có, tôi sẽ chế ra một dụng cụ hữu ích, nếu không tôi quẳng nó vào đống sắt vụn hết xài".
Câu chuyện trên dẫn chúng ta trở lại chủ điểm của mình. khi chúng ta chịu đau khổ vì tình yêu, chúng ta có thể hoan hỉ vì biết rằng Chúa đang sử dụng chúng ta.
Tóm lại, sự kiện Chúa Giêsu bị đóng đinh thập tự là Dấu chỉ Tình yêu Ngài dành cho chúng ta, là lời mời gọi chúng ta yêu mến tha nhân, đồng thời cũng là sự mặc khải về tình yêu tức là tình yêu luôn kéo theo đau khổ.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng, xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm đựơc ý nghĩa của cuộc sống mình. Amen.
10.Thiên Chúa của tình yêu--Lm. Mark Link, SJ.
Một vài năm trước đây William Golding có viết một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mang tên Lord of the Flies. Đó là câu chuyện về một nhóm học sinh khoảng 14 tuổi.
Các học sinh này sống vất vưởng trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay cứu họ từ Anh Quốc, trong Thế Chiến II, bị rớt trên biển Thái Bình Dương. Phi công và người phụ tá đều bị chết ngay lập tức, chỉ có các cậu trai này là còn sống sót.
Lúc đầu, mọi sự đều êm đẹp. Chúng vui thích thám hiểm hòn đảo này và trở nên những chủ nhân mới.
Nhưng sau đó mọi sự trở nên tồi tệ. Chúng cãi nhau, và chia làm hai phe đối nghịch. Dần dà chúng trở nên man rợ và bắt đầu tiêu diệt lẫn nhau.
Một trong những điểm phát xuất từ câu chuyện của Golding là, nếu để tự ý, bản chất con người sẽ trở nên hung bạo.
Nói cách khác, nếu không có lề luật và cơ cấu để hướng dẫn, bản chất con người có xu hướng thiên về sự dữ. Nó sẽ đi theo chiều hướng ít trở ngại nhất, và kết quả là sự xáo trộn.
Nói một cách tích cực, điểm mà Golding muốn nói là: Xã hội cần có lề luật và cơ cấu để tồn tại. Nếu không có lề luật và cơ cấu, không bao lâu xã hội sẽ suy thoái thành một loại rừng rú. Không có gì là linh thiêng; không ai được tôn trọng.
Người Do Thái xưa có một triết lý tương tự về bản tính con người. Họ tin rằng cần phải có lề luật và cơ cấu để dân Israel tồn tại và phát triển thành một quốc gia.
Đó là một khung cảnh được thấy trong sách Nêhêmia (8:1-8), trong đó toàn thể dân tộc tụ tập lại và tự hứa sẽ tuân giữ lề luật.
Từ ngày đó trở đi, việc nghiên cứu lề luật trong Israel trở thành một trong những nghề quan trọng nhất. Những luật gia cổ xưa này, được gọi là luật sĩ, tự khoác cho mình một trách nhiệm là áp dụng lề luật vào những chi tiết nhỏ bé nhất trong đời sống hàng ngày.
Thí dụ, hãy lấy điều luật cấm người ta không được làm việc vào ngày Sabát. Các luật sĩ dành cả giờ đồng hồ để thảo luận về việc áp dụng luật này vào các hành động tỉ như bước đi. Thí dụ, người ta có thể bước đi bao xa để coi đó là sự giải trí thay vì làm việc?
Và vì thế có những điều luật nói rằng, trong ngày Sabát có thể bước đi nửa dặm, nhưng ai bước đi xa hơn quãng đường đó thì bị coi là phạm luật.
Các luật sĩ còn đi xa hơn nữa. Họ “xây những hàng rào chung quanh lề luật,” để giữ dân chúng khỏi vi phạm luật vì sự tình cờ.
Nói cách khác, bước đi nửa dặm trong ngày Sabat thì không sao; nhưng để giữ cho dân chúng khỏi tình cờ vi phạm luật, các luật sĩ đặt ra một điều luật rằng người ta chỉ có thể bước đi hai phần năm dặm.
Nhận xét về thói vụ luật quá đáng này, William Barclay, một người nghiên cứu luật Do Thái, đã viết như sau:
Vào lúc sự dẫn giải lề luật chấm dứt, phải mất trên năm mươi bộ sách để ghi lại các quy tắc phát sinh từ việc dẫn giải đó.
Kết quả sau cùng của việc này là nhiều thường dân ở Israel từ bỏ việc tuân giữ lề luật mà các luật sĩ đặt trên vai họ. Họ thực sự chán nản và không còn hy vọng gì để làm vừa lòng Thiên Chúa. Nhiều thường dân còn bỏ cả việc tuân giữ các điều luật chính.
Hậu quả là những người này bị các luật sĩ và Biệt Phái tẩy chay, coi họ là những người tội lỗi và bị ruồng bỏ.
Điều này giải thích lý do tại sao Đức Giêsu đối xử rất khắc nghiệt đối với các luật sĩ và Biệt Phái. Đó là vì họ làm ô uế tôn giáo và biến tôn giáo thành một bộ lề luật.
Điều này cũng giải thích lý do tại sao Đức Giêsu nói với các luật sĩ và Biệt Phái trong bài phúc âm hôm nay:
“Họ cột những gánh nặng không thể khiêng nổi trên lưng người dân; nhưng họ lại không muốn nhấc ngón tay để giúp người dân mang những gánh nặng ấy.”
Trái với thói vụ luật này, Đức Giêsu chủ trương tình yêu và sự tha thứ. Người nói rằng tâm điểm của tôn giáo thì không phải là một cuốn sách đầy luật mà chỉ có một ít người có thời giờ rảnh rỗi để học biết và tuân giữ.
Đúng hơn, đó là một tâm hồn đầy tràn tình yêu và trắc ẩn, mà mọi người đều có khả năng.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến điều này trong bài phúc âm tuần trước khi Người tóm lược các giới răn của lề luật thành hai điều: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sư và yêu thương tha nhân như chính mình.
Tất cả các giới răn khác đều lệ thuộc vào hai điều này.
Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng quý vị có thể đặt ra mọi lề luật quý vị muốn và tuân giữ những điều luật quý vị đặt ra. Nhưng nếu lý do để thi hành như vậy không phải là tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, quý vị đã quên đi điểm chính của lề luật và tôn giáo.
Thánh Phaolô, từ một người Biệt Phái trở lại Kitô Giáo, trong thư gửi Tín Hữu Côrintô ngài đã nhấn mạnh đến cùng một điểm này khi nói:
Tôi có thể có được mọi đức tin đến độ chuyển cả ngọn núi – nhưng nếu tôi không có tình yêu, tôi cũng chẳng là gì. Tôi có thể cho đi mọi sự tôi có… nhưng nếu tôi không có tình yêu,
điều này chẳng ích gì cho tôi.
Yêu thì nhẫn nại, yêu thì ân cần.
Yêu không phải là ghen tương, không phải là khoe khoang,
không phải là tự mãn, không phải là thô lỗ,
yêu không tìm lợi ích riêng cho mình,
không hay nóng giận, không cay đắng,
yêu không vui khi làm điều sái quấy nhưng vui khi thấy sự thật.
Tình yêu không bao giờ bỏ cuộc; và sự tin tưởng, sự hy vọng và sự kiên nhẫn của tình yêu
thì không bao giờ thất bại.”
1 Cor. 13:2-7
Nếu có hồ nghi về địa vị hàng đầu của tình yêu trong tôn giáo, những lời trên của T. Phaolô đã xua tan tất cả.
Hãy kết thúc bằng lời của Mẹ Têrêsa, là người hơn ai hết đã duy trì sự quân bình mỹ miều giữa tình yêu và lề luật khi đề cập đến sự thực hành tôn giáo. Mẹ nói:
Nhiệm vụ của mỗi người là một nhiệm vụ yêu thương…
Hãy khởi sự ngay nơi bạn đang ở, với những người gần gũi nhất với bạn.
Hãy biến nhà bạn thành các trung tâm đầy trắc ẩn và tha thứ không ngừng.
Đừng để ai sau khi đến với bạn mà không trở nên tốt hơn và vui hơn…
Vào lúc chết khi chúng ta đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên tình yêu; không phải bao nhiêu công việc mà chúng ta đã làm,
nhưng bao nhiêu tình yêu mà chúng ta đã biến thành hành động.
11.Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm A trình bày cho chúng ta những bổn phận và trách nhiệm của các tư tế thi hành tác vụ tế tự của mình và của những người có sứ vụ giảng dạy và loan báo Tin Mừng.
Ml 1: 14-2: 2, 8-10
Ngôn sứ Ma-la-khi, vào thế kỷ V tCn, tố cáo những vi phạm nghiêm trọng của các tư tế Giê-ru-sa-lem khi thi hành tác vụ tế tự.
1Tx 2: 7-9, 13
Thánh Phao-lô cho thấy sự tận tâm tận lực của ngài và tính vô vị lợi tuyệt đối của ngài trong sứ vụ tông đồ của mình.
Mt 23: 1-12
Chúa Giê-su quở trách thói hư tật xấu của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu, đồng thời Ngài cũng cảnh giác các môn đệ Ngài, sau nầy họ sẽ là những người lãnh trách nhiệm trông coi Hội Thánh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ml 1: 14-2: 2, 8-10)
Ngôn sứ Ma-la-khi quở trách cách nghiêm khắc các tư tế Giê-ru-sa-lem cũng như cộng đoàn tín hữu, vào thời kỳ người ta thờ ơ lãnh đạm, thậm chí ngờ vực. Thời kỳ nầy được định vị vào tiền bán thế kỷ V tCn, khoảng 40 hay 50 năm sau khi Đền Thờ được tái thiết. Như chúng ta biết, Đền Thờ của vua Sa-lô-môn đã bị đạo quân Ba-by-lon phá hủy khi đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 587 tCn và được tái thiết vào giữa những năm 521 và 515 tCn nhờ lòng nhiệt thành của những người lưu đày từ Ba-by-lon trở về. Nhưng vài thập niên sau đó xuất hiện những dấu hiệu của sự thoái hóa vì nhiều nguyên nhân, nhất là việc canh tân tôn giáo được dự kiến bị chậm trễ. Việc tế tự bị lạm dụng và tâm tình tôn giáo trở nên nguội lạnh.
Một ngôn sứ nặc danh (Ma-la-khi không là tên riêng nhưng là biệt danh, có nghĩa “sứ giả của Ta”) phản ứng mãnh liệt. Đây là một trong những nét tiêu biểu của lịch sử Ít-ra-en, mỗi lần dân Chúa đi trệch hướng, một ngôn sứ xuất hiện để cảnh báo họ và lay động tiếng lương tâm của họ. Ma-la-khi là vị ngôn sứ cuối cùng, đánh dấu việc kết thúc truyền thống ngôn sứ. Truyền thống ngôn sứ sẽ tái xuất hiện nhưng dưới hình thức khác, hình thức văn chương khải huyền.
Bản văn Ma-la-khi được trích dẫn hôm nay gồm có hai phần: trong phần thứ nhất, những lời quở trách được gởi đến các tư tế, và trong phần thứ hai, những lời quở trách được gởi đến các tín hữu (giáo dân).
1. Các tư tế:
Đây không là lần đầu tiên mà một ngôn sứ gởi những lời quở trách nghiêm khắc đến các tư tế Giê-ru-sa-lem. Các ngôn sứ như Mikha, Xô-phô-ni-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en đã không sợ làm như vậy trong những hoàn cảnh khó khăn hay bi thảm.
Ngôn sứ Ma-la-khi cho rằng, không phải không có lý do, thời kỳ ông sống thật là trầm trọng. Vào giờ dân Thiên Chúa mất nền độc lập của mình (họ sống dưới quyền thống trị của đế quốc Ba-tư), vào giờ họ phải khẳng định hơn bao giờ hết những giá trị đặc thù của mình, thì họ lại coi thường việc tế tự dâng lên Thiên Chúa của mình và sống cuộc sống luân lý không xứng đáng với niềm tin mà họ công bố.
Theo truyền thống ngôn sứ, lời của ngôn sứ cũng chính là lời của Thiên Chúa: “Quả thật, chính Ta là Đức Vua cao cả, - Đức Chúa các đạo binh phán” (Ml 1: 14). Kiểu nói này xuất phát từ các Thánh Vịnh, như Tv 47:
“Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47: 3).
Ngôn sứ Ma-la-khi muốn nhấn mạnh sự tương phản giữa việc tế tự cẩu thả mà các tư tế Giê-ru-sa-lem thực hiện với tế tự của lương dân, ở đó Danh Thiên Chúa được tôn kính. Từ đó, ngôn sứ Ma-la-khi đưa ra ba lời quở trách nghiêm khắc:
- “Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta” (1: 14). Thật ra, câu nầy quy chiếu đến những trách cứ của đoạn văn trước đó, liên quan đến những vi phạm nghiêm trọng trong việc tế tự ở Đền Thờ như dâng những tế vật què hay bệnh tật, vân vân. Lúc đó, như trong luật “Răng đền răng mắt đền mắt”, Thiên Chúa sẽ biến đổi những lời cầu xin những phúc lành của các tư tế cho dân chúng thành những những tai họa.
- “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy” (2: 8a). Lời quở trách thứ hai nầy nhắm đến nhiệm vụ giảng dạy mà các tư tế có bổn phận thực thi. Tư tế là người được ủy thác Lời Chúa; họ sở hữu sự hiểu biết về Lề Luật. Ấy vậy, lời giảng dạy của họ là một sự đồi bại thật sự, đến mức khiến cho nhiều người tín hữu lầm đường lạc lối.
- “Các ngươi đã không tuân giữ đường lối Ta và hay nể vì khi áp dụng Luật” (2: 8b). Lời quở trách này được gởi đến các tư tế trong việc điều hành công lý. Lời quở trách này rất gần với huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Anh em không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính” (Đnl 17: 19).
Những lời quở trách của ngôn sứ Ma-la-khi gởi đến các tư tế Giê-ru-sa-lem rất gần với những lời quở trách mà Đức Giê-su sẽ gởi đến các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Đó là lý do Giáo Hội chọn bản văn Ma-la-khi này.
2. Các tín hữu (giáo dân)
Tiếp đó, ngôn sứ Ma-la-khi ngỏ lời với “dân Thiên Chúa”, cộng đoàn tín hữu, mà ông là một thành viên. Ngôn sứ mời gọi các tín hữu hiệp nhất với nhau: “Tất cả chúng ta chẳng có một cha sau?” (Ml 2: 10). Ngôn sứ kêu gọi đến tình phụ tử của Thiên Chúa, vừa là Đấng tạo dựng con người: Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao?”, vừa là Đấng đã chọn Ít-ra-en làm con của Ngài: “Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta”.
Bản văn này giới thiệu một đề tài rất đặc thù, nhưng âm vang sứ điệp Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (1Tx 2: 7-9, 13)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Trong đoạn thư trích dẫn này, thánh Phao-lô phác họa một bức tranh nhỏ về sứ vụ tông đồ của ngài bằng những từ ngữ gợi hình đầy cảm xúc. Danh xưng: “chúng tôi” bao gồm các cộng tác viên của thánh nhân. Trong đoạn văn trước, thánh nhân đã giải thích rằng thánh nhân không tìm cách áp đặt trên họ uy quyền mà tước vị tông đồ ban cho ngài. Thánh Phao-lô sánh ví hành động của ngài với bà mẹ hiền: ngài đã sinh ra các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thân yêu trong đức tin, ngài đã nuôi dưỡng họ bằng Lời Thiên Chúa và ngài sẵn sàng dâng hiến cho họ không những Tin Mừng mà còn cả mạng sống mình như mẹ hiền ấp ủ con thơ trong lòng của mình.
Vai trò mẫu tử của thánh Phao-lô thật thích hợp bên cạnh những người ki-tô hữu mới theo đạo; nhưng xa hơn, thánh Phao-lô hoàn tất bức tranh của mình khi gợi lên vai trò phụ tử của mình (không được trích dẫn hôm nay): “Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi đã khuyên nhũ, khích lệ, van nài anh em…” (2: 11-12). Điều quan trọng là không nên tách rời vai trò mẫu tử và vai trò phụ tử ở nơi thánh Phao-lô, vì chúng diễn tả hai khía cạnh của sứ vụ tông đồ.
Về công việc mà thánh Phao-lô ám chỉ đến “để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em” (2: 9), chúng ta không được biết công việc nào. Khi ở Cô-rin-tô và Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đã có thể làm nghề dệt lều trong xưởng dệt của hai ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la. Có thể thánh nhân đã có thể gặp một công việc như vậy ở Thê-xa-lô-ni-ca. Dường như thánh nhân đã làm việc thâu đêm để ban ngày dâng hiến cho sứ mạng tông đồ của thánh nhân (2Tx 3: 8). Nhưng chắc hẳn công việc này không đem lại lợi nhuận cao, vì suốt thời gian thi hành sứ loan báo Tin Mừng tại Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất từ phía các tín hữu Phi-líp-phê, một trường hợp ngoại lệ.
Đoạn, dưới hình thức tạ ơn, thánh Phao-lô ca ngợi đức tin của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, vì họ đã biết đón nhận Tin Mừng như Lời Thiên Chúa (2: 13).
TIN MỪNG (Mt 23: 1-12)
Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay gồm hai phần: trong phần thứ nhất, Chúa Giê-su nghiêm khắc phê phán các kinh sư và những người Pha-ri-sêu (23: 1-7), và trong phần thứ hai, Chúa Giê-su cảnh giác các môn đệ Ngài (23: 8-12).
1. Phê phán nghiêm khắc các kinh sư và những người Pha-ri-sêu (23: 1-7)
Giáo huấn này không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà cả đám đông dân chúng nữa: “Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám đông dân chúng và các môn đệ”. Trong giáo huấn này, Chúa Giê-su không chỉ vạch trần cho thấy những thói hư tật xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu mà còn nhắm đến Giáo Hội tương lai của Ngài: tránh tiêm nhiễm “men Biệt Phái”.
Thói giả hình (23: 2-3)
Các kinh sư mà Chúa Giê-su nói đến ở đây xuất thân từ nhóm Pha-ri-sêu, vì thế chương 23 này liên kết liên tục giữa “các kinh sư và những người Pha-ri-sêu”.
- “Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy”: Theo nghĩa đen, “tòa” là chỗ giảng dạy trong hội đường, ở đó vị kinh sư thường ngồi để cắt nghĩa Lề Luật; theo nghĩa bóng “tòa” ám chỉ những người có thẩm quyền giảng dạy Luật Mô-sê. Ông Mô-sê đã chuyển giao cho dân chúng Lề Luật mà ông đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, còn các kinh sư thì có phận vụ giảng dạy Luật Mô-sê cho dân chúng.
Khi công bố rằng “Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ”, Chúa Giê-su công nhận thẩm quyền giảng dạy Lề Luật của các kinh sư, nhưng Ngài cảnh giác dân chúng và các môn đệ Ngài phải phân định Lề Luật mà các kinh sư này công bố và giảng dạy trong các hội đường với cách sống của họ: “Còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm”. Vài năm sau đó, thánh Phao-lô, khi đối mặt với các bạn đồng môn Pha-ri-sêu trước đây của mình, cũng đã đưa ra những lời quở trách tương tự: “Vậy, bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! Bạn nói: chớ ngoại tình, mà bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các ngươi mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân” (Rm 2: 21-24).
Chính thói tự phụ cho rằng mình thông hiểu Lề Luật dẫn các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đến thái độ khinh bĩ những kẻ bé mọn, những người không biết Lề Luật. Thánh Gioan nêu ra điều đó trong Tin Mừng của mình: Người Pha-ri-sêu nói với những vệ binh: “Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa” (Ga 7: 47-49). Thái độ khinh miệt của họ như vậy thật là đối lập biết bao với Tin Mừng mà Đức Giê-su gởi đến những người bé mọn và những người khiêm hạ.
B- Chủ nghĩa duy luật (23: 4)
Truyền thống giải thích Lề Luật của các kinh sư, còn được gọi là “truyền thống của các tiền nhân”, đã tạo nên những quy tắc chi ly với muôn vàn những điều cấm và những điều buộc. Chúa Giê-su gọi đó là “cái ách” gông vào cổ, “cái gánh” đè nặng lên vai dân chúng: “Họ bó những gánh nặng mà đặt trên vai người ta”. Ngài đã từng tranh luận với họ về những quy tắc này như khi họ kết án các môn đệ về việc không tuân giữ nghi thức rửa tay trước khi ăn hay về việc bức bông lúa mà ăn vào ngày sa-bát.
Ở đây, Chúa Giê-su không tấn công tính khắc khe của các quy tắc, nhưng tính giả hình của các thầy dạy này, họ ra luật cho người khác giữ, còn họ thì không giữ; họ xác định mức độ dễ dãi cho họ, nhưng đòi buộc mức độ khắc khe cho người khác; họ thích “chỉ tay năm ngón” cho người khác, còn họ thì “không buồn động ngón tay vào”. Chính vì chủ nghĩa duy luật nầy mà Đức Giê-su giải thoát khi công bố giới luật yêu thương của Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 28-30).
C- Thói phô trương (23: 5)
Chúa Giê-su vạch trần cho thấy thói phô trương đạo đức bề ngoài của các kinh sư này: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”. Tất cả những gì họ làm chỉ để mọi người khen ngợi họ là những người đạo đức thánh thiện chứ không cốt để tỏ lòng mến Chúa. Thật đối nghịch biết bao với những lời khuyên mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ Ngài: “Khi làm những việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6: 1-4).
Để minh họa thói phô trương này, Chúa Giê-su dẫn chứng hai tập tục là “đeo hộp kinh” và “mang những tua áo”.
- “Hộp kinh” là cái hộp nhỏ bằng da đựng lời tuyên xưng đức tin cốt yếu nhất của Ít-ra-en được trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết dạ, hết sức ngươi” (Đnl 6: 4-5). Tập tục đeo hộp kinh trên trán rất được tôn kính vì nói lên lý tưởng là mỗi người Do thái phải thường xuyên ghi nhớ Luật của Thiên Chúa và cam kết thi hành. Khi lên 12 tuổi, người nam Ít-ra-en đeo hộp nhỏ ở trên trán vào giờ cầu nguyện ban sáng và đọc lời chúc tụng như sau: “Chúc tụng Ngài, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã thánh hóa chúng con bằng các giới răn của Ngài và đã truyền cho chúng con đeo các hộp kinh”.
- “Những tua áo” là những dây vải ghi những câu Kinh Thánh được đính vào cánh tay áo hay vạt áo. Tập tục nầy bắt nguồn từ lời dạy của sách Dân Số: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Đức Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm” (Ds 15: 37-39). Đức Giê-su không phê phán tập tục này nhưng trách cứ nặng lời thói phô trương đạo đức của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu: “Họ đeo những hộp kinh thật lớn” và “mang những tua áo thật dài” cốt để cho thiên hạ thấy.
D- Thói háo danh (23: 6-7)
Chúa Giê-su phê phán thói háo danh của họ: ưa thích những chỗ ngồi danh dự trong các hội đường và trong bàn tiệc, được mọi người kính trọng trong công cộng.
2. Cảnh giác các môn đệ (23: 8-12)
A- Cộng đoàn huynh đệ (23: 8-10)
Những cảnh giác này được gởi đến cho những người có trách nhiệm trông coi các cộng đoàn ki-tô hữu: “Phần anh em”. Theo truyền thống thời xưa, mối quan hệ giữa “thầy” và “trò” khắng khít đến độ họ có thể gọi nhau là “cha” và “con” (x. 2V 2: 12; 1Cr 4: 14-17; 1Pr 5: 13). Trọng tâm của các câu cảnh giác này chính là “Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (một lời khẳng định được đặt vào trung tâm của ba lời khuyên ở thể phủ định: “đừng”), nghĩa là mọi người ki-tô hữu, dù ở địa vị chức tước nào, đều là anh chị em với nhau trong một gia đình có Thiên Chúa là Cha trên trời và có một Tôn Sư là Đức Giê-su. Qua những lời này, Chúa Giê-su muốn nhắn gởi những vị hữu trách trong các cộng đồng ki-tô hữu phải luôn luôn ý thức rằng mình có thể được xem là thầy, cha, lãnh đạo, mục tử…trong mức độ người ấy thông dự vào tư cách là Thầy, Cha, Lãnh Đạo, Mục Tử đích thật là Đức Giê-su, như lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1), mà mẫu gương của Đức Ki-tô chính là: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28).
B- Đức khiêm hạ (23: 11-12)
Trong khi người Pha-ri-sêu ham muốn được quyền cao chức trọng, thì Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng những quyền hành chức tước trong Hội Thánh của Ngài, phải được thực hiện như một hình thức phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn bé mọn, chứ không phải để ăn trên ngồi trước, có kẻ hầu người hạ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ”.
Thái độ tự cao tự đại và thói tham quyền không phù hợp với người môn đệ Chúa Ki-tô: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong câu này, những động từ được dùng ở thể thụ động để chỉ Thiên Chúa là tác nhân: “Ai tôn mình lên, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, ai hạ mình xuống, sẽ được Thiên Chúa tôn lên”. Đã đành ai cũng khinh ghét kẻ kiêu căng và mến chuộng người khiêm hạ, nhưng quan trọng hơn nữa là chính Thiên Chúa cũng hạ bệ kẻ kiêu căng và nâng cao người khiêm hạ. Đó cũng là lời rao giảng của thánh Gia-cô-bê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gcb 4: 6). Và đó cũng là lời ca ngợi của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong lời kinh Mangificat:
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
3. Kết Luận:
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu đối chiếu hai hình ảnh Hội Thánh, một Hội Thánh theo kiểu mẫu Pha-ri-sêu: nói mà không làm, huênh hoang tự đắc, chuộng vẻ hào nhoáng bên ngoài, ham danh vọng và quyền hành, dễ dải với chính mình nhưng khắc khe với người dưới quyền. Bên kia là một Hội Thánh theo kiểu mẫu Đức Giê-su, trong đó những người ki-tô hữu cư xử với nhau như anh chị em trong một gia đình có Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su là Tôn Sư. Trong Hội Thánh theo kiểu mẫu Đức Ki-tô, quyền hành chức tước là những ân ban nhằm mục đích phục vụ, chứ không để phân biệt người trên với kẻ dưới, người giàu sang với kẻ nghèo hèn, người có quyền hành địa vị với kẻ cùng đinh. Chính vì mối nguy hiểm này có nguy cơ đánh mất vẻ đẹp của Hội Thánh mà Chúa Giê-su cảnh giác những người lãnh trách nhiệm trông coi các cộng đoàn ki-tô hữu là đừng bắt chước Hội Thánh theo kiểu mẫu Pha-ri-sêu.
12.Nghịch lý trong đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một định lý thật trái ngược đang hình thành trong xã hội Việt Nam. Nơi nào kinh tế còn nghèo nàn, người dân lại sống đùm bọc lẫn nhau. Lá lành đùm lá rách. Nơi nào kinh tế phát triển, người ta lại sống thờ ơ và dửng dưng với nhau. Nhà nào cũng kín cổng cao tường. Người nghèo tối lửa tắt đèn có nhau. Họ sẵn sàn phục vụ lẫn nhau, bất kể mưa nắng, bất kể ngày đêm. Họ phục vụ không toan tính. Không vụ lợi. Điều này ở người giầu không có. Người giầu sẵn sàng bố thí nhưng họ không dễ dàng cúi xuống phục vụ cho nhau. Họ không ngần ngại bỏ hàng triệu để xây những nhà tình thương, tình nghĩa, nhưng rất khó lòng mở rộng cửa đón tiếp kẻ nghèo đói, bần cùng. Người nghèo không có của nên tìm cách phục vụ lẫn nhau. Người giầu có, đi kiếm tôi tớ phục vụ. Cha mẹ không cần phục vụ con cái. Vợ chồng không cần phục vụ lẫn nhau. Con cái không cần phục vụ gia đình vì đã có những người giúp việc, những Osin phục vụ thay cho hết mọi người.
Bên cạnh sự phân hóa giầu nghèo dẫn đến tình trạng phân biệt giai cấp chủ - tớ, còn có một định lý trái ngược nơi những người có chức có quyền. Người có chức trên danh nghĩa là để phục vụ nhưng xem ra họ trở thành người được phục vụ. Họ có quyền để bảo người khác phục vụ. Tùy theo chức to, chức nhỏ. Họ đều có người trợ lý, trợ tá để phục vụ cho mình. Người quyền quý có kẻ đưa người đón. Kẻ hầu người hạ. Chức càng cao, quyền càng lớn, càng lắm kẻ để sai, để khiến. Thế nên, người ta thường tranh giành nhau chức vụ để được ăn trên người trốc và được người khác phục vụ với “mâm cao cỗ đầy”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thói khoe khoang, giả hình và vụ lợi của những người biệt phái. Họ nói mà không làm. Họ dùng chức quyền, địa vị để vun quén của cải, để sống một cuộc đời thượng lưu, xa sỉ. Đối lại thái độ ấy của người biệt phái, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy theo gương Chúa để hạ mình làm tôi tớ phục vụ cho nhau. Người càng làm lớn càng phải biết phục vụ anh em nhiều hơn.
Chúa Giêsu đã không chỉ nói các môn sinh hãy phục vụ lẫn nhau mà chính Ngài đã cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Một hành vi khiêm tốn đến nỗi các môn sinh phải kinh ngạc, còn Phêrô sợ hãi, thốt lên: “không đời nào Thầy là Chúa, là Thầy mà lại rửa chân cho con”.
Vì việc rửa chân cho khách theo thói tục Do Thái ngày xưa chỉ dành cho tôi tớ trong nhà. Đó không phải là việc của người chủ, hay của người có chức có quyền. Thế mà, Chúa là chủ, là Thầy lại cúi mình rửa chân cho tôi tớ, cho môn sinh của mình.
