Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/12 Hài Nhi chết vì Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hài Nhi chết vì Chúa.
Thứ Sáu – Ngày thứ tư trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh – Thánh Anh Hài tử đạo. Lễ kính.
"Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem".
* Ít là từ thế kỷ thứ 6, Hội Thánh mừng kính các thánh anh hài trong mùa giáng sinh. Các thánh trẻ, bị vua Hêrôđê giết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những kẻ được cứu chuộc.
LỜI CHÚA: Mt 2, 13-18
Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".
Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lễ Kính Các Thánh Anh Hài
"Dù một chấm một phẩy trong Kinh Thánh
cũng không bỏ qua cho đến khi tất cả được nên trọn".
Không cần phải đưa Hài Nhi ra khỏi Ai Cập, chỉ cần đi xa vài làng mạc thành phố thôi cũng đủ để thoát khỏi bàn tay sát hại của Hêrôđê, hoặc có thể khiến cho ba đạo sĩ không đi ngang qua lối ấy để vua Hêrôđê không biết. Thế nhưng để ứng nghiệm lời tiên tri như đã chép mà Chúa đã làm như vậy. Từ đó chúng ta nhớ lại đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu đã nói: "Ai tuân giữ và dạy người khác thực hành những điều nhỏ mọn nhất trong luật Chúa thì sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời".
Chúng ta đừng hiểu theo nghĩa đen như những người biệt phái và luật sĩ ngày xưa, nhưng phải đem tinh thần của lề luật vượt lên trên hết tất cả mọi điều luật. Ðó là tình yêu khoan dung bao la tha thứ của Thiên Chúa đối với những người ăn năn hối cải quay trở về với người Cha nhân từ.
Hôm nay lễ kính các thánh Anh Hài Tử Ðạo, chúng ta nói qua về vấn đề có tội và vô tội. "Nhân vô thập toàn", không ai là hoàn toàn cả: "Tinh thần thì hăng hái, xác thịt thì nặng nề". Nhóm người cổ Hy Lạp ngày xưa cùng thời với Platon, Aristote cho thân xác là tù ngục của linh hồn là thế. Cho nên nếu chúng ta nói: "Tôi là người vô tội" thì coi chừng tôi đang lừa dối tôi đấy. Thánh Phaolô đã cảnh tỉnh chúng ta: "Khi anh em tin rằng, anh em mạnh mẽ đứng vững, anh em hãy coi chừng kẻo ngã đấy".
Trong bài Thánh Thư hôm nay, thánh Gioan Tông Ðồ có viết thêm: "Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi không phạm tội thì chúng tôi là kẻ kêu Ðức Giêsu Kitô là kẻ nói dối và lời của Ngài không có ở trong chúng tôi". Vì sao? Vì Ðức Kitô đến để chuộc tội cho nhân loại tội lỗi, trong đó có mỗi người trong chúng ta. Thánh Gioan còn nói rõ hơn nữa: "Chính Ðức Kitô là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi nhưng còn đền tội cho cả thế gian nữa". Như thế không ai trong chúng ta là kẻ vô tội.
Lúc mới sinh ra, con người đã mang lấy tội Tổ Tông ngoại trừ Ðức Kitô là Thiên Chúa làm người, ngoại trừ Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, và như Gioan Tẩy Giả được Mẹ Maria mang Chúa đến viếng thăm, dù đang ở trong bụng mẹ cũng đã nhảy mừng và thoát khỏi tội Tổ Tông, còn tất cả chúng ta đều mắc tội Tổ Tông.
Khi lớn lên tới tuổi khôn là tuổi nhận biết, phân biệt được hành vi việc làm của mình, Giáo Hội xác định là bảy tuổi, tức là chúng ta bắt đầu tới tuổi khôn, bắt đầu thêm tội mình nữa. Có một thánh nhân đã thú nhận: "Trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không khỏi có năm phút sai lỗi". Tội nặng hay nhẹ tùy hai yếu tố quan trọng sau đây:
1. Lý do bởi luật buộc là nặng.
2. Do sự chú ý cố tình sai phạm khi biết đó là tội trọng.
Vậy phạm một tội trọng cũng không phải là chuyện dễ, vì phải gồm có hai yếu tố trên.
Con người tuy mang lấy bản tính yếu đuối hay sa ngã, chán nản, mỏng dòn nhưng con người được Thiên Chúa biết và thông cảm cho. Nếu trong một ngày, người anh em con phạm tội đến con và nói với con rằng: "Tôi hối hận" thì con cũng phải tha thứ cho anh em con bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời: "Thầy không bảo con phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn".
Vì nếu chúng ta tính được tới bảy mươi lần bảy thì chúng ta đã trở thành máy móc, trở thành thói quen quán tính tha tội cho người anh em của mình mãi. Chúa đã dạy chúng ta như thế, phương chi lòng Chúa càng phải bao dung tha thứ biết bao nhiêu lần. Tội hay vô tội, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng của vấn đề là có lòng thống hối ăn năn hay không? Ðược tha nhiều sẽ mến Chúa nhiều hơn, như Maria Madalena trong Phúc Âm đã xức dầu thơm chân Chúa, như Phanxicô Xaviê, Augustinô chẳng hạn. Từ đó, con người đam mê trong trụy lạc thời còn trai trẻ được Thiên Chúa cho giác ngộ để dấn thân theo tiếng Chúa gọi và trở nên những vị thánh nổi tiếng lừng danh trong Giáo Hội.
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính các Thánh Anh Hài hôm nay, xin cho mỗi người chúng con ý thức được vấn đề tội lỗi và tình thương của Chúa để chúng con sống đẹp lòng Chúa hơn trong giây phút hiện tại. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Tàn sát các hài nhi
Lễ Giáng sinh trước tiên là lễ của Nhi đồng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thư gửi các thiếu nhi trên thế giới nhân năm quốc tế gia đình: “Những gì đã xảy ra cho Hài nhi Giêsu ở Belem cũng xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và gây hấn của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi đồng quốc tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tị nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỉ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Vài con số trên đây đặt chúng ta trước một trong những thảm trạng của thời đại, đó là sự chà đạp hay chối bỏ quyền của trẻ em. Qui ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em đã được 167 quốc gia ký tên chuẩn nhận, thế nhưng trong thực tế bao khốn khổ mà trẻ em tại những nước nghèo đang trải qua lại là một chối bỏ quyền của trẻ em. Thảm trạng đã xảy ra cho trẻ em Do thái thời Chúa Giêsu sinh ra, ngày nay cũng đang tiếp diễn trên khắp thế giới. Vấn đề trẻ em là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề trẻ em là vấn đè chính sách của quốc gia, những nhà lãnh đạo thế giới và những nhà cầm quyền trong một quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các thiếu nhi.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng với tư cách là cha mẹ, là anh chị, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Thánh Giuse và Đức Maria đã lặn lội đưa Hài nhi trốn sang Ai cập, đó là điển hình của những bậc cha mẹ có trách nhiệm đối với sự sống còn của con cái. Sống cho con cái, giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ.
Nguyện xin Hài nhi Giêsu mà chúng ta chiêm ngắm trong máng cỏ soi sáng hướng dẫn chúng ta trong trọng trách dưỡng dục con cái. Xin Ngài đánh động chúng ta trước thảm cảnh của biết bao trẻ em đang lâm cảnh khốn khổ chung quanh chúng ta và ban cho chúng ta tấm lòng quảng đại để góp phần xoa dịu thương đau của dân tộc mà chính các thiếu nhi phải gánh chịu.
Suy Niệm 3: QUYỀN TRẺ EM CÓ CÒN ĐƯỢC TÔN TRỌNG? (Mt 2, 13 -18)
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đây là quy luật mà ai cũng phải biết.
Tuy nhiên, có một sự thật đau buồn về tình trạng cuộc sống của các trẻ em hiện nay: theo thống kê của các tổ chức quốc tế, ngày nay có hàng triệu triệu trẻ em chết vì chiến tranh, tật nguyền; hay sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tại các trại tỵ nạn và nơi các đường phố, gầm cầu... Biết bao trẻ em thất học, không được đến trường. Tệ hơn nữa là có quá nhiều trẻ em chết dưới bàn tay của chính các bậc làm cha mẹ khi họ quyết định phá thai...!
Tất cả đều do sự chểnh mảng, thiếu quan tâm, vô nhân và chối bỏ quyền của các trẻ em nơi những nhà lãnh đạo, các tổ chức và ngay cả các bậc làm cha mẹ trong các gia đình...
Thảm trạng đau buồn hiện nay của thế giới về các trẻ em cũng chính là đại họa mà các thánh Anh Hài thời Đức Giêsu phải chịu dưới sự tàn độc, ích kỷ, ghen tương của vua Hêrôđê.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đứng lên, tùy khả năng và trách nhiệm của mỗi người, hãy bảo vệ quyền trẻ em. Không ai được phép đứng nhìn những thảm trạng bi đát mà các trẻ em đang phải hứng chịu do nạn buôn bán, bóc lột, lạm dụng và vô lương tâm của người lớn gây nên...
Hãy ý thức vai trò và trách nhiện cao cả của thiên chức làm cha làm mẹ trong các gia đình, không bao giờ chúng ta cho phép mình có quyền trên sự sống sự chết của các trẻ em, dù các em mới là bào thai. Nên nhớ quyền đó thuộc về Thiên Chúa và không ai được phép cướp quyền của Người. Thiên Chúa luôn muốn cho con người được hạnh phúc và được sống dồi dào. Chính vì lý do đó mà Ngài đã giáng sinh để cứu chuộc con người.
Hình ảnh thánh Giuse và Đức Maria vội vã trong đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập đủ cho chúng ta thấy trách nhiệm của các ngài với Đức Giêsu.
Vì vậy, khi mừng lễ các thánh Anh Hài, chúng ta không gợi lại một thảm trạng buồn, nhưng đây là cơ hội để chúng ta học được bài học về tinh thần trách nhiệm, sống hết mình vì con cái như Đức Mẹ và thánh Giuse. Mặt khác, đây cũng chính là dịp để chúng ta hồi tâm nhằm nhận ra sự hờ hững, thiếu trách nhiệm trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái. Hơn nữa, nếu có ai đó trong cộng đoàn đã một lần phá thai hay cổ vũ, tiếp tay cho tội ác tầy trời này, thì đây là thời thuận tiện để chúng ta nhận ra hình ảnh Hêrôđê ác độc qua hành vi mất nhân tính của mình để sám hối và xin ơn tha thứ cũng như biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết ý thức vai trò và trách vụ phải có đối với các trẻ em. Xin Chúa gìn giữ và bảo vệ các trẻ em thoát khỏi những nanh vuốt của những Hêrôđê thời hiện đại khi họ khước từ quyền trẻ em.
Xin Chúa cũng ban cho có nhiều tổ chức từ thiện, nhiều tấm lòng quảng đại ra tay cứu giúp các trẻ em nhằm xoa dịu những đau thương mà các trẻ em phải gánh chịu trong xã hội hiện nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Khóc thương con mình
Suy niệm :
Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui,
chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài.
Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả.
Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người,
trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông.
Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.
Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài.
Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó.
Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập.
Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường.
Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả.
Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà.
Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu.
Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.
Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ,
vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ.
Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem.
Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than.
Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần?
Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt,
cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do.
Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu.
Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo.
Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày.
Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng.
Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ.
Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.
Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết.
Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ,
chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật.
Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân.
Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất.
Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài,
và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ.
Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập.
Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu?
Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng?
Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình.
Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ.
Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai.
Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
27/12 Môn đệ Chúa yêu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Môn đệ Chúa yêu.
Thứ Năm – Ngày thứ ba trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh – Thánh Gio-an tông đồ, thánh sử. Lễ kính.
"Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông".
* Thánh Gioan là người đã được sống thân mật với Chúa Kitô. Thánh nhân đã gặp gỡ Chúa Giêsu bên bờ sông Giođan, được diễm phúc làm nhân chứng khi Chúa hiển dung trên núi và hấp hối trong vườn Ghếtsêmani. Sáng ngày phục sinh, thánh Gioan là người đầu tiên đã tin. Thánh nhân đã truyền lại chứng từ sáng ngời ấy trong các tác phẩm của Người.
LỜI CHÚA: Ga 20, 2-8
Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: "Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu".
Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.
Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lễ Kính Thánh Gioan Tông Ðồ
Thông thường người ta đi chứ không chạy, người ta chỉ chạy khi có một xúc động mạnh thúc đẩy. Có nhiền nguyên nhân gây nên xúc động: Có thể xúc động vì sợ hãi, kẻ thù đang đuổi bắt sau lưng thì chẳng ai mà lại không chạy, hay tai họa sắp giáng xuống thì không cần bảo người ta cũng tìm đường thoát thân. Xúc động còn do một sự lôi cuốn thôi thúc như đang rảo bước nhưng bất chợt có điều lạ xảy ra trước mặt thì các bước chân đều rầm rập chạy tới cho kịp để xem điều lạ ấy. Và xúc động hơn là khi nghe tin người thân yêu đang gặp tai nạn hay nguy hiểm, nếu ở xa thì bằng mọi giá phải quay về cho kịp thời, nếu ở gần thì tức tốc chạy đến nơi.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói về hai cuộc chạy đua của hai Tông Ðồ Gioan và Phêrô. Tại sao họ lại chạy mà không đi? Ðiều gì đã buộc họ chạy như thế? Các Tông Ðồ khi đến mồ thấy mất xác Chúa Giêsu, bà Maria Madalena đã chạy đi báo tin cho các môn đệ. Nhận được tin này, Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mồ, cả hai đều chạy, nhưng Gioan chạy đến trước. Hẳn là vì sức thanh niên trai tráng mà Gioan có thể chạy nhanh hơn. Tuy nhiên, không đơn thuần như thế nhưng còn có một động lực khác buộc ông phải chạy nhanh, đó là vì lòng yêu mến. Ðể được nhìn thấy Thầy đã sống lại, tất cả các môn đệ đều nao nức bàng hoàng, nhưng sự bàng hoàng mang nhiều cường độ sắc thái khác nhau, và dù sao đi nữa người được gọi là môn đệ yêu dấu thì sự bàng hoàng phải lên đến tột độ. Sự bàng hoàng đã làm ông quên mất người bên cạnh, chỉ khi đến mồ ông mới sực nhớ ra và ông đã nhường bước cho Phêrô.
Chỉ một thoáng diễn tả của đoạn Tin Mừng trên, chúng ta cũng thấy được lòng mến của Thánh Gioan Tông Ðồ đối với Chúa Giêsu như thế nào. Tin Mừng không nói lý do tại sao có sự mến yêu đặc biệt này mà chỉ thuật lại diễn tiến.
Từ bước đầu, Gioan cũng được kêu gọi như bao nhiêu người khác, đang vá lưới cùng với anh và cha là Giêbêđê thì hai anh em được kêu gọi trở thành kẻ chài lưới người. Hai người đã từ giã cha mà đi theo Ngài. Ông cũng không phải là kẻ ôn nhu nhưng là kẻ nóng nảy và được biệt danh là con của "sấm sét" được gán cho hai anh em khi hai người xin lửa bởi trời thiêu đốt dân thành Samaria, vì họ không chịu tiếp đón Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quở trách hai ông và có lẽ nhờ vào lời quở trách này mà Gioan biết nhìn vào Chúa Giêsu hơn, vì Ngài là Ðấng đến để cứu chữa chứ không phải để trừng phạt. Càng nhìn vào Chúa Giêsu, Gioan lại càng yêu mến Ngài hơn. Nhưng rồi sau khi đã thưa được trước chén đắng Ngài trao cho thì Gioan đã sẵn sàng cất bước theo Ngài trên con đường tử nạn. Dù rằng lúc này quanh ông chỉ còn đầy những khuôn mặt sát khí muốn giết chết cả Thầy lẫn trò, nhưng Gioan vẫn kiên trung theo Thầy dù các bạn đồng môn đã bỏ trốn và người anh cả Phêrô đã chối Thầy.
Nhờ lòng kiên trung này mà Gioan đã được thay mặt cho cả nhân loại và cho Chúa Giêsu. Thay mặt nhân loại khi ông được gọi là "con của Mẹ", và thay mặt cho Chúa Giêsu khi ông lãnh nhận trách nhiệm săn sóc cho Mẹ "Gioan đón nhận Bà về nhà mình". Và cứ thế mà tình yêu chuyển lướt vào nơi ông, làm cho ông chỉ có một lòng khăng khít sống mật thiết với Chúa, sẵn sàng bước theo Thầy mình đến cùng trong cuộc sống của mình.
Sau khi xác Chúa được táng trong mồ, lòng thánh nhân còn luôn hướng về đó. Vừa nghe tin xác Thầy bị mất, ông liền vội vã chạy đến mồ, ông đã thấy và ông đã tin. Trong lúc các môn đệ khác còn nghi ngờ vì tình yêu đã tạo một mối liên kết vô hình, không đòi hỏi nhiều diễn tả. Thoạt nghe tiếng Ngài gọi ở trên bờ hồ Tibéria, ông đã nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Phêrô nhanh nhẹn nhận ra Thầy mình, và ông liền nhảy xuống biển nhưng Phêrô lại không nhạy cảm bằng Gioan.
Trong ngày mừng kính thánh Gioan Tông Ðồ hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết hun đúc tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu, để rồi chúng ta cũng sẽ nhạy cảm trước những tiếng gọi của Ngài. Ðặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, lúc Vua tình yêu đang giáng hạ trong máng cỏ nghèo hèn. Ước gì chúng ta sẽ nghe tiếng gọi của Ngài, và đến quì chầu bên máng cỏ để chiêm ngắm Vua Tình Yêu. Vì càng chiêm ngắm chúng ta sẽ càng yêu mến Ngài, càng học biết được sự hiền lành và khiêm nhượng của Ngài.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Chạy đến mồ
Thông thường mỗi dịp Giáng sinh, các trẻ em thuộc hầu hết các nước thế giới đều nhận được quà của ông già Noel. Thế nhưng năm vừa qua tại một số trường tiểu học nọ, ông già Noel đã đảo lộn truyền thống: thay vì mang quà cáp đến cho các em, ông đến với bàn tay trống rỗng, thay vì tặng quà cho các thiếu nhi, ông lại là người nhận quà từ tay các em để rồi chuyển cho các thiếu nhi tại nhiều nơi khác.
Hình ảnh ông già Noel với đôi bàn tay trống không có thể gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ khi kính nhớ thánh Gioan Tông đồ trong tuần bát nhật Giáng sinh. Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự trống rỗng, đó là sự trống rỗng của ngôi mộ. Được Maria Madalena thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ, hai người không còn thấy xác Chúa trong ngôi mộ nữa, nhưng nhìn thấy cảnh tượng ấy, Goan đã tuyên bố: “ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng, đó là sứ điệp Gioan muốn gửi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của Mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ; cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh.
Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa; Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé, tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nghèo nàn trơ trụi trong máng cỏ. Qua cảnh nghèo nàn ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến hoá thân làm người để là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng mỗi người sinh ra trên cõi đời này dù khốn khổ đến đâu cũng đều có một phẩm giá cao cả vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin cũng nói với chúng ta rằng chúng ta đã trở nên giàu có thật sự. Và cái giàu có ấy chính là biết mở rộng đôi bàn tay để trao ban.
Suy Niệm 3: LÒNG MẾN GIÚP DỄ DÀNG NHẬN RA CHÚA (Ga 20, 1-8)
Theo truyền thống, phong tục Việt Nam, thì khi có người thân qua đời, sau khi đã lo liệu việc chôn cất xong, khoảng hôm sau hay những ngày kế tiếp... tùy mỗi nơi, họ thường hay có tục ra nghĩa địa viếng mộ để bày tỏ niềm thương tiếc, nhớ nhung người đã khuất.
Ngày xưa tại đất nước Palestine cũng có phong tục đó. Tuy nhiên, họ để ba ngày mới ra viếng mộ. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi thấy sự kiện Maria Mađalêna ra viếng mộ Chúa từ tờ mờ sáng. Bà đến sớm là vì nóng lòng chờ đợi từng giây phút để được đến với Chúa.
Tuy nhiên, điều mà Maria Mađalêna ngỡ ngàng là thấy phiến đá lấp cửa mồ đã được lăn ra khỏi mộ... và khi nhìn vào thì không thấy xác Chúa đâu cả...Trong tâm trí của bà lúc này là: đã có ai đó lấy cắp xác Chúa...???
Sau đó, Maria Mađalêna vội về nhà báo tin cho các Tông đồ biết sự việc lạ lùng này... Gioan và Tông đồ trưởng Phêrô đã chạy đến mộ để phục kích tận mặt xem thực hư thế nào. Khi tới nơi, Tông đồ trưởng chỉ thấy ngỡ ngàng và chưa thể đoán được sự việc ra sao! Nhưng Tông đồ Gioan thì biết, ông đã thấy và đã tin, vì ngài nhớ lại lời Đức Giêsu đã loan báo trước đó là: “ngày thứ ba sẽ sống lại...”.
Điều mà chúng ta cần khám phá nội dung tiềm ẩn hay chủ đạo trong bài Tin Mừng hôm nay chính là hai chữ: “Lòng mến”. Vì yêu mến Chúa tha thiết, nên Maria Mađalêna đã đến mồ từ tảng sáng của ngày thứ nhất trong tuần. Vì yêu, nên Tông đồ Gioan cũng nhận ra Chúa đã sống lại một cách chắc chắn. Ngài cũng là người đầu tiên hiểu và tin vào việc này. Sau này chúng ta còn thấy Gioan đã nhận ra Chúa trước tiên trên bãi biển trước hết...
Như vậy, chính tình yêu đã nối kết lòng với lòng. Tình yêu đã lý giải những chuyện phi thường và mầu nhiệm cách dễ dàng. Ngôn ngữ tình yêu là ngôn ngữ của tấm lòng...
Vậy Gioan là ai? Thưa ngài là một trong những người con ông Dêbêđê, có thể ngài là bà con họ hàng với Đức Giêsu, là em của Giacôbê, làm nghề đánh cá trên biển. Ngài cũng là một trong ba Tông đồ được Đức Giêsu tỏ mình cách đặc biệt trong cuộc thần hiện trên núi Tabor. Và, ngài còn là một con người được biết đến với tính khí nóng nảy, tham vọng, nhưng cũng là người dũng cảm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tình yêu là ngôn ngữ không lời để hiểu và đi vào mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu được những điều kín nhiệm trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được những nghịch lý của Tin Mừng. Như vậy, nhờ tình yêu mà chúng ta thêm sự trung tín, can đảm, trung thành.
Mừng lễ thánh Gioan Tông đồ hôm nay, chúng ta hãy noi gương ngài: yêu mến Thiên Chúa tha thiết; sẵn sàng sống chết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình; hãy yêu rồi làm gì thì làm. Chỉ có tình yêu mới làm cho những việc chúng ta nói và làm có giá trị mà thôi...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con cháy lửa yêu mến Chúa như thánh Gioan khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Ông đã thấy và đã tin
Suy niệm :
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm trước bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
26/12 Vị Tử Đạo tiên khởi
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Vị Tử Đạo tiên khởi.
Thứ Tư – Ngày thứ hai trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh – Thánh Têphanô tử đạo tiên khởi. Lễ kính.
"Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha"
* Thánh Têphanô là vị tử đạo tiên khởi, đứng đầu danh sách bảy phó tế, những người giúp các Tông đồ trong những công việc vật chất. Người cũng đã tham gia công tác loan báo Tin Mừng và chết ở Giêrusalem, để lại gương mẫu cho những ai muốn trở thành nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh, muốn noi gương cuộc thương khó của Chúa.
LỜI CHÚA: Mt 10,17-22
Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.
Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.
Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.
Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cuộc Tử Ðạo Tiên Khởi Của Thánh Stêphanô
Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.
Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu như nhi sau: "Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu".
Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: "Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài". Sau đó ông nói với Mẹ Maria: "Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra".
Như vậy, ngay từ những ngày đầu của cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta đã nghe được lời tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và cũng ám chỉ đến cuộc tử đạo của Maria, Mẹ Ngài. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ sẽ đứng thinh lặng bên Thập Giá của Con Mẹ. Cũng thế, không bao lâu sau khi Chúa Giêsu được sinh hạ thì Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một mối đe dọa trầm trọng. Ông vua hung bạo Hêrôđê sẽ ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em dưới hai tuổi. Và vì lý do này, Chúa Giêsu sẽ phải bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập.
Chắc hẳn tất cả chúng con đã biết các biến cố gắn liền với việc sinh hạ của Chúa Giêsu. Cha mẹ chúng con, các linh mục, các giáo lý viên và những biến cố ấy, và cùng với toàn thể Giáo Hội, mỗi người trong chúng con sống lại một cách thiêng liêng trong biến cố ấy trong Mùa Giáng Sinh. Như vậy, chúng con đã biết những khía cạnh bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu.
Sống lại một cách thiêng liêng những biến cố bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đó không phải là những lời nhắn nhủ mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi riêng cho các em thiếu nhi. Vì qua các em, Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người sống một cách thiêng liêng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ngay trong chính mầu nhiệm Giáng Sinh.
Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.
Thật thế, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm tử nạn được tiếp diễn trong lịch sử Giáo Hội. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Phải chăng chúng ta không được mời gọi để nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thánh Giá phải chăng đã không chập chờn phủ xuống trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ ôn lại những bi thảm trong thời thơ ấu của Ngài. Khi tưởng niệm việc tử đạo vị thánh tiên khởi của Giáo Hội, chúng ta hẳn phải được nhắc nhở về số phận ơn gọi làm Kitô hữu của chúng ta, đó là bước theo Chúa Giêsu qua từng giai đoạn của cuộc sống Ngài, và như Ngài, như vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đã vạch ra cách sống kiên trung cho đến cùng trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa.
Ước gì niềm vui Giáng Sinh củng cố chúng ta trong những cố gắng theo Chúa Giêsu, sẵn sàng đón nhận và đương đầu với những thử thách bách hại mà Thiên Chúa an bài gởi đến cho chúng ta, như Ngài đã loan báo trước: "Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét".
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: VINH DỰ LỚN LAO LÀ ĐƯỢC CHẾT VÌ CHÚA (Mt 10,17-22)
Xét theo góc độ con người thì khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay, hẳn mỗi người cảm thấy buồn buồn! Buồn bởi vì niềm vui mừng, hân hoan của cả thế giới đón chào Chúa Giáng Sinh chưa hết, thì hôm nay, lời Đức Giêsu làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng cho những ai bước vào sứ mạng làm môn đệ của Đức Giêsu, Ngài phán: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy”.
Lời loan báo của Đức Giêsu đi ngược hẳn với các nhà lãnh đạo thế gian. Thật vậy, khi muốn chiêu mộ ai, người đời thường đưa ra những lời đường mật, an ủi, họ đưa dẫn chúng ta đi trên con đường đầy hoa thơm, và hứa hẹn những sự dễ dãi... cho người mà họ muốn chiêu dụ... Nhưng làm môn đệ của Đức Giêsu thì khác hẳn: những thử thách, đau thương và đôi khi cả chính cái chết là là những quà tặng mà người môn đệ sẽ nhận được trong cuộc đời sứ vụ của mình.
Kinh nghiệm cho thấy, trải qua biết bao thế hệ, hàng hàng, lớp lớp những môn đệ của Đức Giêsu khắp năm châu đã phải đón nhận những hệ quả tang thương đó. Tuy nhiên, những đau khổ đó không thể làm chùn chân bước của các môn đệ. Lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên, đến nỗi những người gây ra những tội ác đó cũng phải ngỡ ngàng và không hiểu nổi! Tuy nhiên, đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta hiểu được nguyên lý đó, vì: “Hạt lúa cuộc đời phải mục nát đi thì mới sinh được nhiều bông hạt khác”; hay “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Đây là nguyên lý bất hủ và trường tồn vĩnh viễn nơi những người con của Chúa. Vì thế, không ai và không có gì có thể dập tắt được tình yêu của những người “say men Giêsu”.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô, ngài là một người can đảm, anh hùng hào kiệt. Chắc hẳn, thánh nhân đã cảm nghiệm được sâu xa nguyên lý của hạt lúa trong thân phận tự hủy. Bởi lẽ, sự hào hùng, can trường mới làm toát lên đặc tính của những người thuộc về Đức Kitô là: không bao giờ và không thể chấp nhận thỏa hiệp với sự dữ, sự tội. Vì thế, thánh nhân đã xuất sắc trong khi thi hành sứ vụ, bởi vì ngài được tình yêu Đức Kitô nung đốt tâm hồn. Thánh Têphanô xứng đáng lãnh nhận lời khen ngợi của Kinh Thánh: ngài là người “đầy lòng tin và đầy Thánh Thần". Quả thật, ngài đã hăng say rao giảng về Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận chính cái chết để làm chứng về Đấng mà mình loan báo.
Thánh Têphanô đã thay đổi thế cuộc, vì lúc ban đầu là một phiên tòa ghê rợn với bản án tử hình khủng khiếp với trò ném đá đến chết bị cáo; cảnh náo động bao trùm phiên tòa bất chính này, nhưng bị cáo hôm nay thì khác hẳn, và chính lúc mọi người thi hành án thì ngài lại cảm thấy bình an, thanh thoát, nhẹ nhàng và tràn đầy hy vọng. Khung cảnh này đã làm đảo ngược tình thế, và cáo trạng mà người ta gán ghép cho Têphanô giờ đây lại chất vấn lương tâm họ, khiến họ cảm thấy bất an và lo sợ.
Trong xã hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn ái ngại, dè dặt khi loan báo về sự thật mà Giáo Huấn của Đức Giêsu cũng như Giáo Hội mời gọi. Có khi vì cảm thấy sợ hãi, liên lụy đến tính mạng mà im hơi lặng tiếng để cho qua cầu; hoặc cũng có thể rơi vào tình trạng như đức Hồng Y Thuận đã nói: họ là những hạng người: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”, nên khi không có lợi cho bản thân là họ sẵn sàng trở thành kẻ nịnh thần để cho xong chuyện...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta can đảm, trung thành làm chứng cho Chúa dẫu có gặp phải thử thách gian truân. Noi gương thánh Têpphanô, sống chết vì sứ vụ, miễn sao sự thật được loan báo và Đức Kitô được tin nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con khi mừng kỷ niệm ngày Chúa giáng trần, thì cũng hiểu được sứ vụ của Chúa trong tương lai và trách nhiệm của người môn đệ khi bước theo Chúa trên con đường đó. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 3: MUỐN ĐƯỢC CHÚA BÌNH AN, PHẢI ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHIỀU ĐỐI KHÁNG.
Chúng ta mới mừng lễ Chúa Giáng Sinh ngày hôm qua, dân Chúa tiếp tục phụ họa tiếng hát thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Lời ca này như còn đang văng vẳng bên tai, thế mà ngày hôm sau (26/12), Phó tế Stêphanô là mẫu người sống hết lòng tin theo Chúa Giêsu, thì bình an chẳng đến với ông, trái lại bị nhiều người căm phẩn, họ hùa nhau ném đá cho chết, đó là mẫu người được hưởng sự bình an Chúa Giáng Sinh ban đấy ư? Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với những môn đệ đi theo Ngài: “Thầy ban bình an chúng con không như thế gian ban” (Ga 14,27). Do đó, những kẻ ước mơ thứ bình an “rẻ tiền” để hưởng thụ, thì Chúa Giêsu dạy: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, ta đến không phải đem bình an, mà là đem gươm giáo. Ta đến gây chia rẽ ngay nơi những người trong cùng một gia đình, và kẻ thù của người ta lại là người nhà của mình” (Mt 10,34-36). Quả thật, những người Do Thái cùng gọi Thiên Chúa là Cha, cùng tôn thờ Ngài theo Luật Môsê hướng dẫn để tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất (x Gl 3,24), thì chính những người này lại đối nghịch với ông Stêphanô, vì ông đã chia rẽ niềm tin của họ. Đó là lý do họ quyết liệt loại trừ ông khỏi mặt đất.
Chúng ta còn nhớ ngày Đức Giêsu bị xét xử, ông Philatô không muốn nhúng tay vào tội ác giết Ngài, nên ông nói với người Do Thái: “Các ông cứ đem xử theo Luật của các ông”, thì người Do Thái lại trả lời: “Chúng tôi không có phép lên án xử tử ai” (Ga 18,31). Người Do Thái trả lời cho ông Phi-la-tô như thế, là vì vào thời ấy, Do-thái đang bị đặt dưới ách thống trị Roma, quyền bính Roma không cho phép người Do Thái lên án xử tử ai, dù Luật Do Thái cho phép họ ném đá kẻ nào phạm đến Luật Môsê. Thế mà tại sao những người Do Thái lại tự quyền ném đá ông Stê-pha-nô? Thưa vì vào năm 36, tổng trấn Phi-la-tô đang cai trị miền Giu-đa, ông bị hoàng đế triệu về Roma, mãi đến năm 37 Roma mới đặt tổng trấn Marxili cai trị miền Giuđa, như thế người Do Thái lợi dụng lúc không có ai điều hành pháp luật, họ đã ném đá Stêphanô cho chết ! Sự cố này đã làm ứng nghiệm Lời Chúa Giê-su nói: “Kẻ thù là người nhà của mình” (Mt 10,36). Khi Phó tế Stêphanô bị “người nhà” ném đá, tâm tư ông giống hệt Chúa Giêsu, lúc sắp chết ông hướng tâm hồn về đồi Golgotha, chiêm ngưỡng Đức Giêsu bị treo trên thập giá, và ông bắt chước Ngài cầu nguyện cho kẻ hại mình: “Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhận hồn con, và xin Chúa đừng chấp tội kẻ hại con” (Lc 23,34-46 = Cv 7,59-60). Như thế nội dung lời cầu nguyện của ông Stêphanô giống hệt nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá, chỉ khác một điều là ông đã đảo lộn thứ tự lời cầu: Đức Giêsu thì cầu nguyện cho kẻ hại mình trước, sau đó mới phó dâng linh hồn cho Chúa Cha, xem ra như Ngài muốn yêu sách: Nếu Cha không tha tội cho kẻ hại Con, thì Con không dám dâng hồn Con cho Cha ; Còn ông còn Stêphanô, vì là phàm nhân nên cần được Thiên Chúa cứu độ mình trước, ông mới có khả năng cứu được người khác, nên ông đã cầu nguyện: Xin Chúa đón nhận lấy hồncon trước, sau đó ông mới xin Chúa tha tội cho kẻ giết ông. Chính nhờ ông Stêphanô biết cầu nguyện cho kẻ hại mình, ông đã thực hành đúng Lời Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu mến thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Sống như thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu vì cùng là Con Đấng Tối Cao (x Lc 1,32 = Lc 6,35). Nhờ ông Stêphanô cầu nguyện cho những kẻ giết mình, nhất là cầu cho Saulô, kẻ ôm áo động viên những người Do Thái ném đá ông (x Cv 7,58: Bài đọc). Hiệu quả lời cầu nguyện ấy là Chúa biến “sói Saulô” thành “bồ câu Phaolô” đem Tin Mừng bình an đến cho muôn dân. Đó mới thực là phúc bình an Chúa ban cho ai biết dùng “gươm” chân lý để chiến đấu. Bởi vậy trong giờ Kinh Phụng Vụ buổi Sáng kính thánh Stêphanô, Hội Thánh đã đặt vào miệng chúng ta lời Thánh vịnh: “Thanh gươm hai lưỡi (Lời Chúa) cầm chắc trong tay, để trả thù muôn nước và trừng trị chư dân, để xiềng chân vua chúa (kẻ ác), và xích cổ vương hầu, để thi hành án phạt, Chúa đã viết từ xưa, đó là niềm vinh dự cho những kẻ trung hiếu với Người” (Tv 149,6-9).
Để sống niềm tin vào Chúa Kitô như ông Stêphanô, chúng ta phải cầu nguyện: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con. Xin giải thoát con khỏi tay địch thù, khỏi người bách hại con” (Tv 31/30, 3.4.6a.16bc: Đáp ca).
Suy Niệm 4: SỐNG NIỀM TIN VÀO CHÚA KITÔ LÀ SỐNG TRONG HY VỌNG NƠI NGÀY CÁNH CHUNG.
Trong mùa Vọng, người Kitô hữu ai cũng thích nghe lời ngôn sứ Isaia tiên báo về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người thoát khỏi mọi sự dữ: “Sói sống chung với chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn lục…” (Is 11,1-4: Bài đọc). Có nghĩa là vào thời Con Thiên Chúa làm người, kẻ ác không còn làm hại người lành, sự thiện thắng sự dữ, hoặc kẻ ác, người lành vẫn sống chung hòa bình, nhờ Đấng Cứu Thế đến như Mục Tử chăn dắt con chiên thuộc ràn của Ngài. Thế mà Đấng ấy đã đến trần gian gần 40 năm rồi, và Ngài đã đánh gục tử thần, sống lại vinh hiển ; rồi về Trời dọn chỗ cho những kẻ đi chung đường phục vụ với Ngài (x 1Ga 2,6), và tiếp tục tuôn đổ bình an xuống cho loài người Chúa thương. Vậy tại sao Chúa lại để cho “sói Saulô” vẫn ăn thịt “chiên Stêphanô”, và rắn lục là các đầu mục Do Thái vẫn cắn chết “trẻ thơ Stê-pha-nô” ?
Thắc mắc này chỉ có thể trả lời vào ngày cánh chung, vì ngày ấy mới thấy “sói Saulô” và “chiên Stêphanô” sống chung với nhau. Khi ấy “sói Saulo” và “chiên Stêphano” có thể đùa giỡn với nhau.
Hãy hình dung:
Stêphanô vừa thấy Phaolô tới cửa Thiên Đàng, ông Stêphanô lên tiếng thưa với Chúa :
- Lạy Chúa, tên này xưa kia động viên người ta ném đá con, nay hắn lại vào đây, chắc rồi hắn sẽ lại kích động cả các thần thánh ném đá Chúa không chừng ?
Ông Phaolô cũng không vừa, ông kêu cầu tới Chúa :
- Lạy Chúa, Ngài dạy phải tha thứ cho kẻ thù mình tới 70 lần 7 mỗi ngày, thế mà anh Stêphanô này được vào Thiên Đàng trước con mà tâm hồn vẫn còn chấp nhất tìm cách trả thù kẻ đã hại mình kìa.
Lúc ấy, hẳn Chúa Giêsu lên tiếng can thiệp :
- Thôi mà hai anh em con đừng chọc ghẹo nhau nữa.
Thế là hai ông ôm nhau khóc bởi qua vui mừng: Nhờ Stêphanô đã cầu nguyện cho Saulô mà Chúa xuất hiện đón lấy hồn Stêphanô ; còn Saulô được Stêphanô cầu nguyện mà ông trở nên Tông Đồ xuất sắc không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), nay cùng nhau được sum họp trên Thiên Đàng hưởng phúc vinh với Chúa.
Vậy hai ông Stêphanô và Phaolô đã minh họa “sói – chiên” sống chung với nhau trong bình an vô tận với Chúa.
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
Suy Niệm 5: THÁNH STÊPHANÔ
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
- Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vìChúa Kitô.
- Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
- Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
- Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
- Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
- Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người.(Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:
a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.
b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy.
Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù.
Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: "Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!"
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:
"Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết".
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: "Tôi là một tín hữu Kitô", và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: "Mắt đền mắt, răng đền răng", và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: "Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con." (Mt 5,44). Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Suy niệm 6: Xin nhận lấy hồn con
Giáo Hội mừng kính lễ thánh Stêphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.
Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.
Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.
Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),
đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).
Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).
Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.
Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).
Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).
Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.
Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,
khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).
Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.
Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.
Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c.56).
Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.
“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”
Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,
một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.
Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.
Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.
Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).
Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).
Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại
với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.
Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.
Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.
Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:
“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).
Ông gọi Đức Giêsu phục sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,
như Ngài đã trao đời Ngài trong Cha.
Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,
Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.
Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.
“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).
Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.
Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.
Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.
Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.
Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.
Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,
chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp :
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
25/12 Ngôi Lời đã làm người
- Viết bởi Mt 1, 18-25
Ngôi Lời đã làm người.
THỨ BA – Lễ GIÁNG SINH – Lễ Trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
LỄ VỌNG
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
THÁNH LỄ BAN ĐÊM
LỜI CHÚA: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
THÁNH LỄ RẠNG ĐÔNG
LỜI CHÚA: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
THÁNH LỄ BAN NGÀY
LỜI CHÚA: Ga 1, 1-18
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
1. Gia đình
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
2. Con người - Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu nhiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
3. Không nhà không cửa
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?
4. Giáng Sinh: Mầu Nhiệm Của Lòng Thương Xót
(Lễ Giáng sinh 2015 (Lễ ban ngày) – ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?
1. Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.
2. Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.
Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.
Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.
Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
3. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.
Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.
Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).
Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.
Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.
4. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.
Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu.
5. Bệnh Giêsu
Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.
Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.
Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.
Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.
Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.
Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa?
6. Bài giảng Lễ Giáng Sinh của ĐTC. Gioan Phaolô II
HÔM NAY ĐẤNG CỨU THẾ
ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Địa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Đông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Đấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Đấng Cứu Chuộc sinh ra, Đấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Đấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
7. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh - Lc 2,1-14
(“Suy Niệm Lời Chúa” của Radio Veritas Asia)
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
8. Bài giảng của ĐTC Phanxicô
(Bài giảng của ĐTC Phanxicô trong Lễ Đêm Giáng Sinh 2015 tại Đền Thánh Phêrô – Lm Trần Công Nghị chuyển ngữ)
Đêm nay "một ánh sáng tuyệt vời" chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao" (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.
Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được "sinh ra cho chúng ta"; Ngài đã được "ban cho chúng ta", như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị "Hoàng tử của hòa bình" và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.
Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, "hãy chối bỏ những con đường không có Chúa" và sự phú qúy của thế gian, để sống "tiết độ, công minh, sốt sắng "(Tit 2:12).
Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.
Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: "Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ" (Tv 85: 8).
9. Noel! Ngày lễ Hòa Bình – Thiên Phúc
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.
Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.
Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.
***
Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
***
Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen!
10. Ánh sáng rạng ngời – Ga 1,1-14
(“Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Ánh sáng tình yêu
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Ánh sáng chân lý
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ánh sáng ban nguồn sống.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Lạy Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi sáng giữa đêm đen. Xin dậy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen.
11. Ôn cố tri tân - Lm JP. Vũ Minh
(Lễ Giáng Sinh 2013 – Lễ Nửa Đêm)
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản - như ở Việt Nam - người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn - người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) - để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm - không mịn màng như cám - nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013!
12. Ánh Sáng đã đến thế gian - Anmai
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.
Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam - Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.
Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3, 14.15).
"Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi". Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.
Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)
Và, Isaia cũng loan báo:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó".
Thế đấy ! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.
Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: "Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". (Lc 2, 1-7).
Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.
Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.
Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.
Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)
Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa
Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.
Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.
Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này
Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được.
13. Ba quả táo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
LỄ GIÁNG SINH
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Evà
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:“Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
14. Chúa tìm gì nơi ta? (Lc 2, 1-14)
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian". Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay".
Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây hơn 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường "ô nhục Bá Linh". Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy "dĩ hoà vi qúy" làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau", để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần "chị ngã em nâng" và "lá lành đúm lá rách". Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì "một điều nhịn chín điều lành". Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là "nhân linh ư vạn vật", nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen.
15. Lòng nhân ái thực sự (Lc 2, 1-14)
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó. Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bài báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuổi. Tôi bảo chúng: "Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có". Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói... Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: "Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh".
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: "Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà".
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: "Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia".
Khi bạn tặng hoa, bạn sẽ chọn một hông hoa đẹp nhất để tặng. Khi bạn chọn một tặng vật, bạn cũng gởi gắm một sứ điệp nào đó qua món quà. Người ta nói: "Vượt lên trên món quà là cả một tấm lòng". Quà tặng không dựa trên giá trị vật chất nhưng quan trọng ở tấm lòng người tặng. Thế nhưng, con người chúng ta thường dễ dàng đem cho những thứ mình bỏ đi, ít ai dám đem tặng những cái mình yêu thích nhất. Điều đó chưa hẳn phát xuất từ tấm lòng nhạy cảm trước nhu cầu tha nhân, mà thường là việc làm chiếu lệ cho qua. Lòng nhân ái thực sự là đem cho những gì mình yêu quý nhất. Sự chia sẻ chân thành là lòng mong muốn người khác cũng được vui tươi, được hạnh phúc như chính mình. Đó mới thực sự là nghĩa cử cao đẹp của người có tấm lòng quảng đại, vị tha.
Thiên Chúa cũng dành một món quà vô cùng quý giá cho con người, chính là cho Con Một Ngài giáng trần. Ngài là Emmanuel ở giữa nhân loại. Ngài là niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Qua Ngôi Lời giáng thế, Thiên Chúa đã đi sâu vào kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể lau khô những giọt nước mắt lầm than cho những người nghèo khổ, cho những kẻ tật nguyền. Vâng, Chúa đã làm người nên Ngài có thể hiểu được nhu cầu của con người. Ngài có thể thông chia những vui buồn cùng con người. Chính Ngài đã đi cùng con người qua những thăng trầm của đời người. Chính Ngài cũng muốn nếm cảm sự mỏng dòn của kiếp người vô thường: sinh - bệnh - lão - tử. Chính Ngài đã đi đến tột cùng của hiến dâng là dám chết cho người mình yêu.
Như vậy, sứ điệp của giáng sinh là trao ban, là chia sẻ, là bác ái cảm thông. Chúa giáng sinh là món quà quý báu mà Thiên Chúa Cha đã tặng ban cho trần gian. Đồng thời, khi chiêm ngắm Ngôi Hai Thiên Chúa trong hình hài một hài nhi yếu đuối, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài một chút chia sẻ tình thương. Ngài cũng cần chúng ta thi thố tình thương cho Ngài. Ngài đã sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã và đang thiếu thốn tư bề. Ngài đang cần chúng ta làm điều gì đó cho Ngài. Như các mục đồng năm xưa đã dâng cho Hài Nhi Giêsu những con lừa, con bò, những cọng rơm để sưởi ấm cho Chúa. Hôm nay, Chúa cũng đang đồng hoá mình trong thân phận những con người lầm than, cơ hàn. Ngài đang cần chúng ta chia sẻ một chút tình người, một chút lòng bác ái, một chút tinh thần dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần trên những con người bất hạnh mà chúng ta gặp trên mọi nẻo đường. Có thể chúng ta đang mang trong mình những dự tính thật lớn lao để phục vụ anh em, nhưng thực ra, Thiên Chúa đang cần chúng ta phục vụ Ngài từ những việc rất bình thường trong đời sống hằng ngày. Vâng, một cái nhìn cảm thông và một nụ cười khích lệ tưởng như nhỏ nhoi, chẳng đáng kể, nhưng điều đó lại có thể xua tan những mây mù giữa trần đời và kiến tạo mùa xuân yêu thương cho trần gian. Một đồng tiền lẻ, một chén gạo tình thương xem ra thật nhỏ bé nhưng có thể làm ấm lòng bao người đang đói rách tư bề.
Vâng, Chúa giáng sinh đang tiếp tục giáng sinh trong trần thế qua những thân phận bất hạnh, yếu đuối, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta đến với Ngài trong yêu mến và phục vụ chân thành như các mục đồng năm xưa. Đây chính là lời mời gọi thiết thực nhất từ hang đá Belem. Chúa Giáng sinh đang cần bạn và tôi không chỉ đến thờ lạy Ngài mà còn dâng tặng cho Ngài một chút tình thương để sưởi ấm Ngài trong đêm thâu giá lạnh.
Ước gì mỗi người chúng ta khi mừng Chúa Giáng sinh chúng ta cũng biết nghĩ đến những người nghèo chung quanh chúng ta. Xin đừng lạnh lùng, vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân. Ước gì tình người chúng ta được liên đới với nhau bằng sợi dây yêu thương sẽ làm cho việc kỷ niệm Con Chúa Giáng sinh thêm nồng ấm tình thương. Amen.
16. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: "Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Đôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Đối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Đấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
17. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
(Camille Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: “Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” – “Thật mừng là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: “Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: “Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ”. Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn tuyệt vời”, Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”. Ngài sẽ là “một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.
18. Bài giảng của ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc 2015
(Lễ Đêm Giáng Sinh 24.12.2015 tại Giáo xứ Hợp An)
1. Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui mừng hân hoan đón Chúa đến với chúng ta. Chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của việc Chúa đến.
Chúa đến đây làm gì? Chúa đến trần gian để đem Niềm Vui, đem Hạnh Phúc của Chúa đến cho chúng ta. Chúa đến trần gian để đem Ơn Tha Tội đến cho loài người đã sa ngã phạm tội từ thời đại này sang thời đại kia. Chúa đến trần gian để mạc khải Tình Yêu, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho loài người chúng ta. Chúa đến để đem Bình An, để hòa giải loài người lại với Thiên Chúa và con người lại với nhau.
2. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2, 1-14) cho chúng ta biết việc Chúa sinh ra ở đời là một sự kiện lịch sử, xảy ra thời Hoàng đế Augustô (x. Lc 2,1). Thánh Giuse và Mẹ Maria từ Nazareth thuộc vùng Galilê đến Bêlem miền Giuđê, quê hương của Vua Đavít, tổ tiên ngài (x. Lc 2,4). Hai ông bà, vì không có tiền thuê quán trọ, đã sinh Chúa Giêsu trong hang bò lừa (x. Lc 2,7). Đó là một sự kiện lịch sử, nhưng cũng là một Biến Cố Siêu Việt, Siêu Lịch Sử. Đấng Sinh Ra là Đấng Thánh, là Đấng Tạo Thành Trời Đất, là Chủ và là Chúa của Lịch Sử. Chính vì thế mà có sứ thần Chúa hiện ra cho các mục đồng đang chăn chiên: “Anh em đừng sợ! Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân.” (Lc 2,10)
3. Theo Thánh Phaolô trong thư gởi Titô (Tt 2,11-14), Đấng Thánh sinh ra cho nhân loại chúng ta, Người Con giáng trần vì chúng ta, là Ân Sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2,11). Ân Sủng đó là chính Chúa, dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (x. Tt 2,12). Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính (x. Tt 2,14).
4. Chúng ta hát lên mừng Chúa một bài ca mới; hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh (x. Tv 96 (95),1-2a). Chúa đã ban cho Dân Chúa chứa chan niềm hoan hỷ, đã tặng thêm nỗi vui mừng (x. Is 9,2a). Họ mừng vui trước Nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt (x. Is 9,2b). Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta (x. Is 9,5a). Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh (x. Is 9,6b).
5. Noel năm nay mọi người chúng ta hãy hướng tới Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cũng như khuyết điểm và chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Nhà Thờ Chính Tòa. Giờ đây chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vào trong cuộc sống và đưa ra thực hành. Hãy xót thương những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân, những người khuyết tật, những người bị bệnh nan y…
19. Bài giảng Lễ Đêm Giáng Sinh 2015
(ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
NƠI MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là biến cố vĩ đại, như lời thánh Phaolô (Bài đọc 2), đêm nay “ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ”, Con Thiên Chúa sinh ra trong thế giới của chúng ta để “đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Đây là ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót đối với nhân loại đang sống trong khổ đau, tinh thần và thể xác.
1. Khi bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái sống trong cảnh khổ đau trên bình diện tinh thần và thể xác, cá nhân cũng như quốc gia. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót không nỡ để họ mãi mãi chìm ngập trong khổ đau và thất vọng. Qua lời tiên tri Isaia (Bài đọc 1), chính Thiên Chúa lên tiếng loan báo cho họ ngày giải thoát, ngày Thiên Chúa cứu họ khỏi bàn tay hung dữ độc ác của kẻ thù. Ngài sẽ cho một trẻ thơ chào đời để cứu họ. Người con ấy là Đấng quyền năng, là Thủ lãnh hoà bình, sẽ thiết lập nền hoà bình vô tận, trong một vương quốc được xây dựng trên nền tảng chính trực và công minh. Chính niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Do Thái qua những chặng đường lịch sử. Họ luôn trông đợi sẽ có ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng xót thương.
Thế giới của chúng ta hôm nay cũng đầy dẫy những khổ đau. Từ bản thân đến gia đình, từ họ hàng đến làng xóm, từ cá nhân đến xã hội, từ quê hương đất nước đến thế giới toàn cầu, cuộc sống tràn ngập khổ đau. Sự dữ lớn nhất là tội lỗi, tội cá nhân, tội tập thể. Rồi nào là hận thù, áp bức, cướp của, chém giết, xung đột, khủng bố, bạo hành, đang diễn ra từng ngày trên thế giới, ngay trong xã hội, trường học và gia đình của chúng ta. Trầm trọng hơn, nhiều quốc gia vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh loạn lạc. Nhiều nơi khác, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúng ta mong đợi một sự giải thoát, khao khát ấm no hạnh phúc. Có lẽ chúng ta chờ đợi một phép mầu xoá tan mọi đau khổ để khai sinh một thế giới mới bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa có thương xót nhân loại nữa chăng? Lòng thương xót của Chúa có đủ quyền năng để giải cứu loài người không?
Với niềm tin Kitô hữu, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương nhân loại, yêu thương từng người chúng ta. Ngài là Chúa của lịch sử, là Đấng quyền năng vô biên. Ngài sẽ cứu thế giới như đã cứu dân Do Thái.
2. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ giới hạn nơi việc giải thoát dân Do Thái. Lời hứa của Thiên Chúa nhắm đến những thực tại lớn lao và sâu xa hơn. Trong đêm Giáng sinh này, lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc ban tặng cho nhân loại người Con Một yêu dấu. “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha… Vào thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt… Chúa Giêsu thành Nazareth, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Ngài, đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (Dung mạo lòng thương xót, số 1). Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế giới được giao hoà với nhau. Đó là sự giải cứu sâu xa và lớn lao đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho nhân loại.
3. Thiên Chúa thương xót chúng ta bằng cách ban tặng Chúa Giêsu để Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và dục vọng. Tội lỗi và dục vọng, phải, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ đó. Con người gây ra đau khổ cho nhau là vì trước hết con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn phá đổ công trình tạo dựng của Ngài. Một khi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, thì đồng thời con người cũng loại trừ nhau. Một tâm hồn bất an và bị xâu xé bởi đủ loại dục vọng làm sao có thể sống hài hòa với người khác được?
Do lòng thương xót muốn cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và dục vọng là căn nguyên của mọi đau khổ, nên đêm nay, Con Thiên Chúa từ trời cao đã đi vào trần gian đi tìm chúng ta. Nhân loại tựa như đoàn chiên lầm đường lạc lối, hôm nay được Chúa Giêsu xuống thế tìm kiếm đưa về Nhà Cha. Vị Mục tử giàu lòng thương xót ôm chúng ta vào lòng và đưa về sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hoặc có thể dùng một hình ảnh khác, nhân loại tựa như nạn nhân bị cướp đánh nhừ tử và bỏ dở sống dở chết bên đường, hôm nay đã được Chúa Giêsu như người Samari nhân hậu, xuống lừa, xoa dầu, băng bó vết thương và chữa lành. Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ như thế đó.
Vì thế điều đầu tiên phải làm để được cứu độ là nhìn nhận mình có tội để được Thiên Chúa thương xót thứ tha. Nếu muốn sống khoẻ mạnh, điều kiện đầu tiên là loại trừ bệnh tật. Mang mầm bệnh trong người thì làm sao khoẻ mạnh? Mà muốn khỏi bệnh, phải nhận mình có bệnh. Không nhận mình có bệnh thì làm sao được chữa khỏi bệnh? Cũng thế, hãy nhìn nhận mình cần được Chúa thương xót.
4. Một khi đã được Thiên Chúa thương xót và thứ tha, chúng ta hãy trở thành chứng nhân và sứ giả của lòng thương xót. Chúa Giêsu đã đi vào đời và gieo mầm tin yêu khắp nơi, để đến phiên mình, mỗi người cũng biết thực thi lòng thương xót, để nhờ đó góp phần kiến tạo một thế giới mới, một xã hội mới, được xây dựng trên công lý và tình thương.
Nếu không có lòng bao dung nhân ái và tha thứ, bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, hận thù sinh ra hận thù, tựa như vòng xoáy luẩn quẩn ngày càng lan rộng và không bao giờ chấm dứt. Nếu như vậy thì cuộc đời không thể sống nổi. Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Chỉ có tình yêu mới đem lại bình an và hạnh phúc đích thực. Đừng gieo rắc hận thù ghen ghét, đừng sử dụng bạo lực nữa. Gia đình hãy thôi cảnh bạo hành. Đừng dạy cho giới trẻ lòng hận thù báo oán, nhưng hãy thông truyền cho họ tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Giới trẻ và học sinh đừng đánh đập chém giết nhau. Thay cho hận thù và bạo lực, hãy đối xử với nhau theo lối sống của nền văn minh tình thương.
Cùng với lòng bao dung tha thứ, trái tim chúng ta cũng mở ra để thương xót những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, những người sống trong hoàn cảnh đau thương, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trong đêm Giáng sinh, thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong quán trọ, đã bị xua đuổi và loại trừ, nên Chúa Giêsu phải sinh ra trong hang lừa bò. Ngày nay biết bao người nghèo khổ cũng bị bỏ rơi và quên lãng, bị xua đuổi và loại trừ. Là Kitô hữu, chúng ta không được thờ ơ vô cảm. Trái tim của chúng ta phải nên giống trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn. Khi chúng ta cảm thông giúp đỡ họ là chúng ta làm cho Chúa; ngược lại, khi lòng chúng ta khép lại, là chúng ta từ chối Chúa. Hãy nhớ rằng “vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (Dung mạo lòng thương xót, số 15).
5. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: nhân loại được cứu độ không phải là nhờ “các lời hứa hẹn to tát”, nhưng là nhờ “ánh sáng thầm lặng của sự thật, của lòng nhân lành của Thiên Chúa”. Những chủ thuyết, những nhà độc tài, những chính sách chuyên chế, chỉ để lại cho thế giới này một sự“trống rỗng vĩ đại” và một “sự tàn phá khủng khiếp”. Chúa Giêsu đã không làm một “cuộc cách mạng đẫm máu”, “không thay đổi thế giới bằng vũ lực”, nhưng Chúa đã đến “thắp lên bao nhiêu ánh sáng để tạo thành một đại lộ ánh sáng qua suốt bao nhiêu thiên niên kỷ” (Bài giảng tại giáo xứ Maximilianô Kolbê, Roma, ngày 13-12-2010).
Chỉ có tình yêu mới thay đổi được thế giới. Hãy làm cho lòng thương xót thấm vào mọi sinh hoạt hằng ngày, hãy đổi mới xã hội bằng cách đổi mới lối sống của chúng ta. Đó chính là Phúc-Âm-hoá đời sống xã hội. “Sự khả tín của Giáo hội được biểu lộ qua cách thức Giáo hội thực thi lòng thương xót và trắc ẩn” (Dung mạo lòng thương xót, số 10). Nếu biết sống lòng thương xót, chúng ta sẽ chiếu toả vẻ đẹp của Phúc Âm và làm cho lời rao giảng của Giáo hội có sức thuyết phục.