Đối với phong tục Việt Nam không có tập quán rửa chân cho khách. Song le, vẫn có rất nhiều công việc phục vụ tầm thường khác đòi hỏi chúng ta phải khiêm tốn phục vụ cho nhau. Có biết bao người già yếu bệnh tật không ai nương tựa, không ai chăm sóc. Họ đang cô đơn giữa dòng đời. Họ đang sống một cuộc đời lây lất thiếu thốn tình thương. Họ đang khao khát một nghĩa cử yêu thương, kính trọng từ chúng ta. Liệu rằng chúng ta đã làm gì để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho họ? Có biết bao nhiêu công việc tầm thường trong gia đình như: lau chùi nhà cửa, rửa chén bát, tắm rửa, giặt giũ cho con cái đang dồn lên vai một người vợ, một người mẹ, liệu rằng ta có bao giờ cúi mình phụ giúp hay vẫn sống trưởng giả quan liêu? Có biết bao gia đình lân cận đang túng quẫn cơ cực, thiếu thốn mọi bề, liệu rằng chúng ta đã bao giờ chia sẻ cho họ một chút gánh nặng, một chút tình thương từ lòng quảng đại của chúng ta hay không? Và còn biết bao công việc không tên, không tuổi đang cần những tâm hồn quảng đại và đầy lòng khiêm tốn mới có thể thực thi, liệu rằng ta có dám can đảm để thực hiện hay chỉ ra lệnh và chỉ bảo người khác thực hiện?
Phục vụ không phải là của hạng cùng đinh, nghèo khổ mà là của những con người có trái tim yêu thương. Càng phục vụ càng làm cho phẩm giá con người của mình càng thêm cao đẹp.
Chúng ta tự hỏi: Tiêu chuẩn nào để đánh giá về giá trị và nhân cách của một con người? Phải chăng là dựa trên của cải, chức vụ? Thưa không, mà là dựa trên những việc họ làm có mang lại lợi ích cho tha nhân hay không. Có tiền nhưng bủn sỉn, keo kiệt, lại thêm xem thường người bần cùng, chỉ làm cho tha nhân khinh bỉ và loại trừ. Có chức, có quyền nhưng lại hống hách, kiêu căng, chèn ép người thấp cổ bé miệng, chỉ làm cho tha nhân xa tránh và xem thường.
Có ai đó đã nói rằng: “người ta chỉ thán phục người có tài ăn nói, nhưng nhân loại chỉ nghiêng mình trước một người có lòng nhân”.
Ước gì mỗi người chúng ta biết gom góp những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân trong cuộc sống hằng ngày thay cho sự vun quén lúa thóc đầy nhà và chuyên dùng những hàng hóa xa sỉ phẩm mà đánh mất tình bạn, tình thân. Ước gì mỗi người chúng ta biết tích lũy cho đầy lòng mình tình yêu và lòng thương xót đối với tha nhân thay cho những của cải đầy nhà mà mất đi tình hàng xóm làng giềng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống mình vì lợi ích nhân loại, giúp chúng con biết noi gương Ngài luôn sống quảng đại quên mình vì hạnh phúc của anh chị em chung quanh. Amen.
13."Họ nói mà không làm!"--Lm. Quốc Toản, CRM
Khi còn là một Đệ Tử Sinh, trong lớp tôi có một anh rất đạo đức và hiền lành, nhưng nổi tiếng là lười... Không bao giờ muốn làm nhưng chỉ muốn đứng chỉ tay năm ngón. Vì thế, anh có biệt danh là trưởng ban "H.Ô." Chỉ biết đứng "HÔ" hào người khác làm còn chính mình thì không bao giờ rớ tay vào. Do đó, chẳng ai ưa.
Ai trong chúng ta chẳng quí mến người hay làm ít nói hơn người hay nói ít làm. Chính Chúa Giêsu cũng thế. Bằng chứng là trong Tin Mừng hôm nay, Ngài chỉ trích bọn Pharisêu, những kẻ cho mình là người chỉ dẫn dân chúng nhưng chính mình chẳng quan tâm gì đến những băn khoăn của con người. Ngài trách họ là "những kẻ nói mà không làm... buộc những bó nặng và chất lên vai người ta nhưng chính mình lại không muốn giơ ngón tay để giúp kẻ khác gánh vác" (x. Mt 23:1-4).
Chúa Giêsu là Thầy chỉ dậy chúng ta biết tìm đến sự sống. Ngài không chỉ dậy bằng lời nói nhưng bằng chính việc làm. Ngài đã vác gánh nặng của kẻ khác. Ngài chữa người ốm đau, trừ quỉ, và cho kể chết sống lại. Ngài dậy dân chúng về tinh yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, ăn uống với quân thu thuế và phường tội lỗi trong khi kêu mời mọi người thống hối. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu dậy các tông đồ (nhất là Phêrô) biết tha thứ cho chính mình vì đã chối Ngài. Đặc biệt nhất, tuy Ngài vô tội nhưng đã chết cho những kẻ có tội.
Chúa Giêsu không yêu chuộng kẻ giầu hơn người nghèo. Ngài khác hẳn với những người làm đầu mà tiên tri Malachi quở trách trong bài Đọc I hôm nay. Ngài đã làm gương cho ta bằng việc tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội, kính trọng mọi người.
Chúa Giêsu không hề để ý đến danh tiếng. Bằng chứng là mỗi lần chữa cho ai khỏi bệnh thì cấm họ không được loan truyền cho ai biết. Ngài luôn luôn hướng dẫn mọi người chú ý đến Nước Thiên Chúa hơn là chú ý đến chính Ngài. Ngài không ưa những kẻ muốn cho lời nguyện của mình được nói lên nơi công chúng và cho mọi người ái mộ vì những việc từ thiện mình đã làm.
Thánh Phaolô cũng noi gương Chúa Giêsu và dậy dỗ mọi người bằng gương sáng. Khi đến một nơi nào thì việc đầu tiên là ngài bắt đầu hành nghề làm lều rồi mới giảng dậy. Trong Bài Đọc II hôm nay, Thánh nhân ca tụng dân Thành Thesalônica vì đã đón nhận sứ điệp của ngài "không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy" (1 Thes 2:13). Thánh Phaolô đã giảng dậy bằng việc làm trong khi sống với họ và thà chết hơn là chối bỏ đức tin nơi Chúa Giêsu.
Là môn đệ của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi theo Chúa làm gương sáng bằng việc làm như Thánh Phaolô. Ta có thể làm gương sáng ngay trong gia đình. Khi còn nhỏ ai trong chúng ta cũng đã nghe những lời Bố Mẹ nói, đồng thời cũng quan sát những việc các ngài làm cách rất chăm chú. Nếu có điều trái ngước giữa lời nói và việc làm thì ta chọn làm theo những việc các ngài làm hơn là những lời các ngài nói. Ngày nay, giới trẻ vẫn tin vào hành động hơn lời nói; chúng luôn nhớ những lúc người lớn bỏ giờ để lắng nghe những bận tâm của chúng, hiện diện với chúng cũng như theo dõi chúng trong những sinh hoạt tại nhà trường hoặc sân banh v.v.
Bạn tôi tuy rất tốt lành nhưng không ai ưa thích vì anh ta thuộc thành phần "H.Ô." Bọn Luật sĩ và Pharisêu cũng bị Chúa trách cũng chỉ vì "nói mà không làm." Chúa Giêsu và Thánh Phaolô dậy và nêu gương cho ta bằng cách dùng việc làm để hướng dẫn anh em... Tiệc Thánh Thể ta tham dự hằng ngày hoặc hằng tuần nhắc nhở chúng ta: Chúa Giêsu không chỉ nói; Ngài đã thí mạng sống để chúng ta thấu hiểu tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Những người chúng ta sẽ tiếp xúc hôm nay cần phải thấy Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria giúp chúng ta luôn biết minh chứng đức tin bằng việc làm để Chúa không trách ta như trách bọn Pharisêu, "nói mà không làm".
14.Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường
Nếu không dẫn đường chỉ lối thì thôi. Nếu là người dẫn đường thế nào cũng có ngày lạc đường, ngoại trừ chỉ đi những con đường quen thuộc. Đi con đường quen thuộc ít bị lạc vì là đường quen, đi thường xuyên. Lạc đường xảy ra khi phải đi những con đường lạ, đường chưa quen, hoặc có lần đi qua, chỉ nhớ mài mại, không nhớ rõ. Trong trường hợp đó lạc đường có thể xảy ra.
Không muốn đứng đường, phải tìm đường. Tìm về đúng đường cần định rõ vị trí nơi đang lạc mới có thể định hướng về. Định đúng hướng phải biết cách nhìn hướng. Nhìn hướng có nguyên tắc nhìn. Không biết cách định hướng, coi như phó mặc cho may rủi. May thì tìm được đường về. Rủi sẽ vất vả, khổ sở hơn, đói khát và sợ hãi ập đến. Đó là chưa kể đến sợ ngủ đêm giữa rừng, sợ gặp rắn độc, thú dữ, sợ chết không ai biết để cứu.
Lạc đường đời là thế. Lạc đường tâm linh còn nguy hiểm hơn. Nguy hiểm nhưng không thấy lo lắng, sợ hãi vì nỗi sợ tâm linh không đến dồn dập. Người chỉ đạo đi sai coi như là lạc đạo. Tình trạng lạc đạo tồi tệ hơn lạc đường gấp bội. Lạc đường nếu chết cũng chỉ chết về thân xác, thể lí, linh hồn chưa chắc đã chết; trong khi lạc đạo chết cả thể lí lẫn tâm linh. Tệ hơn nữa người lãnh đạo đi lạc không lạc một mình mà lạc bầy, đàn, phe nhóm. Lạc đường do thành tâm, không cố ý lạc. Lạc đạo do gây nên bởi ngoan cố, cố tình, chủ ý, gây bè, kéo phái rủ nhau đi lạc. Cá nhân đi lạc thường lo lắng sợ sệt; trong khi phe nhóm đi lạc to tiếng, ồn ào, hiếu động mục đích vừa tìm vây cánh vừa gây tiếng vang làm át tiếng nói chân chính. Nước cờ của nhóm lạc đạo là lên tiếng chỉ trích, chê bai người lãnh đạo. Nếu không chê người lãnh đạo kì thị thì cũng ghép tội thiếu hiểu biết lắng nghe hoặc gán cho tiếng xấu để đề cao việc lạc đạo của phe nhóm mình. Nhóm lạc đạo lợi dụng tính khoan dung, nhân từ của Giáo Hội để lung lạc, làm yêu sách. Khi đạt được một vài điều đòi hỏi, ước mong nhóm đó coi là chiến thắng, thành công. Nếu yêu cầu của nhóm không đúng sẽ không được đáp ứng, được đáp ứng như thế là bề trên sai, mình đúng.
Bài Phúc âm Đức Kitô vạch rõ trần tâm lí khát khao lãnh đạo, thích hư danh, ảo vọng, tiếng vỗ tay, tiếng ca ngợi, lời khen. Họ thích phô trương công việc họ làm để thiên hạ thấy mà ngợi khen họ. Thích được gọi là thầy và vui mừng vì là người chỉ đạo, lãnh đạo nhóm.
Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là Thầy (Mt 23,7)
Chương đầu sách tiên tri Malaki cho biết kẻ lãnh đạo lạc đạo nếu không hối cải sẽ bị chúc dữ. Điều lạ là ngay những điều chúc lành, lời cầu xin của người lãnh đạo lạc đạo cũng biến thành lời chúc dữ.
Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi (Ml 2,2)
Lạc đạo không chỉ ảnh hưởng đến người đó mà còn ảnh hưởng đến đời con cháu nữa. Họ ca tụng, tán thưởng, khuyến khích, ban khen cho nhau. Người biết chuyện nhìn vào lại khinh chê, bài bác. Cuối cùng mọi chuyện bị lật tẩy họ bị khinh rẻ trước mặt người đời.
Đức Kitô kết luận:
Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên (Mt 23,12)
Để tránh lạc đạo chỉ có con đường duy nhất dẫn ta đến cùng Chúa. Con đường đó là con đường chính Đức Kitô mặc khải:
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống (Gn 14,6)
Bởi vì chính Ngài là đường, không phải người dẫn đường mà là đường. Con đường chẳng bao giờ đi lạc chỉ có người đi trên con đường đó bị lạc. Đức Kitô là đường nên đường Ngài dẫn đi là con đường công chính, không bao giờ sai lạc. Để đi trên con đường đó, đi đúng đường, tiếng nói chân chính nơi trần thế là tiếng nói của Giáo Hội Chúa trên dựng trên con đường hoàn thiện là Đức Kitô. Chống đối, chê bai Giáo Hội là từ chối đi trên con đường toàn thiện là Đức Kitô.
15.Bí quyết trở nên người cao cả--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy#" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
16.Quyền bính để phục vụ--An Phong
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tấn công những người Pharisêu giả hình, thích phô trương. Đồng thời, Ngài cũng vạch ra một cách sống của người môn đệ trong việc hành sử quyền bính: "Quyền bính là để phục vụ".
Hẳn là có nhiều phản ứng khác nhau khi nghe bài Tin mừng hôm nay:
Có người sẽ dửng dưng, vì những gì được nói đến trong bài Tin mừng này chẳng dính dáng gì tới mình; nhưng thái độ đó sẽ có lẽ là một dấu hiệu xấu, vì Lời Chúa thực sự luôn là một sứ điệp trao gởi cho người nào biết lắng nghe.
Có người sẽ mừng thầm, vì không thấy mình mắc phải những điều mà Chúa Giêsu đã khiển trách nơi những người Pharisêu giả hình. Nhưng thái độ mừng thầm như thế có lẽ là một dấu hiệu xấu. Bởi lẽ một thái độ tự mãn sẽ dễ làm cho người môn đệ Đức Giêsu đi vào chính vết xe của những người Pharisêu.
Có người sẽ hả hê vì cho rằng những lời của Đức Giêsu thật thích đáng cho những bọn giả hình, ngày xưa cũng như ngày nay; những người sống đạo quá hình thức, thích phô trương; hay "lên mặt dạy đời"… Nhưng thái độ hả hê cũng là một dấu hiệu xấu; bởi lẽ, trước sứ điệp của Đức Giêsu, bổn phận của chúng ta là xét mình chứ không phải xét người.
Có người sẽ có thái độ "nổi loạn", vì nhận thấy Giáo hội có một cơ cấu tổ chức quá hình thức; các "đấng bậc" trong Giáo hội quá quan liêu, cha chú… họ thấy dường như Đức Giêsu đồng tình với mình khi bảo đừng gọi ai dưới đất là Cha… Nhưng thái độ này có lẽ cũng là một dấu hiệu xấu; vì họ không có tinh thần chia sẻ trách nhiệm chung với gia đình Giáo hội; và đặt mình đứng ở bên ngoài, bên trên, để phê phán một cách dễ dãi.
Thái độ đích thực của người môn đệ Đức Giêsu, trước hết, là phải tự xét lại tinh thần sống đạo của mình; và điều chính yếu không phải là xét nét về những ngôn từ "cha", "thầy", "người lãnh đạo"; nhưng là xét xem mình có thực sự đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất không; có thực sự cậy dựa vào một mình Thiên Chúa là Cha nâng đỡ chở che không; có thực sự sống tinh thần huynh đệ, phục vụ đối với anh chị em của mình không.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu chúng con
khỏi lòng ích kỷ,
khỏi thói kiêu căng,
khỏi những ham muốn bất chính,
khỏi tội lỗi dày vò.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin đừng để con đi tìm sự giải thoát ở nơi đâu khác.
17.Hướng đến sự thật—Lm G. Nguyễn Cao Luật, OP
Giả hình và kiêu ngạo
Thêm một lần nữa, Tin Mừng đề cập đến những người Pharisêu. Họ là những người có địa vị trong xã hội và có tầm ảnh hưởng khá rộng. Và cũng thêm một lần nữa, lời lẽ của Đức Giêsu với những người Pharisêu chẳng có chút gì là dịu dàng, hoà hoãn. Đức Giêsu đã đưa ra những lời nghiêm khắc với những người tự nhận mình biết tất cả, nhưng chính họ lại chẳng hiểu gì.
Vậy, Đức Giêsu quở trách những người Pharisêu về chuyện gì? Sự dối trá của họ. Thông thường, sự dối trá chỉ thể hiện qua lời nói: người ta biết một điều là sai nhưng lại trình bày là đúng. Về phương diện này, người Pharisêu không bị khiển trách. Điều họ quả quyết thực sự là đúng: họ có nhiều kiến thức, có khả năng xét xử, lời họ nói có thể dẫn đến Thiên Chúa, và dựa vào những thẩm quyền chính thống. Họ không nói năng như những người xa lạ muốn chiếm đoạt một quyền dành riêng. Họ là những người "nối quyền ông Môsê mà giảng dạy" -như lời Đức Giêsu, họ không giống như những người Xa-ma-ri vốn cũng nói về ông Môsê, nhưng giáo huấn của người này đã sai lạc vì đã pha trộn thêm nhiều yếu tố khác.
Như vậy, sự dối trá của những người Pharisêu không phải là lời nói, nhưng một cách tinh vi hơn, là sự cách biệt, sự mâu thuẫn giữa lời họ nói và việc họ làm. Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ: "... họ nói mà không làm. Vậy những gì họ dạy, thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng cách họ hành động, thì đừng có làm theo." Bởi vì "họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buổn động ngón tay vào."
Chính sự cách biệt, mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm cho thấy tội của người Pharisêu. Đó là tội "giả hình". Đó là một sự đứt đoạn mà chẳng hề có một sự hối hận nào.
Xa hơn, Đức Giêsu cho thấy động lực của thái độ này: "họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy", tức là lòng "kiêu ngạo". Đây không phải là thái độ của một người tự hào về những tài năng hay sự thành công của mình, nhưng đây là một thái độ tinh vi hơn, nếu không muốn nói là tệ hại hơn. Quả vậy, đây là việc sử dụng quyền bính và uy tín cách bất xứng: đúng ra quyền bính và uy tín này chỉ có được ý nghĩa khi được sử dụng qua và vì nhiệm vụ của mình, và khi có nhiệm vụ càng cao, lại phải khiêm tốn hơn. Làm sao người ta có thể tự nhận là dụng cụ của Thiên Chúa để thông truyền cho người khác về mầu nhiệm của Người, mà lại chẳng quan tâm đến việc sống xứng hợp với mầu nhiệm này, và cũng chẳng ý thức rằng dụng cụ chỉ có được ý nghĩa khi phục vụ cho điều mình đã khấn nguyện, và mình chỉ là một phản ánh cho sự thật lớn lao!
Những người Pharisêu đã sử dụng quyền bính được trao cho mình để tìm vinh quang cho cá nhân và thu lợi cho riêng mình. Đó là một sự sai lầm, một sự lạm dụng quyền bính. Sự lạm dụng này đã biến họ trở thành những người đổi bại, ngược hẳn với điều họ bắt người khác làm.
Vì lợi ích của cộng đoàn
Thiên Chúa đã trao Lời của Người cho con người, nhưng họ đã tìm cách chiếm đoạt Lời đó. Con người được mời gọi làm sứ giả, làm tôi tớ của Lời, nhưng họ đã biến lời đó thành dụng cụ để phục vụ lợi ích riêng mình. Nói cách khác, họ biến Thiên Chúa thành người phục vụ họ.
Hiện tượng này đã xảy ra vào thời Đức Giêsu, và vẫn xảy ra trong Hội Thánh, suốt dòng lịch sử. Đã không phải chỉ một lần Hội Thánh bỏ quên sứ mạng cốt yếu của mình là loan báo Tin Mừng, các giáo sĩ cũng đã nhiều lần ủng hộ các chế độ trong đó quyền lợi của các vị được đề cao để rổi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng. Và với các tín hữu, sứ điệp được trao cho họ là sự thật, nhưng họ đã cắt nghĩa theo lối của mình để xét đoán người khác.
Những lời của Đức Giêsu với những người Pharisêu cho thấy thái độ đầy giận dữ trước sự dối trá, và những hình thức của nó là kiêu căng, giả hình, ham mê tiền bạc. Những hình thức dối trá này làm phát sinh tình trạng vô trật tự và cuối cùng làm bùng nỗ bạo lực. Nơi người Pharisêu, lời chân lý đã bị trói chặt, bị giam hãm, và thay vào đó là lời dối trá.
Ngoài ra, những lời của Đức Giêsu cũng là một lời mời có sức giải thoát, cho thấy một chân trời mới đang xuất hiện và làm nỗ tung những giới hạn của con người. Những lời này mở ra một khoảng không để mọi người có thể hiệp thông với nhau, cùng chia sẻ một ưu tư là trao đổi về ý nghĩa chiều hướng sẽ đến, luôn cần phải khám phá. Những lời này không phải là những lý do để tạo ra những trường phái đối lập nhau, hay gây ra những cuộc chiến tranh có sức gây huỷ diệt.
Chính vì mỗi người ý thức được nhiệm vụ của mình là bảo toàn sự siêu việt của Lời, nên Hội Thánh phải là điểm quy chiếu của sứ vụ: không ai có quyền giải thích lời Chúa mà không hướng đến toàn thể cộng đoàn. Không ai có quyền giải thích lời Chúa nhằm lợi ích cho cá nhân mình, trong khi coi thường ích lợi của người khác.
Tuy vậy, Hội Thánh cũng nhắc nhở rằng, những lời này có thể được đọc lại theo một cách thức mới do những người nghèo. Cộng đoàn có thể được hình thành và bao gổm những trách nhiệm nhỏ hay lớn, nhưng từ căn bản, tất cả mọi người trong cộng đoàn đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Mọi người, bất kể là ai, đều là anh em với nhau, và đều cùng được mời gọi làm cho lời đã âm vang trong lòng họ được thêm phong phú. Mỗi người, trong trách nhiệm, trong công việc của mình, đều là chứng tá sống động và đích thực của lời Chúa.
Đừng tưởng mình vô tội
Đọc lại đoạn Tin Mừng này, có lẽ chúng ta cảm thấy vui mừng vì nhận thấy Đức Giêsu nói những lời này với những người đã sống và chết từ lâu. Ngày nay chẳng còn những kinh sư, những biệt phái nữa! Có phải như thế không?
Và cũng có lúc chúng ta nghĩ rằng có một vài sự kiện trong quá khứ có thể đã tạo nên một hình ảnh không mấy tốt đẹp về Hội Thánh, nhưng tất cả đã trôi vào dĩ vãng.
Nhưng coi chừng, chúng ta lại không phải là kinh sư và biệt phái đấy sao, mỗi khi lời nói và việc làm của chúng ta không ăn khớp với nhau.
Và nhất là, khi đã ý thức được điều này, không phải chỉ là thay đổi thái độ, còn cần phải thay đổi lối nhìn: tất cả chúng ta đều là anh em, tất cả chúng ta đều bình đẳng, vì chúng ta "chỉ có một Cha, chỉ có một Thầy, chỉ có một vị lãnh đạo."
Không có điều nào cho phép chúng ta nghĩ mình trổi vượt hơn người khác, dù đó là kiến thức, địa vị xã hội, hay tiền bạc ... Những điều này chỉ có ý nghĩa một khi chúng ta đem sử dụng để phục vụ người khác.
Như vậy, để không dối trá với người khác, với chính mình và với tình yêu, chúng ta phải gạt bỏ đi thế giới đầy ảo tưởng và những vẻ bên ngoài mà tính ích kỷ và thói kiêu ngạo hay tạo nên nơi chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta không còn muốn "thu góp" và "xuất hiện", lúc ấy chúng ta mới bắt đầu "là".
Cái nhìn đức tin xuyên thủng tấm màn bên ngoài. Cái nhìn của những người Pharisêu, cái nhìn dối trá, thật quá thô thiển, bởi vì nó chỉ mong tìm vinh quang và ích lợi. Cái nhìn này không cho chúng ta nhận ra những chiều kích về con người cũng như về Thiên Chúa. Chúng ta chẳng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó những vẻ hào nhoáng này rơi xuống, và khi ấy những chiều kích đích thực sẽ xuất hiện, trong đó -như lời Đức Giêsu- "người đầu hết sẽ trở nên cuối hết, và người cuối hết sẽ nên trước hết."
"Trong tất cả thảm kịch của Chúa Giêsu, người ta cảm nhận ra vì sao người Pharisêu lại sợ Người. Bởi vì sự hiện diện của Người làm mờ đi sự hiện diện của họ, và chính vì sự ghen tương mà họ đã không có được sự sáng suốt để nhận biết Người ... Họ đã cảm thấy không có vũ khí ngang tầm để tấn công Chúa Giêsu. Họ đã cảm thấy ở Người có một sự chân thật, một sự chất phác mà họ không thể với tới được. Họ đã muốn bịt tiếng nói đó, bởi tiếng nói đó quá trung thực khiến họ không thể thoát được ...
"Nếu chúng ta làm điệu làm bộ với mốt này, mốt nọ, điều đó ích lợi gì cho ai, vì đó chỉ là những điệu bộ. Điều mà dân chúng chờ đợi, đó là một ý thức sắc bén về sự công bằng, lòng nhân ái, một sự rộng mở của con tim, rộng mở đến vô hạn, đến độ người ta nhận ra ở đó có cái gì rất lạ lùng, một ý tưởng của Thiên Chúa ..."
(x. Maurice Zundel, "Sống với Chúa trong cái thường ngày", tập 1, trang 33-35).
18.Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự
(Ml 1, 14B - 2, 2b. 8-10)
“CÁC NGƯƠI ĐÃ ĐI SAI ĐƯỜNG LỐI, LÀM CHO NHIỀU NGƯỜI VẤP PHẠM”
Khi nói tới hay phải đối mặt với những bọn kinh sư, pharisiêu, biệt phái, luật sĩ, thái độ của Chúa Giêsu rất thẳng thắn, nghiêm khắc và chỉ trích nặng lời vì thói giữ đạo giả dối, cách sống thủ đoạn, chỉ có cái vỏ bề ngoài. Đối với hạng người này, Chúa vạch mặt thẳng thắn và cho những chỉ dẫn thật cụ thể và thực tế để giúp chúng ta xa tránh, và nhất là nhận diện một cách rõ ràng cái bộ mặt giả dối, đểu cáng, một thứ đạo đức gỉa hình, không xứng đáng làm con cái của Chúa.
Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ. Hạng người này mở miệng là nhân danh đủ thứ, trích dẫn cả Lời Chúa, nại đến đủ thứ quyền lực hay cố bám vào những cái phao rách để làm bình phong cho cái “giả nhân gỉa nghĩa” của mình.
Nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Đó chính là lối sống giả dối và thiếu việc làm của họ.Xem ra chỉ có võ mồm thay cho tay chân, thích chỉ tay năm ngón, thích móc ví tiền của người khác mà không hề đổ lấy một giọt mồ hôi!
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Giữa lời nói và hành động luôn mãi là một vực thẳm. Hạng người chỉ thích rình nuốt hết công của người khác, chỉ thích mọi người tung hô, mọi người ca tụng và thích cả việc “kính thưa kèm theo cả kính gởi”
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy, bởi mục đích sống của họ là “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Của ăn của họ là những lời dua nịnh, tung hô. Thái độ và hành động của họ là dương dương tự đắc, ngạo mạn và coi thường cả lương tri.
Cách sống này đã được tiên tri Malaki nhắc đến trong Cựu Ước “Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm”. Quả thế, căn bệnh biệt phái có sức tác hại không chỉ đối với cá nhân, mà hơn thế, còn gây tác hại và làm băng hoại nhiều thế hệ con cháu, chỉ biết lao vào những lễ nghi hình thức hoành tráng bên ngoài mà quên đi cách sống đẹp lòng Chúa.
“Còn các ngươi…” Chúa nhắn nhủ tất cả chúng ta:
“Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả chỉ là anh em với nhau”. Chẳng ai thua ai mà cũng chẳng ai kém ai trước mặt Chúa, vì mọi người là con một Cha, và chắc gì mình đã hơn ai.
“Trong anh em,người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.” Phục vụ và sẵn sàng cúi xuống để rửa chân cho nhau luôn là bài học khó thuộc và “đau cột sống!”
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Quyền bính, với Chúa và với Giáo Hội là phục vụ, không phải là sức mạnh để thống trị hay trừng phạt!
Chúa dạy là thế, nhưng rồi con người vẫn chỉ thích làm ngược, nói ngược, cư xử với nhau bằng luật rừng như những kẻ bụi đời, xã hội đen! Thật đau lòng thay!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật buồn thay khi căn bệnh ung thư di căn của gỉa hình vẫn và đang ngày càng làm băng hoại và giết chết Giáo Hội. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa đã chẳng và không bao giờ có sức thuyết phục được khi chính đời sống và hành động đã tố cáo bộ mặt giả dối và hư danh của chúng con. Xin giúp chúng con biết dùng Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn và là con đường chân lý và sự thật, hầu chúng con tránh được những lời nguyền rủa của Chúa. Amen.
19.Hãy sống trong sự thật--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.
“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
20.Sống chân tình--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Chuyện kể rằng: Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.
Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
**
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy”.
Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolo II đã nói: “con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”.
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi cỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm ngươì phục vụ anh em” (Mt 23,11). Điều này đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy Người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, “làm lớn” theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolo viết: “Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao” (Gr 10,18).
Hãy soi đời mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
**
Lạy Chúa, nếu có ai nói chúng con giả hình, chắc là chúng con không vui. Nhưng khi đối diện với chính mình, chúng con thật sự thấy mình có giả dối.
Xin giúp chúng con tháo gỡ các thứ mặt nạ mà bấy lâu đã làm cho khuôn mặt chúng con biến dạng, để chúng con không còn đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa, và đánh lừa chính mình. Xin dậy chúng con luôn biết sống chân thành. Amen.