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Lời ca của thiên thần trên trời đã trở thành lời ca của con người ở dưới đất. Đó là lời ca được hát nhiều nhất trên thế giới trong đêm nay, đêm bình an. Xin “Thủ lãnh hòa bình” ban bình an cho thế giới và quê hương Việt Nam; xin cho xã hội, từng gia đình và từng người được sống bình an hạnh phúc trong tình yêu thương. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới.
Chúc anh chị em mừng lễ Giáng Sinh đầy tràn niềm vui, ân sủng và bình an của Chúa Giêsu.
20. Đánh mất cơ hội ngàn vàng (Lc 2, 1-14)
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu chàng vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong dáng dấp người nông dân nghèo khổ. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
* * *
Như vị hoàng tử hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta.
Trong khi chúng ta vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa uy linh trên cõi trời cao, chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững với những chi thể của Ngài, với hiện thân của Ngài đang sống quanh ta.
* * *
Thánh Phao-lô nhấn mạnh:
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6,15)
"Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (I Cr 12, 27)
"Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." (I Cor 12, 13)
* * *
Chúa Giêsu cũng khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài, vì thế ai khước từ bạc đãi người khác là bạc đãi Ngài, xúc phạm đến người khác là xúc phạm đến Ngài.
Khi Chúa Giêsu phục sinh khiển trách Sao-lô: "tại sao ngươi bắt bớ Ta"(Rm 9,4) đang khi Sao-lô chỉ đụng đến các tín hữu, là Ngài tự đồng hoá mình với họ. Ngài dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
* * *
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giêsu nên Mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là "Người đã đến nhà của Người mà người nhà đã không tiếp nhận Người." (Gioan 1, 11)
* * *
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên vì cô đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
21. Loài người Chúa thương
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục - tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
22. Suy niệm của Lm Giacobe Tạ Chúc - (Lễ GS. 2013)
Kính thưa quý ông bà và anh chị em!
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Đêm nay, trên tòan thế giới, những anh chị em tin Thiên Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc dạt dào vô tận, vì được chiêm ngắm Máng cỏ, Hang đá nơi mà Chùa Hài nhi cất tiếng khóc chào đời, bên cạnh Thánh Giuse, Mẹ Maria.
Thật vậy, mỗi dịp Giáng sinh về, chúng ta cầu chúc cho nhau được an lành hạnh phúc. Những cánh thiệp gởi trao nhau, những món quà cho những người già yếu, một chút bánh kẹo tượng trưng cho các trẻ em, qua hình ảnh ông già noel…Tất cả là biểu cảm của tình yêu thương. Quả vậy, Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã hạ mình, nhập thể trong thân xác một con người, một trăm phần trăm là người như chúng ta, để mời gọi anh chị em biết sống và yêu thương nhau. Chỉ tiếc rằng, thế giới hôm nay đang còn quá nhiều thù hận, ghen ghét và đố kỵ. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh vẫn xảy ra như cơm bữa. Tình người đang bị xơ cứng và nạn dửng dâng, vô cảm ngày một nhiều. Vừa qua, trên các trang báo Thanh niên, tuổi trẻ đều đồng loạt đưa tin: “Vụ hôi bia ở Biên hòa”, câu chuyện được kể rằng, ngày 4/12/2013 anh tài xế tên là Hồ Kim Hậu lái xe tải chở bia từ Sài gòn ra Huyện Bắc bình Bình thuận thì gặp nạn tại vòng xoay Tam hiệp Biên hòa. Thế là mọi người thay vì giúp tài xế thì họ xông vào hôi của, chở bia đem về nhà mình. Thật đau lòng cho con người Việt Nam ngày hôm nay, và cũng thật vô cùng xấu hổ khi tình yêu thương đồng loại đang ngày một vắng bóng. Chúa Hài nhi mời gọi con người nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng Cha chung trên trời. Mừng Chúa Giáng sinh là thông điệp để chúng ta biết bảo vệ sự sống bảo vệ và chăm sóc các trẻ em. Cũng còn đó biết bao nhiêu trẻ thơ không được nhìn nhận và giúp đỡ. Những bào thai vô tội bị bứng ra khỏi lòng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Những em bé bị chính cha mẹ, người thân, những bảo mẫu hành hạ và giết chết cũng vẫn thường xảy ra. Chúa Hài Nhi Giê-su nhắc nhở mỗi người sứ điệp bảo vệ chân lý chống lại những bất công bạo tàn.
Anh chị em thân mến! năm 2014 sắp đến, năm Phúc âm hóa gia đình, hơn bao giờ hết mẫu gương gia đình Chúa Hài Đồng vẫn là một tấm gương lớn cho chúng ta noi theo và học hỏi. Sống trong một cuộc sống biến động và đổi thay, những bực làm cha mẹ phải biết cho con bú sữa đức tin, dòng sữa ngọt ngào là ân sủng của Thiên Chúa, chứ không chỉ sữa của người mẹ, hay các loại sữa được con người chế biến. Mừng Chúa Giáng sinh anh chị em hãy sống thật tình của lòng yêu thương, sự tha thứ và tinh thần trách nhiệm của những người con cái Chúa. Về trong gia đình, cha mẹ vợ chồng con cái hãy dành cho nhau những lời nói, cử chỉ và tình yêu mà chúng ta đón nhận được từ chính Chúa Hài Đồng. Cầu chúc cho anh chị em tin tưởng và nhận được ơn phúc lành từ Thiên Chúa chúng ta qua con một rất yêu dấu của Ngài là trẻ thơ Giê-su. Anh chị em hãy mời và đón tiếp những anh chị em không cùng tôn giáo đến, để chia sẻ niềm vui Giáng sinh và một năm mới dương lịch sắp đến với mỗi người chúng ta. Amen.
23. Verbum Dei - Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty – Ga. 1,1-18)
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giêsu xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời - Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giêsu sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời - Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời - Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Maria là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giêsu nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giêsu ngày xưa, hoặc có thể cả các triết - thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời - Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giêsu đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giêsu như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giêsu Kitô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời - Giêsu để, như Maria, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giêsu chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giêsu và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Kitô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. Amen.
24. Ngôi Lời là ánh sáng thật
(‘Manna’)
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
25. Những điều bất ngờ
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.
26. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14
(TGM. Ngô quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
27. Đêm Ánh Sáng
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
28. Các mục đồng, những chứng nhân đầu tiên
(Lm Trịnh Ngọc Danh - Ga. 1,1-18)
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ . Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người:“ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
29. Noel: Lễ nhập cuộc
(‘NÚT VÒNG XOAY’ – Trg. 35 – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
30. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
31. Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.
32. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
33. Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh
(Lm Thái Nguyên)
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội... Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.
34. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
35. NOEL: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể.
36. NOEL: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
37. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:”Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.
38. NOEL: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
39. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
40. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
41. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
42. Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy “ Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giêsu duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
43. Sức mạnh - Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát… Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán…Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người chúng ta?
44. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.
45. Thiên Chúa làm người vì chúng ta
(Noel Quesson)
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.
46. NOEL: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
47. Vinh danh
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
48. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
49. Lễ Giáng Sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»!
50. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
51. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội:
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
52. Lời ngỏ của Tình Yêu - Ga 1,1-18
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
53. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
54. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
55. Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa
(Lễ đêm Giáng Sinh 2013 của Lm. Jos. Trương Đình Hiền)
Kính thưa Ông Bà Anh Chị em giáo dân,
Kính thưa Quý Vị và các bạn ngoài Kitô giáo,
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được trân trọng gởi đến quý vị không có chung niềm tin Kitô đang có mặt ở-đây-giờ-nầy lời cám ơn chân tình và lời chúc mừng Giáng Sinh tốt đẹp và trân trọng nhất.
Tôi muốn dành những lời đầu tiên nầy để chia sẻ cùng quý vị không cùng niềm tin với chúng tôi. Chúng tôi cám ơn quý vị, quý bạn đã đến đây để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với chúng tôi, để tham quan ngôi từ đường của đại gia đình kitô hữu Quảng Ngãi, để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, để nghe những bài thánh ca Noel, để lòng lắng đọng trước một đôi gợi ý của Kinh Thánh về huyền nhiệm đức tin Kitô,… và đối với các bạn trẻ hoặc một số người, Giáng Sinh còn mang theo cả một trời kỷ niệm, kỷ niệm của những mối tình đầu thơ mộng, mà bài hát “Hai Mùa No-en” của Ns Nguyên Vũ đã phần nào diễn tả:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường
Mùa Noel đó anh đón em vào tình yêu
Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh van cầu
Nhìn nhau không nói nên câu
Vì biết nói nhau gì đâu…
Với chúng tôi, những người Công Giáo của miền Núi Ấn-Sông Trà, quả thật đây là dịp duy nhất trong một năm, chúng tôi được đón tiếp quý vị như những vị khách quý để có thể chia sẻ với quý vị đôi điều về niềm tin của chúng tôi, để giới thiệu đôi nét đan thanh về Chúa Giêsu, mà với niềm xác tín của những người Kiô hữu chúng tôi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, một Đấng mà chắc chắn quý vị còn rất mù mờ, có khi được hiểu cách lệch lạc và rất nhiều khi được thông tin với một ý đồ không mấy thiện chí, nếu không muốn nói là xuyên tạc và thù nghịch.
Đặc biệt năm nay, Năm mà Giáo Hội Công Giáo muốn các gia đình đem Tin Mừng hiện thực trong chính mái ấm của mình, tôi xin được chia sẻ cùng cônghj đoàn Kitô hữu và toàn thể quý vị một khía cạnh, một ý nghĩa đặc biệt về Chúa Giêsu và về cuộc Giáng Sinh của Ngài:
Chúa Giáng Sinh: Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa.
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, tôi xin được kể một câu chuyện nhỏ mang tựa đề: NHỮNG NỤ HÔN TRONG CHIẾC HỘP RỖNG.
Gia đình nghèo và việc chi tiêu rất eo hẹp. Nhưng cô bé lại dùng cuộn giấy gói xa xỉ đó chỉ để bọc một cái hộp đặt dưới gốc cây thông Nô-en. Người cha tỏ ra vô cùng giận dữ trước sự phí phạm của con gái. Mặc dù vậy, buổi sáng hôm sau, cô bé vẫn mang hộp quà đó tới trước mặt cha và hớn hở nói: “Cha ơi, con tặng cha món quà Giáng sinh!”. Người cha cảm thấy vô cùng bối rối bởi phản ứng thái quá trước đó của mình: Cô con gái nhỏ dù sao cũng chỉ muốn một hộp quà bọc gói thật đẹp để tặng cha. Nhưng khi mở gói quà ra, nụ cười vừa nở trên môi ông đã tắt lịm. Trước mắt ông chỉ là một chiếc hộp rỗng! Nhìn thẳng vào mắt con gái, người cha quát rất to: “Con không biết điều này hay sao? Khi con tặng quà ai đó, chắc chắn phải có gì đó bên trong gói quà!”. Cô bé nước mắt giàn giụa nhìn cha và nói: “Không, cha ơi. Chiếc hộp con tặng cha có rỗng đâu. Con đã thổi rất nhiều nụ hôn vào đó. Tất cả những nụ hôn đó con dành tặng cha mà.”...
Một thời gian ngắn sau đó, tai nạn xảy ra cướp đi cuộc sống của cô bé dễ thương. Còn người cha vẫn giữ bên mình chiếc hộp bọc giấy vàng tuyệt đẹp nhiều năm sau đó.
Và bất cứ khi nào ông cảm thấy tuyệt vọng, chán nản, ông đều lấy chiếc hộp ra và hình dung đến con gái bé bỏng yêu thương đang ôm và thơm vào má cha – những nụ hôn trong chiếc hộp ngọt ngào...
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Phải chăng, ý nghĩa đầu tiên và sâu sắc nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh chính là “Chiếc hộp bằng vàng chứa đựng nụ hôn tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta”, đúng như lời khẳng định trong Tin Mừng Thánh Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình.
- Giáng sinh: đó là cách thế để Thiên Chúa dạy cho con người biết thế nào là yêu thương và phải đáp trả tình yêu dành Ngài và cho nhau phải được thể hiện làm sao.
Thi sĩ linh mục Trăng Thập Tự đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa nầy trong bài thơ Tại Sao mà xin được trích ra đây đôi dòng tiêu biểu:
Còn Ngài yêu con, Ngài đã làm người
Để có thể khóc, để có thể cười,
Để có thể chết thay con mà chuộc tội,
Và nhờ đó con hiểu thế nào là tội lỗi,
Thế nào là lòng Chúa thương yêu.
Để con hiểu ra vẽ diễm kiều
Khi được làm người, khi được làm con Thiên Chúa.
Lạy Đấng Cứu Thế, là Trời, là Tạo Hóa,
Chiều nay trên thập giá,
Chúa có ân hận đã làm người?
Con hỏi và con tự trả lời
Khi con đã biết
Ngài yêu là yêu cho đến đời đời kiếp kiếp
Lạy Thượng Đế làm người, lạy Chúa Giêsu
(Trăng Thập tự, “Có ai về Cát Minh”, Bài “Tại Sao”, tr.184-186)
Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáng sinh trong thế giới nầy.
Tuy nhiên, trong đêm nay cũng có kẻ sẽ tự nói rằng: Giáng Sinh đó là câu chuyện huyển tưởng của bọn Kitô giáo, có liên hệ gì đến mình đâu.
Không có liên hệ đấy quý vị. Chỉ cần 6 ngày nữa, khi tấm lịch cuối cùng ngày 31 tháng 12 năm 2013 được xé bỏ để bắt đầu tờ lịch mới 1.1.2014, cũng đã nói với quý vị rầng: Ngày sinh của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính đã được chọn làm cột mốc của khởi đầu cho Công lịch. Kể từ năm sinh của Ngài đến hôm nay đã được 2013 năm.
Nhưng điều chúng ta cần dừng lại đó lại là ý nghĩa tâm linh và chiều kích nhân sinh, xã hội mà mầu nhiệm Giáng Sinh mang đến cho con người.
Chúng tại phải trở về với lời Kinh Thánh, đặc biệt sứ điệp Tin Mừng được công bố hôm nay để tìm những chỉ dẫn cho những ý nghía nầy:
Bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã tìm được điều gì nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh cách đây 2013 năm ?
Thật trái với mong đợi của bao khát vọng trần tục của loài người.
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đấng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gươm đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chủ trương “phúc cho ai xây dựng hòa bình, phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo...”
- Thay kéo bè kết cánh với những thế lực uy quyền và giàu có, Đấng Cứu thế lại giao du thân mật với những người nghèo, kẻ bất hạnh và chọn lựa những kẻ thất học, dân chài vai u thịt bắp để làm môn sinh và xây dựng. Giáo Hội
- Thay vì đăng quang chấp chánh trên ngai vàng lẫm liệt bắt muôn dân sấp mặt cuối đầu thì Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ, giữa những người tội lỗi…
Và phải chăng, đó chính là ý nghĩa cuối cùng của mùa nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm EMMANUEL, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất, chỉ với một mưu cầu là đạt được những mưu đồ chính trị…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế, cho dù đã có không ít đề nghị, chủ trương Ngài là Nhà Cách mạng vô sản, Ngài là lãnh tụ của thành phần dân nghèo đứng lên đòi quyền giả phóng.... Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Tin và đón nhận Đức Ki-tô đó chính là không ngừng khám phá và gặp gỡ chính Ngài đang hiện diện thật sự trong thế giới nầy, trong nhân loại nầy, đặc biệt, Ngài hiện diện trong những con người bé nhỏ khó nghèo, bị chà đạp, bị tổn thương, bị vất bỏ bên vệ đường xã hội…
Câu chuyện trong kho tàng khôn ngoan của Ấn Độ sau đây đã phần nào diễn tả ý nghĩa nầy:
“Có một vị linh sư Ấn giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra….Nhưng bổng chốc, vị linh sư già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”. Trong cơn thổn thức, vị linh sư già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng nầy quá đủ cho ta…Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”. Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa và nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh….Họ đưa ngươi đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo sư cũng trút bớt nổi rét run của mình...”
Kính thưa cộng đoàn và toàn thể ông bà anh chị em,
Trong năm vừa qua, chúng ta đã ghe biết và chứng kiến bao nhiêu đau thương, tệ nạn liên tiếp xảy ra trong các gia đình Việt Nam chúng ta. Từ vụ xác của chị Lê thị Huyền bị bác sĩ thẩm mỹ Cát Tường ném xuống sống Hồng Hà cho đến hành vi chém và đốt xác người yêu tại Đà Nẵng hay sự kiện người bảo mẫu hành hạ đến chết trẻ em được giao chăm sóc…thì quả thật, sứ điệp Giáng Sinh hôm nay quả thật cần thiết biết bao ! Cần thiết biết bao cuộc nhập thể giáng sinh của Ngôi Lời trong mọi cơ cấu của xã hội để hoán cải , để chữa lành, để phục sinh, như chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã cắt nghĩa trong bài huấn dụ trước lễ Giáng Sinh ngày 18.12.2013 tại Quảng trường Rôma:
“Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa! “
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong mùa Giáng Sinh nầy chúng ta đã từng nhận được rất nhiều cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh cùng với những lời chúc tốt đẹp, và chắc chắn ai trong chúng ta cũng ước mơ những lời chúc ấy sẽ trở thành hiện thực. Riêng tôi, tôi ước mong anh chị em phải biến cuộc đời mình, gia đình mình, cộng đoàn mình thành Tin Mừng Giáng Sinh, thành một Quà Tặng Sự sống, quà tặng của sự trung thành và hy sinh trong mái ấm gia đình, quà tặng của yêu thương và phục vụ ở giữa cộng đoàn, quà tặng của bác ái vị tha với mọi người chung quanh, quà tặng của bao dung tha thứ dành cho những người ghét ghen đố kỵ và xúc phạm đến mình. Chắc chắn, khi có được những quà tặng như thế, chúng ta sẽ nhận được “chiếc hộp vàng đựng nụ hôn chúc phúc của Chúa Hài Nhi Giêsu”, nụ hôn của niềm vui và an bình, nụ hôn của tin yêu và hạnh phúc hôm nay để dẫn dắt chúng ta đi trót cuộc hành trình dương thế để nhận được nụ hôn của Ba Ngôi Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vì, đó chính là lời chúc mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Bê-lem: ”Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” ; và đó cũng chính tiêu đích của cuộc Nhập thể - Giáng sinh mà chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Ta đến để chúng được sống và sống phong phú”. Amen.
56. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
57. Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại
(Lm Uyên Nguyễn - Lễ đêm Giáng Sinh)
‘Tôi loan báo cho anh em một
Tin Mừng trọng đại, là niềm vui cho toàn dân’.
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn có những điều trường tồn ngoài sự suy đoán? Lạ lùng hơn là những việc xem ra dưới mức bình thường, trong âm thầm, quạnh quẽ, dần qua thời gian đã nên rạng ngời vinh quang, lưu tồn bất tận. Những sự kiện như vậy thường không là ngẫu nhiên, cũng vì tự tại đầy sức toả sáng, bất tử, huy hoàng giữa nhân loại.
Xem ra không mấy sự lạ lùng được như vậy, ngoại trừ biến cố được gọi là Giáng Sinh hay còn gọi là Noen. Lần theo tường thuật của Luca được GH trích đọc trong đại lễ truyền thống trọng trị tràn ngập hân hoan đêm nay, không thể không nhận ra những gì đã gây nên ấn tượng tôn vinh khó phai trong lòng nhân loại từ sự kiện Giáng Sinh trải qua bao thế hệ!
Điều thứ nhứt, Giáng sinh là ‘con đường’ làm người của Ngôi Con TC. Con đường hiện diện để yêu thương, hiện diện cho nhân loại, cho đời. Để là vậy, Người trải qua con đường chung của bất cứ ai được sinh ra làm người, nghĩa là cũng thụ thai, cũng được sinh hạ. Tuy nhiên quá trinh sinh làm người của con TC được phủ bóng quá giản đơn, phút chốc, có gì đó dưới thấp hèn. Sinh ra trong thời điểm mọi người vâng lệnh hoàng đế Augustô trở về quê hương để tuân hành pháp lệnh kiểm tra dân số. Người mẹ đang đến thời mãn nguyệt khai hoa, không tìm được nơi tá túc giữa lòng Thành Phố chật ních người. Theo đó, Luca tường thuật bằng một chất giọng nao nao tình trong cảm kích trọng thị: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”( c.7). Luca cố tình dùng những cụm từ quen thuộc gần gũi đời thường: dành cho những người có gia cảnh bé mọn, lãng quên giữa phố chợ phồn hoa. Bà sinh con trai, lấy tã bọc, đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ. Luca tự mình tra vấn: là con TC sinh hạ ư? Sao quá giản tiện, đơn hèn, bất đắc dĩ vì hoàn cảnh hay vì thâm ý? Mà Con TC được Tin Mừng Gioan gọi là Lời, Lời của TC Cha. Nếu TC như Gioan định tín: “TC là Tình Yêu”. Vậy Tình Yêu với vai trò diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng Lòi tự tỏ bày như thế ư? Quả quyết vậy, chắc cũng không sai, bởi ngạn ngữ nói: “Đầu xuôi đuôi lọt”, cả cuộc đời với vai trò Con TC cứu độ đã theo đuổi cách sống không có gì là rạng rỡ như thế từ khởi sự cho đến trọn 33 năm hoàn tất nhân sinh! Sinh không vinh quang, chết cũng không rõ vinh quang. Tuy nhiên lẽ sinh, lẽ chết, ý nghĩa và hành vi cống hiến cho đời mới là cứu cánh định giá khác biệt để mới có thể gọi là sinh trong cùng đinh để chết đat đỉnh vinh quang tối hậu. Thế mới biết đâu là Lời của TC Cha, Lời vâng phục Chúa Cha, đã vì để trở nên cứu cánh nhân loại phải là thế?!
Điểm thứ hai, một biểu trưng cho một dáng vóc của tột cùng thấp hèn. Trước nhãn giới mang tính thèm khát cao vọng hồn nhiên của con người, Con TC sinh ra như thế được kể là thấp hèn. Thực chất không là thấp hèn mà là một TC tự hạ để sau này trên đường đi loan báo TM, giữa cuộc sống đời trần đầy dẫy ganh ghét, bon chen, dẫm trèo lên nhau, trong chân tình, Người dạy: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”( x.11,29). Vậy ở đây chắc chắn không phải là thấp hèn mà phải được nhìn nhận và tôn vinh là khiêm hạ. Con TC khiêm hạ vì Người bằng lòng hoá thân tự hạ để khả thi thực hiện điều được gọi là ‘nhập thể’, nên một giữa khối nhân loại bởi Người mà được tạo thành. Thấy rõ hơn về điều ấy, khi được đọc lại những gì Luca viết nêu giãn dị đôi nét về lai lịch vị trí sinh hạ: “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (c.2,8). Sinh ra trong vùng, giản đơn là nơi nào đó trên cánh đồng chỉ có những người chăn chiên đêm đêm thao láo mắt thức canh đàn vật.
Những người chăn chiên là ai? Phẩm vị họ cao thấp, được tôn trọng hay, trước tâm khảm những ai khác họ, có bị nhìn là những kẻ đáng khinh vì bị liệt vào hàng thấp hèn không ít lần phạm phải hành vi trộm cướp cắp? Dẫu vậy, chính họ là những người mà Luca trong tường thuật, là những kẻ ưu tiên được diễm phúc, ưu tiên đón nhận tin mừng, ưu tiên được loan báo tin vui cho toàn dân, ưu tiên đi xem sự việc, ưu tiên chiêm ngưỡng và thực sự là những nhân chứng tiền thân. Xem ra là vậy! nên có thể hỏi tình thương đích thực mang đến ban phúc, đã thực hiện theo quá trình nào, khởi sự từ cao trọng xuống thấp hay từ thấp hèn lên cao trọng? ở đây xem ra Tình thương con TC làm người mang diễm phúc cho đời không theo quy trình hành xử như người đời mà bằng con đường độc lập của lòng ưu ái TC. Để xác quyết như vậy, qua tường thuật của Luca, sẽ rõ những gì mà nhóm những người này bộc lộ cho nhau:“ Nào chúng ta sang Belem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết” ( c .2. 15). Luca cũng nói đến những cảm nghĩ của họ, bộc phát từ ơn lành, cho nhau: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng TC, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (c.20). Cảm nghĩ của các kẻ chăn chiên là tin cẩn dấu lạ loan báo, xác tin vào tin vui loan báo, tin vào phúc mà họ bỗng dưng được ban từ trời giữa đêm buồn quạnh quẽ giá rét, lòng họ đầy hân hoan trong trào dâng cảm xúc ca ngợi và cảm tạ TC.
Phần chúng ta cảm nghĩ gì? Có phải Giáng Sinh không là vậy không là Giáng sinh, là Noen! Chắc là vậy vì mọi tình huống ấy đã được công bố từ khơi nguồn do lời và tiếng hát hoà vang nhiệm lạ của các ‘thần thiêng’ trên không trung trong đêm tịch liêu khuya khoắt, công bố cho hiện tại và cho cả mọi thế hệ tương lai! Thế nên điều tưởng chừng không giá, không nghĩa, lại đầy sức mầu khoác cho mình ánh sáng rực rỡ hấp dẫn, bùng lên vẻ vang qua mọi thời. Là như vậy, chỉ có là: Giáng Sinh, Noen. Bởi chính đó là Đấng cứu độ, Đấng mang lửa yêu thương từ trời cao ném vào băng giá trần gian, bằng con đường làm người trong và qua giản đơn, mọn hèn, để như lửa len mình vào mọi chất đốt đủ kích cỡ làm bùng lên cháy rực giữa cõi nhân sinh đang thênh thang chung lộn trên miền băng giá! Noen vậy, rất đáng cảm kích, không thể không huy hoàng rực rỡ ư? và sẽ không vẻ vang hơn như thế cho đến ngày cùng vũ trụ?!
Thân lạy Đấng là Hài nhi mới sinh! Con xin được ngợi khen và tôn vinh Danh Người, nguyện cho Danh Người luôn được cao sang. Xin cho Giáng Sinh bừng cháy lên trong tâm hồn mọi người giữa mọi dân nước. Xin đừng ai chưa hay không đón nhận được tin vui Giáng Sinh: là ơn cứu độ tuyệt hảo dành cho những ai thành tâm cũng cố dời mình đón nhận Giáng Sinh đầy hiệu quả và trọn vẹn!
58. Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy". Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
59. GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
60. GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
61. Chúa Giêsu là vầng đông toả sáng
(CHIA SẺ GIÁNG SINH 2014 – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế ! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo. Đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao ! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giêsu chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn: Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giêsu là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giêsu, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giêsu Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Kitô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
62. Của lễ dâng Chúa Hài Nhi
(Lễ Đêm Giáng Sinh 2014-Lm Giuse Nguyễn Thành Long)
Chúng ta đang cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm một biến cố đặc biệt, biến cố Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đi vào trần gian. Tất nhiên, Ngài đi vào trần gian không phải để đi du lịch, hay để đi tham quan một vòng cho biết trần gian; cũng không phải để vi hành như các vua chúa trần gian thường làm. Con Thiên Chúa nhập thể vào trần gian là để làm người và ở với con người.
Con Thiên Chúa đi vào trần gian cũng không phải như một nhân vật thần thoại hóa nhân, hay một siêu nhân hoá kiếp... Ngài đi vào trần gian cũng không phải như là một sản phẩm của trí tưởng tượng con người, đại loại như một thần đồng vươn vai lớn lên như Phù Đổng, mạnh mẽ phi thường như Thiên Vương khiến hùm beo phải sợ. Ngài là một nhân vật lịch sử có phả hệ, có lý lịch hẳn hoi như mọi người; có dòng tộc tổ tiên (gia phả dài), có ông bà cha mẹ, có quê hương đất nước. Thật ra, nếu Thiên Con Thiên Chúa đến trần gian để làm vua hay làm Chúa thì chẳng có gì để nói, bởi vì tự bản tính Ngài là Vua trên các vua, là Chúa trên các chúa. Nhưng Ngài đã làm người như ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đã đi vào gia phả của nhân loại với mục đích nào? Ngài đi vào gia phả của nhân loại để thiết lập tương quan huyết thống với con người. Ngài đi vào gia phả của nhân loại để đưa con người vào phả hệ thần linh của Thiên Chúa. Có điều, Ngài đi vào trần gian, đi vào gia phả nhân loại trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ. Tại sao vậy?
Trong nhân loại chúng ta, chẳng ai có quyền được chọn lựa gia đình hay gia cảnh để sinh ra, ngoại trừ Đức Giêsu Kitô, vì Ngài là Thiên Chúa. Vậy tại sao Đức Giêsu lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn như thế?
Có lần tôi hỏi các thầy đang học tại Chủng Viện thánh Nicôla, Phan Thiết rằng nếu Chúa Giêsu giáng sinh trong thời đại ngày hôm nay thì Ngài sẽ chọn quốc gia nào và hoàn cảnh nào để sinh ra?
Có thầy bảo: “Theo con Chúa sẽ chọn nước Mỹ để sinh ra vì nước Mỹ hùng mạnh và Chúa Giêsu sẽ có những phương tiện tốt nhất để để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới”.
Có thầy cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn một nước ở Phi Châu vì ở đó có nhiều người nghèo đói, hơn nữa Chúa sinh ra làm một người da đen cũng tốt thay vì da trắng. Là da đen, Chúa sẽ gần gũi với người Phi Châu nghèo khổ hơn.
Thầy khác thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn nước Anh, vì ngày nay ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất đó là tiếng Anh. Và lúc đó mọi người sẽ hiểu được những gì Chúa nói khỏi cần thông dịch viên.
Một số thầy khác thì cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc cũng là nơi có nhiều hàng độc hại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, và Chúa sẽ đổi mới người dân Trung quốc để họ bớt gian dối và rất có thể ngài sẽ biến Trung Quốc thành kinh đô của Kitô giáo. Nhưng thầy này cũng lưu ý Đức Mẹ khi mang thai coi chừng bị người ta bắt phá thai !?
Một số thầy khác nữa thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Philipin hoặc Việt Nam, vì ở hai quốc gia này quanh năm phải chịu nhiều thiên tai bão lụt. Sinh ra ở đây Chúa Giêsu sẽ đồng cảm với người dân những nước này hơn.
Có thầy lại chọn Nam Cực làm nơi cho Chúa sinh ra, vì ở đó có nhiều gấu và chim cánh cụt rất dễ thương, khí hậu lại trong lành. Chúa Giêsu có thể dùng xe tuyết đi lại an toàn.
Đặc biệt có thầy không chọn một quốc gia nào hết, mà lại chọn trạm không gian. Vì trên trạm không gian không bị ô nhiễm môi trường, nên sẽ tốt cho trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú. Vả lại, sinh ở trên đó, Chúa Giêsu sẽ là của cả trái đất, chứ không phải của một dân tộc nào, khỏi phân bì, v.v…
Tuy nhiên, đại đa số các thầy vẫn cho rằng Chúa Giêsu vẫn sẽ chọn cảnh nghèo để sinh ra và để làm người. Sở dĩ Ngài chọn sinh ra trong cảnh nghèo là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ.
Quả thật, nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài. Thực tế, Thiên Chúa đã đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người. Đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa.
Vậy thì sứ điệp của ngày lễ hôm nay muốn mời gọi ta điều gì? Mời gọi chúng ta hai điều:
- Thứ nhất: hãy như các mục đồng theo lời mời gọi của các thiên thần đến chiêm ngắm Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa.
Chiêm ngắm Chúa Hài Đồng nơi hang đá máng cỏ để ta cảm nghiệm ngày một sâu xa hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta mà năng biết dâng lời tạ ơn Chúa. Thật vậy, Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô tận, nhưng đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người,sống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Chấp nhận thân phận con người thì cũng chấp nhận sự mỏng dòn, yếu đuối của thân xác: cũng đói, cũng khát, cũng có khi nhức đầu sổ mũi. Thân xác Hài nhi, cũng phải chấp nhận sự lớn lên, sự nuôi dưỡng như mọi người…
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta biết ý thức hơn về phẩm giá và địa vị cao quý của con người, dù còn bé tí hay già nua bệnh tật. Con người có địa vị và phẩm giá cao quý vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, được Con Thiên Chúa đến làm bạn, và hiến ban chính cả mạng sống mình.
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta cũng biết yêu mến anh chị em mình nhiều hơn, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì họ là hiện thân của chính Chúa.
- Thứ hai: hãy như các nhà đạo sĩ biết quảng đại tiến dâng của lễ đời mình cho Chúa. Của lễ nào?
Khi hỏi các thầy ở Chủng Viện cùng câu hỏi này, tôi nhận được rất nhiều câu trả lời. Có thầy thì nói rằng con cũng không biết dâng gì, vì dạo này toàn hàng Trung Quốc, nên đụng đâu cũng hàng giả. Nếu có dâng thì con dâng tặng Chúa chiếc xe đạp ba bánh để thánh Giuse chở Chúa đi dạo thôi.
Có thầy thì bảo Chúa sinh ra mùa đông lạnh lẽo, nên con sẽ dâng cho Chúa mấy bộ áo em bé để Chúa mặc, và tặng cho Chúa vài thùng sữa Vinamilk hoặc Milô để Chúa uống khi chỉ có thánh Giuse ở nhà.
Có thầy thì bảo con sẽ dâng Chúa hài Nhi một chiếc Attila để thánh Giuse có thể chở Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi đi Aicập nhanh hơn. Có thầy thì dâng cho Chúa một visa để Chúa có cơ hội đi du lịch.
Có thầy bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bình sữa không bao giờ cạn để Mẹ Maria đỡ vất vả. Có thầy bảo rằng nếu con là một trong ba nhà đạo sĩ, con sẽ dâng cho Chúa một cái máy sưởi hiệu Panasonic, loại tốt nhất, để sưởi cho Chúa bớt lạnh. Có thầy khiêm tốn hơn thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một cây viết và một cuốn sổ để Chúa viết nhật ký hằng ngày. Nhờ đó mà sau này hậu thế có chữ viết của Chúa và các Tông đồ khỏi vất vả ghi chép.
Có thầy quan tâm hơn đến thời thế thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bộ áo chống đạn và một hộp sữa Trung Quốc nhiễm Melamine. Áo chống đạn để Chúa bình an giữa chiến tranh của Palestine và Israel. Sữa Trung Quốc nhiễm Melamine để Chúa thấy sự tồi tàn của một số doanh nhân Trung Quốc ngỏ hầu Chúa biến đổi họ…
Và rồi có thầy thì rất thực tế, bảo rằng con sẽ dâng Chúa Hài Đồng Vắccin chích ngừa miễn phí tất cả các thứ bệnh, học bổng từ lớp một đến hết đại học, và sau đó là quyền đặc cách vào Chủng Viện Saigon, v.v…
Tóm lại, của lễ dâng Chúa của mỗi thầy mỗi khác. Và có lẽ mỗi người chúng ta cũng thế. Cách chung đối với các em Thiếu nhi và Huynh Trưởng trong giáo xứ trong những ngày qua, của lễ thiết thực đó là thời giờ, và công sức mà các em bỏ ra để đi tập hát, tập múa, tập hoạt cảnh… Còn đối với nhiều người lớn của lễ đó có thể là tiền bạc vật chất. Từ đầu Mùa Vọng đến nay, tôi đã nhận được một số quà dâng Chúa Hài Đồng từ những người lớn: tiền, mì tôm, gạo….
Thực sự Chúa Giêsu Hài Đồng có cần chúng ta trực tiếp cho Chúa của cải hay các tiện nghi vật chất không? Không. Nhưng Chúa cần ta cho Chúa cách gián tiếp qua những người nghèo khổ bệnh tật neo đơn… Họ là hiện thân của Chúa Giêsu Hài Đồng. Vì thế, khi ta giúp đỡ chia sẻ với những kẻ bé mọn là ta đã làm cho chính Chúa.
Thấy Chúa Giêsu năm nào cũng mừng Giáng sinh trong háng đá nghèo hèn, năm nay anh em gia trưởng quyết định làm cho Chúa một “căn nhà” tình thương. Lúc đầu tính làm nhà cấp 3, nhưng thấy không đủ kinh phí, nên thu nhỏ lại thành nhà cấp 4. Làm nhà cấp 4 mà cửa chính cửa sổ vẫn chưa có cánh.
Thiết nghĩ, qua hình ảnh đó, anh chị em được mời gọi hãy chung tay, chung sức làm những căn nhà tình thương cho những Giêsu đang hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ. Ngay trên đất nước Việt Nam này, có rất nhiều Giêsu bằng xương bằng thịt đang cần những “ngôi nhà mơ ước”, tức những ngôi nhà tình thương. Họ đang phải sống tạm bợ nơi những căn nhà chòi, hay nhà lá tạm bợ không đủ che mưa che nắng, chứ chưa nói đến tiện nghi vật chất.
Dù khi không thể làm được nhà cho những người vô gia cư thì ta cũng có thể làm nghĩa cử nào đó cho họ. Đức Thánh cha Phanxicô, trong ngày mừng sinh nhật lần thứ 77, đã quyết định mời 3 người vô gia cư vào ăn trưa với mình. Một nghĩa cử đầy nhân ái làm ấm lòng những người bất hạnh. Âu đó cũng là một cách dâng lễ vật cho Chúa Hài Đồng trong Mùa Giáng Sinh.
Và trên hết, thiết nghĩ có một thứ của lễ mà ai trong chúng ta, dù giàu hay nghèo cũng luôn có sẵn, có sẵn ngay lúc này đây, và đây cũng là của lễ mà Chúa Giêsu luôn chờ đợi, đó chính là con người của chúng ta với cả tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Dâng cho Chúa để làm gì? Để cho Chúa tha thứ, chữa lành và biến đổi nên tốt đẹp hơn. Hãy dâng Chúa của lễ này. Amen.
63. Tại sao Thiên Chúa làm người?
(Lễ Ban Ngày: Ga 1, 1-18 - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc: Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng: "Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Đavít" (Lc 2,10-11).
Câu "Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi ", gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói: "Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…" Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo: Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: "Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó" (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại: "Người đã đến nhà các gia nhân Người" (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta "; " Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con cái Thiên Chúa"(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào "gen", đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Đấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Đấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Đấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
64. Lúc nào cũng có chỗ cho thêm một người nữa
Một cậu bé chín tuổi tên là Wally. Tuy là chín tuổi nhưng cậu chỉ mới học tới lớp hai. Cậu ta to và cao hơn các bạn đồng lớp, tuy thế cậu là một người vụng về và học dốt. Dầu vậy, Wally luôn tỏ ra là một cậu bé luôn sống hy vọng, có thiện chí, luôn vui tươi, biết biện hộ cho sự thiệt thòi, và cũng là người được các bạn mến. Cha mẹ cậu đã khuyến khích con mình tham gia vào hoạt cảnh Giáng Sinh của giáo xứ. Wally muốn đóng vai một chú bé chăn chiên. Thay vì đó, cậu đã được chọn để đóng vai người chủ nhà trọ mà sẽ từ chối Thánh Giuse. Trong lúc tập dượt, Wally đã được dặn dò và chỉ cách để mà cứng rắn với Thánh Giuse. Khi hoạt cảnh được bắt đầu, không có ai gây được nhiều sự chú ý cho bằng Wally. Cậu đã mở tung cánh cửa nhà khách trọ và hỏi một cách hăm dọa, "Muốn gì đó?" "Chúng tôi tìm chỗ để trọ," Thánh Giuse trả lời. "Tìm chỗ khác đi," Wally trả lời một cách cộc cằn. "Trong này hết chỗ rồi." "Làm ơn đi ông chủ tốt," Thánh Giuse nài nỉ, "Đây là vợ của tôi, Maria. Bà ấy đang có thai và rất mệt. Bà cần một chỗ để nghỉ." Sau đó là một khoảng cách thinh lặng trong khi Wally nhìn vào Maria. Người nhắc kịch đứng ở bên trong nhắc Wally cái câu kế tiếp: "Không có chỗ, đi chỗ khác đi!" Tuy vậy, Wally vẫn đứng thinh lặng. Sau đó cặp vợ chồng bị ruồng bỏ quay đầu ra đi. Thấy vậy, cặp lông mày của Wally bỗng nhíu lại có vẻ suy tư, và cặp mắt cậu bắt đầu rơi lệ. Bất chợt, cậu la lên, "Đừng đi! Hai người có thể trọ ở phòng của tôi."
Chúa Giêsu đến trần gian để mở ra cánh cửa trường sinh cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy chia sẻ mối quan hệ giữa Ngài và Chúa Cha. Trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào trong Ngài, chỗ mà Ngài sống. Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào Nước Ngài, chỗ mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta từ muôn thuở, chỗ mà luôn luôn rộng rãi cho tất cả mọi người.
Đấng Tạo Hóa của vũ trụ và nguồn gốc của mọi sự sống muốn chúng ta chia sẻ cuộc sống của Ngài. Đây là một điều tuyệt diệu mà trí óc chúng ta không thể hiểu thấu nổi. Đây là một điều phi thường vượt hơn khả năng của sự suy tư hạn hẹp của chúng ta có thể nắm được. Tuy thế, lời mời gọi đó có ý là để gợi lên một sự trả lời của chúng ta, một sự đáp lời bằng đức tin. Thiên Chúa mong muốn chúng ta đáp lời "Yes!" bằng đức tin.
Lập đi lập lại trong các Phúc Âm, Chúa Giêsu quả quyết với chúng ta đó là linh đạo dẫn chúng ta đến sự sung mãn; đó là cách thức Thiên Chúa tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta; đó là cách mà Đấng toàn năng muốn chữa trị vết thương của chúng ta; làm cho chúng ta nên hoàn hảo, và ban cho chúng ta sự bình an. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương chúng ta! Một cách thực tế hơn, Đấng Toàn Năng muốn chúng ta đạt được hạnh phúc tuyệt đối. Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Đó là sứ điệp của ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh. Đó là Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến thế giới chúng ta.
Mỗi năm, mỗi khi mùa Giáng Sinh đến, đa số chúng ta thường hay bận rộn với những việc sửa soạn. Chúng ta len lỏi qua các khu shoppings với cái danh sách mua sắm. Chúng ta sửa soạn cây Noel. Chúng ta bị lôi cuốn bởi những bài Thánh ca. Chúng ta trang trí nhà cửa với đèn và giây kim tuyến. Chúng ta bàn bạc để tổ chức bữa ăn thịnh soạn. Đúng, tất cả những cái đó là điều tốt, nhưng nếu chúng ta không cẩn thận, thì chúng ta sẽ đánh mất và quên đi mục đích và nhân vật chính của Mùa Giáng Sinh.
Sứ điệp Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và qua đó chúng ta có thể làm được nhiều chuyện. Trong con mắt của Chúa, chúng ta là những con người quí báu và giá trị. Trong và qua Chúa Giêsu Kitô, qua hang đá Bêlem, qua bờ biển Galilê, qua những ngọn đồi Palestina, qua biến cố biến hình, qua giếng Giacób, qua bữa Tiệc Ly, qua đồi Calvariô, qua ngôi mộ trống, Thiên Chúa nói với chúng ta một điều "Bây giờ con có thấy Cha yêu thương con dường nào chưa?"
Qua máng cỏ Bêlem, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy chia sẻ cuộc sống của Ngài; trở nên một với Ngài. Chúng ta nghĩ sao về chuyện này? Chúng ta sẽ trả lời làm sao? Câu trả lời, dĩ nhiên, là đi theo Chúa Giêsu. "Ta và Cha Ta là một", Chúa Giêsu phán với các tông đồ (Gn 10:30). Sau đó Ngài tiếp, "Nếu Ta không làm việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó, thì dù các ngươi không tin Ta, ít ra cũng hãy tin các việc đó" (Gn 10:37-38).
Để chúng ta có thể chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta cần phải bắt chước Chúa Giêsu biết thi hành thánh ý của Chúa Cha. "Con người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" (Mk 10:45). Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta cái chìa khóa để mở cánh cửa dẫn đến sự sống trường sinh, Ngài phán, "Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến viếng thăm" (Mt 25:37-38).
Chúa Giêsu đang nói với chúng ta là chúng ta sẽ không thể nào đạt được sự sống trường sinh, hưởng kiến Thiên Chúa, nhận ra giá trị toàn diện của mình, cứu chữa vết thương lòng, nếu chúng ta không biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi người khác.
Nguyện xin ơn phúc của Mùa Giáng Sinh được âm vang trong trái tim và trong gia đình chúng ta hôm nay! Nguyện xin cho đức tin của chúng ta được đáp trả sứ điệp Giáng Sinh như là một bài hát thánh thót yêu thương vòng quanh thế giới! Nguyện xin cho chúng ta trở nên những người tiền phong biết đem Tin Mừng đến muôn dân!
65. Sứ điệp Giáng sinh
Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh Thần ban sự sống. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trích lại lời thơ Corintô (1Cor 15,45), đó là những lời của thánh Phaolô Tông đồ tổng kết mầu nhiệm nhân loại được Chúa Kitô cứu chuộc, một mầu nhiệm được giấu ẩn trong chương trình đời đời của Thiên Chúa, một mầu nhiệm theo một nghĩa nào đó đã trở thành lịch sử với sự Nhập Thể của Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa Cha, một mầu nhiệm mà Giáo Hội đang sống một lần nữa với niềm xúc động sâu xa trong Lễ Giáng Sinh.
Ađam là con người đầu tiên, Chúa Kitô là Thần Khí ban sự sống, những lời của thánh Tông đồ Phaolô giúp chúng ta nhìn sâu xa hơn, giúp chúng ta nhìn nhận nơi Con Trẻ giáng sinh tại Bêlem là Con Chiên đã bị hiến tế và là Đấng mạc khải ý nghĩa của lịch sử. Lúc Người giáng sinh, thời gian và vĩnh cửu gặp nhau, Thiên Chúa sống trong con người và con người trong Thiên Chúa.
Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống, thiên tài bất tử Michel Ange đã vẽ ra trên trần nhà nguyện Sixtin giây phút Thiên Chúa Cha trao ban hồng ân sự sống cho con người đầu tiên và làm cho nó trở thành hữu thể có sự sống. Giữa ngón tay của Thiên Chúa và ngón tay của con người đưa ra hướng về nhau và gần như là chạm vào nhau nơi mà cách đó xem ra như có một lằn lửa vô hình, Thiên Chúa thông truyền cho con người sức mạnh của chính Ngài khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
Thần Khí này là phẩm vị duy nhất của mọi hữu thể con người, của khát vọng vô cùng của nhân tính hướng về cái vô cùng. Tâm tư chúng ta ngày hôm nay hướng về chính lúc đầu tiên của mầu nhiệm không thể hiểu thấu được, giây phút của khởi đầu sự sống con người trên mặt đất. Khi chúng ta chiêm ngắm Con Một của Thiên Chúa Cha trở thành con người, dung mạo đời đời của Thiên Chúa được phản chiếu trong dung mạo của Con Trẻ. Con người đầu tiêm Ađam trở thành trở thành hữu thể có sự sống do bởi lằn lửa Thần đặt vào bên trong con người, mà con người là một hữu thể có trí khôn và sự tự do, và như thế có khả năng chịu trách nhiệm quyết định đối với chính mình và vận mệnh riêng của mình.
Bức họa nổi tiếng của nhà nguyện Sixtin được tiếp tục với cảnh về tội nguyên tổ, con rắn cuộn tròn theo thân cây thuyết phục nguyên tổ chúng ta ăn trái cây đã bị cấm. Thiên tài của nghệ thuật và chiều sâu của biểu tượng của Kinh Thánh được hòa nhập tuyệt vời với nhau để gợi lên giây phút bi thảm đó, khởi đầu của một lịch sử phản loạn, tội lỗi và đau buồn từ phía nhân loại. Nhưng thử hỏi, Thiên Chúa có thể bỏ quên công việc do tay Ngài tạo nên tuyệt tác của tạo vật hay không? Chúng ta biết được câu trả lời của đức tin như sau: "Khi thời giờ đã nên trọn, Thiên Chúa Cha đã sai Con Ngài xuống sinh ra bởi Người Nữ, sinh ra trong lề luật để cứu chuộc những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên dưỡng tử của Ngài".
Những lời của thánh Tông đồ Phaolô vang lên với sự hùng hồn đích thực khi chúng ta chiêm ngắm biến cố đáng phục Giáng Sinh trong năm nay. Nơi Con Trẻ mới sinh nằm trong máng cỏ, chúng ta chúc mừng Ađam mới trở thành Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trọn cả lịch sử của thế giới hướng về Người, Đấng được sinh ra tại Bêlem, ngõ hầu thiết lập lại niềm hy vọng cho từng người nam, nữ trên mặt đất này.
Từ máng cỏ, đôi mắt của chúng ta hôm nay nhìn về toàn thể nhân loại, một nhân loại được mời gọi lãnh nhận hồng ân của Ađam thứ hai, dù còn phải lãnh nhận phần gia tài tội lỗi của Ađam thứ nhất. Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên đó tiếp tục làm méo mó dung mạo của nhân loại hay không? Những trẻ thơ phải gánh chịu bạo lực, bị hạ nhục và bỏ rơi. Những người nữ bị hãm hiếp và bị lạm dụng khai thác. Những người trẻ, những người lớn và những vị cao niên bị loại ra ngoài xã hội. Những lớp người khốn cùng bị đi đày và đi tỵ nạn, bạo lực và xung đột tại biết bao nơi trên thế giới.
Tôi lo âu nghĩ đến Thánh Địa, nơi mà bạo lực tiếp tục làm cho con đường khó khăn dẫn đến hoà bình bị nhuốm máu. Và có thể nói gì về những Quốc gia mà giờ đây tôi đặc biệt nghĩ đến Indonesia. Có thể nói gì về những Quốc gia nơi mà những anh chị em chúng ta trong đức tin đang phải trải qua những giây phút khó khăn của thử thách và đau khổ. Chúng ta không thể không gợi lại hôm nay rằng, những bóng tối sự chết chóc đang hăm dọa mạng sống con người ở mọi hạng tuổi và đặc biệt đang hăm dọa mạng sống con người vào ngay lúc khởi đầu và lúc kết thúc tự nhiên của nó. Càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cám dỗ muốn làm chủ sư #hết bằng cách làm cho nó đến sớm hơn dường như thể chúng ta là người chủ của mạng sống mình và mạng sống của những kẻ khác. Chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ báo nguy của một nền văn hoá sự chết đang hăm dọa nghiêm trọng tương lai.
Tuy nhiên, cho dù bóng tối xem ra dày đặc đến mấy đi nữa, niềm hy vọng của chúng ta vào sự chiến thắng của ánh sáng đã xuất hiện trong đêm Thánh tại Bêlem còn mạnh mẽ hơn. Quả thật, có biết bao điều tốt đã được thực hiện một cách âm thầm bởi những con người nam, nữ hàng ngày sống đức tin, chu toàn công việc và dấn thân phục vụ gia đình của họ và phục vụ điều thiện hảo của xã hội. Cũng thật là khích lệ vào những cố gắng của những ai, kể cả những con người nam, nữ trong đời sống công cộng, đang cố gắng cổ võ cho sự tôn trọng nhân quyền của mỗi một người và cổ võ sự gia tăng tình liên đới của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu món nợ của những quốc gia nghèo nhất được giải tha, ngõ hầu hiệp ước hòa bình trong danh dự được đạt đến giữa các quốc gia đang xung đột với nhau thật bi thảm.
Với các dân tộc khắp nơi trên thế giới đang can đảm tiến đến các giá trị dân chủ, sự tự do, sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Với tất cả mọi người thiện chí bất luận thuộc về nền văn hoá nào, sứ điệp vui mừng của Mùa Lễ Giáng Sinh hôm nay được gởi đến cho họ là: "Hoà bình dưới thế cho con người được Thiên Chúa yêu thương".
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã giáng sinh tại Bêlem vì chúng con, Chúa đã yêu cầu nơi nhân loại đang bước vào ngàn năm mới hãy tôn trọng từng người, nhất là những kẻ bé mọn và những người yếu đuối. Chúa yêu cầu chấm dứt mọi hình thức của bạo lực, chấm dứt chiến tranh, đàn áp và mọi tấn công vào sự sống.
Lạy Chúa Kitô mà chúng con hôm nay chiêm ngắm nằm trong vòng tay của Mẹ Maria, Chúa là lý do cho niềm hy vọng của chúng con. Thánh Phaolô đã nói với chúng con rằng, điều cũ đã qua rồi, và đây là điều mới đã đến. Trong Chúa và chỉ trong Chúa mà thôi nhân loại được ban cho cơ may để trở thành tạo vật mới.
Lạy Con Trẻ Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì món quà này, nguyện chúc tất cả Lễ Giáng Sinh đầy hạnh phúc.
66. Dấu hiệu của Chúa
(Lm. Phạm Quốc Hưng)
"Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ."
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng nhận biết tầm quan trọng của các dấu hiệu. Có hai loại dấu hiệu: một loại là tự nhiên và một loại khác là qui ước. Khói và ánh sáng cùng sức nóng là dấu hiệu tự nhiên của lửa. Đèn đường xanh đỏ hay các bảng chỉ đường là những dấu hiệu qui ước của luật lưu thông. Khuôn mặt tươi vui là dấu hiệu của một con người hạnh phúc. Thân xác sống động của một người cũng là dấu hiệu của sự hiện diện toàn vẹn của cả người ấy với hồn thiêng bất tử. Cái bắt tay hay nụ hôn là dấu hiện của tình thân ái. Ngôn ngữ cũng là một loại dấu hiệu để con người trao đổi tâm tình và kiến thức với nhau. Và có lẽ ngôn ngữ là loại dấu hiệu quan trọng bậc nhất trong các liên hệ giữa con người với nhau. Chúng ta không thể có một liên hệ thân mật với ai, nếu chúng ta không nhận biết các dấu hiệu và ngôn ngữ của người ấy.
Thiên Chúa cũng dùng các dấu hiệu để thiết lập và hàn gắn tương quan yêu thương với con người chúng ta.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người, nghĩa là cho chúng ta có lý trí và ý chí tự do để chúng ta có thể yêu thương và đón nhận tình thương. Người đã cho con người sống trong liên hệ yêu thương mật thiết với Người, và chỉ trong liên hệ này con người mới tìm được hạnh phúc đích thực và viên mãn. Vì tội tổ tông, mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và con người đã bị tổn thương. Nhưng một lần nữa vì yêu thương, Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc con người, nghĩa là Người muốn hàn gắn lại liên hệ yêu thương giữa Người và nhân loại.
Để thực hiện việc hàn gắn lại mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại còn gọi là việc cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái làm dân riêng trong thời Cựu Ước để chuẩn bị cho việc xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã bày tỏ ý định yêu thương này cho dân Do thái qua các tổ phụ và ngôn sứ do chính Người tuyển chọn. Về điều này, thánh Phaolô viết: "Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri"(Dt 1:1). Những tổ phụ và ngôn sứ - những người được chọn để chuyển thông ý định cứu chuộc của Thiên Chúa trong thời Cựu Ước - cùng với chính dân tộc Israel vì vậy chính là những dấu hiệu Thiên Chúa đã dùng để bắt đầu việc gầy dựng lại mối tương quan yêu thương với nhân loại chúng ta. Họ đã là những sứ giả của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết tiếp: "Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới: Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài, sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cữu trùng, trổi hơn thiên thần vạn bội, bời khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn ví"(Dt 1:2-4)
Thời sau hết mà thánh Phaolô nói đến ở đây chính là thời Tân Ước kể từ khi Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã "hóa thành xác phàm và ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Đây là một biến cố trọng đại nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Và đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đại lễ Giáng Sinh mà chúng ta cử hành hôm nay.
Khác với các tổ phụ và các ngôn sứ trong thời Cựu Ước là những dấu hiệu hay những sứ giả Thiên Chúa dùng để chuẩn bị để trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Chúa Giêsu là chính Đấng Cứu Thế, là Trung Tâm của lịch sử nhân loại, là Dấu Hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là chính Ơn Cứu Độ, và là chính Sự Bình An mà con tim nhân loại hằng mong mỏi đợi chờ.
Chính Thiên Chúa đã long trọng công bố sự kiện vô cùng trọng đại này cho nhân loại qua các lời thiên thần nói với những mục đồng trong đêm Chúa giáng sinh như sau:
"Đừng sợ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi Vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành của Đavít. Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2:10-12)
Như vậy, dấu hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ỡ giữa nhân loại là "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ".
Đây thật là một mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa Tình yêu, một mầu nhiệm vượt quá mọi suy tưởng và mơ ước của con người.
Ai dám nghĩ đến việc Thiên Chúa toàn năng nay biến thành một hài nhi nhỏ bé yếu đuối? Đấng Tạo Hóa mà muôn vật phải phục tùng nay phải lệ thuộc sự săn sóc chăm nom của đôi bạn trẻ Giuse và Maria. Chúa Tể Muôn Loài nay phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn tận cùng của máng cỏ Bêlem.
Nhưng đó chính là đường lối của Thiên Chúa, đường lối của Tình yêu Nhập Thể - một tình yêu sẽ mãi mãi liên kết Thiên Chúa với nhân loại và với từng người nơi Chúa Giêsu.
Vì thế, từ biến cố giáng sinh mà chúng ta kỷ niệm hôm nya, đón nhận và yêu thương "một hài nhi mình vấn tả, đặt nằm trong máng cỏ" là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận tình yêu nhập thể và hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Đón nhận và yêu thương con người với niềm tin yêu hướng về Thiên Chúa là đón nhận và yêu thường chính Chúa, như Chúa Giêsu đã phán: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25:40)
Tất cả những cố gắng sống đạo của chúng ta gồm cả việc tổ chức mừng đại lễ giáng sinh hôm nay sẽ trở thàny vô ích nếu chúng không giúp ta nhận ra dấu hiệu sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta để đón nhận và mến yêu Người, để đươc Người ban ơn cứu độ.
Ý nghĩa đích thật cho cuộc sống hiện tại và hạnh phúc vĩnh hằng đời sau của chúng ta tùy thuộc ở sự chấp nhận hay chối bỏ các dấu hiệu của Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Ngày xưa, Chúa Giêsu đã chọn tỏ mình ra cho Đức Mẹ, thánh Cả Giuse và các mục đồng trong đêm giáng sinh đầu tiên nơi "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ". Ngày nay, trong mỗi thánh lễ, Người tiếp tục tỏ mình cho chúng ta yêu mến tôn thờ và kết hợp với Người nơi bí tích Thánh thể.
Ngày xưa, bạo vương Hêrôđê đã tìm giết Chúa Giêsu bằng cách giết hài nhi vô tội để củng cố ngai vàng trần thế của ông. Ngày nay, người ta tiếp tục giết Chúa Giêsu qua việc giết các bé thơ vô tội ngay khi các em còn trong lòng mẹ qua tội ác phá thai để củng cố lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm của họ.