21.Biệt phái giả hình--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng ta canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
22.Đừng sống giả dối kiểu biệt phái!--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được trọng vọng. Sự huênh hoang tự đắc gần như nó đã bén sâu trong tâm trí con người ở mọi thời. Vì thế, nhiều người đã cố gắng bằng mọi cách có thể để ngụy trang cho mình, hầu mong đạt được mục đích.
Những kiểu cách này, đã được các Luật Sĩ và Biệt Phái khai thác triệt để và sử dụng chúng như lá bùa hộ mệnh cho mình.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thấu hiểu tường tận những con người này, vì thế, chúng ta không lạ gì khi dạy các môn đệ và dân chúng bài học khiêm nhường, Ngài đã đưa ra hình ảnh đối lập nơi những Luật Sĩ và Biệt Phái để làm toát lên tác hại của sự dối trá, giả hình.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trung thành, khiêm tốn, làm việc trong sự thật và lòng mến. Có thế, công việc của chúng ta mới được đẹp lòng Chúa, nếu không, hẳn sẽ thất bại.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc I cho chúng ta biết: sau khi vua Cyrô cho dân Dothái được hồi hương và tự do thờ phượng Thiên Chúa. Dân chúng quá đỗi vui mừng. Tuy nhiên, sự hồ hởi, nhiệt huyết buổi ban đầu dần dần lắng xuống và vụt tắt, nhường chỗ cho sự ươn lười, chểnh mảng của cả người lãnh đạo lẫn dân chúng. Vì thế, dẫn đến hệ quả là: người dân thì sống vô cảm, tranh dành và ganh tỵ với nhau, còn những nhà lãnh đạo thì quan liêu, hách dịch, tự kiêu, bảo thủ và dối trá...
Đúng lúc đó, tiên tri Malakhi xuất hiện, ngài đã vạch trần nguyên nhân của sự xuống cấp này, đồng thời chỉ cho thấy trách nhiệm thuộc về các vị lãnh đạo. Họ đã không tìm ý Chúa để thực thi, nhưng họ đã thượng tôn chính kiến của mình và tìm những lợi lộc thấp hèn cho riêng bản thân.
Khi đến, tiên tri Malakhi đã kêu gọi họ sám hối để được tha thứ, tránh được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và giao hòa lại với Ngài, hầu xứng đáng là người thay mặt Chúa, hướng dẫn dân đi theo đường công chính.
Sang bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã trở nên vị lãnh đạo đối lập lại với các nhà lãnh đạo của thời tiên tri Malakia trong bài đọc I. Thánh nhân đã luôn tìm thánh ý Thiên Chúa để thực thi. Luôn quy chiếu mọi vinh dự và vinh quang về Thiên Chúa, còn bản thân của ngài thì chỉ là đầy tớ phục vụ trong lòng mến.
Chính tâm tình như thế, thánh Phaolô đã trở thành mục tử luôn hy sinh, sống hết lòng vì đoàn chiên được trao phó. Sống tinh thần phục vụ chứ không để người khác phục vụ. Chính gương sáng đó nơi ngài mà dân thành Thêxalônica có một đời sống đạo thật vui tươi, hân hoan và yêu thương nhau.
Sang bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã chỉ rõ cho các môn đệ và dân chúng về ích lợi của sự khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ làm cho tư cách và hành động của người môn đệ trở nên hấp dẫn, vì lời nói và hành động của họ đi đôi với nhau.
Đời sống và cung cách ứng xử của người loan báo Tin Mừng cần tránh hết sức bao nhiêu có thể những thói kiêu căng, cứng ngắc, hám danh, thích quyền và sai khiến như các Luật Sĩ và Biệt Phái. Vì thế, tư cách của nhà lãnh đạo theo tinh thần của Chúa, chính là: khiêm nhường, tự hạ, trung thực, hiền lành, lắng nghe, đơn sơ, và hăng say phục vụ chứ không mong được người khác phục vụ. Có được những đặc tính đó, người môn đệ sẽ hành động vì Chúa, nhân danh Chúa và quy hướng về Ngài hết thảy.
2. Lối sống giả hình của những “Rapbi” Dothái
Hình ảnh và đời sống của người kiêu ngạo và khiêm nhường luôn luôn đối lập nhau. Kiêu ngạo, giả dối là thuộc về phe ma quỷ, còn khiêm tốn là thuộc về bản chất của Thiên Chúa. Người đi theo ma quỷ, hẳn sẽ thuộc về chúng với tất cả những đặc trưng của chúng. Người thuộc về Thiên Chúa thì luôn mang trong mình phẩm hạnh của Ngài.
Khi thấy được những Luật Sĩ và Biệt Phái sống kiểu quen trò bịp bợm thói lưu manh..., Đức Giêsu đã không muốn để cho dân chúng bị mắc hợm và cũng không muốn các môn đệ của mình khi thi hành sứ vụ lại có một lối sống như họ. Vì thế, Ngài đã thẳng thắn phê phán họ cách công khai và hướng dẫn các môn đệ về cách thức thi hành Luật Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu phán: “Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm”. Không được sống kiểu: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều).
Nguyên nhân dẫn đến việc các Biệt Phái và Luật Sĩ sống giả đò nhân đức là vì:
Họ thuộc hạng người chỉ biết tìm lợi lộc cho mình, hám danh, muốn được mọi người ta ca tụng ở nơi công cộng là đạo đức, tốt lành.
Cũng chính vì những ý tưởng đó chủ đạo, nên họ mới nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo cốt để cho người ta chú ý và khen là mình đạo đức, khôn ngoan, chứ không nhằm nhắc nhớ mình nhớ đến luật Chúa hầu thực hành cho đúng cốt lõi của Luật.
Chính cách sống đó, dẫn họ đến thái độ ưa được người ta chào hỏi nơi công cộng, thích được ngồi cỗ nhất trong đám tiệc và mong muốn được người ta chào mình bằng thầy....
Nói chung, thực ra những người Luật Sĩ và Biệt Phái này họ thuộc hạng am tường Kinh Thánh thật. Nhưng điều đáng nói chính là sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của họ. Họ giải thích luật thật cặn kẽ và bó buộc người ta phải thi hành từng chi tiết. Tuy nhiên, với bản thân họ thì không hề để ý tới. Họ thuộc dạng nói một đàng, làm một nẻo: “Ngôn hành bất nhất”; hay: “Mồm miệng đỡ chân tay”.
Thấy được hình thức của họ, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ và dân chúng hãy vâng nghe lời họ giảng dạy khi họ nhân danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, lòng đạo đức của họ thì hoàn toàn giả dối, vì thế không được làm theo.
3. Sống Sứ điệp Lời Chúa
Khi nghe bài Tin Mừng này, hẳn nhiều người trong chúng ta luôn có thái độ phê phán những nhà lãnh đạo tinh thần..., tuy nhiên, xét về một góc độ nào đó, mỗi người chúng ta cũng đang là những người nắm giữ vai trò đại diện cho Chúa khi đảm nhận trọng trách là người cha, người mẹ trong các gia đình, hay là những người lãnh đạo một hội đoàn, tập thể nào đó trong đạo.... Vì thế, chung một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy thống nhất trong việc giữ đạo và sống đạo. Giữa niềm tin và cuộc sống phải ăn khớp với nhau. Cần tránh kiểu: “Ngôn hành bất nhất” giống như những người Luật Sĩ và Biệt Phái. Đừng giống như những người lãnh đạo tinh thần Dothái khi xưa là: chỉ lo tô son trét phấn bên ngoài như kiểu mồ mả tô vôi, còn bên trong thì nhơ bẩn, thối tha. Nếu sống như vậy, chúng ta đâu khác gì những tay hề chuyên nghiệp trên sân khấu đang diễn một vở kịch châm biếm!
Mặt khác, cần tránh thói kiêu ngạo, khoe khoang, phô trương, giả hình và bất nhân…. Bởi vì những tính cách đó là con đẻ của ma quỷ. Nhưng hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại và khiêm nhường. Sống trong tâm tình và thái độ của kẻ bé mọn, tôi tớ, đến để phục vụ chứ không phải được người khác phục vụ.
Thật vậy, đời sống khiêm nhường là thuộc về phẩm hạnh của Thiên Chúa và được Ngài yêu mến. Sống đức khiêm nhường là được ở trong Thiên Chúa. Hành động khiêm nhường sẽ được Chúa chúc lành. Người khiêm nhường sẽ thành công và được nhiều người ca tụng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa, vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
23.Sống chân thành--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.
Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng.
Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.
Tình thương giữa con người với nhau cần phải sincera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon, nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói thì nhiều, mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần sự giả hình của các Kinh sư, Pharisiêu.
- Giả hình: vì họ nói mà không làm
- Thích thống trị: Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không buồn động động ngón tay vào.
- Thích khoe khoang: Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
- Thích hám danh: Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được thiên hạ gọi là Rápbi.
Nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, xét mình, ai cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ, cũng nói nhiều làm ít…
Những người Pharisiêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy trong lối sống đạo của họ, có những biểu hiện lệch lạc, giả hình, làm hoen ố đạo thật. Nhân đó, Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo:
- Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm:
Giữa lời nói và việc làm, thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ, nhưng làm thì khó, nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn, khi việc làm thì mâu thuẫn với lời nói, như người Pharisiêu “nói mà không làm”. Trong những trường hợp ấy, nói về Đạo, trở thành phản chứng, làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết, dù có hay đến đâu, nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Người ta thích câu tục ngữ "Đừng nghe những gì người ta nói, mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm".
- Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn.
Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức. Họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ hãy thực hành đạo trong kín đáo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm (Mt 6,3). Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo.(Mt 6,6) (x. Chia sẻ Tin Mừng năm A, ĐGM Giuse Ngô Quang Kiệt).
Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giêsu giúp chúng ta sống chân thành và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ làm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, không chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ, phải chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái, nhưng thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt niềm nở, sau lưng nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pharisêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Malakhi trách mắng nghiêm khắc những tư tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến mất. Nhiều tư tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu, khiến cho nhiều người đi sai đường lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc lại với giáo đoàn Thessalonica tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phaolô sống chân thành với cộng đoàn, ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống chân thành với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm. Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra, thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị Thánh nhân, anh hùng thực hiện, luôn được hậu thế ghi nhớ mãi. Hãy soi đời mình vào tấm gương Chúa Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp chân thành.
24.Hãy nghe… nhưng đừng theo…--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Lời Chúa nói về trường hợp của thành phần lãnh đạo Do Thái
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này có thể nói là bài Phúc Âm đúc kết những gì Chúa Giêsu đã nói về thành phần lãnh đạo dân Do Thái ở những bài Phúc Âm của 5 tuần trước đây: 3 tuần về 3 bài dụ ngôn người con không chịu đi làm vườn nho cho cha dù hứa với cha là đi (tuần 26), nhóm tá điền gian ác ra tay hạ sát người con duy nhất của chủ vườn nho với ý định muốn cướp gia sản của người con này (tuần 27), thành phần được vua mời đến tham dự tiệc cưới chẳng những từ chối không chịu đến mà còn ra tay sát hại các vị thừa sai của vua (tuần 28); và 2 tuần về hai vấn nạn thách thức trả đũa của họ, vấn nạn về việc nộp thuế cho Cêsa có hợp pháp hay chăng (tuần 29), vấn nạn điều luật nào trọng nhất trong toàn bộ lề luật (tuần 30).
Nhận định chung chung và chính thức của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này về thành phần ấy là họ nói mà không làm, đúng hơn, họ nói một đàng làm một nẻo, họ chỉ tìm mình chứ không tìm Chúa, họ là những người giả hình không thật, họ hoàn toàn đúng như ba dụ ngôn Người đã nói về họ. Thật vậy, theo lời Chúa nói về họ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, trước hết, họ là người con thưa với cha đi làm vườn nho cho cha song thực tế lại không đi, ở chỗ, họ đã làm và chỉ làm theo ý thích của mình: “Họ nói thì mạnh lắm song làm chẳng bao nhiêu”; sau nữa, họ là nhóm tá điền gian ác ra tay hạ sát người con duy nhất của chủ vườn nho với ý định muốn cướp gia sản của người con này, ở chỗ, họ chỉ tìm kiếm vinh danh cho bản thân mình mà thôi: “Tất cả những việc họ làm là để khoe khoang”; sau hết, họ là thành phần được vua mời đến tham dự tiệc cưới từ chối không chịu đến vì bận bịu đủ thứ chuyện riêng tư, ở chỗ, họ chỉ để ý tìm lợi lộc riêng tư cho họ: “Họ thích ngồi những chỗ danh dự nơi những bữa tiệc tùng và những ghế nhất trong hội đường, thích được trọng vọng nơi phố xá, và thích được gọi là ‘Sư Phụ’”.
Lời Chúa khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không trực tiếp nêu lên những nhận định này với thành phần Người muốn nói đến ở trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, như Người đã thẳng mặt khiển trách họ nặng lời vào lần họ đặt vấn đề với Người về việc các môn đệ của Người không rửa tay trước khi ăn (x. Mt 15:1-9), hay như Người đã thậm tệ khiển trách họ (vắng mặt) ngay sau phần của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (x Mt 23:13-39). Trong trường hợp của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu nêu lên nhận định của Người về họ “với dân chúng và các môn đệ của Người”. Để làm gì? Hoàn toàn không phải để nói xấu họ, (cái xấu mà đằng nào không nói thì cũng đã quá tỏ tường trước mắt thiên hạ), cho bằng hoàn toàn vì lợi ích của chung dân chúng cũng như của riêng môn đệ của Người, thành phần dân gian vốn chân thành thiếu hiểu biết, nhiều khi đến khờ dại, có thể bị nhiễm lây men gương mù gương xấu của nhóm lãnh đạo này, như có lần Người đã căn dặn các môn đệ của Người về thứ men ấy mà các vị lại cứ tưởng Người nói như thế là vì các vị khi sang bờ bên kia không mang theo bánh ăn (x Mt 16:5-12).
Vậy Người đã căn dặn thành phần dân chúng cũng như môn đệ của Người những gì, nếu không phải hai điều: thứ nhất, về nguyên tắc chung, “những vị luật sĩ và Pharisiêu đóng vai trò làm thày thừa kế Moisen; bởi thế, các người hãy tuân hành và tuân giữ hết những gì họ bảo các người. Nhưng chớ có theo gương của họ”; thứ hai, về việc áp dụng thực hành theo chi tiết liên quan trực tiếp đến những cử chỉ lời nói cụ thể gương mù gương xấu cần phải lưu ý “chớ có theo” là “tránh danh xưng ‘Sư Phụ’… đừng gọi ai trên đời là cha… tránh được gọi là thày”.
Về vấn đề thứ nhất liên quan đến nguyên tắc “hãy tuân giữ… nhưng chớ theo”, Chúa Giêsu muốn dân chúng và các môn đệ của Người hãy thực hành vấn đề Người đã nêu lên cho nhóm lãnh đạo Do Thái này ở bài Phúc Âm cách đây hai tuần, đó là vấn đề “hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Ở chỗ nào? Nếu không phải thực hiện việc “hãy trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” đây tức là thành phần được Người căn dặn trong bài Phúc Âm tỏ ra “tuân hành và tuân giữ hết những gì họ bảo các người”, chỉ vì “những vị luật sĩ và Pharisiêu đóng vai trò làm thày thừa kế Moisen”. Và khi thành phần này thực hiện việc “hãy trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức là “chớ có theo gương của họ”, những gì xấu xa của các bậc thày này. Tóm lại, chúng ta không được khinh thường những người làm đầu, nhất là những vị có chức thánh, những vị Chúa đã chọn làm việc của Ngài và cho Ngài, dù họ có bê bối đến đâu đi nữa, dù họ có bị tai tiếng về những lạm dụng trẻ em như ở Hoa Kỳ hiện nay đi nữa. Bởi vì, Thiên Chúa Toàn Năng có thể dùng mọi sự để làm việc cho Ngài và thực hiện ý định của Ngài, như Ngài đã dùng thánh giá là tiêu biểu cho sự dữ và sự chết để cứu chuộc nhân loại vậy. Theo giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, một vị linh mục đang mắc tội trọng làm các phép Bí Tích vẫn thành, tuy có tội.
Về vấn đề thứ hai liên quan đến những ngôn hành cụ thể cần phải tránh “chớ theo”, như “tránh danh xưng ‘Sư Phụ’… đừng gọi ai trên đời là cha… tránh được gọi là thày”. Ở phần thực hành này có hai vế, vế áp dụng cho chính bản thân và vế áp dụng liên quan đến người khác. Trước hết, về việc thực hành liên quan đến vế áp dụng cho bản thân: Tại sao phải tránh danh xưng “Sư Phụ”, vì, theo Chúa lời Giêsu nói trong bài Phúc Âm, “trong các người chỉ có một vị thày, còn tất cả đều là môn sinh”. Và tại sao phải tránh được gọi là thày, vì cũng theo lời Người nói, “chỉ có một vị thày duy nhất là Đức Kitô”. Sau nữa, về việc thực hành liên quan đến vế của người khác, đó là việc “đừng gọi ai trên đời này là cha”, vì, trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các người chỉ có một cha duy nhất là Đấng ở trên trời”. Riêng về vấn đề “cha” này, anh chị em Tin Lành tỏ ra cự người Công Giáo chúng ta khi chúng ta gọi các vị linh mục là “cha”. Trong khi họ căn cứ vào lời Chúa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật này theo nghĩa đen, người Công Giáo lại hiểu theo nghĩa về tinh thần, nghĩa làm cha sinh ra con cái trong ơn nghĩa Chúa bằng Phép Rửa. Giá những người anh chị em Tin Lành của chúng ta, những người không gọi người chồng của mẹ mình là “ông – ông ơi” để tránh chữ “cha”, cũng hiểu “Này là Mình Thày… Máu Thày” theo nghĩa đen như những chỗ như chỗ “cha” này thì hay biết mấy!
Kitô hữu áp dụng thực hành Lời Chúa dạy dân chúng và các môn đệ
Bởi vậy, cả trong vấn đề thi hành những điều áp dụng thực hành “chớ theo” như Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này liên quan đến ngôn hành không tốt của nhóm lãnh đạo dân Do Thái, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta thực hành tinh thần của nguyên tắc “hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Nghĩa là, dù chúng ta có đóng vai trò làm “cha” trong việc “rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28:19), hay làm “thày” trong việc “dạy cho họ tuân giữ những gì Thày đã truyền cho các con” (Mt 28:20) đi nữa, chúng ta hãy làm những việc ấy như là những thừa tác viên của Người, Đấng tuyên hứa “sẽ mãi mãi ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28:20), chứ đừng làm những thừa tác vụ ấy theo sở thích tự nhiên, như trường hợp người con nói đi làm vườn nho cho cha nhưng thực tế lại không, cũng đừng làm những thừa tác vụ này cho tư lợi của mình, như trường hợp của thành phần tá điền làm vườn nho song không nộp hoa lợi cho chủ. Trái lại, chúng ta hãy ý thức mình chỉ là một người ở đầu đường xó chợ, vô danh tiểu tốt, chẳng là gì trước nhan Thiên Chúa, song đã được vinh dự Ngài kêu gọi, “không phải các con đã chọn Thày song chính Thày đã chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết trái” (Jn 15:16), mà chúng ta phải hết sức nỗ lực để đáp ứng lời mời gọi của Ngài một cách xứng đáng, như thể chúng ta mặc áo để tham dự tiệc cưới do Ngài khoản đãi vậy.
Bởi thế, mỗi khi nghe người khác gọi mình là “cha”, là “thày”, nếu chúng ta thực sự đóng vai trò thừa tác viên trong những địa vị này, chúng ta hãy coi đó như một lời nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta phải luôn luôn sống động và tác hành làm sao cho xứng đáng với thiên chức cao cả ấy. Mẫu gương thừa tác viên này được sáng tỏ nơi chứng từ của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này: “Chúng tôi chia sẻ với anh em chẳng những tin mừng của Thiên Chúa mà còn chính đời sống của chúng tôi nữa… Đó là lý do tại sao chúng tôi liên lỉ tạ ơn Thiên Chúa vì trong việc anh em đã lãnh nhận sứ điệp của Ngài từ chúng tôi anh em đã nhận lấy sứ điệp ấy không phải như lời lẽ của người ta mà thực sự là lời của Thiên Chúa tác động nơi anh em là những người tin tưởng”. Trái lại, một khi chúng ta dám lạm dụng ơn Chúa ban, việc Chúa chỉ định, để làm theo ý riêng, ý thích của mình, lạm dụng vai thế để làm lợi cho mình, thì chúng ta hãy coi chừng những gì đã được Ngài dùng miệng tiên tri Malachi mà phán trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật tuần này: “Các người đã đi trệch đường và đã làm cho nhiều người qụi ngã bởi việc hướng dẫn của các người. Các người đã làm vô hiệu giao ước của Lêvi, Chúa các đạo binh phán. Vì các người không theo đường lối của Ta và tỏ ra lệch lạc nơi các quyết định của các người, nên Ta làm cho các người bị khinh chê và đê hèn trước mắt tất cả mọi người…”.
25.Họ nói mà không làm--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu vẽ ra chân dung của các kinh sư và Pha-ri-sêu là những người lãnh đạo của dân Do Thái. Ngài công khai nêu lên những thái độ của họ và không khoan nhượng.
Các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy cho người khác đúng theo Luật Chúa, nên “Hãy nghe và làm theo điều họ dạy” vì họ có trình độ, là những người chuyên môn, luật Môsê họ thuộc lòng. Họ là những lý thuyết gia vì họ nói mà không làm nên chúng ta đừng làm theo họ. Họ là những người có chức phận trong đạo, họ ngồi trên tòa Mô-sê để giảng dạy. Họ có quyền trục xuất khỏi Hội Đường những người không giữ Luật, vì thế họ tỏ ra uy quyền và oai phong. Họ tỏ ra mình là người đạo đức, thông Luật. Họ mang hộp kinh thật to (Hộp kinh là một túi nhỏ đựng những thẻ bài ghi những câu Kinh Thánh quan trọng), để chứng tỏ họ biết Kinh Thánh hơn mọi người. Họ mang tua áo thật dài để chứng tỏ họ có chức quyền trong dân thánh. Vào đám tiệc, họ thích chọn những chỗ danh dự dành cho khách quý, thích được người ta bái chào nơi công cộng, và gọi là Rabbi, nghĩa là thầy.
Bức chân dung mà Chúa Giêsu vẽ ra đây không mấy đẹp đẽ về các vị “đáng kính” ấy. Ngài tỏ ra gay gắt, chống đối kịch liệt thái độ “quan liêu giả hình” đó.
Hiện nay trong Giáo Hội, dòng giống Pha-ri-sêu vẫn còn tồn tại và sống mãnh liệt; Chúng ta gọi là “giáo sĩ trị”. Nhất là ở vùng quê, nếp sống quan liêu này vẫn còn khá phổ biến, vì trình độ giáo dân còn kém, không ai dám hở môi, và giáo dân Việt Nam rất nể trọng cha thầy.
“Họ chất gánh nặng lên vai người khác, còn họ thì chễm chệ ngồi, không động móng tay”. Điều này rất đúng nơi nhiều giáo xứ. Một giáo dân ở Sài Gòn, trí thức, đạo đức nói: “Tôi đi cùng với phái đoàn Caritas Đức, ngày Chúa nhật, chúng tôi vào một nhà thờ để dự lễ. Điều làm tôi cảm động vô cùng là thấy Cha sở quỳ với giáo dân đọc kinh. Điều đó rất ít thấy ở thành phố và trong nhiều họ đạo. Đúng giờ các linh mục bước ra bàn thờ dâng lễ. Các ngài viện lý do là phải đọc kinh nhật tụng khá dài rồi, còn giờ đâu mà đọc kinh với giáo dân?... Giáo dân đọc kinh là việc của giáo dân. Không phải tất cả đều như thế. Tôi quen biết với một linh mục, khi giáo dân bắt đầu đọc kinh thì Cha sở có mặt, cùng cầu nguyện với cộng đoàn. Ngài nói: “Đối với tôi, cầu nguyện với cộng đoàn là cầu nguyện với Giáo Hội. Không bao giờ cộng đoàn cầu nguyện mà không có tôi”. Pha-ri-sêu hay chủ chăn? Đây chỉ là một ví dụ.
Chúa Giêsu cho thấy, nếp sống quan liêu của các ông kinh sư và Pha-ri-sêu và dạy dân: “Đừng để ai gọi mình là “Rabbi”. Vì trước mặt Chúa, chúng ta không ai hơn ai, mọi người đều như nhau, và đều là anh em của nhau. Nếu ai có khả năng hơn thì giúp đỡ anh em mình. Chúng ta chỉ có Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. “Nhưng cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha duy nhất là Thiên Chúa”. Điều này cần phải hiểu đúng: con trong nhà gọi bố là gì? Giáo dân gọi linh mục là gì? Như thế phải hiểu lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?
Từ “cha” trong gia đình và trong Giáo Hội là một từ có tính cách tình cảm và tạm bợ. Cha trên trời là Cha duy nhất, là nguồn gốc và là cùng đích mọi sự. Gọi cha trần gian hay cha tinh thần chỉ một mối liên hệ máu huyết hay tinh thần trong một thời gian, không ngăn cản chúng ta tôn thờ Thiên Chúa với toàn vẹn ý nghĩa của nó, tức là Cha vĩnh cửu, Cha tuyệt đối. Chúa Giêsu cũng dùng chữ cha đó: “Có người cha nào khi con cái xin cá mà cho nó hòn đá?”
Đối với Chúa Giêsu, quyền bính là để phục vụ. Cha mẹ trong gia đình phải chăng là đầy tớ của con cái? Linh mục cũng được gọi là cha theo nghĩa là nô bộc của giáo dân: Dâng lễ, dạy giáo lý, ban các bí tích… cũng chỉ là những hành động phục vụ mà thôi.
Chúa Giêsu đến với chúng ta, tuy Ngài là Thiên Chúa, Ngài vẫn tự xem mình là tôi tớ. Cả cuộc đời Ngài là một hành động phục vụ liên lỉ và trọn vẹn. “Ở giữa anh em, Thầy là tôi tớ”. Và Ngài đã làm như thế.
Ngài phục vụ khi chữa lành bệnh nhân, khi rao giảng, khi tìm con chiên lạc, đến nỗi “Ngài không có giờ dùng bữa”, có khi Ngài mệt mỏi ngồi nghỉ nơi bờ giếng Gia-cob, và nơi Ngài đỉnh cao của phục vụ là “ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”.
Thái độ quan liêu, độc tài… là thái độ của Pha-ri-sêu. Pha-ri-sêu thường tìm danh dự và quyền lợi cho mình; còn Chúa Giêsu thì khiêm hạ, bỏ mình vì người khác. Pha-ri-sêu thì sống bên ngoài, phô trương, tìm đặc ân đặc lợi; còn Chúa Giêsu thì sống nội tâm, quên mình, từ bỏ tất cả, chỉ tìm thi hành ý Cha trên trời. Pha-ri-sêu thì sử dụng hồng ân của Chúa để tạo uy thế cho mình; còn Chúa Giêsu thì sử dụng tất cả để cứu vớt những gì đã hư mất. Và Chúa Giêsu đã kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”. Chúa Giêsu đã từng dạy môn đệ như thế khi các ông cứ tranh nhau ai là người lớn nhất.
Chúng ta tin vào một Thiên Chúa toàn năng, nhưng lại là một Thiên Chúa khiêm nhường. Ngài tự hủy mình khi sai Ngôi Hai đến trần gian, làm thân con người như mọi người, và phục vụ…
Cha Francois Varillon viết một quyển sách để ca tụng sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Thiên Chúa khiêm nhường vì Người là Tình Yêu trọn vẹn và “nguyên chất”. Người cho đi tất cả trong Con Một của Người, và Chúa Giêsu, “đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, cũng là Tình Yêu. Ngài luôn trong tình trạng tự hủy, và khiêm nhường thẳm sâu.
Đạo Công giáo không tôn thờ ai ngoài Thiên Chúa. Đấng Tối Cao và cũng là Đấng thấp hèn nhất. Trước mặt Ngài tất cả chỉ là tro bụi, nhưng Ngài đã trở nên tro bụi đó vì yêu.
Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa khiêm nhường, mà chúng ta lại sống như Pha-ri-sêu sao? Chúng ta sẽ bị hạ xuống. Chúa Giêsu “khiêm nhường và hiền hậu” vẫn mãi mãi là gương mẫu cho chúng ta.
Nơi bàn thờ hiến tế này, sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Giêsu được tỏ hiện rõ rệt nhất nơi tấm bánh thần linh là Mình Máu Ngài. Hãy chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy yêu thương và khiêm tốn của Ngài. Ăn lấy Ngài để nên một với Ngài trong một đời sống khiêm hạ, bỏ mình đến tận cùng.
26.Sống đạo gương mẫu--Lm. Minh Vận, CRM
Vào một ngày đẹp trời, Thánh Phanxicô Nghèo với một Thầy phụ tá đi giảng đạo với ngài trong thành Assisi. Chiều xuống, hai cha con trở về nhà Dòng, Thầy phụ tá thắc mắc hỏi: "Thưa Cha , Cha không giảng gì sao?" Thánh nhân trả lời: "Chúng ta đã giảng rồi". Thầy phụ tá đáp: "Từ sáng tới giờ đã thấy Cha giảng bài nào đâu, chúng ta mới chỉ rảo qua một vòng thành phố mà thôi". Thánh Phanxicô mỉm cười đáp: "Con không biết sao, chính cách đi đứng đoan trang, cư xử lịch thiệp, thưa hỏi lễ độ và thăm hỏi ân cần với mọi người, đã là một bài giảng hùng hồn chinh phục người ta về với Chúa rồi đó".
Thực vậy, ca dao Việt Nam đã chẳng có câu nói hữu lý rằng: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn". Bài giảng không lời của Thánh Phanxicô Nghèo còn công hiệu hơn biết bao bài diễn văn hùng hồn của các học giả lỗi lạc, hơn cả những bài thuyết giáo của các nhà truyền giáo trứ danh khác, nó còn có sức hấp dẫn và lôi cuốn đến nỗi chim trời cũng phải tập trung lại quanh ngài; cá biển cũng phải ngóc đầu lên nghe ngài nói; hơn nửa, hầu khắp cả thế giới, muôn người ngày nay hướng về ngài, cảm phục, ca ngợi, tôn kính, và cầu khẩn ngài như một vị Thánh rất thần thế luôn cầu bầu cho họ trước tôn nhan Chúa. Biết bao người sung sướng được trở nên môn sinh của ngài và can đảm dấn thân bước theo đời sống khó nghèo, khiêm nhu gương mẫu thánh thiện của ngài, để phụng sự vinh danh Thiên Chúa và phục vụ phần rỗi các linh hồn.
I. NẾP SỐNG ĐẠO GIẢ HÌNH
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Chúa Kitô đã tố cáo lối sống đạo giả hình của các luật sĩ và biệt phái Do Thái xưa, trước mặt dân chúng đang lắng nghe Ngài và đồng thời, Chúa lên tiếng căn dặn mọi người: "Các con hãy tuân giữ các giáo lý họ dạy, nhưng đừng noi theo các gương xấu của họ, vì họ nói mà không làm. Họ chất những gánh nặng trên vai người ta mà chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Họ luôn phô trương công đức, tự đắc, tự kiêu, hãnh diện xưng mình là bậc thầy, là người chỉ đạo, là bậc thủ lãnh của dân chúng". Quả thực, ngôn hành đối nghịch; họ đã sống phản lại giáo lý họ rao giảng và làm ô danh cho địa vị cao cả của họ. Ngày nay, chúng ta cũng thường thấy có những bậc thầy tương tự như thế.
II. NẾP SỐNG ĐẠO CHÂN THỰC
Là những tôi tá trung thành của Thiên Chúa; những Tông Đồ đích thực của Chúa Kitô; những con cái ngoan thảo của Giáo Hội, chúng ta phải sống nếp sống đạo chân thực, phù hợp với giáo lý và gương mẫu đời sống thánh thiện của Chúa Kitô, đúng như lời Chúa đã dạy: "Chúng con hãy làm việc thiện, để người ta thấy việc chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời" (Mt 5:16).
Thánh Phaolô, người tông đồ đích thực Chúa Kitô đã tuyển chọn đặc biệt, ngài đã sống đúng với giáo lý Chúa trao cho ngài rao giảng, ngài đã sống thật với lòng mình, nên ngài đã dám quả quyết với chúng ta: "Như người mẹ dưỡng nuôi nâng niu con mình, thì cha cũng yêu thương chúng con, đến nỗi cha rất vui lòng trao phó cho chúng con, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống cha nữa, vì chúng con đã trở nên con cái nghĩa thiết của cha" (Thess 2:7-9,13). Ngài còn dám quả quyết hơn nữa: "Cha đã trở nên nọi sự cho nọi người để cứu rỗi mọi người" (1Cor 9:22). Như thế, Thánh Tông Đồ đã đi đúng với giáo huấn của Thầy Chí Thánh dạy: "Trong các con, ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ và làm tôi mọi người" và ngài còn theo sát gương mẫu của Đấng đã tuyển chọn và ủy thác sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho ngài, theo Đấng đã làm gương: "Cũng như Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ mọi người và nên giá cứu chuộc cho nọi người" (Mt 20:28).
III. CHÚNG TA ĐÃ SỐNG ĐẠO THẾ NÀO
Khi nhắc lại những giáo huấn Chúa đã dạy và chiêm ngắm những gương lành Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy cùng nhau kiểm điểm: Chúng ta đã sống nếp sống đạo gương mẫu, đúng với ơn gọi cao cả làm con Chúa và hợp với sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng ta, tùy theo địa vị và chức vụ của mỗi người chưa?
1. Là những tông đồ được Chúa trao phó việc rao giảng Tin Mừng, lo phần rỗi các linh hồn, chúng ta dã tận tâm hy sinh, để mưu cầu Ơn Cứu Độ cho các linh hồn, chinh phục họ trở về với Chúa, để Chúa tôn vinh phụng sự và yêu mến chưa?
2. Là những con ngoan thảo của Giáo Hội, chúng ta có tha thiết yêu mến Giáo Hội, hăng say bảo vệ Giáo Hội, nỗ lực xây dựng và làm cho Giáo Hội được phát triển và trường tồn không?
3. Là những phần tử của Hội Dòng, chúng ta có tận lực chung tay xây dựng Hội Dòng, bằng mọi khả năng có thể, làm cho Hội Dòng được vững mạnh và phát triển đúng như ý Chúa, Mẹ mong muốn không?
4. Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta đã lo cho con cái biết giữ luật Chúa và Giáo Hội, lo cho con cái nên người hữu dụng của xã hội không?
5. Là những người con, chúng ta đã biết tôn trọng cha mẹ như những vị đại diện Chúa, mau mắn vâng phục, ngoan ngoãn hiếu thảo và làm hài lòng cha mẹ như Chúa truyền chưa?
Kết Luận
Chớ gì mỗi người chúng ta biết sống cuộc đời đạo đức gương mẫu thánh thiện đích thực. Nếu chúng ta đạt được ước nguyện này như một nghĩa vụ ưu tiên, quan trọng và khẩn thiết, chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mạng Chúa ủy thác tùy theo địa vị, chức vụ của mỗi người chúng ta.
27.Các kinh sư và Pharisiêu giả hình--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Động lực căn bản nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động như vậy? Ta có bị thúc đẩy bởi động lực đó không?
2. Nếu mọi việc tốt đẹp ta làm đều làm nhằm để được tiếng khen, để được ca tụng, thì người khác có nghĩ rằng ta tốt, ta đạo đức không? Thiên Chúa sẽ đánh giá ta thế nào? Trước mặt Ngài, đạo đức của ta là đạo đức gì?
3. Muốn thánh thiện đích thực, ta phải xây dựng sự thánh thiện đó trên nền tảng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tật xấu chung của con người: muốn được mọi người nể phục tôn trọng, muốn được hơn người khác
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay hai phần rõ rệt diễn tả hai tinh thần đối chọi nhau. Phần đầu nói lên tinh thần “phình to bản ngã” của người Pha-ri-siêu, thích đặt nặng “cái tôi”, đưa “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của người khác. Còn phần sau là tinh thần “tự hủy” của Đức Giêsu, là tinh thần từ bỏ mình, quên mình, xả kỷ, đặt “cái tôi” của mình dưới “cái tôi” của kẻ khác.
Tinh thần “phình to bản ngã” không chỉ là tâm lý của những người Pha-ri-siêu, mà còn là tâm lý của đại đa số nhân loại chúng ta. Chúng ta thích được mọi người nể phục, ca tụng, đề cao; thích khoe những ưu điểm, thành tích của mình; thích có địa vị hay quyền lực trong xã hội hay Giáo Hội; thích được người khác phục vụ, qụy lụy; ai nói đụng chạm đến mình thì tỏ ra bực bội; thấy những người chung quanh hơn mình thì đâm ra buồn nản, ganh tức, v. v.. Tâm lý như thế là tâm lý rất bình thường, không mang tính bệnh hoạn. Nó chỉ trở thành bệnh hoạn khi trở nên quá đáng, nghĩa là ước muốn được hơn người trở thành một nỗi ám ảnh, hay biến ta thành một người đầy tham vọng, và muốn thỏa mãn những mong ước ấy với bất cứ giá nào, bất chấp phải làm những điều trái lương tâm... Tình trạng bệnh hoạn ấy sẽ khiến tâm hồn ta thường xuyên mất bình an và làm người khác khó chịu.
Muốn nên thánh, ta phải vượt lên trên tâm lý bình thường ấy. Nếu ta thắng vượt được tâm lý đó, thì ta đã trở nên hơn người bình thường một bậc. Và lên được bậc này là lên được bậc căn bản nhất để nên thánh rồi. Thật vậy, không ai có thể nên thánh nếu vẫn còn trong tình trạng tâm lý coi “cái tôi” của mình là “cái rốn của vũ trụ”, là hơn hết mọi người, và coi ý riêng, ý kiến, quyền lợi mình cao hơn ý riêng, ý kiến, quyền lợi người khác.
2. Coi chừng kẻo thứ đạo đức của ta đang được xây dựng trên tâm lý muốn “phình to bản ngã”
Khi ta tự đặt ta cao hơn người khác hoặc những gì của ta cao hơn của người khác thì ta cũng mong muốn, thậm chí đòi hỏi người khác phải coi ta hơn bản thân họ, hoặc những gì của ta hơn của họ. Một người luôn đặt nặng “cái tôi” của mình như thế vẫn có thể được mọi người coi là đạo đức, thậm chí là “đạo cao đức cả”, nhờ tuân giữ chi tiết và hoàn hảo các luật lệ tôn giáo, hoặc làm được những việc phúc đức lớn lao như những người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu. Họ sẵn sàng tuân giữ mọi quy luật tôn giáo, làm những hành động tốt, không phải vì mến Chúa yêu người, mà vì muốn được mọi người chung quanh nể phục, ca tụng, coi mình là người đạo đức, và nhờ đó, tín nhiệm mình, tôn mình lên những địa vị cao trong xã hội hay Giáo Hội.
Nhưng trước con mắt Thiên Chúa, tinh thần “phình to bản ngã” ấy làm hỏng tất cả những gì có vẻ tốt đẹp của họ. Tinh thần ấy đã biến những hành vi đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí, có vẻ yêu thương… thành những hành vi vị kỷ. Vì những hành vi ấy không xuất phát từ động lực yêu thương. Trước mặt Thiên Chúa, giá trị đạo đức của một hành động phần rất lớn hệ tại động lực thúc đẩy: càng vị tha, càng vì yêu thương thì càng có giá trị, còn càng vị kỷ thì càng giảm giá trị. Điều này thánh Phao-lô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy tình thương, hay đem lại lợi ích cho rất nhiều người khác, nhưng vì không được thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta. Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những lợi ích trần thế, nghĩa là “đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,5b).
Chính trong viễn ảnh này mà câu Kinh Thánh sau đây trở nên dễ hiểu: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?... Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,22-23). Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, tự bản chất đều là những việc đạo đức, nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự hào và khinh khi người khác, thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế, muốn nên thánh, ta cần phải thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những điều thiện, những việc đạo đức.
3. Sự thánh thiện đích thực được xây dựng trên nền tảng tự hủy, quên mình, xả kỷ, yêu thương
Thứ đạo đức của người Pha-ri-siêu được xây dựng trên nền tảng “phình to bản ngã”, nên đó là thứ đạo đức giả, có thể được người đời lầm tưởng mà đánh giá cao, nhưng trước mặt Thiên Chúa chẳng có giá trị gì. Đức Giêsu muốn chúng ta, những kẻ theo Ngài, là những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức của ta phải được xây dựng trên nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng ta đừng ham được mọi người gọi mình là “ráp-bi”, là “cha”, là “thầy”, là “người lãnh đạo”... nghĩa là đừng ham được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng khao khát quyền lực, địa vị... Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì đáng tự hào, đáng cậy công... Vì xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá trị do tự ta làm ra cả. Tất cả những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Khi ta tự hào với người khác về đạo đức, tài năng, lòng can đảm... thì điều ấy giả thiết rằng ta đã tự coi những thứ tốt đẹp ấy là do ta chứ không phải do ai khác. Thế là ta đã trở thành kẻ vô ơn đối với Thiên Chúa, vì không gì ta có mà không phải do Ngài ban. Gioan Tẩy giả nói với những người Pha-ri-siêu: “Đừng tự hào rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham” (Mt 3,9). Cũng vậy, Thiên Chúa có thể biến những kẻ vô dụng, hèn kém nhất trong thế gian này, những kẻ mà ta đang khi rẻ thành những kẻ đạo đức và tài năng hơn ta. Và Ngài cũng có thể giảm các ân huệ Ngài vẫn ban cho ta, lập tức lúc đó ta trở thành kẻ không ra gì. Biết bao người đang được mọi người coi là cao cả mà chỉ vì bị mất ơn Chúa đã trở thành kẻ tầm thường! Như vậy, người hiểu biết và khôn ngoan đích thực sẽ không bao giờ dám tự hào về mình điều gì. Thánh Phao-lô khuyên: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31; x. 2Cr 10,17). Một người đạo đức thật sự sẽ không “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23,5), “cốt để người ta khen” (Mt 6,2) như những người Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3); “khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta không làm vì ta, để vinh danh ta, mà làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn nếu làm vì ta, để được khen, được nể phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu, cũng trở nên vô giá trị trước Thiên Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng thế nào. Vậy chính tinh thần tự hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới làm cho hành động của ta có giá trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha dựng nên con từ hư vô, và dựng nên người khác cũng từ hư vô. Tự bản chất và tự bản thân con, con chẳng hơn người khác một chút nào. Ngược lại người khác cũng chẳng hơn con chút nào. Con có hơn người khác được điều gì, thì do chính Cha đã ban đủ ơn để con hơn được như vậy. Thế thì con có lý do gì để lên mặt với những kẻ thua kém con? Rất có thể một lúc nào đó, Cha sẽ lại cho những kẻ kém con, những kẻ con khinh thường ấy hơn con. Tốt hơn là con hãy quên con đi, đừng tự coi mình là gì cả. Chính thái độ ấy làm cho con trở nên cao cả trước mặt Cha, làm đời sống con hạnh phúc và tốt đẹp biết bao! Cha mong con có thái độ ấy”.
28.Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Bài đọc này tiết lộ một trong những lý do căn bản khiến người biệt phái đối đầu với Chúa Giêsu. Bài đọc cũng chất vấn chúng cả chúng ta ngày nay nữa, vì vấn đề đặt ra là sự thành thực của cuộc sống đối với Đức tin. Chúa Giêsu kết án người biệt phái cắt nghĩa lề luật mà sắp đặt theo sở thích của mình. Và thay vì có lương tâm khiêm nhường của tội nhân trước mặt Thiên Chúa, họ có lương tâm của kẻ tự mãn. Cần lưu ý Chúa Giêsu không hề đả kích quyền uy của các thày thông giáo giảng dạy giáo lý Do thái ở thời Ngài; nếu dùng bài đọc này biện minh cho việc phản kháng quyền hành trong dân Thiên Chúa quả là lạm dụng. Điểm chính xác mà Chúa Giêsu nhắm đến là sự phù hợp phải có giữa lời nói và việc làm; Ngài cũng tố cáo thái độ mong được người chú ý hơn là sống theo ý Thiên Chúa. Bởi đó những người nhận quyền hành có bổn phận, phải làm gương cụ thể những điều họ giảng dạy. Đồng thời việc chấp nhận ngay thẳng lời giáo huấn đến từ các vị có quyền buộc tín hữu thi hành những điều họ tin. Một vài điều xác định về bài đọc. Các thẻ kinh ở đây là những hộp vuông nhỏ bằng giấy hay bằng da bò màu đen, trong đựng những đoạn ghi chép các câu Kinh thánh nói về tnh1 chất linh thiêng của lề luật. Các người Do thái mộ đạo đeo trên trán hay buộc vào cánh tay trái để đọc vào kinh sáng; những biệt phái bị Chúa trách cứ có lẽ lúc nào cũng mang bên mình. Các tua áo và cả các túm đính vào bốn góc áo choàng có giá trị dấu hiệu tôn giáo để nhắc nhở tuân giữ lề luật. Các lời chào hỏi có tầm quan trọng lớn lao ở Đông phương, cử chỉ và lời dùng để chào nói lên phẩm giá xã hội người mình chào. Những người biệt phái rất thích được người ta thưa: “Bẩm thày đạo sư, nguyện chúc Ngài khang an”. Để suy gẫm:
1) Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Câu nói của Chúa tố cáo một cố tật của mọi kẻ nắm giữ quyền hành, mọi người cắt nghĩa luật pháp và ở đây chúng ta giới hạn trong phạm vi tôn giáo. Có một thứ am tường luật pháp, để tránh né các đòi buộc mà lương tâm vẫn yên ổn. Người ta cắt nghĩa sao cho kẻ khác buộc phải giữ còn mình thì thoát. Một cố tật khác là, cắt nghĩa luật pháp theo những ý tưởng và quyền lợi mà mình muốn bảo vệ. Cắt nghĩa Phúc âm cách sao để biện minh cho một số chủ trương “bảo thủ”, hay “cách mạng” là một việc giả hình, biệt phái cũng đáng kết án như việc giảng dạy Phúc mà tìm cách để khỏi thi hành. Trong cả hai trường hợp, đều có sự dối trá. Một bên biến Phúc âm thành gánh nặng cho người khác, một bên đặt thêm vào gánh nặng mà Phúc âm không có. Cả hai bên đều có việc tráo quan niệm nhân loại vào chỗ thánh ý Thiên Chúa.
2) Làm sao có được thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái? Các người chỉ có một Thày, một Cha, một Đấng chỉ đạo. Chúa Giêsu nhắc nhở người Kitô hữu rằng Đấng duy nhất xét đoán lương tâm họ là Thiên Chúa, dầu họ ở mức độ quyền bính hay tuân phục nào đi nữa. Họ phải thực hành điều họ dạy, điều họ tin. Sự ngay thẳng nội tâm trước mặt Thiên Chúa sẽ khiến họ ý thức mình là kẻ có tội. Khi cần, nó có thể khơi dậy một sự tìm kiếm trong lòng những người khác. Họ sẽ không thuộc số những kẻ hành động có ý cho người ta thấy. Họ sẽ hành động cách nào để khi thấy việc họ làm, người ta sẽ ngợi khen Cha ở trên trời (Mt 5,16)
29.Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất, và không để cho một người nào khác--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Những người con thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa Giêsu đã nói đừng gọi ai dưới đất là “cha”. Những vị dạy dỗ trong trường học chấp nhận tước hiệu “thầy” mặc dù Chúa Giêsu nói: “Tránh gọi ai là Thầy”. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn nếu duy trì những điều thực hành này khi những điều này trái với hướng dẫn của Chúa Giêsu. Hiển nhiên là ý nghĩa của nó không phải là nghĩa chữ. Mặc dù đúng hơn qua những điều giống như ra lệnh này, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta rằng chúng ta đừng trao cho người nào chỗ nhất trong đời sống của chúng ta, mà chỗ này chỉ thuộc về mình Thiên Chúa.
Chúng ta là con cái của cha mẹ chúng ta. Một số người đã được chúc phúc bởi cha mẹ mình và một số khác thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn lên thiên đàng để tìm thấy những Đấng cha mẹ hoàn hảo, một người tuyệt vời không thể tưởng tượng được đó là Cha của Chúa Giêsu Kitô, và Đấng đó đã trở thành Cha của chúng ta nữa. Chúng ta không thể cho phép ai chiếm mất chỗ của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta.
Tất cả chúng ta phải có những vị thầy trong những khoảnh khắc khác nhau từ lúc chúng ta sinh ra trong suốt thời gian ở trường, khi chúng ta có một công việc, và thật sự xuyên qua toàn bộ đời sống của chúng ta, có một người có thể dạy dỗ chúng ta về mọi chân lý căn bản nhất của đời sống, cả đời này và cả đời sau, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể cho phép bất cứ ai hơn Chúa Giêsu trong việc Chúa Giêsu trở nên Thầy dạy chúng ta về những giá trị của đời sống.
Thiên Chúa đã nói qua lời của tiên tri Malakia trong bài đọc I của Chúa Nhật hôm nay. Bài đọc tuyên bố: “Quả Ta là vua lớn lao”. Có ai trong đức tin chối điều đó không? Thiên Chúa đòi hỏi câu trả lời trong câu hỏi của Ngài: “Các ngươi có chấp nhận rằng các ngươi không được đặt ai vào chỗ của Ta như là Chúa các đạo binh của các ngươi không?”. Chúng ta phải trả lời: “Amen”.
Tuy nhiên có lẽ trong trường hợp của chúng ta thì không khác biệt mấy với những người dân mà tiên tri Malaki đã rao giảng sứ điệp của ông. Họ là những người dân Do Thái đang trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, dân tộc đó không chia sẻ tôn giáo và những giá trị như họ. Hoàn cảnh là một thách đố đức tin cho cả hai, thành phần là tư tế và dân chúng. Đó là lý do vì sao tiên tri Malaki đã rao giảng cho họ một bài giảng khẩn cấp và lớn lao như vậy.
Đó là lý do vì sao Phúc Âm của Chúa Nhật có một ý nghĩa lớn lao đối với chúng ta. Chúng ta sống một xứ sở, xứ sở đó đã được thúc đẩy bởi những nguyên tắc chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, mà không phải bởi những giá trị của tôn giáo. Hầu hết mọi người mà chúng ta có thể nói rằng họ tin vào Thiên Chúa, nhưng sự cám dỗ thời đại trong xứ sở của chúng ta là sống mà Thiên Chúa không hiện hữu. Sự cám dỗ đó có thực đối với chúng ta, tuy nhiên nó có thể tinh tế hay mờ nhạt khi chúng ta đang ngồi trong nhà thờ.
Có lúc nhà thờ sẽ là nơi cư ngụ của chúng ta, là ngôi nhà tinh thần của chúng ta trên mặt đất này. Nơi đây trả sự chú ý cho Chúa Giêsu, vị Thầy dạy của chúng ta, khi chúng ta lắng nghe lời Người tuyên bố trong Thánh Kinh. Chúng ta tuân theo giáo huấn của Ngài bằng việc cầu nguyện với Thiên Chúa như là ‘Cha của chúng ta”, không chỉ trong lời kinh Lạy Cha, nhưng qua Thánh Lễ. Chúng ta nối kết với Người trong hy tế của Chúa Giêsu Kitô để hiểu rằng. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là vị Vua cao cả của chúng ta, là Đấng mà chúng ta dâng lời ngợi khen và cảm tạ.
Hơn nữa, chúng ta sẽ tìm thấy một dân và với dân đó chúng ta chia sẻ những giá trị trong đời sống, dân mà họ sẽ nâng đỡ chúng ta trong đức tin và là dân mà chúng ta sẽ sẵn lòng giúp đỡ trong mọi lúc họ cần. Người Do Thái trở về một miền đất có vẻ giống như là ngoại quốc đối với họ. Chúng ta sẽ không bao giờ có cảm giác là mình không có chỗ trong một nhà thờ Công giáo. Chúng ta phải tìm thấy nơi mỗi người, dân tộc được dâng hiến, là dân muốn theo những giá trị của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.
30.Chú giải của Fiches Dominicales
TRONG HỘI THÁNH, CHỨC VỤ LÀ ĐỂ PHỤC VỤ, THEO GƯƠNG ĐỨC GIÊSU TÔI TỚ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Thi hành chức vụ…
Thay vì làm cho những đối thủ của Đức Giêsu im tiếng, ba dụ ngôn về ngày chung thẩm mà chúng ta đã suy niệm trong các ngày Chúa nhật thứ 26, 27 và 28, lại làm nổ ra một loạt những tranh luận, trong đó bọn họ bắt tay nhau và thay phiên nhau giăng những cạm bẫy hòng để Đức Giêsu mắc vào. Trước hết, trong Phúc âm Chúa nhật thứ 29, là mưu mô của "môn đệ nhóm Biệt phái và những người thuộc phe Hêrôđê": “Có nên nộp thuế cho hoàng đế hay không. Họ nêu lên câu hỏi, chắc ăn là sẽ bắt được con tôm. Nhưng Đức Giêsu chẳng dại gì để mình rơi vào thế lưỡng nan, Người chuyển hướng vấn đề, và dựa vào hình khắc trên đồng tiền người ta trao cho, Đức Giêsu tuyên bố: "Hãy trả cho César những gì thuộc về César, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa". Một câu trả lời làm cho những kẻ hạch hỏi phải im tiếng: "Mọi người đều sửng sốt và rút lui". Thứ đến, một đoạn không có trong bài đọc năm A, là thủ đoạn của những người thuộc phái Sadducée, "những kẻ không tin có sự sống lại". Bằng câu chuyện tưởng tượng về một người đàn bà với bảy đời chồng, họ nắm chắc phen này sẽ giễu cợt được Đức Giêsu và niềm tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu bắt họ phải quay về với mặc khải của Thiên Chúa trong câu chuyện bụi gai bốc lửa trong sách Xuất Hành, chương 3: Người là Đấng tự xưng mình là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của người sống.
Nghe tin Đức Giêsu đã "khoá miệng những người Sadducée", các ông Biệt Phái lại tấn công Chúa. Lần này họ kéo đến cả nhóm: Thưa Thầy-một người trong bọn họ, một tiến sĩ luật, lên tiếng vạn hỏi Chúa- điều răn nào là điều quan trọng nhất. ("Đức Giêsu đã trả lời bằng cách liên kết chặt chẽ hai giới luật mến Chúa và yêu người. Người kết luật: "Tất cả sách Thánh, gồng Lề luật là các Ngôn sứ, đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy. Các đối thủ của Chúa, sau khi đã ê chề với kết cục của ba cuộc tranh luận, không còn dám hạch hỏi Chúa điều gì nữa". Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ, chính những kẻ giăng bẫy để kết tội Chúa nay lại bị Người vạch tội. Người không hề có ý xem thường quyền bính của những bậc "ngự toà Môsê" và nắm giữ nhiệm vụ giải thích lề luật, nhưng chỉ muốn vạch trần cho họ thấy sự bất nhất giữa cái nói (giáo huấn) và cái làm của họ: "Họ chỉ biết nói mà không làm". Lợi dụng quyền giải thích Luật của Môsê, họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng mà bản thân họ không hề đụng vào. Hoàn toàn trái ngược với Đức Giêsu, người "chu toàn" Lề Luật, nhưng lại tỏ ra dịu dàng, ân cần đối với những ai phải mang gánh nặng nề (Mt 11,28-30). Cho mình là mẫu mực của thiên hạ - có thể họ chân thành nghĩ thế - "họ luôn làm mọi việc tốt để cho mọi người thấy". Họ lo tô điểm cái vỏ bên ngoài - vỏ đạo đức vỏ địa vị xã hội- hơn là làm sao để lời nói và việc làm của mình đi đôi với nhau.
"Hộp kinh": Đó là những túi da đựng những đoạn Kinh Thánh mà mọi người Do Thái đạo đtíc thời đó cũng như nay thường mang trên cánh tay trái và trên trán của mình mỗi lần cầu nguyện. Vì sợ người ta thấy không rỏ, nên họ đã nới những hộp kinh này ra quá khổ. "Tua áo”: Đó là những chùm len may ở bốn góc của áo ngoài mà những người Do Thái ngoan đạo thời đó cùng như Đức Giêsu, đã mang và ngày nay cũng thế, để thường xuyên nhớ đến các giới răn của Chúa. Những tua áo ấy cũng có kích thước quá phô trương. Danh vọng, địa vị là những thứ họ đặc biệt thèm khát: Họ háu ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, và được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng là được thiên hạ gọi là ráp bi.
2. Để phục vụ theo gương Đức Giêsu:
Khi viết Phúc âm, vị thánh sử muốn kể lại những câu chuyện về Đức Giêsu, bằng cách thời sự hoá chúng lại cho các cộng đoàn Kitô hữu hôm nay đang sống trong những năm 80. Những cộng đoàn ấy đang gặp chống đối và bách hại từ phía hội đường Do thái, những cộng đoàn ấy đang có nguy cơ bị lay nhiễm virút Biệt phái, và một số người có trách nhiệm trong đó đang mở ra cho thấy một thứ tinh thần kẻ cả rỗng tuếch. Thánh Matthêu cũng thế, sau khi đã gom góp những lời của Đức Giêsu nói với các luật sĩ và biệt phái giả hình, ông liền thuật lại những điều Chúa dạy nhằm xác định đâu là những nét đặc thù của việc thi hành quyền bính trong cộng đoàn "các môn đệ" của người. Đó là:
Tình huynh đệ: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau”. “Anh em" là từ thông dụng nhất xuyên suốt cả Tân ước, để gọi thành viên của cộng đoàn Kitô hữu, nghĩa là của gia đình Hội Thánh. Do đó phải dứt khoát loại trừ tính kẻ cả, tinh thần tự mãn, làm cho những ai đang thi hành một tác vụ hay một chức năng trong Hội Thánh quên đi họ cũng chỉ là một người anh em giữa các anh em của mình. Lòng đơn sơ: "Anh em chỉ có một Vị Thầy là Đức Kitô anh em chỉ có một Cha, Đấng đang ngự trên trời”? những danh xưng mà người ta có thể dành cho những vị có trách nhiệm trong cộng đoàn Hội Thánh, không bao giờ được phép che khuất tính cách là con một Cha duy nhất mà người Kitô hữu tuyên xưng, tư cách của các vị lãnh đạo trong Hội Thánh bắt buộc phải là một hiện diện phục vụ, và hoàn toàn là một phản ánh trong suốt về Đấng Duy Nhất (Assemblées du Seigneur, số 62, trang 31). Tinh thần phục vụ: Người lớn nhất trong anh em, phải là người phục vụ. Mọi chức vụ trong Hội Thánh từ nay đều phải được thi hành theo gương Đức Giêsu là Thầy và là Chúa, nhưng lại "hạ mình xuống" và làm đầy tớ phục vụ các anh em của Người (cf. Rửa chân các môn đệ)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một trách nhiệm phục vụ”. (L. Daloz, trong "Le règne de Dieu s'est approché", Centurion, trang 315).