Chúng ta sẽ chọn noi gương Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng để đón nhận và yêu mến Chúa Hài Nhi qua các nỗ lực bảo vệ và bênh vực quyền sống các thai nhi hay chọn thái độ của bạo vương Hêrôđê qua lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm với những tội xúc phạm đến phẩm giá và sự sống con người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin dạy chúng con noi gương Mẹ Maria nhận biết các dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa cho chúng con tin nhận Chúa hiện diện đích thực trong bí tích Thánh Thể như xưa Chúa đã ngự nơi hang đá Bêlem, để chúng con thêm lòng sùng ái và sốt sắng kếp hợp cùng Chúa. Xin Chúa cho chúng con nhận biết Hội thánh chính là Nhiệm Thể Chúa, để chúng con tha thiết mến yêu và vâng phục mọi giáo huấn chân thực của Hội thánh. Xin Chúa cho chúng con cảm mến niềm vui và bình an sung mãn của Chúa, qua việc nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa nơi những người xung quanh chúng con, cách riêng là những người "hèn mọn nhất". Amen.
67. Tình nghĩa
(ĐGM. Bùi Tuần)
Nhìn hang đá Belem, tôi thấy nhiều điều nên suy nghĩ. Như sự Chúa giáng sinh tự chọn cảnh nghèo. Như sự những người sống đạo ở Belem bấy giờ đã không quan tâm đủ đến kẻ lỡ đường xin trọ. Như những người mục đồng làm thuê làm mướn lại được phúc gặp Chúa Cứu thế sớm nhất.
Nhưng có một điều nho nhỏ nơi hang đá Belem cũng đã lôi cuốn tôi. Điều nho nhỏ đó là tình nghĩa.
Vai trò tình nghĩa trong đời Chúa Giêsu.
Tình nghĩa là bầu khí bao trùm Hài nhi Giêsu. Ngoài Đức Mẹ và Thánh Giuse vây quanh hài nhi, tôi thấy còn có các mục đồng và ba vua. Cả con lừa và mấy con chiên cũng đứng sát vào một cách thân yêu. Những hơi thở, những ánh mắt, những cử chỉ của người và vật đều diễn tả tình nghĩa thân thương đối với Hài Nhi.
Nhìn cảnh này, tôi có cảm tưởng: Đây không phải là một sự tình cờ, nhưng là một điều Chúa muốn. Người muốn tình nghĩa nên được hiểu là một điều tốt. Chúa quý mến tình nghĩa. Tình nghĩa là một nâng đỡ quý giá đồng hành với Chúa Cứu thế từ hang đá Belem đến thánh giá trên núi Sọ.
Thực vậy, căn cứ vào Phúc Âm, tôi thấy Chúa Cứu thế đã có những tình nghĩa mặn nồng nâng đỡ sứ mạng của Người suốt hành trình dài.
Đầu tiên là thánh Gioan Baotixita. Tình nghĩa của Gioan đối với Chúa Giêsu nổi bật ở hai điểm này:
Một là Gioan khiêm tốn, tự nhận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa Cứu thế.
Hai là Gioan giới thiệu giá trị đích thực của Chúa Giêsu ở tại việc hy sinh gánh tội trần gian, và tự nguyện chịu chết để đền tội cho nhân loại. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Lời giới thiệu đó nói lên một tình nghĩa đi vào căn bản.
Sau thánh Gioan Baotixita, tôi thấy tình nghĩa của gia đình chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình này nâng đỡ Chúa Giêsu về mọi mặt, tinh thần và vật chất, tình cảm và làm chứng. Họ làm chứng về niềm tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Sau cùng là tình nghĩa của các môn đệ Chúa, nhất là thánh Phêrô và thánh Gioan tông đồ.
Tình nghĩa của thánh Phêrô nổi bật ở điểm nhiệt thành, táo bạo trong tuyên xưng đức tin.
Tình nghĩa của thánh Gioan đậm nét ở chỗ được Chúa yêu thương, chia sẻ cho những sự sâu kín nhiệm mầu về đời sống Chúa Ba Ngôi, nhất là ở chỗ được Chúa cho thấu hiểu sâu xa điều răn mới là yêu thương nhau.
Trên đây là những tình nghĩa thường xuyên đậm đà. Cũng còn một vài tình nghĩa vắn, trong các trường hợp đặc biệt. Như trên đường vác thánh giá lên núi Sọ, Chúa được nâng đỡ bởi bà Veronica,một số phụ nữ và ông Simon, người nông dân.
Sau cùng, ở núi Sọ, dưới chân thánh giá, số người nâng đỡ Chúa chỉ còn một số rất nhỏ.
Nói chung, những tình nghĩa đã nâng đỡ Chúa Giêsu khi Người vừa sinh ra ở Belem cho tới khi Người tắt thở trên thánh giá ở núi Sọ, đều rất khiêm tốn, âm thầm. Dầu vậy, những tình nghĩa đó phải được coi là rất quý giá.
Với nhận thức đó, tôi nhìn vào các môn đệ Đức Kitô, xưa và đặc biệt là hôm nay.
Vai trò của tình nghĩa nơi các môn đệ Đức Kitô.
Trên đường bước theo Chúa Cứu thế, môn đệ Chúa cũng gặp được những nâng đỡ. Nếu "đầy tớ không trọng hơn Thầy" (Ga 15,20), thì những nâng đỡ dành cho các ngài cũng rất giới hạn. Tất nhiên nâng đỡ nói đây phải hiểu là nâng đỡ chính đáng.
Cũng vẫn là nâng đỡ của số ít như tại hang đá Belem. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít làm chứng cho niềm tin hơn là cho cá nhân người môn đệ. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít như ở Calvariô.
Riêng tôi, tôi coi những tình nghĩa đó là những ơn đặc biệt Chúa ban cho đời tôi.
Kinh Thánh nói: "Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc. Ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy không cân nào lường được" (Hc 6,14-15).
Trung thành ở đây phải được hiểu là trung thành trong những trường hợp không mấy ai muốn chọn. Như trường hợp sau đây:
Ngày 19 tháng 9 năm 1997, tại một nhà thờ ở Berne, thủ đô Thuỵ Sĩ, có lễ an táng một nữ tu. Nư tu này tên là Rosalba, dòng Tuổi Muội.
Khi còn sống, chị nữ tu này là bạn trung thành của những bệnh nhân mắc bệnh ung thư. Chị thường xuyên thăm họ. Ngoài ra, chị cũng là bạn trung thành của những nữ phạm nhân đã hết hạn tù. Chị thường xuyên liên lạc với họ. Đặc biệt, chị là bạn trung thành của những nữ phạm nhân còn bị giam trong tù. Chị tình nguyện và được phép sống chung với họ trong tù, chịu chế độ tù y như các phạm nhân thực sự. Có chị Rosalba ở trong tù, mỗi phạm nhân như cảm thấy một lễ Noel đến với mình mỗi ngày.
Ngày an táng chị là ngày của những nước mắt. Nước mắt của những người bệnh ung thư, của những nữ tù nhân đã được tha, của những nữ tù nhân còn bị giam giữ. Họ khóc một người bạn trung thành. Chị nữ tu này đã tìm tình nghĩa nơi những người bị loại trừ. Nhiều người nức nở tiễn biệt chị bằng những lời liên quan đến đức tin như: "Thưa chị, nếu thực có thiên đàng, khi lên đó rồi, xin chị vẫn hãy là bạn của em". Những nước mắt trong lễ hôm ấy gieo vào biết bao lòng người những hạt giống khao khát đi tìm dung mạo thực của Thiên Chúa tình yêu, mà chị dòng Tiểu Muội đã giới thiệu chỉ bằng đời sống tình nghĩa của chị đơn sơ, khó nghèo, phục vụ.
Một cái nhìn về tình nghĩa hôm nay.
Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ túng nghèo như ở Belem. Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ bị loại trừ như ở chân thánh giá trên núi Sọ.
Tôi đã thấy. Tôi đã gặp. Tôi hết lòng cảm ơn họ.
Những tình nghĩa ấy đã nâng đỡ tôi. Qua những nâng đỡ đó, tôi cảm nhận được Chúa ở bên tôi. Chúa giáng sinh đến với tôi không phải để tôi bớt khổ, nhưng để chia sẻ nỗi khổ đời tôi.
Người chịu khổ cùng với tôi, chịu nhục cùng với tôi, chịu vất vả cùng với tôi, chịu thử thách cùng với tôi. Tôi cảm nhận được sự thực đó. Tôi coi đó cũng là gương, để tôi biết sống như thế với những người đau khổ.
Trên thực tế hôm nay, cuộc sống đang phơi bày khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, giữa người bệnh tật và những khoẻ mạnh, giữa người có quyền chức và người dân thường. Nhiều khoảng cách rất lớn. Nhìn vào, tôi thấy vừa choáng váng và vừa xót xa.
Trong thực tế này, đang nảy sinh những lo âu, những phũ phàng, những ganh tỵ, những tranh giành, những nghi kỵ, những phe nhóm và những mưu lược, những chịu đựng xót lòng. Có đủ thử giả, kể cả tình nghĩa. Cả những tự tử, như bước đường cùng.
Tôi áy náy, không biết Hội Thánh Việt Nam, trong năm truyền giáo này, đã đóng góp được nhiều hay ít trong việc cải thiện thực tế đáng ngại đó, mà ai cũng đang thấy.
Với những cảm nhận như thế, tôi rất mong và rất trân trọng những tình nghĩa. Cho dù đó chỉ nhỏ hẹp khiêm tốn âm thầm như tình nghĩa ở hang đá Belem.
Chớ chi tình nghĩa xưa tại hang đá Belem sẽ là một thời sự của hôm nay. Mong thời sự hôm nay sẽ hứa hẹn một cuộc sống mới, không phải chỉ giàu hơn về văn hoá, nhưng nhất là giàu hơn về tình nghĩa trung thành và tình thương chân thành.
Riêng tôi, trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn ghi sâu trong lòng mọi tình nghĩa và tình thương của bất cứ ai dành cho Hài nhi Giêsu luôn hiện diện lặng lẽ trong tôi và cuộc đời tôi.
68. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
(Bài giảng thánh lễ Đêm Giáng Sinh năm 2004 tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên của Đc. JB. Bùi Tuần)
***
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh.
I. Theo tôi, chúng ta mừng lễ Chúa Giáng sinh, không có nghĩa là chúng ta nhớ lại hoặc kỷ niệm một Noel đã xảy ra hơn 2000 năm trước đây. Mà là chúng ta đón nhận Chúa Giáng sinh đang đến với chúng ta hôm nay. Người thực sự đang đến với bản thân mỗi người chúng ta, đang đến với gia đình chúng ta, đang đến với Quê Hương chúng ta, đang đến với thế giới chúng ta, đang đến với Hội Thánh chúng ta. Người đang đến hôm nay. Người đang đến lúc này.
Tình hình hôm nay nói chung có nhiều điều tốt, nhưng cũng có nhiều điều đáng ngại. Đáng ngại nhất là về mặt bình an và về mặt đạo đức.
Chính trong một tình hình như thế mà Chúa đến với chúng ta.
Người đến vì mục đích gì? Thưa mục đích đó đã được khẳng định trong kinh Tin Kính: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã trừ trời xuống thế". Nghĩa là Chúa Giáng sinh xuống trần là vì mục đích cứu độ chúng ta. Đó là mục đích chúng ta rất mong chờ.
Mục đích của Chúa Giáng sinh là như thế. Còn hành trình ta đón nhận Người sẽ phải thế nào?
II. Theo tôi, hành trình của chúng ta cũng phải tương tự như hành trình các mục đồng ở Belem xưa. Các mục đồng ở Belem xưa có một hành trình đơn sơ gồm 4 điểm:
1/ Họ lắng nghe thiên thần từ trời báo: "Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
2/ Nghe vậy, các mục đồng liền vui mừng ra đi. Kinh Thánh nói: "Họ hối hả ra đi" (Lc 2,16).
3/ Đến hang đá, họ ngạc nhiên thấy một Hài nhi nằm trong máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn. Tuy vậy, họ tin Hài nhi đó là Đấng Cứu thế. Kinh Thánh kể: "Họ vừa ra về, vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa" (Lc 2,20).
4/ Họ cảm được sự bình an sâu lắng, mà các thiên thần hát khen trước đó: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14).
Trên đây là hành trình sơ lược của các mục đồng Belem xưa. Hành trình này cũng đang diễn lại tương tự nơi những ai muốn đón nhận Chúa Giáng sinh hôm nay.
Trong đời tôi, tôi đã gặp vô số trường hợp như vậy.
Trước hết, Chúa báo tin mừng cho họ qua một vài sự việc rất nhỏ. Như một gặp gỡ tốt, một trang sách đạo, một bài giảng gây chú ý, một tấm ảnh Chúa, một vài soi sáng nội tâm vv...
Được gợi ý, họ khát khao đi tìm Chúa. Có nhiều cách tìm, như: Cầu nguyện tự phát, làm quen với người sống đức tin, đi vào nhà thờ, gặp gỡ những người có vài nét như Đức Mẹ và thánh Giuse. Rồi, dần dần, họ được ơn đức tin.
Sau cùng, tâm hồn họ được bình an như một dấu chỉ họ đã có Chúa Cứu thế đến trong lòng họ.
Tất cả mọi chi tiết như thế đều diễn ra một cách âm thầm, không ồn ào, không tốn kém.
III. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi: Chính tôi đã thường được đón Chúa Cứu thế vào lòng tôi và đời tôi, cũng qua những chi tiết tương tự. Điều quan trọng là phải có thiện tâm, thiện chí.
Ơn cứu độ là một ơn rất trọng, Chúa sẵn sàng ban cho mọi người. Nhưng Chúa không áp đặt, không ép buộc ai phải nhận. Ai muốn nhận, thì phải biết lắng nghe tiếng Chúa kêu mời, phải chịu khó lên đường, phải khiêm tốn nhận ra Chúa Cứu thế, cho dù Người đến dưới hình thức nghèo hèn, ẩn dật. Sau cùng phải biết gìn giữ sự bình an Người ban cho.
Anh chị em thân mến,
Lễ Noel trước năm 1955, tôi đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều lo âu. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Lễ Noel trước năm 1975, tôi cũng đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều bất ổn. Tôi cũng đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Hôm nay, lễ Noel trước năm 2005, tôi có một cảm tưởng tốt hơn, nhưng cũng không vắng những lo âu về nhiều mặt. Nhất là lo âu cho sự bình an và đời sống đạo đức xã hội, gia đình, Hội Thánh và các cộng đoàn.
Nhưng trong tình hình lo âu, tôi vẫn nghe tiếng thiên thần báo tin "Hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
Tôi mong anh chị em cũng lắng nghe được lời báo đó, biết tìm đến Chúa Cứu thế, biết tin vào Chúa, và biết đón nhận ơn bình an Chúa chia sẻ cho những người thiện tâm, thiện chí.
Với vài tâm tình đơn sơ trên đây, cùng với Đức Cha Già Micae và Đức Cha Giuse, Đức Giám Mục giáo phận, tôi xin thân ái chúc anh chị em một lễ Giáng sinh và một mùa Giáng sinh tốt đẹp nhất.
69. Tin Mừng - Trầm Thiên Thu
(Lễ đêm Giáng Sinh)
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa.
Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người.
Thiên Chúa tuyên phán: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thế gian. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, bình an chân thật đã từ trời đã ban xuống cho chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao và khôn tả!
Không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Thật là một hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2).
Chúa đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó.
Hài Nhi giáng sinh nơi hang đá hèn hạ lại chính là Vua Công Lý, Ngài đến để giải phóng các tội nhân, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An. Niềm vui tào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: ALLELUIA. Tác giả Thánh Vịnh đã phải mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Không chỉ mời gọi mọi người, tác giả Thánh Vịnh còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã thật chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa Chúng ta!
Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, Ngài là Hòa Bình đến dập tắt chiến tranh, Ngài là Công lý đến triệt tiêu áp bức, Ngài là Tình Yêu đến phá bỏ hận thù. Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì không phàm ngôn nào có thể đủ mức để diễn tả!
Lời hứa từ ngàn xưa đã được thực hiện, mọi lời tiên tri đã ứng nghiệm, tất cả đã được nên trọn: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14).
Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa rồi. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà đầy đủ Cổ-Tích-Thật-Giáng-Sinh...
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, Chú Giuse từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng gia Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với Chú là Cô Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, Cô Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng lá cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có lẽ có người cũng chẳng biết chữ, thế nên rất chân chất, mộc mạc, nhưng chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, không hoảng sợ sao được!
Thế nhưng sứ thần trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chia cả đâu, mắt chữ O và miệng chữ A, nhìn chẳng khác gì chú Tàu nghe kèn thôi. Lúc đó, nhìn họ chắc là thấy “tội nghiệp” lắm!
Sứ thần biết họ thật thà nên nói toạc móng heo luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu “lạ” quá chừng. Thế nhưng họ không hề thắc mắc, rồi họ mau mắn kéo nhau đến gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã ấy. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế!
Xin hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin chiếu tỏa Ánh Sáng Đức Tin dẫn đường chúng con đến với Đức Kitô và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Chúa qua mọi người và những gì nhỏ bé nhất, để chúng con trở thành những chứng nhân sống động của Tình Yêu, đồng thời chung tay xây dựng nền Văn Minh Tình Thương và Văn Minh Sự Sống ở mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
70. Tỏ tường
(Lễ rạng đông Giáng Sinh - Trầm Thiên Thu)
Con Chúa làm người vì thương xót
Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta, hài nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9:6). Một sự thật minh nhiên, một chân lý tỏ tường. Đã là sự thật thì không thể chối cãi, vì sự thật mãi mãi là sự thật, và chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Ngôn sứ Isaia vừa thông báo vừa mời gọi: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Tại sao chỉ nói với thiếu nữ Sion mà không nói với nam giới Sion? Thiết tưởng, nữ giới là phái yếu, thường bị áp bức, bị khinh miệt,… Và họ có thể đại diện cho những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước đoạt nhân quyền, bị miệt thị nhân vị,… Họ cũng chính là chúng ta, những người bị tội lỗi đè đầu, bị thói hư tật xấu kiểm soát, bị xã hội ruồng bỏ.
Thực sự Đức Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua rồi. Lễ Giáng Sinh chỉ là kỷ niệm đại sự kiện Con Chúa làm người mà thôi. Vấn đề là chúng ta có để Chúa đến trong linh hồn chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc hay không. Nếu chúng ta “cho phép” Chúa vĩnh cư nơi hang-đá-tâm-hồn thì chúng ta sẽ được gọi là “dân thánh”, là “những người được Đức Chúa cứu chuộc”, được gọi là “cô gái đắt chồng”, là “thành không bị bỏ” (Is 62:12). Như vậy thì thật là đại phúc!
Và nếu được đại phúc đó thì vô cùng vui mừng. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Ngọn lửa hồng mở lối tiên phong, đốt tiêu tan địch thù tứ phía. Ánh chớp của Người soi sáng thế gian, địa cầu trông thấy mà run sợ; núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-6). Thiên Chúa có phong cách không hề giống phàm nhân, tất nhiên chúng ta không thể nào hiểu nổi, chỉ còn biết cúi đầu kính phục, thờ lạy và chúc tụng. Nói theo kiểu thời @ ngày nay thì đó là “trên cả tuyệt vời”!
Thiên Chúa công chính nên Ngài muốn mọi thứ cũng phải tỏ tường, nghiêm chỉnh, chính xác, trước sau như một. Và vì thế mà Ngài “bị động” theo kiểu “bất lực”. Thiên Chúa mà “bất lực” ư? Vâng, đúng vậy. Nhưng Ngài “bất lực” cái gì và tại sao? Ngài “bất lực” về sự dối trá, nhẫn tâm, thù hận, nản lòng, thất hứa,… Ngài “bất lực” trong những động thái ác độc vì Ngài là Đấng chí thiện, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6). Ngài là Đấng Thánh nên Ngài cũng buộc chúng ta phải nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). KHÔNG NÊN THÁNH là PHẢN BỘI CHÚA.
Lý do để chúng ta vui mừng rất tỏ tường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12).
Lý do vui mừng càng tỏ tường hơn theo “tầm nhìn” của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:4-5).
Niềm vui càng tăng lên theo cấp số nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7). Không còn biết nói gì hơn nữa vì niềm vui đó quá lớn, ngỡ như chỉ có trong mơ, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên. Đúng là đại phúc cho chúng ta!
Các mục đồng nghèo khổ và dốt nát nhưng lại hạnh phúc nhất: Những người đầu tiên được báo Tin Mừng và được trực tiếp diện kiến Chúa Hài Đồng. Họ là những nhân chứng sống động mà chúng ta phải noi gương.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Thánh Luca cho biết là “họ liền hối hả ra đi”. Mau mắn hành động mà không chút đắn đo, suy tính. Lại một tấm gương sáng về việc “sống đạo” khiến chúng ta phải “giật mình” lắm!
Khi đế nơi phải đến, họ gặp Cô Maria và Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ không ngạc nhiên, và rồi họ không thể im lặng, gặp ai họ cũng liền tíu tít kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên vô cùng.
Riêng Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Phong cách Cô Maria thật “khác người”, đúng là một thục nữ nhu mì và ngoan hiền. Thánh sử Luca cho biết thêm: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Quả thật, mọi điều đã tỏ tường. Kế hoạch của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn hành động vì Danh Chúa và chứng tỏ lòng thương xót của Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng gặp được chính Ngài, qua các động thái yêu thương chân thành nhất. Xin giúp chúng con biết noi gương Đức Maria và Đức Giuse là NÓI ÍT mà LÀM NHIỀU. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
71. Đức Giêsu là quà tặng vô giá
(Jos. Vinc. Ngọc Biển - Lễ Đêm Giáng Sinh 2013)
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
CHÚ GIẢI
CHÚ GIẢI 1. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.
CHÚ GIẢI 2. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
CHÚ GIẢI 3. Chú giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
CHÚ GIẢI 4. Những lá thư chết
Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.
Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.
Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.
Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: "Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống." Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.
Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:
"Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực."
Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:
"Ông già Noel thân mến,
Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả. Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có "đời đời" mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái "đời đời" nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.
Ký tên
Marian."
Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.
***
Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát . Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.
Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.
Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: "Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày."
Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.
C. Delavigne đã nói: "Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời." Cervatès còn xác quyết: "Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng." Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.
***
Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!
24/12 Giacaria ca ngợi Thiên Chúa
- Viết bởi Lc 1, 67-79
Giacaria ca ngợi Thiên Chúa.
Thứ Hai tuần 4 mùa vọng.
"Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta".
LỜI CHÚA: Lc 1, 67-79
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
"Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lời Ca Ngợi Thiên Chúa Của Zacharia
Trong bài trích sách Samuel quyển thứ II, chúng ta thấy: "Khi ấy vua David ngự trong đền và khi Thiên Chúa cho ông được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh thì David nói với tiên tri Nathan rằng: Ông thấy không, ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư? Và xảy ra đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với David tôi tớ của Ta rằng, có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi đền để ở chăng? Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đàn chiên để trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi mọi nơi ngươi đi, Ta sẽ làm cho ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Nhà của ngươi và triều đại của người sẽ vững bền đến muôn đời".
Sau khi đem David ra khỏi nghề chăn chiên để lên làm vua Israel, dẹp yên mọi quân thù thì ý Thiên Chúa muốn David làm một ngôi Ðền Thờ để thờ phượng Thiên Chúa. Vua David cũng muốn thế và ông đã thực hiện. Con người không thể cầu nguyện ở những nơi đông đúc giữa ngã tư đường phố, nơi chợ búa ồn ào được, nhưng cầu nguyện ở nơi yên tĩnh để tâm sự nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ khi thấy dân Do Thái biến nơi tôn nghiêm thành nơi buôn bán đổi chác tiền bạc: "Các ngươi đã biến nhà Ta thành nơi trộm cắp. Nhà Ta là nhà cầu nguyện".
Thiên Chúa hằng vẫn ở với chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng ta đến với Ngài, đến để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị lực và sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã tìm đến với Ngài hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn với Chúa hằng ngày mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri về Chúa Kitô là Ðấng cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được, chỉ những người thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên tri, làm phép lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần các tông đồ chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng bản xứ của họ.
Nhưng Thiên Chúa yêu thích hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: "Nếu tôi được ơn nói tiên tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì. Nếu làm được nhiều phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho tôi". Ðức tin và đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến Chúa là tồn tại mãi trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ tóm gọn trong đức "Mến Chúa - Yêu Người", vì thế mà đạo Công Giáo còn được gọi là đạo của "Yêu Thương".
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện", xin Chúa cho chúng con luôn nhớ điều đó để chúng con luôn tìm đến với Chúa trong những lúc âu lo chán nản, đau khổ và thất vọng để chính lúc đó chúng con biết cầu nguyện cách thật sốt sắng và chỉ biết bám chặt, tin tưởng trọn vẹn vào Ngài.
Lạy Chúa, luật của Chúa thật ngắn gọn và đơn sơ, đó là "Mến Chúa và Yêu Người" nhưng không dễ áp dụng, xin Chúa cho chúng con nhìn thấy Chúa qua mọi người chung quanh để chúng con dễ yêu mến họ hơn.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày cuối của Mùa Vọng, xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn và thể xác, bên trong lẫn bên ngoài để chúng con hiệp ý với Giáo Hội hân hoan mừng đón Chúa Giáng Sinh, vì Ngài đến để đem ơn cứu rỗi và sự bình an cho mọi người. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Nhìn cuối mùa vọng
Bấy giờ người cha của em, tức ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta”. (Lc. 1, 67-69)
Một mùa vọng nữa chấm dứt, mỗi người chúng ta đã thêm được gì? Chúng ta có thể chân thành hát lên bài ca của ông Gia-ca-ri-a, có thể cùng với ông và với mọi người chờ đợi Đấng Cứu thế đến với chúng ta được chưa? Con tim của bạn hướng về đêm Noel thế nào? Có phải là một thửa đất đã được chuẩn bị tốt, phì nhiêu, sẵn sàng không? Bạn đã đổi mới nhờ lời Chúa chưa? Đã tái ký kết giao ước với Chúa chưa? Ông Gia-ca-ri-a đã tóm tắt kinh nghiệm của ông về Thiên Chúa và Đức Kitô như thế này:
“Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót,
Cho vầng đông chốn cao vời viếng thăm ta,
Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm,
Và trong bóng tối tử thần,
Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.
Lòng thương xót Chúa vẫn tiếp tục công trình cứu độ cho đến chúng ta. Bạn có lẽ đã biến đổi chút ít rồi nhờ Thiên Chúa đầy lòng yêu dấu, đầy lòng thương xót, đầy lòng quảng đại tha thứ. Hôm nay nhìn lại những việc Chúa làm cho chúng ta để cảm tạ Ngài là rất tốt, rất hữu ích. Công trình lòng thương xót của Chúa vẫn tiếp tục tuôn chảy với sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng xác phàm nhân loại. Với sự gần sát của Thiên Chúa, công trình Ngài đang hoàn thành cho chúng ta.
Ngày mai, chưa cứu độ hết, chưa giải thoát hết, nhưng chúng ta hy vọng một sức mạnh dẫn đưa chúng ta tới sự sống lại.
Ngày mai, vẫn chưa bày tỏ đầy đủ về Đức Kitô. Nhưng bây giờ chúng ta biết chắc rằng con người mới của Đức Kitô chính là con người mới của chúng ta và của mọi người.
Ngày mai, chúng ta cử hành đại lễ mừng hoàng tử hòa bình đến, chúng ta mừng đại lễ với hy vọng hòa bình sẽ chan hòa trên trái đất. Ngày mai, chúng ta được chung sống hòa bình với mọi người chung quanh, với tất cả những ai chúc mừng nhau nhân dịp Noel hân hoan này.
C.G.
Suy Niệm 3: THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM (Lc 1, 67-69)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe được thốt lên từ chính miệng ông Giacaria trong ngày lễ cắt bì cho Gioan Tẩy Giả. Lời kinh này được gợi hứng từ trong thời Cựu Ước, và người ta nhận thấy nó bắt nguồn từ Thánh Vịnh vua Đavít và nơi các tiên tri.
Kinh tạ ơn này được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất nói lên lời cầu nguyện trực tiếp của ông với Thiên Chúa là Đấng Cứu độ Israel và cụ thể là gia đình ông qua việc cho Gioan xuất hiện.
Phần thứ hai là những lời tiên tri về trẻ nhỏ Gioan.
Khi cất cao lời kinh tạ ơn như vậy, Giacaria là hiện thân đại diện cho cả dân tộc Israel để ca khen, tán tụng hồng ân, lòng từ bi và thương xót của Thiên Chúa. Ông thấu hiểu nỗi chờ mong của dân tộc mình trong việc mong đợi Đấng Cứu Thế, nay niềm tin đó đã đem lại cho ông và cả dân tộc ông niền hy vọng khi Thiên Chúa đã cho Gioan xuất hiện để đi trước dọn đường.
Sự xuất hiện của Gioan đã xóa đi nỗi niềm chờ mong, và dân không còn phải đi trong tối tăm của đêm dài nữa. Niềm hy vọng này đem lại cho dân một sự đảm bảo vì Thiên Chúa đã chọn Gioan đi trước dọn đường cho Đấng Tối Cao đến để cứu độ dân Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa vì Người hằng yêu thương chăm sóc chúng ta như xưa Người đã từng chăm sóc dân Israel trong thời Cựu Ước. Chỉ có điều, chúng ta có đủ niềm tin vào Chúa hay không mà thôi!
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha đã gìn giữ, yêu thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin ban cho chúng con sống sứng đáng là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Thiên Chúa viếng thăm
Suy niệm:
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,
lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.
Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel
vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng
được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).
Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).
Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.
Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.
Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).
Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,
Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).
Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết
và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).
Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),
là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,
vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.
Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua.
Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).
Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,
đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).
Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.
Ngôi Lời đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).
Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết,
và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,
vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).
Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.
Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.
Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,
và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.
Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,
là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.
Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:
một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;
một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự.
Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu nguyện :
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền…..khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại cò dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai ?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sỹ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc Lamã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đới thường rời cuộc đời trần thế bằng nắm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu .
Lm Giuse Đinh Tất Quý
ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG
(Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6); Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14)
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.
Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.
Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.
1. Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).
Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.
Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.
Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.
2. Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian
Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse - Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
3. Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
1. GLCN/37- GIÁNG SINH
Gần lễ Giáng sinh ta thường nghe nói : “Chúng ta không còn những lễ Giáng sinh ngày xưa nữa, không còn bầu không khí của ngày ấy nữa”. Thậm chí một số người còn nói : Lễ Giáng sinh càng qua mau càng tốt. Đối với tôi chẳng làm gì có lễ Giáng sinh… Và như thế cũng chẳng sao cả. Vậy những lễ Giáng sinh của chúng ta về sau này đã bị thay đổi nhiều ; chúng đã già đi nhiều, đã hao mòn, tàn héo đi.
Dĩ nhiên những lễ Giáng sinh ấy là lễ Giáng sinh những năm xưa, nhưng nếu chúng ta đã thay đổi như thế thì không phải do Thiên Chúa ; vì các ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không hề thay đổi, không già đi, không bạc màu. Trái lại, lòng chúng ta có thể già cỗi, tàn phai, hao mòn và chán chường. Và nếu những ngày lễ Giáng sinh đã thay đổi đến như thế, chắc hẳn là vì lòng chúng ta đã thay đổi. Những ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không thay đổi, ta phải xác tín như vậy. Chúng không thay đổi vì Thiên Chúa không thay đổi, vì tình yêu của Ngài muôn thuở và luôn luôn hiện đại, vì lòng âu yếm của Ngài đối với nhân loại không hề thay đổi. Mỗi lễ Giáng sinh, khi Thiên Chúa đến sống với chúng ta, ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta Con Một Ngài, đều mang đến Tin Mừng, niềm vui và sự bình an đã được ban cho nhân loại ngày lễ Giáng sinh đầu tiên tại Belem. Cùng một sứ điệp – cùng một sức mạnh và tính năng động – được lặp lại từ lễ Giáng sinh này đến lễ Giáng sinh khác.
Sứ điệp ấy chính là Thiên Chúa đến ở với loài người để cho loài người được ở với Ngài ; chính Thiên Chúa đi vào trong thế giới của chúng ta để chúng ta đi vào thế giới của Ngài , chính Con Một của Thiên Chúa đến hiệp thông với cuộc sống chúng ta để cho sự sống chúng ta được hiệp thông với sự sống của Ngài và sự sống của Thiên Chúa, thân phụ Ngài. Sứ điệp ấy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mang lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta mang lấy thiên tính của Ngài. Đó là sứ điệp bao giờ cũng mới mẻ, cũng đẹp đẽ, cũng phấn khởi, cũng tuyệt vời, từ năm này qua năm khác.
Sứ điệp Giáng sinh không già cỗi, không hao mòn, ta hãy xác tín như vậy ! Hãy xác tín rằng lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không tàn phai ! Vậy nếu lễ Giáng sinh của ta bây giờ không còn như trước kia nưã có lẽ bởi vì chúng ta không còn muốn… hoặc không dám nghe sứ điệp chân chính của Giáng sinh… Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ kéo dài đến tận thế. Nếu những lễ Giáng sinh của chúng ta không còn như trước kia nữa, cũng có lẽ bởi chúng ta không có hoặc không còn can đảm đón nhận Đấng ban ý nghĩa cho lễ Giáng sinh : Hài nhi mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa và Con Đức Maria. Đón nhận một trẻ nhỏ không phải bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Một trẻ thơ, nó quấy rầy. Nó bắt thay đổi những thói quen, bỏ một số thói quen và có những thói quen mới.
Tôi nghĩ rằng nơi đây chúng ta đụng đến lý do sâu xa của sự nhàm chán và già nua nơi những lễ Giáng sinh của chúng ta. Quả thật làm sao sống niềm vui Giáng sinh khi mình gắn bó với tiền bạc, trong lúc Giáng sinh là mầu nhiệm khó nghèo ? Làm sao đón nhận lòng nhân từ và trìu mến của Giáng sinh khi nuôi dưỡng thù hận trong lòng, khi từ chối yêu thương, tha thứ, khi chỉ chia sẻ cách dè sẻn những gì mình sở hữu?... Trong lúc Giáng sinh loan báo tình thương, lòng nhân hậu và mang món quà lớn nhất : Con Thiên Chúa được ban cho loài người !
Làm sao có được niềm hân hoan của Giáng sinh… khi người ta vẫn khép kín nơi mình, nơi những tiện nghi, danh tiếng của mình, mà không quan tâm đến bao người đàn ông, đàn bà, những trẻ em đang đau khổ, khóc than, đói khát ? Tóm lại, làm sao chúng ta có thể sống một lễ Giáng sinh an bình và vui vẻ sâu xa mà lại không chấp nhận sự quấy rầy của Hài nhi yêu cầu được sinh ra nơi chúng ta, và cứ thờ ơ lãnh đạm trước sứ điệp của Ngài ?
Phẩm chất của lòng chúng ta sẽ tạo nên phẩm chất lễ Giáng sinh của chúng ta : Có lẽ chúng ta hay quên điều này. Vậy thì chỉ có một lời chúc cho nhau thôi : Xin cho lòng chúng ta ấm lại một chút, xin cho lòng chúng ta thành thật hướng về Thiên Chúa và về Đấng mà Ngài sai đến với chúng ta… Xin cho lòng chúng ta biết xúc động một chút trước tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta… lúc đó chúng ta sẽ sống một cách khác lễ Giáng sinh năm nay. Và những lễ Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện… những Giáng sinh mang bình an và niềm vui sẽ lại trở thành của chúng ta bởi vì chúng ta cho phép Con Thiên Chúa nhập thể nơi chúng ta.
2. ASTM/24- HÓA THÀNH
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào về âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh. Đã có vô số những bài ca bất hủ về Giáng sinh và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về Giáng sinh nữa.
Kỳ thực, Lễ Giáng sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu âm nhạc là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan tông đồ đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống hòa hợp trong mầu nhiệm ấy và đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể nghĩa là Ngài đã trở thành một người như chúng ta. Ngài đã nói ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài, lời Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên khắp thế giới từ hơn 2000 năm. Lời ấy đã được dịch ra trên 5000 thứ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng trong hang đá Belem và nhất là thinh lặng trong suốt 30 năm tại Nagiarét.
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế ? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng. Hơn nữa, Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa.
Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng, mỗi một người sinh trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm, sự hiện hữu của Ngài là một sự hiện hữu giới hạn, giới hạn trong không gian, giới hạn trong cách sống, trong thời đại. Chúa Giêsu đã không hề làm một người chồng, Chúa Giêsu đã không hề làm một người cha trong gia đình, thế nhưng cuộc sống nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tái diễn trong dòng lịch sử của nhân loại. Và lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành hằng năm không chỉ đến mỗi năm có một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời này, cho dù chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu đắng cay chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em, và có lễ Giáng sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Như vậy, bài thánh ca mừng Chúa Giáng sinh không chỉ được hát lên mỗi năm có một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong tâm tư suy nghĩ, hành động và trong cư xử của chúng ta, để mỗi người chúng ta bằng lời nói hay bằng chứng tích thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
3. PV/63- QUAN HỆ
Mỗi năm, khi đến lúc gửi đi những tấm thiệp Giáng Sinh, chúng ta lại lấy ra cuốn sổ ghi địa chỉ. Trong đó, chúng ta có thể tình cờ bắt gặp một cái tên, và thốt ra “Trời ơi ! Mình không hề nghe tin gì về anh ta cả bao nhiêu năm nay”. Chúng ta không thể nhớ được mình đã gửi tấm thiệp nào cho người đó vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái hay không. Thế là chúng ta đang phải có một quyết định : Liệu chúng ta sẽ gửi hoặc không gửi một tấm thiệp cho anh ta ?
Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta đều có một người bạn nào đó như thế, một người mà có lẽ chúng ta chỉ có quan hệ mỗi năm một lần mà thôi. Có thể chúng ta đã từng rất thân thiết với người đó trong một thời gian. Nhưng hiện nay, vì lý do này hoặc lý do khác, có một khoảng cách giữa chúng ta và người đó. Chúng ta đã bị mất liên lạc. Và bây giờ, đến lúc đáng tiếc là chúng ta chỉ liên lạc với nhau qua một tấm thiệp Giáng Sinh. Điều này cho thấy rằng mối quan hệ không được chăm sóc, thì sẽ bị ảnh hưởng không tốt, giống như một khu vườn bị bỏ bê, vì mối quan hệ như vậy hầu như không được nuôi dưỡng. Trên thực tế, điều này không thực sự ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta cũng có thể bị mất quan hệ với Thiên Chúa. Điều này không hẳn là chúng ta không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa, mà chỉ là chúng ta không còn giữ quan hệ với Người nữa. Khi còn nhỏ, có thể chúng ta đã từng rất gần gũi với Thiên Chúa, nhưng theo thời gian, chúng ta mất đi mối quan hệ này. Khi người ta tự cho phép mình mất quan hệ với Thiên Chúa, thì xảy ra một sự mất mát to lớn, hậu quả là một sự trống rỗng mênh mông. Không thể hiểu được và không thể nào chịu đựng nổi một cuộc sống, mà không có Thiên Chúa.
“Khi đến ngày chúng ta không còn tin tưởng nơi một thần tượng của cá nhân mình, thì chúng ta không bị chết đâu ; nhưng khi đến ngày mà cuộc sống của chúng ta không còn được soi sáng bởi ánh hào quang đều đều, được đổi mới mỗi ngày, của một điều tuyệt vời, mà nguồn gốc của điều tuyệt vời đó vượt ra ngoài tất cả mọi lý lẽ”.
Ngày kia, một đứa trẻ lên 6 tuổi, cha mẹ cháu không có lòng tin, xin người giáo viên của cháu dẫn cháu đến viếng một nhà thờ gần đó. Trong suốt cuộc thăm viếng đó, cháu nói với người giáo viên : “Bà của con nói rằng đây là ngôi nhà của Thiên Chúa. Bà nói rằng Thiên Chúa là tình yêu. Bà nói rằng khi bà cầu nguyện với Chúa, có nghĩa là bà nói chuyện với Chúa. Con chưa bao giờ cầu nguyện. Nhưng con thích được nói chuyện với Chúa. Con muốn được nghe Chúa nói. Trong lớp, có một bạn tin vào Chúa. Bạn ấy là người Công giáo. Nhưng bố mẹ con đều là những người không tin vào Thiên Chúa, vì thế, con cũng vậy. Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc”.
“Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc” – đây là câu nói của một đứa trẻ lên 6 tuổi. Quả thật con người rất cô đơn, khi không được biết Chúa. Nếu chúng ta trải qua nỗi cô đơn này, thì chúng ta không nên hốt hoảng. Có thể đây là một cơ hội và là một ân sủng. Trái tim của chúng ta luôn luôn khát khao một điều gì đó nhiều hơn nữa, hoặc nói đúng hơn, chúng ta khát khao một Đấng khác. Nơi mỗi tâm hồn con người, đều có một chỗ trống, chờ đợi một vị khách. Vị khách đó chính là Thiên Chúa.
Người ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn trong ngày lễ Giáng Sinh, so với bất cứ thời gian nào khác, bởi vì trong lúc này, chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Đây là một quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không cô độc trong vũ trụ. Nếu chúng ta cảm thấy mình bị mất quan hệ với Thiên Chúa, thì ngày lễ này đem đến cho chúng ta một cơ hội, để tự mình lấy lại quan hệ với Người, trong niềm tin tưởng rằng chúng ta sẽ không đón nhận bất cứ điều gì khác, ngoại trừ tình yêu. Nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng mình được sự hiện diện thần thánh tác động vào.
Quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, đem đến sự an bình nội tâm. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai con gái yêu quí của Thiên Chúa, là những người được thừa kế vương quốc nước trời.
Lễ Giáng Sinh cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội để tự liên lạc với người khác, đặc biệt là với gia đình của chúng ta, nếu chúng ta bị mất quan hệ với họ. Điều đó cũng mang lại cho chúng ta sự an bình và niềm vui.
Các mục đồng trở lại với đàn gia súc của họ, “vừa đi vừa ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe”. Không có gì thay đổi cả, tuy nhiên, tất cả mọi sự đều đã thay đổi. Bây giờ, tâm hồn của họ tràn ngập sự kinh ngạc. Họ đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới, về tình yêu của Thiên Chúa đối với họ, và về sự hiện diện của Người. Cuộc sống của họ được sáng rực ý nghĩa. Thế giới cũ đã trở nên một thế giới mới, trong đó tất cả mọi sự đều long lanh đều kỳ diệu. Sự phát hiện về Thiên Chúa đem lại kết quả là một thế giới đầy niềm vui.
4. PV/66- NOEL - BÌNH AN
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi !”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.
5. PV/69- NOEL- VƯƠNG QUỐC
Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày thất vọng nhất. Điều này cũng có thể xảy ra đối với cả ngày lễ Giáng Sinh nữa.
Đôi khi, chúng ta có thể có những ước mong không thực tế về ngày lễ Giáng Sinh. Dường như thể chúng ta mong đợi một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống nhàm chán của chúng ta. Nhờ vào sự xây dựng kéo dài mãi mãi, khi gần đến ngày trọng đại, niềm hy vọng của chúng ta bay lên cao vút. Tuy nhiên, bản chất của những niềm hy vọng này thường bị thị trường ức chế – một sự tràn ngập những đồ ăn thức uống, tràn ngập những chương trình Tivi để chúng ta giải trí.
Nhưng khi bắt đầu đến lễ Giáng Sinh, thì điều đầu tiên mà chúng ta ghi nhận được là gì ? Ngày đó chỉ giống như bất cứ một ngày nào khác. Không ai nhìn thấy các thiên thần, không ai nghe được những giọng hát từ trên trời vang vọng xuống. Tất cả mọi sự đều diễn tiến y như bình thường. Và khi mặt trời của ngày này lặn xuống, thì nhiều người lại cảm thấy trống rỗng và trầm cảm, và họ nói một cách cay đắng “Lễ Giáng Sinh chỉ dành cho trẻ con mà thôi”.
Nhưng ngày này có thể khác hẳn. Mặc dù không hề có dấu hiệu nào trên bầu trời, nhưng ít nhất đối với những người biết cách nhìn, thì vẫn có những dấu hiệu về ngày này. Trong ngày lễ Giáng Sinh, trên thế giới, có nhiều ánh sáng hơn, ấm áp hơn, hy vọng hơn. Người ta trở nên thân thiện với nhau hơn trong ngày lễ này. Không ai đi qua mặt nhau, mà không chào nhau. Trong ngày này, chúng ta cảm thấy mình là một thành phần của gia đình nhân loại, hoặc ít nhất, chúng ta mong muốn được trở nên một phần của gia đình đó. Nếu phải đi một mình đơn độc trong buổi sáng hôm nay, thì dường như đó là một điều kỳ lạ, thậm chí còn sai trái nữa.
Thật vậy, trong ngày lễ Giáng Sinh, Nước Thiên Chúa trở nên rõ rệt. Trong ngày này, nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm thấy mình được sự hiện diện thần thánh đụng chạm vào. Hugh Leonard một nhà viết kịch người Ailen, đã nói “Có lẽ tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết được nơi Người sinh sống. Người ở chung quanh tôi trong suốt cả năm, nhưng trong ngày lễ Giáng Sinh, Người tiến tới và thọc sâu vào cạnh sườn của tôi”. Đó không chỉ là một cảm giác.
Trong ngày lễ Giáng Sinh, chúng ta có được một cảm giác về sự gần gũi, ấm áp, và về lòng từ ái của Thiên Chúa. Chúng ta cảm nhận được rằng mình không cô độc, rằng cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa, rằng có một ai đó đang săn sóc và hướng dẫn đường lối cho chúng ta. Đó là ý nghĩa cốt lõi của ngày lễ Giáng Sinh. Chúng ta không nên e ngại trong việc sưởi mình nhờ hơi ấm này, giống như chúng ta vẫn vui mừng tắm mình trong ánh nắng ấm áp vào một ngày lạnh lẽo.
Chúng ta cũng có được một cảm giác về sự thành tâm thiện chí của bản thân mình và của những người khác. Chúng ta cảm nhận được rằng cuộc sống thật tươi đẹp và có một ý nghĩa. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Thiên Chúa. Chúng ta có một nhân phẩm thần thánh và một vận mệnh vinh quang. Một sự bình an nội tâm xuất phát từ mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.
Nếu ngày lễ Giáng Sinh để lại cho chúng ta sự thất vọng, thì có nghĩa là chúng ta đã gắn bó niềm hy vọng của mình vào những điều sai trái. Kẻ nào gắn bó niềm hy vọng của mình vào những thứ do dân buôn bán đưa ra, thì sẽ luôn luôn bị thất vọng, không phải vì họ hứa hẹn quá ít, mà là vì họ hứa hẹn quá nhiều, mà hứa hẹn về những điều sai trái. Tâm hồn chúng ta khát khao nếm được “niềm vui” mà các thiên sứ đã loan báo cho các mục đồng. Đó là niềm hy vọng của ngày lễ Giáng Sinh.
Chúng ta phải cầu xin điều gì đây ? Chỉ cần một điều duy nhất : hãy cởi mở tâm hồn mình ra để đón nhận niềm hy vọng này. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho chúng ta ; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa.
6. PV/72- NOEL- ÁNH SÁNG
Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Uc, mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy ?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư ? Có ai đến thăm tôi đâu” !
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Nhưng xin nói giùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta – buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v,v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Anh sáng đó vẫn chiếu tỏa ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Anh sáng đó chiếu tỏa ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ hơn 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng rời của Người biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu tỏa trên nhân loại. Anh sáng soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, vẫn soi chiếu trên chúng ta trong đêm Giáng Sinh này.
Anh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Anh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.
7. PV/75- NOEL- ÂN SỦNG
Bối cảnh : một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng tối vẫn bao trùm lên những dãy lán trại lụp xụp. Nhưng lễ Giáng Sinh đang đến, mọi sự sẽ khác hẳn đi, ít nhất là trong một chốc lát.
Tuy nhiên, vào ngày trước lễ Giáng Sinh, có một sự kiện xảy ra càng đào sâu thêm cảnh tối tăm của những túp lều tồi tàn. Một người cha của ba đứa con nhỏ đã phạm tội giết người. Không ai biết được đầy đủ câu chuyện phía sau hành động của anh ta. Nhưng anh ta để cho người khác nhìn thấy sự tối tăm đã xâm nhập vào tâm hồn anh. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, anh ta nói với bạn bè rằng anh rất khổ tâm, vì không có món quà tặng nào cho con cái của anh trong ngày lễ Giáng Sinh.
Tặng quà là một phần quan trọng trong việc cử hành lễ Giáng Sinh. Charles Dickens kết luận : “Lễ Giáng Sinh là thời điểm trong tấm lịch dài của cả năm trong đó người ta cởi mở ra với nhau cánh cửa tâm hồn vốn đã khép kín”.
Có thể nói rằng Giáng Sinh là mùa của việc trao tặng quà, mặc dù quà tặng của chúng ta có thể tầm thường và chỉ theo thủ tục. Một món quà tự nó là một cách thế, để nói lên với người được tặng quà rằng chúng ta quí mến họ. Món quà tặng ít liên quan đến lẽ phải, mà liên quan đến tình yêu.
Việc Thiên Chúa ban ân sủng mang chúng ta trở lại với bản thân ngày lễ. Ngày lễ Giáng Sinh được tạo ra bởi một ân sủng. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con duy nhất của Người, hầu cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người đều không bị hư đi, nhưng có được sự sống đời đời”.
Trong khi trao tặng quà cho nhau, chúng ta hãy đảm bảo rằng chúng ta cũng trao tặng cho nhau chính bản thân mình nữa. Lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để trao tặng quà, nhưng ngày lễ này nói nhiều hơn về sự hiện diện – nghĩa là trao tặng chính bản thân mình. Và phẩm chất sự hiện diện của chúng ta là tất cả mọi sự.
Có sự hiện diện mang tính cách xa vắng, nhạt nhẽo, lãnh đạm – giống như mặt trời vào một ngày mùa đông, đã mọc lên và lặn đi, mà thậm chí không hề làm tan giá cho mặt đất. Và có sự hiện diện gần gũi, ấm áp, quả quyết – giống như mặt trời vào một ngày mùa hè, mang lại sự sống cho tất cả mọi loài.
Việc trao tặng quà quan trọng, nhưng việc tiếp nhận quà cũng quan trọng tương tự như vậy. Lễ Giáng Sinh cũng là một thời gian để tiếp nhận – tiếp nhận những món quà mà người khác trao tặng, và đặc biệt là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Thiên Chúa không trao tặng cho chúng ta món quà là một đồ vật, mà là một con người. Đức Giêsu chính là một quà tặng đối với những người nghèo khổ và thấp kém, để đảm bảo với họ rằng tình yêu mến không bỏ qua họ.
Khi trao tặng quà, chúng ta gói món quà đó trong một lớp bọc có trang trí, mặc dù chúng ta biết rằng giấy gói không gia tăng gì thêm cho món quà, và sẽ bị xé ra và quẳng vào sọt rác. Khi Thiên Chúa làm cho chúng ta một món quà là chính Con của Người, thì món quà đó của Người không hề đến trong một lớp bọc được trang trí. Nhưng Người đã đến trong thân phận con người yếu đuối, mỏng giòn và hay chết. Chính nơi điểm này, mà chúng ta càng nhận thấy được mức độ sâu xa nơi tình yêu của Người.
Mặc dù Đức Kitô đã đến giữa chúng ta với đôi bàn tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang lại cho chúng ta những món quà vô giá và kéo dài muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Vậy chúng ta cần có loại khuynh hướng gì, để có thể đón nhận những ân sủng của Thiên Chúa ? Chúng ta cần ý thức về sự nghèo nàn của bản thân chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Sau đó, điều mà chúng ta phải làm, là cởi mở tâm hồn chúng ta ra, để đón nhận ân sủng Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, sẽ luôn luôn có được điều gì đó, để chia sẻ với những người khác.
“Có một quà tặng không thể nào đánh giá được đã trao tặng từ 2000 năm trước.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không ban tặng như vậy, thì Người vẫn là một kẻ xa lạ ở nơi xa xôi, và không phải là một hài nhi nằm trong máng cỏ”.
8. PV/78- NOEL - HÀNH TRÌNH
Tháng 7 năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một cuộc hành trình lâu dài nhất, chưa từng được con người thực hiện. Mục tiêu của họ là một nơi ở cách xa hàng triệu dặm. Cả thế giới hướng đôi mắt về phía họ, trong khi bay tới một hành tinh trong không gian ở gần chúng ta nhất – mặt trăng. Họ đã đáp xuống tại một nơi trên mặt trăng, được biết đến như là Biển của Yên Tĩnh. Họ khám phá ra rằng nơi đây không có sự sống và cằn cỗi, và đã mang về một nắm đất và bụi. Tuy nhiên, Amstrong mô tả sứ mạng của họ là “một bước nhảy vọt đối với nhân loại”.
Lúc đó, đây là một tin vĩ đại. Bây giờ, dường như cuộc hành trình này mang tính cách khá mơ hồ. Hầu như chúng ta đã quên lãng điều đã từng xảy ra. Người ta đang hỏi nhau không hiểu cuộc hành trình đó đã đạt được gì, bất cứ điều gì ? Và những con người mà danh tính của họ đã từng ở trên môi miệng của tất cả mọi người, thì nay hiếm khi được nhắc nhở đến.
Hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành mầu nhiệm Nhập thể – việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta. Người đã được một người trinh nữ thấp kém sinh ra, vào một thời điểm mà nền thông tin còn chậm chạp, và tại một đất nước nhỏ bé, không hề có biển yên tĩnh, mà chỉ có bối cảnh là những cuộc xung đột triền miên. Chỉ có một nhúm người biết về việc Người đã đến mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nói về mầu nhiệm này và cử hành ngày lễ này. Sự nhập thể là giây phút vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả là mọi việc không bao giờ còn giống như trước nữa. Qua bao thời đại, các nghệ sĩ, nhà thơ, tác giả đã nhận ra tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể.
Trong biến cố nhập Thể, chúng ta nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mặc dù Đức Kitô đến giữa chúng ta trong đôi tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang đến cho chúng ta những ân sủng vô giá và tồn tại muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta rằng chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Có một người giáo viên rất muốn đưa ra những lời giảng dạy, hướng dẫn, phê bình và sửa sai. Ngay sau khi kết hôn, ông liền dạy cho vợ ông biết cách rửa bát đĩa, bởi vì ông cho rằng nàng làm việc này không đúng cách. Và với cách thức chỉ dạy của ông, nàng phải rửa lại từng cái đĩa, mà nàng đã rửa xong rồi, dưới sự giám sát của ông. Thay vì cho nàng nhìn thấy ví dụ cụ thể, bằng cách tự tay rửa bát, thì ông lại chỉ đưa ra những lời khuyên bảo và hướng dẫn. Đức Giêsu đã không làm như vậy.
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu được chia sẻ cùng một bản chất thần thánh, giống như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng trong sự Nhập Thể, Người đã tự mang lấy trên thân mình Người chính thân phận của chúng ta, đó là một thân phận yếu đuối, mỏng giòn, lệ thuộc vào tội lỗi và sự chết. Bởi vì cuộc đấu tranh và chiến thắng ở ngay trong bản chất của chúng ta, nên chúng ta cũng có thể được ích lợi từ bản chất đó. Và Đức Giêsu không hề đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, mà Người lại không tự mình thực hiện.
Từ đó, bạn có được mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là mẫu thức của sự cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào thế giới của chúng ta, cùng với những điều kiện sống của chúng ta. Người muốn cảm nhận được nỗi đau khổ của kiếp người, và chỉ ra cho chúng ta tính cách vĩ đại của con người. Bây giờ, chúng ta có được một Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu chúng ta, mỗi khi chúng ta nói với Người về nỗi đau đớn của chúng ta. Nhưng Người cũng là một Thiên Chúa, Đấng sẽ không cho phép chúng ta được đắm mình trong nỗi đau khổ đó. Người sẽ không thỏa lòng, cho đến khi Người đòi hỏi được điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên trái đất này, để chia sẻ thân phận của chúng ta, sao cho chúng ta có thể được chia sẻ trong sự thần thánh của Người. “Hai ông bà lấy tã bọc con trẻ, và đặt hài nhi trong một máng cỏ”. Đức Giêsu đã lớn lên chính từ nguồn gốc thấp kém này, để chỉ ra cho chúng ta thấy sự vĩ đại của nhân loại chúng ta.
Niềm vui của ngày này tràn đầy trong tâm hồn chúng ta và trên toàn thế giới. Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta trên một cuộc hành trình còn táo bạo hơn của cuộc hành trình của các phi hành gia – cuộc hành trình đi đến vương quốc của sự sống đời đời.
9. Ánh Sáng
Vào chiều Chúa Nhật ngày 1 tháng Sáu, năm 1975, Darrel Dore đang ở trên một giàn khoan dầu tại vịnh Mexico. Bất chợt, cái giàn lắc lư và ngả nghiêng qua một bên. Sau đó, nó đổ nhào xuống biển.
Trong khi xảy ra tai nạn đó thì Darrel đã bị kẹt trong một cái phòng ở trên giàn khoan dầu. Khi cái giàn chìm sâu xuống đáy biển thì ánh sáng trong phòng mà Darrel đang ở cũng dần dần tắt lịm, rồi nước dần dần trào vô ngập căn phòng.
Vùng vẫy trong bóng tối, Darrel bắt chợt bắt gặp một cái bong bóng lớn ở một góc phòng. Anh liền nhanh chân chạy đến và bỏ đầu anh vào cái bong bóng đó.
Sau đó, một ý tưởng rùng rợn "tôi sẽ bị chôn sống" đã xâm chiếm anh. Anh bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Khi anh làm như thế, một sự kỳ diệu đã xảy ra. Anh phát biểu cảm tưởng đó như sau: "Tôi cảm thấy như mình đang nói chuyện với một ai đó. Chúa Giêsu đã ở với tôi. Tôi nhìn thấy ánh hào quang hoặc hình bóng của Ngài. Tôi cảm nghiệm được sự an ủi của Ngài đang hiện diện bên tôi. Ngài thật là sống động. Ngài đã ở đó."
Trong vòng hai mươi hai tiếng đồng hồ sau đó, sự hiện diện của Thiên Chúa tiếp tục an ủi Darrel. Tuy nhiên, sau đó, khí oxygen trong cái bong bóng bắt đầu hết. Darrel không thể thoát chết, chỉ là chờ thời gian.
Sau đó, một điều kỳ diệu thứ hai đã xảy ra. Darrel nhìn thấy một ánh sao sáng lung linh trong khối nước đen như mực. Ánh sáng đó có thật không, hay đó chỉ là ảo tưởng sau hai mươi hai tiếng đồng hồ của Darrel? Darrel nhắm mắt lại và mở ra. Ánh sáng từ cái ngôi sao đó hình như là càng sáng rõ hơn. Darrel lại tiếp tục nhắm mắt và mở ra.