Đức Giêsu khiển trách những người Luật sĩ và Biệt phái vì họ tự cho mình hơn kẻ khác, và muốn tỏ mình ra hơn kẻ khác: họ nới rộng hộp kinh, nối dài tua áo, nghĩa là họ muốn những thứ đó của họ phải nổi bật hơn của người... Họ muốn khoe mình đạo đức, sốt sắng với Chúa và với lề Luật hơn; Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi giữa nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp bi"... Lời mô tả của Đức Giêsu thật rõ ràng, dễ sợ, không bỏ qua điều gì. Ngược lại, chúng ta hãy nghe những gì Người căn dặn các môn đệ: đừng đễ ai gọi mình là "ráp bi", đừng gọi ai dưới đất là cha, đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo. Ở đây cũng thế: tất cả đều rõ ràng! Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu theo nghĩa sát mặt chữ: nếu như thế lại phải thêm dài dài không biết bao nhiêu danh xưng khác nữa mới đủ! Tuy vậy, điều rất quan trọng các môn đệ của Đức Giêsu không bao giờ được quên, là đừng để mối tương quan giữa họ với nhau rập khuôn theo kiểu tương quan của xã hội họ đang sống. Cách con người liên hệ với Thiên Chúa luôn ảnh hưởng tới tính chất của mối liên hệ giữa người với nhau. Nó cho thấy rằng mọi địa vị của con người, mọi chức vụ trong xã hội và cả trong gia đình, mọi trách nhiệm... đều phải ở trong thế hệ thuộc với một Đấng vừa là Tạo Hoá vừa là Cha của mọi người. Và không một thứ quyền bính nào có giá trị nếu không qui chiều về người: Thử hỏi nhân danh cái gì một con người tư cho mình ở bên trên một con người khác, cũng mang hình ảnh Thiên Chúa như mình, đòi kẻ đó phải phục vụ và vâng lời mình? Bởi chỉ có một Thầy, một Cha, và một Người Cha Đạo duy nhất! Và do việc chúng ta chỉ có Thiên Chúa là Cha, nên tất cả loài người chúng ta đều bình đẳng như nhau trong cùng một nhà: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau!”. Quyền bính, chức cả, đều chỉ là những trách nhiệm phục vụ. Chỉ trong phục vụ, chúng mới có lý do tồn tại: "Kẻ làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ. Chúng ta có thể là những danh hiệu của tình yêu; là ánh phản chiếu chính uy quyền và sự cao cả của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã cho thấy rõ điều đó khi Người hạ mình xuống làm người đầy tớ đau khổ và vâng phục. Mẫu gương đó của Chúa đã từ nay trở nên quy luật cho mối tương quan giữa các môn đệ với nhau: "Ai treo mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
2. “Ở bên các gia đình đang gặp tang chế: một sứ mạng của Hội Thánh, một phục vụ huynh đệ” (do một nhóm thành viên cộng tác thuộc giáo phận về mục vụ bí tích và phụng vụ của vùng truyền giáo phía Tây, trong "Vers la lumière" (CRER, Angers).
"Ai có trách nhiệm?"
"Tất cả mọi người thuộc cộng đoàn Dân Chúa đều phải ý thức trách nhiệm của mình trong việc cử hành an táng. Tất cả không cùng một danh nghĩa như nhau, nhưng mỗi người có phần mình tuỳ hoàn cảnh và tuỳ chức vụ của mình (...). Cả cộng đoàn nói chung cũng có vai trò của nó. Cả cộng đoàn được mời gọi làm chứng về niềm hy vọng và niềm tin của mình vào sự phục sinh. Vấn đề không phải là tìm cách đưa người giáo dân thế chỗ của linh mục, nhưng làm sao để họ hợp tác vào việc trình bày một Hội Thánh tôi tớ.
1. Hai thái độ phải có: Một hiện diện huynh đệ: Khi có người qua đời trong khu xóm, trường học, thôn làng, nhà máy... của mình, chẳng lẽ người Kitô hữu chúng ta không biết đến hiện diện, một cách thực tế, và đầy kính trọng sao? Mối liên hệ đơn sơ giữa người với người, sự quan tâm chân thành đến người khác, có khả năng làm dịu đi nỗi đau thương của cái chết. Đến đó, hiện diện và thinh lặng bên những con người đang đau khổ. Lắng nghe tiếng thở than, mỗi tức tươi sự câm nín của họ. Đây không phải là lúc để diễn thuyết hay dạy đời, nhưng là cơ hội để hiệp thông và đồng cảm, theo nghĩa trọn vẹn của nó.
2. Một chứng tá: Sự hiện diện như thế sẽ làm sáng tỏ giá trị của mọi cuộc sống, và làm chứng về sự trân trọng của Hội Thánh đối với tất cả những gì làm nên lịch sử của một đời người.
Những vai trò khác nhau: Tình trạng giảm sút số linh mục, sự nhìn nhận chỗ đứng của những người dã chịu phép thanh tẩy, ý thức về tính cộng đoàn trong mục vụ tang lễ, mời gọi mọi phần tử trong cộng đoàn Kitô hữu phải làm tròn nhiều vai trò khác nhau... trước khi cử hành (...) đang lúc cử hành (...) sau cử hành (...) Sự ra đi của một người thân, một người bà con, một người hàng xóm hay một người bạn luôn là một biến cố đau thương. Người Kitô hữu trong cùng khu xóm đó không được phép tỏ ra hờ hững. Công tác mục vụ an táng của Hội Thánh là một yếu tố quan trọng cho việc loan báo Tin Mừng hôm nay. Tham dự vào lễ nghi an táng không phải là chuyện chẳng đặng đừng ở đời, nó là một phần của ơn gọi của những ai đã lãnh nhận phép Thanh Tẩy. Do đó khi ở bên những tang gia trong lúc bối rối, các Kitô hữu đang thi hành sứ mạng của họ: trong Hội Thánh. Có lẽ cần khẩn trương lên một kế hoạch đào tạo và thông tin cho các cộng đoàn Kitô hữu, sao để hình thành được những nhóm phụ trách tang lễ".
31.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THÓI GIẢ HÌNH VÀ KHOE KHOANG CỦA KÝ LỤC VÀ BIỆT PHÁI
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Khi ấy Chúa Giêsu nói với dân chúng và môn đồ của Người rằng". Trong Tin Mừng Nhất lãm, Chúa Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với Biệt phái, nhưng với dân chúng và các môn đồ. Điều này thật quan trọng, nó có nghĩa là Người không tấn công chính giáo thuyết Biệt phái, nhưng đúng ra tự đặt mình làm trung gian giữa dân chúng và thủ lãnh xưa nay của họ để giải phóng dân khỏi ách nặng nề mà tinh thần nệ luật của các thủ lãnh ấy đặt trên vai họ. Chắc hẳn vì chính việc chống đối này hơn là vì những điểm đặc thù trong giáo thuyết mà Chúa Giêsu đã bị đẩy vào chỗ chết; đối với các thủ lãnh của dân, Người chẳng những là một tên tà đạo nguy hiểm hay một tên cuồng phái, như nhóm Essêni, những người rất mực khinh bỉ "dân chúng" hay "đám đông” song còn là một kẻ thù trực tiếp chuyên chống lại toàn thể dân Thiên Chúa. Mt nhấn mạnh đến mối tranh chấp này giữa Biệt phái và Chúa Giêsu, vì ông muốn giải thích cho Kitô hữu biết tại sao Chúa Giêsu bị đẩy đến chỗ chết do chính Biệt phái là những kẻ điều khiển sinh hoạt Hội đường vào thời của Người.
"Ngự tòa Môisen": Không nên hiểu động từ "ngự" theo nghĩa bút chiến, như thể Chúa Giêsu quả quyết rằng các Ký lục và Biệt phái chiếm ngự cách trái phép tòa Môisen. Ngược lại bản văn cho thấy là Chúa Giêsu không hề tấn công chính thế chế giáo sĩ, cũng như những kẻ mà Người tố cáo là ký lục giả hiệu. Người khiển trách một điểm khác. Trong Tân ước, từ ngữ kathodra, theo nghĩa tòa giảng sư, chỉ xuất hiện ở đây mà thôi (trong 21, 12 nó có nghĩa là bàn của những người buôn bán); tòa Môisen là tòa của các giáo sĩ, những người có nhiệm vụ giải thích áp dụng bằng cách khai triển luật Môisen.
"Họ nói mà không làm". Trước tiên (nhưng không phải là lần duy nhất), Chúa Giêsu tố cáo địch thủ Người có thái độ bất nhất: giáo huấn họ có giá trị nhưng chính họ lại không trung thành; hữu hiệu tính của giáo huấn họ, trong văn mạch này, mặc hai khía cạnh: một đàng, các giáo sĩ là những người giảng dạy hữu quyền của dân chúng; đàng khác, mọi điều họ nói chẳng phải là sai. Ở đây chúng ta gặp một thái độ đúng là của Do Thái ki tô giáo, chứ không phải là cửa Do thái giáo; vì quả thực, chỗ khác, Chúa Giêsu tấn công chính "men" nghĩa là chính nội dung giáo thuyết giáo sĩ.
Tiếng số nhiều "hành vi của họ" chỉ tất cả tác phong của Biệt phái, chứ không ám chỉ đến một vài thái độ riêng biệt mà Chúa Giêsu khiển trách; ký lục và Biệt phái chẳng phải là gương mẫu xứng đáng của đoàn chiên. Dĩ nhiên, chớ quên rằng đây là một chân dung tập thể, chứ chẳng phải của một cá nhân nào. Vì có nhiều giáo sĩ giữ luật rất tỉ mỉ. Khi cựu Biệt phái Phaolô tự tuyên bố mình vô phương trách cứ trước Lề luật (Pl 3, 6), thì phải nói là ngài rất chân thành. Ở đây, sự nghịch lý là, một cách chính thức, truyền thống giáo sĩ đã luôn luôn nhạy cảm trước sự quàng xiên Chúa Giêsu tố cáo nơi đây: "Học, giữ và thực hành, ngoài ra không cớ gì khác nữa" (Sifré sur le Dt 47), "Ai học mà không thực hành, thì tốt hơn là nó đừng được sinh ra" (Sifré surle Lv 26, 3, 110), "...Torah đã được ban chính là để học, để dạy, để gìn giữ và để chu toàn" (sifré sur les Nb 115), "...Đẹp thay những lời phát xuất từ miệng những người thực hành chúng, đẹp thay người giảng dạy chúng và đẹp thay kẻ đem chúng ra thực hành" (Yebamot 8,4).
"Họ có những gánh nặng": "Gánh nặng" mà Biệt phái chất lên vai người ta đối nghịch với "gánh nhẹ nhàng" của vị Thầy những người khiêm hạ (11, 30). Biểu tượng "gánh" gợi lên hình ảnh một tên nô lệ bị đè bẹp dưới sức nặng của một đồ vật mà người ta đây cột kỹ trên vai y nhưng lại không giúp y vác lấy Động từ "bó" chắc hẳn quy chiếu, theo nghĩa bóng, về các halakhot mà các giáo sĩ dùng để áp đặt cho dân những trói buộc lương tâm theo cách giải thích Kinh thánh của họ. Dầu sao, ở đây Tin Mừng không quan tâm đến tính cách nghiêm khắc của kỷ luật (Mt không ghét bỏ thứ kỷ luật đó cho lắm, x 23, 23), nhưng là đến thói giả hình cố ý tạo nên hai đấu: một đấu thuận lợi cho mình và một đấu đòi hỏi cho kẻ khác. Không phải sự bất lực hay tính yếu đuối của Biệt phái, nhưng là ý định xấu xa của họ bị tố cáo chỗ này (ou thelousin: họ không muốn); ta biết động từ "muốn" là một tràng những thuật ngữ của Mt.
"Mọi việc của họ, họ đều làm để được người ta thấy": Yếu khoản tố cáo thứ hai: tính cách quy ngã của các hành vi Biệt phái làm. ở đây Mt lấy lại chủ đề và ngay cả ngữ vựng của phần thứ hai trong Diễn từ trên núi (6, 1-6. 16- 18). Như thường lệ, ý tưởng chính trước tiên được phát biểu (c. 5a) rồi được khai triển trong một vài thí dụ (c.5b-7).
"Thủ phù": Đây là những hộp nhỏ hình vuông bằng da thuộc hoặc da bò con đựng những giải da dê mịn trên đó ghi 4 bản văn Kinh Thánh: Đnl 11, 13- 22; 6, 4- 9; Xh 13, 11 - 16; Xh 13, 2- 10. Thủ phù mặc một ý nghĩa tôn giáo rất cao nếu ta biết lý tưởng mà nó làm dấu hiệu: ghi nhớ không ngừng kỷ niệm của Lề luật Thiên Chúa và lời cam kết tuân theo luật đó. Từ năm 13 tuổi, trẻ em Do thái mang một thủ phù trên đầu và một ở tay trái vào buổi sáng những ngày thường, lúc giờ cầu nguyện, và đọc lên lời chúc tụng sau đây: "Lạy Giavê Thiên Chúa Vua vũ hoàn, chúc tụng Ngài đã thánh hóa chúng con bằng huấn lệnh Ngài và đã truyền cho chúng con mang lấy thủ phù đây". Bản văn chúng ta ám chỉ đến một thói quen của những người Do thái quá sùng đạo mang thủ phù cả ngày và nới rộng các giải kinh để dễ bề trông thấy. Chúa Giêsu không khiển trách việc các giáo sĩ mang thủ phù, nhưng khiển trách việc họ muốn lấy đó phô trương. Cũng thế đối với các tua áo, một thứ chùm lông (bằng len hay lụa) mà, theo quy định của Lề luật (Ds 15, 37- 39) mọi người Israel tốt đều phải mang ở bốn góc áo ngoài, như một lời nhắc nhở thường xuyên các giới răn, phải đem ra thực hành mà Chúa đã dạy. Biệt phái đã làm to đại các tua ấy vì muốn phô trương ta đây đạo đức.
"Chỗ nhất nơi hội đường": Các chỗ nhất này xây lưng lại với tráp Lề luật và quảy mặt về phía dân chúng.
"Cùng bái chào ngoài công trường": Theo quy luật của giáo sĩ, "người ta phải bái chào kẻ trối vượt hơn mình trong việc hiểu biết Lề luật"; thành thử, ưa được bái chào là ưa được công nhận như là trối vượt kẻ khác.
“Rabbi": Hạn từ hy bá Rab (lớn), vào thời Chúa Giêsu, có nghĩa là "chúa"; người ta thường thêm một tiếp vị ngữ của ngôi thứ nhất: Rabbi (“chúa tôi"). Với thói quen, tiếp vị ngữ này dần dần mất ý nghĩa. Hình như vào hậu bán thế kỷ I, lúc Mt biên soạn Tin Mừng của ông, tiếng "rabbi " này được dùng để chỉ một chức vụ tương đương với chứ("tiến sĩ") và,'trong nghĩa đó, dùng để gọi các thầy dạy tôn giáo và các chuyên viên lừng danh nhất về Lề luật.
"Còn các ngươi": Đối xứng với ba thái độ kiêu căng vừa nêu là ba mệnh lệnh truyền dạy đức đơn sơ cho một nhóm người được chỉ định 8 lần (trong bản hy lạp) bằng đại danh từ "các ngươi". Chắc hẳn tiếng này không quy về dân chúng nói chung, nhưng về các môn đồ (x.c. 1) và qua họ, quy về những người hướng dẫn các cộng đoàn Kitô giáo. Qua cung giọng và lời văn, mấy câu này bổ túc cho "bảng hướng dẫn về đời sống tu đức và mục vụ" của chương 18. Trọng tâm của chúng không nằm trên việc cấm chế mọi phẩm trật trong Giáo Hội, nhưng trên các động từ "chớ cho gọi mình, đừng xưng hô ai "; chúng muốn tấn công chính lòng kính trọng đức giáo sĩ (rabbinat). Trong ngôn ngữ sêmita, "được gọi" thường tương đương với "là Do đấy câu 8 muốn bảo: các người đừng muốn là thầy (x Gc 3, 1), đừng tự đặt mình làm thầy giữa các ngươi, vì "thảy của các ngươi chỉ có một". Nếu lưu ý đến tính cách song đối của c. 10 và văn mạch chung của Tân ước (x.Ga 13, 13-14), thì Thầy duy nhất đó không ai khác hơn là Chúa Kitô.
"Đừng xưng hô ai dưới đất là "cha": Mệnh lệnh này xem ra phản đối thói quen gán cho một vài vị hướng dẫn cộng đoàn tước hiệu Abba cùng trong một ý nghĩa danh dự và xã hội như tước hiệu Rabbi. Rõ ràng là nó không nhắm đến người cha gia đình theo nghĩa đen (x. Mt l5,4-6; 19,19): Mệnh lệnh lại càng không chống đối cái truyền thống kỳ cựu -có nơi mọi dân tộc và trong Thánh Kinh- theo đó giữa thầy và trò phải thiết lập một mối liên hệ tương tự mối liên hệ giữa cha và con, khiến họ thường gọi nhau là "cha" và "con" (x. 2V2,12; Cn 4,1; 1Cr 4, 14-17; Gl 4,19; 2Tm 1,2; Tt 1,4; 1Pr 5,13; 1 Ga 2, 1.12). Chẳng hạn như trong các tiến sĩ Israel của 4 thế kỷ đầu hơn 50 vị được mang tước hiệu "Abba". Vì vậy trong các thể chế Kitô giáo, người ta cũng dùng khá nhiều tước hiệu "cha" dưới mọi hình thức (ví dụ: viện phụ, abbé; Đức Thánh Cha, Pape v.v...) theo nghĩa linh tông ấy. Đấy chẳng phải là đi ngược lại Tin Mừng, vì cái quan trọng là tinh thần chứ không phải chữ viết. Nên lưu ý là ở đây cũng vậy, các câu không nhấn mạnh đến sự phủ nhận mọi quyền bính trong Giáo Hội cho bằng là đến mối nguy tạo nên do những "đại nhân vật" chiếm hết danh dự dành cho Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Ở giữa ba lời khuyến cáo chống Biệt Phái, lý do của chúng được lặp lại ba lần: Chỉ có một... thầy, cha, chỉ đạo). Chiếu theo nguyên tắc ấy, nhân cách của những người lãnh đạo Giáo Hội vừa bị hạ xuống vừa được đề cao: nhân cách đó phải nói lên sự hiện diện của Đấng duy nhất và đồng thời là tấm màn trong suốt không ngăn che Ngài. Cũng thế đối với vị Mục tử duy nhất (Ga), vị Thượng tế duy nhất (Dt). Kitô hữu chỉ xem một con người như thầy, như cha, như thủ lã nh, thư mục tử, như linh mục... trong mức độ con người ấy tham dự vào tư cách của vị Thầy, Cha, Thủ lãnh, Mục tử, Linh mục đích thực.
"Kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên": ý tưởng hạ mình cần phải được giải thích theo ý tưởng phục vụ ở câu trước, vì đây không phải là chuyện tự nhiên ưa thích xóa mình, hay anh hùng phủ nhận bản thân hoặc khiêm nhường đến làm cho mình lụi bại. Theo nghĩa của Tin Mừng, không ai hoạt động và sung sướng vì được hoạt động hơn kẻ phục vụ hết mình. Thì tương lai của 5 động từ vừa có tính cách truyền lệnh (c. 11) vừa có tính cách cánh chung (c. 12): các ngươi phải làm điều đó và Thiên Chúa sẽ trả lại cho các người vào ngày Chung thẩm ("bị hạ xuống" và "được nhắc lên" là những thể thụ động diễn tả hành động của Thiên Chúa). Thành thử các động từ này không mô tả một định luật tâm lý hay xã hội tự nhiên cho rằng định mệnh con người có thể thay đổi.
KẾT LUẬN
Óc tham vọng, tính háo danh nói lên cái tinh thần thống trị của một quyền bính đã tách khỏi nguồn gốc của mình, đã chiếm đoạt những quyền lợi chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa. Khi vạch trần các tính xấu của Hội đường, Chúa Giêsu muốn đề phòng Giáo hội Người cho khỏi nhiễm lây chúng, vì tính cách chính thống, vô hồn, tinh thần câu nệ hình thức, óc giáo sĩ trị bao giờ cũng vẫn là những cám dỗ lớn cho Giáo Hội; Giáo Hội chỉ có thể thoát khỏi chúng khi luôn nhớ rằng mình chỉ là "nữ tỳ của Chúa" (Lc 1, 38), tuân phục một mình vị Chúa độc nhất ấy mà thôi, Đấng không chấp nhận một chia sẻ nào (Mt 6, 24); uy quyền đích thực của Giáo Hội chỉ có khi Giáo Hội biết hạ mình theo gương Chúa Kitô. Đấng vốn là lớn hơn cả nhưng đã hóa thành kẻ bé nhất, là người đầu song đã tự: trở nên kẻ rốt hết, là Thầy và là Chúa nhưng đã trở thành kẻ phục vụ mọi người (Mt 20, 26-27; Lc 22, 24-30; Ga 13, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta cảm thấy gì khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ trích Biệt phái? Phải chăng là thỏa mãn vì nghĩ rằng nó nhắm đúng vào những Biệt phái đời nay mà chúng ta biết rõ? Nhưng đấy không phải là dấu chỉ của một lòng kiêu hãnh nào đó sao, lòng kiêu hãnh muốn quả quyết rằng nhờ ơn Chúa, tôi không thuộc hạng người như vậy? Nếu chúng ta ra khỏi nhà thờ mà trong lòng tự khen mình không phải là Biệt phái, thì đó thật là một dấu hiệu chẳng mấy tốt lành. Môn đồ đích thực của Chúa Giêsu, kẻ biết lòng mình rất yếu đuối và dễ buông theo đàng tội lỗi thì bao giờ cũng hiểu rằng mình đang mang trong người mọi gốc rễ của Biệt phái, hiểu rằng bổn phận đầu tiên của mình là tự tra vấn hơn là tự hỏi ai là Biệt phái trong xứ đạo.
2. Chúng ta cũng vậy, mỗi người tùy theo vai trò xã hội, tuổi tác phái tính, kiến thức, chúng ta đã chẳng từng đòi hỏi một lòng kính trọng nào đó, một sự tán thành công khai, hay hơn nữa, một sự vâng phục và tùng quyền nào đó sao? Thanh danh và tăm tiếng là một điều tốt, nhưng nỗi lắng lo quá độ về tiếng tăm là một chuyện không hay gì. Sự đòi hỏi lòng vâng phục từ phía cha mẹ là một điều tốt khi nó phát xuất từ tinh thần hiền lành và bác ái, nhưng lại trở nên xấu và hoàn toàn có tính cách biệt phái lúc chỉ là một cái cớ để tỏ uy quyền và áp đặt ách thống trị.
3. Khi phê phán và khinh bỉ tha nhân bằng cách đòi hỏi họ phải có một thái độ khác, chúng ta đã đặt một gánh nặng trên vai họ và đồng thời tránh đặt lại vấn đề chính mình rồi. Thật ra, chúng ta có thể nhận ra chính mình trong chân dung Chúa Giêsu mô tả về Biệt phái.
4. Phẩm trật của Nước Trời không ở trong kiến thức cũng chẳng nằm trong khả năng chuyên môn hay trong việc điều khiển, nhưng là trong việc phục vụ. Trong Nước Trời, không ai là chủ, chẳng ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử uy quyền, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ. Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự gọi là "tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa".
5. “Kẻ lớn nhất sẽ là người phục vụ", Chúa Giêsu đã nói thế. Rõ ràng đấy là vấn đề tập luyện một đức khiêm nhường nào đó. Tiếng “sẽ là" chỉ rõ đây là tình trạng mà chúng ta phải đạt cho được chứ chẳng phải là tình trạng tự nhiên. Thành thử chúng ta không thể nào không chống lại cơn cám dỗ muốn thống trị, muốn đè bẹp tha nhân, chống lại cơn cám dỗ muốn tỏ ra mình quan trọng mà làm thiệt hại cho kẻ khác. Tuy nhiên đức khiêm nhường trong phục vụ không phải là việc dẹp bỏ những khả năng tự nhiên hay là sự từ chổi hoạt động và phát triển, nhưng là một thứ tâm trạng, một niềm xác tín rằng mình chỉ là một dụng cụ mà ước muốn duy nhất là trở nên ngoan ngoãn trước sự thúc đẩy của Thánh Thần.
6. Có một tiêu chuẩn cho phép ta nhận biết mình có trung thành với những lời khuyên nhủ khiêm nhường mà Chúa Giêsu vừa ban cho ta không? "Vậy mọi điều họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm theo và giữ lấy" hay nói cách khác: "Các ngươi hãy có đủ lòng đói khát sự thật và công chính để phân biệt điều thiện bất cứ đèn từ đâu". Một Kitô hữu thật sự khiêm nhượng không bao giờ từ chối lời lành của một người nào đó, lấy cớ rằng kẻ ấy chẳng sống phù hợp với lời họ bảo, rằng họ giả hình hay khoe khoang. Vì Chúa có thể dùng họ để làm cho chúng ta tốt hơn.
32.Chú giải của Noel Quesson
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ...
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên "thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy". Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. " Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi".
Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.
Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này... không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là "cha"! Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.
Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là "thầy", bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị "Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?
33.Làm chứng cho Chúa--Lm. Thu Băng, CRM
Thánh Phanxicô nói với một thầy Dòng ngài: Chúng ta cùng đi giảng đạo chiều nay. Thế rồi sau một buổi chiều rảo quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai cha con trở về, ngồi bệt xuống ghế, hổn hển thở hơi tai. Ngài buông lời: Tạ ơn Chúa rồi lại im lặng. Thầy tùy tùng mới cất tiếng hỏi: Thưa cha, cha nói đi giảng đạo mà con có thấy cha giảng gì đâu. Ngài mìm cười trả lời: Chính cách đi đứng tử tế, nói năng thưa hỏi kẻ qua đường một cách đoan trang, lễ phép, chính cách cư xử bác ái, chân thành và ân cần giúp đỡ mọi người của chúng ta, là một bài giảng hùng hồn, và đánh động nhất đó con. Chúng ta đã giảng bằng chính gương sống của mình rồi.
Việt Nam có câu: Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Là cách diễn tả bằng thực hành nhiều hơn là bằng rao giảng. Có một nhà nghiên cứu xã hội làm một bản trắc nghiệm và phỏng vấn. Ông cho hay: tám mươi phần trăm người trả lời: Xem gương người xưa đã sống và đã làm.
Chúa trách cứ người Pharisiêu, và các thầy thông luật chỉ chú tâm vào nghĩa chữ mà không thực hành: Họ chỉ tay mà không làm. Họ bó cho người khác gánh còn họ không hề đưa ngón tay lay thử. Hỏi trong gia đình, chúng ta phục ai, thương ai, nếu không phải là người có lòng quán xuyến mọi việc, có chân tay mau rảo, có việc làm luôn tay luôn chân, có tâm hồn đạo hạnh, có tấm lòng rộng rãi, cởi mở...... Hỏi trong gia đình chúng ta ghét ai nhất: Nếu không phải là kẻ hay nói đổng, lắm mồm, nói dai và đay nghiến mà không chạy việc.
Nhìn vào gương người xưa có đủ mọi khía cạnh gương sáng cho chúng ta soi. Họ là những nhân chứng của Tin Mừng, của nước trời: Nhân chứng đức tin như ông Abraham giết con. Nhân chứng thứ tha như vua Davít cắt vạt áo vua khi vua cho ông là kẻ thù. Nhân chứng lề luật như Daniel trong lò lửa không chịu ăn thịt. Nhân chức trong sạch như Maisen đẹp trai và hoàng hậu Pharao mê sắc. Nhân chứng giữ đạo như bảy con của bà Macabêu bị hành quyết. Nhân chứng hy sinh cho đồng loại như Đức Cha Cassaigne, Thánh Damien tông đồ người hủi, Mẹ Têrêsa Ấn Độ. Nhân chứng gia đình như Đức Mẹ và thánh Giuse thành Nazareth. Nhân chứng từ bỏ như hoàng hậu Elzabeth, như Phanxicô khó khăn tụt áo sống trả lại cha trước quan tòa.
Thật đáng ca ngợi những bậc cha mẹ luôn nêu gương cho con cái. Đáng ca ngợi những người con sống và giữ theo lời cha mẹ khuyên dạy. Đáng ca ngợi những bậc ông bà sống đạo cho các con cháu thấy, nghe và bắt chước. Sống và thực hành như vậy chắc chắn các ngài sẽ bị phản đối, bị công kích, bị chê bai, bị kết án là khác đời. Nhưng các ngài sẽ giúp con cháu can đảm chấp nhận và vươn lên khỏi những nếp sống đê hèn đè bẹp cuộc sống. Sống như vậy các ngài đã nên tấm gương sáng ngời cho thế hệ mai sau và không sống như vậy sẽ không có các thánh trên trời.
34.Chớ giả hình, kiêu ngạo--Br Vincent Quốc Thanh
Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi tiếng nhân đức. Khi biết mình sắp lìa cõi đời, thầy xin Bề trên dòng đến ban các Bí tích sau cùng. Tình cờ một tên trộm khét tiếng trong vùng cũng đến chỗ của thầy ẩn tu. Thấy thầy cả làm các phép trong đạo, tên ăn trộm động lòng thống hối và được ơn trở lại. Cho mình không xứng đáng vào phòng thầy ẩn tu, hắn chỉ đứng ngoài và kêu lên: "Ôi, chớ gì tôi được phúc như thầy". Thầy ẩn tu nghe thấy lấy làm đắc ý và đáp lại: "Ừ, thật đó, giả mày được giống như tao, thì còn phúc nào bằng."
Rồi tên ăn trộm liền chạy đi xưng tội. Nhưng vì chạy mau quá, nên đâm đầu xuống vực thẵm mà chết. Vị ẩn tu được tiếng là nhân đức cũng chết sau một vài ngày. Một thầy ẩn tu khác trước vốn ở chung với thầy này khóc thương cho bạn mình, nhưng lại vui cho kẻ trộm đã chết. Có người hỏi tại sao, thì thầy trả lời: " Người trộm chắc được rỗi linh hồn vì đã có lòng ăn năn tội. Còn thầy ẩn tu đã hư đi đời đời vì kiêu ngạo."