Anh không phải đang gặp ảo tưởng, ánh sáng đó là ánh sáng thật. Ánh sáng đó phát ra từ cái mũ của người lặn nước. Đoàn cấp cứu đã lặn xuống và tìm thấy anh. Hai mươi hai tiếng đồng hồ hoảng sợ đã chấm dứt. Anh đã được cứu thoát!
Câu truyện có thật này là một minh họa diệu kỳ để diễn tả ý nghĩa ngày Lễ Giáng Sinh.
Tội lỗi đã làm lắc lư thế giới, và làm cho nó nghiêng ngả, rồi làm cho nó sụp đổ vào sự chết. Bóng tối đã tràn ngập tất cả, và loài người đã bị mắc kẹt trong thất vọng. Con người đang sống trong cảnh sụp đổ không thể tránh được.
Sau đó, trong cảnh trời u tối, một điều huyền diệu đã xảy ra. Một ánh sao lấp lánh trong khung trời tối. Thiên thần Chúa bỗng hiện đến bên họ và vinh quang Chúa rạng ngời bao quanh họ, làm họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng thiên thần nói với họ: "Đừng sợ! Này ta đêm tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành Đavít" (Lc 2:9-11).
Và như thế cơn ác mộng đêm tối đã chấm dứt. Sự cứu giúp đã đến. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã xuống từ trời đến để cứu độ loài người, như là người nhái lặn biển đến cứu Darrel.
Nếu chúng ta có chọn một dấu hiệu gì để tượng trưng cho ý nghĩa của Giáng Sinh, thì chúng ta có thể chọn hình ảnh ánh sáng. Chúng ta chọn ánh sáng vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Chúa Giêsu chính Ngài đã chọn ánh sáng để diễn tả tại sao Ngài đến trong thế gian. Ngài nói: "Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 8:12).
Trước khi Chúa Giêsu đến trong Giáng Sinh, con người đã đi lạc và lảo đảo trong bóng tối. Qua Giáng Sinh, Chúa Giêsu đã biến đổi tất cả những điều đó. Ngài cứu giúp chúng ta từ trong bóng tối và chỉ cho chúng ta con đường đến với Chúa Cha.
Lý do thứ hai, ánh sáng là một biểu tượng hoàn hảo của Mùa Giáng Sinh, bởi vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: "Các ngươi là ánh sáng thế gian... Ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời" (Mt 5:14, 16).
Nói một cách khác, cũng như Chúa Giêsu là ánh sáng cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải là ánh sáng cho kẻ khác. Chúng ta phải cho người khác biết con đường đi ra khỏi bóng tối, như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Đó là ý nghĩa của Mùa Giáng Sinh. Chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của ánh sáng dập tan bóng tối. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật, Chúa Giêsu đã đến như là một ánh sáng trong đêm tăm tối để cứu độ chúng ta và chỉ cho chúng con con đường đến với Chúa Cha. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật mà Chúa Giêsu đã gọi chúng ta trở nên ánh sáng trong thế gian, như Ngài đã từng là ánh sáng.
10. Nhập Thể, một Tin Mừng trọng đại
Suy Niệm của Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.” Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay. Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người.
1. Tin mừng được giải thoát Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4). Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được. Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”. Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
2. Tin mừng được cứu độ Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người.... Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”. Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người.
3. Nhiệm vụ loan báo Tin mừng Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống. Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen.
11. Ai thực sự mừng Lễ Chúa Giáng Sinh
Suy Niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến. Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ. Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa? Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người. Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an. Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
12. Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người - JKN
Chủ đề: Đức Giêsu đã trở nên người như chúng ta: cùng chịu đau khổ như chúng ta. Như vậy đau khổ ắt phải có giá trị tích cực của nó. Câu hỏi gợi ý : 1. Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch cảnh hơn ai? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều này? 2. Có cha mẹ nào yêu thương con mà lại bắt con phải chịu đau khổ một cách vô ích hoặc không cần thiết không? Nếu các ngài cứ bắt ép con mình phải chịu đau khổ, thì người con phải hiểu đau khổ ấy thế nào? có cần thiết hay không? 3. Vì yêu con người, Thiên Chúa muốn chia sẻ đau khổ với con người. Nếu ta yêu tha nhân, ta sẽ phải làm gì khi thấy họ phải đau khổ?
CHIA SẺ 1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra. Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v… Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta. 2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta. Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này. 3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất ca» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát. Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta - thậm chí cả Đức Giêsu - nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy. Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà». 4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực. Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem lPr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó. 5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta? Cầu nguyện Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.
HƠI ẤM TÌNH NGƯỜI
Lm. Jos. DĐH
Đại gia, giả nông dân, đó là câu thành ngữ chỉ người giầu sang phú quý, nhưng vì họ chủ trương sống như người nghèo hèn, nhằm xa tránh kẻ làm phiền. Trong khi đó, tiền nhân chúng ta thường khích lệ con cháu hãy tự tin sống như câu ca dao: nghèo tình nghèo nghĩa thì lo, nghèo tiền nghèo của chẳng lo làm gì. Thực ra, giầu nghèo không phải vì số phận, sống giả nhân giả nghĩa, đâu phải tự hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng vì ý chí, tự do chưa được sử dụng đúng, đẹp. Vào một đêm đông giá lạnh năm xưa, có đôi vợ chồng không tìm được nơi trú ngụ, liệu có phải vì ông bà quá nghèo, hay chỉ đơn giản là vì “cháy phòng” ? hoặc tình người bị hiểu sai ?
Mùa đông giá lạnh, ta có quyền mơ ước được sưởi ấm, tình yêu giữa vợ chồng con cái bị “đóng băng”, lẽ nào ta không tìm cách tháo gỡ, vun cao đắp đầy hạnh phúc. Tiết trời mùa lạnh năm xưa, lệnh hoàng đế kiểm tra dân số, người người khắp nơi trở về quê hương xứ sở làm thủ tục. Chấp hành luật lệ lại là điều lo lắng với Giuse và Maria, vì “bụng mang dạ chửa”, vì trời đã về chiều, hai ông bà cần phải có nơi trú ngụ ! Theo lối suy nghĩ của nhân loại, tại sao Thiên Chúa quyền năng không can thiệp cho gia đình Giuse Maria một chỗ trọ đàng hoàng ấm cúng ? Nhưng hiểu theo nghĩa siêu nhiên, Con Thiên Chúa đến trần gian chỉ khao khát “hơi ấm” của tình người.
Ngay từ khi chập chững bước, với bước đi đầu đời, cũng từ khi biết nghe, biết nói, ta đã hiểu, và rất thích những lời ngọt ngào yêu thương, những việc làm trung thực đầy nghĩa tình. Cha mẹ Hài Nhi Giêsu hẳn không thụ động phó mặc ơn Chúa “mở cửa lòng người”, đúng hơn các ngài hiểu Con Thiên Chúa muốn được cảm thông thân phận nghèo khổ cùng cực nhất nơi hang bò lừa. Nếu nghe nhìn và phân định cách tích cực, hoàn cảnh nghèo khó túng thiếu của xã hội đang được “ấm áp tình người” rất nhiều. Chương trình Lục-Lạc-Vàng thu hút nhiều tổ chức doanh nhân đến với những nông dân nghèo, có cơ hội thoát khổ. Chương trình cặp lá yêu thương, hướng nhiều cá nhân tập thể giúp các em học sinh nghèo hiếu học, sớm có điều kiện học tập, đến trường.
Lịch sử Kitô giáo hằng tuyên xưng Thiên Chúa quyền năng, Ngài làm được mọi sự, người Kitô hữu dư biết ai cũng cần đến tình yêu thương, cùng giúp nhau sống đạo làm người và đạo làm con Chúa. Tiếng loa của Thiên Thần đến bên các mục đồng trước, giúp những người nghèo hôm đó được nghe nhìn, cảm nhận niềm vui, nhưng không phải vui vì quà vật chất. Các mục đồng hạnh phúc cùng cha mẹ Hài Nhi bên máng cỏ, giá lạnh của đêm đông tan biến vì Con Thiên Chúa đã có được “hơi ấm tình người”.
Đêm tối đầy rủi ro sợ hãi, đêm tối đức tin cũng đầy thách thức, khó khăn, đêm tối đó không phân biệt giáo sĩ tu sĩ hay giáo dân, vì thế mà chúng ta cần có tâm hồn thao thức, cần có một sự chuẩn bị để Ngôi Lời xua tan bóng tối sự chết. Đêm tối hôm nay, Hài Nhi Giêsu và cha mẹ Ngài sẽ thinh lặng, mời gọi tất cả hãy hành động để hơi ấm tình người tỏa rộng khắp nơi. Đêm đông hôm xưa và hôm nay, Hài Nhi Giêsu vẫn là niềm vui, là bình an, là quà tặng, được ban cho nhân loại, được chia sẻ cho người nghèo, người giầu, người tội lỗi…
Tục ngữ có câu: giầu hai con mắt, khó đôi bàn tay, quả thật, chúng ta sẽ không phải là người nghèo về vật chất ; nếu như các Thiên Thần loan báo tin vui cho các mục đồng, hẳn âm vang “Chúa Giáng Trần” sẽ còn tỏa lan khắp nhân loại. Để biết mình đang cần thứ hơi ấm nào, chúng ta cần có giây phút lắng đọng tâm hồn. Để biết mình đang giầu nghèo về tinh thần ra sao, nhất định ta phải hòa mình vào số các mục đồng mà cùng nghe, cùng nhanh chóng tới hang đá gặp Hài Nhi. Hơi ấm của tình người, hơi ấm của tình Chúa, sẽ còn thiết thực đến từng tâm hồn, khi người tín hữu chúng ta cùng hòa với tiếng hát Thiên Thần: “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Amen.
ĐỨC VUA TÌNH YÊU, HOÀNG TỦ THÁI BÌNH ĐÃ ĐẾN
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chuyến công du của đức Thánh Cha Fancis tại ba nước Châu Phi cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 vừa qua là một chuyến đi nhiều khó khăn nguy hiểm. Nguy hiểm vì đây là chuyến đi của Giáo hoàng đến một vùng đang có chiến tranh, khủng bố. Trước đó hơn một tháng đã có hàng loạt vụ khủng bố giết chóc xảy ra tại các quốc gia này, quân IS còn lên tiếng đe doạ khủng bố chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng.
Vượt qua mọi de doạ, Đức Thánh Cha vẫn đến với ba quốc gia Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi đau khổ nghèo đói này. Ngài đến như vị sứ giả hoà bình, như người đem niềm vui và tình yêu thương để khơi dậy hy vọng và hoà bình cho các quốc gia này. Trong bài diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha, bà Tổng Thống lâm thời nước Cộng Hoà Trung Phi đã thưa với Đức Giáo Hoàng : Trọng kính Đức Thánh Cha ! Trong bối cảnh chính trị hiện nay, với những đe dọa an ninh có thật cũng như phóng đại, đã ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho chuyến đi của Ngài. Sự dấy lên các hành động cực đoan và khủng bố trong những ngày vừa qua đã có thể làm cho Ngài nản lòng vì không muốn gặp bất trắc khi đến đây. Nhưng Ngài vẫn đi. Bài học can đảm và quyết tâm là tấm gương mà chúng tôi phải học. Ngài luôn thực hiện tình đoàn kết với các nạn nhân của cuộc xung đột ở Trung Phi. Ngài luôn nâng đỡ tinh thần người dân Trung Phi, thuộc tất cả mọi tôn giáo để họ cùng nhau tái kiến trúc lại sự nhất quán cho quốc gia. Hôm nay, thêm một lần nữa, Ngài khẳng định cho người dân Trung Phi và dưới mắt thế giới, Ngài ở bên cạnh họ trong tình huynh đệ và bằng hữu giữa con người với nhau. Nhất là thêm một lần nữa, Ngài chứng tỏ Ngài là Giáo Hoàng của người nghèo, của những người bị bầm dập và tất cả những ai sống trong cơn tuyệt vọng.
Trọng kính Đức Thánh Cha ! Nhân danh tầng lớp lãnh đạo của đất nước này và cũng nhân danh tất cả những người đã góp phần cách này cách khác đã đưa đất nước xuống hỏa ngục, tôi xin xưng tất cả sự dữ đã phạm của đất nước này trong quá trình lịch sử, và tự đáy lòng tôi, tôi xin được tha thứ.
Chúng tôi tuyệt đối cần sự tha thứ này nhân chuyến đi của Ngài vì chúng tôi đã phạm những điều ghê tởm nhân danh tôn giáo bởi những người tự cho mình là tín hữu. Vậy, làm sao tự cho mình là tín hữu mà đi phá hủy nơi thờ phượng, giết người anh em, hãm hiếp người khác, phá hoại tài sản người khác, gây bạo lực dưới mọi hình thức ? Chúng tôi tuyệt đối cần sự tha thứ vì lòng chúng tôi đã chai cứng bởi sức mạnh của sự dữ. Tình yêu chân thành đối với tha nhân đã không còn ở trong tâm hồn chúng tôi, tâm hồn chúng tôi từ nay cắm sâu trong sự bất khoan dung, đánh mất các giá trị và sống trong tình trạng hỗn độn do bối cảnh gây ra.
Chúng tôi cần sự tha thứ để đi trở lại trên con đường thiêng liêng mới, sống động hơn, tiếp đón hơn, cụ thể hơn vì con đường này được xây dựng trên tình yêu đích thực, một tình yêu góp phần vào việc thực hiện và khẳng định lòng nhân ái của chúng tôi.
Đêm nay, chúng ta mừng kỷ niệm việc Thiên Chúa băng qua các tầng trời để bước đến với con người. Ngài vượt qua mọi nguy hiểm, bất trắc để gặp gỡ con người là những kẻ Ngài yêu thương. Ngài còn ở lại với con người để cùng chia sẻ, cảm thông và để giải thoát con người. Tiên tri Isaia đã cho thấy một tương lai tươi sáng, một cuộc sống hy vọng được mở ra cho con người : Đoàn dân đang lầm lũi trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng, Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ vui mừng, cái ách đã bị bẻ gẫy, những chiếc giày lính đã bị ném vào lửa. Thiên Chúa đến là để xây dựng chứ không phá huỷ, Ngài đem cho nhân loại hạnh phúc và lòng xót thương thay cho thù hận. Ngài là Vị Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thưở, Ông Vua thái bình.
Vị Thiên Chúa mà Isaia nói tới chính là Hài Nhi Giêsu. Ngài được hạ sinh trong một khung cảnh hết sức đơn sơ, thanh bình, nghèo nàn nhưng ấm áp. Thánh Luca cho thấy Giuse và Maria là những con người đầu tiên đón nhận Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Hai ông bà nghèo nàn đơn sơ, không tìm được chỗ trọ cho tươm tất, mà phải sống cảnh vô gia cư ngay trên quê hương xứ sở của mình. Giuse và Maria không chút hồ nghi, đã đón nhận Hài Nhi Con Thiên Chúa được sinh ra trong hoàn cảnh ấy, được đặt nằm trong máng ăn của súc vật.
Tương phản với sự nghèo khó, tối tăm của chuồng bò, thì ngay trong đêm ấy, ánh sáng hy vọng đã bừng lên, các mục đồng là nhưng thành phần thấp kém nhất trong xã hội lại là những người đón nhận được tin vui giáng sinh của Thiên Chúa. Sứ thần đã nói với các mục đồng : Đừng sợ ! Đây tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho anh em trong thành của Đavit. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Với lời loan báo này, sứ thần muốn nói đến thời kỳ Thiên Chúa đã đến ở với con người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã tuôn trào trên những con người thấp hèn. Một dấu hiệu để nhận biết Ngài, đó là một trẻ thơ bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ.
Các đạo binh thiên quốc và các thiên thần cất tiếng hát : Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Thiên Chúa đã đem bình an cho nhân loại, thế nhưng thế giới vẫn con nhiều chiến tranh bạo loạn. Hơn lúc nào hết, con người ngày nay vẫn đang mong đợi bình an, nhưng dường như nhiều người vẫn chưa thực lòng bắt tay xây dựng sự bình an cho thế giới. Thay vì góp phần xây dựng hoà bình, nhiều người, nhiều quốc gia đã cố tình gây ra chiến tranh giết chóc, tài trợ, nuôi dưỡng cho khủng bố để tìm kiếm lợi nhuận và quyền lực chính trị cho mình.
Để có thể đón nhận tình thương và bình an của Thiên Chúa, mỗi người phải thành tâm và thành thật nhìn lại quá khứ, nhận ra tình trạng tồi tệ mình đã gây ra cho bản thân và cho anh em, thành tâm xin ơn tha thứ để thay tẩy tâm hồn. Bà Tổng Thống của Công Hoà Trung Phi đã dám sám hối một cách công khai trước mặt mọi người và thế giới về quá khứ, về chiến tranh giết chóc mà giới lãnh đạo Trung Phi đã gây ra. Bà dám nhìn nhận tình trạng tâm hồn bị chai cứng, bị khép kín trước tình yêu của nhiều người đã dẫn đến những hành động tội ác cho người khác. Bà đã nhân danh hàng ngũ lãnh đạo nhìn nhận trách nhiệm về sự suy thoái đạo đức họ đã gây ra trong xã hội.
Một khi tâm hồn đánh mất tình yêu, trở nên hẹp hòi, chai cứng, trái tim trở nên vô cảm, dửng dưng, thì cuộc sống của con người không khác gì cuộc sống của một con thú và lúc đó, người ta sẽ cư xử với nhau theo bản năng. Vì thế, mừng lễ Chúa Giáng Sinh là dịp để mỗi người làm mới và làm mềm lại trái tim của mình. Chúng ta được mời gọi biến tâm hồn mình trở thành một hang đá đơn sơ, không cầu kỳ, để đón Chúa Giêsu Hài nhi sinh vào trong tâm hồn. Ngài là Hoàng Tử tình yêu, là Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài sẽ biến đổi để chúng ta cũng trở thành sứ giả tình yêu và lòng thương xót đến với anh chị em chung quanh.
Trong tông thư Lòng Thương Xót Chúa, Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy sống và thực thi lòng thương xót của Chúa cho anh em. Để đem đến hoà bình cho thế giới, cần xây dựng sự công bằng dựa trên lòng thương xót, tức là tìm kiếm sự công bằng trong tình yêu thương chứ không phải bằng sự trả đũa, trả thù. Chỉ khi mỗi người biết cư xử với nhau dựa trên lòng thương xót, chúng ta mới có thể đem đến cho thế giới sự bình an và hạnh phúc. Cần bắt đầu ngay từ trong xóm, trong môi trường làm việc của mình, giải quyết những bất đồng bằng đối thoại trong tình yêu thương thay vì chửi bới thô tục, bạo lực. Hãy giữ cho mình có một lương tâm trong sáng, ngay thẳng trong mọi công việc, đừng để cho bất cứ một thứ quyền lợi nào bẻ cong lương tâm của chúng ta.
Thiên Chúa đã làm người để nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa. Tuy nhiên trong thực tế, sự xúc phạm phẩm giá con người đang diễn ra ngay trong các gia đình, khi vợ chồng không biết tôn trọng nhau, không nhìn nhận nhau là xương thịt của mình. Họ đối xử với nhau bằng bạo lực thể xác lẫn tinh thần. Sự coi thường phẩm giá con người đang diễn ra qua các hình thức bạo lực, bạo lực nơi nhà trường, buôn người, nô lệ tình dục, khai thác lao động. Trầm trọng hơn hết là tình trạng nạo phá thai gia tăng. Tại Việt Nam, có hàng triệu ca nạo phá thai mỗi năm. Trong đó, có khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Chúng ta đang là nước đứng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á về tình trạng nạo phá thai. Cũng theo thống kê của Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ở nước ta, mỗi năm có 1,2 – 1,6 triệu trẻ em được sinh ra, thì cũng tương ứng với đó là con số bào thai bị phá bỏ.
Đó là tội ác, tội giết người, là hình thức xúc phạm phẩm giá con người trầm trọng nhất. Cùng với mọi người thành tâm thiện chí, chúng ta có trách nhiệm phải đẩy lùi sự xúc phạm phẩm giá này và loại trừ khỏi xã hội chúng ta các hình thức của sự ác. Hãy bắt đầu bằng việc tôn trọng bản thân, tôn trọng mình là hình ảnh của Thiên Chúa và cũng biết tôn trọng mạng sống, sức khỏe và thân xác người khác như thế, vì thân xác con người đã được con Thiên Chúa mang lấy và mạng sống con người đã đượcThiên Chúa cứu chuộc.
Xin cho niềm vui Giáng sinh thúc đẩy chúng ta thành những con người đem bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho thế giới hôm nay để Thiên Chúa được vinh danh và con người được ơn cứu độ. Amen.
ĐÊM SAO SÁNG
Trầm Thiên Thu
Lạy Chúa Hài Đồng, con tín thác vào Ngài – Divine Child Jesus, I trust in You – Divin Enfant Jésus, j’ai confiance en Toi – Divino Niño Jesús, en ti confío. Phàm ngữ không đủ để diễn đạt niềm tin kính Thiên Chúa toàn năng, nhất là vào Mùa Giáng Sinh này.
Đêm Giáng Sinh là Đêm Thánh, đêm lịch sử, đêm ánh sáng, đêm muôn ánh sao, đêm giao hòa tình người, đêm nối kết đất trời, đêm khởi đầu niềm hy vọng mới, nhân loại vui mừng được thoát khỏi vùng-bóng-tối để bước vào Miền-Ánh-Sáng, vì chính Con Thiên Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14), Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Is 7:14 và Mt 1:23).
Đó là niềm hạnh phúc quá lớn đối với nhân loại. Và từ từ giây phút Ngôi Hai giáng trần, chúng ta không còn bị réo là “Đồ Bị Ruồng Bỏ”, là “Phận Bạc Duyên Đơn”, mà được gọi trìu mến là “Ái Khanh” và được ca tụng là “Duyên Thắm Chỉ Hồng” (Is 62:4). Ôi, thật là trên cả tuyệt vời!
Belem (hoặc Bêlem, Việt ngữ) là nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra, một nơi có thật, thế giới phải công nhận chứ không là nơi bịa đặt. Bethlehem (tiếng Ả Rập: بيت لحم, Bayt Laḥm, nghĩa đen là “Nhà Thịt Cừu Non”; tiếng Hy Lạp là Βηθλεέμ (Bethleém); tiếng Hebrew là בית לחם (Beit Lehem), có nghĩa là “Nhà Bánh Mì”; tiếng Bồ Đào Nha là Belém.
Belem là một thành phố của Palestine, thuộc miền trung Bờ Tây, cách TP Giêrusalem khoảng 10 km (6,2 dặm) về phía Nam. Belem có khoảng 30.000 cư dân và là thủ phủ của Nha Thủ Hiến Belem (Bethlehem Governorate), thuộc chính quyền quốc gia Palestine (Palestinian National Authority), đồng thời là Trung tâm Văn hóa và Du lịch của đất nước Palestine. Theo địa lý, Belem ở độ cao 775 m (2.542,7 bộ/ft) so với mực nước biển, và Belem ở độ cao 30 m (98,4 bộ/ft) so với TP Giêrusalem (và các thành phố lân cận).
Câu chuyện Chúa Giáng Sinh là câu chuyện muôn thuở, vẫn luôn mới lạ dù sự kiện này đã xảy ra hơn hai ngàn năm qua. Sự kiện này được mọi người chú ý, kể cả người vô thần. Mọi điều đã được ứng nghiệm theo Kinh Thánh tới từng chi tiết, các điều tiên báo đã có hàng ngàn năm trước. Không một nhân vật nào được người ta chú ý đặc biệt như Thiên Chúa của chúng ta. Đó là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất và đích thực. Thật vậy, cả thế giới đều mừng sinh nhật của Hài Nhi Giêsu, dù có thể có những người không chủ ý hoặc chỉ “ăn theo” thì cũng là cách vui mừng. Không có ai trên thế gian này được chú ý như Đấng Emmanuel của chúng ta. Chứng cớ hùng hồn, không thể chối cãi!
Ngôn sứ Isaia xác định: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9:2-4). Sự thiện đã chiến thắng sự dữ. Công lý đã lên ngôi, hòa bình được tái lập, mọi gông xiềng đều bị gãy nát dưới quyền lực của sự thật. Chân lý đó chính là Thiên Chúa, Đấng Tam Vị Nhất Thể.
Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, giáng sinh tại hang đá ở Belem năm xưa, như một em bé bình thường, nhưng Trẻ Thơ đó lại chính là “Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thuở, và Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5). Và không chỉ như vậy, ngôn sứ Isaia cho biết thêm: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Bất cứ điều gì Thiên Chúa nói ra đều được Ngài thực hiện đúng đến từng chi tiết – từng dấu chấm, từng dấu phẩy (x. Mt 5:18).
Người ta thường nói: “Không thể trì hoãn sự sung sướng”. Đúng vậy, đêm Chúa giáng sinh là đêm ân tình, thế giới tràn ngập niềm vui, cả nội tại và ngoại tại, người không có niềm tin vào Thiên Chúa cũng không thể không vui mừng. Với tâm tình phấn khởi đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Khi niềm vui đầy ắp, người ta muốn thể hiện ra bên ngoài, muốn mọi người cùng chia sẻ niềm vui đó. Nhưng có lẽ chưa trọn vẹn, người ta còn muốn cả muôn loài cùng hòa vui, và người ta không thể trì hoãn niềm hạnh phúc quá lớn, thế nên người ta phải lên tiếng mời gọi: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5), là ĐẤNG KHÔNG THIÊN VỊ (Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9), luôn THẬT THÀ nhưng cũng rất THẲNG THẮN. Những ai mưu mô thâm độc thì sẽ lo sợ, những ai thấp cổ bé miệng và bị áp bức thì sẽ vỡ òa với niềm vui sướng tột cùng.
Lời sứ thần loan báo Tin Mừng cho các mục đồng ngày xưa cũng là lời nói với mỗi chúng ta trong đêm nay: “Anh em ĐỪNG SỢ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Hãy vùng lên và cùng nhau chống lại bất công, đó là đứng về phe sự thật, phe công lý, phe của Thiên Chúa. Có những người viện cớ cho rằng “không muốn đụng chạm”, nhưng thật ra chỉ là nhát đảm – mình không muốn “đụng” đến ai và cũng chẳng muốn ai “chạm” đến mình. Việt ngữ có từ “đụng chạm” thật thú vị. Bảo vệ sự thật của Thiên Chúa mà sợ ư?
Tất cả là hồng ân. Thật vậy, đêm nay vô cùng linh thiêng, vì “ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2:11). Thánh Phaolô giải thích: “Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu, là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2:12-13).
Ngày đó đã đến, đêm nay chúng ta hân hoan kỷ niệm Ngày Hồng Phúc đó. Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Niềm vui này nối tiếp nỗi mừng khác. Vui mừng tích tụ. Nhưng không phải để chúng ta cười vui cho khoái chí, mãn nguyện, mà là để “hăng say làm việc thiện”. Đó mới là vấn đề quan trọng!
Trình thuật Lc 2:1-14 cho biết về hoàn cảnh giáng sinh của Chúa Giêsu vào thời hoàng đế Au-gút-tô. Lúc đó, ai nấy đều phải về nguyên quán để khai nhân khẩu. Vì thế, Chú Giuse cũng phải đưa Cô Maria về quê theo luật pháp hiện hành. Đường sá xa xôi, hiểm trở, phương tiện di chuyển thời đó là con lừa. Chu choa, mèn ơi, cực thật! Khi hai người tới Belem thì Cô Maria tới kỳ mãn nguyệt khai hoa. Đêm khuya, hai ông bà không tìm được chỗ trọ nên phải trú tại hang đá ngoài cánh đồng vắng vẻ.
Có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật, họ được sứ thần báo tin về “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, không chút nghi ngờ và họ đã tới kính viếng Hài Nhi Giêsu. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Ôi, mầu nhiệm biết bao! Đặc biệt là có một ngôi sao sáng rực chiếu vào nơi Hài Nhi Giêsu vừa hạ sinh: “Đêm thánh vô cùng, Giây phút tưng bừng, Đất với trời, Xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa, Ơn châu báu không bờ bến, Biết tìm kiếm của chi đền!” (Still Nacht của Franz Gruber – Đêm Thánh Vô Cùng, lời Việt của Hùng Lân). [*]
Đêm nay, có thể trên bầu trời Việt Nam bên ngoài kia không có (nhiều) ánh sao lấp lánh, nhưng trong bầu trời tâm hồn của chúng ta vẫn có rất nhiều ánh sao lung linh, chiếu tỏa ân sủng của Chúa Hài Đồng – nhất là ở những tâm hồn ngay lành. Mỗi chúng ta có trách nhiệm phải chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh tới tha nhân – nhất là đối với những người nghèo khổ, những người hèn mọn, những người bị gọng kìm bất công kẹp chặt,… Hang đá vật chất chỉ cho vui mắt, hang-đá-tâm-hồn mới là nơi Chúa Hài Đồng muốn nằm ngủ đêm nay và mãi mãi…
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con tỏa lan Ánh Sáng Sự Thật của Chúa Hài Đồng. Xin giúp con biết sống tinh thần Giáng Sinh mọi ngày: nghèo khó, đơn sơ, giản dị, chấp nhận, can đảm, yêu thương,… Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Emmanuel và Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của mình như là “dân tộc bước đi trong u tối”, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai …” Tuy nhiên, cái đêm âm u cũng như miền thâm u sự chết, những cái ách và cái gông nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia gỡ bỏ khi loan báo về một trời mới, đất mới và họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan”, miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung… Bởi vì “một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới” (Is 62,11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” (Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ…, thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên: “Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì: “Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem, Xion nhạc thánh điệu quen một bài!” (x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Nỗi đau khổ của dân Israel đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi.
Vì thế, Đên nay là: Đêm Hồng Ân; Đêm tình thương cứu thế; Đêm chan hòa Ánh Sáng; Đêm giao hòa giữa Trời và đất; Đêm khơi nguồn Bình An; Đêm mà Thiên Chúa và con người gặp nhau; Đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, “… anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7).
Đứng trước hồng ân cao trọng này, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96, 1-3).
Khi mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như vậy, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga 3,16; Is 9,5). Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10-11).
Mặt khác, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn và trong trái tim của chúng ta. Bởi vì giá trị đích thực của niềm vui giáng sinh là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi người!
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian qua việc giảng dạy và nơi những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”; “Bánh hằng sống”;“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho những ai đón nhận được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Đức Giêsu, và để cho Ngài sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, mỗi người hãy trở nên quà tặng cho tha nhân qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông phát xuất từ niềm tin và lòng thương xót…
Đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, khi chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
ĐÊM CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2015 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “Lòng Thương Xót nhập thể , khiến cho con mắt của chúng ta trông thấy mầu nhiệm vĩ đại của Tình Yêu Ba Ngôi của Thiên Chúa” ( Huấn đức thứ Tư ngày 09/12/2015). Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Lòng Thương Xót ấy không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Nếu như thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết : “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên thiên chúa”. Thì chúng ta cũng có thể nói rằng : “Lòng Thương Xót đã nhâp thể làm người để con người trở nên khí cụ của Lòng Thương Xót ấy”.
Ngày 08/12 vừa qua Giáo hội đã khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trong mỗi ngày của Năm Thánh, Giáo hội không ngừng lặp lại như thể nhắc nhở con cái mình: “Hãy thương xót như Chúa Chúa” (Khẩu hiệu Năm Thánh Lòng Thường Xót). Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Lòng Thương Xót đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, “Lòng Thương Xót nhập thể vì chúng ta và sống giữa chúng ta”. Lòng Thương Xót ấy vượt qua thời gian, vì trong mỗi phút giây sống, tất cả các lễ đều là lễ Giáng sinh! Ngoài những khuôn mặt của thế giới này, Người còn ở lại với chúng ta. Và bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Và nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể : “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đạo binh !”
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Ngài sẽ cứu dân ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi nguời nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, thể hiện dung mạo của Đấng giầu lòng thương xót (x.Misericordiae Vultus). Sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.
“Việc tái chiêm ngưỡng mầu nhiệm Lòng Thương Xót này vẫn luôn là điều có giá trị. Mầu nhiệm này chính là nguồn cội của niềm vui, của sự thanh thản và bình an” (Misericordiae Vultus số 2). Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, lòng thương xót của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một lòng thương xót không bao giờ vơi cạn, lòng thương xót đó chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con chiêm ngắm Chúa, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của lòng thương xót Chúa, lòng thương xót đã thôi thúc Chúa cởi bỏ vinh quang Thiên Chúa, để sinh ra sống giữa con nguời và chịu chết vì chúng con.
Trong giai đoạn đầu của Năm Thánh chúng con vừa bước vào, xin Chúa hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Chúa, ngõ hầu ân sủng của Mầu Nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu tích cực dấn thân sống quảng đại hơn, phù hợp với sự sống mới do bí tích Rửa Tội trao ban.
Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay, sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường Hòa Bình.
Lạy Chúa, Lòng Thương Xót của Chúa Cha, Hoàng tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc, đã giáng sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo hội bước đi trong Năm Thánh! Amen.
MỘT HÀI NHI ĐÃ SINH RA CHO CHÚNG TA
Lm. Tạ Chúc
Tiếng khóc chào đời của một em bé, là tiếng cười rộn vui của biết bao người xung quanh. Cha mẹ thật hạnh phúc, khi một đứa con sinh ra. Dòng họ vui mừng vì có một thành viên mới, trong gia đình. Một đêm sương gió lạnh, trong nơi góc khuất của thành đô Bê-lem, một đôi vợ chồng trẻ, mắt rưng rưng những giọt lệ, đón chào đứa con bé bỏng của họ, cất tiếng khóc chào đời. Quả thật một niềm vui khôn kể xiết, một sinh linh bé bỏng đã phá tan giấc ngủ của màn đêm, khi bật lên tiếng khóc của một con người.
Những ngày tháng bụng mang dạ chửa, những đêm mất ngủ bởi những cơn chuyển mình của bào thai. Người mẹ nào không khỏi ngậm ngùi khi được ngắm nhìn, ẵm bồng đứa con thơ bé nhỏ của mình, trong vòng tay. Cơn đau đã qua đi, niềm sung sướng dấy lên tận đáy lòng. Con thơ khóc để hít thở, mẹ khóc vì hạnh phúc khi thiên chức của người mẹ được rõ nét qua từng đứa con. Cái thời ấy thiếu thốn đủ điều, nào có đâu trạm xá, hay bệnh viện, cũng chẳng có những Y, Bác sĩ gì. Thuốc men đương nhiên cũng chỉ là những loài thảo mộc, được truyền tụng trong nhân gian. Một hành trình của một gia đình trên đường trở về quê quán, để đăng kiểm hộ khẩu theo lệnh vua ban hành. Phương tiện di chuyển, cũng chỉ là lưng con lạc đà, mà người thời đó thường hay dùng. Bạn mình chuyển bụng, Giuse chỉ biết tìm một nơi cho mẹ tròn con vuông, chớ tính làm sao được khi trong lưng không một đồng xu giắt túi. Cảnh ra đời của một em bé như một giọt nước trong sa mạc, giữa đêm đông chỉ có bò, lừa, và lũ mục đồng canh gác đàn gia súc. Không có gì, mà chỉ có ánh sáng từ bi của Đấng là Thiên Chúa, trong phận người bé thơ. Và môt Hài Nhi đã sinh ra như lời tiên tri Isai-a, đã loan báo trước đó hơn 700 năm. Bé thơ Giê-su xuống thế trong thân phận của một con người, giống như những em bé sinh ra mỗi ngày, trong cõi đời này. May mắn cho một trẻ thơ khi được sinh ra, và lớn lên. Bất hạnh thay khi có rất nhiều những trẻ thơ vô tội, không có những phút giây chào đời, trong sự ân cần và thương yêu của cha mẹ, và những người xung quanh. Con người đã không tiếp nhận Con Thiên Chúa, Ngài đến trong nhà mình mà những người nhà lại chối từ. Thảm họa của những bậc làm cha mẹ là khi từ chối những đứa con, mà đúng ra chúng phải được sinh ra. Đó đây, những hang đá đã lên đèn, những cây thông đủ mọi hình dáng, với ngàn vạn đèn điện muôn màu tỏa lan. Không khí Giáng sinh nô nức và hối hả, rộn vang những cung bậc cảm xúc của đêm giáng sinh đã nhuốm màu khắp không gian. Thời tiết đã ấm dần lên khi những đám mây cũng dần lùi về phía cuối chân trời, để nhường lại cho một khoảng khắc rất gần của No-el.
Đêm nay ta say men nồng tình Giáng sinh. Đêm nay lung linh ngàn muôn tinh tú, hợp với lời ca của chín phẩm Thiên Thần. Và đêm nay, những chú mục đồng đi tìm những khúc củi khô, đốt lên sưởi ấm Chúa Hài Đồng. Cứ thế câu chuyện cổ tích hôm nay, có một bé thơ cất tiếng chào đời, lại râm ran bên những chiếc nôi ru con của những bà mẹ, mỗi ngày được vang lên, và tỏa lan trong thế giới của nhân loại, qua muôn ngàn thế hệ, khi mỗi độ Giáng sinh về.
LOAN BÁO TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Lc 2,1-14.
(1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (3) Ai nấy phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Ý CHÍNH:
Bài tin mừng hôm nay nhằm trình bày việc Chúa Giê-su giáng sinh là một tin vui cho nhân loại. Ta có thể chia làm 2 phần chính như sau:
– Phần thứ nhất (1-7): Cuộc kê khai nhân khẩu là nguyên nhân khiến hai ông bà Giu-se Ma-ri-a phải lên đường trở về Giê-ru-sa-lem là quê hương của vua Đa-vít. Tại đây bà Ma-ri-a tới ngày sinh. Bà đã phải sinh con trong cảnh nghèo khó tột cùng vì hai ông bà quá nghèo không tìm được chỗ nơi nhà trọ.
– Phần thứ hai (c. 8-14): Một sứ thần của Chúa đã hiện đến báo tin vui cho các mục đồng ở ngoại ô Bê-lem. Sứ thần cũng cho biết dấu chỉ để họ nhận ra Đấng Thiên Sai là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Rồi có rất nhiều thiên thần đến hợp lời ngợi khen Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:
Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) rất yêu quí những người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày chàng ta bỏ nhiều thời giờ đến nhà thăm họ và sẵn sàng giúp đỡ những ai cần được trợ giúp. Có điều là hoàng tử thấy dân chúng vẫn dửng dưng thờ ơ khi chàng đến với họ. Rồi hoàng tử để tâm tìm hiểu lý do thì được biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi khi gặp gỡ chàng vì chàng không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của họ. Từ đó hoàng tử A-lếch-xích âm thầm học hỏi chuẩn bị giúp dân một cách thiết thực hơn.
Sau một thời gian, một hôm dân chúng lại thấy một người ăn mặc đơn sơ đến thăm họ. Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí chữa bệnh cho các người nghèo. Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. Uy tín anh ngày một gia tăng khiến nhiều người nghe tiếng tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn họ đang gặp phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước. Anh động viên mọi người tương trợ lẫn nhau và nhờ đó ai cũng mến anh vì anh đã hy sinh giúp đỡ cho họ.
Thật ra ông thầy lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít. Hoàng tử đã rời bỏ cung điện phú quí, đến sống giữa đám dân nghèo đói dốt nát, và sống hòa mình với họ. Về nhau khi biết thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít thì dân chúng càng quý trọng hòang tử hơn rất nhiều.
Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo hèn để chia sẻ cảnh nghèo khó với lòai người chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta và tình nguyện xuống trần gian để ban cho chúng ta sự sống đời đời.
2) NGƯỜI VỐN DĨ VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:
Một vị quan lớn gửi thiệp mời các người thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật thất tuần của ông. Tất cả quan khách đến dự buổi liên hoan đều ăn mặc sang trọng và có xe hơi đưa đón. Một vị quan cao tuổi là bạn chí thân của chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, ông bị trượt chân té xuống một vũng nước dơ khiến các gia nhân gần đó cười ồ lên. Trước tình trạng quần áo bị hoen ố nước dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt nhạo cười và quyết định lên xe ra về. Các gia nhân hiện diện đã năn hỉ hết cách mà vị quan kia nhất định không vào nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà được gia nhân cấp báo liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước, ông lại cố tình té ngã vào vũng nước và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân không ai dám cười nữa. Sau đó chủ nhà đã nắm tay vị khách quý kia mời vào phòng dự tiệc, và ông này không còn viện lý do gì để từ chối nữa.
Việc làm của chủ nhà trong câu chuyện trên là một hành động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức Giê-su vốn là Con Thiên Chúa mà lại hạ mình xuống làm một người phàm. Người muốn trở nên giống như chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta.
3) CHÚA ĐẾN BAN HÒA BÌNH CHO NHÂN LOẠI:
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi !”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì lại có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng đôi bên, và họ đã ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt ngay mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào chiến hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến lại bắt đầu trở lại.
Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn sẽ làm gì để đem sự bình an cho gia đình và nơi bạn đang sống?
SUY NIỆM:
– ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG:
Vào dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những bài hát du dương thánh thót có khả năng đánh động lòng người, nhất là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút thiêng liêng, đất trời hòa hợp nhờ việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu Thế mau đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp lại sự mong mỏi của lòai người bằng việc sai Con Một Ngài xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội.
Làm sao hiểu được chuyện đó ? Làm sao Thiên Chúa lại trở thành một phàm nhân yếu đuối nghèo nàn ? Làm sao Đấng Vô Cùng lại có thể trở thành một con người hữu hạn ? Làm sao Đấng siêu thời gian lại đi vào trong thời gian và chịu sự chi phối của thời gian ? Làm sao Đấng Tạo Hóa hằng sống lại phải trở thành một loài thụ tạo hay chết ? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh làm người ? Chúng ta chỉ có thể trả lời rằng: Tất cả là do TÌNH THƯƠNG.
Vì yêu thương loài người chúng ta và vì muốn cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống thế để ở cùng chúng ta, để dạy loài người chúng ta nhận biết Đấng tạo dựng nên mình và mở ra cho loài người một con đường sống, để về trời hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể hiện tình thương của Thiên Chúa bằng việc thiết lập một Nước Trời là Hội Thánh, và đã chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho loài người, rồi sống lại để trả lại sự sống cho loài người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm “Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người, để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người nên đã sai Con Một xuống thế để công bố cho loài người biết tình thương bao la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
– NGHÈO KHÓ LÀ DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ:
Chúa Giáng Sinh là một Tin mừng cho mọi người thiện tâm trên trần gian. Các mục đồng sau khi được thiên thần báo tin đã lập tức lên đường tìm kiếm Hài Nhi và cuối cùng đã gặp được Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã chọn mang thân phận nghèo hèn đến với nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau với những người nghèo. Dấu chỉ để các mục đồng nhận ra Người là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Trước dấu chỉ nghèo khó này, các chủ quán ở Bê-lem đã xua đuổi hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ của họ đang khi các mục đồng nghèo khó lại vui mừng đón nhận Tin mừng về sự giáng sinh của Người.
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đến với chúng ta qua những dấu chỉ khiêm tốn và nghèo hèn. Người trở thành một tấm bánh với vẻ bề ngoài tầm thường, Người hiện thân trong những kẻ tàn tật què quặt đui mù, Người đến trong những người nghèo khó bị người đời hắt hủi bỏ rơi. Đây là lúc chúng ta phải xác định lập trường, để biết mình thuộc hàng người nào: Là chủ quán giàu có khi thiếu lòng từ tâm xua đuổi người nghèo ? Hay là các mục đồng tuy nghèo khó, nhưng sẵn sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng Sinh và quyết tâm đi tìm kiếm Chúa ?
THẢO LUẬN:
1) Giáng Sinh là lễ của tình thương. Vậy bạn đã làm gì để đáp lại tình thương của Thiên Chúa trong những ngày qua ? 2) Tặng quà là một hình thức biểu lộ tình thương cụ thể, vậy trong mùa Giáng Sinh này bạn sẽ tặng gì cho những người thân trong gia đình, những bè bạn, những người làm ơn cho bạn suốt trong năm qua, và hết những ai nghèo khổ cô đơn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… là hiện thân của Chúa Giê-su ?
LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Cách đây hơn 20 thế kỷ, Chúa đã giáng sinh làm người trong âm thầm lặng lẽ giữa đêm khuya, khi người đời đang chìm trong giấc điệp. Chúa đã đến với chúng con để ban ơn cứu độ cho chúng con. Chúa đến để dạy loài người con đường lên trời là đường chật hẹp, gai chông và ít người chịu đi, nhưng lại là đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Chúa đến để nối kết mọi người trên trần gian lại với nhau, trở thành anh chị em của nhau vì cùng có chung một Thiên Chúa là Cha. Hôm nay lại bắt đầu một mùa Giáng Sinh nữa. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu thịt ê hề. Nhưng những người lữ hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước và đang tiếp tục bị xua đuổi ra đầu đường xó chợ trong đêm nay, vì các chủ quán năm xưa vẫn còn đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc bảnh bao sẽ được chủ nhà ân cần đón tiếp vào trong khách sạn sang trọng, còn người nghèo khó thì lại bị đuổi ra lề đường ngủ qua đêm ! Xin cho chúng con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó, những cụ già neo đơn không ai chăm sóc, những trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ giúp đỡ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ trở nên môn đệ đích thực của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
23/12 Người dám tin vào Thiên Chúa
- Viết bởi Lc 1, 39-45
Người dám tin vào Thiên Chúa.
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Vọng năm C.
"Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi".
Lời Chúa: Lc 1, 39-45
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa.
Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave.
Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi.
Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG C
Lời Chúa: Mk 5,1-4; Dt 10,5-10; Lc 1,39-45
1. Gặp gỡ Chúa
Trong đêm khuya, người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp. Bầu trời đầy sao. Tâm hồn ông thật thanh thản và bình an. Ông cảm nhận được rằng cuộc đời là một ơn huệ. Và ông đã cho biết: Chính trong đêm hôm ấy trên đỉnh đồi cao, ông đã bắt đầu tin vào Thiên Chúa. Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên đây là “khoảng khắc cao điểm”. Đó là lúc mà chỉ trong thoáng chốc, chúng ta nhận ra một thế giới mới vô cùng to lớn và xinh đẹp. Từ đó, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay.
Thực vậy, Phúc Âm đã ghi lại: Vừa nghe lời Maria chào, thì hài nhi trong bụng bà Isave liền nhảy mừng. Một đứa bé đạp trong bụng mẹ là điều rất bình thường. Thế nhưng, khi kẻ lại chi tiết này, hẳn thánh Luca muốn coi đó như là một cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, cũng như một chào đón mà Gioan muốn dành cho Ngài.
Trong Phúc Âm, chúng ta cũng ghi nhận được những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như sau mẻ lưới lạ lùng, Phêrô đã quỳ xuống và thưa lên cùng Chúa: Lạy thầy xin hãy tránh xa con, vì con chỉ là một kẻ tội lỗi. Nói cách khác, Phêrô đã cảm nghiệm được sự tốt lành thánh thiện của Chúa. Lần khác, sau khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Tabôrê, thì từ đám mây có tiếng phán: Này là Con ta yêu dấu, đẹp long Ta mọi đàng. Các con hãy vâng theo lời Ngài. Khi nghe thế, ba môn đệ thân tín liền sấp mặt xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi. Hay nói cách khác, trong phút giây ngắn ngủi ấy, các ông đã cảm nghiệm được chiều kích thẳm sâu của Chúa Giêsu.
Ngày nay, nhiều người vẫn được Chúa ban cho những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như Paul Nagai. Ông đã cảm nghiệm được sự sống vĩnh cửu qua cái nhìn của người mẹ trong cơn hấp hối. Chẳng hạn như Paul Claudel đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa qua tiếng hát trong buổi kinh chiều của ngày lễ Giáng sinh. Chẳng hạn như Phanxicô Xaviê đã cảm nghiệm được giá trị của linh hồn qua lời nhắc bảo của Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, thì nào có ích lợi chi?
Cảm nghiệm về Đức Kitô thì không máy móc nào có thể chế tạo được. Không chiếc vi tính nào có thể lập trình, cũng không thể cứ muốn là được. Vì đây là một quà tặng Ngài trao ban. Chúng ta cần phải mở rộng cõi lòng để lãnh nhận.
Và Mùa Vọng chính là thời gian thuận tiện để chúng ta thự hiện việc làm này. Đây là lúc chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình, để chào đón Đức Kitô trong cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta biết mở rộng cõi lòng cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến và lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được niềm hạnh phúc, sự bình an và tình yêu thương mà Ngài sẽ đem đến khi viếng thăm chúng ta.
2. Maria dám tin - Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
***
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời "Xin Vâng", Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời "Xin Vâng" Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã "Suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: "Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói" (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
***
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.
3. Con lòng Bà
Trong một buổi chia sẻ Lời Chúa giữa các bà mẹ, sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, thì một bà đã đặt câu hỏi: Khi mang thai, có chị nào biết rõ con mình sẽ ra sao hay không? Dĩ nhiên không phải chỉ biết nó là trai hay gái, mà còn phải biết khi khôn lớn, nó sẽ như thế nào? Tất cả đều mỉm cười và lắc đầu không thể nào biết rõ được tương lai của đứa bé. Họ chỉ cầu mong cho nó được khoẻ mạnh và nên người.
Thực vậy, không một bà mẹ nào lại biết chắc con mình ngày mai sẽ ra sao ngoại trừ Đức Maria. Chỉ còn một vài ngày nữa là Người Con của Mẹ sẽ được sinh ra và cùng với Mẹ chúng ta đi thăm người chị họ là bà Elisabeth. Chính bà chị họ này cũng biết người con ấy như thế nào, khi bà nói cùng Mẹ: Bởi đâu tôi được diễm phúc là Mẹ cua Chúa tôi đến viếng thăm. Và ngày cả Gioan trong lòng bà Elisabeth cũng hay biết vì Gioan đã nhảy mừng hớn hở.
Chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện truyền tin được đọc trong ngày lễ Vô Nhiễm. Thiên thần nói với Đức Maria rằng Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Và Con của Mẹ là Đấng cao trọng. Người sẽ là Con Thiên Chúa, sẽ là một vị vua và nước của Ngài sẽ trường tồn. Và như thế, hẳn Mẹ đã biết được Người Con của Mẹ sẽ như thế nào? Vậy tại sao Giáo Hội lại đặt bài Tin Mừng này vào Chúa nhật thứ IV, Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, gần kề với lễ Giáng Sinh?
Lý do thật tự nhiên và đơn giản. Bởi vì đã gần tới giờ của Mẹ và chúng ta, những người con của Mẹ, cùng chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Mẹ đã biết Người Con của Mẹ sẽ ra sao.
Chúng ta cũng thế, nhờ đức tin, chúng ta cũng biết Ngài là ai và Ngài sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách đặc biệt trong đêm giáng sinh. Chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa, mặc dầu Ngài chỉ là một hài nhi bé nhỏ và yếu đuối. Chúng ta biết Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, mặc dầu bên ngoài Ngài giống như chúng ta mọi đàng. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Cùng với Mẹ Maria chúng ta biết Ngài là Đấng cao trọng. Cao trọng trong tình yêu, cao trọng trong hành động cũng như trong lời nói. Ngài như một bông sen trổi vượt trên đám bùn nhơ. Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộccứu chuộc của chúng ta. Mẹ Maria biết Người Con của Mẹ là ai và chúng ta cũng biết như thế.
Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Bởi vì ngày sinh nhật của Đức Kitô sẽ đem lại cho chúng ta sự an bình và hạnh phúc.
4. Tâm tình thăm viếng - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Vừa được tin bà chị họ Êlisabét, hiếm hoi già cả sắp được Chúa ban cho một cậu ấm, Đức Maria sẵn có đức thương người, đã không quản ngại đường xa dặm thẳm, vội vã lên đường đi thăm giúp đỡ gia đình bà chị neo đơn ở một thành phố trên miền núi Giuda. Suốt cuộc hành trình lội bộ hơn 150 cây số, gian nan, nguy hiểm, vất vả, cực nhọc, Đức Maria vẫn không ngớt ca tụng, cảm tạ Chúa đã thương đoái đến mình và bà chị son sẻ. Đức Maria vừa thăm viếng, vừa giúp đỡ,vừa đem niềm vui ơn phúc vô cùng của Đấng Cứu thế đến cho gia đình.
Thoạt nghe lời Đức Maria chào, bà Êlisabét đã nhận ra ngay những ơn lạ lùng đổ xuống trên bà và con bà. Bà đã được đầy ơn Thánh thần nhận ra Maria là mẹ Thiên Chúa. Bà đã lớn tiếng ca ngợi Maria: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ và người con em cưu mang cũng thật có phúc. Bởi đâu tôi được mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi… Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”.
Mẹ được đầy Thánh thần, con được nhảy mừng trong lòng Mẹ vì được phúc gặp Đấng Cứu thế trong lòng Maria. Bởi đâu gia đình bà Êlisabét được đầy ơn phúc? Thưa bởi đức tin mạnh mẽ và đức ái nhiệt thành của Đức Maria như lời bà Êlisabét nói: “Vì em đã tin lời Chúa”.
Đức Maria là gương mẫu đức tin mạnh mẽ: Không bao giờ Maria dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu thế vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê mùa vô danh. Thế mà: “Phận nữ tỳ hèn mọn lại được Thiên Chúa đoái thương tới” (Lc. 1,48). Khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận là Mẹ Đấng cao cả. Vâng ý Chúa không dễ dàng gì làm Mẹ Thiên Chúa, không như các thanh nữ Do Thái mơ tưởng được địa vị cao sang làm hoàng thái hậu muôn nước. Maria biết rõ Đấng Cứu thế, mà các tiên tri đã loan báo, là người tôi tớ đau khổ, là con chiên bị sát tế, như Bài đọc II nói: Đức Giêsu Kitô đã dâng mình làm lễ tế. Một lễ tế hy sinh vô cùng đau đớn. Với đức tin mạnh mẽ, Đức Maria đã sẵn sàng hiệp thông sát tế đó và sẵn sàng chờ đợi những lưỡi gươm sắc đâm thâu qua trái tim Mẹ như đâm thâu qua Trái tim Con để tỏ lòng thương yêu nhân loại vô bờ.
Đức Maria là gương mẫu đức ái nhiệt thành:
“Maria vội vã lên đường” nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Đức Mẹ. Thánh Luca còn viết: “Maria đã lưu lại ba tháng rồi trở về nhà mình”, chứng tỏ Maria giúp đỡ gia đình như một tôi tớ, không quản ngại bất cứ một công việc nặng nhọc hèn hạ nào. Mẹ của Đấng Cứu Thế đã thi hành phận sự một tôi tớ của Thiên Chúa và loài người trong mọi nơi mọi lúc, một tôi tớ đem nguồn vui vô biên của Thánh Thần đến cho gia đình ; một tôi tớ mang Đấng Cứu Thế xuống cho con trẻ được khỏi tội và nhảy mừng trong lòng mẹ, để cậu sinh ra “càng lớn lên, tinh thần càng vững mạnh … để chuẩn bị đến ngày ra mắt dân Israel” (Lc. 1, 80).
Thánh Luca nói lên lòng bác ái nhiệt thành và đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ để làm gương cho các tín hữu thời Giáo hội sơ khai mà lo truyền giáo: Họ phải sống đức tin mạnh mẽ và thi hành bác ái nhiệt thành để đem Đấng Cứu thế đến cho muôn dân được đầy niềm vui của Thánh Thần và được nhảy mừng trong ơn cứu độ. Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ tiên báo cuộc thăm viếng của Ngôi Hai xuống thế làm người để viếng thăm nhân loại, vừa là gương mẫu cho mọi cuộc thăm viếng của những người con Đức Mẹ.
Noi gương Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo Hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm Giáo Chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương, một Giáo hội đã ly khai Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo Chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể của Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.
Lạy Mẹ Maria, xin cho mỗi người chúng con biết nối tiếp những cuộc viếng thăm hồng phúc chan chứa ơn cứu độ đó, để đem nguồn vui Thánh Thần và ơn bình an của Chúa Giáng Sinh đến cho mọi gia đình trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
5. Sống đức tin như Mẹ Maria
Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần thăm viếng người khác. Và cũng được người khác viếng thăm. Mỗi lần thăm viếng là một dịp để chúng ta chia sẻ với nhau về niềm vui hay nỗi buồn của cuộc sống. Như thế, trong từng cuộc thăm viếng, chúng ta muốn thể hiện tình yêu và sự quan tâm dành cho nhau.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elisabeth. Thật vậy, nhận được tin người chị họ là Elizabeth, tuy đã già và mang tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng, Mẹ quyết định đi thăm gia đình người chị họ. Mẹ Maria đã vội vã lên đường. Mẹ sẵn sàng cho cuộc thăm viếng. Mẹ đã lên đường để chia sẻ niềm vui với gia đình bà chị họ, Mẹ chia sẻ niềm vui vì có Chúa ngự trong lòng mình. Đồng thời Mẹ cũng muốn san sẻ sự vất vả của người lớn tuổi đang cưu mang. Vì thế, sau khi được truyền tin, Mẹ vội vã lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài theo các chuyên gia chú giải nói nó có thể lên đến 150 cây số. Một đoạn đường không mấy ít ỏi và đây không là chuyến đi dễ dàng! Làm sao tránh khỏi những nguy hiểm, vất vả và mệt nhọc. Nhưng chính tình yêu đã thúc bách Mẹ lên đường. Tình yêu làm cho Mẹ quên mình, quên những hiểm nguy vất vả để chỉ quan tâm đến người khác. Sau đó, Mẹ đã ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Như thế, Mẹ Maria đã thể hiện một tình yêu cao độ: dâng hiến chính mình để Thiên Chúa tự do thực hiện chương trình cứu chuộc của Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền" (Lc 1, 38) và Mẹ đã viếng thăm gia đình người chị họ bằng trái tim đầy tình yêu thương bác ái, ra đi cách vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Do đó, Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã ra đi để phục vụ bà chị họ của mình vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình Bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabeth phải thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nhge lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi" (Lc 1, 43 - 44). Đó chính là niềm vui và sự bình an đích thực mà Mẹ đã đem đến.
Tình yêu thể hiện qua cuộc thăm viếng bất ngờ hôm nay không chỉ dành riêng cho Đức Mẹ mà dành cho hết thảy mọi người. Qua Đức Maria, Thiên Chúa Tình Yêu đi vào trần gian, đem ơn cứu độ cho con người mà cuộc viếng thăm của Đức Maria dành cho bà Elizabeth là bước khởi đầu. Mẹ Maria thăm gia đình bà chị để chia sẻ niềm vui mà Thiên Chúa dành cho bà Elizabeth và gia đình Dacaria. Mẹ đến với bà chị họ cũng để chia sẻ ân huệ tình yêu lớn lao mà mình vừa nhận được và để thể hiện tình yêu của Mẹ dành cho gia đình bà chị họ.
Tình yêu đích thực đòi hỏi cần được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín cho riêng mình. Cách thể hiện tình yêu đẹp nhất làm cho tình yêu sinh động là: quan tâm, chăm sóc, tìm cách gặp gỡ để tạo nên niềm vui, góp phần xây dựng hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, bắt chước tâm tình này của Mẹ, không đợi người khác yêu cầu mà hãy biết khiêm nhường quên mình để nhận ra nhu cầu và sẵn sàng đến với tha nhân.
Bên cạnh đó, thăm viếng không chỉ là cách biểu lộ tình người, tình thương, nói lên sự quan tâm mà còn là dịp chúng ta đem Chúa đến với tha nhân. Mang Chúa đến cho tha nhân không có nghĩa chúng ta nói thật nhiều, nói thật hay về Chúa cho họ nghe. Chính sự hiện diện của Mẹ là một lời chứng hoàn hảo về sự hiện diện của Chúa vì chính Mẹ mang chúa trong lòng mình. Tương tự như vậy, để có thể đem Chúa đến với người khác chúng ta cần có Chúa trong mình. Muốn Chúa luôn hiện diện trong ta đòi hỏi chúng ta phải có một đời sống thân tình với Chúa. Qua kinh nguyện, Thánh lễ, hiệp lễ và qua cuộc sống thì sự hiện diện của chúng ta mới có thể giúp người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa. Nên khi nhận ra Chúa, gặp được Chúa, tha nhân sẽ dễ dàng mở lòng để Chúa Thánh Thần thánh hoá và biến đổi họ nên tốt lành thánh thiện hơn.
Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria. Trước hết chúng ta hãy thể hiện tình người với nhau bằng việc thăm viếng, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nhất là những người đang cần đến chúng ta. Hãy bắt chước Mẹ Maria quên mình và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Hy sinh thời gian, đôi khi là vật chất để làm cho cuộc sống này thêm niềm vui, niềm hạnh phúc.
Hãy cưu mang Đức Giêsu trong tâm hồn để như Mẹ ta có thể mang một tâm hồn tràn ngập Chúa đến với tha nhân. Hơn nữa, chúng ta hãy cố gắng dàn xếp tất cả những gì làm mình phiền muộn, khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Ngoài ra chúng ta sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn, chúng ta cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
Lạy Mẹ Maria, cám ơn Mẹ đã để lại cho chúng con một mẫu gương tuyệt vời về sự vâng phục thánh ý Chúa và một tinh thần bác ái quên mình vì tha nhân. Chính tình yêu đã thúc đẩy Mẹ làm được những việc cao cả đó, Xin Mẹ đoái thương giúp chúng con bắt chước Mẹ, sống đức tin là vâng theo thánh ý Chúa và sống đượm tình bác ái với tha nhân, quan tâm giúp đỡ họ, giúp họ thêm niềm vui, tìm gặp sự bình an và nhất là gặp gỡ được chính Chúa tình thương. Amen.
6. Trở nên những Em-ma-nu-en mới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn."
Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Người muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Is 7, 14. Mt 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giêsu đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giêsu vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20).
"Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó." (Mt 14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giêsu khấn nguyện với Chúa Cha: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con" (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giêsu lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời.
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giêsu về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu.
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.
Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn."
Hôm nay, noi gương Chúa Giêsu là Emmanuen, Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi, noi gương Mẹ Maria là Đấng luôn ở cùng nhân loại để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó, chúng ta hãy trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.
7. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
"Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này" (Lc 1,43)
Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc phúc và mang hạnh phúc đến cho người khác. Có phúc vì cưu mang Đấng Cưú Thế, có Chúa Kitô ngự trị trong tâm hồn của mình. Mẹ Maria thật sự được diễm phúc như lời chào của sứ thần Gapriel trong ngày truyền tin và hôm nay là lời khẳng định của bà Elisabeth. Cái phúc của Mẹ đã có ngay từ đầu công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gìn giữ và bao bọc Mẹ trong ân phúc của Ngài. Từ nguồn ân phúc đó Mẹ đã mang đến cho người khác. Trước tiên là cho người chị họ của mình, bà Elisabeth và đặc biệt là Gioan còn đang ở trong lòng bà Elisabeth, người mà Thiên Chúa đã chọn để dọn dường, Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Elisabeth và Gioan là những người hạnh phúc khi được đón nhận chính Đấng Cứu Thế qua Mẹ Maria.
Mọi người chúng ta trong ngày hôm thì sao? Chúng ta có như bà Elisabeth nhận ra và cảm nghiệm được ân phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta? Đấng Cứu Thế mà mọi người đợi trông ở gần kề bên chúng ta, Đức Giêsu Kitô đang hiện trong mỗi tâm hồn chúng ta, ở xung quanh và hoạt động trong thế giới này. Những con người sống động đã được ân phúc của Chúa như Mẹ Maria, Gioan và cụ thể là bà Elisabeth, họ thật sự hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời của mình, khi họ nhận Đức Giêsu Kitô đang đến và ở với họ.
Chúng ta có thể hiểu được niềm vui sướng của bà Elisabeth, niềm vui của bà liên tục và lớn lao. Từ một phụ nữ son sẻ nay lại được cưu mang vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Bà không thể ngờ mình có được niềm vui như vậy sao bao năm chờ đợi gần như tuyệt vọng nay lại được toại nguyện nhưng đây cũng chỉ là niềm vui cá nhân của bà. Niềm vui lớn lao hơn là bà được chính Mẹ Đấng Cứu Thế và Đấng Cứu Thế lại viếng thăm mình. Có lẻ suốt một đời cậy trông, tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa hôm nay hạnh phúc và niềm vui như vậy đã đủ cho bà.
Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng vậy Chúa và Mẹ luôn đến với chúng ta từng giờ từng phút, chúng ta phải biết nhận ra điều đó, có như vậy hạnh phúc và niềm vui luôn có trong đời sống đạo của chúng ta.
8. Làm gương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:
- Mày đi kiểu gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!
Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng "sao con lại hành xử như vậy?". Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:"con đang bước theo bước chân của cha mẹ!"
Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:
"Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời về sau"
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm". Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.
Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.
Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.
Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen.
9. Sống tình xót thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một lần ngồi chờ xe bên lề đường. Chợt nhìn thấy một bà cụ mù lòa ăn xin đi đến. Tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc của sáng sớm tinh sương. Tôi nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang. Động lòng trắc ẩn tôi đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi nhẹ bớt đi nỗi cảm thông thương mến. Nhưng điều lạ thường là tôi vẫn cứ nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…
Xem ra cho người đói ăn chưa đủ mà con phải dấn thân để xóa đi cái đói, cái nghèo nơi tha nhân. Xem ra an ủi người thất vọng chưa đủ mà còn phải giúp họ đứng lên tự tin xây dựng lại cuộc đời. Xem ra nói lời yêu thương chưa đủ mà còn phải sống công bằng, bác ái, sẻ chia với nhau.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người biết động lòng trắc ẩn với nhau. Cuộc đời sẽ không còn người thất vọng bị bỏ rơi, bị loại ra khỏi xã hội nếu con người biết bao bọc và chia sẻ cho nhau. Đáng tiếc, cuộc sống quá tất bật bởi cơm áo gạo tiền khiến con người dễ lãng quên nhau, đôi khi cố tình bỏ rơi nhau. Cuộc đời vẫn còn đó tiếng khóc của tủi hờn cô đơn vì thiếu sự quan tâm nâng đỡ của anh em.
Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn với con người. Lòng trắc ẩn đã thôi thúc Ngài tìm muôn ngàn cách để thể hiện tình yêu với con người. Lòng trắc ẩn của Chúa thể hiện qua cái nhìn xót xa khi Adam – Eva phạm tội. Lòng trắc ẩn ấy đã khiến Ngài hứa ban Đấng cứu độ để chuộc lại lỗi lầm của Adam. Lòng trắc ẩn ấy được tỏ bày một cách trọn vẹn khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Chính Con Thiên Chúa khi làm người đã sống hết mình vì con người. Ngài đã tận hiến chính mình để cho nhân loại được sống dồi dào ơn phúc.
Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu ấy luôn đòi hỏi phải làm điều gì đó cho tha nhân. Thấy anh em đói thì đâu cần chờ van xin! Thấy anh em té thì đâu cần chờ van nài! Thấy cảnh cùng khổ thì đâu có thể đứng nhìn một cách thương hại mà phải làm điều gì đó xoa dịu nỗi đau cho anh em.
Điều này Mẹ Maria đã sống và làm gương cho chúng ta. Mẹ đã vất vả vượt dặm đường xa để đến phục vụ chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ còn lưu lại đó suốt 3 tháng âm thầm phục vụ. Mẹ đã sống tin mừng một cách cụ thể qua lòng thương xót với anh em. Chính lòng thương xót ấy mà Mẹ còn nài xin Chúa làm phép lạ hóa nước thành rượu cho tiệc cưới Cana trọn vẹn niềm vui.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ. Xin giúp con đừng bàng quan đứng nhìn sự khổ đau của tha nhân mà luôn hăng hái dấn thân để làm sáng danh Chúa qua việc phục vụ của chúng con. Amen.
10. Mẹ Maria, một trái tim yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một gia đình nọ: Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng hai, ba tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ. Duy chỉ một người, không ai lo đến - ông nội già yếu. Và cho đến một ngày - ngày ông nội mất.
Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?
Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?
Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?
Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.
Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta vẫn vô tình lãng quên nhau. Quên nhau không phải là không có dịp gần nhau, nhìn thấy nhau, nhưng là thiếu sự quan tâm chia sẻ với nhau. Sống bên nhau nhưng vẫn thờ ơ, dửng dưng. Sống bên nhau nhưng vẫn như người xa lạ. Không quan tâm, không chia sẻ, không hỏi han nhau.
Có những đôi vợ chồng sống bên nhau mà vợ mang thai, chồng đau yếu mà cũng chẳng hề hay biết.
Có những người cha, người mẹ chẳng bao giờ quan tâm hỏi han sự học hành, quan hệ bạn bè của con cái chỉ tới khi con phạm pháp lúc đó mới hay thì đã quá muộn.
Có những người con chỉ biết xài tiền cha mẹ nhưng đâu hiểu được những giọt mồ hôi, những cay đắng của đồng tiền vẫn gắn liền với chữ “bạc”.
Chính vì thế, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn, thất vọng vì thiếu sự quan tâm, chăm sóc của anh em. Dòng đời vẫn còn đó những con người đang sống trong tủi nhục ngay giữa những người thân của mình. Dòng đời vẫn còn đó những phận người bị loại bỏ ngay trong mái nhà của mình.
Cuộc sống cần tình yêu, cần sự chia sẻ của tha nhân như cơ thể cần không khí để thở, để sống khoẻ mạnh hơn. Cuộc sống không có tình yêu là hoả ngục, là đoạ đầy của kiếp người chúng ta.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm một tấm lòng đầy nhân ái nơi Mẹ Maria. Mẹ đã yêu, đã sống vì tình yêu. Một tình yêu không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà thể hiện qua tấm lòng luôn nhạy cảm trước nhu cầu tha thân. Không cần họ van xin. Không cần họ lên tiếng. Tấm lòng nhân ái nơi Mẹ đã hiểu được việc gì cần làm và nên làm. Mẹ Maria khi nghe tin chị họ mình là bà Elizabet mang thai khi tuổi đã già. Mẹ hiểu vợ chồng già cần sự giúp đỡ. Mẹ cảm thông trước những khó khăn của gia đình Giacaria. Mẹ đã đi bước trước để đến đồng hành và giúp đỡ họ.
Vâng, Mẹ đã mang niềm vui đến cho gia đình Giacaria bằng tình yêu nhạy cảm của Mẹ. Mẹ còn mang đến cho gia đình Giacaria tròn đầy niềm vui khi mang Đấng Cứu Thế viếng thăm gia đình họ. Chính vì thế, gia đình Giacaria đã tràn đầy niềm vui. Bà Elizabet đã bộc lộ niềm vui khi thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi”.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng luôn có Chúa ở cùng. Ngài cũng cần đôi chân của chúng ta để mang Ngài đến viếng thăm những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài cũng cần đôi tay của chúng ta để xoa dịu những thương đau cho nhân thế. Ngài cũng cần môi miệng của chúng ta để nói những lời cảm thông chia sẻ đến với tha nhân. Và Ngài cũng rất cần trái tim đầy yêu thương của chúng ta để chạnh lòng thương xót anh em.
Ước gì niềm vui giáng sinh của chúng ta là niềm vui “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ của chúng ta. Nguyện xin cho mỗi bước chân của chúng ta luôn nở hoa bác ái và yêu thương trên mọi nẻo đường. Amen.
11. Vội vã lên đường
Càng gần đến ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, khuôn mặt của Đức Maria càng nổi bật lên. Quả thật, vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu chuộc nhân loại quả thật là quá lớn lao và quan trọng. Không ai có thể phủ nhận được điều này. Lời nói "xin vâng" của Mẹ đã mang lại cho nhân loại ánh sáng và niềm hy vọng vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Mẹ Maria vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Êlisabeth của mình. Tại sao Mẹ lại vỗi vã đi như thế ngay sao khi nghe thiên thần Gabriel báo tin? Có người cho rằng: "Mẹ đi để xác định thông tin xem thiên thần nói thế mà không biết sự thật ra sao?". Nói như thế là không đúng cho Đức Mẹ, vì Mẹ đã thưa "xin vâng" với tất cả những gì Sứ thần đã báo tin cho Mẹ. Mẹ trở thành người có phúc vì Mẹ tin những gì Chúa đã hứa cùng Mẹ: "Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng, lời Chúa hứa cùng Bà sẽ được thực hiện" (Lc1, 46). Cho nên, không có chuyện Đức Mẹ nghi ngờ lời Sứ thần Gabriel nói bao giờ. Có người lại cho rằng: "Mẹ đi thăm bà Elisabeth để khoe mình được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa". Chắc cũng không phải thế đâu! Vì Mẹ là con người thích sống âm thầm, luôn xưng mình là "nữ tỳ của Chúa". Mẹ không thích mình được người ta tôn vinh bao giờ!
Vì thế, việc Mẹ vội vã đi thăm bà Êlisabeth chỉ là cuộc viếng thăm thông thường của con người trong cuộc sống mà thôi. Có đặc biệt chăng thì đây là cuộc gặp gỡ thân tình của hai người chị em có cùng niềm tin và cùng cưu mang niềm hy vọng... Đức Maria biết rằng: người chị của mình mang thai trong lúc tuổi già như thế rất cần được sự chia sẻ, giúp đỡ... Nhưng sự gặp gỡ ấy lại biến thành một cuộc hội ngộ của tình yêu, của bình an và hạnh phúc dành cho những người luôn biết sống tin tưởng vào Thiên Chúa. Bà Êlisabeth mừng rỡ vì được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm, Gioan tẩy giả trong bụng bà cũng nhảy mừng vì nhận ra được ân sủng lớn lao là được gặp gỡ Đức Giêsu và Mẹ của Người. Mẹ Maria mang Chúa đến cho gia đình bà Êlisabeth để làm cho gia đình này được chan hoà niềm vui và ân phúc. Thật vậy, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có bình an và hạnh phúc!
Câu chuyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabeth nhắc ta nhớ đến một câu chuyện rất cảm động trong Cựu Ước. Khi Vua Đavit rước Hòm Bia Giao ước (nơi lưu giữ 10 Điều răn của Chúa) về thành Giêrusalem, thì ông mừng vui quá mức nên nhảy nhót trước Hòm Bia Chúa như một đứa trẻ con. Nhưng rồi Hòm Bia ấy chưa được đem về Giêrusalem ngay mà được chuyển đến nhà của ông Ôved-Êđom. Và trong thời gian ba tháng lưu lại nơi đây, gia đình của Eved-Êđom đã đón nhận không biết bao nhiêu là phúc lành của Thiên Chúa. Đức Maria cũng chính là Hòm Bia của Giao ước mới, vì Mẹ đã cưu mang chính Chúa Giêsu là nguồn gốc mọi ơn sủng nơi cung lòng Mẹ. Chính Mẹ đã đón nhận ân phúc bởi trời và Mẹ sẽ chuyển cầu lại cho chúng ta.
Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục làm công việc của Mẹ Maria là mang Chúa đến cho người khác. Mỗi khi Rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, thì tâm hồn chúng ta cũng tràn ngập Chúa. Chúng ta cũng trở thành người "cưu mang" Chúa trong lòng mình. Vì thế, chúng ta cần phải sinh Chúa ra cho đời. Chúng ta có trách nhiệm phải giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính cuộc sống của mình, một cuộc sống vui tươi, thân ái và đầy hy vọng. Đây là một sứ mạng nặng nề nhưng cũng thật cao quí mà Chúa và Giáo hội ưu ái dành cho chúng ta.
Noi gương Mẹ, ta hãy đến với người khác bằng tấm chân tình, muốn chia sẻ những gánh nặng cho nhau, muốn giúp nhau trong những chuyện cần thiết, muốn mang niềm vui và hạnh phúc người mình gặp gỡ...Cụ thể, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy tìm đến với với một hai gia đình túng nghèo nào đó; hãy tặng quà cho một hai đứa trẻ mồ côi, bệnh tật nào đó... để động viên, an ủi và chia sẻ phận người với họ. Có như thế, niềm vui mừng Chúa Giáng Sinh mới thật sự có ý nghĩa và trở thành ngày hồng ân cho chúng ta. Amen.
12. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế - Cố Lm. Hồng Phúc
Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.
Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.
Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).
Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.
Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.
Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.
“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).
Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.
13. Chúa sắp đến - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Mk 5,1-4)
Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Ðấng cứu thế sẽ đến:
Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.
2. Ðáp ca (Tv 89)
Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước Do Thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.
Tác giả Thánh vịnh hình dung Ðấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.
3. Tin Mừng (Lc 1,39-45)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Ðấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Ðavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Ðức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết:
a. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
b. Ðavít đã "kêu lên" rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng "kêu lên": làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
c. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Ðức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
d. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng; Ðức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)
4. Bài đọc II (Dt 10,5-10)
Tác giả thư Do thái thì hình dung Ðấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước:
Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.
IV. Gợi ý giảng
1. Ðức Mẹ và Lễ Giáng Sinh
Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Ðức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Ðức Mẹ được mô tả là "người phụ nữ sinh con" (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Ðức mẹ là người "đến để thực thi ý Chúa" (bài đọc II). Gương Ðức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Ðức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Ðức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa: Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng". Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Ðức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: dù đường xá xa xôi, Ðức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
2. Thăm viếng
a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc chắn việc Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: “Ðức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua” có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Ðức Phật nói: “Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!”. Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Ðến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
b/ Ðến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Ðức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải “nhảy lên” trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Ðức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Ðức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Ðức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Ðến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Ðem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Ðức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.
c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Ðó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài đã chẳng từng nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!” (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (...) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (...) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu...” (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
***
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)
3. Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời "Xin Vâng", Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời "Xin Vâng" Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã "Suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: "Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói" (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (Thiên Phúc)
4. "Em có phúc vì đã tin"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Ðức Maria: "Em có phúc vì đã tin". Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:
- "Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh" (Mt 8,13)
- Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
- Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp "Thưa Ngài chúng tôi tin". Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói "Các anh tin thế nào thì được như vậy". Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Ðức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Ðức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)
5. Chúa Giáng sinh mang lại gì mới?
Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều: một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.
Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.
Ðó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Ðó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Ðức mẹ. Lòng Ðức Mẹ đổi mới. Ðức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.
Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.
6. Lời nguyện Mùa Vọng
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con
Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con
Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con
Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con
Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con
Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con
Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con
Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con
Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con
Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con
Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con
Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Ðấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
2. Cùng với Ðức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
3. Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
4. Ðức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Ðức Maria.
Chủ tế: Lạy Chúa, ngày xưa Ðức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài sinh xuống trần gian để sống với chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng lên Ngài tâm tình tạ ơn sốt mến.
VII. Giải tán
Còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng sinh. Anh Chị Em hãy tích cực chuẩn bị đón Chúa, bằng cách cầu nguyện nhiều hơn và sống bác ái với tha nhân hơn trong mùa giáng sinh.
14. Hạnh Phúc Tín Thác - Trầm Thiên Thu
Ngôn ngữ nào cũng có dạng chủ động và thụ động. Về thể thụ động, Việt ngữ rất độc đáo vì có thể diễn tả hai dạng – tích cực hoặc tiêu cực. Điều gì tốt thì nói là “được”, điều gì xấu thì nói là “bị”. Ví dụ: được thưởng hoặc bị phạt, được khen hoặc bị chê,... chứ không ai nói ngược lại (bị thưởng, bị khen; được phạt, được chê). Ngoại ngữ không thể diễn tả rõ nét “thụ động” như Việt ngữ.
Trong đời thường, ai biết tin và dám tin là người can đảm, không ảo tưởng, đặc biệt là vấn đề đức tin. Đó là một dạng hạnh phúc mà người đời khó hiểu hoặc không thể hiểu nổi, thậm chí còn bị coi là ngu xuẩn. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nhẹ dạ cả tin vào bất cứ phàm nhân nào mà hãy vững tin vào Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Đức tin trừu tượng mà cụ thể: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Thánh Don Bosco nói rằng “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự”. Vâng, đức tin rất quan trọng. Thánh tiến sĩ Thomas Aquino lý luận: “Công hiệu của năng lực cầu nguyện đến từ đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu quả là do đức tin và đức cậy”. Còn Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”.
Ngày xưa, phát ngôn viên Mi-kha đã tin tưởng công bố lời của Thiên Chúa: “Hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en” (Mk 5:1-2). Thiên tài và nhân tài có thể xuất thân từ một nơi không vị vọng, bình thường. Đừng tưởng nhân tài là con nhà giàu, con cha cháu ông, hoặc ở nơi đô hội. Không, thậm chí còn ngược lại. Xưa nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Tài năng có thể lóe lên bất cứ lúc nào hoặc bất cứ nơi nào. Hiển nhiên nhất là từ Bê-lem, nơi có thể coi là “khỉ ho, cò gáy”, vậy mà lại là nơi xuất hiện Đấng Cứu Thế.
Đấng đó là người như thế nào? Ngôn sứ Mi-kha cho biết: “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất” (Mk 5:3-5). Vô cùng kỳ diệu, quá đỗi lạ lùng!
Danh Ngài vượt trên mọi danh hiệu, đến nỗi khi nghe đến Tôn Danh Ngài, mọi loài đều nể phục, ngay cả ma quỷ cũng phải khiếp run. Những người tin vào Tôn Danh Ngài thì chân thành cầu nguyện: “Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im, Ben-gia-min và Mơ-na-se được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ” (Tv 80:2-3). Ngài đã đến, đang đến, và sẽ đến, đến để giao hòa đất với trời, đến để cứu nhân độ thế.
Không chỉ trong Mùa Vọng, mà suốt cả cuộc đời này, chúng ta luôn ngưỡng vọng và khẩn khoản nài xin Ngài ghé mắt thương xót – đặc biệt là trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016): “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16).
Xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở (Mt 7:7; Lc 11:9), Chúa Giêsu đã hứa chắc như vậy. Vấn đề còn lại là chúng ta phải kiên trì mà tin tưởng khẩn cầu, đồng thời phải quyết tâm thành tín với Thiên Chúa: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:18-19).
Thiên Chúa là Thánh Phụ giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Nếu bị phạt là tại người đó cố chấp mà thôi. Lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này kia mà, thế thì chẳng có tôi gì mà Ngài không tha, điều kiện đơn giản là “chân thành sám hối”. Chỉ cần một lời van xin là Ngài tha tất tần tật. Bằng chứng là trên Đồi Can-vê, ngay trong cơn hấp hối, Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội lỗi cho gã Dismas – một tướng cướp “khét tiếng” nhưng chợt hóa “tốt lành” (Lc 23:43). Cả đời anh ta cướp bóc, coi trời bằng vung, cuối cùng gã Dismas “cướp” được cả Lòng Chúa Thương Xót và “cướp” luôn cả Nước Trời. Anh ta thực sự khôn ngoan vì biết tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Tình Chúa bao la, vô biên và kỳ diệu là thế đấy. Nếu Thiên Chúa chấp tội, không một phàm nhân nào được cứu độ. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót!
Thánh Phaolô phân tích: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:5-7). Thiên Chúa có mọi sự, Ngài không cần gì cả, Ngài chỉ muốn chúng ta “xin vâng” trong mọi sự – vui hoặc buồn, sướng hoặc khổ, vừa ý hoặc trái ý – để “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế thôi!
Thánh Phaolô giải thích chi tiết: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10).
Chúa Giêsu luôn thể hiện phong cách “khác người”, luôn sống “ngược đời”, nhưng luôn rạch ròi: Tỉnh Táo, Thật Thà, Thẳng Thắn. Người ta không đủ hiểu Ngài nên đôi khi bị “sốc”, khó chấp nhận. Các tư tế, kinh sư, thông luật, nhóm Sa-đốc và Pha-ri-sêu đều là những hạng người như vậy. Còn chúng ta thì sao? Khó nói hay không dám trả lời?
Trình thuật Lc 1:39-45 ngắn gọn, nhấn mạnh đến lòng tin của Đức Maria. Điều đó cho chúng ta biết chắc rằng lòng tin (tín thác) là niềm hạnh phúc lớn lao và cần thiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã có lần xác định với Tông Đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Thánh sử Luca cho biết: Hồi ấy, sau khi được Sứ Thần Gáp-ri-en truyền tin và báo tin người chị cũng vừa thụ thai cách lạ lùng, Cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Cô Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Đức Maria mau mắn trong mọi trường hợp và thể hiện rõ nét qua trạng từ “vội vã”. Đức Maria NGHE Thiên Sứ nói và TIN ngay, và rồi ĐI ngay. Không đắn đo, không tính toán, dù đường sá xa xôi, thời đó khó đi chứ không như ngày nay. Đức Maria đi thăm Người Chị không chỉ để chia vui mà chính là để giúp đỡ Người Chị, vì cùng là phận nữ nhi, Đức Maria biết các thai phụ gặp nhiều khó khăn, cực nhọc đủ thứ, rất cần người khác giúp đỡ trong thai kỳ, nhất là những ngày cuối thai kỳ.
Hài Nhi Gioan “gặp” Thánh Nhi Giêsu qua bụng mẹ mà vẫn không thể trì hoãn niềm hạnh phúc, thế nên Hài Nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chị Êlisabét, mẹ của Cậu Bé Gioan, cũng không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc ngay khi vừa gặp mặt Cô Em, vì Cô Em vừa trở nên Mẹ của Thiên Chúa. Hạnh phúc vô cùng lớn lao!
Chị Êlisabét thật diễm phúc vì được làm Mẹ của “người mở đường” cho Đấng Cứu Thế, và được coi là “người cao trọng hơn mọi người đã lọt lòng mẹ” (Mt 11:11; Lc 7:28). Nhưng Cô Em Maria còn diễm phúc hơn vì được làm Mẹ của Thiên Vương Kitô, Đấng đem bình an và công lý đến cho nhân loại. Đức Maria diễm phúc vì có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhờ tín thác tuyệt đối mà Đức Maria mau mắn và sẵn sàng xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa quan phòng và tiền định.
Lạy Thiên Chúa, thật hạnh phúc và vui mừng biết bao vì Đấng Thiên Sai sắp sửa đến giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi, khỏi vòng kim cô của ma quỷ, đồng thời chia sẻ thân phận con người với chúng con, dạy chúng con cách thực thi lòng thương xót và biết đường lên Trời. Xin giúp chúng con biết thương xót như Chúa Cha nhân từ, dám sống “khác người” và chia sẻ mọi sự với tha nhân. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa giúp chúng con biết tuân phục và tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
15. Ðược diễm phúc vì biết cộng tác với Thiên Chúa
Quan niệm thông thường ở đời, người có phúc là người có nhiều tiền, có nhiều của cải, được nhiều người thương mến và kính trọng...Dầu vậy, những điều phúc này có giới hạn và có thời gian của nó. Vì những điều phúc này chỉ với cái nhìn của con người.
Cùng với Giáo Hội chúng ta bước sang Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm nay. Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một mẫu người có phúc theo cái nhìn của Thiên Chúa - cái nhìn của đức tin."Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." (Lc 1, 45). Ðây là lời chào của Bà Isave với Ðức Maria. Chắc chắn, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên Bà Isave mới thốt lên được lời chào đầy ý nghĩa đức tin này.
Ðức Maria là người giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong lịch sử cứu độ. Bởi Mẹ đã hết lòng quảng đại trong tin tưởng để cộng tác với Thiên Chúa trong việc đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Do đó, Mẹ quả thật là người diễm phúc không chỉ giữa những người phụ nữ và giữa hết mọi người.
Thiên Chúa có dư khả năng để cứu độ con người nhưng Người không bao giờ thực hiện một mình. Ngài luôn cần có sự cộng tác của con người. Dù rằng sự cộng tác ấy rất nhỏ nhoi chẳng mấy xứng đáng. Cho nên Thánh Augustino đã nói một câu bất hủ: "Ðể sinh ra con thì Chúa không cần hỏi ý kiến của con. Nhưng để cứu độ con Chúa cần phải hỏi ý kiến của con"
Không còn bao lâu nữa cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta mừng Ðại Lễ Giáng Sinh - tưởng niệm việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người đem ơn cứu chuộc đến cho nhân loại. Nhờ sự cộng tác tích cực của Ðức Maria mà Con Thiên Chúa đã được sinh ra. Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời cộng tác với Thiên Chúa để Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong lòng mình cũng như trong gia đình và trong họ đạo chúng ta. Có Chúa Giêsu ở trong và ở với ta thì điều phúc ấy mới bền vững và chắc chắn.
16. Đức Maria gương mẫu của niềm tin
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại: Một hôm Mẹ đến thăm một nhà thương Anh Quốc rất tối tân, khung cảnh và các phòng ốc của nhà thương khang trang sáng sủa, trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, tương xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá và nhân viên làm việc trong nhà thương đều nhã nhặn, nhưng Mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ trưởng đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương:
- Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh nhân cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của viên y sĩ giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng thoáng vẻ buồn:
- Dạ thưa, là vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Ngay từ thời khai sinh, Giáo hội đã luôn luôn khuyến khích tín hữu viếng thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần sự trợ giúp, an ủi và nâng đỡ, nghĩa là Giáo hội thôi thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra gương mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi.
Các bài đọc trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo khó, tầm thương và bé nhỏ mà Thiên Chúa đã dùng để đến với nhân loại và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương (5,1-4) sách ngôn sứ Malakia là một lời sấm thuộc loại lời sấm cứu thế, được thánh sử Matthêu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sở dĩ Jérusalem đã không chu toàn sứ mệnh này vì các tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn một nơi khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bethlem, trước đây gọi là Ephata. Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải tại thủ đô Jérusalem hay là một thành phố lớn ở Bethlem. Thiên Chúa chọn gia đình ông Jessé, cha của David và là ông tổ của thánh Joseph bạn với Đức Trinh Nữ Maria, Người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình thường dân khác.
Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như: làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng dòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1,39-48).
Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế, Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế cho nhân loại.
Lời chào của bà Elizabeth khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elizabeth: "Em ơi, Em thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc" khiến cho họ khó chịu.
Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với thịt xác, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình. mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình. Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy dụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của Bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian.
Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.
Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.
Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do Thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất ít quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.
Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi Nhập Thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: "Này Con xin đến để thực thi ý Cha". Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng Sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.
17. Mẹ Maria vội vã lên đường – AM. Trần Bình An
Vào thời Cha thánh Piô thành Pietrelcina (1887-1969) còn sống, một thanh niên Mỹ đến gặp Cha. Đó là anh William Martin, tục danh là Bill, sau này trở thành tu sĩ Cappuccino với tên dòng là Giuseppe Pio. Lúc ấy là 2 giờ chiều. Anh đứng nơi hành lang với Cha Piô chờ đợi tháp tùng Cha xuống Phòng Thánh, để Cha ngồi tòa giải tội cho các tín hữu Công Giáo, tuốn đến từ khắp muôn phương.
Cha Piô giữ thinh lặng đắm chìm trong suy tư chiêm ngắm và không hề bị khuấy động bởi những gì diễn ra chung quanh. Anh Bill cũng thế.. Anh trầm lắng trong ý nghĩ riêng tư. Hay nói đúng hơn, anh đang hồi tưởng những chặng đường trải qua.
Năm ấy anh Bill từ Brooklyn của thành phố New York bên Hoa Kỳ, đến Ý để học về nghệ thuật diễn xuất trữ-tình-ca. Một hôm anh có dịp đến thành phố San Giovanni Rotondo và trọ nơi đan viện các tu sĩ Cappuccini. Đây là tu viện Cha thánh Piô đang sống. Theo chương trình anh Bill sẽ dừng lại tu viện trong vài ngày. Nào ngờ khuôn mặt thánh thiện dịu hiền của vị tu sĩ Cappuccinô mang tên Piô, lôi cuốn quyến rũ anh. Từ đó anh thường xuyên ghé tu viện. Rồi nhận thấy các tu sĩ Cappuccini người Ý phải khó nhọc, bận rộn với các thư từ tới tấp, đến từ năm châu bốn biển, với đủ mọi ngôn ngữ khác nhau, anh Bill ra tay phụ giúp. Anh phụ trách các thư từ viết bằng Anh ngữ.
Trong bầu khí đượm đầy tính chất thiêng liêng, anh Bill bắt đầu hướng đến siêu việt. Anh không còn cảm thấy thu hút bởi việc học hành, đến độ quên mất mục đích, tại sao anh có mặt trên đất Ý. Anh xin Cha phụ trách nhà trọ cho phép anh tham dự vào các sinh hoạt của tu viện, để có chút kinh nghiệm về cuộc sống tu trì. Sau vài tháng sống thử, các Bề Trên chấp nhận anh vào số các tập tu và anh khoác áo tu sinh. Chính trong chiếc áo tu sinh, mà hôm ấy anh Bill đứng cạnh Cha thánh Piô. Trong thinh lặng, anh hồi tưởng chặng đường đưa anh đến cuộc thay đổi hôm nay. Anh nhớ lại lời Linh Mục Giải Tội, Cha Clemente thành Postiglione, nói với anh trong lần gặp vừa qua: “Sau ơn thánh bí tích Rửa Tội thì Ơn Gọi vào đời sống thánh hiến là Ơn Thánh cao cả nhất mà THIÊN CHÚA ban cho một thọ sinh.” Anh thắc mắc tự nhủ: “Vậy ai đã có thể cầu bầu cùng Chúa ban cho mình Ơn Gọi trọng đại dường này?”
Tâm trí anh muốn tìm kiếm vị ân nhân để có thể nói lời tri ân. Phải chăng là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA? Bởi vì Ông Ngoại, ngay khi anh còn bé, đã giao phó anh cho các Nữ Tu Kín của Đan Viện gần nhà anh, để Các Chị cầu nguyện cho anh. Hay là Cha Piô đứng cạnh anh đây, chính Cha cầu nguyện cho nét lôi cuốn của Cha nơi anh trở thành hiện thực? Vừa khi anh William Martin nghĩ như thế, tức khắc anh thấy Cha Piô ngừng ngay việc lần hạt Mân Côi và quay sang anh. Cha nhìn anh và chỉ nói vỏn vẹn: “Đức Bà!”
Với câu nói này, Cha Piô muốn khẳng định với anh Bill hai điều chắc chắn. Thứ nhất, Cha được Chúa Thánh Linh ban ánh sáng để có thể đọc những điều kín ẩn, trong nội tâm của những anh chị em, đang sống chung quanh Cha. Thứ hai, Cha muốn xác quyết rằng: “Chính Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA là Đấng Trung Gian ân thánh!” (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt,” Il Settimanale di Padre Pio”)
Chúa Thánh Linh đã soi sáng cho Cha thánh Piô biết chính Đức Mẹ Maria đã chủ động đến với William Martin, dẫn chàng can đảm bỏ lại mọi sự thế gian, tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Hôm nay Chúa nhật 4 Mùa Vọng, Tin Mừng tường thuật Mẹ Maria cũng chủ động đến thăm bà Isave. Cả hai người đều tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh trong niềm vui mừng và hy vọng.
Ra đi
Chúa Thánh Linh đã ngự xuống Mẹ Maria, hướng dẫn cuộc đời Mẹ dấn thân vào việc Đồng Công Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Mẹ không còn sống ẩn mình bình lặng, êm ả, nương thân kín đáo chốn quê quen thuộc, mà hăng hái cất bước, ra đi theo tiếng gọi.
“Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave.“ Với Chúa Thánh Linh, Mẹ chỗi dậy thoát ra khỏi nếp sinh hoạt thường nhật bình dị trong gia đình, thoát khỏi những ràng buộc vật chất lẫn tinh thần, mà can đảm đổi mới cuộc đời. Mẹ sẵn sàng bước vào cuộc phiêu lưu tràn đầy hy vọng, nhưng lắm chông gai, thử thách và đau khổ, mà sau này ông Simeôn, người công chính tràn đầy Chúa Thánh Linh, đã tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” ( Lc 2, 35)
Ra đi còn là từ bỏ mình, bỏ lại tiện nghi, nhu cầu, ham muốn, đam mê, cũng như ý riêng, để vâng theo Thánh Ý Chúa, hiến dâng toàn thể thân xác và tâm hồn cho Chúa và cho tha nhân. Đến với bà chị họ xa lắc xa lơ, năm thì mười hoạ mới gặp, chẳng phải dễ dàng và đơn giản. Mẹ chẳng quản ngại đường xá xa xôi, cách trở, nguy cơ bắt cóc, cướp bóc, khủng bố, chết chóc. Mẹ vẫn cứ vội vã ra đi, không hề do dự, không cân nhắc, cũng chẳng cần trang bị thiệt bị, nai nịt tận răng như lính đặc nhiệm, vì Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Linh, còn lo lắng chi. “Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi, Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn.” ( Lc 1, 47-48)
Phó thác hoàn toàn, một mình Mẹ cấp tốc lên đường khi nghe sứ thần Gabriel báo tin vui bà chị Isave mang thai được sáu tháng. Con đường từ Nazareth đến nhà bà Isave ở Ain Carim, gần Giêrusalem, khoảng 150 cây số vời vợi không làm Mẹ chùn chân.
“Đi, đi, đi mãi, đi quyết liệt, đi không nhượng bộ, cũng như không ai đi với người lui. Không nhược bộ cho xác thịt. Không nhượng bộ cho lười biếng. Không nhượng bộ cho ích kỷ.” ( Đường Hy Vọng, số 12 &13)
Phục vụ
Mẹ ra đi chẳng phải để tìm kiếm lợi danh, hay công bố, khoe khoang, kiêu hãnh được hồng ân làm Mẹ Thiên Chúa, mà để âm thầm, yêu thương phục vụ, phản ảnh sứ vụ phục vụ cao cả của Con Mẹ, đang được Mẹ cưu mang. Mẹ đã thực hiện trung thành Lời Chúa: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” ( Mt 20, 28)
Phục vụ quan trọng nhất là đem Chúa đến tha nhân, chia sẻ với người khác hồng ân Chúa Thánh Linh. “Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần.” Mẹ Maria đem Đức Giêsu đến thăm mẹ con ông Gioan Tiền Hô, khiến hài nhi Gioan vui sướng mừng rỡ và bà Isave được thánh hoá, hân hoan tràn đầy Chúa Thánh Linh.
“Chúng ta cũng phải bắt chước Mẹ Maria như thế, nếu chúng ta muốn trở nên một cộng sự viên thực sự của Chúa Giêsu. Chúng ta phải đón nhận Chúa Giêsu, chúng ta phải đón nhận tình yêu thương và sự thiện hảo của Ngài, và lòng chúng ta phải cháy lên một sự khao khát, muốn đem Chúa Giêsu trao ban cho người khác.” ( Lm Phêrô Trần Công Thuận dịch, Tâm hồn tràn ngập niềm vui, José Luis Gonzales Balado, Mother Teresa)
Từ tấm gương Đức Mẹ Maria ra đi phục vụ, đem Chúa đến tha nhân, cũng như dẫn dắt, mời gọi tha nhân trở về với Chúa. “Đức Giáo Hoàng Phanxicô có khái niệm chủ yếu một Giáo hội “đi ra”, một Giáo hội làm “sứ mệnh” phải tập trung vào sứ điệp chính yếu của Phúc Âm, và đây phải là cánh đồng để chiến đấu. Đó là ý nghĩa của Năm Lòng Thương Xót mà Đức Phanxicô khai mạc ở Rôma ngày 8 tháng 12-2015, ngài nhắm rõ ràng, đối với giáo hữu là sự trở lại với Chúa Kitô, đối với những ai chưa biết Chúa Kitô, thì phải có “lòng thương xót”. (Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch, Theo Đức Phanxicô Giáo hội đã nói quá nhiều về đạo đức, Jean-Marie Guénois, lefigaro.fr)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chỗi dậy mỗi ngày, rũ bỏ những cám dỗ xác thịt, thế gian, luôn tỉnh thức ăn năn, sám hối, canh tân, đổi mới, để sẵn sàng chào đón Chúa ngự đến, như bà Isave đã chuẩn bị tâm hồn trong sạch, để long trọng tiếp rước Mẹ Maria và Con Mẹ đến thăm viếng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con noi theo Mẹ, biết khiêm nhường, sẵn sàng “Xin Vâng”, chân thành đón rước Chúa và đưa Chúa đến với tha nhân. Amen.
18. Cuộc Hạnh Ngộ - AM Trần Bình An
Cha Jerome Pattyn mới hơn 70 tuổi, nhưng vì sức khỏe yếu kém, Cha xin về hưu sớm. Từ đó Cha dâng hiến cuộc đời còn lại để thăm viếng các bệnh nhân ở nhà thương Stella Maris ở Makassar, Indonesia.
Cha nói: “Tôi thích công tác tông đồ này. Nó giúp tôi cảm thấy hữu ích vì còn làm cái gì đó cho tha nhân. Các người bệnh mong chờ tôi đến an ủi họ. Lời cầu nguyện củng cố Đức Tin và giúp các bệnh nhân sẵn sàng chấp nhận bệnh tật. Lời cầu nguyện còn trao ban sức mạnh và nâng đỡ tâm lý khiến việc chữa trị được hữu hiệu và nhanh chóng.”
Một hôm, Cha Jerome gặp một bệnh nhân Hồi giáo sùng đạo. Anh ta bị ”đứng tim”. Anh để ý thấy người bệnh Công Giáo cùng phòng, được chữa trị ”khẩn trương”, đã mau chóng bình phục, sau khi được Cha Jerome thường xuyên viếng thăm. Cha cầu nguyện và cùng bệnh nhân Công Giáo cầu nguyện chung. Anh Hồi giáo nhờ người mời Cha Jerome đến thăm và cầu nguyện cho mình. Khi Cha Jerome giải thích với anh rằng người bệnh kia là tín hữu Công Giáo, anh nói:
“Không sao hết! Chỉ có một THIÊN CHÚA duy nhất cho hết mọi người: Hồi giáo, Công Giáo và các tôn giáo khác. Tôi nhận thấy THIÊN CHÚA nhậm lời quí vị cầu xin. Vậy xin ngài cũng cầu nguyện cho tôi với, hầu tôi được khỏi bệnh.”Dĩ nhiên, Cha Jerome sốt sắng cầu nguyện cho anh. Và người bệnh Hồi giáo đó được khỏi bệnh thật. Anh hết sức tri ân.
Cha Jerome cho biết chính phong trào Canh Tân trong Thánh Linh gợi ý khiến Cha dành thời giờ thăm viếng bệnh nhân và cầu nguyện cho họ. Mỗi khi đến nhà thương, Cha thân mật bắt tay chào thăm tất cả từ các bác sĩ, y tá đến các nhân viên thiện nguyện và các bệnh nhân. Cha quen biết mọi người và ai ai cũng quý mến Cha. Trung bình mỗi ngày Cha Jerome viếng thăm khoảng 60 bệnh nhân. Vì thế Cha không thể ở lại lâu với từng người, trừ những người đang hấp hối hoặc lâm vào cảnh tuyệt vọng… Quả thật, Cha Jerome Pattyn mang niềm HY VỌNG, lòng TIN TƯỞNG, sự NHẪN NHỤC đến cho các bệnh nhân. Cha thoa dịu đau khổ và gieo rắc NIỀM VUI cho mọi người, không trừ ai. (”Chronica CICM” n.5, Juin/2003, trang 145-148, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Mẹ Maria đi thăm bà Êlisabet, đã có thai được 6 tháng, dù đã cao niên, như bà Xara, vợ ông Abraham.
Vâng Phục và Chia sẻ
Trong cuộc đời, ai cũng đều có nhu cầu được chia sẻ niềm vui, cũng như nỗi buồn. Niềm vui sẽ được nhân lên và nỗi buồn sẽ vơi đi. Như Cha Jerome Pattyn đã ân cần chia sẻ nỗi đau đớn của các bệnh nhân, khiến họ được an ủi, có thể mau mắn vượt qua bạo bệnh.
Mẹ Maria khi hay tin Bà Êlisabet dù đã cao niên mà vẫn được thọ thai, nhờ quyền năng Thiên Chúa, liền vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu đa, để chia vui với bà. (Lc 2, 39). Theo các nhà chú giải, thì nơi đó là một trong mười hạt của miền Giuđê, có thể là A- in Carim, cách Giêrusalem 6km về phía Tây.
Không quản đường xa vất vả, dốc đá cheo leo, nắng nóng nghiệt ngã, nguy hiểm thú dữ, hay cướp bóc rình rập, Mẹ vẫn can đảm và hăng hái dấn thân đi thăm bà Êlisabet, vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa, qua Sứ thần bày tỏ. Mặt khác, Mẹ bày tỏ lòng khiêm cung, lẫn thái độ kính cẩn, hiếu đễ với bà chị họ cao niên.
Chúc Tụng và Ngợi Khen
Được tràn đầy Thánh Thần khi thụ thai, Mẹ Maria đến thăm chào hỏi bà chị Êlisabet, cùng chia sẻ Thánh Thần: Bà Êlisabet vừa nghe bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người con em cũng được chúc phúc.” (Lc 2, 41-42)
Lời chúc tụng của bà Êlisabet đã trở nên phần đầu Kinh Kính Mừng, ngợi khen Đức Mẹ, mà ngày nay chúng ta vẫn thường lập lại lời chào cao quý, đầy ý nghĩa và sâu sắc đó.
Thánh Gioan Tiền Hô còn đang trong bụng, đã thể hiện vai trò ngôn sứ, bằng cách hân hoan, vui sướng, nhảy lên chào đón Chúa Giêsu, cũng đang còn ẩn mình trong lòng dạ Mẹ Maria. Còn bà Êlisabet tạm thời làm phát ngôn viên thay cho con, là ông Gioan Tiên Hô. Bà thay thế ông Gioan chúc tụng Đức Maria và Chúa Hài Đồng Giêsu
Cảm tạ và Tri Ân
Trong tâm tình cảm tạ và tri ân, bà Êlisabet đã cất tiếng biểu lộ lòng biết ơn vô hạn, khi được diễm phúc Đức Thánh Mẫu và Chúa Giêsu đến chia vui, cùng thăm viếng. Nhờ tràn đầy Thánh Thần, bà Êlisabet mới có thể nhận ra Chúa của mình, đang ở trong cung lòng Đức Thánh Mẫu, Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”(Lc 2, 43 –45)
Trái ngược với lòng nghi ngờ của ông Dacaria, khi được Sứ Thần báo tin sắp có con, Mẹ Maria đã hoàn toàn Tin Tưởng và Vâng Phục, ngay khi Sứ Thần Gabriel loan báo được cưu mang Đấng Cứu Thế. Do vậy, bà Êlisabet đã hết lòng ngợi khen Đức Mẹ Maria, đã làm đẹp lòng Chúa. Cũng như biết ơn Mẹ đến viếng thăm. Một vinh dự đặc biệt, một cảm nhận tri ân sâu sắc vô cùng.
Bà Êlisabet được Mẹ Thiên Chúa đến thăm, mà đã hoan hỉ sung sướng đến thế. Trong khi các Kitô hữu bây giờ còn có cơ hội vinh dự gấp bội, đó là được hân hạnh rước Mình Máu Chúa ngự vào lòng hằng ngày. Một cuộc hạnh ngộ quý giá biết chưng nào! Ôi hạnh phúc nào hơn?
“Tông đồ bằng tiếp xúc”: “Phải chăng tâm hồn chúng tôi sốt mến khi nói chuyện với Người dọc đường?” Con không nghĩ rằng, mỗi cuộc tiếp xúc là một công tác Tông đồ sao? (Đường Hy Vọng, số 323)
Lạy Chúa Giêsu dấu yêu, xin cho con luôn biết hiệp thông cùng Bà Êlisabet ngợi khen, chúc tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa, mỗi khi con được đón rước Chúa Thánh Thể vào lòng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt con đến cùng Chúa Giêsu hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, để con luôn luôn được sống trong hồng ân cứu độ. Amen.
19. Buông súng - Lm. Vũ Đình Tường
Hội bảo vệ quyền lợi người yêu súng và những người mê súng lí luận họ cần nó để phòng thân và bảo vệ mình. Lí luận nghe hợp lí và êm tai nhưng thực tế cho thấy khác xa những gì lí luận. Bởi vì không phải lúc nào con người cũng tự chủ được chính mình, nhất là khi nóng giận, quá buồn hay cô đơn. Đó là chưa kể đến những người đầu óc không bình thường hay sống trong tâm trạng thù hằn.
Vụ thảm hại trẻ em vô tội mới đây xảy ra tại Newtown, Connecticut, bên Hoa Kì cho thấy rõ những hiểm nguy của việc giữ vũ khí trong tay. Hai mươi bốn vụ thảm sát đẫm máu xảy ra trong vòng bảy năm qua. Điều nghịch lí là khi một số người tranh đấu cho quyền giữ và xử dụng vũ khí cá nhân được tôn trọng thì quyền lợi người khác bị xâm phạm, nhất là trẻ em. Không phải quyền lợi các em bị hại mà là sinh mạng, sự sống của con người.
Người lớn có nhiệm vụ bảo vệ trẻ nhỏ khỏi hiểm nguy, giúp chúng sống an toàn trong nhà cũng như ngoài đường. Luật cho phép cầm giữ và xử dụng vũ khí làm tổn thương đến nhiệm vụ bảo vệ các em. Để bảo vệ người vô tội khỏi bị chết oan, việc buông súng là cần thiết. Muốn buông súng việc đầu tiên cần làm là từ bỏ một phần tư lợi, í riêng, quyền lợi riêng của cá nhân, từ bỏ luận điệu có quyền hay được quyền làm điều đó. Từ bỏ ít tư lợi cá nhân để đại chúng được nhiều điều lợi là điều tốt lành, nên làm và đáng khuyến khích. Ích lợi này không mới lạ gì vì trong Kinh Thánh có nhiều tấm gương sáng chói, được đề cao, trở thành ngày lễ kính quan trọng trong Giáo Hội. Khi đám đông hỏi ông Gioan họ phải làm gì, ông kêu gọi họ đặt lợi ích chung trên tư lợi. Gioan không phải chỉ kêu gọi người khác làm điều đó mà bản thân ông thực hành trước lời kêu gọi kia. Ông vui lòng từ bỏ mọi sự để phục vụ dân Chúa.
Tôi là tiếng người hô trong hoang địa, hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi Gn 1,23
Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi Gn 3,30
Mấy ai vui khi thấy kẻ đến sau nổi bật lên, còn mình từ từ chìm vào quên lãng. Đức Kitô cũng mang tâm tình ấy khi Ngài tuyên bố Ngài đến không phải để làm theo í riêng mà làm theo í Đấng sai Ngài đến
Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi. Mà í của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết Gn 6,38
Đức trinh nữ Maria cũng từ bỏ í riêng để thực thi í Chúa khi thưa xin vâng cùng Thiên Thần.
Vâng tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói Lc 1,38
Đức Trinh Nữ được gọi là người có phước vì Ngài từ bỏ tự lợi để công lợi được thể hiện
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, vì người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc Lc 1,42
Từ bỏ tư lợi cho công lợi được lợi hơn là điều tốt lành vì nó mang phúc lợi cho nhiều người. Thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Trinh Nữ và Đức Kitô đều từ bỏ í riêng, tư lợi để í Chúa được thể hiện qua cuộc đời mỗi người và những từ bỏ này trở thành lịch sử ơn cứu độ. Đức Kitô từ bỏ í riêng để í Chúa Cha được thực hiện. Ngài chọn xuống thế, sinh trong chuồng bò vách tan, cửa trống và sống giữa những kẻ nghèo nhất trong số những kẻ nghèo. Chính việc từ bỏ í riêng này làm lên lịch sử của ngày lễ Kính trong mùa Giáng Sinh. Không có việc từ bỏ sẽ chẳng có Giáng Sinh.
20. Tin để đáp lời xin vâng như Mẹ - Huệ Minh
Với ai thì không biết, nhưng với cái anh chàng trong bài hát "Điệu lý qua cầu” thì như thế này:
Bằng lòng đi em về với quê anh
Một cù lao xanh một dòng sông xanh
Môt vườn cây xanh hoa trái đơm hương
Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.
Bằng lòng đi em anh đón qua cầu
Mùa mưa cầu tre dẩu khó đưa dâu
Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo
Về đây người quê chỉ có tấm lòng
Có chiếc xuồng ba lá để yêu em
Ôi đóa hoa tím trôi líu riu
Dòng sông nước chảy líu riu
Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ...ơ...
Ôi những đêm ngăm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Ôi đoá hoa.....anh thương ơ...ơ...
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Tình yêu của cái anh chàng này cũng như cái nhìn của người yêu anh chàng này có cái gì đó khang khác. Khác không chỉ ở thời của anh nhưng đặc biệt khác ở thời nay.
Người ta đi yêu ai đó thì người ta muốn giàu và có cái giàu nhưng với anh thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tâm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi.
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh khác nhiều người.
Thiên Chúa cũng vậy, cái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa hay nói đúng hơn là tư tưởng của Thiên Chúa khác tư tưởng của loài người.
"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.
Trang sách Mika vừa bộc bạch cho ta: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Thật vậy, trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế.
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại.
Thiên Chúa đã hành động như vậy.
Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên.
Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Đức Maria, đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa.
Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.
Phần chúng ta, đứng trước Lời của Thiên Chúa, ta khiêm tốn và tin như Mẹ để đón Lời của Chúa vào trong đời của ta hay không? Câu trả lời, Thiên Chúa để dành cho mỗi người chúng ta.
21. Cảm nghiệm trên đỉnh đồi - Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Mùa vọng là thời gian tự chấn chỉnh lấy mình để chờ Chúa đến bằng cuộc sống tín trung hiện tại đồng thời vẫn hướng vọng về cuộc sống tương lai."
William James, nhà tâm lý học lừng danh thế giới, có kể lại câu chuyện có thực sau đây trong tác phẩm nhan đề "Varieties of Religious Experience" (những cảm nghiệm tôn giáo)
Một đêm nọ có người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp, bầu trời đầy sao, tình yêu chan hoà muôn trái tim và bình an phủ xuống mọi tâm hồn. Đang khi đứng đó, bỗng ông thấy lòng tràn ngập niềm vui giống như ông đang lắng nghe bản hoà tấu tuyệt vời trong đó mọi nốt nhạc đan quyện vào nhau khiến tâm hồn ông đột nhiên bị xúc động. Thế rồi ông có cảm giác một người nào đó đang cùng hiện diện trên đỉnh đồi với ông. Sự hiện diện của vị này càng lúc càng mãnh liệt đến nỗi ông cảm thấy sự hiện diện ấy còn rõ rệt hơn chính sự hiện diện của ông nữa. Về sau, ông thổ lộ "chính trên đỉnh đồi vào đêm hôm ấy, tôi bắt đầu tin vào Chúa".
Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên là "khoảng khắc cao điểm". Đó chính là lúc mà chỉ trong phút chốc chúng ta chợt nhận ra một thế giới vô cùng vĩ đại hơn, xinh đẹp hơn và còn thực hơn thế giới chúng ta hiện sống. Kinh nghiệm trên đỉnh đồi của người đàn ông nọ giúp ta hiểu rõ hơn câu chuyện trong Phúc Âm hôm nay, đặc bịêt giúp ta thấy rõ hơn lời bà Elizabeth nói với Đức Maria "Vừa nghe em chào là con trong bụng chị liền nhảy mừng lên!" Một đứa bé quậy trong bụng mẹ là điều rất bình thường, vì thế khi Luca kể lại câu chuyện này, chắc chắn ông muốn nhấn mạnh đến điều gì khác lạ hơn. Ông muốn ám chỉ cử động kia như là lời chào đón Chúa Giêsu đang hiện diện nơi cung lòng Đức Maria nghĩa là thai nhi trong bụng bà Elizabeth cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu nên đã mừng rỡ nhảy lên. Điều này báo trước những điều sẽ xảy ra thường xuyên về sau trong cuộc đời Chúa Giêsu, tức là quyền năng của Ngài sẽ tác động mãnh liệt trên dân chúng. Hai ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
Trước mắt là câu chuyện xảy ra trên biển Galilê lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài. Simon Phêrô và Anrê sau một đêm đánh cá trở về thì gặp Chúa Giêsu bước đến thuyền họ và truyền cho thuyền ra khơi thả lưới. Simon liền đáp: "Thưa Thầy, chúng ta đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì nhưng vâng lời Thầy con sẽ thả lưới"… Thế rồi sau khi thả lưới xong, họ đã bắt được vô số cá đến nỗi lưới muốn rách…Thấy thế, Simon Phêrô vội quỳ sụp xuống thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là một kẻ tội lỗi" (Lc 5: 5-6,8). Nói cách khác, ngay phút giây ngắn ngủi ấy, lần đầu tiên Phêrô cảm nhận được sự thánh thiện của Chúa Giêsu.
Câu chuyện thứ hai xảy ra vào một ngày Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Ngài dẫn theo Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bỗng nhiên khuôn mặt Ngài sáng chói như mặt trời và một cụm mây phủ rợp trên Ngài. Thánh sử Matthêu mô tả sự kiện xảy ra tiếp sau đó. "Từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, hãy nghe lời Ngài". Khi các môn đệ nghe thế họ liền sấp mình xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi (Mt 17: 5-6). Trong phút chốc ngắn ngủi ấy Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được lần đầu tên chiều kích thâm sâu của Chúa Giêsu. Họ sẽ không bao giờ quên được phút giây đó.
Nhiều năm về sau, thánh Phêrô nhắc lại Kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt vẻ oai nghi của Ngài, đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi được ở cùng Ngài trên núi thánh" (2 Pr 1: 16,18)
Ngày nay vẫn có nhiều người cảm nhận được Kinh nghiệm của Gioan Tẩy giả khi còn trong bụng bà Elizabeth, Kinh nghiệm của thánh Phêrô trên bãi biển và Kinh nghiệm của ba thánh tông đồ trên núi. Trong quyển tự thuật nhan đề "The Seven Storey Mountain" (Ngọn núi bảy tầng) Thomas Merton, một tác gỉa vĩ đại từng là người trở lại đạo Công giáo, đã mô tả kinh nghiệm của ông về Chúa Giêsu vào những năm cuối thời niên thiếu của mình.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, Thomas một mình đi du lịch quanh Âu Châu. Trong những chuyến đi này, chàng trai khám phá ra những ngôi giáo đường hùng vĩ của Âu Châu với những pho tượng gây cảm hứng và những cửa sổ muôn màu. Thomas ghi lại: "khám phá này thật diệu kỳ… tôi bắt đầu lui tới các nhà thờ … lần đầu tiên trong đời tôi khám phá ra đôi điều về Đấng mà mọi người gọi là Đức Kitô, và quan trọng hơn nữa, tôi bắt đầu cảm nghiệm được chính Đức Kitô đang hiện diện trong các ngôi nhà thờ ấy".