Thầy ẩn tu trong chuyện thuộc vào loại thầy " nói mà không làm" (Mt 23,3). Thầy làm những việc nhân đức cốt để cho người ta trông thấy và khen ngợi. Thầy thích được gọi là "Rabbi " (thầy hoặc vĩ nhân) nơi công cộng và chiếm chỗ nhất trong đám tiệc. Khoác áo nhà tu, nhưng không có tinh thần tu trì, thầy mắc hai lỗi lớn trong đường thiêng liêng: giả hình và kiêu ngạo.
Tại sao thánh sử Matthêu lại chống việc gọi các vị lãnh đạo tinh thần là " thầy" hoặc "cha"? Tiếng "Rabbi" được dùng vào khoảng năm 60-80 A.D. để chỉ về những vị thầy Do Thái có quyền giảng dạy luật Môisen. Theo mạch văn và theo hoàn cảnh lịch sử, thánh sử Matthêu chống lại những vị lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ hơn là danh xưng. Ông Saul Ben Batnith (ca.80-120) là vị lãnh đạo tinh thần đầu tiên dùng danh xưng Abba, "cha". Mặc dầu Thánh kinh ngăn cản việc dùng danh xưng này, nhiều vị ẩn tu đã dùng danh xưng Abba để chỉ về những người cha tinh thần.
Theo Cha Benedict T. Viviano, OP., nhà chú giải Thánh kinh, những Kitô hữu tin chỉ có một Cha trên trời và một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, cũng có những vị " cha" và "thầy" giữ vai trò chuyển tiếp (transitory role). Những vị "cha" và "thầy" đó giúp cho những người theo Chúa hiểu về người Cha nhân lành và vị Thầy khả ái là Chúa Giêsu Kitô. Những vị "cha" hay "thầy" chuyển tiếp này nên được gọi là "ngôn sứ, hiền nhân, và kinh sư". (Mt 23,34)
Vấn đề ở đây không phải là dùng danh xưng nào cho chỉnh hơn, nhưng là làm sao để sống đúng với danh xưng của mình. Nếu mình là " cha" hoặc "thầy" thì phải làm sao cho đời sống nội tâm phù hợp với danh tính và cử điệu bên ngoài của mình. Càng ý thức mình là những vị lãnh đạo tinh thần của dân Chúa, "cha" và "thầy" càng phải hại mình xuống và phục vụ hết sức mình (Mt 23,11). Nếu được thế thì chắc chắn người Cha trên trời sẽ được kính mến và vị Tôn sư duy nhất sẽ được tôn vinh.
35.Phục vụ--Lm. Joshepus Quang
Nhìn vào đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua cái chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người: rao giảng Nước Trời, chữa lành tật bệnh, tha tội, chúc lành cho trẻ em, dạy dỗ các môn đệ, rửa chân cho các môn đệ và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15) nữa, rồi chịu nạn chịu chết để cứu độ muôn người. Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Phục vụ của Chúa Giêsu là thế, còn chúng ta có làm được như thế với một kẻ phản bội mình, từng làm mình khổ trăm bề, chúng ta có khả năng tươi cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không. Đừng lo là mình không làm được! Chúa Giêsu ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc chúng ta kết hiệp với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,56-57).
Rõ ràng rằng động lực giúp chúng ta phục vụ tha nhân đó là tình yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Qủa thế, một buổi nói chuyện của Thánh Têrêxa Calcutta trước Hội Nghị Quốc Tế về Thánh Thể tại Nairobi, Kenya, năm 1985, Thánh nữ đã nói rằng Đức Giêsu đến với chúng ta vì mục đích: “Để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta thật quý giá đối với Người. Chúng ta đã được tạo dựng để yêu thương và được yêu thương, và chúng ta phải yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta, như Chúa Cha yêu thương Người”. Mẹ nói tiếp: “Thập giá và nhà tạm, như hai biểu tượng cụ thể cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại: Khi nhìn lên thập giá, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến thế nào. Và khi nhìn lên nhà tạm, chúng ta biết rằng Người vẫn ở đó để yêu thương chúng ta như thế nào. Mối liên kết mật thiết giữa nỗi đau khổ của Đức Kitô và sự hiện diện của Đức Giêsu trong nhà tạm đổ tràn đầy vào nỗi đau khổ trên thế giới. Đức Giêsu đã tự biến mình thành Tấm Bánh ban Sự Sống, hầu làm thỏa mãn nỗi đói khát của chúng ta về tình yêu. Và như thể việc này vẫn không đủ đối với Người, nên Người còn tự biến mình thành một kẻ đói khát, trần truồng, khiêm tốn nhất, những người đau yếu, nghèo khổ, không được ai cần đến, không được yêu thương, những kẻ phong hủi, nghiện ma túy, nghiện rượu, các cô gái điếm… để chúng ta phục vụ”.
Như thế, Thánh Thể chính là tình yêu hy tế mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, để được ăn vào và tiêu hóa, và trở thành một phần trong con người chúng ta. Khi chúng ta đón rước Thánh Thể, thì chúng ta được Thiên Chúa ban sức mạnh để yêu mến và phục vụ những người khác, với cùng tình yêu mà Đức Kitô đã bày tỏ cho chúng ta. Bằng cách này, bí tích Thánh Thể giúp chúng ta mang tình yêu của Đức Kitô và thúc bách chúng ta đến phục vụ mọi người vì chính Chúa Giêsu cũng hiện diện nơi họ. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi”. Còn Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, nói rằng: “Hội Thánh “đi ra” dấn thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Thiên Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề vào mà an ủi nâng đỡ họ. Nếu chúng ta thực hành, thì phúc cho chúng ta!” (Số 24).
Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Để phục vụ, chúng ta cần xóa mình, xoá những chức vụ, địa vị, những đặc quyền, hay đặc ân mình có. Phục vụ không phải là chuyện nhục nhã, luồn cúi hay nhút nhát nhưng là vinh dự, là một mối phúc. Chúa Giêsu nói: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13,16). Có nghĩa rằng Chúa Giêsu là người sai tôi đi, mà người sai tôi đi đã cúi mình xuống phục vụ thì tôi không thể làm khác được.
Ở đời này, ai ai cũng có cao vọng làm lớn, muốn có uy quyền, có tiền… điều đó không sai trái, nhưng chúng ta có được những thứ đó không phải bằng những hành vi giang hồ mà bằng nỗ lực chân chính của mình. Và khi ta có chúng, chúng ta sử dụng chúng đúng với mục tiêu xứng hợp với nhân phẩm của mình, đúng với luật tự nhiên và luật Chúa. Đừng vì chúng mà tranh cãi nhau, xâu xé nhau, đối xử với nhau một cách bất công và tàn nhẫn. Chúa Giêsu không hủy bỏ cao vọng của con người nhưng khẳng định rằng cao vọng không phải là thống trị, đàn áp người khác nhưng là hạ mình phục vụ Chúa và tha nhân. Cho nên, Thánh Giacôbê dạy: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3,16-17).
Để kết thúc bài chia sẻ, tôi xin mời cộng đoàn cùng nhau hát bài hát “Kinh hoà bình” như một lời cầu nguyện của chúng ta để xin Chúa cho chúng ta sống Lời Chúa hôm nay trong cuộc sống này: Lạy Chúa từ nhân....
36.Sống thật--Trầm Thiên Thu
Thời gian tưởng chừng bao la vô tận nhưng nó lại ngắn dần, ngắn dần... Một năm đang từ từ khép lại. Năm Phụng vụ cũng chuẩn bị kết thúc, nhắc chúng ta về sự kết thúc cuộc đời: Chết. Đặc biệt là sự kết thúc thế gian: Tận Thế. Càng về cuối Năm Phụng Vụ, Giáo hội cho chúng ta nghe lại những đoạn Phúc Âm mang màu sắc “lạ” hơn với những lời Chúa Giêsu khiển trách “rát” hơn: Giả hình.
Sống thật là điều thật là khó. Phải thực sự can đảm mới có thể dám “sống thật” với một lương-tâm-chân-chính. Trong cuộc sống thường nhật, mỗi khi muốn “chứng tỏ” mình để người khác tin mình, người ta thường nói: “Tôi không như người ta đâu, tôi thật lòng lắm, hiền lắm, chịu đựng lắm,...”. Nhưng kinh tởm thay, khi người ta “nói thật” như vậy lại chính là lúc người ta đang giả dối – giả dối với người khác và giả dối với chính mình. Đó là dạng Pharisêu thời @ đấy thôi! Vì ảo tưởng mà người ta giả dối, ảo tưởng là “lừa gạt chính mình” (Gl 6:3).
Đối với những điều xấu xa, bê bối, lén lút,... Thánh Phaolô nói thẳng: “Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:11). Đây là một trong các câu Kinh Thánh khiến người ta “dị ứng”, không muốn “ngó” tới!
Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta là Đức Vua cao cả, và danh Ta được kính sợ giữa chư dân” (Ml 1:14b). Như một phương trình phải có hai vế cân đối, Thiên Chúa đưa ra vế thứ hai là một lời cảnh báo: “Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ khiến các ngươi mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ. Phải, Ta biến phúc lành ấy thành tai hoạ, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả” (Ml 2:2). Đây không là lời hù dọa, mà là sự công bằng, là sự thật minh nhiên.
Ngài tỏ tường mọi sự, biết rõ lòng ai thế nào, sống giả dối hoặc chân thật, nhất là đối với những người có chức, có quyền: “Nhưng các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với Lê-vi. Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng Luật. Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta?” (Ml 2:8-10).
Định kiến, thiên vị hoặc phe cánh là “độc tố” của cuộc sống, nhất là đối với đời sống tôn giáo. Đó là “ngôn hành bất nhất” – nói một đường làm một nẻo, hoặc nói hay mà làm dở ẹc, thậm chí nói người khác làm chứ mình không làm. Đây không là một hiện tượng, nhưng là một tình trạng tệ hại vẫn thấy xảy ra nhiều nơi – cả giáo xứ và dòng tu.
Những người như vậy là kiêu ngạo, ỷ thế cậy quyền, ảo tưởng, và không thèm nhớ câu Chúa Giêsu nói: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Do đó mà họ vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh biết mình là ai nên đã khiêm nhường: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu. Hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131:1-2).
Đó là tinh thần thơ ấu tâm linh mà Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã áp dụng tuyệt đối. Chính Chúa Giêsu rất thích trẻ thơ (x. Mt 19:13-15; Mc 10:13-16; Lc 18:15-17). Sống như vậy là sống khôn ngoan, là cách sống thật sẽ được Thiên Chúa chúc phúc.
Trong tinh thần đó, Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh” (Ep 1:17-18).
Là Tông đồ, có cả chức và quyền, nhưng Thánh Phaolô không tự cho mình cái quyền được tôn trọng: “Trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Kitô. Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi. Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em” (1 Tx 2:7-9). Ngày nay thì sao? Dĩ nhiên cũng vẫn có những người biết “vì người khác” như vậy, nhưng cũng không thiếu những người thích dùng quyền và chỉ tay năm ngón.
Trong bài viết “Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay”, ĐGM G.B. Bùi Tuần chia sẻ thẳng thắn: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa”.
Ngày xưa, Thánh Phaolô đã nói rõ: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Đáng sợ quá!
Thánh Phaolô chia sẻ: “Về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu” (1 Tx 2:13). Ước gì điều chia sẻ này của Thánh Phaolô là thực tế minh nhiên trong các cộng đoàn Kitô hữu, dù cộng đoàn lớn hoặc nhỏ. Để được xứng danh là Kitô hữu thì không là chuyện đơn giản, phải CÓ thật chứ không thể CÓ giả!
Mt 23:1-12 là trình thuật khiến nhiều người “ngại” tiếp cận, không chỉ không thích mà còn… “khó chịu” – nhất là những người có quyền “ăn trên, ngồi trước” (đạo cũng như đời): “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy” (Mt 23:2). Sao vậy nhỉ? Lý do rất đơn giản: Lời Chúa nói thẳng quá, nói rõ quá, nói “toạc móng heo” luôn, chẳng “úp mở” chi cả. Thầy Giêsu luôn thế đấy! “Thuận ngôn” thì thường khiến “nghịch nhĩ”, người không chính trực sẽ “dị ứng” ngay thôi. Chắc hẳn đây là một trong những đoạn Phúc âm mà người ta “ngại” đọc nhất, có đọc thì cũng chỉ “lướt qua”, tìm cách “nói lái” hoặc “né tránh” sao đó. Miễn cưỡng vì… bị lúng túng!
Nói dễ, làm khó. Tất nhiên là “nói trước” đôi khi “bước không qua”. Theo đạo hoặc theo Chúa cũng có nhiều dạng, một trong các dạng là “nhãn hiệu”. Vâng, chỉ có cái “mác” thôi. Ngày nay, những thứ ghi Made in USA hoặc Made in Japan khiến người ta tin tưởng hơn Made in Vietnam, dù chất lượng chưa chắc hơn, nhất là bất cứ thứ gì ghi Made in China đều khiến người ta “rùng mình” và tẩy chay ngay lập tức!
Thường thì người ta có xu hướng thích “nói suông” thôi, “hành động” thì còn... xét lại. Ở nơi nọ hoặc nơi kia vẫn thấy có những “siêu nhân”, không chỉ nói suông mà còn “chỉ tay năm ngón”, đùn đẩy trách nhiệm, hạt muối cắn đôi nhưng hạt đường ăn cả, tình trạng của nhóm Pharisêu mà Chúa Giêsu đã chỉ trích gay gắt: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23:4). Họ không muốn nhận trách nhiệm nhưng lại đòi nhiều quyền lợi. Lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai làm lớn phải phục vụ” (x. Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) và “người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23:11). Lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6:2). Đó là những lời người ta không muốn nhắc tới. Đôi khi Chúa cũng bị hàm oan, vì người ta cứ lợi dụng lòng tốt của Chúa, rất có thể người ta còn dám nhân danh Chúa mà đàn áp người khác. Cờ đến tay ai thì người đó phất. Người ta vẫn nói thế đấy!
Về những người có chức, có quyền, muốn chứng tỏ mình tốt lành, Chúa Giêsu “mách nước” cho chúng ta: “Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23:3). Rất nhiều khi chúng ta tỏ ra nghiêm túc, nói chuyện đạo đức, đi tới nơi này nơi nọ để làm việc từ thiện bằng vài bao quần áo cũ, vài thùng mì ăn liền, cho người ta ít tiền, dăm ba đồ lặt vặt,… và thế là tưởng mình “ngon ăn”, nhưng thực chất chưa chắc vì thấy chính Chúa nơi những con người nghèo khổ, những con người sa cơ lỡ vận kia, nhưng có thể cũng chỉ là dạng mà Chúa Giêsu đã vạch trần: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là Thầy” (Mt 23:4-7).
Đồ từ thiện đó có phải là đồ do chính mình hy sinh hay là đồ thừa? Coi chừng chỉ là phế phẩm, thay vì vứt đi thì chúng ta đem “tặng” cho họ, rồi oang oang nói là “làm từ thiện”. Như vậy có phải là bác ái đúng nghĩa? Còn lâu, may ra thì chỉ ở mức bố thí hoặc công bằng. Chân phước Mẹ Teresa Calcutta (28/8/1919 – 5/9/1997), sáng lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity), đưa ra nguyên tắc sống: “Yêu là cho đi đến khi cảm thấy đau”. Yêu vậy mới là bác ái đúng như Chúa dạy. Khó lắm chứ chẳng đơn giản hoặc nông cạn như chúng ta tưởng đâu!
Thánh Phaolô đã phân tích: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Thật độc đáo khi người Pháp nói: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối kẻ khác”. Người ta giả hình chỉ vì họ trọng hình thức bề ngoài và ảo tưởng, nhưng hãy coi chừng: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình” (Gl 6:3). Quả thật, “con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (Lc 16:8). Thật đáng sợ vì xuất hiện càng ngày càng nhiều thứ giả!
Chúa Giêsu nói nhiều điều “khó lọt tai”, điều này rồi điều kia. Chúng ta chê chế độ phong kiến vì cứ phải “kính, bẩm, thưa, trình”, nhưng ai dám “nói thẳng, nói thật”, không luồn cúi, thì bị “ghét”, bị xa lánh. Ai dám “săm soi” cái-ghế-toàn-năng của người khác thì “có chuyện” ngay. Chuyện đời xưa nay vẫn thế, và chuyện nhà đạo cũng có khác gì đâu!
Chúa Giêsu không bao giờ “vòng vo tam quốc”, bất cứ ai không sống thật đều bị Ngài “phang” tới bến: “Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay” (Lc 11:44). Kinh khủng thật, nhưng rất “đã ngứa”. Người ta giết Chúa Giêsu chết thảm thương chỉ vì Ngài dám nói thẳng, dám “ý kiến, ý cò”, dám “chỉ trích” người khác, dám “chạm” vào chỗ “nhạy cảm” của những “người lớn” (vừa có chức vừa có quyền).
Có nên sống thật, và sống thật như thế nào? Đó là nỗi băn khoăn không của riêng ai. Với câu hỏi đó, chắc chắn ai cũng có thể trả lời: “Rất nên”. Tuy nhiên, có thể hiện cách sống thật hay không mới là vấn đề. Cần phải can đảm và dứt khoát. Đó cũng là một cách “từ bỏ mình” theo ý Chúa muốn!
Lạy Thiên Chúa của chân lý, công minh và chính trực, xin xót thương chúng con là những kẻ tội lỗi (Lc 18:13), xin giúp chúng con can đảm tẩy não cho đúng Ý Ngài, luôn làm đúng với những gì chúng con nói. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
37.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Sau một loạt đụng độ giữa nhóm Luật sĩ và Biệt phái với Đức Giêsu, hôm nay Ngài nhắc nhở thái độ của các môn đệ và dân chúng đối với họ như thế nào?
1. Làm và tuân giữ theo lời nói của họ
Đức Giêsu luôn tôn trọng những người lãnh đạo thời bấy giờ, nhất là những người lãnh đạo về mặt tôn giáo như các Luật sĩ và Biệt phái. Ngài tôn trọng quyền giáo huấn của họ, vì họ “ngồi trên tòa MôiSen”, nghĩa là họ là những người kế vị MôiSen, họ có quyền giải thích luật MôiSen, họ được trao phó quyền để dạy dỗ dân chúng. Vì thế, Ngài bảo các môn đệ và dân chúng nghe theo lời dạy dỗ của họ: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ”(x. Mt 23,2-3).
2. Đừng noi theo hành vi của họ
Tuy vậy, Đức Giêsu lại khuyên các môn đệ và dân chúng “đừng noi theo hành vi của họ”(x. Mt 23, 2-3). Bời vì: “Họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’.” (x. Mt 23,3-7).
Họ nói mà không làm: “Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử”(Mt 23,4). Bó nặng ở đây chính là luật lệ. Lúc đầu Thiên Chúa chỉ ban truyền cho Môsen Thập điều. Qua thời gian họ đã thêm thắt lên tới 613 điều, đến nỗi không biết điều nào là chính điều nào là phụ. Trong các điều luật đó, họ đưa ra nhiều thứ luật lệ hết sức vô lý. Họ không tuân giữ nhưng họ lại bắt ép dân chúng tuân giữ. Tương tự như trong xã hội chúng ta đang sống: Nhà nước sinh ra nhiều luật lệ nhưng chỉ áp đặt cho thường dân, còn quan chức thì dung túng. Chẳng hạn: Hai thiếu niên cướp bánh mỳ thì bị đưa ra xét xử, còn quan chức tham nhũng cả hàng nghìn tỉ đồng thì lại chỉ bị kỷ luật.
Họ hám danh tranh lợi: “Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo”(Mt 23,5).
* Nới rộng thẻ kinh: Nguyên việc đeo thẻ kinh không xấu mà trái lại còn rất tốt, vì người Do thái thường làm như thế để nhắc nhở mình nhớ đến luật Chúa. Nhưng cái không tốt và trở thành thói xấu nơi những người Luật sĩ và Biệt phái là vì họ cố ý làm thẻ kinh rộng hơn, dài hơn, thậm chí là nét chữ đậm hơn không phải nhắc nhở họ tuân giữ luật mà để cho người ta thấy họ đạo đức.
* May dài tua áo: Việc mang tua áo nhắc nhở người Do Thái nhớ đến các giới răn. Vì thế, người Do thái mang tua áo không phải là xấu. Chính Đức Giêsu cũng mang tua áo. Nhưng tại sao nơi những người Biệt phái và Luật sĩ lại trở thành xấu? Bởi vì họ tăng kích thước dài hơn bình thường nhằm mục đích để khoe mình đạo đức.
Họ muốn được tôn trọng và ưu đại nơi công cộng: “Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’.” (Mt 23,6-7). Người Việt Nam chúng ta tôn trọng những vị cao tuổi và những người có địa vị trong xã hội và Giáo hội. Cho nên, mỗi khi có đám tiệc hay hội họp, người ta thường dựa vào tuổi tác và địa vị để sắp xếp chỗ ngồi. Còn khi ra đường gặp nhau thì người dưới có bổn phận phải chào hỏi người trên. Phong tục này rất nhân văn. Ở Do thái cũng tương tự như vậy. Nhưng, tại sao Đức Giêsu lại lên án những người Luật sĩ và Biệt phái? Bởi vì: Họ muốn được chỗ nhất; Họ muốn được chào hỏi; Họ muốn được người ta xưng hô là Thầy. Động từ “muốn” ở đây diễn tả sự thiếu khiêm tốn của họ. Chức vụ họ có được là nhờ cộng đoàn, nhờ Thiên Chúa ban cho. Họ có trách nhiệm dùng chức vụ để phục vụ chứ không phải để bắt người khác tôn trọng mình. Vì thế, Đức Giêsu đã lên ái thói xấu hay khoe khoang, muốn được người ta tôn trọng và ưu đại nơi công cộng của họ.
Ngoài những thói xấu trên đây, Đức Giêsu đã từng lên án nhiều thói xấu khác của các Luật sĩ và Biệt phái, nhất là thói giả hình. Ngài ví họ “giống như mồ mả tô vôi” (x. Mt 23,27).
3. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, tôn trọng và lắng nghe các vị lãnh đạo: Trước những vị lãnh đạo được trao quyền chính thức trong đạo ngoài đời, chúng ta phải tôn trọng, lắng nghe và thực hành theo những lời dạy bảo của họ. Các vị lãnh đạo đó có thể là Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh mục, Bề trên cộng đoàn, cha mẹ, chính quyền hợp pháp…Vì khi họ dạy bảo nhân danh chức vụ thì đó là tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta lắng nghe và thực hành lời họ dạy bảo là chúng ta đang làm theo ý Chúa.
Thứ hai, hãy sống thành thật: Giả hình, gian dối không chỉ là thái độ của các luật sĩ và biệt phái ngày xưa mà nó còn len lỏi vào các môi trường sống của chúng ta ngày hôm nay. Thật vậy, ngày hôm nay sự giả hình, gian dối len lỏi vào trong mọi lãnh vực của xã hội và giáo hội. Thậm chí, sự gian dối giả hình có mặt ngay chính nơi các trường học. Một kết quả điều tra không gây bất ngờ nhưng khiến nhiều người lo lắng: Tỉ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp I (Tiểu học) là 22%, cấp II (THCS) là 50%, cấp III (THPT) là 64% còn ở sinh viên là 80%. Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống trung thực trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người: “Có thì nói có, không thì nói không còn gian dối là do ma quỷ mà ra.”(Mt 5,37).
Thứ ba, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau: Đức Giêsu đã tố cáo các Luật sĩ và Biệt phái: “nói mà không làm.” Nhưng nếu Đức Giêsu sống trong thời đại chúng ta, chắc chắn Ngài cũng tố cáo thái độ nói mà không làm của nhiều người trong chúng ta, nhất là các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội. Sự thất hứa của vị chủ tịch Hà nội đối với nhân dân Đồng Tâm cách đây không lâu là một bằng chứng. Cho nên, sứ điệp Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta ngôn hành phải đồng nhất, lời nói và việc làm phải luôn đi đôi với nhau.
Thứ tư, phải sống khiêm nhường: Chức vụ trong đạo ngoài đời là do Chúa và những người khác ủy thác. Hãy dùng chức vụ đó để phục vụ những người thuộc về mình trong khiêm tốn, chứ không phải bắt người khác phục vụ hay tôn trọng mình. Hãy sống khiêm nhường, tránh xa kiêu ngạo. Vì Chúa thích kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo. Ngài đã từng nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).
Lạy Chúa, xin cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội luôn biết lánh xa những lỗi lầm khuyết điểm của các Luật sĩ và Biệt phái ngày xưa là: hám danh, tranh lợi, khắt khe với mọi người. Đồng thời, xin Chúa giúp họ noi theo vị Lãnh đạo tối cao là Đức Giêsu, không chỉ hướng dẫn dân chúng bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống gương mẫu của mình trong tinh thần phục vụ và hy sinh. Amen.
38.Suy niệm của Lm. John Trần Khả
Một bà đến thưa với vị linh mục: "Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được."
Cha hỏi: "Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?"
Bà trả lời, "Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: 'Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!"
Nghe như thế, cha nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'"
Chúng ta không ai có thiện cảm với những người nói mà không làm. Chúng ta càng ghét những người giả dối bề ngoài nói thánh nói tướng lên mặt đạo đức giảng cho người khác, nhưng đời sống riêng tư của họ lại bê bối không sống theo điều họ rao giảng. Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải tránh lối sống giả dối ngôn hành bất thuận như thế. Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Malakia để cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã hủy bỏ giao ước; sống vị nể, và đi sai đường lối làm cho nhiều người vấp phạm. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc phê bình những người Biệt phái và Pharisiêu là giả hình, vì họ đã sống quá xa lạ với những lời họ giảng dạy. Họ nói một đàng làm một nẻo.
Thái Độ Của Luật Sĩ và Biệt Phái
Luật Sĩ là những nhà chuyên môn về luật. Họ là những người được tuyển chọn làm tư tế, và làm thầy dạy thiên hạ. Pharisiêu là những người biệt phái; tuy họ không phải là những người được học có bằng cấp cao, không phải là tư tế, nhưng họ là những người được biệt phái làm đầu trong dân. Họ tận tình và tỉ mỉ giữ lề luật. Họ rất hãnh diện về địa vị lãnh đạo trong tôn giáo, về sự yêu mến tôn trọng lề luật và lòng sùng đạo của họ. Họ thích được nhìn nhận và được coi là gương mẫu cho thiên hạ. Họ muốn tài năng của họ phải được người khác nhận ra và được ngưỡng mộ cũng như được tưởng thưởng xứng đáng. Họ chuộng được người khác chú ý.
Chúa Giêsu nhìn thấu tỏ lòng dạ của các Luật Sĩ và Biệt phái. Ngài biết là họ không rao giảng Thiên Chúa mà là rao giảng chính họ và những kiến thức hiểu biết của họ. Hiện tượng dài dòng kinh kệ và mặc áo tua rua chỉ là sự trình diễn phô trương, bởi vì trong thực tế họ đã lơ là hay bỏ qua tinh thần đức tin, sự công bình và lòng nhân ái. Họ trống rỗng và nông cạn, không tốt lành và cũng chẳng thánh thiện. Lối sống của họ là lối sống tìm sự vinh hoa giả tạo cho bản thân, chú trọng đến bề ngoài và nặng tinh thần thế tục.
Nói cách khác, họ đã nói những bài nói đạo đức, nhưng đã không bước đi trên con đường đạo đức. Họ trình bày những nguyên tắc sống đạo, nhưng lại không sống đạo. Họ nói thánh nhưng không sống thánh. Họ thích đứng nơi công cộng để được chú ý và được kính trọng, nhưng lại không có những tư cách xứng đáng để được kính trọng. Họ thích được ngồi bàn trên và chỗ danh dự, thích được gọi là thầy, nhưng lại không có tư cách của một vị thầy. Kết quả là việc rao giảng của họ tạo ra nhiều khuấy động rối loạn và sai lạc; gây đau khổ và thiệt hại cho nhiều người. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự giả dối của ho, và Ngài đã không ngần ngại lên án lối sống giả tạo và giả hình như thế.
Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta chỉ phân tích và nhận định thái độ của những người Biệt phái và Pharisiêu. Trong một cách nào đó chúng ta cũng có những hình thức và lối sống kiêu ngạo, và giả hình của Pharisiêu.
Loại giả hình thứ nhất là nói mà không làm đúng theo lời mình nói. Rất ít người trong chúng ta dám nói rằng chúng ta đã thực hành tất cả những gì chúng ta nói hay những điều chúng ta tin. Chúng ta cũng dễ dàng mặc cho mình những cái tốt đẹp bề ngoài. Chúng ta tô điểm cho cái tôi xã hội, cái tôi công cộng một vẻ bề ngoài thật lịch sự, đạo đức, liêm sỉ hơn với con người thực sự của chúng ta. Hoặc nhiều khi lòng chúng ta không trong sáng đủ để sống với một chủ đích là tìm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta còn tìm mình và tìm hư danh cho mình.
Loại giả hình thứ hai xấu xa hơn một khi chúng ta không những không thực hành mà còn không tin cả những điều chúng ta rao giảng. Chúng ta công bố lớn tiếng nơi công cộng chỉ vì chúng ta muốn lấy lòng người nghe và chiêu mộ người ta để đạt tư lợi. Chúng ta nói hay, giảng hay, tô điểm bề ngoài với những cử chỉ đạo đức thanh liêm để che mặt thiên hạ, nhưng trong lòng không tin nhận. Rồi trong đời sống tư lại có một lối sống ngược lại với những gì chúng ta rao giảng. Chúng ta lên án người này người kia sống bê tha tội lỗi, trong khi chính mình cũng vụng trộm tình nghĩa lăng nhăng, hoặc kín đáo làm những điều vô luân bất nghĩa, bất chính. Hoặc với người ngoài và với khách hàng thì chúng ta lịch sự khiêm tốn để chiếm được cảm tình của người ta, nhưng khi trở về nhà thì chúng ta lại không đối xử lịch sự với những người thân trong gia đình; chúng ta đánh đập hành hung hay chửi bới con cái... Sống như thế có nghĩa là còn giả hình. Sống như thế là sống hai lòng, hai mặt. Sống như thế là vừa kiêu ngạo vừa lừa bịp. Và Chúa Giêsu không bị lừa bởi tất cả những lớp vỏ bề ngoài giả hình như thế.