Cảm nghiệm về Đức Kitô hiện diện không máy móc nào có thể chế tạo được, không một máy tính nào có thể lập chương trình được, và cũng không thể cứ ước muốn là được, chẳng ai có thể tạo ra cảm nghiệm này được ngoài Đức Kitô. Vì đây chính là quà Ngài ban tặng. Chúng ta chỉ việc mở rộng lòng ra lãnh nhận và Mùa vọng nhằm giúp chúng ta làm việc này. Đây là lúc chính chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình để đón chào Chúa Giêsu đến trong đời sống chúng ta. Có lẽ chúng ta chưa bao giờ có được cảm nghiệm mãnh liệt giống như thánh Gioan tẩy giả khi còn trong bụng mẹ, hay cảm nghiệm giống như thánh Phêrô trên bờ biển, hay cảm nghiệm của ba tông đồ trên ngọn núi, hoặc cảm nghiệm của Merton trong các giáo đường Châu âu. Nhưng chúng ta cũng biết chắc rằng nếu chúng ta tự chấn nhỉnh mình để chờ đón Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết tiếp tục mở rộng tâm hồn ra cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến, lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Đó chẳng phải là một cảm nghiệm mơ hồ, chóng qua mà là một cảm nghiệm gặp gỡ tận mặt trên cõi trời. Và khi cảm nghiệm gặp tận mặt này xảy ra, chúng ta cũng sẽ thấu hiểu được chân lý sống động từng được thánh Phaolô ghi nhận "Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài những điều mắt chưa hề thấy, tai chừa hề nghe, tâm hồn chưa hề cảm nhận. Đó chính là những điều Ngài đã mặc khải cho chúng ta qua Thánh Linh của Ngài" (Lc 2: 9-10).
22. Dấn thân
Chúa nhật III Mùa vọng, lời Chúa giới thiệu cho chúng ta chân dung Gioan Tiền Hô với lời mời gọi tha thiết hãy thay đổi. Hôm nay, Chúa Nhật IV, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria với sứ điệp phụng vụ: Hãy dấn thân.
Bước chân đời thường
Tôi quan sát một người nông dân ra đồng để thăm ruộng lúa. Tôi bắt gặp một người ra siêu thị mua thức ăn cho bửa cơm của gia đình. Tôi gặp anh công nhân đến xưởng hằng ngày. Tôi cũng thường thấy rất nhiều khuôn mặt thân quen hằng ngày đi qua con phố trước nhà; đó là các em học sinh dến trường để trao dồi tri thức. Tất cả đều đi trong vội vả, họ đi một cách vô ý thức vì bước chân đã trở thành quán tính. Họ đi để hoàn tất phận vụ của cuộc đời mình. Tôi hiểu, nhưng tôi tự hỏi lòng mình. Trong những bước chân vội vã ấy, có được bao nhiêu bước chân đang tiến về phía trước vì lòng nhân ái?
Bước chân tin Mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, ai trong chúng ta cũng nhận ra bước chân của Đức Maria, bước chân của đức ái. Chúng ta cùng xem lại hành trình của Mẹ: Một hành trình dài của một người nữ có thể xem là chân yếu tay mềm, mà lại đang mang thai nữa. Mẹ phải đi trên con đường đồi núi, một quãng đường xa. Chắc chắn là rất khó nhọc, nhưng mẹ đi rất vội vàng, tình trạng xem ra cấp thiết. Thánh Luca muốn gửi cho cúng ta một thông điệp: Chúa đến, hãy đón nhận Chúa và cất bước lên đường vì nhu cầu của tha nhân. Chăm chú nhìn đôi chân của Mẹ, tôi đã thấy Mẹ bước ra khỏi Tin Mừng để đến với con người, phục vụ cho con người. Còn chúng ta, chúng ta đang sống giữa cuộc đời, chúng ta có dám lên đường vì ích lợi của người khác?
Bước chân của Kitô hữu.
Hôm nay, lúc này tôi đang tham dự thánh lễ chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng. Như Đức Maria tôi được nhận một biến cố truyền tin quan trọng trong đời. Lời Chúa là sứ điệp truyền tin. Rước Chúa vào lòng là đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Chúa đến với tôi, muốn tôi thực hiện một sứ vụ giống như Mẹ. Chúa không muốn tôi giữ Chúa cách kiên cố trong cõi lòng mình. Từ nơi tôi Chúa muốn đến với người mẹ già mà tôi bất kính, người phối ngẫu mà tôi không còn có thể yêu thương, người hàng xóm mà tôi vừa gây một mối bất hoà, người nghèo khổ mà tôi lạnh nhạt, hửng hờ. Chúa muốn tôi giống Mẹ Maria bước chân ra khỏi những trang sách Tin Mừng, ra khỏi nhà thờ sau khi tham dự thánh lễ Chúa Nhật để đến với tha nhân, dấn thân trong việc bác ái.
Thánh Luca cho ta hay sau lời chào của Bà Elizbeth, Mẹ Maria hân hoan trong lòng, cất lời Magnificat ca tụng Thiên Chúa. Hãy theo gương Mẹ, hãy làm một việc bác ái cụ thể nào đó một cách có ý thức. Tôi chắc rằng bạn cũng sẽ nhận được niềm vui thiêng liêng tuyệt vời.
Chúc bạn có được một màu Giáng Sinh với nhiều niềm vui: vui trong chúa và vui với tha nhân.
23. Chân tướng Đức Giêsu Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?
I. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria
Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.
Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.
Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.
II. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể
“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).
Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.
Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
III. Đức Giêsu là ai?
“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).
Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.
Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?
24. Chúa viếng thăm
(Suy niệm của Lm. Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người đời như muốn làm cho biến cố hồng phúc cứu độ này thành một thứ lễ hội với đủ thứ trang trí và hoạt động náo nhiệt, rộn ràng...
Không như cách thức thế gian, người tín hữu háo hức chờ đợi và hướng đến đêm hồng phúc bằng thái độ đức tin được hướng dẫn bởi lời Chúa thuật lại cuộc viếng thăm của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a dành cho gia đình bà chị họ Ê-li-sa-bét.
Thoạt nghe thì đây là cuộc viếng thăm giữa hai chị em, giữa hai bà mẹ đang mang thai, nhưng sâu xa thì đây là cuộc Thiên Chúa viếng thăm dân của Người.
I. CHÚA CHA
Số là bà Ê-li-sa-bét từng mang tiếng là hiếm hoi. Bà đã đến tuổi cao niên mà chẳng có được một mụn con. Thế nhưng trong lần vào đền thờ để lo việc tế tự theo phiên của nhóm mình, ông Gia-ca-ri-a, chồng của bà đã được sứ thần Gáp-ri-en báo tin sau thời gian phục vụ ở đền trở thờ về ông và bà sẽ có con; và hiện nay bà Ê-li-sa-bét đang cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả (x. Lc1, 5-25).
Phần Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, một thiếu nữ không hề biết đến chuyện vợ chồng, nhưng do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ cũng đang cưu mang Người Con vĩ đại. Người là: Con Đấng Tối Cao, là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa, sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến vô cùng vô tận (x. Lc 1, 30-35).
Cả hai người phụ nữ đều nhận được sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa và đã bày tỏ lòng tin:
- Được cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả, bà Ê-li-sa-bét cảm nhận chính Thiên Chúa đã viếng tăm cuộc đời của bà, đã thương giải thoát bà khỏi nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt mọi người (x. Lc 1, 25).
- Được cưu mang Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Trinh Nữ Ma-ri-a đã thưa vâng và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa đã làm Chúa Người những điều cao cả (x.Lc 1, 46-55).
Như vậy, cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ đang mang thai là dấu chứng quyền năng Thiên Chúa viếng thăm và can thiệp trên con người "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1, 37).
II. CHÚA THÁNH THẦN
Hai người mẹ tràn đầy ân sủng và tìm đến nhau. Cùng với sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần đã ban niềm vui, sự hân hoan sốt sắng lạ thường cho gia đình bà Ê-li-sa-bét:
- ban tình yêu để bà vui vẻ đón tiếp Thân Mẫu Thiên Chúa.
- soi sáng cho bà nhận biết ân huệ của người em họ và hồng ân nơi Người Con của Đức Trinh Nữ "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc" (Lc 1, 42),
- thúc đẩy để bà thốt lên lời chân thành "bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" (Lc 1, 43).
- hướng dẫn để bà xác tín phẩm chức của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là "Thân Mẫu Chúa" (Lc 1, 43).
- tràn ngập trên người con của bà tuy mới chỉ là một thai nhi nhưng đã "nhảy lên vui sướng" (Lc 1, 43)..
Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt gia đình bà E-li-sa-bét nhận biết chương trình của Thiên Chúa " không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải Thần Khí của Thiên Chúa" (1 Cr 2, 11). Trong chương trình ấy, con người gặp gỡ Đấng Cứu Thế.
III. CHÚA GIÊ-SU
Thân mẫu Thiên Chúa đã viếng thăm người chị họ đang mang thai người con trai sẽ được đặt tên là Gio-an. Cùng đồng hành với Đức Trinh Nữ là người con đang được cưu mang trong dạ Ngài sẽ được đặt tên là Giê-su.
Gio-an nghĩa là được Thiên Chúa thương, được Thiên Chúa cứu.
Giê-su nghĩa là Đấng Cứu Thế.
Vậy, bên ngoài là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, nhưng sâu xa là cuộc gặp của hai người con. Đấng Cứu Thế gặp gỡ con người được Chúa thương. Đấng Cứu Thế hạ mình thẳm sâu nương nhờ trong lòng người mẹ nhân loại để con người được Chúa xót thương "nhảy lên vui sướng" (Lc 1, 43).
Thực thi thánh ý Chúa Cha (x. Dt 10, 7), Chúa Giê-su Cứu Thế đã viếng thăm dân của Chúa. Người sẽ dựa vào uy lực và uy danh Đức Chúa, đem lại hòa bình (x. Mk 5, 3- 4) giải thoát dân Người khỏi quyền lực của sự dữ, khỏi sự chết, khỏi mọi nỗi ô nhục mà đưa vào vương quốc vĩnh cửu vô biên, đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương công lý và bình an... hầu hưởng niềm vui hạnh phúc, niềm vui được cứu độ.
Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người thế gian đang chờ đợi một lễ hội; người tín hữu xác tín về Thiên Chúa viếng thăm cứu độ dân của Người trong sự cộng tác của một nhân vật tuyệt vời: Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Nhờ Mẹ, người tín hữu thấm sâu chương trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha quyền năng, với Người "không có gì là không thể làm được". Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn cho con người nhận biết Thiên Chúa. Trong hành trình ấy, con người gặp gỡ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa làm người để cứu độ con người thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta.
Niềm vui giáng sinh là vậy!
25. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Trong Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm những gương mẫu sống đức tin, đón chờ Chúa đến và sống niềm trông chờ đó, đó là Gioan Tiền Hô và Đức Maria,...Trong Chúa nhật thứ tư này, Giáo hội mời chúng ta chiêm ngắm và học hỏi sứ điệp sống yêu thương nơi Đức Mẹ
Sau biến cố truyền tin, được biết về chị họ Ysave son sẻ mà đang cưu mang Gioan Tiền Hô, Mẹ Maria mau mắn lên đường thăm chị họ. Mẹ không nghi ngờ lời sứ thần, cũng không phải để kiểm chứng lời sứ thần. Mẹ ra đi trong niềm vui, trong niềm tin tưởng, niềm phấn khởi lạc quan. Hơn nữa, Mẹ không ngại khó khăn đường xa đến thăm chị vì Mẹ muốn đến chung vui với chị họ, Vả lại Mẹ còn biết người chị họ cần sự giúp đỡ trong thời gian này. Thái độ mau mắn, không quản ngại đường xa của Mẹ Maria giúp chúng ta nhìn ra tâm hồn bác ái bén nhạy nơi Mẹ trước những nhu cầu của người khác. Mẹ đã thể hiện tình yêu bằng việc ra đi trong thái độ mau mắn. Sự hiện diện của Mẹ không chỉ hạn hẹp trong những giúp đỡ phần xác nhưng còn mang lại hoa trái thiêng liêng: Chị họ Isave ngập tràn niềm vui trong Thánh Thần. Còn trẻ Gioan thì nhảy mừng vui ngay trong lòng mẹ: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm...Tâm hồn bác ái bao la của Mẹ, thật xứng đáng là ngai tòa cho Con Thiên Chúa ngự đến.
Khi nhìn lại mẫu gương quảng đại của Mẹ Maria, chúng ta rút ra cho mình những bài học.
Thứ nhất do chúng ta chưa yêu người đủ. Chưa yêu tha nhân thì không thể đến với tha nhân. Trong điều kiện ngày nay, chúng ta có thể đi được nhiều nơi, gặp gỡ được nhiều người, nhưng chúng ta còn ngại đến với tha nhân. Có biết bao nhiều người đang nghèo đói... chung quanh chúng ta. Vì chúng ta chưa chịu đến với họ do chúng ta chưa nhận ra sự nghèo khổ của cõi lòng mình nên không dám tiếp xúc, đến gần những người nghèo khổ chung quanh chúng ta, họ đói rách, thiếu ăn, thiếu mặc hay ngay cả những người đang đói khát niềm tin, chân lý, sự thiện,...để biết góp phần từng giải quyết những bế tắc của anh em và đem lại cho những người chúng ta gặp gỡ niềm tin tưởng và niềm hy vọng để vui sống.
Thứ hai chúng ta chưa yêu người cho đủ. Bởi vì yêu là liễu lĩnh, không tính toán, là quên mình phục vụ anh em để tình yêu được triển nở, được có cơ hội thăng tiến. Từ đó chúng ta có đủ can đảm để biết mạnh dạn yêu thương, sẳn sàng tha thứ và biết chấp nhận sự thiệt thòi vì mình muốn cho đi, mình muốn tha nhân được lợi ích của sự hy sinh và trao ban.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có biết bao cơ hội để đón nhận và trao ban. Khi chúng ta tra ban tình yêu,cử chỉ bác ái, yêu thương hay hành động giúp đỡ tha nhân, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác là chúng ta đón nhận chính nó, đón nhận chính điều chúng ta trao ban. Thiên Chúa mãi mãi vẫn ở bên trên, xa lạ đối với chính mình bởi vì chính chúng ta chưa thể hiện tình yêu thương và như thế chúng ta cũng chẳng cảm nhận được sự yêu thương.
Lạy Chúa, đã bao mùa vọng đến và qua đi nhưng lòng chúng con vẫn thấy lạnh lẽo. Thực ra trong quỹ đạo yêu thương của Chúa không ai bị loại trừ vì Con Thiên Chúa đến làm người để chúng con được trở nên người hơn, nên con cái của Chúa trong sự yêu thương và biết hành động bác ái, biết quảng đại và can đảm dấn thân sống cho tình yêu để sống hạnh phúc.
Xin cho chúng con biết noi gương Đức Maria, đong đầy tâm hồn bằng sự thánh thiện, ân sủng, biết mở lòng đến với người khác như Mẹ. Chỉ như thế, con đường của tâm hồn chúng con mới xứng đáng cho Chúa ngự đến trong mùa Giáng Sinh này, đem cho chúng ta nguồn bình an, hạnh phúc thật sự.
26. Niềm vui Tin Mừng – Lm. GB. Trần Văn Hào
Chia sẻ Niềm vui của Tin mừng
Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.
Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii
Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.
Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.
Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.
Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.
Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.
Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.
Kết luận
Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.
27. Cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa
Một linh mục được giáo dân mời dự tiệc tại nhà.
Trong suốt bữa tiệc, ngoài tiếng nói cười của khách, linh mục thắc mắc mãi vì có tiếng nước chảy róc rách trong nhà đâu đó. Vì là lần đầu đến nhà này, nên ngài không biết nước đó từ đâu chảy, hay là hồ nước trong nhà bị thủng...
Sau cùng, không thể giữ thắc mắc mãi, ngài hỏi người giúp bàn. Và người này lịch sự đáp: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà này, tình cờ họ khám phá mạch nước ngầm, và đó là tiếng nước chảy từ mạch nước.
Nghe nói thế, vị linh mục ngẫm nghĩ: chính nhờ mạch nước đó mà gia đình giáo dân này khá giả và ngoan đạo. (x. LMTV, Minh Họa Lời Chúa, Tập 1, tr. 63)
Nhờ mạch nước ngầm đó mà gia đình này giáo dân được sung túc. Ðiều đó làm chúng ta nghĩ ngay đến lời sứ thần chào Đức Maria khi truyền tin: kính chào Bà, Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà.
Mẹ Maria đón nhận đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ là mạch suối bắt nguồn từ Thiên Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những ai năng chạy đến với Mẹ để Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa. Vì hồng phúc, và niềm vui thánh thiện Chúa ban trong tâm hồn Mẹ mà Mẹ vui mừng, muốn được chia sẻ, muốn cao rao danh Chúa cho người khác. Vì lòng kính mến Chúa và yêu thương tha nhân tràn đầy mà Mẹ đã đến với bà Isave để giúp đỡ bà trong những ngày thai nghén.
Ðiều này cho thấy, những ai kính mến Chúa, biết mở lòng ra đón Chúa, biết cộng tác với chương trình yêu thương của Thiên Chúa thì cũng biết yêu thương tha nhân và sẵn sàng phục vụ cho lợi ích của tha nhân trong tâm tình yêu mến Chúa.
Rõ ràng, Ðức Mẹ đem Chúa đến thăm gia đình bà Isave là đem nguồn hạnh phúc đến cho gia đình Isave, khi đó, bà Isave được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần đã kêu lớn tiếng, ca khen Ðức Maria mà cũng là lời chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhờ Mẹ Maria đem Chúa đến gia đình Isave mà gia đình bà càng được chúc phúc hơn, thánh Gioan Tẩy Giả có lẽ được ơn đặc biệt ngay lúc đó nên biết nhảy mừng Ðấng Cứu Thế lúc còn trong dạ Mẹ. Chính Mẹ là mạch suối nước đem đến niềm vui thánh thiện cho gia đình Giacaria, để rồi khi nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban qua Mẹ Maria, gia đình Giacaria biết hy sinh cho Chúa, sẵn sàng dâng đứa con duy nhất của mình cho chương trình của Thiên Chúa. Chính thánh Gioan Tẩy Giả khi lớn lên đã vào tu trong hoang địa, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, để rồi khi đến thời Chúa định thì xuất thế, rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn, chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu Cứu Thế ngự đến.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã biết đáp trả hồng ân Chúa ban cho mình và đã làm chứng cho Chúa tới cùng: chịu chết vì chân lý và nêu gương yêu kính Chúa cho mọi người.
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được ban đầy hồng ân qua Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Giải Tội... và được rước Chúa vào nhà thường xuyên, chúng ta có biết nhảy mừng đón Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả, có biết đem Chúa đến cho mọi người xung quanh để họ cũng được niềm vui, cũng nhận được sự phục vụ của chúng ta. Nhờ vậy, họ nhận ra tình thương Chúa, được chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta và được phần phúc Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin giữ lời Người.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết bắt chước Ðức Mẹ đem Chúa đến cho mọi người và biết phục vụ mọi người theo ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
28. Tha nhân được chúc phúc
(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)
Người môn đệ Chúa với khoé nhìn “tha nhân là người được Chúa chúc phúc”
Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.
Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ - lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ” (xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).
Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?
Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…
Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:
1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.
2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.
3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.
4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.
Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?
Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.
Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.
Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.
Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.
Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).
Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.
29. Bước theo Mẹ
Người ta thường nói mùa vọng là mùa của Đức Trinh Nữ Maria điều đó thật chí lý. Nếu Gioan Baotixita và Isaia gương mẫu cho ta trong mùa vọng thì Đức Maria sẽ là gương mẫu tuyệt hảo hơn nữa. Mẹ không chỉ là người dọn đường mà còn là một nhân vật cần thiết cho việc nhập thể theo chương trình của Thiên Chúa an bài. Ta có thể nói được rằng, Giáo Hội tìm thấy nơi Đức Maria thái độ thiêng liêng để cử hành và sống các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm nhập thể. Vì Đức Maria là mẫu gương biết lắng nghe Lời Chúa và rao giảng lời Người.
1. Lắng nghe lời Chúa với niềm tin mãnh liệt
Có thể tóm lại cuộc đời Đức Mẹ với hai chữ "Fiat". Nhưng để đạt được hai chữ này cách trọn vẹn, đòi hỏi nơi Đức Maria niềm tin mãnh liệt. Tương tự thời Cựu Ước tổ phụ Áp-ra-ham muốn có một dân tộc đông như sao trên trời, như cát bãi biển, có miền đất hứa làm gia nghiệp thì cũng phải có niềm tin. Đức tin là điều kiện cần, vì nó vừa là khởi điểm vừa là con đường đưa Đức Maria tới địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì theo lời thánh Augustinô"Đấng mà Mẹ Maria sinh hạ trong đức tin, cũng là Đấng Ngài cưu mang trong đức tin nữa". Với một niềm tin sâu xa Mẹ đã đáp lại lời sứ thần Gabriel rằng "Đây tôi là nữ tỳ của Chúa xin làm cho tôi như lời sứ thần đã nói". Thế là từ đấy người nữ tỳ Maria hiển nhiên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nếu nhìn thân sâu hơn, ta thấy Đức Maria đã cưu mang Chúa bằng đức tin nơi tâm hồn trước khi cưu mang thân xác Ngài trong lòng dạ mình bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì đức tin đó mà Mẹ được gọi là diễm phúc "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em". Như vậy nhờ đức tin, Maria đã đóng vai trò chủ động và chứng nhân trong cuộc nhập thể. Hơn nữa, Đức Maria còn ghi sâu những việc xảy ra để suy niệm trong lòng. Mùa vọng là mùa trông chờ Chúa đến, thì Đức Maria là gương mẫu tuyệt vời, Mẹ đã tiếp nhận Chúa, tin tưởng và phó thác. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm trạng như Đức Maria trong mùa vọng này, và tin nhận những lời Chúa hứa đã và đang thực hiện ngay trong đời của mình.
2. Con người truyền giáo
Việc Mẹ Maria lên đường thăm người chị họ là điều rất tự nhiên, và cũng muốn giúp đỡ người chị họ trong lúc sinh nở là điều bình thường. Nhưng đàng sau cái bình thường đó là cả một sự phi thường, một sáng kiến và quyết định cá nhân có sự hướng dẫn của Thánh Thần. Chỉ cần một lời tiên báo của Sứ Thần cộng với ơn thánh đã thúc đẩy Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Đặc biệt bài phúc âm nói đến hai từ "vội vã" để nói lên một hành động cấp bách và dứt khoát. Một khi đã ưng thuận Thánh Ý Chúa, vâng theo tiếng gọi của Ngài, thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lạnh lẹ. Qua Bí Tích Rửa Tội mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến cho người khác. Con đường truyền giáo cần những con người nhiệt thành, với những bước chân nhanh nhẹn và một tinh thần cởi mở, dầu trên con đường có nhiều khó khăn.
Việc Mẹ là một thiếu nữ trẻ tự ý làm một cuộc hành trình dài 3 ngày đường, rồi còn ở lại đó mấy tháng trời xa nhà, hẳn phải là một cái gì đó gây kinh ngạc cho người Do Thái thời đó, và có thể bị coi là quá đáng. Nhưng Đức Maria đã bất chấp tất cả, những cái nhìn phàm trần đó một khi đã muốn thực hiện Thánh Ý Chúa. Ngày nay những cái nhìn khó chịu, những lời nói mỉa mai, những hành động khiu khích.... Cũng nhan nhãn nhằm chống đối những con người truyền giáo. Vì thế chúng ta hãy học theo mẫu gương Mẹ Maria chấp nhận tất cả, cũng như Mẹ ngày xưa cũng phải chịu rất nhiều đau khổ khi chấp nhận thi hành Thánh Ý Chúa. Vì khi bước theo Chúa chính là chấp nhận vác thánh giá với Người. Mỗi người đều được Chúa mời gọi và đều được Chúa ban cho Thánh Giá, tùy vào hoàn cảnh tùy vào khả năng. Nhưng điều quan trọng là phải biết thưa "Xin vâng" và thì hành với tinh thần "Vội vã" lên đường như Đức Maria hôm nay, để cùng đem Chúa đến cho người khác trong Mùa vọng này.
Lạy Chúa, ngày nay có rất nhiều người chỉ biết hưởng thụ, mà không biết phục vụ, chỉ nhận mà không biết cho. Xin cho mỗi người chúng con biết rằng mình đã nhận rất nhiều nơi Chúa. Đặc biệt là chính Chúa để chúng con cũng biết đem Chúa đến cho người khác. Amen.
30. Chia sẻ niềm vui
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP)
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa Vọng, có ba nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến, đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Thiên sai sẽ đến. Đó là thánh Gio-an Tiền Hô, người mở đường và dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến. Nhân Vật quan trọng thứ ba là Đức Maria, qua Mẹ, Đấng Thiên sai đã đến trần gian, và nhờ Mẹ, ơn cứu rỗi bắt đầu được thực hiện. Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của I-sai-a, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gio-an Tiền Hô, và hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, chúng ta quen gọi theo ảnh hưởng của các cố Tây Ban Nha là bà I-sa-ve.
Khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ biết: Đức Mẹ rất có phúc vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa: "Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Khi được sứ thần cho biết như thế, sau đó ít ngày, Đức Mẹ đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét và ở lại giúp đỡ ba tháng. Những lý do nào đã thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét?
Lý do đơn giản trước nhất là Đức Mẹ đã coi những lời sứ thần báo tin về bà chị họ là một lời mời thăm viếng, hỏi thăm. Thứ hai, có thể Đức Mẹ đi để kiểm điểm, xem xét dấu chứng mà sứ thần đã đưa ra, đó là việc bà Ê-li-sa-bét có thai có đúng không? Tuy nhiên, làm thế không có nghĩa là Đức Mẹ hồ nghi lời sứ thần truyền tin cho mình. Bởi vì Đức Mẹ đã thưa: "Xin vâng", tức là Đức Mẹ đã tin rồi. Thứ ba, có thể Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui và có dịp cùng bà chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả hai đều được hưởng đặc ân Thiên Chúa. Lý do thứ tư, lý do chính, là lòng bác ái, yêu thương của Đức Mẹ. Lòng tốt, bác ái, giúp đỡ, chia sẻ... đã thúc bách Đức Mẹ lên đường. Bởi vì gia đình bà Ê-li-sa-bét neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng thai nghén và trong thời gian sinh hạ.
Mẹ Maria đi thăm gia đình Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, Mẹ đã quên mình ra đi đem niềm vui cho người khác. Vì thế, có thể nói Mẹ ra đi truyền giáo. Đức Mẹ đã là một nhà truyền giáo đầu tiên, là đem Đấng Cứu thế đến cho bà chị họ và riêng cho Gio-an Tiền Hô. Vì thế, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ. Tóm lại, Mẹ đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho Mẹ niềm vui.
Đức Mẹ đã quên mình ra đi, đem niềm vui cho người khác. Đó cũng là bổn phận của chúng ta. Chúng ta sống với nhau, chúng ta hãy là một ánh bình minh gieo vui nắng ấm tình thương, đức tin, hy vọng cho những người chung quanh, nhất là những người đang gặp u buồn tăm tối. Phải biết vui với người vui, khóc với người khóc. Xin Chúa cho chúng ta, bất cứ đi đâu, đến đâu, gặp ai, họ đều nhận được nơi chúng ta niềm vui.
Trong việc đi thăm và ở lại ba tháng giúp đỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét, chúng ta thấy có năm đặc tính trong đức bác ái của Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ để ý đến nhu cầu của người bà con, để ý đến hoàn cảnh gia đình bà Ê-li-sa-bét cần sự thăm hỏi, giúp đỡ. Thứ hai, dù là chỗ họ hàng, mà chỉ là họ hàng xa, không bó buộc theo phong tục thăm viếng, giúp đỡ, nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình. Bởi vì bác ái thì không phân biệt xa hay gần, thân hay sơ. Thứ ba, Mẹ không quản ngại đường sá xa xôi, nguy hiểm và vất vả. "Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông". Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm, nhưng nếu vì bác ái, vì lòng người đã quyết thì khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Đức Mẹ là người đã có tấm lòng như thế. Thứ tư, Mẹ kiên tâm giúp đỡ suốt ba tháng trời. Đó là bác ái cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương bằng lời nói thì có thể bị coi là đầu môi chót lưỡi. Bác ái yêu thương trong lòng thì thiêng liêng vô hình, không cảm nhận được. Nên giúp đỡ, chia sẻ cụ thể là bằng chứng lòng yêu thương rõ ràng nhất. Đức Mẹ đã làm như thế. Thứ năm, Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, nhất là cho Gio-an Tiền Hô, nên Gio-an đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Mẹ đã đem ơn Chúa đến cho người khác.
Đây cũng là bài học Đức Mẹ dạy chúng ta. Vì thế, khi suy niệm mầu nhiệm thăm viếng này, Giáo Hội bảo chúng ta hãy học gương yêu người của Đức Mẹ. Chung quanh chúng ta hay gia đình họ hàng chúng ta có rất nhiều dịp đòi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người đang cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Tóm lại, chúng ta hãy sống với nhau bằng tình người chứ đừng vì lý lẽ này hay lý do nọ, vì bác ái yêu thương thì không có giới hạn hay bất cứ một phân biệt nào.
Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tình liên đới với nhau. Biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta biết chia sẻ và thông cảm với nhau một cách tươi vui, với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính, không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn chúng ta chia sẻ vì những hậu ý đen tối, chẳng hạn như để thỏa mãn cái tôi tự tôn hay tính khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo của chúng ta. Thánh Phao-lô đã dạy: "Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình. Không cau có, không tính toán, không miễn cưỡng, vì khi chúng ta vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời".
Chúng ta không có đủ khả năng hay điều kiện để đáp ứng mọi nhu cầu của anh chị em chung quanh. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ của chúng ta: Những nụ cười cảm thông, những lời nói khuyến khích, những lời hỏi thăm chân tình...đó là những điều ở trong tầm tay của chúng ta. Có những người không cần chúng ta chia sẻ giúp đỡ về tiền bạc vật chất, chỉ cần chúng ta chia sẻ những niềm vui nho nhỏ trên đây.
31. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình (Lc 1,56).
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.
Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…”(Eph 1,3-14).
Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.
Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại, thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.
Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x. St 12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).
Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:
- Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.
- Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?
Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc 1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).
Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.
32. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Anh chị em thân mến.
Nước Việt Nam chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc nghiệt, chính vì thế nên năm nào cũng có những trận bão lụt, khiến cho người người phải vất vã khó khăn hơn. Như vừa qua, cơn bão đã ghé thăm miền trung của chúng ta, cơn bão bất ngờ gây thiệt hại rất nhiều về tài sản và người, khiến cho cả thế giới phải động lòng, tìm mọi phương cách để giúp đỡ những người đang trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta thử suy nghĩ: Nếu người cho mà không có người nhận, thì việc làm của họ sẽ trở nên vô ích. Còn người cho, mà thấy người nhận thật sự cần thiết và đang trong tình trạng chờ đợi, thì việc làm đó mới là một việc làm có ích lợi thật sự, và mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Việc làm này mang lại niềm vui cho cả hai bên, người cho lẫn kẻ nhận: vì người cho thấy mình đang thực hiện một việc làm có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho bao nhiêu người đang cần thiết và chờ đợi. Còn người nhận thì vì tình trạng đang thiếu thốn, đang chờ đợi có người giúp đỡ, để vượt qua được tình trạng khó khăn hiện tại mà mình đang bất lực. Một việc làm mà đem lại niềm vui cho cả hai bên: người cho lẫn kẻ nhận.
Mẹ Maria đã nhận ra điều đó, nhận ra được niềm vui Thiên Chúa mang đến cho mình, đồng thời cũng nhận ra được nhu cầu của người khác đang cần đến niềm vui mà Mẹ đang tận hưởng, nên Mẹ không thể ngồi yên. Mẹ vội vã lên đường đáp ứng nhu cầu cho người khác đang cần đến. Việc phục vụ sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn về hoàn cảnh, địa hình. Nhưng Mẹ vượt qua tất cả, cho dù sức lực yếu đuối, Mẹ cũng vượt qua đồi núi, địa hình hiểm trở, để mang niềm vui cho người cần đến. Người cần cũng biết đón nhận, nên niềm vui được nhân đôi. Chúng ta thấy bà Elisabeth vui mừng vì nhận ra được niềm vui mà bà đang cần thiết và chờ đợi. Bà cũng không thể lặng thinh, bà đã cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ người mang niềm vui bất ngờ đến cho mình. Đó là cách bà biểu lộ niềm vui đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Biết bao người đã từng lãnh nhận, không phải một lần, mà rất nhiều lần những ân huệ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không có được niềm vui, vẫn không tỏ lộ một cử chỉ cảm tạ nào, vẫn không bằng lòng với những gì mình đã nhận được. Cũng có rất nhiều người không bao giờ biết bước chân ra đi, không bao giờ biết mang những gì mình có để tạo niềm vui cho mình và cho người khác. Chính vì thế họ luôn lo sợ, khó chịu và không bao giờ bằng lòng với cuộc sống, vì họ chỉ biết lo cho mình mà không bao giờ dám nhìn thấy nhu cầu của bao người chung quanh, chính vì thế không bao giờ họ có niềm vui. Không muốn cho người khác niềm vui, đó cũng chính là không biết chờ đợi và đón nhận niềm vui.
Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, những người đang lắng nghe, những người đang nhìn thấy những diễn biến của thời đại. Nhưng không biết chúng ta có nghe và thấy được những gì cần thiết hay không? Chúng ta có thấy được nhu cầu của bao người chung quanh, chúng ta có thấy được sự chờ đợi mỏi mòn của những người đang thống khổ để đáp ứng không?
Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng lòng nhân ái để đến với họ và nói lên những lời yêu thương, những lời tha thứ. Họ đang chờ đợi ánh mắt dịu hiền hòa nhã, để họ có được niềm vui trong cuộc sống. Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng đôi tay để cho họ những gì cần thiết. Họ cũng đang chờ đợi những bước chân đi tới của chúng ta, để ban cho họ niềm vui, đồng thời chúng ta cũng nhận được niềm vui, vì thấy mình làm một việc có ý nghĩa. Nếu chúng ta thấy và đáp ứng được những nhu cầu như thế cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã học được bài học của Mẹ Maria là biết đem niềm vui đến cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng học được bài học biết ơn, cảm tạ vì biết đón nhận Hồng Ân Thiên Chúa mà bà Elisabeth đã làm. Thiên Chúa đã đem Hồng Ân đến cho ta rất nhiều, nhưng chúng ta nhận ra được bao nhiêu lần, để biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Những lần nhận được niềm vui bất ngờ, những lần may mắn, đời sống hằng ngày được nhiều điều tốt đẹp, những người chung quanh yêu mến giúp đỡ. Đó là những lần Chúa thăm viếng và mang niềm vui đến cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sáng suốt, nhìn thấy nhu cầu của người chung quanh, để biết đáp ứng và đem niềm vui cho người khác, đồng thời cũng nhận ra được niềm vui mà Thiên Chúa ban cho.
33. Chân dung Đức Maria
(Suy niệm của Lm. Phêrô Phan Văn Lợi)
Dịp lễ Giáng sinh, một nữ sinh nội trú kia xin mẹ cô một chiếc gương lớn và đẹp. Bà mẹ gởi đến cho cô một bức ảnh tuyệt xinh của Đức Trinh Nữ. Bức ảnh được đóng khung kỹ càng và có ghi dòng chữ như sau: "Đây sẽ là tấm gương soi của con mỗi ngày!" Món quà này gây ấn tượng mạnh lên thiếu nữ. Và từ đó, cứ mỗi buổi tối, cô quỳ xuống trước bức ảnh Đức Mẹ và hỏi: "Má ơi, hôm nay con có làm vui lòng Má không? Con đã noi gương Má ở điểm nào?"
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, cũng ở ngưỡng cửa ngày Giáng sinh, phác họa cho chúng ta chân dung của Đức Maria cũng để chúng ta soi vào. Khuôn mặt của Thân Mẫu Chúa hiện lên trên nền của một ngôi làng vô danh thuộc "miền núi Giuđa", được truyền thống Kitô giáo đồng hóa với làng Ain Karim (suối nước của vườn nho), cách Giêrusalem vài kilômét. Và người vẽ khuôn mặt đó chính là bà Elisabét. Qua những lời ca của bà, đã hiện lên chân dung có thể nói là chính xác và sống động nhất về Mẹ. Chúng ta sẽ dừng lại trên những lời này. Rồi cũng tại đây, chúng ta sẽ thấy tâm hồn Mẹ qua bài ca tuyệt diệu của Mẹ, bài ca ngợi khen vị Thiên Chúa của những kẻ nghèo khó, rốt cùng, hèn mọn, bị áp bức.
1. Hạnh phúc vì được chúc lành
Những lời của Elisabét nói cho đúng chẳng phải là một bài ca, tuy nhiên vẫn chứa đựng một đoạn thánh thi xây dựng trên một lời chúc tụng và một mối phúc: "Em được chúc tụng hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng đáng chúc tụng... Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!". Đây là một thánh thi mini, rất mạnh mẽ sống động; đàng khác, nó còn mang tính "tiên tri": Luca đã nhấn mạnh rằng khi thốt lên nó, Elisabét "được đầy Thánh Thần", Đấng từng tác động các ngôn sứ trong lời loan báo của họ.
Bài ca khai mở với lời "chúc tụng" mà sau đó đã được đưa vào kinh Kính mừng. Lấy lại một kiểu nói dùng trong Cựu Ước cho những phụ nữ vĩ đại như Đêbôra và Giuđitha, Êlisabét biểu dương chức làm mẹ thần linh của Maria như dấu chỉ cao nhất của việc Thiên Chúa "chúc lành", nghĩa là hiện diện và hành động giữa chúng ta cũng như bên trong lịch sử chúng ta. Đối với Thánh Kinh, phúc lành được bày tỏ đặc biệt trong sự sống và sức sinh sản; nơi Đức Maria đã xuất hiện Sự Sống tuyệt hảo xóa bỏ sự cằn cỗi và chết chóc. Mẹ quả là một phúc lành của trời cao!
Bài ca của Elisabét tiếp tục với một chuyển động thứ hai, cũng là chúc tụng, nhưng dưới dạng câu hỏi, một câu hỏi long trọng, có lối ám chỉ rất mãnh liệt đối với người hiểu biết Cựu Ước: "Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" Tư tưởng này gợi nhớ một đoạn Kinh Thánh thời danh liên quan đến việc việc chuyển hòm bia giao ước về Giêrusalem, thủ đô mới của Đavít: "Hòm bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?" (2Sm 6,9). Vậy việc Đức Maria viếng thăm được trình bày như hòm bia mới của Đức Chúa đến. Và như hòm bia ở nhà ông Ôvết Êđôm đã mang lại phúc lành cho nhà ông (x. 2Sm 6,11-12), Đức Maria cũng là phúc lành mang đến cho ngôi nhà nhân loại và cho ai đón nhận Mẹ vào nhà mình.
Tước hiệu Đức Maria nhận từ Êlisabét -"Thân Mẫu Chúa"- rõ ràng là tước hiệu cao nhất và đúng nhất, như sẽ được tuyên bố trong Công đồng Êphêsô năm 431. Thánh Ambrôsiô đã viết: "Đức Maria không phải là Thiên Chúa trong đền thờ nhưng là đền thờ của Thiên Chúa". Chính vì thế truyền thống Kitô giáo sẽ biểu dương Mẹ như là "Sion mới" và "Hòm bia Giao ước mới" ("Đức Bà như Hòm bia Thiên Chúa vậy". Kinh cầu).
2. Hạnh phúc vì được tin Chúa
Cuối cùng, bài ca của bà Êlisabét nói lên một "mối phúc", mối phúc đầu tiên của Tin Mừng: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!". Đây là tiếng kêu sẽ trở thành dây dẫn (sợi chỉ đỏ) của cả một thông điệp về Đức Maria của Đức Gioan-Phaolô II: Mẹ Đấng Cứu Thế. Quả thế, trong thông điệp này, Đức Thánh Cha có viết: "Trong câu Em thật có phúc vì đã tin được bà Êlisabét thốt lên, chúng ta gần như có thể tìm thấy một chìa khóa mở cho chúng ta thấy thực tại thâm sâu của Đức Trinh Nữ".
Đức Maria là tín hữu tuyệt hảo, khác với ông Dacaria cứng lòng, cha của vị Tẩy giả. Việc mang thai Hài nhi là do tác động của Thánh Thần, bởi đó vượt quá các quy luật sinh lý đơn giản của máu thịt và phải được hiểu cùng đón nhận trong đức tin, kể cả từ phía Đức Maria. Quả thế, đối với Luca, Mẹ sẽ trở thành biểu tượng của đức tin vì "hằng ghi nhớ mọi sự ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng". Đức Maria kết hợp nơi mình hai mối phúc mà thoạt nhìn có vẻ tách biệt nhau, hai mối phúc mà một ngày kia sẽ lại vang dội trong đời Đức Giêsu. Lúc ấy, một phụ nữ trong đám đông đã kêu lên: "Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!". Và Đức Giêsu đã đáp lại: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" (Lc 11,27-28). Trong Đức Maria cả hai mối phúc này đan vào nhau vì Mẹ sinh Đức Kitô cách thể lý, sau khi mang trong dạ, nhưng cũng đón nhận Người trong đức tin như là sự hiện diện của Thiên Chúa và là Lời thiện hảo của Thiên Chúa.
Đức tin vào những chuyện phi thường vừa xảy ra (Mẹ mang thai cách mầu nhiệm, bà chị họ mang thai cách lạ lùng) khiến một niềm vui to lớn tràn ngập Mẹ, thúc đẩy Mẹ, niềm vui được tin, niềm vui được đi vào thời cứu độ và được làm người khai mở thời này: "Tôi là nữ tỳ của Chúa".
Như đã bừng sáng niềm vui được chúc phúc, cuộc Thăm viếng cũng bừng sáng niềm vui được tin. Bà Êlisabét tới tấp thốt lên những tiếng hân hoan vui mừng như đã thấy. Rồi Đức Maria sẽ dùng kinh Magnificat, bài ca hân hoan của mình để đáp lại.
Niềm vui rất đặc biệt ấy của đức tin, Luca cho thấy bắt nguồn từ đâu: Thần Khí. Thần Khí đã đến trên Đức Maria, ngập tràn bà Êlisabét, và vào dịp Hiện xuống, sẽ đổ đầy các Tông đồ. Người ngập tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Mêsia mà chẳng có người Do thái nào đã có thể tưởng tượng: Con Thiên Chúa, được Người ban tặng cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tùy thuộc sức mạnh của xác tín này. Chúng ta sa lầy trong nhiều chuyện phụ thuộc, chúng ta tranh luận giữa kitô hữu với nhau vì những chi tiết thay vì cảm nghiệm tới cùng và lan truyền điều chủ yếu, mạc khải kỳ diệu: Hài nhi sắp sinh bởi Đức Maria là Con Thiên Chúa. Một bài ca khác sẽ bật lên sau bài Magnificat: đó là bài Benedictus: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israen, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người" (Lc 1,68).
Thiên Chúa thân hành viếng thăm chúng ta! Có lắm điều phải tin: cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể, việc tha thứ tội lỗi, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và sự chết... Nhưng chúng ta sẽ tin dễ dàng và vững chắc vào tất cả những điều đó nếu bám rễ trong điều khó nhất: tin Thiên Chúa đã đến trên con đường chúng ta: "Chúng tôi đã thấy các bước chân của Thiên Chúa bắt gặp các bước chân của loài người".
Để Người đến bắt chuyện với chúng ta, phải có Đức Maria đã. Không gì có thể khiến chúng ta sùng kính Mẹ hơn là thấy Mẹ hạnh phúc vì được tin và được ban tặng Hài nhi, một hạnh phúc lớn tới độ đã khiến bao niềm vui bùng vỡ. Quả vậy, nói về Đức Maria, Công đồng Vatican II đã có thành ngữ tuyệt vời này: "Mẹ đã đem Sự Sống đến cho thế gian" (Hc Giáo Hội 53). Chính cái đó đã khiến đứa con của bà Êlisabét nhảy mừng, và chính cái đó cũng khiến chúng ta nhảy mừng trước Đức Maria: Mẹ là sự Viếng thăm của Thiên Chúa, Mẹ đem đến cho chúng ta Sự Sống, vốn đã trở nên cho chúng ta sự sống của một con người.
Nếu việc tin vào điều đó khiến chúng ta hân hoan, thì chớ che khuất nỗi hân hoan này. Chớ gì trong những lần thăm viếng, khi mà sự tiếp xúc có thể thực hiện với một mức độ sâu xa nào đó, ai đó sẽ nhảy mừng khi nghe chúng ta, hay có lẽ chỉ khi nhìn chúng ta: "Lúc bạn giã từ ai sau một lần thăm viếng, làm sao để lại một cái gì đó của Thiên Chúa trong lòng họ" (Mẹ Têrêxa). Một cái gì đó của Thiên Chúa vì chúng ta thực sự sống theo tinh thần của Người chứ không phải tinh thần thế gian.
34. Đường lối Chúa.
Trong Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.
Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa cũng đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Tuy nhiên đường lối của Chúa là một chuyện, sự kêu mời của Chúa là một chuyện, điều quan trọng là chúng ta có biết cộng tác với Chúa hay không. Trong chiều hướng này, thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Bởi đó mặc dù chúng ta là những kẻ hèn kém và yếu đuối, nhưng nếu chúng ta biết xin vâng như Mẹ Maria và biết cộng tác với ơn Chúa như và Isave, Chúa cũng sẽ làm cho chúng ta những việc kỳ diện, đó là biến chúng ta trở nên người đem Chúa đến cho muôn dân.
35. Hòm bia giao ước mới
Bà Isave nói: "Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ, và con em đang cưu mang cũng thật hạnh phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm?" (Lc 3, 10)
Vua David khi chiếm được thành Giêrusalem, đã sai người đi rước Hòm Bia Giao Ước về trên một cổ xe do bò kéo. Khi tới sân lúa, bò trược chân, Hòm Bia bị nghiêng. Ông Utda vội đưa tay đỡ lấy, bị phạt chết vì ông không phải là tư tế. David nghe tin, sợ không dám đem Hòm Bia về Giêrusalem, mà phải gởi lại ở nhà Obed Êdom. Chúa đã chúc phúc cho ông và cả nhà. Hòm Bia đã ở lại đây ba tháng (2 Sam 6, 10). Câu chuyện bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay, cũng là câu chuyện gần như song song với chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Hai câu chuyện này cho ta thấy có những nét song song khá rõ rệt:
1. Cả Hòm Bia Giao Ước và Mẹ Maria, đều tiến về Giêrusalem.
2. Hòm Bia đã lưu lại tại nhà ông Obed Êdom trong ba tháng. Mẹ Maria cũng ở lại nhà Bà Isave ba tháng để giúp đỡ gia đình này.
3. Ông Obed vả cả nhà được chúc phúc. Nhà Bà Isave cũng thế: ông Zacaria hết câm khi thánh Gioan sinh ra - thánh Gioan nhảy mừng trong bụng mẹ và được khỏi tội tổ tông khi nghe lời Mẹ Maria chào - Bà Isave được tràn đầy hạnh phúc. Rõ ràng, thánh Luca muốn so sánh Mẹ Maria như là Hòm Bia giao Ước mới.
b. Hòm Bia giao Ước mới: Thánh Luca muốn nói Mẹ Maria chính là Hòm Bia mới mang Chúa Giêsu đến trong nhà Bà Isave, vì thế cả nhà nầy được chúc phúc. Mẹ Maria nếu muốn mang Chúa đến cho gia đình Bà Isave, chính vì Mẹ có Chúa ở trong mình; điều này chính là điểm căn bản Hội thánh muôn nói cho chúng ta trong chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, chúa nhật cận kề lễ Giáng Sinh. Nói một cách khác, kinh thánh muốn xác nhận cho chúng ta; Mẹ Maria chính là Hòm Bia Giao Ước mới, đã cưu mang Con Thiên Chúa trong mình, đã sinh ra Đấng Cứu thế, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa, Đấng đồng công cứu chuộc trong công trình rổi nhân loại. Đồng thời, kinh thánh cũng muốn nói: Mẹ Maria khi đi thăm Bà Isave, đã đem Chúa đến cho gia đình này; mà Chúa Giêsu, Con Mẹ, chính là nguồn ơn phúc, nên hiển nhiên gia đình này được chúc phúc. Thực ra, khi Mẹ thưa lời: " Xin vâng", đó chính là Mẹ đã sẵn sàng mang Chúa Giêsu trong mình, đồng thời Mẹ cũng sẵn sàng mang Chúa đến không chỉ cho gia đình Bà Isave, mà còn cho cả nhân loại nữa...
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
1. Qua câu chuyện hôm nay cho ta thấy, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, mỗi khi đến đâu, đều cũng là đem hạnh phúc đến cho nơi đó. Mẹ đến thăm Bà Isave, đã đem đem lại hạnh phúc cho thánh Gioan, nhờ đó ông khỏi tội tổ tông ngay trong bụng mẹ. Chúa Giêsu và Mẹ Maria là thế, còn phần chúng ta thì sao? Mỗi lần ta đến với người khác, có phài là một lần ta đem Chúa đến với họ không?
2. Mẹ Maria ở lại với Bà Isave độ 3 tháng, để giúp đở. Chúa Giêsu cũng nói:"Ta đến là để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ..." Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống phục vụ như thế. Còn ta thì sao? Ta có đến là để phục vụ người khác không?
3. Chúa Giêsu đã có mặt trong lần Mẹ Maria đi thăm Bà Isave. Chúa cũng có mặt trong lễ giáng sinh năm nay. Ngài cũng có mặt trong các Bí tích mỗi khi ta lãnh nhận, khi ta rước lễ, khi ta mở tâm hồn mình ra đón Ngài. Thực ra, ta có gặp được Chúa trong cuộc sống của ta chưa?
36. Chúa tỏ mình ra
(Suy niệm của Lm. Damien OFM)
Cuộc viếng thăm của Đức Maria hôm nay không phải là một cuộc thăm viếng bình thường giữa chị em với nhau, vì cuộc viếng thăm nầy có một tầm quan trọng đặc biệt.
Bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần.
ChúaThánh Thần soi sáng cho Isave nhận ra Con Thiên Chúa và Mẹ Người nơi Đức Maria đang mang thai. Như thế trong lịch sử cứu độ, đây là lần đầu tiên Chúa tỏ mình ra cho loài người qua Isave cũng như con bà là Gioan Tẩy giả mà bà đang mang thai: "Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi! Vì nầy tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi".
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc Chúa tỏ mình ra với loài người là rất quan trọng. Nếu Isave không đầy Chúa Thánh Thần thì cuộc viếng thăm lần nầy cũng chỉ là một cuộc viếng thăm tầm thường, vì tình nghĩa giữa hai người chị em họ với nhau mà thôi. Nhưng đây là một cuộc viếng thăm của Ngôi Hai đã xuống thế làm người và của Mẹ Người.
Luca muốn cho thấy việc Ngôi Hai xuống thế là công việc của cả Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sai Con, Ngôi Con xuống thế và Chuá Thánh Thần soi sáng cho loài người biết sự hiện diện của Ngôi Hai.
Sau nầy, trong công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng rất quan trọng:
• -Thần Khí Chúa xuất hiện khi Đức Kitô chịu phép rửa(Lc..3)
• -Thần khí dẫn Đức Giê-su vào hoang địa(Lc.4,1);
• -Thần khí Chúa ngự trên tôi(Lc.4)...
Ngày nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội, trong kẻ khác trong người nghèo, trong các biến cố..., nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu hứa với các Tông Đồ: "Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng con biết mọi sự".
Phúc cho bà là kẻ đã tin...
Lời tung hô của Isave hôm nay làm ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu nói về Đức Maria mẹ Người sau nầy, khi có người ngợi khen: "Phúc cho vú đã cho Thầy bú", Chúa trả lời: "Kẻ nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".Nhưng ai là kẻ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa hơn Đức Maria? Đức tin của Đức Mẹ là cơ sở để cho Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Đức Mẹ luôn tin và trông cậy vào lời của Chúa. Đức Mẹ đã cưu mang Chúa trong đức tin trước khi cưu mang Chúa trong lòng Mẹ.
Nếu nhờ đức tin của Đức Mẹ mà Con Thiên Chúa đên trong lòng Ngài cũng như đến với con người, thì hôm nay, muốn cho Chúa đến trong chúng ta, chúng ta cũng phải có một niềm tin như Đức Mẹ. Sống Mùa vọng là sống niềm tin vào lời Chúa. Và nếu Đức Mẹ được chúc phúc vì có Chúa Giêsu trong lòng thì, chúng ta hôm nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chuá chúc phúc khi chúng ta cưu mang Chúa bằng đức tin trong lòng chúng ta, và rước lấy Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.
Đức Mẹ là gương mẫu của tinh thần Mùa Vọng trong Giáo Hội cũng như nơi mỗi người chúng ta.
Niềm vui
Thấy một linh mục lớn tuổi mà luôn luôn sống vui vẻ, có người ngạc nhiên hỏi:
- Sao cha lại có thể luôn sống vui vẻ được như thế?
Người linh mục già trả lời:
- Tôi luôn vui vẻ là bởi vì tôi nghĩ rằng, trong muôn vật muôn loài Chúa đã dựng nên, thì loài người là quí nhất, thế mà tôi lại được làm người. Đó la niềm vui thứ nhất. Người ta sinh ra đời, có nhiều người đui què, tàn tật, chết non, mà tôi đến gần 70 tuổi mà vẫn lành lặn mạnh khỏe. Đó là điều vui thứ hai. Nhiều người hiện nay phải đói khát rách rưới, thế mà tôi chưa phải nhịn đói ngày nào. Đó là niềm vui thứ ba. Bao nhiêu người thất học, dốt nát, mà tôi lại được học hành, tuy không thông thái giỏi dang gì. Đó là niềm vui thứ tư. Ơn gọi linh mục là một ơn Chúa ban cho ai tùy ý Người, không phải muốn là được, thế mà tôi lại được làm linh mục của Chúa. Đó là niềm vui thứ năm...Và nếu chịu khó suy nghĩ thì còn biết bao nhiêu niềm vui khác nữa. Làm sao mà tôi không vui được. Niềm vui lớn nhất là tôi tin Chúa thương tôi.
37. Thời đại hồng ân
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ để giải thoát con người. Trải qua thời gian dài chuẩn bị nay đến thời viên mãn Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người qua lời sứ thần Gariel truyền tin cho Mẹ Maria. Cửa Thiên Đàng đóng lại do tội con người lỗi phạm nay Thiên Chúa mở ra để đến với con người, thời kỳ lần mò đi tìm Thiên Chúa nay Thiên Chúa đã tự tỏ lộ. Một thời đại mới, thời Tân Ước, thời của Đức Giêsu Kitô.
Lời Chúa trong Phúc Âm thánh Luca hôm nay (Lc 1, 39 - 45) diễn tả lại việc Đức Mẹ Maria đi thăm bà Isave, sau lời chào của Đức Mẹ thì hài nhi trong lòng bà Isave nhảy lên vì vui sướng. Do đâu mà Mẹ Maria đi thăm bà Isave? Do đâu Gioan nhảy mừng?..
Trở lại ngày truyền tin Đức Mẹ hay biết chị họ của mình đã mang thai được sáu tháng, lại mang thai trong lúc tuổi già và son sẻ nên rất cần sự giúp đỡ. Đức Mẹ lên đường thăm chị họ của mình không phải là để xác minh lời của sứ thần truyền tin là có thật hay không nhưng cốt ý của Đức Mẹ là giúp đỡ người chị em mình trong lúc thai kỳ, Mẹ đã tin lời Sứ thần truyền tin qua lời thưa đầy tin tưởng của Mẹ: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói.....". Đức Mẹ đã tự nguyện lên đường khi biết người chị em mình cần đến mình, Mẹ không đợi ai mời gọi hay nhờ vả, Mẹ đi bước trước (tiệc cưới Cana cũng thế). Sự lên đường của Mẹ ngoài sự gặp gỡ giúp đỡ giữa hai con người mà còn là sự gặp gỡ, giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa Thiên Chúa và con người. Đức Mẹ ra đi đem Chúa đến cho nhân loại qua gia đình bà Isave là đại diện, cùng với sự hân hoan của Gioan Tẩy Giả. Trong truyền thống của Giáo hội Đức Mẹ được sánh ví như hòm bia Giao Ước. Hòm bia Giao Ước xưa được cung nghinh long trọng, được thờ lạy vì sự hiện diện của Thiên Chúa, nay Đức Mẹ mang nơi mình chính Con Một Thiên Chúa. Hòm bia giao ước xưa đánh dấu sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel, hòm bia giao ước nay đánh dấu sự hiện diện mới, sự hiện diện bằng xương thịt của Thiên Chúa giữa nhân loại. Thiên Chúa nhờ Đức Mẹ đã phá đổ quan niệm xa xưa về một Thiên Chúa trong Cựu Ước nay Thiên Chúa ở giữa nhân loại.
Sau lời chào của Đức Mẹ Gioan nhảy lên vui sướng vì là người nhận ra Đấng Cứu Độ mà muôn dân đợi trông. Vua Đavit xưa nhảy múa như đứa trẻ khi đón hòm bia giao ước từ nhà ông Ôbed Êđom về Giêrusalem thì hôm nay Gioan cũng nhảy mừng. Gioan vừa là con người của Cựu Ước vừa là con người của Tân Ước. Thời đại mới của Thiên Chúa đã hé mở, thời đại hồng ân Thiên Chúa ban chính Con của Ngài cho nhân loại. Trong thư Do thái trong bài đọc 2: "này đây Con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Ngài bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới" (Dt 10, 5 - 10) mà lễ tế mới chính là Thân Thể Đức Giêsu Kitô được hiến tế một lần cho tất cả trên đồi Sọ.
Chúng ta là những người Kitô hữu đang sống trong niềm hy vọng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang. Chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ tự nguyện đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta từ vật chất cho đến tinh thần và cả lời cầu nguyện nữa. Mẹ Maria đã chẳng ngại gian khó, xa xôi để đến với bà Isave, nay chúng ta hãy hy sinh để mang Chúa đến với người khác. Mặt khác, chúng ta cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được làm người, làm con cái Chúa qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, qua bí tích Thanh Tẩy. Hãy ý thức địa vị cao cả của mình là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.... Biết như vậy để ta vui mừng vì Thiên Chúa luôn ở với ta nếu ta biết đón nhận Ngài. Hôm nay Chúa Nhật IV mùa Vọng, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, Chúa đã đến bên ta và chắc chắn Chúa sẽ đến với những ai có lòng trông cậy.