Tinh Thần Người Môn Đệ Chúa Kitô
Chúa Kitô đòi các môn đệ của Ngài phải sống điều mình rao giảng. Không ai được muốn người khác gọi mình là thầy hay là cha. Tất cả là anh chị em với nhau. Hơn thế nữa những người môn đệ của Chúa Giêsu phải biết quý trọng và chú ý đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Lời của Chúa Giêsu là một thách đố cho tất cả mọi Kitô hữu về tinh thần sống đạo và làm chứng về niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, một người ở Port Arthur, TX biên thư thắc mắc về việc tại sao Giáo Hội lại bắt giáo dân gọi các linh mục là 'cha' trong khi Chúa Giêsu lại nói là đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha trên trời? Và tại sao các cha lại tránh né không chịu giải thích? Tôi cũng cảm thấy khó khăn để giải thích. Tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng khi xưng mình là 'cha' trong lúc nói chuyện với người khác.
Nhưng một lần có người gọi tôi là ' anh' thay vì gọi là 'cha' thì tôi cũng như một số người khác đứng đó đã cảm thấy có cái gì ngường ngượng nghe không thuận tai. Tuy nhiên danh từ 'cha' dùng để gọi các linh mục cũng chỉ là một tước hiệu nói lên tình liên hệ thiêng liêng trong Giáo Hội giống như địa vị làm cha trong tình liên hệ của người cha đối với con cái trong gia đình. Tước hiệu đó đã được dùng từ lâu do lòng quý mến và kính trọng của người giáo dân dành cho các linh mục là những người đại diện Thiên Chúa và là hiện thân của Chúa Kitô trong chức vị tư tế. Nếu chúng ta chú trọng quá nghiêm khắc vào từ ngữ thì chúng ta không hiểu đúng ý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có ý nói là không ai được tự đặt mình vào địa vị làm Cha như Thiên Chúa, và cũng không được coi bất cứ ai dưới đất là Cha thay thế Thiên Chúa. Chỉ có một chức vị Cha chân thật là Thiên Chúa, và chỉ có một Thầy chân thật là Đức Kitô. Điểm Chúa Giêsu nhấn mạnh là "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi." Do đó có lẽ chúng ta không nên quá quan tâm đặt vấn đề khi người giáo dân gọi các linh mục là 'cha', nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề nếu thấy các linh mục của mình không có tinh thần phục vụ như Chúa Giêsu mong muốn và đòi hỏi.
Trong tinh thần phục vụ Tin Mừng chân chính, Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã thẳng thắn tâm sự với giáo đoàn Thessalonica rằng, " Anh em còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em" (1 Thes 2:9).
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi." Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
39.Linh mục là Cha-- theo “Bạn muốn biết”, Radio Veritas--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu khẳng định trong Tin Mừng hôm nay: “Đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời”. (Mt 23,11-12). Người ta thường dựa vào câu Thánh Kinh này để biện hộ cho quan điểm không gọi Linh mục là Cha. Vậy phải hiểu câu nói Chúa Giêsu như thế nào?
1. Tại sao gọi Linh mục là Cha? Thói quen ấy có từ lúc nào trong Giáo hội? Đâu là nền tảng của cách gọi này?
“Cha” theo định nghĩa, là một người đàn ông có một hay nhiều con. Một cách nào đó, Cha là người mang lại sự sống cho con. Do đó, bất cứ ai mang lại sự sống cho người khác, bằng cách này hay cách khác, cũng đều có thể được gọi là Cha. Người ta cũng gọi một ai đó là Cha Già Dân Tộc khi người này đã hy sinh đấu tranh mang lại độc lập cho tổ quốc. Danh từ Cha ở đây được hiểu theo nghĩa loại suy. Chúng ta gọi Cha những người đàn ông nào đó có đặc tính của người Cha. Cũng như khi chúng ta chào hỏi một người là ông bà, chú bác, thì không nhất thiết người đó phải có một liên hệ họ hàng với chúng ta. Danh xưng Cha được gán cho Linh mục cũng được hiểu theo nghĩa ấy.
Cách gọi này không phải là điều mới mẻ, ngay từ đầu lịch sử Giáo hội, các Giám mục được gọi là Cha, rồi dần dà người ta áp dụng cách gọi ấy cho các Linh mục.
Lý do gọi Linh mục là Cha thật đơn sơ và tự nhiên: Linh mục là thừa tác viên các bí tích. Ngài nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội để ban bí tích và sự sống ơn thánh.Qua lời dạy bảo, một cách nào đó, Linh mục cũng nuôi dưỡng người Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Do đó Linh mục đóng vai trò người Cha đối với các tín hữu.
Công đồng Vaticanô II, trong sắc lệnh về sứ vụ và đời sống Linh mục, đã nói về tương quan giữa Linh mục và giáo dân: Do bí tích thánh chức, các Linh mục Tân ước thi hành nhiệm vụ cao cả và cần thiết, đó là Cha và Thầy trong dân Chúa và cho dân Chúa.
2. Gọi Linh mục là Cha phải chăng đi ngược lại Tin mừng vì Đức Giêsu đã nói: đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha, Đấng ngự trên trời. Phải hiểu câu nói này như thế nào?
Vào thời Cải cách, người Tin Lành đã dựa vào câu nói này để bãi bỏ cách gọi Linh mục là Cha. Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa câu nói của Đức Giêsu. Đặt câu nói này trong văn mạch của đoạn Tin mừng.
Đức Giêsu đang tranh luận với nhóm Pharisiêu,Luật sĩ. Ngài khiển trách họ giả hình, nói mà không làm, họ thích thống trị, họ bó những gánh nặng chất lên vai người khác, còn họ không nhúng tay vào, họ thích khoe khoang làm mọi việc cho người ta thấy, họ hám danh muốn ngồi chỗ nhất nơi công cộng và muốn người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ đạo. Qua đó, Đức Giêsu đưa ra một quan điểm mới cho các môn đệ: trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi Cha đẻ của mình là Cha hoặc gọi bất cứ ai dạy dỗ chúng ta là Thầy. Hẳn Ngài đã từng gọi Thánh Giuse là Cha và những người dạy mình là Thầy. Do đó, không nên hiểu câu nói ấy theo từng chữ. Người Do thái thường dùng kiểu nói phóng đại. Chúa Giêsu dùng kiểu nói này khi bảo rằng: Nếu tay con gây vấp ngã, hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ cho con vấp phạm, hãy móc mắt đi để được vào Nước trời. Chính Thánh Phaolô, người hiểu sâu xa Lời Chúa, thế mà ngài tự xưng mình là Cha các tín hữu, ngài cũng gọi Timôthêô là con yêu dấu.
Khi Đức Giêsu nói: “Đừng gọi ai trên mặt đất này là cha, vì ngươi chỉ có một Cha trên trời”, Ngài không phủ nhận chúng ta có những người cha người mẹ mà Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải kính trọng (x. Mt 15,4). Ngài muốn dạy rằng tình phụ tử nhân loại chỉ là một sự chia sẻ tư cách cha của Chúa Cha Tối Cao là Đấng Tạo Thành, một Người Cha hoàn hảo.
Đức Giêsu vừa đề cao tính cách là Cha của Thiên Chúa, vừa xác định tính cách chỉ đạo của Ngài, đồng thời Ngài cũng đả phá sự kiêu hãnh của một số nhà lãnh đạo Do thái giáo thời đó, họ ưa thích được người ta gọi là Cha, là Thầy.
3. Có buộc phải gọi Linh mục là Cha không?
Về cách xưng hô, dường như không có một luật nào buộc. Gọi Linh mục là Cha hay không, đó là vấn đề của tình cảm và niềm tin. Gọi Linh mục là Cha hay không, điều đó không quan trọng cho bằng có ác ý trong cách cư xử với Linh mục hay không. Sự thiếu lễ độ, lịch sự tối thiểu đối với một người lãnh đạo, dù chỉ là lãnh đạo một cộng đoàn nhỏ, không chỉ là một xúc phạm đến Linh mục, mà còn có thể xúc phạm đến chính tình cảm tôn giáo của người tín hưũ nữa.
Chúng ta quen gọi các linh mục là cha. Tuy nhiên, đó không phải là danh xưng mang tính ẩn dụ hay màu sắc thi ca. Tư cách cha của linh mục là thật vì là sự tham dự vào tư cách Cha thần linh (x. 1 Cr 4,15; Ep 3,15). Vì thế, tư cách cha của linh mục được thiết lập bởi tư cách làm Cha của Chúa Cha trên trời mang tính tổng thể, hoàn tất việc tự hiến.
Với tư cách là cha, linh mục thực hành như lời thánh Phaolô đã dạy Titô: "Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ gì đừng có ai coi thường anh" (Ti 2,1-3.15).
Đức Giêsu đã dạy bài học quan trọng nhất cho các linh mục, lãnh đạo là để phục vụ. Vào Bữa Ăn Tối, sau khi rửa chân cho Nhóm Mười Hai, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” và là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. (Ga 13,13-15).
40.Chỉ có một Cha
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật chẳng nhận ra Người: “Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1,10). Không nhận biết Người, mà chúng vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc - Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo đức kinh ch. I). Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah) “There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God” (Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài). Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển, hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã có xu hướng tự nhiên về Người: “Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn “Kính nhi viễn chi” và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương. Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên toà Môisê...”. Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường... Họ thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12). Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: “Ta đã làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân”. “Ta sẽ trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi”. Bởi lẽ: “các ngươi đi trệch đường; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi” (Bài đọc I –Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy chúng ta: “Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha trên trời” (23,9). Cha trên trời thế nào? Thưa là “Đấng ngự trên trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5,45). Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là “Đấng vô cùng toàn thiện (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi “anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù, biết cầu nguyện tha thứ cho nhau” (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên “hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho anh em” (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng danh Cha, như thánh Phaolô “khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ”. Xin cho chúng con biết quý mến anh em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
41.Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại sao linh mục để cho người ta gọi mình là cha? Linh mục hãy đọc Tin Mừng thì sẽ rõ!”
Tôi đọc được trong Tin Mừng: “Các con đừng muốn cho người ta gọi mình là thầy, các con đừng muốn cho người ta gọi mình là tiến sĩ, các con đừng gọi ai là cha”. Chắc chắn ở đây có một bài học mà chúng ta phải rút ra.
Tôi nghĩ rằng không nên chú mục vào những danh hiệu bị Chúa Giêsu lên án. Loại bỏ các danh hiệu đó, các bạn sẽ tìm được hàng chục danh hiệu khác cần thiết trong cuộc sống xã hội: ông thị trưởng, ông Tổng thống, Đại uý... Người ta thay thế danh hiệu Ngài bằng Đức giám mục? Danh hiệu này chẳng thích hợp và cũng không thoát được sự lên án của Chúa Giêsu.
Thật ra sự lên án của Chúa Giêsu nhắm đến điều gì? Tại sao lại gán cho điều chỉ là một chút kiêu căng một tầm quan trọng như thế? Thực tế, có điều gì trầm trọng đang xảy và một sự vụng về rõ ràng về biên tập của Matthêu lèo lái chúng ta. Luôn luôn nơi Matthêu, điều đó là cố ý, rất được trau chuốt từng ly từng tí. Ngài bắt đầu bằng: “Tất cả các con đều là anh em”. Sau đó Ngài tiếp: “Các con chỉ có một Cha mà thôi”. Nhưng ý tưởng anh em đến nhanh hơn bởi vì trong văn mạch, ý tưởng này là ý tưởng chủ đạo, mặc dầu ý tưởng này rõ ràng liên kết với tư cách làm Cha của Thiên Chúa: “Tất cả các con đều là anh em, bởi vì tất cả các con đều có cùng một Cha trên trời”.
Ở đây chúng ta rất kiêu căng, Chúa Giêsu sửa chữa lại những quan hệ bị sai lệch, giống như những nhà chuyên môn sửa lại những cái xương bị trật khớp. Chúng ta khó chịu trong cơ thể xã hội khi các quan hệ sai lệch và đau đớn: khi ông chủ đóng vai tay anh chị thì những người thuộc quyền khúm núm. Vấn đề là không phải nói: “Ông thị trưởng”, mà là có một ông thị trưởng tốt. Bên dưới danh hiệu không quan trọng đến thế, có những thái độ, những tấm lòng, một tinh thần.
Trong xã hội các môn đệ của mình. Chúa Giêsu muốn có một tinh thần, một tinh thần dường như rõ ràng nơi Ngài đến nỗi quan hệ giữa Ngài với Chúa Cha là rất thắm thiết. Chúng ta đừng đụng đến điều đó, đừng ai chiếm chỗ của Chúa Cha, đừng ai dành cho một người nào đó một tầm quan trọng làm lu mờ Thiên Chúa.
Hậu quả cũng rất rõ ràng: giữa con người với nhau chỉ có thể có quan hệ anh em mà thôi. Những chức vụ cần thiết và những danh hiệu có ích không được làm thay đổi tinh thần “anh em”. Tôi có thể để người ta gọi mình là cha... nếu tôi có một trái tim anh em! Nhưng điều đó phải rõ ràng trong các lời nói và trong các thái độ của tôi, và đừng ai cám dỗ tôi tự cho mình là Thiên Chúa.
Khuynh hướng ma quỷ làm cho chúng ta trượt về phía kiêu ngạo sẽ luôn luôn làm cho việc suy niệm bài Tin Mừng này có ích. Than ôi! Chúng ta có thể viết cả một quyển sách về sự kiêu ngạo trong Giáo hội, y phục, tước hiệu, ngôi thứ, và ghê gớm hơn nữa, chuyên quyền, tự mãn. Sự việc có phần tốt đẹp hơn, nhưng để duy trì tinh thần của Chúa Giêsu, các thầy, các cha và các tiến sẽ tự giữ gìn là điều chưa đủ: trong dân Chúa, bất cứ ai cũng có thể nói với họ rằng “Lúc này đây, Ngài có phải là anh em của tôi không?”
42.Hạ xuống và nâng lên
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại phê bình chỉ trích bọn biệt phái và luật sĩ? Tôi xin thưa rất có thể khi phê bình chỉ trích như thế, Chúa Giêsu nhằm đề cao cảnh giác và hướng dẫn cho các môn đệ đừng mắc phải cái thói tật của những hạng người ấy. Hơn nữa khi ghi lại những lời ấy, thánh Matthêu cũng muốn nhắn gởi mỗi người chúng ta, là những người đang sống trong lòng Giáo Hội, bởi vì trong lòng Giáo Hội có những người muốn tổ chức Giáo Hội theo kiểu mẫu Do Thái và hàng tư tế đạo mới có vẻ như muốn bắt chước hàng tư tế đạo cũ.
Như chúng ta đã biết bọn biệt phái và luật sĩ tiên vàn được công nhận như là những người có quyền ngự toà Maisen, nghĩa là họ nắm giữ quyền giáo huấn và trông coi luật pháp. Địa vị này không phải là nhỏ. Toà của Maisen ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Núi Sinai thuở ấy có mây trời che phủ và sấm chớp vang rền khiến cho dân chúng hết sức sợ hãi. Tất cả những chi tiết ấy đều nói lên quyền lực vô biên của Thiên Chúa. Còn thời Chúa Giêsu, thì hàng tư tế ngồi trên toà Maisen nghĩa là họ có quyền giáo huấn, tiếp nối địa vị của ông. Thế nhưng họ đã thi hành quyền ấy như thế nào? Tôi xin thưa có hai cách. Một là họ dạy luật pháp cho người khác, còn bản thân họ thì lại không thi hành. Hai là họ thêm thắt vào lề luật đến nỗi họ trở nên kẻ rao giảng truyền thống của loài người chứ không phải là lề luật của Thiên Chúa nữa. Với cách trên họ là những kẻ giả hình vì họ nói mà không làm. Còn với cách dưới họ gò ép mọi người phải sống theo khuôn mẫu họ đã vẽ ra.
Họ còn là những kẻ hiếu danh, muốn ăn trên ngồi trốc. Nhiều khi tính hiếu danh này đã đi tới những hành động quá trớn, chẳng hạn nới rộng hộp đựng Kinh Thánh, làm to tua áo, ưa được ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và được chào hỏi ngoài đường phố. Họ coi mình là trung tâm của vũ trụ và xã hội này chỉ có mình họ là to lớn mà thôi. Đây cũng là điều mà chúng ta cần phải tẩy trừ, cần phải xa tránh. Sống trong lòng Giáo Hội, chúng ta phải xác tín rằng mọi vinh quang là của Thiên Chúa, chỗ đứng của Ngài phải trổi vượt trên mọi người. Có hướng về Thiên Chúa, thì chúng ta mới là anh em của nhau và Giáo Hội mới đích thật là Hội Thánh của Đức Kitô. Đây là một bổn phận chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho số người nào đó. Có thi hành như thế, thì chúng ta mới thật sự giảng đạo Chúa chứ không phải là giảng chính mình và cuộc đời của chúng ta mới tìm thấy được sự bình an hạnh phúc bởi vì như lời Chúa đã phán: Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.
43.Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d’Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô d’Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
44.Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người…Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời…
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
45.Điểm "A" cho sự cố gắng!
Một trong những bài viết của Ralph Emerson, ông đã đặt một câu hỏi như sau: "Làm thế nào để đo lường sự thành công?" (How do you measure success?) Ông đã trả lời bằng cách đưa ra ba điểm sau:
Biết quí vẻ đẹp (to appreciate beauty).
Biết tìm ra những ưu điểm ở người khác.
Biết làm cho thế giới trở nên tốt hơn bằng những gì mình có thể.
Trong chúng ta, có lẽ không mấy người thấy phương thức trên có gì đáng cho chúng ta công kích cả. Chẳng có mấy ai lại cãi rằng biết đánh giá đúng về những vẻ đẹp, hoặc tìm ra những ưu điểm ở kẻ khác, hoặc để lại cho thế giới những điều gì tốt đẹp lại không phải là đã sống thành công. Tuy nhiên, xét cho cùng, phương thức trên chưa phải là một phương thức để đo sự thành công một cách hoàn hảo.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đi xa hơn Ralph Emerson về sự thành công. Ngài đã phán rằng, "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em" (Mt 23:11). Rất nhiều người trong chúng ta có lẽ thấy điều này thật là quá sức của chúng ta có thể làm được.
Một học sinh trung học đã viết một tấm thiệp cho bà ngoại của nó đang nằm trong bệnh viện: "Thưa ngoại, mẹ con nói là ngoại đang là nằm bệnh viện để trắc nghiệm (you are in the hospital for tests). Cháu rất mong là ngoại sẽ lấy được điểm A!" Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tất cả những người muốn theo Ngài, "Ai là người lớn nhất, hãy phục vụ." Ngài mong muốn tất cả chúng ta đều lãnh điểm "A" về môn "Phục Vụ Tha Nhân."
Sự sinh tồn của chúng ta dựa bằng những gì chúng ta lãnh nhận, nhưng cuộc sống của chúng ta dựa trên những gì chúng ta trao ban (we make a living by what we get, but make a life by what we give). Không phải vị trí (position) của chúng ta làm cho cho chúng ta vui sống, nhưng là cách thức của chúng ta. Trong cuốn sách "The Kingdom Within" (Vương Quốc Ở Bên Trong), tác giả John Stanford đã kể lại thời niên thiếu của ông. Vào những mùa hè, ông thường trở về sống tại một căn nhà ngoại ô vùng nông trại tại New Hampshire. Ông còn nhớ cái chỗ đó thật là đơn sơ, không có điện, hoặc những ống nước như thời nay. Điểm mà ông vẫn chú ý là người nhà của ông thường lấy nước ở một cái giếng ở gần đó. Cái giếng này đã cho những người nhà của ông nước để sử dụng trong mọi công việc. Lúc nào nó cũng có nước, cho dù là trong lúc hạn hán... Sau đó một thời gian, ngôi nhà nông trại đã được sửa sang lại một cách khang trang có đầy đủ tiện nghi hệ thống điện và nước
Sau đó một vài năm, ông trở về căn nhà nông trại khang trang đó. Do sự tò mò thúc đẩy, ông đã lần mò ra cái giếng. Bây giờ nó đã được đậy lại. Trong khi gỡ các tấm đậy nắp giếng ra, trong đầu ông, ông cho rằng nó vẫn còn nước như những năm trước đây. Thế nhưng, thật là một sự bất ngờ, sau khi mở ra và nhìn xuống, cái giếng đã bị khô cạn từ lúc nào.
Ông đã đi tìm hiểu lý do tại sao cái giếng lại bị cạn khô như thế. Sau một thời gian, ông đã hiểu ra được lý do tại sao cái giếng bị khô cạn. Khi người ta lấy nước ở cái giếng, thì những mạch nước nhỏ ở dưới lòng đất sẽ cứ tuôn chảy nước vào cái giếng, và nhờ sự di chuyển này các mạch nước không bị tắc nghẽn. Thế nhưng khi người ta ngưng không múc nước ở trong giếng ra nữa thì các mạch nước bị nghẹt lại và không chảy nước vào trong giếng nữa.
Đó là một bài học rất quí giá cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Đạo Công Giáo đòi buộc chúng ta phải cho đi những gì mình có trong khả năng của mình. Ơn thánh của Chúa hằng luôn đổ tràn trên chúng ta không bao giờ ngừng. Những món quà mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cũng không bao giờ ngưng. Thế nhưng tâm hồn của chúng ta bị khô cạn là bởi vì chúng ta đã không biết dùng những gì mà chúng ta đã lãnh nhận.
"Người lớn nhất trong anh em phải là người phục vụ tất cả những người khác." Có dễ làm không? Có lẽ không. Tuy nhiên, các bạn hãy thử đi, rồi các bạn sẽ thấy thích. Các bạn hãy thử đi rồi các bạn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khôn tả trong tâm hồn khi phục vụ kẻ khác bởi vì qua đó, cuộc sống của chúng ta được trở nên sung mãn và dồi dào hơn.
46.Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con…
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
47.Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: “Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. “Người thứ hai thêm ý kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh”. Người thứ ba trả lời: “Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái đất”. Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một ai: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: “Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”.
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình: “Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và các Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy… họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy… ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói mà không làm”!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: “Con xin phép lạy cha ạ!” Lạy mà còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải thích:
“Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ”.
48.Đầy tớ
Con người mang lấy thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh của mình và quên đi trách nhiệm phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Vào thời điểm lịch sử của Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ hiện nay, đang khi có những lời tố cáo về việc lạm dụng tình dục trẻ em bởi các linh mục và một số giám mục, hơn bao giờ hết, sự đòi hòi về tư cách lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm trở nên cấp bách và cần thiết. Và, một lần nữa, ai là những vị tiên tri nói lên những lời cảnh giác trong tình thế hiện nay của Giáo Hội? Họ lại là những người giáo dân giống như tiên tri Malachi!
Trong lúc theo dõi những diễn tiến của Hội đồng Các Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ở Dallas vào tháng 6 năm 2002, những người giáo dân như Scott Appleby, giáo sư sử học của trường đại học University of Notre Dame, và bà Margaret O’Brien Steinfels, chủ bút tạp chí Commonweal, đã nói về các giám mục rằng các ngài đã thất bại thê thảm trong vai trò trách nhiệm của mình để chăm sóc những con người dễ bị tổn thương nhất, con cái của chúng ta. Có lẽ chưa bao giờ có một giai đoạn trong lịch sử Công giáo Hoa Kỳ, những người lãnh đạo tinh thần đã bị công khai chỉ trích bởi giáo dân như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ có những lời chỉ trích thực sự mang tính chất muốn sửa đổi và xây dựng như hiện nay…
Dĩ nhiên, phê bình chỉ trích thường liên hệ với một lý tưởng. Sự phê bình về thái độ của các thầy tư tế của tiên tri Malachi và của giáo dân nhằm vạch ra một con đường tốt đẹp hơn cho đời sống tôn giáo. Tự bản chất của các thừa tác vụ là để phục vụ cho Chúa Kitô và Giáo Hội như sách Giáo lý Công giáo số 876 đã dạy: “Được gắn liền cách nội tại với bản chất bí tích của thừa tác vụ Giáo Hội, là đặc điểm phục vụ của thừa tác vụ này. Đúng thế, các thừa tác viên hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Kitô là Đấng ban sứ mạng và uy quyền cho họ, và họ thật sự là “những nô lệ của Chúa Kitô”.
Vấn đề phục vụ được Giáo Hội kêu gọi, không phải chỉ dành cho các giáo sĩ, hay tu sĩ, nhưng còn cho mọi người Kitô hữu như là môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta bằng chính gương sáng của ngài trong thư thứ nhất gửi cho người Kitô hữu của Thêsalônica: “Trong khi chúng tôi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã quý mến anh chị em đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh chị em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa…”
Những lời của thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lắng nghe lời Chúa, công bố lời Chúa và sống lời Chúa. Tất cả chúng ta được gọi để sống một cách nguyên vẹn và đầy đủ vai trò “chăm sóc” mà thánh Phaolô diễn tả. Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau làm việc biến đổi trái đất này thành vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để chăm sóc lẫn cho nhau, và đặc biệt những người đã bị tước đoạt mất những nhân quyền căn bản và những nhu cầu của họ vì bất công, bạo lực và vì sự lãnh đạo vô trách nhiệm. Chúa Giêsu đã gọi những người Kitô hữu bước theo Ngài là “ánh sáng thế gian”, có nghĩa là mỗi người Kitô hữu phải chia sẻ vai trò lãnh đạo của Ngài.
Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta phải được thi hành trong tinh thần khiêm tốn như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Chúng ta được gọi không phải để đóng vai trò quyền lực hay kiêu hãnh, nhưng để phục vụ như những người đầy tớ khiêm tốn của Thiên Chúa.
Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa”. Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất”.
Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi! Bây giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ”.
Vai trò của Chúa Giêsu được diễn tả trong Phúc âm thánh Matthêu là vai trò Người Đầy Tớ của Thiên Chúa. Chúng ta, các giáo sĩ tu sĩ và giáo dân, được gọi để chia sẻ những khả năng tinh thần, vật chất và ngay cả chính đời sống của mình phục vụ cho tha nhân. Khi chúng ta phục vụ cho Giáo Hội và nhân loại, chúng ta được biến đổi từ những con người tội lỗi trở thành những con người mang Thần Khí của Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình yêu thương và phục vụ.
49.Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: “Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật”, nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm”. Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột”. Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
50.Sống thực
Anh chị em thân mến.
Thời buổi ngày hôm nay con người thường dùng sự hào nhoán bên ngoài để đối xử với nhau, nên nhiều khi hết sức giả tạo, vì bên ngoài như thế nhưng bên trong hoàn toàn khác. Cũng như hằng ngày chúng ta nhìn thấy những mẫu quảng cao trên Tivi, cái gì cũng tốt, cũng đẹp cũng hay, nhưng thực chất khi mang về xử dụng thì biết bao nhiêu điều không như lời quảng cáo, làm cho người tiêu dùng phải khó chịu. Thực chất con người phải chấp nhận những gì mình đã mang lấy, có những lúc cay đắng chấp nhận những gì đã mua mà không dùng được vì mình đã bị lừa. Chính vì thế mà Việt Nam chúng ta có câu:
Dò sông dò biển dể dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Lòng người khó mà biết được, không chỉ nhìn bên ngoài mà đoán được lòng người. Nhưng Chúa Giêsu đòi buộc những ngươi theo Ngài có một tâm hồn trung thực trong cuộc sống. Cử chỉ bên ngoài thể hiện được tâm tình bên trong và sống chân thành với nhau. Ngài không chấp được cuộc sống hình thức bên ngoài khác với bên trong tâm hồn của con người, Ngài không thể nào chấp nhận cuộc sống giả hình nên Ngài mới nói: "Các lật sĩ và những người biệt phái ngồi trên toà Môisen mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói, các con hãy làm và tuân theo, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm ..."
Chúa Giêsu muốn dạy bảo cho mọi người sống theo thánh ý Chúa bằng cuộc sống của mình, bằng cả lời nói và hành động, bằng những gì phát xuất tự tâm hồn chứ không phải chỉ là những hình thức bên ngoài để che dậy những gì bên trong, vì Thiên Chúa nhìn thấy tận bên trong tâm hồn con người.
Một học giả đã nói thật chí lý: trong cuộc sống đời thường, con người thích làm cái đầu con gà hơn là làm cái đít con voi.
Mọi người đều thích được nhiều người biết đến, thích được mọi người kính trọng, thích được mọi người khen tặng. Nhiều khi thực chất không có gì, mà vẫn thích được có địa vị, nên cố làm ra vẻ cho mọi người lầm tưởng để kính trọng, để rồi dùng mọi biện pháp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích mà mình không xứng đáng để được. Chính vì thế mà có nhiều chuyện không hay htường xảy ra trong cuộc sống.
Chúng ta là những người công giáo, là những người đã được nghe những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, nhưng cuộc sống hiện tại của mỗi người cho đến giờ phút này như thế nào? Mỗi người để một ít phút, nhìn lại mình:
Chúng ta bảo rằng mình không như những luật sĩ và biệt phái của ngày xưa: chúng ta nói nhưng cũng có làm những việc tốt, cũng thi hành những việc bác ái, cũng biết giúp người khác trong nhiều việc. Coi chừng, chúng ta là những luật sĩ và biệt phái của ngày hôm nay. Những việc làm của mình có phải là thi hành thánh ý Chúa, vì bác ái yêu thương, hay làm cho người ta nhìn thấy, làm để rồi tự mãn kiêu căng và ngũ quên trên những việc làm mà chúng ta cho là đạo đức thánh thiện để không còn biết cố gắng.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những lần mình khó chịu với người khác vì họ đến quấy rầy, nếu chúng ta nhớ đến bao nhiêu lần mình không thể chấp nhận được người khác khi họ dám nói thẳng vào những sai phạm của mình, còn những lần mình không thể giúp đở người khác khi họ cần đến. Những lúc đó là những lúc mà chúng ta trốn tránh, cho người khác phải vát những bó nặng mà không muốn dùng ngón tay của mình để thử xem như thế nào.