38. Tin có Chúa ở cùng
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi, CM)
Trại tù Humaita ở Ba Tây là một trại tù hơi khác thường. Công việc cai quản gần bốn trăm tù nhân thay vì được trao cho các nhân viên chính phủ, thì lại do một số Kitô hữu đã tình nguyện lãnh nhận công tác phục vụ những tù nhân này. Ngoài ra, còn một điều khác thường thứ hai và đáng kể hơn. Mỗi trại tù thường có phòng biệt giam để giam giữ những tội phạm ngang bướng. Tại trại Humaita, phòng biệt giam này ngày nay chỉ có một "tội phạm." Sau cánh cửa sắt, là một bàn thờ, với hoa tươi, một tượng Thập Giá, và một biểu ngữ: "Estamos juntos" (chúng ta cùng có nhau).
Người "tội phạm" biệt giam đây chính là Chúa Giêsu, và cây thánh giá của Người là một nhắc nhở hùng hồn cho mọi tù nhân rằng Chúa Giêsu đã chịu án tù cho mọi người và Người vẫn luôn ở đó với họ. Vì nhận ra tình Chúa yêu thương họ mà các tội phạm tại Humaita đã chấp nhận được cảnh tù đầy của họ.
Hai ngàn năm trước đây, khi Mẹ Maria đến thăm bà chị họ Isave, bà này đã chúc khen Đức Mẹ vì Đức Mẹ đã tin rằng những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đọc trong Thánh Kinh, Đức Mẹ biết Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khi Tổng thần Gabrien đem tin mừng đến cho Đức Mẹ, với niềm tin vững vàng vào lời Chúa, Mẹ đã thưa lên lời xin vâng: "Này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lk 1:38). Với niềm tin này của Mẹ Maria, Chúa đã nhập thể làm người để cứu nhân loại thoát khỏi gánh nặng của tội lỗi. Chúng ta đang gần kề giây phút mừng kỷ niệm ngày Chúa đến trong Đại Năm Thánh Cứu Độ. Nhưng trong khi cùng với toàn thể nhân loại hân hoan mừng ngày rất thánh này, chúng ta cần dừng lại để tự hỏi mình xem Chúa Kitô đã đến ngự trị trong lòng tôi chưa?
Đêm Giáng Sinh thường được gọi là đêm an bình. Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã đến để ban lại cho nhân loại sự bình an hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Nhưng tôi đã được hưởng sự bình an đó chưa? Hay là lương tâm vẫn còn bị đè nặng bởi tội lỗi, bởi những bất công, hận thù, chia rẽ... Nếu vậy, thì ích gì cho tôi, nếu Chúa đến trần gian để ở với con người, để cứu độ con người, và để ban bình an cho mọi người, nhưng riêng tôi lại không được dự phần?
Khi có Chúa ở cùng, có thể là Chúa sẽ không cất đi mọi đau khổ chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống. Điều Chúa hứa là Người sẽ ban cho chúng ta được sự bình an trong tâm hồn, sẽ chúc phúc, và sẽ ở bên chúng ta để phù trì chúng ta trong mọi giây phút của cuộc đời. Khi sinh ra trong cảnh bần cùng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, và sau cùng chết khổ nhục trên thập tự giá, phải chăng là Chúa muốn nói trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, Chúa luôn ở bên để chia sẻ kiếp sống làm người với chúng ta. Điều quan hệ là chúng ta có dám tin là Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của mình không? Có dám tin là Chúa có đủ quyền năng để cứu chuộc chúng ta, và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh cùng quẫn mà chúng ta đang gặp phải hay không? Nếu có được niềm tin đó, thì cũng như những tù nhân tại Humaita, cho dù chúng ta vẫn còn bị giam hãm bởi những bất công trong xã hội, những hận thù ghen ghét, chúng ta vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn.
Vậy trong những giây phút còn lại trước giờ phút hồng phúc của đêm nay, chúng ta hãy xin Đức Mẹ ban cho chúng ta lòng tin của Đức Mẹ. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón tiếp Chúa đến với tâm hồn mình. Mẹ Maria có phúc vì đã tin lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế sẽ được thực hiện, và như lời Tổng thần Gabrien, Mẹ có phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng Mẹ. Xin Mẹ ban cho chúng ta cũng có được niềm tin đó, để chúng ta cũng được tiếp rước Chúa đến với tâm hồn chúng ta. Có vậy, chúng ta mới cảm nghiệm được đêm Giáng Sinh thực sự là Đêm Bình An.
39. Mẹ Maria.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.
Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng dẫn mẹ đi thăm:
- Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:
- Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại. Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.
Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.
Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.
Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.
Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.
40. Chia vui sẻ buồn
Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề "Người thích làm từ thiện". Bài này đề cập đến một người có tấm lòng nhân hậu cao cả. Đó là chị Ngụy Thị Phương Thảo. Từ một người chân lấm tay bùn, khốn khổ nhưng sau thời gian cần mẫn và gặp thời vận may vợ chồng chị đã trở nên khá giả. "Vợ chồng chị hiện đang sở hữu hàng chục miếng đất và nhà cho thuê cùng hàng chục chiếc taxi....".
Chị Thảo là người biết mở ra cho anh chị em đồng loại. Chị sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khốn khổ. Cách đặc biệt, sau vụ tai nạn thương tâm của một đoàn cán bộ đi cứu trợ, chị đã không ngần ngại tặng một căn nhà trị giá hơn nửa tỉ đồng cho vợ con anh Trần Thanh Liêm. Anh này là một trong những người đã chết trong vụ tai nạn đó. Quả thật chị Thảo là một mẫu gương đáng tuyên dương.
Như thế, là người có đức tin chắc hẳn qua mẫu gương này ít nhiều gì cũng để lại trong ta nhiều suy nghĩ. Từng giờ, từng phút và từng giây ta đã nhận biết bao ơn lành từ Chúa cũng như từ nhiều người khác. Thử hỏi ta có được tinh thần biết mở ra như chị Thảo chăng? Trong các kinh Giáo hội dạy có kinh "Thương người có mười bốn mối". Thử hỏi kinh ấy có được thấm nhuần trong ta chưa?
Tin mừng hôm nay Thánh Luca cho biết Thánh Gioan đã nhảy lên vui mừng khi được Đức Mẹ đến viếng thăm. Sự kiện đó cho thấy Đức Mẹ đã biết đem niềm vui đến cho gia đình Bà Elisabeth. Như ta biết đường đi ở xứ Do thái xưa kia không phải dễ đi mà nhiều núi non hiểm trở. Cho nên, chắc là Đức Mẹ đã phải hy sinh nhiều lắm. Thánh Luca còn cho biết: "Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà." (Lc 1, 56)
Khi có đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm ta sẽ dễ dàng nhận ra được nhu cầu của anh chị em đang sống quanh ta. Có người đã nói: "Không ai giàu đến nỗi không cần đến sự giúp đỡ của người khác và không ai nghèo đến nỗi không có gì cho anh em mình." Hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho ta có được đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm biết mở ra.
Đồng thời, ta cũng hãy noi gương Đức Mẹ và chị Thảo để biết sống cho anh chị em theo khả năng của mình. Bởi lẽ, niềm vui được chia sẻ được nhân đôi và nỗi buồn chia sẻ vơi một nửa. Những việc làm ấy chắc chắn sẽ là những cọng rơm ấm áp mà chúa Hài Đồng đang chờ đợi ta.
41. Niềm vui trong Thánh Thần.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
42. Cùng vui với Mẹ - Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay và cũng là Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh, Hội Thánh đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Êlizabeth mùa Vọng, như mẫu gương đức tin tuyệt hảo để chúng ta chiêm ngắm và noi theo; nhờ đó, chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui linh thánh của Mẹ trong dịp đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh cũng như trong suốt đời sống đức tin.
Để chúng ta có thể có tầm nhìn sâu rộng hơn về niềm vui lớn lao nơi tâm hồn Mẹ Maria, chúng ta không dừng lại ở trình thuật Đức Mẹ thăm viếng Bà Êlizabeth, nhưng ở đây chúng ta sẽ cùng học theo Chân Phước Têrêsa Calcutta chiêm ngắm và chia sẻ các niềm vui của Mẹ nơi cả năm mầu nhiệm mùa vui của Kinh Mân Côi. Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, khi chúng ta suy ngắm các mầu nhiệm Kinh Mân Côi là lúc chúng ta cùng chiêm ngắm Chúa Giêsu với đôi mắt của Đức Mẹ và yêu mến Chúa Giêsu với trái tim của Đức Mẹ. Đó là cách thức yêu mến Chúa tuyệt hảo, vì không ai hiểu biết, yêu mến và kết hợp với Chúa Giêsu cách tuyệt hảo hơn Đức Mẹ.
Trước hết, trong trình thuật thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Mẹ đã đón nhận niềm vui Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ qua hai tiếng “Xin Vâng”. Nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã vui mừng đón nhận, tìm hiểu, yêu mến và đem hết tâm hồn và cả cuộc sống để vâng phục Thánh Ý Chúa thể hiện qua Lời Chúa do thiên thần chuyển đến cho Mẹ. Tinh thần vâng phục thánh ý Chúa của Mẹ ở đây đã làm cho Mẹ hoàn toàn nên một tinh thần với Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng khi nhập thể trong lòng Mẹ đã tuyên ngôn: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi mới nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa”, như tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái ghi nhận trong Phụng Vụ hôm nay (Dt 10:5-7).
Tinh thần vui lòng vâng phục thánh ý Chúa chính quy luật duy nhất trong đời sống của chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tất cả các thánh. Đó là lý do Thánh Giêrađô Majella đã luôn sống theo tâm niệm: “Thánh ý Chúa là niềm vui của đời con, con muốn điều Chúa muốn, muốn như Chúa muốn, muốn khi Chúa muốn và muốn vì Chúa muốn.” Vì vậy, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui linh thánh khi biết noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria để hết lòng vâng phục thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.
Thứ hai, nơi trình thuật Đức Mẹ khi thăm viếng Bà Êlizabeth, niềm vui hay hạnh phúc của Mẹ được gói trọn trong lời chúc tụng của Bà Êlizabeth khi được chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1:45). Mức độ hạnh phúc đích thực của chúng ta được đo lường bằng mức độ của đức tin sống bởi lòng mến nơi chúng ta. Vì vậy, tất cả cố gắng kiếm tìm hạnh phúc và niềm vui đích thực là cùng đích cuộc sống của chúng ta phải hướng tới việc gìn giữ, canh tân và phát triển lòng tin và tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Chính nhờ đức tin sống động này mà chúng ta được kết hợp với Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta; nhờ đó, chúng ta sẽ được vui mừng.
Thứ ba, nơi trình thuật Giáng Sinh với hình ảnh Mẹ Maria chìm đắm trong việc chiếm ngắm thờ lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ là được thờ lạy Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể do chính Mẹ sinh ra. Với đức tin sống động, chúng ta ngày nay cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ khi chiêm ngắm thờ lạy cùng một Chúa Giêsu thực sự hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta chỉ có được niềm vui này khi chúng ta thực sự tin nhận Chúa Kitô và sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Vì chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:23).
Thứ tư, nơi trình thuật Đức Mẹ theo luật Môsê tiến dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ được diễn tả qua việc Mẹ vui lòng hiến dâng Chúa Giêsu đúng theo luật Chúa. Lời ngôn sứ Simêon cho biết một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ báo trước việc Mẹ sẽ phải đón nhận nỗi thương đau vô tận khi phải hy sinh Con Một yêu quý của Mẹ làm Của Lễ Chuộc Tội cho nhân loại trên Đồi Canvê sau này. Ở đây Mẹ cho chúng ta thấy niềm vui đích thực phải là hoa trái của tình yêu đòi hỏi sự quảng đại dâng hiến và hy sinh bỏ mình trọn vẹn.
Cuối cùng, nơi trình thuật Đức Mẹ tìm lại Chúa Giêsu trong Đền Thờ sau ba ngày “mất Chúa”, niềm vui của Mẹ ở đây như báo trước niềm vui Mẹ sẽ đón nhận khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh sau này. Niềm vui ơn cứu độ đã được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, cho những ai bền đỗ đến cùng trong niềm tin, cho những ai biết đón nhận ơn cứu độ qua việc tìm lại Chúa sau khi “mất Chúa” vì tội lỗi bằng thái độ khiêm nhường sám hối và tin vào Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta sẽ góp phần làm canh tân và gia tăng niềm vui này của Mẹ khi chúng ta cố gắng bền đỗ và thăng tiến trong đời sống đức tin, mỗi khi chúng ta sám hối trở về cùng Chúa sau mỗi lần lìa xa Chúa vì tội lỗi, mỗi khi chúng ta góp phần giúp anh chị em chúng ta tìm gặp Chúa hay trở về với Chúa.
Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta sẽ cử hành Đại Lễ Giáng Sinh-Đại Lễ của Ánh Sáng đem lại Sự Sống và Niềm Vui. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ dọn lòng mừng lễ với tinh thần quyết tâm thực thi thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy gẫm và thực hành Lời Chúa; nỗ lực sống đức tin qua việc cầu nguyện liên lỉ; khao khát tìm đến thờ lạy và kết hợp với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể; quảng đại trong việc thực hành việc hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ tha nhân; và trung tín trong bổn phận hàng ngày và thành tâm sám hối sau mỗi lần sa ngã phạm tội. Được như thế, niềm vui của mùa Giáng Sinh sắp tới sẽ thật trọn vẹn và sẽ mãi lớn lên trong cuộc đời chúng ta.
Và rồi cũng như Mẹ Maria đã đem sự hiện diện Chúa ngự trong Mẹ đến cho gia đình Thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta sẽ trở thành những con người biết trao tặng niềm vui có Chúa cho tha nhân.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của tình yêu mỹ diệu và niềm vui linh thánh, xin Mẹ cho chúng con biết tìm được niềm vui linh thánh qua việc thực tâm yêu mến và thực thi thánh ý Chúa, và quên mình để mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
43. Lý do nào để nhảy mừng?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi - Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.
Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự - thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?
Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!
Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu - tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ - Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.
Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!
Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.
44. Vội vã lên đường.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.
Theo lời sứ thần, Đức Maria đi thăm bà Êlisabét. Hai bà mẹ gặp nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau. Đấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị Tiền hô của mình. Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh, được diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Đức Maria, và làm cho thai nhi Giêsu lớn lên từng ngày. Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ khiến ông nhận ra Đức Kitô và nhảy mừng chào đón. Thánh Thần bỗng chốc đến với bà Êlisabét làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ, nhưng chính Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng. Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình, khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai. Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm kín ẩn mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin, nay lại được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà đã khiến Mẹ cất lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).
Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình, và ý thức sâu hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận. Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ vì Mẹ được chọn để cưu mang Đấng Mêsia. Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời Chúa. Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn vào tính khách quan của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.
Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.
Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria, Con đã thánh hóa tất cả những gì thuộc về Mẹ.
Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người như thụ thai, mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm... đều trở nên thánh thiêng, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận.
Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời, nên mỗi thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng. Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ, mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến. Lễ Giáng Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.
Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước... Kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi: đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các nhà nghiên cứu xã hội phỏng đoán có tối thiểu khoảng 2 triệu người phá thai mỗi năm trong cả nước. Bạn có biết những nguy hiểm về thể xác và tinh thần cho các bà mẹ phá thai không?
Các tệ nạn xã hội gia tăng dẫn đến đại dịch AIDS. Bạn nghĩ gì về chuyện buôn bán thân xác phụ nữ? Có cách nào giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
45. Mẹ Maria được phúc vì đã tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn đề cao Đức Maria.
Mẹ luôn tin vào Lời Chúa: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Mẹ luôn vâng theo thánh ý Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền". Mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: viếng thăm và giúp đỡ bà Êlisabét.
Đức Thánh Cha Bênêđictô đã dâng Năm Đức Tin cho Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là ‘người diễm phúc’ vì ‘Mẹ đã tin’ (Lc 1,45)”. (Cánh Cửa Đức Tin, số 15).
“Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ (x. Lc 1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (x. Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự đồng trinh [...] (x. Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2,13-15). Với cùng đức tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgota (x. Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh”. (x. Cánh Cửa Đức Tin, số 13).
Trong “Kinh Năm Đức Tin” (WHĐ), có lời cầu nguyện với Đức Mẹ:“Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin.Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền, biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa, biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời”.
Đức Maria được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ không chỉ tin mà còn hành động theo điều Mẹ đã tin. Vì thế, Mẹ trở nên thầy dạy về đức tin và đức ái.
1. “Đức tin hoạt động qua đức ái”(Gl 5,6)
Khi được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, Đức Mẹ đã hân hoan lên đường đem niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai.Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm và giúp đỡ. Lòng tin thúc đẩy bước chân Mẹ thực thi bác ái. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang, giữa hai giao ước cũ và mới.
- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlisabét được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
- Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng mẹ Êlisabét nhảy mừng vui sướng.
- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
“Đức tin hoạt động qua đức ái”trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14).
Đức tin đi đôi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều đức tin càng mạnh. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sống Lời Chúa: "ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy"; với trọn niềm tin:“Tất cả những gì anh em xin thì sẽ được như ý” (Mc 11,24).
2. Đức ái là hoa trái đức tin
"Đức tin không có Đức ái thì không mang lại hoa trái. Đức ái không có đức tin thì sẽ là một thứ tình cảm không thuyết phục. Đức tin và Đức ái cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.” (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14). “Đức Tin là Đức ái trong gốc rễ, còn Đức ái là Đức Tin mang hoa trái. Vì thế, Đức Tin khi được canh tân thì cũng làm cho Đức ái được tăng triển và ngược lại, khi Đức ái được nồng cháy thì Đức Tin cũng được củng cố. Đức Tin đem ánh sáng, Đức ái đem hơi ấm”. (x.tham luận của Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, tại Hội nghị Thường niên Caritas Việt Nam 2012).
Khi đến thăm bà Êlisabét, Đức Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlisabét, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlisabét là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đức Mẹ là mẫu mực đức ái. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlisabét đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi.
Tình yêu đòi hỏi phải thể hiện bằng việc làm.Tình yêu được biểu lộ thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người khác trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Thăm viếng nhau là thể hiện tình liên đới, biết quan tâm giúp đỡ nhau.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu sống đức tin.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
3. Đức Mẹ, thầy dạy đức tin và đức ái
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và đức ái. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa. Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa kho tàng quý nhất. Mở được cả cánh cửa kho tàng nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: "Người bảo làm gì, thì các anh hãy cứ làm theo". Hôm nay, Đức Mẹ cũng muốn nói với chúng ta: nếu Chúa đã dạy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành Bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin, vì Đấng quyền năng đã biến nước lã thành rượu ngon thì cũng quyền năng biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh của Người, “Anh em biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17).
Đức Mẹ dạy chúng ta sống và thực thi đức bác ái. Mẹ đem tình thương đến với gia đình Bà Êlisabét. Người chị họ ca khen Mẹ: "Em có phúc vì đã tin". Đức tin đem lại hạnh phúc. Có nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:
- "Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh" (Mt 8,13)
- Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
- Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp "Thưa Ngài chúng tôi tin". Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói "Các anh tin thế nào thì được như vậy". Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Hạnh phúc cho những ai tin vào Thiên Chúa và thực thi đức ái trong đời sống hàng ngày. Sống đạo là sống niềm tin thể hiện qua việc làm “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”(Mt 11,19).
Đức Maria giàu tình thương nên xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Học nơi Mẹ, bậc thầy về lòng tin và lòng mến chúng ta sẽ sống tốt lành và thánh thiện trên hành trình đức tin của đời sống.
46. Mang Chúa đến với mọi người
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Cuộc sống hàng ngày, thăm viếng nhau là chuyện hết sức bình thường. Nghe tin bên nhà ông A có chuyện không may, ông B đến nhà ông A thăm hỏi, chia sẻ niềm đau. Hoặc biết nhà bà B có tin vui, bà A đon đả chạy sang góp thêm tiếng cười, chia sẻ niềm vui. Hai người hàng xóm thăm nhau, hai người bạn thăm nhau, những người trong thân tộc máu mủ, họ hàng thăm nhau, tất cả đều là chuyện bình thường của cuộc sống.
Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm đoạn Tin Mừng cho biết Đức Maria đi thăm bà Isave, người chị họ của Mẹ, khi nghe tin bà mang thai. Đây là một sự thăm viếng bình thường giữa hai người họ hàng của nhau. Dẫu cho Đức maria, lúc đó đã bắt đầu mang thai Chúa Giêsu, và dẫu cho bà Isave từ xưa tới nay không có con, bây giờ lại mang thai trong lúc già nua tuổi tác, thì việc Đức Maria thăm bà Isave vẫn là chuyện bình thường. Có chăng, thì chỉ niềm vui là lớn hơn mà thôi. Nhưng trong sự thăm viếng bình thường giữa hai người phụ nữ ấy, Thiên Chúa lại làm một điều khác thường đến nỗi rất lạ thường: phi thường. Vậy đâu là sự phi thường do bàn tay Thiên Chúa?
Vì đây không chỉ là một cuộc thăm viếng, gặp gỡ giữa hai người mẹ mà thôi. Nhưng trong cuộc thăm viếng giữa hai người mẹ, là một cuộc chào đón giữa hai người con, dù hai người con đó chỉ mới là bào thai trong lòng của hai người mẹ. Sự chào đón lạ thường này, đã khiến thánh Gioan Tiền Hô nhảy mừng trong lòng bà Isave, ngay sau lời chào đầu tiên mà Đức Maria dành cho bà. Đó cũng là lời chào đầu tiên của cuộc nói chuyện, Đức mẹ đã cất lên lời chào trước khi bà Isave chào Đức Mẹ.
Nhảy mừng là để diễn tả niềm vui. Bào thai trong lòng bà Isave, sau này chính là thánh Gioan Tiền Hô, đã biểu lộ niềm vui mừng bằng động tác “nhảy mừng”. Niềm vui cho gia đình của thánh Gioan lớn lắm. Vì đây không phải là niềm vui bình thường, nhưng là niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui lớn lao đó, trước hết không chỉ vì hạnh phúc được Đức Maria đến thăm, đúng hơn, cùng với sự thăm viếng của mình, Đức Maria đã mang Chúa đến viếng thăm gia đình thánh Gioan.
Niềm vui càng lớn và ý nghĩa nhiều hơn, khi vừa nhập thể trong lòng Đức Maria, nghĩa là vừa mới xuống thế làm người, Chúa Kitô đã chọn gia đình thánh Gioan làm gia đình đầu tiên để Người thực hiện cuộc viếng thăm đầu tiên. Bởi thế, ơn cứu chuộc, lần đầu tiên đến trong trần gian, ngoài Đức Maria và gia đình thánh Gia, gia đình đầu tiên được diễm phúc đón nhận là chính gia đình của thánh Gioan. Còn hơn thế nữa, chẳng những được Chúa đến thăm, gia đình thánh Gioan còn hãnh diện vô cùng vì cùng với việc Đức Mẹ ở lại, gia đình thánh Gioan được Chúa ngự đến, hiện diện và sống cùng. Chỉ có mỗi một mình gia đình thánh Gioan là gia đình đầu tiên được diễm phúc như thế.
Thật ra bào thai không thể nhảy mừng, hơn nữa, bào thai, dù sẽ là một siêu nhân, cũng không bao giờ biết niềm vui, nỗi buồn, cũng chẳng hiểu được bất cứ một điều gì, để có thể nhảy mừng hay không nhảy mừng. Nhưng ở đây, thánh Luca khẳng định rất dứt khoát: “Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà” (tức là hài nhi nhảy mừng trong lòng bà Isave). Như vậy, ta phải giải thích làm sao cho hiện tượng kỳ diệu này? Chắc bạn đồng ý với tôi, đây là một phép lạ: Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ tuyệt vời. Người đã làm cho một cuộc viếng thăm bình thường, nên rất đỗi lạ thường: thai nhi có thể nhảy cẩng lên mà vẫn bình yên vô sự. Sự nhảy mừng, đồng thời là phép lạ ấy, có được là do một bào thai khác được một người mẹ khác mang trong lòng dạ mình làm nên. Người mẹ đó là Đức Maria, và bào thai mà Mẹ mang trong dạ, còn hơn cả một con người: đó là Thiên Chúa làm người. Chỉ có một Thiên Chúa và quy về Thiên Chúa, ta mới dám khẳng định đức tin của mình vào một sự kiện lạ thường như thế.
Vâng! Chỉ có Thiên Chúa mới làm nên điều kỳ diệu đến nỗi con người phải chưng hửng. Do đó, việc Đức Mẹ thăm viếng bà Isave không còn là một cuộc thăm viếng bình thường nữa, mà là một cuộc trao ban ơn cứu độ. Mẹ đã mang chính Đấng là Ơn Cứu Độ tuyệt đối đến cho gia đình bà Isave.
Mẹ đến thăm bà Isave, thì trong hành động đến thăm đó, Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho gia đình bà Isave. Bởi vậy, bất cứ nơi nào người ta mang Thiên Chúa đến cho nhau, ở đó có niềm vui, có sự bình an, có ơn thánh, và sự cứu rỗi sẽ tràn ngập.
Trong cuộc thăm viếng người chị họ của mình, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối về anh chị em mà đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu của bản thân với mọi người. Càng hướng tới lễ Giáng sinh, ta càng phải chuẩn bị tâm hồn thoát ly khỏi những gì làm cản trở mình đến với anh chị em. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh. Nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và bình an. Và để cưu mang chính Chúa Giêsu trong tâm hồn, bạn và tôi cần thường xuyên tra vấn chính mình, cần nhìn lại mình, kiểm điểm mình một cách cẩn thận, đừng làm qua lần chiếu lệ. Nhờ thái độ nội tâm ấy, ta sẽ nhận ra chỗ nào còn gồ ghề, chỗ nào là hố sâu, chỗ nào làm ta chưa thể đến với anh chị em, để rồi thành tâm sửa đổi, làm mới lại con người mình. Làm mới lại chính mình để có thể thuộc về anh em mình như thế, đó chính là biểu hiện của một tâm hồn có Chúa Kitô. Nói cách khác: đó chính là biểu hiện của một tâm hồn cưu mang Chúa.
47. Thân mẫu Chúa đến với tôi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét, giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui. Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê. Chị không đi một mình trên đường xa, vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị. Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở. Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria. Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được. Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm. Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng. Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư, để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa, chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người. Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, chị còn có phúc vì chị đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ. Ngài tăng trưởng như mọi người. Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé, những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt. Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa; không ai được coi thường người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại. không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn. yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
48. Phước lành Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: "Một hôm, Mẹ đến thăm một nhà thương Anh quốc rất tối tân. Mẹ tả phong cảnh và các phòng ốc của nhà thương rất khang trang, sáng sủa và trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra, các y tá, nhân viên làm việc trong nhà thương đều rất nhã nhặn và lịch sự. Nhưng Mẹ nhận thấy một điều lạ kỳ và hỏi một vị bác sĩ đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương. "Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?". Câu trả lời của viên giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn: "Thưa, vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ hết".
Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội bao giờ cũng luôn luôn khuyến khích các tín hữu thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, tù nhân, nghèo khó và tất cả những ai cần trợ giúp, ủi an nâng đỡ. Nghĩa là Giáo Hội hối thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra khuôn mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi này.
Các bài đọc Chúa nhật này cũng mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo hèn, tầm thường bé nhỏ, mà Thiên Chúa đã dùng để đến với loài người chúng ta và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương 5,1-4, sách tiên tri Mikêa là một lời sấm thuộc một lời sấm cứu thế được thánh sử Matthêu dùng lại và áp dụng cho Chúa Giêsu trong bối cảnh này. Lời sấm này của tiên tri Mikêa diễn tả các trái nghịch giữa sứ mạng Thiên Chúa giao phó cho Giêrusalem trong dòng lịch sử cứu độ và cái bất lực của nó. Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn được sứ mạng này vì tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không còn khả năng thực hiện những nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn lựa một nơi chốn khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bêlem, trước đây gọi là Ephrata.
Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chớ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay một thành phố danh tiếng nào khác vùng Trung Đông cổ. Và trong làng quê Bêlem, Thiên Chúa chọn gia đình ông Giêsê, cha của vua Đavít và là ông tổ của thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ Bêlem này, cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ bé bỏng, yếu đuối, trong một gia đình bình thường như hàng ngàn vạn gia đình bình thường khác. Tuy nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả. Các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa, là quê Bêlem khiêm tốn, điều kiện bé bỏng yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại.
Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để hiện thực chương trình cứu độ, càng nổi bật hơn theo bài Phúc Âm thánh Luca, 1,39-48. Maria, một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên Trinh Nữ Maria cũng là phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử thế giới, lịch sử loài người. Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành vĩnh viễn và cao quí trọng đại nhất là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Lời chào của bà Isave khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều ngợi khen kểu cách Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người, con đường bé nhỏ tầm thường khiêm tốn nghèo hèn. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ và mở mắt chào đời từ lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Isave: "Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu người con của cung lòng em cũng thật là có phúc". Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy, tất cả những biến cố của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của người đàn bà trong gia đình nhân loại, hoa trái ngọt dịu ấy, người con ấy do hoạt động và quyền năng của Đức Chúa Thánh Thần nên được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Nhưng cũng y như bất cứ bào thai nào khác của con người trần gian, nó được gắn liền thịt xác của bà mẹ và sẽ nhập thể. Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong cung lòng phụ nữ của mình. Và Chúa Giêsu đã chấp nhận một luật lệ tâm, sinh, vật lý của một bào thai thành hình lớn lên trong 9 tháng 10 ngày, được mẹ nuôi bằng chính máu mẹ như mọi thai nhi khác. Sự kiện lớn lên dần dần ấy tỏ ra qua hình thể tròn trịa của bụng mẹ ngày càng lớn lên. Sự kiện Giêsu là hoa trái, là bào thai lớn lên trong bụng mẹ, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một giả thuyết, mà Ngài là một hoa trái để dưỡng nuôi cứu độ thế giới này.
Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.
Như đã nêu lên trong thư Do Thái diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu, biến cố Chúa Giêsu nhập thể làm người là một biến cố lịch sử và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Bởi vì nó mở ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái về liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các nghi lễ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và việc tuân giữ luật lệ. Mặc dầu các sinh hoạt đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của Israel, chúng cũng không thể trao ban ơn cứu độ do con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người cần phải trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng. Nghĩa là trước khi con người phạm tội, cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử thế giới, cần phải quy hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt thường ngày, bởi vì chúng ta không phải chỉ là Kitô hữu khi cử hành các lễ nghi phượng tự mà thôi, nhưng là suốt ngày, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi sinh hoạt trong cách hành sử thường ngày là chúng ta khước từ tin nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu quy hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: "Này con xin đến để làm theo thánh ý Cha". Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu, sống tinh thần nhập thể trọn vẹn, ấy là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất.
49. Chia sẻ niềm vui – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác".
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!"
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
50. Thưa ‘vâng’ với Thiên Chúa – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là “truyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu” và cho rằng tất cả chỉ là “thần thoại”. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tuợng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.
Đức Maria đi thăm chị họ là bà Elizabeth, và được đón chào: “Bà có diễm phúc hơn mọi người nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Elizabeth, nhận định của bà đối với chúng ta rất là quan trọng: “Phúc cho bà là người đã tin”.
Giáp Lễ Giáng Sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:
1) Mầu nhiệm trinh khiết.
Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Elizabeth cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Được ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời. Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.
2) Mầu nhiệm làm mẹ.
Do sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.
Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:
- Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành số mạng mình.
- Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.
51. Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng-Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Elizabeth, một phụ nữ son sẻ lại được làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng hai người mẹ.
Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.
Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin Mừng trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi, chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.
Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Thiên Sứ nhắc đến trường hợp của bà Elizabeth, tuy đã già cả và có tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên Sứ kết thúc: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Đức Maria liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ truyền”. Maria luôn tỏ ra sẵn sàng khi đã biết được ý muốn của Chúa.
Chính sự sẵn sàng đó đã làm cho bà Elizabeth nhận ra khi Maria bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, thái độ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối với chúng ta hôm nay là phải suy gẫm và sống lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà cách đấy 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành ”.
Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ. Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng thuật lại. “Còn Maria thì giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về Nazaret. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý với chúng ta rằng: Mẹ Maria không những chỉ trao ban cho Chúa Giêsu Hài Đồng một thân xác mà Mẹ còn muốn hiến trong cuộc đời mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ Con Thiên Chúa làm người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của bà Elizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ, những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ như kho tàng thiêng liêng quý giá nhất của Mẹ.
Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ, không hoà đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quý, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của chúng ta.
Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì được hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabet phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.
Anh chị em thân mến,
Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh chị em như Mẹ Maria.
Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời của tha nhân. Tiếng tha nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn sàng trả lời “có” với tha nhân, không lẩm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không từ chối, lảng tránh bất cứ ai cần đến.
Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẩu chuyện nhỏ: Lúc ấy, Têrêsa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Têrêsa cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêsa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá, còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêsa bỏ nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu bé trai cùng tuổi chặn Têrêsa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêsa ngập ngừng trả lời: “Tôi là Têrêsa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?”. –Tôi hả? Tôi là Giêsu Hài Đồng của Têrêsa. Cậu bé liền biến mất.
Thưa anh chị em,
Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta, để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa Giêsu Hài Đồng.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho chúng con. Amen.
52. Suy niệm của McCarthy.
CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG
Suy Niệm 1. ÂN SỦNG CỦA CUỘC THĂM VIẾNG
Ngày xưa, cuộc sống thật đơn giản, và người ta thăm viếng nhau rất nhiều. Ngày nay, sự thăm viếng không xảy ra thường xuyên như vậy nữa. Người ta sử dụng điện thoại để thay thế cho sự thăm viếng. Một cú điện thoại cũng tốt thôi, nhưng nó không thể thay thế được cuộc thăm viếng.
Có một phụ nữ sinh sống tại thành phố New York, bên cạnh một người hàng xóm trong suốt 30 năm. Bà ta không bao giờ có bất cứ cuộc cãi và nào với người hàng xóm đó, và mỗi khi gặp nhau, họ vẫn luôn luôn dừng lại nói chuyện với nhau. Nhưng trong suốt thời gian đó, bà ta chưa bao giờ đặt chân sang ngôi nhà của người hàng xóm. Thật là một điều đáng buồn, và có một sự mất mát nào đó.
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí ở giữa những người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn toả sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc thăm viếng, có điều gì đó xảy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi.
Một vị linh mục trong xứ đạo kể lại việc ông đến thăm một người phụ nữ trẻ, đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư. Ông đến với hy vọng đem lại cho cô một chút an ủi. Sau cuộc thăm viếng này, ông ra đi với cảm giác là chính bản thân ông lại được an ủi. Ông kinh ngạc trước đức tin của cô và vẻ thanh thản mà cô cảm thấy, khi đối diện với cái chết. Nhờ được tiếp xúc với cô, đức tin của ông đã được đào sâu và củng cố thêm.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nhận thấy cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth. Chính Mẹ cũng vừa mới được thiên sứ Gáprien viếng thăm, mang đến cho Mẹ tin vui rằng Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thay vì bỏ đi và chỉ nghĩ đến mình, thì Mẹ lại vội vã đến thăm bà Elizabeth, một người cũng đang mong đợi con bà ra đời.
Bà Elizabeth là chị họ của Mẹ. Bổn phận đầu tiên và đáng quý nhất cảu chúng ta là cư xử tử tế với những người trong họ hàng, mặc dù đây không phải là một điều dễ dàng. Người trong họ hàng chúng ta có thể có tính cách rất hay đòi hỏi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang lại ý nghĩa rất lớn đối với bà Elizabeth. Nhưng bản thân Mẹ cũng được ích lợi nhờ cuộc thăm viếng này. Bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. So với Đức Maria, thì bà Elizabeth là người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, nên bà có thể giúp đỡ Đức Maria. Ở đây, chúng ta nhận thấy điều chủ yếu là cả hai người phụ nữ đều có tình trạng như nhau, nên có thể giúp đỡ nhau.
Bằng cách cho đi, chúng ta lại có thể được đón nhận. Một trong những biện pháp mà chúng ta có thể cho đi, đó là đến thăm viếng người khác. Lễ Giáng Sinh là một thời điểm tốt nhất, để thăm viếng những người mà có thể chúng ta đã quên lãng suốt bao năm qua.
Suy Niệm 2. ƠN PHÚC CỦA NHỮNG KẺ TIN.
Trong Tin Mừng, chúng ta có câu chuyện về cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth, người chị họ của Mẹ. Trong suốt cuộc thăm viếng này, bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Chủ đề về ơn phúc của những kẻ tin xuyên suốt bài Tin Mừng. Đối với kẻ tin, những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Sau đây là vài ví dụ:
Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng “Ông cứ về đi. Ông tin thế nào, thì được như vậy!”, và người đày tớ của ông ta đã được chữa lành (Mt 8,13). Đối với người phụ nữ bị băng huyết, Người nói “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ lúc đó, máu của bà ngưng không chảy ra nữa (Mt 9,22). Đối với hai người đàn ông bị mù, Người nói “Các anh tin thế nào, thì được như vậy!”, và họ đã được nhìn thấy trở lại (Mt 9,29).
Bạn có thể nói rằng chủ đề chính của Tin Mừng là ơn phúc của những kẻ tin. Tất cả lời rao giảng của Đức Giêsu đều có mục đích là nhằm khơi gợi lòng tin trong tâm hồn con người. Tuy nhiên, điều này không đơn giản chỉ là vấn đề về lòng tin, nhưng là tin tưởng và hành động dựa trên lòng tin đó. Đây là một vấn đề về việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa –chấp nhận rủi ro, và hy sinh vì Lời Chúa. “Trừ phi bạn hành động một cách phù hợp, đừng ngại nhìn nhận rằng bạn tin tuởng” (Catherine de Hueck Doberty).
Đôi khi, bạn nghe thấy có người nào đó nói “Điều này thật dễ dàng đối với bạn, vì bạn có lòng tin mạnh mẽ”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Lòng tin không luôn luôn làm cho mọi sự trở nên dễ dàng. Trên thực tế, nhiều khi trái ngược lại. Bởi vì chúng ta có lòng tin, nên chúng ta lại từ chối không chịu từ bỏ. Lòng tin thúc đẩy chúng ta phải kiên nhẫn, phải đấu tranh, thường không được đảm bảo có được kết quả là hạnh phúc. Một người có lòng tin thì không bao giờ thoái lui.
Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa. Ngay sau khi sứ thần đến thăm, Mẹ vội vã thăm viếng bà Elizabeth. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy rằng lòng tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề cảm xúc. Nhưng Mẹ đã chuyển lòng tin đó thành hành động cụ thể.
Đức Maria chính là người môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Đức Giêsu. Đây là nguyên nhân tại sao Giáo Hội đặt Mẹ làm một tấm gương cho chúng ta. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc, nếu giống như Đức Maria, chúng ta biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Lễ Giáng Sinh là một dịp trợ giúp lớn lao đối với lòng tin của chúng ta. Bằng cách nào đó, chúng ta nhận thấy trong dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn, so với bất cứ thời gian nào, bởi vì trong thời gian này, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta.
Điểm cốt lõi của Tin Vui chính là Thiên Chúa đã tự mình hiện diện với chúng ta, trong cuộc sống của một Đấng đi trên trái đất này. Thật vậy, chính Đấng này, Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa, đã hiện diện một cách đích thực. Trong ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên, có cả những người tin lẫn những kẻ không tin. Tin Mừng nhấn mạnh đến ân sủng của những người tin vào Tin Vui.
Lễ Giáng Sinh làm cho chúng ta đi vào một tương quan thân mật với Thiên Chúa. Và Lễ Giáng Sinh cũng kêu gọi chúng ta cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau. Và trong khi cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau, chúng ta cũng đang cởi mở chính mình, để đón nhận “niềm vui lớn lao” đã được các thiên sứ loan báo cho những mục đồng.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Những người rao giảng có khuynh hướng nhấn mạnh đến sự vắng mặt của Đức Kitô trong ngày Lễ Giáng Sinh, và lấy làm tiếc vì sự thương mại hoá của ngày lễ này. Sự thương mại hoá mang lại rất hiệu quả. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, tốt hơn là nên nhấn mạnh đến sự hiện diện của Đức Kitô, và giúp cho mọi người tìm thấy Người trong ngày lễ này.
Việc cử hành Lễ Giáng Sinh của chúng ta có nhiều tầng lớp. Trong một bài viết ở báo The Tablet (tháng 12, năm 1998). Anthony Philpot đã đồng nhất một số tầng lớp này.
Tầng lớp trên cùng là từ người tiêu thụ trong ngày Lễ Giáng Sinh, mà từ đó, những ngày này, không có được lối thoát nữa – họ cứ nhất định phải có những bài hát Lễ Giáng Sinh, những con tuần lộc, Ông già Nôen, và việc năng nổ mua bán tất cả mọi loại hàng hoá. Điều này làm gia tăng tính hám lợi nơi những đứa trẻ, tạo ra sự lo lắng về việc chi tiêu quá mức, và gây mệt mỏi cho người lớn. Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh với một cốt lõi rỗng tuếch.
Kế tiếp là tầng lớp Charles Dickens –những tấm thiệp mô tả phong cảnh ngập tuyết, cảnh ồn ào của lò sưởi, gà tây, bánh mận, bánh thịt… Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh của cảnh gia đình tụ họp với nhau, của sự thành tâm nơi tất cả mọi người, của tấm lòng nhân ái và cởi mở. Đối với họ, có nhiều điều để nói về những giá trị này. Hầu hết mọi người đều có phần đóng góp vào lối giải thích này về Lễ Giáng Sinh. Nhưng khi không có lòng tin, thì rốt cuộc Lễ Giáng Sinh là gì? Chỉ là một yếu tố kích thích nhỏ nhoi, một vài cách diễn tả sốt sắng, là việc cho và nhận một số quà tặng. Và rồi tất cả mọi sự đều trôi qua giống như lúc trước vậy.
Tầng lớp thứ ba là của máng cỏ, mà đối với chúng ta, đó là cách diễn tả về ngày Lễ Giáng Sinh. Đây là tầng lớp của vở kịch về cảnh Chúa Giáng Sinh, mà đối với tất cả mọi người, việc diễn tả đơn giản về ngày lễ này có thể gây xúc động sâu xa.
Tầng lớp thứ tư và mang tính cách sâu sắc nhất, chính là tầng lớp thiêng liêng. Đây là câu chuyện về một Hài Nhi đã được sinh ra như thế nào tại đất nước Israel, cách đây 2000 năm. Nơi con người của Hài Nhi này, Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản chất của chúng ta trên chính mình Người, và đã đi vào thế giới của chúng ta, trong sự yếu đuối và tình yêu thương của. Người đến để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, và được tiền định một cuộc sống đời đời.
Người ta có khuynh hướng gạt bỏ, hoặc thậm chí còn kết án ba tầng lớp đầu tiên, và coi như tầng lớp thiêng liêng mới là một tầng lớp đích thực duy nhất. Điều này dựa trên giả thiết rằng tầng lớp thiêng liêng và tầng lớp vật chất đối nghịch lại với nhau. Nhưng không phải là như vậy. Đạo Công giáo bao gồm cả tinh thần lẫn vật chất. Không thể có Lễ Giáng Sinh chỉ thuần tuý có yếu tố tinh thần mà thôi.
Điều mà chúng ta phải làm, đó là tìm ra được sự liên kết giữa nơi thị trường trần tục, và nội dung thiêng liêng của ngày lễ. Nhiều cảnh mua bán xảy ra trong ngày Lễ Giáng Sinh tạo thuận lợi cho việc trao tặng quà, những việc làm tốt đẹp, niềm vui và sự khẳng định các mối quan hệ trong gia đình –đưa đến kết quả trong việc cho và nhận.
Cách thế này giúp chúng ta nhận thấy tương quan gần gũi giữa tinh thần và vật chất, giữa những sự việc trên trời và dưới thế này. Chúng ta phải học hỏi được phương cách nào hoà nhập được cả hai yếu tố này. Vấn đề cốt lõi của tôn giáo chính là: Phải làm thế nào để hoà hợp được về mặt thiêng liêng và vật chất, xác thịt và tinh thần, bên trong và bên ngoài, bề mặt và bản chất.
Có những người cứ khăng khăng là cần phải có sự phân chia rõ ràng giữa thần thánh và con người, giữa yếu tố thánh thiêng và yếu tố trần tục, giữa linh hồn và thể xác. Nhưng chúng ta sẽ không tìm được điều đó trong ngày Lễ Giáng Sinh. Trong ngày này, những yếu tố đó đan xen với nhau, đến nỗi dường như chúng trở nên một, và cùng là một yếu tố.
53. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
54. Này con đến – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề, Hội Thánh cho dân Chúa thấy những biến cố vô cùng trọng đại nhưng lại âm thầm diễn ra trong dòng lịch sử.
Này con đến để thực thi Ý Chúa
Biến cố Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể, được thực hiện trong âm thầm tuy dù đó là biến cố vô cùng quan trọng “Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và vĩnh viễn làm người”. Đức Yêsu đã sống “bình thường” như một người; chỉ khi Đức Yêsu sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời nhập thể để làm gì? “Này con đến để thi hành Ý Chúa”.
Đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Thiên Chúa muốn con người được cứu độ, được triển nở, được hạnh phúc, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Con người phạm tội khi tìm mình, chọn mình trên Thiên Chúa và anh chị em mình, dùng tha nhân như phương tiện để thỏa mãn tham vọng riêng tư của mình. Chỉ khi nào con người sống trong tình yêu, tôn trọng tha nhân và Thiên Chúa, thì con người mới được bình an và hạnh phúc.
Làm sao để con người sống trong tình yêu? Làm sao để con người mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác? Đó là sứ mạng của Ngôi Lời, của Ngôi Lời nhập thể, của Đức Yêsu.
Em có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện điều đã nói với em
Mỗi một người có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ mạng của Yoan con ông bà Zacharia-Isave, là “trở thành tiếng kêu trong hoang địa”, kêu mời người ta chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai. Yoan Tẩy Giả đã làm trọn sứ mạng của mình.
Sứ mạng của Đức Maria, là thực hiện điều Thiên Chúa đề nghị, tuy âm thầm khiêm tốn nhưng rất gian nan, đó là “cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể”. Đức Maria đã chấp nhận, và đã trở thành người “cưu mang Thiên Chúa”, mang Thiên Chúa tới cho người khác, mang Thiên Chúa đến cho nhân loại.
Phụ nữ nào mà lại chẳng có con! Cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng một người con, không phải là chuyện “động trời” trên trái đất này. Chuyện đó vẫn xảy ra bình thường, thế nhưng ngay cả chuyện rất bình thường như vậy, cũng trở thành một biến cố “vô tiền khoáng hậu”! Mỗi người đều có thể “có phúc” hơn việc cưu mang và sinh hạ Đức Yêsu, vì “ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” (Lc.8, 21; 11, 28).
Để thực hiện được thánh ý Thiên Chúa, để có thể cưu mang Thiên Chúa trong lòng, Đức Maria đã tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, mới giúp Đức Maria vượt qua được những khủng hoảng trong đời, như lúc sinh con trong chuồng chiên cừu (tại sao lại phải sinh trong cảnh cùng quẫn như vậy?), lúc sống nghèo tại Nazaret, và đặc biệt lúc đứng dưới chân thập giá (Thiên Chúa có giữ lời hứa với tôi khi thiên thần truyền tin không? Đâu là lời “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng Đavid tổ phụ Ngài?). Phúc cho những ai tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và sẽ làm cho mình những điều tốt đẹp nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Chúa tới, mang gì cho bà Isave, cho ông Zacharia và Yoan? (lúc đó và cuối đời)
2. Ngôi Lời nhập thể để thi hành Ý Chúa Cha! Làm sao để con người yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau?
3. Bạn có nghĩ rằng Đức Maria hạnh phúc không (lúc sinh con trong chuồng chiên cừu, lạc mất con, và đứng dưới chân thập giá)? Hạnh phúc hệ tại đâu?
4. Chúa tới, tôi được và mất gì?
55. Mẹ Maria.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một mẫu gương tuyệt vời, giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng và chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Thực vậy, Mẹ Maria cũng như nhiều người Do Thái khác đã đọc và suy gẫm Kinh thánh, đã mòn mỏi trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế.
Với một tâm hồn trong sạch và nhất là với lời xin vâng dưới mái nhà Nagiarét trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã trở thành người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa vào cõi lòng của mình.
Thế nhưng, có Chúa trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Mẹ còn đem Chúa đến cho người khác. Phúc âm thánh Luca kể lại rằng: Sau khi hay biết, nhờ hồng ân Thiên Chúa, bà chị họ của mình là Isave cũng đã có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, băng qua đồi núi để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau.
Nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem đến cho gia đình bà Isave niềm hân hoan vui mừng, hay nói cách khác, nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem Chúa đến cho già đình bà Isave, và cùng với sự hiện diện của Chúa là niềm vui mừng và hy vọng tràn đầy. Chính vì thế, Gioan tiền hô đã nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Còn chúng ta thì sao?
Trong mùa vọng này việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy sống thế nào để thực sự có Chúa ở trong tâm hồn.
Đúng thế, như chúng ta vồn thường nói:
- Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt vời, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi xấu xa. Giữa Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không có thành phần thứ ba, sẽ không có vị thế trung lập. Tôi phải dứt khoát chứ không thể lửng lơ con cá vàng, chơi trò đi nước đôi và bắt cá hai tay với Chúa. Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không thể nào đội trời chung và sánh vai cùng bước đi bên nhau. Nơi nào có tội lỗi ngự trị, thì nơi đó không có chỗ cho tình thương của Chúa. Trái lại, muốn cho tình thương của Chúa ngự trị thì cần phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi.
Chính vì thế, chúng ta phải khử trừ tội lỗi, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, như lời kêu gọi của Gioan tiền hô:
- Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay. Gồ ghề san cho phẳng. Hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng, đó là hãy bắt chước Mẹ Maria mà đem Chúa đến cho người khác.
Đúng thế, qua hành động thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Isave thế nào, thì bằng những hành động bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết và tin theo Chúa.
Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là một vị thánh hiền lành và nhân hậu. Ngài có một người giúp việc mắc phải tật nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn nhà ra quán nhậu say bí tỉ, mãi tới khuya mới về, rồi nằm vật xuống ngưỡng cửa mà ngủ.
Nghe tiếng động, thánh nhân ra mở cửa. Thấy anh ta nằm đó thì nhẹ nhàng bồng anh về phòng, đặt anh ta trên chiếc giường của mình, còn mình thì nằm ngủ ở chỗ khác.
Ban sáng, vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của thánh nhân, anh ta hoảng hốt vội chạy tới quì dưới chân thành nhân xin lỗi và hứa sẽ chừa bỏ rượu chè, hoán cải bản thân và làm lại cuộc đời.
Từ đó, anh ta đã dứt khoát với tật nghiện rượu và trở nên một người tốt lành.
Hãy khử trừ tội lỗi để trở nên người có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái và yêu thương, hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó là hai việc chúng ta cần phải làm ngay theo mẫu gương của Mẹ Maria trong mùa vọng này.
56. Viếng thăm chị họ Êlisabét.
Đoạn Phúc Âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa vọng kể lại biến cố Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabéth liền sau khi được thiên thần truyền tin cho biết Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài.
Chúng ta có thể hình dung được niềm vui sâu xa của Mẹ Maria sau khi đã khiêm tốn thưa vâng, chấp nhận cộng tác với chương trình của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là niềm vui và chắc chắn Mẹ Maria trong lúc cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, Mẹ được diễm phúc hơn ai hết, sống kết hiệp với Con Mẹ vừa là Con Thiên Chúa và cũng vừa là Chúa của Mẹ.
Do đó, khi được hưởng nếm niềm vui, Mẹ đã mau mắn bộc lộ niềm vui mừng đó trong bài ca tạ ơn: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Khi đến viếng thăm bà Elisabéth. Mẹ không giữ niềm vui đó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ với người khác. Sự hiện diện của Chúa nơi Mẹ càng giúp cho tâm hồn đã sẵn sàng quảng đại của Mẹ trở nên dịu dàng, quảng đại hơn nữa để nhìn thấy nhu cầu cần thiết được sự trợ giúp của anh chị em xung quanh.
Niềm vui và thái độ phục vụ quảng đại là hoa trái không thể chối cãi được của sự hiện diện của Thiên Chúa trong một người. Mẹ Maria là mẫu gương chỉ đường cho chúng ta, cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô.
Điểm thứ hai đáng chúng ta chú ý trong lần gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Elisabéth là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Mẹ điều mà không một quyền lực trần gian nào có thể làm được, đó là làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà vẫn duy trì trọn vẹn sự đồng trinh. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi bà Elisabéth để soi sáng cho bà nhìn ra giờ ân sủng đã đến, nhìn ra nơi con người đến thăm mình kia là Mẹ của Thiên Chúa.
Nhìn ra hạnh phúc đích thực của một người không hệ tại ở điều gì khác hơn là sự vâng phục kính tin vào lời Thiên Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Thực tại mà Mẹ Maria và bà Elisabéth đang sống không phải là thực tại phàm trần do con người tạo nên, nhưng là thực tại siêu phàm, thiêng liêng do Thiên Chúa thực hiện và con người chỉ có thể nhận ra nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mà thôi, vừa đồng thời được mời gọi cộng tác vào đó nhờ qua thái độ khiêm tốn, vâng phục và kính tin.
57. Hoa trái.
Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ mang thai, một cây hoa sinh nụ, một gói quà sắp mở, một món ăn sắp lấy ra từ trong lò. Đó là những thời điểm kích thích thần kinh. Trẻ con nôn nóng xé tờ giấy gói quà, trở cái thìa trong đĩa. Những lúc mà vợ chồng đoán xem đứa con sẽ như thế nào. Thời gian chín mùi kết thúc, việc nảy sinh bắt đầu… vào thời giáng sinh đất trổ hoa đơm trái.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc đến đất đai, nguồn gốc và tận cùng. Một trái đã sẵn sàng để được hái. Muốn đánh giá tốt hơn trái đó ta hãy phân tích mảnh đất sản xuất ra nó. Người ta nói: “Cây nào, trái ấy. Ruộng nào, lúa ấy”. Đất và ruộng ở đây là những đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đọc.
Bài đọc một của ngôn sứ Mikêa đưa chúng ta trở lại mảnh đất tổ tiên. Chúa Giêsu xuất phát từ một dòng tộc, một lịch sử. Ngài nói tiếng nói của cha ông, mang một tên quen thuộc trong thôn xóm: “Hỡi Bêlem Epphata, chi tộc bé nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng sẽ cai trị Israel”.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là con người lịch sử do bởi di sản đã nhận được. Ngài sẽ dấn thân trong lịch sử ấy, trong dòng chảy của biến cố. Ngài sẽ tham gia vào cộng đoàn của Ngài, như ngôn sứ Mikêa loan báo: “Ngài sẽ đứng lên và sẽ là mục tử của họ”.
Bài đọc hai, trích từ thư Do thái, nói đến một loại đất khác còn thân thiết với chúng ta hơn là mảnh đất của nền văn hóa chúng ta. Người ta nói đến chất liệu làm nên xương thịt của chúng ta. “Chúa không muốn hy tế và của lễ, nhưng Ngài đã tạo cho con một thân xác”.
Hoa quả của Giáng sinh đầu tiên là Thiên Chúa nhập thể bằng xương bằng thịt. Chúa Giêsu là con cái của mảnh đất xác thịt từ đó mỗi người được sinh ra. Hoa quả mong manh. Hoa quả dễ hư nát nhưng cũng là cái vỏ cần thiết. Chúa Giêsu không phải là một bóng ma, cũng không phải là một giấc mơ, lại càng không phải là một ông già Noel. Ngài là người bằng xương bằng thịt, và có lẽ không đẹp như người ta hình dung hay tưởng tượng.
Và đây là mảnh đất thứ ba sẽ ban cho chúng ta Chúa Giêsu: mảnh đất của con người. Một phụ nữ, Đức Maria. Một phụ nữ đi đến gặp gỡ kẻ khác, cởi mở đối với tha nhân: “Maria nhanh nhẹn lên đường, bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabét”.
Chúa Giêsu sẽ thuộc về mảnh đất này, thuộc về phẩm chất hữu thể này: là quả được chúc phúc từ lòng Đức Maria, như ta vẫn đọc trong kinh Kính Mừng, một quả được chúc phúc sẽ mang sự chúc lành đến cho kẻ khác, sẽ làm cho họ vui lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ của Chúa đến viếng thăm tôi? Vì khi tôi nghe lời chào của em, hài nhi đã nhảy mừng trong lòng tôi”.
Vào dịp Giáng sinh những cuộc gặp gỡ thật quan trọng, những cuộc hội họp gia đình, bạn bè, chính là một trong những hoa quả tốt đẹp nhất của Giáng sinh. Những cuộc hội họp này là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa hiện diện chính là Chúa Giêsu: con người phát xuất từ một lịch sử và dấn thân vào lịch sử, con người bằng xác thịt, có thật, mỏng giòn, và con người của sự gặp gỡ. Và những mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp dường ấy cũng là những mảnh đất nơi chúng ta mọc lên. Vậy xin Chúa Giêsu làm nở ra nơi mỗi người chúng ta gương mặt của Ngài.
58. Tình thương.
Viếng thăm nhau là điều rất bình thường trong cuộc sống con người. Nhưng với thánh Luca, việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Isave ngoài ý nghĩa thông thường của một cuộc viếng thăm, nó còn mang một nội dung giáo lý rất sâu xa.
Thánh Luca đã đối chiếu cuộc viếng thăm này với cuộc cung nghinh hòm bia giao ước đã được ghi lại trong sách Samuel quyển thứ 2. Chúng ta có thể ghi nhận mối liên hệ giữa hai bản văn Thánh kinh Cựu và Tân ước qua hai chi tiết sau đây:
. Khi Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Israel trên núi Sinai, Người đã ban mười giới răn được khắc ghi trên hai bia đá, và Người truyền phải đặt hai bia đá ấy vào trong một cái hòm gọi là hòm bia giao ước. Hòm bia ấy là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Sách Samuel kể lại rằng: Khi vua Đavid thống nhất đất nước đã bị phân ly trước đó, ông nhất định đưa hòm bia giao ước về thành thánh Giêrusalem. Cuộc cung nghinh hòm bia là một niềm vui rất lớn đối với người Do thái, đến nỗi vua Đavid đã như trẻ con, vừa đi, vừa hát, vừa nhảy múa trước hòm bia.
Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong lòng và đi đến thăm bà Isave cũng đã mang lại niềm vui rất lớn cho bà và ngay cả thai nhi trong lòng bà cũng đã nhảy mừng.