Còn những lúc chúng ta muốn dạt được mục đích mà mình cho là danh vọng, lợi nhuận? Những lúc đó chúng ta không từ một thủ đoạn nào, cũng không nhìn thấy được những đau khổ của người khác, không lắng nghe những lời oán than kêu trách, vì chỉ biết đạt mục đích nên bỏ ngoài tai tất cả. Những lúc đó chúng ta đang noi theo hành vi của những luật sĩ và biệt phái, noi theo hành vi của những người mà Chúa Giêsu bảo đừng noi theo.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những người chung quanh đang cần đến chúng ta và không ngần ngại để làm cho họ những gì cần thiết, nếu chúng dùng con tim yêu thương mà hành động thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa ban mỗi người chúng ta có một con tim chân thành để biết sống theo những gì Chúa dạy bảo.
51.Trách kẻ giả hình
Sự kiện có nhiều tín hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời bỏ Giáo Hội, vén mở cho thấy một vấn đề khác đang gây âu lo không ít cho Hội Đồng Giám mục các nước Âu Châu. Đó là nhiều Kitô hữu đánh mất đi niềm tin của họ trong một xã hội bị tục hoá nặng nề. Chính vì nhiều tín hữu Âu Châu không sống đạo và không liên hệ gì với Giáo Hội nữa, nên họ thấy việc đóng góp cho Giáo Hội trở thành một gánh nặng vô lý.
Trong một xã hội đang đánh mất đi các giá trị Kitô của mình như Giáo Hội Âu Châu, thì chỉ một Giáo Hội sinh động với một số tín hữu sống lòng tin trung thực và xác tín mới có sức trao ban hy vọng cho con người đang lạc hướng bơ vơ ấy. Đây là lý do giải thích tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẩn thiết khuyến khích công tác "tái truyền giảng Tin Mừng" và kêu gọi các quốc gia tái khám phá ra nền văn hóa Kitô của mình.
Nhưng thế nào là sống lòng tin trung thực cho một Giáo Hội sinh động? Các bài đọc Phụng vụ của Chúa Nhật 31 Thường Niên hôm nay cống hiến cho chúng ta một số tư tưởng, giúp chúng ta duyệt xét lại lòng tin của mình vào Giáo Hội.
Bài Tin Mừng hôm nay được thánh Matthêu ghi lại cuộc đụng độ trầm trọng giữa Chúa Giêsu và hàng lãnh đạo Do Thái, đồng thời nó cũng diễn tả tình trạng căng thẳng sự đổ bể liên hệ giữa cộng đoàn Do Thái và cộng đoàn Kitô giáo trong thời sơ khai.
Cuộc đụng độ ấy cho thấy hai loại Giáo Hội đối nghịch nhau: Thứ nhất là một Giáo Hội đầy dẫy những tín hữu thủ cựu huênh hoang, phách lối, ham hố quyền bính, vụ luật và dùng luật lệ làm bình phong che đậy cuộc sống giả dối tội lỗi của mình. Thứ hai là một Giáo Hội sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu, trong đó hàng lãnh đạo là những người khiêm tốn, thánh thiện, biết hy sinh xả kỷ phục vụ và sống nêu gương cho người khác.
Vậy, khi mạnh mẽ chỉ trích hàng lãnh đạo Do Thái, Chúa Giêsu đã phản đối quyền lãnh đạo hợp pháp của họ, nhưng đồng thời Ngài cũng vạch trần những thái độ sống đạo sai lạc của giới lãnh đạo, của hàng tư tế, của giới luật sĩ và biệt phái, giới ký lục và các bô tão. Họ là những người thông hiểu luật Chúa, đáng lý ra họ phải nêu gương cho tín hữu thì ngược lại họ lại gây nên gương mù, gương xấu cho dân chúng.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tố cáo thái độ sống đạo lệnh lạc của họ là không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Thái độ nói một đàng làm một nẻo ấy của họ bôi nhọ và giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trốc, thích được nịnh hót, thích được xưng tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện với từng người trong chúng ta trong cuộc sống, diện đối diện, mắt nhìn mắt, chúng ta hãy để cho lời Ngài xoáy vào tâm can, vào tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta đừng sợ chi cả vì bao lâu chúng ta còn sợ Lời Chúa, thì bấy lâu chúng ta còn bào chữa để che giấu cho con người thứ hai trong chúng ta, con người chỉ thích bóng tối. Hãy lôi cổ con người thứ hai đó ra ánh sáng Lời Chúa để định bệnh cho nó. Hãy mổ xẻ nó và với ơn Chúa hãy băng bó cho nó, tạo lại những nếp sống hài hòa trong mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Thật vậy, sự hài hoà mọi lãnh vực trong đời sống của mình không phải là chuyện dễ, vì con người chúng ta đều có giới hạn. Nhưng Thiên Chúa đã đặt vào trong con người chúng ta những ý nghĩ của điều thiện hảo, giúp chúng ta hướng đến sự sống vô biên. Vậy chắc chắn điều Chúa muốn là chúng ta cố gắng trong khả năng, trong địa vị của mình để trở thành một mẫu gương sống cho người khác, nhất là những người mà chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ họ.
Có như thế, chúng ta mới giảng dạy cho người khác một cách xác tín, mạnh dạn khuyên bảo người khác mà không đớ lưỡi, mà không ngượng miệng, không cứng họng, nhất là người khác đó là con cháu của mình. Và như thế, mỗi người chúng ta mới thực hiện được lời khuyên tha thiết của Chúa Giêsu: "Chúng con phải sống thế nào để người khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời".
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin. Vì chính nhờ đời sống ngay lành, thánh thiện, công bình và bác ái của những người tin Chúa sẽ làm cho những người khác phải đặt câu hỏi. Nhờ đó mới khơi dậy trong họ một ước nguyện đi tìm Chân Thiện Mỹ mà Chân Thiện Mỹ tuyệt đối chính là Thiên Chúa vậy.
52.Tuân giữ và phục vụ
Đức Giêsu đến để phục vụ và nên gương cho loài người trong việc vâng giữ luật Chúa. Theo chương trình của Thiên Chúa, Abraham được chọn làm tổ phụ một dân riêng. Trong dân tộc này, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những hiểu biết cần thiết để sống đạo. Chúa còn sai nhiều tiên tri đến giảng dạy dân Do thái để họ sống đúng đường lối Chúa. Trước khi Chúa Giêsu xuống thế, có những nhóm người chủ trương sống triệt để luật Chúa như nhóm biệt phái, luật sĩ, Essini... Tuy nhiên, một số người trong nhóm biệt phái, luật sĩ thời Chúa Giêsu lại đi tìm hư danh, làm vì mình hơn là vì dân Chúa. Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những sai lầm trong nhóm biệt phái để các môn đệ Chúa không giẫm vào vết xe đổ này. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài sống tinh thần khiêm nhường trong khi thi hành nhiệm vụ và cảnh giác trước những gương xấu của các Biệt phái.
Những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta tránh là:
Dạy người khác mà mình không làm. Luật sĩ dùng sự hiểu biết của mình để dạy dân hiểu đúng luật Chúa là tốt nhưng họ lại thiếu lòng yêu mến Thiên Chúa, họ không lo thi hành điều họ dạy người khác làm. Điều này rất nguy hại vì nó có thể làm cho dân chúng sống vị luật, vì sợ hãi hơn là vì yêu mến Chúa và tha nhân. Hơn nữa, dân chúng có thể bắt chước lối sống giả hình của họ và không còn tinh thần đạo đức đích thực nữa!
Buộc những bó nặng chất lên vai người khác mà chính mình không lay thử. Họ dạy giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc làm cho người khác khó giữ nổi, trong khi họ lại dễ dãi với chính mình. Họ là những người ngôn hành bất nhất, không nên gương cho dân chúng về lòng đạo đức mà chỉ làm dân chúng thêm nặng lòng vì không giữ nổi hết các chi tiết tỉ mỉ họ đưa ra.
Hám danh và cầu lợi: họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo để được người ta chú ý và ca tụng, có ý khoe mình là sốt sắng đạo đức hơn người! Đây là điều người Kitô hữu lưu ý, vì đối với Chúa, chỉ có lòng khiêm hạ mới đẹp lòng Chúa. Việc đạo đức, thánh thiện là rất tốt nhưng phải làm với lòng kính mến Chúa để tôn thờ Chúa cách chân thành với hết tâm hồn mình.
Người Biệt phái tỏ ra đạo đức để được loài người ca tụng, kính trọng, được đối xử ưu tiên, được gọi là thầy... nếu làm việc Chúa với mục đích này thì họ đã được người đời trả công rồi, Chúa đâu cần trả công cho họ về những việc này! Như vậy, chúng ta phải tránh những điểm này và quyết tâm làm việc vì Chúa, cho Chúa và vì phần rỗi anh em mình.
Khi chúng ta làm những người lãnh đạo cộng đoàn hay những nhóm lớn, nhỏ, tuy chúng ta có quyền hạn hơn những thành viên nhưng quyền đó chỉ để phục vụ, không được lạm dụng nó. Chúa giêsu đã nói rõ: các con chỉ có một Cha, một Thầy, một Vị Chỉ Đạo là Thiên Chúa còn tất cả mọi người là anh em với nhau. Vì vậy, tuy môn đệ làm công việc của Thầy, với các chức vụ tư tế, tiên tri, vương đế nhưng không được kiêu căng tự phụ, ham hư danh. Dù ở chức vụ, địa vị nào cũng phải khiêm nhường và tôn trọng tha nhân theo gương thầy chí thánh là đức Giêsu kitô. Ai càng làm lớn càng phải lo phục vụ, càng có trách nhiệm đối với tha nhân, càng phải làm việc nhiều hơn để được Chúa ban cho phần thưởng là hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
53.Nói mà không làm
Luật đầy đủ là "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người lân cận như chính mình". Là phục vụ. Làm được là đủ điều kiện để có áo cười đi ăn tiệc Nước Trời. Nhưng người ta nói nhiều mà không làm, không phục vụ mà muốn được phục vụ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Các người biệt phái ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy: Làm thầy thông luật dạy và giải thích luật Môsê cho dân.
- Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta...: Giải thích luật quá khó, buộc nhặc.
- Nhưng chính họ không buồn động tay vào: buộc người ta mà mình không làm.
- Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy: Chỉ để phô trương.
- Họ ưa chỗ nhất....ưa được chào hỏi....và được gọi là rabbi (thầy): ưa hư danh.
- Đừng dể ai gọi mình là rabbi... đừng gọi ai là cha... cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: hiểu theo mạch văn "như những biệt phái kể trên" nói mà không làm.
- Trong anh em người làm lớn hơn cả phải làm người phục vụ: như Đức Giêsu là Thầy và là Chúa mà hạ mình phục vụ "rửa chân". Người phục vụ đến hiến mạng sống.
- Ai tặng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên: Hạ mình xuống là để phục vụ. Phục vụ thì có thưởng lớn sẽ là người lớn trong Nước Trời. Chúa Giêsu dạy: Làm việc lành thì phải kín đáo chỉ để Cha trên Trời biết và Người sẽ trả công.
Trước mặt Chúa thì phải thật lòng. Giả hình Chúa không ưa. Chuộng hư danh thì không có gì để Chúa thưởng. Các người biệt phái "ngồi trên toà Môsê" nói mà không làm. Làm thì chỉ để "cho người ta thấy", khoe khoang, để được được danh dự.
Yêu người như chính mình là khiêm tốn phục vụ. Thực tề thì chỉ có chữ "PHỤC VỤ" là đủ tất cả vì làm nhỏ để phục vụ thì sẽ là người lớn trong Nước Trời.
54.Sống chân thành và khiêm tốn
Sống chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành là người sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Có thể nói người sống chân thành thì Lời nói và hành động là một. Có nói có, không nói không. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ". Vì lẽ đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chấp nhận lối sống của Biệt phái. Trong Phúc Âm hôm nay họ có thể được coi là những kẻ không dám nhìn thẳng, nhìn thật vào chính mình. Họ có lòng đạo đức, nhưng đạo đức của kẻ khoe khoang, muốn cho người khác biết mình đạo đức, họ nói nhiều hơn điều mình đã sống....Họ may dài tua áo, nới rộng thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy họ là kẻ đạo đức. Họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài. Hơn nữa, đáng trách hơn nữa, ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền Lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng. Chúa Giêsu không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần sống chân thành và khiêm tốn. Chúng ta cần can đảm nhìn nhận thân phận con người yếu đuối của mình, con người gắn liền với đầy khiếm khuyết và tội lỗi, mỏng giòn và yếu đuối. Chắc chắn Chúa biết rõ, Chúa biết tường tận con người chúng ta. Chúa biết chúng ta hơn "chúng ta biết ta". Cho nên hãy sống đơn sơ, chân thành và khiêm tốn trước mặt Chúa và anh em. Ý thức được như vậy chúng ta càng trông cậy vào tình thương của Chúa, trông cậy vào sự tha thứ của Chúa, biết đặt trọn niềm "phó thác cuộc đời mình trong tay Cha."
Nhìn nhận thân phận yếu đuối để biết kêu cầu và cậy dựa vào Chúa, xin ơn sám hối và canh tân đời sống mình. Chúng ta cần sám hối vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều. Phạm tội còn là thái độ chống lại ơn Chúa, cản trở tình thương và chương trình của Chúa. Có những lầm lỗi trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho người khác. Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh em xa Chúa. Hòa giải với tha nhân là hòa giải với Chúa. Vì thế, sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Trong con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với tha nhân, chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để sống cho tình yêu thương của Chúa, chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ. Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải và đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn, để sống chân thật và trở nên nhân chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
55.Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.
56.Làm lớn phải phục vụ
Anh chị em thân mến,
Một người cha nọ dạy con rằng: "Con nên nhớ thời bây giờ, không tin ai được hết; ngay cả cha con cũng đừng tin nữa. Biết đâu cha mẹ vẫn gạt con cái. Con thấy không? Ra đường người ta chỉ nghĩ đến móc túi kẻ khác, mua gian bán lận; có mấy ai dám nói thật đâu... Vì vậy, con nên nhớ, đừng tin ai cả, ngay cha mẹ con cũng không tin nữa.." Sau bài huấn đức đó mấy hôm, một bữa nọ, người cha bảo con: con leo thang này lên gác lấy cho cha mấy món đồ cha cần trên đó. Đứa con vâng lời lên gác... Đến lúc xuống, người cha đã lấy thang đi mất. Ông bảo: con cứ nhảy xuống đi, cha sẽ đỡ cho... Đứa con y lời nhảy xuống. Người cha không đỡ. Đứa con gãy giò. Lúc đó cha mới nói: "Thấy hôn, tao đã bảo, ngay cả cha mày cũng đừng tin nữa mà..." Bài học cụ thể thiệt đó, nhưng bù lại đứa con phải gãy giò. Hơn bị tốn của một chút đó! Bài giáo lý của Chúa Giêsu hôm nay cũng tương tợ thế: Chúa cảnh báo dân chúng: nghe lời các kinh sư chỉ bảo, nhưng đừng làm theo việc họ làm, vì họ nói mà không làm. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Các kinh sư, các người pharisêu: họ là những nhà thông luật; họ nối quyền Môisen, có nhiệm vụ giải thích Kinh thánh, luật Môisen, áp dụng vào đời sống. Vì thế, nên Chúa Giêsu dạy phải nghe họ. Nhưng cách làm của họ, Chúa dạy dân chúng đừng theo, vì họ sống giả hình, nói mà không làm, đặt ách lên vai người khác mà tay họ không động đến, thích đeo hộp kinh lớn, mang tua áo, thích ngồi chổ nhứt, ưa người ta ca tụng, nhưng lại lại tham lam, khinh dễ người nghèo khó, áp bức cô nhi hóa phụ...
* Đừng bắt ai gọi mình bằng Thầy; cũng đừng bắt gọi bằng cha, gọi người lãnh đạo: Chúa Giêsu muốn dạy chỉ có một Đức Kitô là Thầy, là người lãnh đạo, một Thiên Chúa là Cha. Không ai được phép vượt qua lời dạy đó. Thực ra, trong đạo chúng ta nếu có gọi ai là Thầy, là Cha, là người lãnh đạo, đó không phải là đi ngược lời Chúa dạy; đó chỉ nói lên mối liên hệ tinh thần. Thánh Đaminh muốn đưa tinh thần này vào dòng của mình; ngài mong muốn anh em gọi nhau bằng huynh đệ (frater). Ta cũng thấy Tu hội của Tiểu đệ, Tiểu muội rất mong muốn thực hiện tinh thần này, nên mọi người đều gọi nhau là anh em....
b/. Qua bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta điều gì?
* Chúa vạch trần thói sống giả hình của các kinh sư, biệt phái: họ thích sống giả hình, vì hay nói mà không làm - thích thống trị kẻ khác, đặt gánh nặng lên vai người khác, còn mình thì không buồn động đến - thích khoe khoang, làm để cho mọi người thấy - ham danh, ưa ngồi chổ nhất, thích được chào, thích được gọi là thầy. Chúa còn cảnh giác dân chúng, dạy dân nghe lời họ chỉ dạy, nhưng đừng làm theo họ, nhất là chỉ vâng lời một Thầy độc nhất là Đức Kitô mà thôi...
* Chúa chỉ trích lối sống của các kinh sư, nhưng Người cũng đưa ra mấy chỉ dẫn cho đời sống đạo thiết thực: 1. lời nói đi đôi với việc làm: Thực tế, giữa lời nói và việc làm có khoảng cách rất lớn. Vì nói thì dễ, nhưng làm lại là chuyện khó, nên các kinh sư thích nói suông hơn là làm; hoặc nhiều lúc tệ hơn, họ "nói mà không làm." Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nói suông, nhưng hãy làm; nhất là hãy làm cách chân thành. Ông bà ta cũng nói:"Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo." Chúa nhắc nhở: người môn đệ có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa, không thể dùng lý thuyết suông mà thuyết phục. Chính lời nói kèm theo việc làm mới có sức lôi kéo người ta và làm cho họ tin theo.
Hãy làm trong khiêm tốn: các kinh sư, pharisêu làm gì cũng muốn phô trương, tỏ ra mình đạo đức, từ đó biến thành tự phụ, tự mãn...Trái lại, Chúa Giêsu dạy các môn đệ, khi bố thí, khi cầu nguyện, khi ăn chay, đừng phô trương cho người ta thấy; hãy làm nơi kín đáo, để một mình Thiên Chúa biết mà thôi. Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ của lòng mến Chúa chân thật, từ đó dẫn đến khiêm tốn, kính trọng kẻ khác, sẵn sàng phục vụ anh em. Tuy nhiên, lối sống của kinh sư, biệt phái vẫn hiện hữu nhiều lắm trong đời sống thực tế ngày hôm nay. Nó hiện hữu không chỉ ngay trong cuộc sống đời, mà ngay trong nhà đạo chúng ta nữa. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau, nhất là để Chúa trong cuộc sống, chúng ta mới tránh khỏi thói sống chuộng hình thức như kể ở trên...
Chân thật: tiếng latinh là Sincerus, a, um. Ngày xưa những cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn nhụi, lại có lỗ, sứt mẻ, thì người ta lấy sáp ong nhét vào lỗ đó, rồi đánh cho trơn láng. Cây cột nào trơn láng thì gọi là sine cera: nghĩa không có sáp ong. Với thời gian, chữ này viết dính lại: sincera; có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo. Cuộc sống con người cần phải thành thật, chân thành, không phấn sáp, không giả tạo. Đó chính là điều Chúa muốn dạy chúng ta sống trên đời này...
Nhà nuớc VN chúng ta dán bích chương đầy đường, hô hào kêu gọi mọi người VN: đoàn kết - yêu thương - quảng đại - xóa bỏ hận thù - cùng nhau bắt tay xây dựng xã hội giàu có, công bằng, dân chủ và văn minh; vậy mà vụ đất Thái Hà, và Tòa Khâm sứ, chúng ta thấy gì? Có phải như lời Chúa quở trách pharisêu: nói mà không làm, hay nói một đàng, làm một nẻo không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu trách những người pharisêu nói mà không làm, người kitô hữu chúng ta nghe thì hài lòng lắm, vì họ đáng trách như thế. Phần chúng ta, là cha mẹ trong gia đình, là người phục vụ trong họ đạo, có nhiều lúc ta tự xét mình trước mặt Chúa, ta tự thấy mình đã không dám nói, dám làm điều này điều nọ, để nêu gương sáng cho mọi người nhất là cho chính con em, cháu chắt chúng ta không?
57.Chứng nhân
Ngày Chúa nhật hàng tuần tôi thường hay dành một buổi sáng để đi thăm nhà giáo dân trong họ đạo, đặc biệt là những người sống lạnh nhạt tôi lại thường xuyên đến thăm và động viên họ hơn. Khi tim hiểu nguyên nhân làm cho họ lạnh nhạt, tôi thấy một trong những nguyên nhân đó là sự bất mãn trong đời sống đạo. Họ bất mãn vì thấy những người giảng dạy lại sống không ra gì, những người thường xuyên đi lễ lại sống quá tệ. Đôi khi họ lại sống ngược lại với lời kinh Chúa dạy. Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án thái độ sống lệch lạc đó. Tiêu biểu là người luật sĩ Pharisêu, họ am hiểu Kinh Thánh lề luật ngưng lại sống không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Kiểu sống của họ đã bôi nhọ và làm giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho mối dây liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trước, thích được nịnh hót, thích được ca tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở# ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin cho chính mình và cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống theo Lời Chúa, và nhất là qua hành động của mỗi người sẽ là một lời rao giảng tuyệt vời trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.
58.Lãnh đạo: là lãnh đạn--Như Hạ
Hiện tại Việt Nam được xếp vào một trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới. Bệnh tham nhũng đã thành nan y. Trong khi Công giáo'Việt Nam chỉ chiếm 8% dân số, có tới 30% giới trẻ ghiền ma túy là người Công giáo. Tất cả những dữ kiện ấy tố cáo Việt Nam tràn ngập những con người chỉ thích hưởng thụ ít biết phục vụ.
Trước sự kiện đó chúng ta phải lành gì? Tại sao có tình trạng trầm trọng như vậy? Chẳng lẽ giới trẻ bị bỏ rơi, không còn là đối tượng cho Giáo hội phục vụ sao? Thực tế Giáo hội có vạch nổi hướng đi cho giới trẻ hôm nay không?
CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT
Chính khi đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9:36). Lý do vì thời đó các kinh sư và người Pharisêu chỉ tìm cái tôi trong việc lãnh đạo quần chúng. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là ráp-bi (Mt 23:6-7). Suốt ngày luẩn quẩn với cái tôi như thế họ không thể nào biết được nhu cầu quần chúng.
Cái tôi kệch cỡm ấy bị phơi bày ra ánh sáng: Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài (Mt 23:5). Đúng là mầu mè. Họ thích khoe khoang cái tôi hơn là bắt tay hanh động cùng với người khác. Quyền bính trở thành cứu cánh mọi đam mê thống trị, chứ không phải là phương tiện phục vụ quần chúng. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào (Mt 23:4). Cần gì phải bận tâm tới những điều tầm thường! Bọn dân đen ngu dốt mới phải cúi đầu khuất phục. Còn ta thuộc hàng lãnh đạo phải sống trên lề luật chứ?
Bên ngoài các kinh sư và người Pharisêu rất đạo đức và uy quyền, vì họ ngồi trên tòa ông Mô sê mà giảng dạy (Mt 23:2). Họ không phải là những người ngu dốt. Trái lại họ giảng rất hay, chủ yếu gây thanh thế và danh vọng cá nhân, chứ không nhằm làm sáng danh Thiên Chúa. Họ đưa ra những lề luật và giải thích luật rất thông suốt để khai sáng quần chúng. Đức Giêsu cũng công nhận như thế: Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm (Mt 23:3).
Có một khoảng cách ghê gớm giữa lý thuyết và thực hành. Đức Giêsu không thể chấp nhận một kiểu mẫu lãnh đạo như thế trong cộng đồng Người. Thật vậy đối với Đức Giêsu, lãnh đạo không phải là ngồi văn phòng ra chỉ thị. Nhưng lãnh đạo là lãnh đạn. Chính Đức Giêsu là người lãnh đạn đầu tiên khi trở thành đối tượng cho mũi dùi dư luận đầy hiềm khích của các kinh sư và người Pharisêu. Chúa đã thi hành trước tiên điều Chúa căn dặn môn đệ: Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em (Mt 23:l l). Mức phục vụ anh em nơi Đức Giêsu đã lên tới tột đỉnh, vì Người đã hi sinh cả mạng sống. Chính nhát giáo đâm thấu tim Người đã mạc khải chân lý lãnh đạo là lãnh đạn.
Tại sao Đức Giêsu có thể phục vụ tới mức đó? Chắc chắn Người chẳng bao giờ nghĩ tới cái tôi như các kinh sư và người Pharisêu. Người không nghênh ngang, màu mè. Trái lại Người đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Thày ở giữa anh em như một người tôi tớ''.
Mặc dù tài giảng thuyết vô cùng lôi hút quần chúng, Người không tìm hư danh, nhưng chỉ lo cho danh thánh Cha vinh hiển (Mt 6:9; Lc l l:2).
THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG
Sống theo tinh thần Đức Giêsu, người môn đệ làm thành một cộng đồng huynh đệ, không còn giai cấp, địa vị. Trong cộng đồng thiêng liêng, mọi người đều bình đẳng. Thật vậy tất cả anh em đều là anh em với nhau (Mt 23:8). Quyền bính chỉ có nghĩa là phục vụ anh chị em (Faley:1994). Bởi đó ngay giám mục và linh mục cũng chỉ là những thừa tác viên trong cộng đồng dân Chúa. Thật ý nghĩa khi một linh mục ghi trên tấm ảnh kỷ niệm ngày lãnh tác vụ linh mục, thay vì ghi nhớ ngày chịu chức. Phục vụ đã được Chúa nhấn mạnh như dấu chỉ đặc biệt của cộng đồng Ki tô giáo (Faley: 1994).
Khác hẳn với mẫu mực Đức Giêsu đã nêu cao, cộng đồng Do thái giáo ngày xưa gồm toàn những người lãnh đạo đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy không tuân giữ đường lối Thiên Chúa, và hay nể vì khi áp dụng Luật (MI 2:8-9). Họ không dám giáo hóa dân chúng đúng nhức. Có lẽ xôi oản đã lành cho thầy ngọng miệng rồi chăng?
Trái lại ngay từ đầu trong cộng đồng Ki tô giáo, Chúa đã nêu cao nhiều mẫu gương phục vụ Trong khi thi hành sứ mệnh, các tông đồ đã không hống hách hay ăn trên ngồi trốc, trái lại các ngài luôn khoan dung và quan tâm tới mọi người (Faley: 1994). Trong số đói thánh Phao lô nổi bật như một vị lãnh đạo xuất chúng vì đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ (lTx 2:7). Người xả thân vì Chúa và anh em: Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa (lTx 2:8). Rõ ràng nếu thừa tác vụ hay việc phục vụ trong tinh thần thương yêu là một dấu hiệu môn đệ đích thực, thì phải làm cho con người dấn thân toàn diện, chứ không thuần túy như làm một công tác trong Giáo hội (Doohan: 1993).
ĐƯỜNG HƯỚNG LÃNH ĐẠO HÔM NAY
Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II càng lành sáng tỏ chân lý lãnh đạo là lãnh đạn khi Người bị bắn gục trên quảng trường thánh Phêrô năm 198l. Đó là hình ảnh nói lên tất cả sự thật bên trong của việc lãnh đạo dân Chúa. Sự thật bên trong là tình yêu Chúa Ki tô thúc đẩy chúng tôi (2Cr 5: 14) phải xây dựng Nước Thiên Chúa bằng con đường phục vụ.
Con đường phục vụ lớn lao và gian truân nhất là đến với người nghèo. Vị lãnh đạo Hội Thánh hôm nay cho thấy: Bảo vệ người nghèo là làm vinh danh Thiên Chúa, là Cha của người nghèo (VietCatholic 28/10/1999). Đó là hướng đi Chúa đã vạch ra cho Giáo hội từ 2000 năm trước: Kẻ nghèo được nghe Tin Mừng (Mt l l:5; x.Lc 4.: 18). Đức Thánh Cha giải thích': Trong Tân Ước, sứ điệp phấn khởi vui mừng được loan báo cho người nghèo... Nghèo khó của Phúc Âm luôn luôn hàm ý phải có sẵn một tình yêu vĩ đại cho nhĩmg người nghèo nhất trên thế giới (VietCatholic 28/10/1999).
Người nghèo là nạn nhân trực tiếp của bất công. Chúng ta không thể bình chân như vại trước cảnh anh em đang chết đói cả về vật chất lẫn tinh thần. Cứu được con người khỏi cảnh đói khổ, Hội Thánh sẽ trở nên niềm hi vọng cho muôn dân, Ki tô hữu thực hiện được sứ mệnh do niềm tin đòi hỏi. Chỉ có phục vụ vô điều kiện mới biến cải thế giới. Phục vụ như thế không tránh khỏi búa rìu dư luận và hi sinh quyền lợi lẫn mạng sống. Nhưng có sẵn sàng lãnh đạn, chúng ta mới trở thành lãnh đạo trong Đức Giêsu Kitô. Một tinh thần dấn thân cho công lý sẽ lôi hút giới trẻ và người nghèo hôm nay vào Nước Thiên Chúa, một Nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14:17)