. Cuộc cung nghinh hòm bia giao ước không về Giêrusalem ngay, nhưng dừng lại ở nhà ông Obed ba tháng. Trong thời gian này, gia đình ông đã nhận được biết bao nhiêu là phúc lộc. Cũng vậy, Mẹ Maria mang Hài Nhi Giêsu trong lòng đã ở lại nhà bà Isave ba tháng và cũng đã đem đến cho gia đình bà nhiều ân phúc.
Như vậy, điểm giáo lý quan trọng hàm chứa trong trình thuật thăm viếng này là: Bào thai trong lòng Trinh Nữ Maria chính là Thiên Chúa. Ngày xưa bia giao ước là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày nay, chính Thiên Chúa đã làm người và hiện diện thực sự giữa con người chứ không qua dấu chỉ nữa. Cung lòng Đức Maria đã trở nên nơi cho Thiên Chúa ngự trị trong những ngày tháng đầu đời làm người. Cung lòng ấy đã được coi là hòm bia của Thiên Chúa như trong kinh cầu Đức Bà chúng ta vẫn thường đọc: Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.
Nối kết nội dung giáo lý mà chúng ta vừa trình bày ở trên với ý nghĩa bình thường của một cuộc viếng thăm, chúng ta sẽ khám phá ra được một hướng dẫn rất cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay. Hướng dẫn đó là: Hãy mang Chúa đến cho anh em bằng những bước đi của tình thương.
Mẹ Maria đã đến với bà Isave chỉ vì bác ái, chỉ vì tình thương. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui, để giúp đỡ người chị em. Trong tình yêu thương ấy, bước đi của Mẹ đã trở thành bước đi của Thiên Chúa đến với con người. Và chính trong khi thực hiện tình yêu thương, Mẹ đã đem Chúa đến cho người chị em của mình.
Đức tin của chúng ta hôm nay cũng cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của tình thương. Bởi chỉ có tình thương mới đụng chạm đến trái tim con người, mới len lỏi vào được tận cõi thâm sâu của lòng người, nhờ đó mới làm cho người ta tin nhận Thiên Chúa một cách dễ dàng. Khi sống tình yêu thương đối với anh em mình thì đó đã là một lời tuyên xưng niềm tin, là một cuộc cung nghinh Thiên Chúa, là mang Chúa đến cho anh em, và là một việc làm bày tỏ sự tôn thờ rất đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng đã sống và chết vì yêu thương.
59. Khiêm hạ mở lòng đón Chúa – Anmai
Bởi đâu con người đã đánh mất nghĩa tình với Chúa? Bởi lẽ con người quá cao ngạo. Không cao ngạo đi chăng nữa thì cũng đi tìm kiếm sự cao ngạo để rồi qua sự tìm kiếm đó con người đã không còn chỗ cho Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình.
Hết sức cụ thể, hết sức rõ ràng nơi Ađam-Eva. Cũng chỉ vì cao ngạo để rồi đánh mất đi tình, đánh mất đi cái nghĩa cao đẹp mà Thiên Chúa đã dành cho hai ông bà. Thiên Chúa là Chúa, là Chủ nhưng rồi hai ông bà đã loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.
Sau chuyện của hai ông bà nguyên tổ, ta đi tiếp một chút trong dòng chảy của lịch sử loài người, lịch sử cứu độ thì ta vẫn thấy đâu đó hình ảnh của những con người kiêu ngạo, hình ảnh của những con người cứ tưởng rằng mình là lớn nhất và rồi tất cả những người mà lớn nhất đó đều bị sụp đổ, đều bị tiêu tan cả.
Bởi thế, cái mà con người coi là lớn, là hùng vĩ, là vĩ đại thì đối với Thiên Chúa chẳng là gì cả. Hình ảnh hay nói sát hơn một tí mà chúng ta có thể bắt gặp Lời mà Thiên Chúa nói cho con người biết về điều này thể hiện nơi các ngôn sứ.
Nhìn lại cuộc đời các ngôn sứ, chúng ta thấy man mác hình ảnh của những con người thấp cổ bé họng, những con người nhỏ bé. Thế nhưng đàng sau vóc dáng của những con người nhỏ bé đó lại ẩn hiện một hình bóng của Thiên Chúa.
Trang sách ngôn sứ Mikha mà chúng ta vừa nghe đã tiên báo về hình ảnh Đấng Cứu Độ trần gian: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Hình ảnh của Đấng Cứu Độ Trần gian mà Mikha loan báo khi xưa đã, đang hiện thực nơi cuộc đời của Chúa Giêsu.
Gioan Tiền Hô đã loan báo sự xuất hiện của một vị ngôn sứ lớn hơn Gioan gấp bội phần và vị ngôn sứ đó, ngay cả Gioan cũng không đáng cởi dép cho Ngài thế nhưng mà dân chúng chẳng tin. Bởi lẽ hết sức đơn giản là dân chúng lại mong chờ một đấng Mêsia đến trong cõi mây trời, trong vinh quang và nhất là cho dân Israel được nở mặt nở mày và cho dân Israel được ăn trên ngồi chốc.
Với cái nhìn như vậy, với cái nhìn xác phàm như vậy dân chúng thời Chúa Giêsu đã không nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Độ trần gian.
Giữa những cái nhìn như thế, giữa những quan niệm như thế chúng ta bắt gặp hình ảnh của một cô thiếu nữ Do Thái có tên là Maria. Cô thiếu nữ này đã mau nghe và chậm nói, đã suy đi nghĩ lại những lời mà các ngôn sứ đã nói, suy nghĩ những gì được loan báo trong Cựu Ước và rồi thiếu nữ đã tin nhận Đấng Mêsia đến. Không chỉ tin tin nhận đến mà còn đón nhận vào trong cung lòng của mình.
Hơn nhau là ở chỗ tin và đón nhận. Maria tin và đón nhận Đấng Cứu Độ vào trong cuộc đời của mình.
Trang Tin mừng hết sức ngắn mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một lần nữa nói lên lời xác tín của người chị họ Isave: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Phúc cho Bà là kẻ đã tin !
Hết sức tuyệt vời vì Bà là kẻ đã tin chứ không phải phúc cho bà vì bà cao ngạo, bà tưởng là bà to, bà tưởng là bà lớn.
Tin! Maria đã lặng lẽ và tin nhận quyền năng Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ khi nghe lời của sứ thần truyền.
Maria đã vâng theo Thánh ý của Chúa trong cuộc đời của Mẹ.
Để vâng theo Thánh ý Chúa, để đón Chúa vào trong cuộc đời không có con đường nào khác ngoài con đường khiêm hạ.
Trong tâm tình đó, thư gửi tín hữu Do Thái vừa nhắc nhớ chúng ta: Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: 'Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách'".
Thư gửi tín hữu Do Thái đã lấy lại tâm tình của ngôn sứ Isaia: Sách ấy bắt đầu như thế này: "Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Chỉ có khiêm hạ thì mới mở lòng đón Chúa đến trong đời mình mà thôi.
Ngày hôm nay, Chúa đã đến rồi, Chúa đã có đó rồi trong cuộc đời nhưng rồi người ta vẫn không nhận ra Chúa chỉ vì người ta cao ngạo.
Một chị kia đến không ngần ngại nói rằng nhiều lúc chị nghĩ đến cái chết vì gia đình chị đang gặp bế tắt. Hỏi thăm thì chị nói là chồng chị bị ung thư thận và rồi đang bế tắt và chị muốn tìm đến cái chết cho thanh thản cõi lòng.
Nghe chị nói xong, tôi mời chị hãy dành một chút thời gian nào đó để vào các phòng cấp cứu của các bệnh viện, ít là 115 và Chợ Rẫy để thấy tận mắt nơi đó sự sống của con người. Gia đình, người thân, con cái và đặc biệt là các y bác sĩ dù không hề quen biết nhưng với y đức, với tính nhân đạo của con người họ đã cố gắng hết sức cứu mạng sống cho con người dù mong manh. Tôi mời gọi như thế và chị chợt nhận ra rằng chị hạnh phúc hơn nhiều người. Chồng chị đang bệnh nhưng ít ra gia đình chị vẫn còn một mái nhà để tựa nương vì lẽ xung quanh chị và ngay trong cái bệnh viện Ung Bướu cách đây không xa vẫn còn đó nhưng con người đau khổ mà không có tiền để có được bữa cơm bình thường như bao người mà phải ngửa tay xin bữa cơm từ thiện.
Sau khi tôi phân tích, gợi lên một chút về sự sống, một chút về ân ban mà Thiên Chúa trao ban cho chị, chị nhận ra và mỉm cười với cuộc đời vì lẽ chị hạnh phúc hơn bao người.
Ta cũng thế, nhiều lần nhiều lúc vì cao ngạo để rồi ta không nhận thấy Chúa trong cuộc đời ta. Khi ta cho mình là nhất, khi ta cho mình là chủ đời ta thì không thể nào ta có chỗ cho Thiên Chúa được.
Hôm nay là ngày cận kề của Lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, học nơi Mẹ Maria sự khiêm hạ nhỏ bé để đón Chúa vào trong cung lòng chúng ta như Mẹ đã từng đón Chúa vậy.
60. Thánh Ý – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Mikêa loan báo Đấng thống trị Irael sẽ xuất hiện tại Belem, đất Giuđa. Chúng ta thường gọi vùng Belem này là Đất Thánh vì đã được đón nhận Đấng Cứu Thế. Người Do-thái dùng từ Đất thánh chỉ Nước Irael (Kingdom of Israel). Từ ngữ Đất Thánh (Holy Land) được dùng bởi cả người Hồi Giáo và Kitô Giáo để định vị miền đất giữa sông Jordan và vùng biển Địa Trung Hải. Đền thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do-thái và là nơi thánh. Cùng với những nơi Chúa Giêsu đã đi qua thi hành sứ mệnh và rao truyền ơn cứu đô. Xưa cũng như nay, có rất nhiều người, kể cả Do-thái, Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo đến hành hương trong miền Đất Thánh này. Nhiều người ao ước được đến viếng thăm những nơi Chúa Giêsu Nazarét sinh ra, nơi Chúa sinh sống và rao giảng, đồi Chúa chịu chết và nơi sống lại ra khỏi mồ. Nhiều Kitô hữu muốn đến tận nơi ngắm nhìn, đụng chạm, cảm nhận và suy niệm về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Chương trình cứu độ được tỏ hiện từng bước trong lịch sử dân Do-thái. Thánh ý của Thiên Chúa trải rộng khắp lịch sử của loài người và đặc biệt qua dân được tuyển chọn. Thiên Chúa đã chọn, gọi và sai các tiên tri hướng dẫn Dân đi qua từng biến cố lớn nhỏ. Tiên tri Mikêa đã loan tin: Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en (Mik 5, 2). Mikêa nói đến hình bóng của người phụ nữ đã được nhắc đến ngay trong những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, như lời Thiên Chúa đã hứa: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó (Stk 3, 15). Người phụ nữ này giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu độ loài người. Qua người nữ, Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra trong dòng dõi của những kẻ còn sót lại.
Trong thời Cựu Ước, những lời tiên tri loan báo từ từ được thực hiện. Một trinh nữ miền quê trong trắng, đơn sơ và thánh thiện đã được Thiên Chúa quan phòng để lãnh nhận sứ mệnh làm mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa vũ trụ đã hóa thân làm người nơi cung lòng của Đức Maria trinh nữ. Chúa chọn một người nữ bình thường để thể hiện những việc phi thường. Đất trời đã giao hòa. Sự kiện này hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa hạ thân làm người và một người nữ khiêm cung đón nhận hồng ân và cưu mang trong lòng. Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."( Lc 1, 38). Sau khi được sứ thần truyền tin cưu mang Con Thiên Chúa, Maria đã nói lời xin vâng và sống niềm tin sâu thẳm. Khi Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ là Isave, bà Isave đã lớn tiếng kêu lên rằng:"Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).
Từ một thôn nữ đơn thành chất phát, Maria đã trở nên máng chuyển ơn cứu độ. Kinh thánh đã ca khen vai trò của Mẹ Maria qua điềm lạ xuất hiện trên trời:Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12, 1).Thiên Chúa đã quan phòng thay đổi cuộc đời của Đức Maria trong vai trò trung gian của ơn cứu độ. Đức Maria đã hoàn toàn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa. Một mầu nhiệm cao siêu nhất hòa nhập trong một con người đơn sơ hèn mọn. Maria tiếp tục sống một cuộc sống hiền hòa, khiêm hạ và âm thầm lặng lẽ vâng phục trong nguyện cầu tín thác. Maria đã đi thăm viếng và giúp đỡ chị họ Isave trong lúc sanh nở. Maria đã không quản ngại phụ giúp chị trong mọi công việc dù thấp hèn nhất.
Sự khiêm hạ của Đức Maria là gương mẫu cho chúng ta. Đức Maria đã sống ơn gọi của mình một cách hoàn hảo. Biết rằng nếu muốn thay đổi số phận, chúng ta phải bỏ ra công sức để tôi luyện công đức. Công đức thay đổi nhân tâm. Công đức căn bản là thực hiện những điều khiêm hạ thấp hèn. Thường thường người ta nói về công đức cao siêu, nhưng cái thấp nhất và nhỏ nhất lại là cái vĩ đại nhất. Giống như nhà khoa học nghiên cứu những cái nhỏ nhất và đơn giản nhất để khám phá ra những qui luật chung mà mắt người thường không nhìn thấy được. Công đức căn bản là lao động công ích. Chúng ta nhìn qua những hành xử của thân, khẩu và ý. Thân nghiệp là hành vi dùng sức khỏe và chân tay lao động để giúp người và giúp đời. Khẩu nghiệp là nói những lời chân thành, nhẹ nhàng và nhân ái giúp gây bầu khí an hòa và cảm thông lẫn nhau. Ý nghiệp là khởi ý cầu mong sự tốt lành và an vui cho người khác.
Bà Isave và Đức Maria đã trao đổi tình thân hữu qua việc giúp đỡ và khen ngợi. Bà Isave đã chúc tụng: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc 1, 45). Khẩu và ý nghiệp của bà Isave vừa là lời chúc phúc, vừa là sự cầu mong những điều tốt lành cho Maria. Giáo Hội đã dùng lời ca ngợi của bà Isave biến thành lời cầu nguyện: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ… Đức Maria có phúc vì được Thiên Chúa ưu ái chọn lựa ban đầy ơn sủng. Đức Maria như bình gốm được Thiên Chúa tác thành theo thánh ý của Ngài. Đức Maria là một thụ tạo tuyệt vời để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế đã đến với đoàn dân của Ngài nhưng họ đã không nhận biết Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi lời đã tiên báo và đã đi trọn con đường dâng hiến theo thánh ý của Chúa Cha. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã ghi: Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 7). Sách Thánh này bao gồm toàn bộ những sách đã được linh ứng viết ra. Mỗi một cuốn sách dù dài hay ngắn đều có liên quan đến sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Công trình cứu độ được thực hiện qua sự hiến tế của Con Người là Đức Kitô, Đấng được xức dầu.Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Dt 10, 10). Chúa Kitô đã đổ ra giọt máu cuối cùng để dâng lễ hy tế trên thánh giá. Lễ hiến dâng toàn vẹn bằng chính sự sống.
Cử hành Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta suy niệm về Mầu Nhiệm Con Chúa giáng thế làm Người. Chúa đã giáng trần tại Belem cách đây hơn 2000 năm rồi. Đây là biến cố duy nhất xảy ra trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu Kitô đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã khiêm hạ bước xuống cùng tận cuộc đời. Chúa đã sống chung với các môn đệ nghèo hèn là những người lao động chài lưới và ít học. Chúa đã đi khắp các nẻo đường để gieo rắc tin mừng tình thương và chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương. Chúa đã giao hòa con người tội lỗi và ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến cùng. Chúa Giêsu nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới (Dt 10. 9).
Lạy Chúa, biết bao lần con đã thề hứa sẽ sống đạo tốt và sống theo thánh ý Chúa. Rồi biết bao lần chúng con đã lại sa ngã, chối từ và tìm theo ý riêng mình. Xin Chúa ban ơn đảm để chúng con biết nói lời xin vâng và sống tín thác như Đức Maria. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
61. Niềm tin
Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng ta về hình ảnh của Mẹ Maria như là mẫu mực của người có niềm tin. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường đi thăm viếng bà chị họ Isave. Qua biến cố đó, Mẹ Maria đã thực thi hai giới răn căn bản nhất trong đạo, đó là mến Chúa và yêu người.
Tình yêu Chúa phải là sức đẩy con người tìm đến với tha nhân. Trong tâm tình chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Những chuẩn bị đón mừng Chúa đến của chúng ta có được cụ thể hóa bằng những sự đón tiếp chân thành mật thiết mà chúng ta đã dành cho tha nhân không? Những kẻ không nhà, không cửa, những người khốn khổ cùng tận có tìm được một chút nương tựa nơi lòng quảng đại của chúng ta không?
“Ngày ấy Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến với một thành xứ Giuđêa, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave”. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã quen thuộc với những dòng trên đây, khung cảnh đã trở thành đề tài cho không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật. Hai người thiếu phụ đang mang thai, có họ hàng với nhau, tìm đến gặp nhau để giúp đỡ nhau. Hơn nữa, Maria người em họ ở lại ba tháng với người chị họ của mình.
Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì mà hai người đàn bà trao đổi cho nhau để giúp đỡ nhau, cũng như những lời tâm sự hỏi han mà họ chia sẻ cho nhau. Thế nhưng, thánh Luca tác giả đoạn Tin Mừng hôm nay đã không ghi lại một chi tiết nào về những giai thoại quí giá ấy. Nhưng trọng tâm của biến cố mà tác giả muốn nêu bật chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tuy còn trong lòng Mẹ đã là nhân vật chính của bức tranh, Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đó là tất cả những gì mà thánh Luca muốn làm nổi bật nơi biến cố Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Isave.
Lời chúc tụng của bà Isave và sự nhảy mừng của Gioan tẩy giả đã được thánh Luca ghi lại, gợi lên cho chúng ta việc dân Do thái kiệu hòm bia Thiên Chúa về thành thánh Giêrusalem. Vua Đavid vừa nhảy múa trước hòm bia của Thiên Chúa, vừa kêu lớn: “Bởi đâu hòm bia Thiên Chúa đến nhà tôi”.
Đối với người Do thái trong Cựu ước, hòm bia giao ước có chứa đựng mười giới răn, chính là biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mang Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng, Mẹ Maria cũng được ví như hòm bia của Thiên Chúa. Mẹ Maria chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa với Giáo Hội. Nhờ Mẹ Maria, Thiên Chúa trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với con người. Niềm vui no thỏa của bà Isave và hài nhi nằm trong lòng bà cũng phải là niềm vui của chúng ta trong Mùa Giáng Sinh này.
Hằng năm cứ đến Mùa Giáng sinh, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta sống một cách sâu sắc chân lý căn bản nhất trong niềm tin của mình: Đó là Thiên Chúa làm người để mặc cho cuộc sống của chúng ta một chiều kích thần linh.
Hai người chị em họ gặp gỡ nhau, hai người đàn bà trò chuyện với nhau, đó là chuyện thường ngày như cơm bữa trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, chính do sự hiện diện của Chúa Giêsu mà cuộc gặp gỡ thường ngày ấy đã trở thành một biến cố, hay đúng hơn thành một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Do đó tất cả mọi sinh hoạt của con người dù là những việc làm vô danh phiền toái nhất cũng đều có thể là một thể hiện của một tình yêu Thiên Chúa, cũng đều có thể là một loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở chúng ta: “Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm việc gì, anh em hãy làm sáng danh Chúa”.
Chúng ta hiệp nhau trong thánh lễ ngày Chúa nhật để cử hành bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Bánh Thánh và Rượu Thánh tượng trưng cho cả cuộc sống của chúng ta, cũng như bánh và rượu ấy sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu, thì toàn thể cuộc sống của chúng ta cũng được Chúa đón nhận để trở thành nơi gặp gỡ giữa Ngài và con người.
Gặp gỡ Chúa Giêsu trong những phút ưu việt trong thánh lễ đã đành, con người còn gặp gỡ Chúa qua từng phút giây sinh hoạt trong cuộc sống. Bàn thờ không chỉ ở trong nhà thờ, bàn thờ còn là cả cuộc sống. Chính cuộc sống với không biết bao nhiêu phấn đấu và hy sinh cùng với những cố gắng tin yêu phó thác. Đó chính là bàn thờ để gặp gỡ Chúa và loan báo Tin Mừng của Ngài cho mọi người.
Mẹ Maria là người lữ hành đức tin kiểu mẫu. Mẹ mang Chúa Giêsu trong mình, Mẹ đã sống từng phút giây trong cuộc sống như một cuộc gặp gỡ triền miên với Chúa, với tha nhân. Mẹ đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, đó là sống một cách sung mãn từng phút giây hiện tại, biến một phút giây hiện tại và cuộc gặp gỡ thành một lời loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu mà chúng ta đón nhận qua Bí tích Thánh Thể mang lại sức mạnh, để chúng ta cũng lên đường và sống như Mẹ Maria.
62. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi "(Dc 2, 8).
Chúa nhật I Mùa Vọng, Giáo hội thắp lên một ngọn nến màu tím tượng trưng cho sự tha thứ của Adam và Evà, đồng thời cùng với con cái mình vươn tâm hồn lên tới Chúa (Ad Te levavi).
Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội mặc lấy tâm tình của dân Sion, tâm tình của người trong tư thế nghênh đón chờ Chúa đến (Populus Sion) và thắp lên ngọn nến thứ hai, tượng trưng cho Đức tin của của Áp-ra-ham và các tổ phụ, là những người đã tin rằng có những món quà Thiên Chúa dành cho trong vùng Đất Hứa.
Sang Chúa nhật III Mùa Vọng, niềm vui trào dâng, màu sắc Phụng vụ từ tím chuyển sang hồng, nhất là bài Ca nhập lễ lấy lại lời của Thánh Phaolô gửi tính hữu Philipphê: Vui lên anh em - Gaudete... Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa...vì Chúa dã gần kề. Giáo hội thắp lên một ngọn nến hồng, tượng trưng cho niềm vui của David có dòng dõi ông sẽ trường tồn vạn kỷ. Điều này đã chứng minh cho giao ước của Thiên Chúa
Và đây là Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, sự nóng lòng mong chờ Chúa đến được thể hiện thật rõ nét. Có lẽ dân chúng không thể nén lòng mà trông đợi được nữa, nên đã cất cao giọng, mong rằng tiếng họ kêu được thấu tời Trời: Rorate... Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa, mưa Đấng Công Chính. Giáo hội thắp lên ngọn nến thứ tư, tượng trưng cho giáo huấn của các tiên tri đã loan báo một triều đại của công lý và hòa bình. Phụng vụ Lời Chúa diễn tả niềm vui của Dân Chúa: "Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi"(Dc 2, 8).
"Này đây Đức Vua đang ngự đến, nào chúng ta mau đến trước nhan Đấng Cứu Độ chúng ta" (Phụng vụ Mùa Vọng). Vua Sa-lô-môn cũng đã nói rõ: "Tựa nước mát khi cổ họng ráo khô. Nước bị đục, suối bị dơ, chính nhân bị kẻ gian ác làm nghiêng ngửa.(Cn 25,25). Quả thật, những lời trên loan báo Đấng Cứu Thế đến, Ngài đến để đem bình anh cho nhân loại, Ngài đến làm cho nhân loại hoà giải với Thiên Chúa Cha, quốc gia hòa giải quốc gia, người người hòa giải người người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia loan báo: "Bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị"(Is 52,7)...
Giống như những sứ giả, loan báo dòng suối mát trong lành tuôn đổ xuống trên những tâm hồn khát của tc. Họ loan tin Thiên Chúa đến, Ngài là nguồn nước uống của chúng ta "Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ." (Is 12:3).
Chính vì thế mà dường như người mang tin như Đức Maria, tâm hồn Mẹ tràn ngập niềm vui khi nhận lại được những lời của bà Elisatbét ,và người nhận được tin là bà Elisabét cũng có niềm vui khôn tả siết, nên đã thốt lên Thần: "Bởi đâu tôi được Thiên Chúa Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này? Lý do là cả người nhận lẫn người đưa tin đều vui mừng khôn sách, là vì cả hai đều đã được tưới gội bởi cùng một nguồn suối mát là chính Chúa Thánh Thần: Lúc đó, những tiếng vọng lên bên tai Mẹ Marai, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi."
Vì thế, ngày nay nhân loại hân hoan vui mừng khôn tả siết khi sắp được gặp gỡ Chúa Kitô, và lấy lời Thánh Vịnh mà kêu lên với nhau rằng: "Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi! (Tv 42,5)
Ước gì tâm hồn chúng ta ngày hôm nay, khi đang nô nức mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Một Chúa, và đón chờ Chúa đến làn thứ hai trong vinh quang của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cũng nhảy mừng hân hoan trong niềm vui của Chúa, và nô nức đến gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng chúng ta và thân thưa với Ngài với những lời này: "Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ. Lạy Chúa, xin thương giúp thành công. (Tv 117,25-26).
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, chắc chắn tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta cũng cảm nếm được niềm vui linh thiêng ấy khi thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì nghe lời chào của Đức Maria. Cuộc gặp gỡ diệu kỳ của một Vì Thiên Chúa và thánh Gioan Tiền Hô diễn ra trong cung lòng của hai bà mẹ. Đây quả là Tin Vui cho những ai mong đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa.
Xin cho nhân loại khắp hoàn cầu cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ khi cử hành lễ sinh nhật Con Chúa. Amen.
63. Mở rộng tâm hồn đón Chúa Giáng Sinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, thôi thúc chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Con Chúa ra đời.
Lời của ngôn sứ Mikha lôi kéo chúng ta hướng nhìn về Belem, châu thành bé nhỏ của nước Giuđê, chứng tá của một biến cố vĩ đại: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời” (Mk 5,1). Một ngàn năm trước Chúa Kitô giáng sinh, Bêlem đã là sinh quán của Ðavít đại vương, mà Kinh Thánh trình bày như là tổ tiên của đấng Mêsia. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bêlem bởi vì ông Giuse, chồng của bà Maria, “thuộc dòng dõi Ðavít” phải trở về nơi ấy để kiểm tra dân số, và chính vào lúc đó Maria đã hạ sinh Hài Nhi Giêsu (x. Lc 2,1-7).
Hôm nay thánh Luca tiếp tục giới thiệu cho chúng ta hai nhân vật là Đức Maria và người chị họ là Isave như hai mẫu gương tiêu biểu cho người thủ đắc niềm vui vì có Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta cần phải có thái độ nội tâm xứng đáng giống hai bà với đức tin năng động, để chiêm ngắm sự kiện nhập thể và giáng sinh của Con Một Chúa.
Isave, với sự khiêm tốn chân thành, “được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” (Lc 1,41-43). Nhờ tin mà Isave được Chúa Thánh Thần mách bảo cho biết, Maria người em họ mình là mẹ Thiên Chúa của bà. Bà cũng không ngần ngại tuyên xưng niềm vui của đức tin với Đức Maria: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45).
Đây là một thái độ đức tin mà chúng ta phải sống trong những ngày này. Noi gương Đức Maria và bà Isave, với một đức tin năng động. Chúng ta phải bày tỏ lòng biết ơn và niềm vui có đức tin của chúng ta. Giống như Đức Maria, chúng ta phải thể hiện bằng việc chúng ta làm. “Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave” (Lc 1,39-40), để chúc mừng và giúp đỡ người chị họ (Lc 1,56).
Thật là hữu ích cho những ngày này, chúng ta suy tư về trình thuật cuộc găp gỡ lịch sử giữa hai bà mẹ đang mang thai là Đức Maria và bà chị họ là Isave. Hai bà mẹ tràn ngập niềm vui. Niềm vui của Đức Maria là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Niềm vui ấy lan tỏa sang bà Isave. Bà Isave vui với niềm không ai có được là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Chính lời chào của Mẹ Maria, kẻ đã tin, làm cho Isave ngập tràn vui sướng, đến hài nhi cũng nhảy mừng trong lòng bà (x. Lc 1, 39-45).
Quả là một mầu nhiệm tuyệt vời! Gioan chưa sinh ra, ông đã cất lời tiên báo; thậm trí ông còn chưa thể cất tiếng khóc chào đời, ông đã bắt đầu nghe bằng hành động; sống đời rao giảng về Thiên Chúa; chưa thấy ánh áng, ông đã chỉ cho người ta thấy mặt trời; ông còn chưa lọt lòng mẹ đã nhanh nhẹn thi hành sứ mạng tiền hô, đi trước Chúa và loan báo cho mọi người biết: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội của trần gian (Ga 1, 29).
Có người hỏi: Thưa ông Gioan, hãy nói cho chúng tôi biết, lúc ông còn trong dạ mẹ, làm thế nào để ông thấy được và nghe được? Làm thế nào để ông nhìn thấy mọi sự của Thiên Chúa? Làm thế nào ông có thể nhảy mừng trong dạ mẹ vì vui sướng? Gioan trả lời: đây là mầu nhiệm vĩ đại được hoàn thành, là hành động vượt quá sự hiểu biết của con người. Luật tốt hảo tôi phải đổi mới trong trật tự thiên nhiên vì người phải đổi mới trong trật tự siêu nhiêu. Tôi đã thấy, ngay cả khi tôi chưa sinh ra, vì tôi cám thấy chứa đựng Mặt Trời công chính (Ml 3, 20). Tôi cảm nhận được bằng thính giác, bởi vì đi vào thế giới. Tôi là tiếng kêu trước của Ngôi Lời. Tôi kêu lên, vì tôi thấy Đấng tạo dựng vũ trụ nhận thấy thân phận con người. Tôi nhảy mừng,vì tôi nghĩ rằng Đấng Cứu Chuộc thế gian đã mặc lấy xác phàm. Tôi là Tiền Hô đi trước Người và làm chứng cho Người.
Đức Maria với niềm vui diễm phúc ngập tràn, vì Mẹ đã tin, đức tin của Mẹ hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa để phó thác cho Lời của Chúa trong thái độ hoàn toàn sẵn sàng trong tâm trí. Qua lời thưa “Xin vâng” tràn đầy niềm tin, Mẹ ý thức rằng, chính Thiên Chúa yêu cầu và Mẹ hoàn toàn tín thác nơi Chúa và phó thác cho tình yêu Chúa.
Biết bao lần Chúa đi qua cuộc đời chúng ta và bao nhiêu lần Chúa gửi một thiên thần đến với chúng ta: bao nhiêu lần chúng ta không ý thức điều đó, vì chúng ta quá bận rộn và chìm đắm trong những công việc của mình.
Ngày hôm nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu, lễ Giáng sinh là lời đáp trả của Thiên Chúa cho nhân loại đang cầu mong hòa bình. Ngôn sứ nói về đấng Mesia như là “Người sẽ đem lại hòa bình cho chúng ta”. Phần chúng ta, chúng ta hãy mở rộng cửa để đón tiếp Người. Chúng ta hãy học hỏi Ðức Maria và thánh Giuse cũng như bà Isave: nhờ đức tin, chúng ta hãy phục vụ kế hoạch Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu biết tường tận kế hoạch ấy, nhưng chúng ta hãy ký thác cho Thiên Chúa là Ðấng khôn ngoan và tốt lành. Tiên vàn chúng ta hãy tìm Nước Chúa, và Chúa Quan phòng sẽ giúp đỡ chúng ta. Chúng ta hãy sửa soạn tâm hồn để có một chỗ xứng đáng, nơi Chúa Giêsu Hài Ðồng cảm thấy mình được đón tiếp với đức tin và tình thương!
64. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân.
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?
2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?
3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua” có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”, ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.
Ngài đã chẳng từng nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!” (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…” (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
65. Chiếc xe van của Anne
Vào tháng Ba năm 1987, nhà nhật ký Maura Rossi viết về câu truyện của Anne Donahue. Anne tốt nghiệp Trường Đại Học Georgetown và tình nguyện giúp việc tại một trung tâm tên là Covenant House tại thành phố New York. Mục đích của trung tâm này là giúp chỗ ăn chỗ ở cho những người vô gia cư.
Mỗi buổi tối vào lúc mười giờ, Anne và những người tình nguyện khác chất đồ ăn lên xe. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, chiếc xe van với hình một con bồ câu trên một cánh cửa, sẽ đi vòng quanh các vùng trong thành phố mà có những thanh thiếu niên mãi dâm. Những người tình nguyện sẽ phát cho những người đó những chiếc bánh mì sandwich và sô-cô-la nóng.
Có lẽ các bạn đang suy nghĩ, tại sao trung tâm Covenant House mong muốn đạt mục đích gì khi họ cứ đi phát đồ ăn mỗi đêm như thế?
Anne trả lời cho câu hỏi này là: "Chúng tôi đi ra ngoài đó, bởi vì chúng tôi biết rằng có rất nhiều người trẻ còn chưa biết đến trung tâm Covenant House. Khoảng chừng hai phần ba trong số đó chưa từng bao giờ nghe biết về chúng tôi."
Anne còn tiếp rằng qua việc từ thiện đó, họ còn đạt được một điều khác nữa. Khi họ làm như vậy thì họ cho những người trẻ mãi dâm đó biết rằng họ được yêu thương, và còn có những người đến với họ mà không phải để mua hoặc bán họ.
Liên quan đến năm đầu tiên trong tư cách là một người tự nguyện, Anne nói: "Tôi đã trải qua những lúc căng thẳng. Chúa là Chúa gì đây mà để cho những người trẻ đó phải đau khổ như thế?... Sau hết tôi đã vượt qua... Chúa không xuống thế gian và chỉ cho tôi biết tình yêu của Ngài. Chúng ta phải để cho tình yêu của Chúa làm việc qua chúng ta."
Cô ấy nói rất đúng. Thiên Chúa đã làm việc đó qua con người của Chúa Giêsu. Đó là tất cả ý nghĩa của Mùa Vọng. Vì thế: "Chúng ta phải để cho tình yêu của Chúa làm việc qua chúng ta."
Cũng như Chúa Cha đã làm việc qua Chúa Giêsu khi Ngài còn sống trên thế gian này thế nào, thì Chúa Giêsu dậy chúng ta cũng hãy để cho Chúa Cha làm việc qua chúng ta trong cuộc sống dương gian này như thế. Chúng ta hãy trở nên những dụng cụ của ơn Chúa cho người khác, như chính Chúa Giêsu đã làm.
Cô Anne đã phục vụ như là một dụng cụ của ơn Chúa đến với rất nhiều người trẻ đang sống trong thiếu thốn. Cô đã làm điều mà Mẹ Maria đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Cô đã thưa tiếng xin vâng với sự mời gọi của Thiên Chúa để trở nên phương tiện cho tình yêu của Ngài trong thế giới ngày nay.
Điều mà Anne và Mẹ Maria đã làm thì chúng ta cũng phải làm. Chúng ta không biết rằng nếu Chúa Giêsu có xuống thế gian làm người một lần nữa, thì sự việc đó phải qua chúng ta.
Đôi lần chúng ta đã quên mất rằng, trong một số trường hợp trong cuộc sống trần gian này, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy nói điều mà Mẹ Maria đã nói: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm nơi tôi theo như lời ngài truyền."
Chúa Giêsu đã sinh xuống trần gian. Tại sao Chúa Giêsu đã xuống thế gian? Bởi vì qua việc làm đó, chúng ta học được bài học mang Chúa đến cho người khác.
Đó là một bài học quí giá nhất. Bởi vì đó là bài học mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta khi Ngài nhập thể xuống trần gian.
Như Mẹ Maria đã mang Chúa đến với chúng ta qua những lời của Mẹ nói với thiên thần trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cũng hãy mang Chúa đến cho người khác. Chúng ta phải học được bài học này, nếu không, chúng ta đánh mất đi cái ý nghĩa của ngày lễ mà chúng ta đang chuẩn bị để cử hành.
66. Niềm vui của việc tin tưởng
Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến đi trong thánh Luca, tác giả Phúc Âm chuyên viết về những con đường. Sách Phúc Âm của ngài chuyển động, cũng thế đối với quyển sách thứ hai của ngài, quyển Công vụ Tông đồ. Từ Nagiarét, sự cứu độ sẽ tiến về Giêrusalem, rồi sau Phục sinh, sự cứu độ sẽ bắt đầu chinh phục thế giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Thánh Phêrô giải thích các chứng nhân là những người “đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”.
Đây là bước truyền giáo đầu tiên: Đức Maria vội vã lên đường khi đang còn vang vọng lời truyền tin. “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, Đức Maria vội vã đi xem sự kỳ diệu đầu tiên được loan báo: “Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Đức Maria tin điều ấy. Tất cả đều lạ lùng và bà tin. Một niềm vui xâm chiếm bà, thúc đẩy bà; niềm vui tin tưởng, niềm vui đi vào trong thời đại cứu độ và là người mở ra thời đại đó. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét chiếu sáng niềm vui của việc tin tưởng. Bà Êlisabét thốt lên nhiều lời vui mừng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria trả lời bằng bài ca Magnificat, bài hát vui mừng của người.
Luca cống hiến cho chúng ta niềm vui rất đặc biệt này của đức tin.: Thánh Thần. Thánh Thần xuống trên Đức Maria. Ngài tràn đầy trong lòng bà Êlisabét. Ngài tràn ngập nơi các môn đệ vào lễ Hiện Xuống. Ngài đầy tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố rằng Chúa Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, nhưng là Đấng Cứu Thế không như người Do thái nghĩ: Thiên Chúa ban Con Ngài cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tuỳ thuộc vào sức mạnh mà chúng ta tin vào điều đó. Chúng ta sa lầy trong những điều phụ thuộc. Chúng ta những Kitô hữu tranh luận với nhau vì những chi tiết thay vì sống trọn và loan truyền điều cốt yếu, mặc khải kỳ diệu: Con Trẻ sẽ sinh ra từ Đức Maria là Con Thiên Chúa. Có một bài hát khác phát xuất từ bài Magnificat, bài Benedictus: “Chúc tụng Chúa, Ngài đã viếng thăm dân Ngài”.
Đích thân Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta! Có nhiều điều phải tin: sự phục sinh của Chúa Kitô, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể, việc tha tội lỗi cho chúng ta, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và cái chết. Nhưng đối với tất cả những điều đó, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng và vững chắc nếu chúng ta bám rễ vào điều khó nhất: tin rằng Thiên Chúa đã đến trên các con đường của chúng ta: ‘Chúng ta đã thấy các bước chân của Thiên Chúa gặp gỡ các bước chân của con người’.
Để Ngài đến ở với chúng ta, phải có Mẹ Maria. Không gì có thể làm cho chúng ta tôn sùng Mẹ hơn là việc thấy Mẹ hạnh phúc biết bao khi tin và dâng hiến Con Trẻ để cho những niềm vui đầu tiên của đức tin bùng nổ. Muốn nói về Đức Maria, Công Đồng đã có từ ngữ rất đẹp này: Mẹ đã giới thiệu Sự Sống cho thế giới. Chính điều này đã làm con trẻ của Êlisabét nhảy mừng, và đó là điều làm chúng ta vui mừng trước mặt Đức Maria: Mẹ là Sự Viếng Thăm của Thiên Chúa, Mẹ giới thiệu cho chúng ta Sự Sống, Sự Sống trở thành sự sống của con người đối với chúng ta.
Nếu tin điều này là niềm vui của chúng ta thì chúng ta đừng quá che đậy niềm vui đó. Chẳng hạn trong một cuộc thăm viếng mà sự tiếp xúc có thể được thực hiện trong một chiều sâu nào đó, ai mà biết được? Trong khi lắng nghe chúng ta, hay có thể chỉ nhìn chúng ta mà thôi, một người nào đó có thể vui mừng.
67. Hãy đón nhận Chúa
(Suy niệm của Lm. Anthony Việt Toàn)
Mầu nhiệm Nhập thể là là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ.Và Ngài được thụ thai cách nhiệm mầu trong lòng trinh nữ. Nói một cádch khác: Để chương trình cứu độ được thành công, Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Mặc dù khi dựng nên con người, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến, nhưng để cứu chuộc, Thiên Chúa cần con người cộng tác bằng hành động cụ thể đó là đón tiếp Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi nhận Đức Maria như một mẫu gương đã đón nhận Thiên Chúa.
Thật vậy, Đức Maria đã đón nhận Thiên Chúa bằng lời xin vâng. Nhờ đó mà Đấng thi hành thánh ý của Thiên Chúa mới ngự xuống trong cung lòng Mẹ. Lời xin vâng này của Đức Mẹ, không phải chỉ là một ưng thuận bên ngoài, nhưng xuất phát từ một người có niềm tin vững chắc vào Lời Chúa: "Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện" (Lc 1,45). Nói một cách khác, hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ, phát xuất từ một nếp sống, đã có những nhân đức và tư cách khả dĩ lôi kéo được sự chú ý đặc biệt của Thiên Chúa, đã khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ hơn bất cứ phụ nữ nào khác.
Và Đức Maria là người có diễm phúc không phải chỉ trong hay giữa các phụ nữ mà còn hơn hết mọi phụ nữ. Bởi vì Con Mẹ đang cưu mang trong lòng chính là nguồn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc của Mẹ lệ thuộc vào hạnh phúc của Con và do Con mà có, vì Con trong lòng Mẹ là Đấng Thánh, là Con Đấng Tối Cao, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa; cũng chính do nguồn hạnh phúc đó mà bà Elisabeth được tham dự vào hạnh phúc vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm; hơn nữa hài nhi mới được 6 tháng trong lòng bà cũng cảm nhận được hạnh phúc tràn đầy nên cũng nhảy mừng khi mẹ mình vừa nghe lời Đức Maria chào.
Đức Maria như một đại diện nhân loại đã đón nhận Thiên Chúa một cách hoàn hảo. Mẹ là gương mẫu cho tất cả những người muốn đón nhận Chúa. Vấn đề đặt ra hôm nay là: chúng ta đã chuẩn bị đón nhận Chúa như thế nào trong lần kỷ niệm ngày giáng sinh này? Có phải chỉ là những chuẩn bị quà bánh, đèn sao, máng cỏ,...mà thôi? Bởi vì Đức Maria đã đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta thì chúng ta cũng phải đón nhận bằng chính cuộc sống mình.
68. Những cách viếng thăm
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.
Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria
Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét. Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện"(Lc, 43,45).
Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.
Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu
Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn; miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống lại.
Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời của họ trong niềm vui và sự bình an.
Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo; đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post, xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013. Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo đói”(Theo Nguyễn Long Thao).
Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo hoàng ôm lấy như sau:
“Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi, hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).
Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay
Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình: Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên, yên ủi và giúp đỡ họ.
Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của chúng ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen.
69. Thưa vâng với Thiên Chúa
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là ‘truyện thời thơ ấu Chúa Giêsu’ và cho rằng tất cả chỉ là ‘thần thoại’. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tượng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.
Đức Maria đi thăm chị họ là bà Êlisabét và được đón chào: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Êlisabét, nhận định của bà đối với hết thảy chúng ta rất là quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Giáp lễ Giáng sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:
1) Mầu nhiệm trinh khiết.
Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Êlisabét cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu thế. Được ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời, Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.
2) Mầu nhiệm làm mẹ
So sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.
Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành sứ mạng mình.
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.
70. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
THĂM VIẾNG
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đã nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bài thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nào đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bất hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
71. Suy niệm của R. Gutzwiller
THĂM VIẾNG
1. Những sự kiện
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau để cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả những cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thiên thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Thần. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: ‘Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc’. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ‘….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
‘Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?’. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này ‘Mẹ của Chúa tôi’: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
‘Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn’. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin sống động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiếp tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
72. Chú giải của Noel Quesson
Hồi ấy
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta "ngẩng đầu lên" trước Đức Kitô vinh quang đang "hiện đến" trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày "cánh chung". Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là "Công Chúa” hay "Bà lớn".
Đoạn văn nói cho ta hay, "Bà hấp tấp chỗi dậy", có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. "Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai... và nay đã có thai được sáu tháng". Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng "lên thành Giêrusalem" để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất... đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã "thừa sai". Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: "ở nhà"... "giữa những bà con", ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 - 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: "Shalom" có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.
"Đứa con nhảy lên trong bụng". Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một "dấu chỉ" nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: "ngay từ trong lòng mẹ", ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng "Chúa biết mình" (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn "đi trước" chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ "đổ xuống trên mọi xác thịt" (Cv 2,17-21 - Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là 'không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã "ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng" (Lc 1,66 - 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 - 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu "tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: "Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này".
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 - Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ": đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được "đầy ơn Thánh Thần". Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là "'quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những "đồ vật" phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể "sống động" của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người... "Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không" (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: "Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ "Koilia" thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).
Từ "giật mình" hay "nhảy lên", gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng" ("agalhasis") chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng" như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là "có phúc", vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc" này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: "Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa" (Lc 11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh "Magnificat anima mea Dominum" "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi".
22/12 Bài ca tạ ơn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Bài ca tạ ơn.
Thứ Bảy tuần 3 mùa vọng.
"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
LỜI CHÚA: Lc 1, 46-56
Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Magnificat
Người đời Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.
Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.
Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.
Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.
Suy Niệm 2: Ngợi khen Chúa
Bấy giờ Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. (Lc. 1, 46-47)
Tin mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:
Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,
Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.
Thực vậy, Đức Maria đã nhận biết Thiên Chúa, đã yêu thương chính riêng mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa đã đổ đầy cho mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy”.
Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.
Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.
Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài … tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Áp-ra-ham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.
A.N
Suy Niệm 3: LINH HỒN TÔI TẠ ƠN CHÚA (Lc 1,46-56)
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, cha ông ta rất đề cao chữ hiếu và lòng biết ơn sâu xa đến với những người làm ơn cho mình. Không biết nói lời cám ơn, đồng nghĩa với việc bất hiếu.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy việc Đức Maria đã hân hoan dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu nơi Mẹ, lời tạ ơn ấy được gói trọn trong bài ca Magnificat.
Bài ca này, Mẹ Maria muốn diễn tả:
Thứ nhất, tâm tình ngợi khen, chúc tụng vì Thiên Chúa đã làm những việc cả thể nơi Mẹ là đã thương chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng mà muôn dân mong đợi.
Thứ hai, Mẹ nhận thấy Mẹ được muôn đời khen ngợi vì có phúc là bởi Mẹ có Chúa ở cùng, nên lòng Mẹ sung sướng, tràn ngập trong ân sủng.
Thứ ba, Mẹ đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi ra tay dẹp tan lòng trí người kiêu căng, nhưng lại ra tay bênh đỡ kẻ nghèo hèn.
Cuối cùng, Mẹ đã ca ngợi sự trung thành của Thiên Chúa trong việc giữ lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Nếu trong Vườn Địa Đàng, con người phạm tội và Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế đến, thì hôm nay, Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến trong cung lòng Mẹ, Ngài sẽ cứu chuộc Israel và muôn dân...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Chúa vì Ngài cũng làm cho chúng ta biết bao kỳ công. Ơn vĩ đại nhất chính là ơn cứu độ. Hành vi cao thượng hơn cả đó chính là sự quảng đại, tha thứ của Thiên Chúa trên mỗi người.
Cất cao lời tạ ơn Chúa còn giúp cho chúng ta nhận ra mình yếu đuối và đang được Thiên Chúa thương yêu. Đồng thời cũng bày tỏ lòng sám hối, biết ơn với Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành.
Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con xin hợp cùng Mẹ Maria cất cao lời ngợi khen Chúa vì Chúa đã làm cho chúng con biết bao điều kỳ diệu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Nữ tỳ hèn mọn
Suy niệm :
Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria
sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.
Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.
Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.
Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,
và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).
Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).
Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.
Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.
Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).
Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.
Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.
Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.
Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Cầu nguyện :
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
21/12 Thăm viếng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Thăm viếng.
Thứ Sáu tuần 3 mùa vọng.
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm
Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".
Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.
Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.
Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.
Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.
Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Đi thăm bà Isave
Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.
Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.
Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.
Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.
Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.
Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…
Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.
Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hay ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.
Suy Niệm 3: Chia sẻ đức tin
Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (Lc. 1, 40-42)
Ngay sau khi Đức Maria biết bà Ê-li-sa-bét đã quá già mà sắp sinh cậu ấm, Mẹ đã đến thăm viếng bà, không phải để xác minh lời thiên sứ có thật không, nhưng để thực thi thánh ý Thiên Chúa và thăm viếng bà chị cùng đồng cảnh với mình. Hơn thế nữa, Đức Maria thấy cần chia sẻ niềm vui và lòng tin của mình với người khác.
Cả hai đều luôn dễ vâng lời và hiểu biết thánh ý Chúa. Cả hai đều được Thiên Chúa đã làm những sự lạ lùng.
Tin mừng tường thuật cho chúng ta biết một cách vắn gọn về việc đã xảy ra giữa hai người nữ diễm phúc. Người ta tưởng tượng khá tốt rằng: Cả hai đã cống hiến một thời gian dài để giúp nhau khám phá ra ý nghĩa về việc sẽ xảy đến với hai bà. Và như tất cả các bà mẹ, hai bà mơ ước về hai đứa con sẽ trở nên thế nào …
Phần chúng ta, họa hiếm lắm chúng ta mới biết chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, vì thực sự chúng ta không quen. Khi những người tín hữu chúng ta gặp nhau, hầu hết là để tổ chức hoạt động, để thảo luận vấn đề khác. Chúng ta rất ít khi tụ họp để bày tỏ cho nhau những tâm tình tận đáy con tim, những điều chúng ta tin tưởng, những điều chúng ta trông cậy. Chúng ta không dám cởi mở cho nhau hết tấm lòng mình về Đức Kitô. Chúng ta không dám nói cho người khác những điều Thiên Chúa đối với mình, đã làm cho mình, với vợ con mình, và cả với các bạn tri kỷ của mình. Chúng ta hầu như không bao giờ nói về Đức Kitô.
Chính vì thế, chúng ta hình như đã quên, hay hình như đã không còn hiểu gì về Đức Kitô, đến nỗi chúng ta thực sự rất cô đơn trong niềm tin. Thực thế, chúng ta còn nhiều điều phải học biết.
Chúng ta cần thiết phải biết lòng tin của người khác để củng cố lòng tin của chúng ta. Và người khác cũng cần biết lòng tin của chúng ta để củng cố niềm tin của họ.
Khi Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét gặp nhau, các ngài nói cho nhau biết thông cảm những điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm cho mình để tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết chia sẻ lòng tin của chúng ta với nhau, có lẽ chúng ta sẽ thấy được những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.
J.Y.G
Suy Niệm 4: CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG (Lc 1, 39-45)
Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến...
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét... Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.
Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.
Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi
Suy niệm :
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu nguyện :
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
20/12 Truyền tin cho Đức Maria
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Truyền tin cho Đức Maria.
Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.
"Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh". Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam". Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?
Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài, và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.
Thế nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng "Xin Vâng" thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ. Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên, khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Câu hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con người: "Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay của người nam". Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.
Nhờ thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa "Xin Vâng". Hai tiếng "Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:
"Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người có nghe náo động cả phương trời?"
Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng. Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong "tin yêu", vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai tiếng "Xin Vâng" như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em của Ngài.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Truyền tin cho Đức Maria
Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?”.
Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.
Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta lặp lại xác tín đó. Sứ thần được sai đến với một Trinh nữ khiêm hạ, thuộc một ngôi làng nhỏ bé Nazarét, xứ Galile. Nhưng chính từ khung cảnh âm thầm ấy, thánh Luca đã làm nổi bật những tước hiệu cuả Đấng Cứu Thế: “Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối cao. Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”.
Một Thiên Chúa Toàn năng đã đến gặp con người, trong thân phận con người, trong khung cảnh bình thường, trong những bất ý nhất của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta mỗi khi tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chuá, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria”.
Nét độc đáo của niềm tin Kitô là tuyên xưng Thiên Chúa đã mặc xác phàm. Và tin nhận Thiên Chúa làm người cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong từng phút giây cuộc sống, là biến mỗi phút giây cuộc sống thành cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Suy Niệm 3: Hỏi hay chiêm niệm
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.
Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xãy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc. 1, 30-31. 34-35)
Nhiều câu hỏi được đặt ra:
Khi thiên thần Gáp-ri-en báo tin cho Maria sẽ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ không thể không hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? Vì tôi khấn giữ đồng trinh”. Mẹ hài lòng vì câu trả lời của thiên thần nên nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Chúng ta tò mò hơn Đức Maria, không chỉ hỏi một câu mà nhiều câu thắc mắc liên quan đến sự sinh con đồng trinh của Đức Mẹ.
Người duy lý hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc nghịch với bản tính tự nhiên?”. Kẻ đa nghi hỏi: “Có thể xảy ra như thế không? hay thánh sử Tin mừng tô điểm thêm cho đẹp”. Tín hữu yếu đức tin cũng hỏi: “Tại sao chúng ta buộc phải tin điều như thế?”.
Câu trả lời chân chính: Chúng ta không chấm dứt được những câu hỏi đặt ra cho chúng ta về vấn đề sinh hạ Đức Giêsu cách lạ lùng. Những câu đó là vô ích. Trong khi tìm cách trả lời, chúng ta cố gắng chiêm niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm của Thiên Chúa và nắm bắt lấy thánh ý Ngài một chút.
Nhưng câu hỏi chân chính nên đặt ra chính là câu hỏi: Chúng ta có nên hỏi hay nên chiêm niệm mầu nhiệm cưu mang đồng trinh? Điều nào là quan trọng hơn? Đức Maria nhất thiết chọn việc chiêm niệm mầu nhiệm hơn. Ngài đã đón nhận và suy niệm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài không thử thách Thiên Chúa, không tìm cách thọc mạch những điều bí ẩn. Ngài đã hoàn toàn tin cậy Chúa. Mẹ đã nhận thấy điều căn yếu này: Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ những điều lạ lùng.
Nếu chúng ta chăm chú chiêm niệm hơn về mầu nhiệm sinh ra Đức Giêsu, có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm được những câu đáp tốt lành cho những thắc mắc của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ được chìm vào sâu thẳm của mầu nhiệm khi chiêm niệm, và lúc đó những thắc mắc sẽ biến tan.
J.Y.G
Suy Niệm 4: “XIN VÂNG” (Lc 1,26-38)
Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.
Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng...
Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía...
Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.
Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.
Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.
Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa
Suy niệm :
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).
Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít là một lần trong đời.
Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin hãy quay lại nhìn con
bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để con òa khóc như trẻ thơ.
Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như Chúa đã trìu mến
nhìn người thanh niên giàu có.
Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng ánh mắt của Chúa.
Chúa động lòng thương
khi thấy bao người yếu đau,
thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng Chúa cũng vui
khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.
Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/12 Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a.
Thứ Tư tuần 3 mùa vọng.
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra
Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: "Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:
- "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".
- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.
Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đùng quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Truyền tin cho Zacaria
Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.
Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.
Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Suy Niệm 3: Một Thiên Chúa đột xuất
Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…”. (Lc. 1,11-13)
Ở tuổi già và với người vợ son sẻ, ông già Gia-ca-ri-a không còn hy vọng gì có con nữa. Đứa con trong ước mơ đã được ông liên lỉ cầu nguyện. Nhưng bây giờ về cuối đời rồi, ông không còn cầu nguyện xin sinh cậu ấm như trước nữa. Không còn trông cậy kêu xin một điều hão huyền đó với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, với Thiên Chúa, không có gì hão huyền, không có gì bất lực. Điều không thể đó sẽ xảy ra. Ê-li-gia-bét, vợ ông, sẽ sinh Gioan tẩy giả.
Ông Gia-ca-ri-a đã suy ngắm Kinh thánh suốt đời ông, tuy vậy, ông vẫn nghi ngờ một chút rằng Thiên Chúa đã luôn luôn hài lòng nắm giữ trong tay mọi sự và thực hiện những kỳ công trong lúc bất ngờ. Ông đã biết rõ rằng trong quá khứ, nhiều lần hình như tuyệt vọng, như mất hết, Thiên Chúa đã can thiệp giải thoát cho dân khốn cùng. Ông đã biết thế, nhưng ông không thể tưởng tượng được Thiên Chúa lại làm như thế cho ông.
Chúng ta nhiều lần có những nghi ngờ như ông Gia-ca-ri-a. Đọc Kinh thánh, chúng ta thấy lạ lùng trước những sự kiện cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện trong suốt dòng lịch sử, nhưng ý nghĩ như thế không còn xảy đến nên không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Chúng ta tin nhiều kỳ công Thiên Chúa đã làm cách đột xuất lạ lùng xưa kia hơn là ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình xem mình còn tin thật rằng Thiên Chúa luôn luôn sống động không?
Hiện thời Giáo hội đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giáo hội đang đi trong đen tối, không còn ảnh hưởng như xưa. Nhiều con cái đã bỏ Giáo hội. Nhiều con cái khác lại phản đối Giáo hội trầm trọng. Hầu như chạy tán loạn! Sau cùng … nhiều kẻ nghĩ và nói rằng: “Tương lai không còn Giáo hội nữa”.
Nhưng chính những lúc đó, khi tất cả đều đen tối và như tuyệt vọng, thì Thiên Chúa lại hiện ra mạnh mẽ hơn xưa. Chúng ta có còn đủ niềm tin rằng Ngài sẽ lại hiện đến không? Chúng ta còn đủ lòng hy vọng cậy trông rằng khủng hoảng hiện thời sẽ là một khủng hoảng trưởng thành, khủng hoảng thăng tiến không?
Thiên Chúa mà chúng ta cử hành lễ tạ ơn Ngài là một Thiên Chúa đột xuất và sống động hàng ngày.
G.F
Suy Niệm 4: THIÊN CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI CÔNG CHÍNH (Lc 1, 5-25)
Trong cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Đây là tâm trạng của ông Giacaria và bà Êlisabét. Hai ông bà là người cao niên. Qua nhiều năm, họ đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa ban cho mình một mụn con. Tuy nhiên, càng mong càng mất. Vì thế, đã có lúc, ông bà thất vọng và không còn dám mơ ước một điều mà ông bà cho là viển vông.
Tuy nhiên, giờ của Thiên Chúa đã đến, Người đã đoái thương đến người công chính, vì thế, Ngài đã ban cho ông bà một điều kỳ diệu, đó là cho bà Êlisabét mang thai một người con trai, mà sau này chính là Gioan Tẩy Giả.
Đây là một phép lạ cả thể, đến nỗi chính bản thân ông Giacaria cũng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, bởi vì trong suốt lịch sử dân Israel, nhiều lúc Thiên Chúa đã can thiệp cách phi thường cho dân. Tuy vậy, vì sự chờ mong quá lâu, và hai ông bà đã về già, nên những chuyện mà hai ông bà đang cầu xin là điều khó có thể xảy ra! Nhưng Chúa có cách của Ngài.
Trong cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị thử thách bằng thời gian, đôi khi trong sự chờ mong của chúng ta bị đánh đổi bằng đau khổ và nước mắt. Thiên Chúa để chúng ta chờ mong như vậy, không có nghĩa Ngài là vị Thiên Chúa vô cảm, nhưng ngang qua đó, Thiên Chúa muốn biểu lộ quyền năng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, trong lịch sử cho thấy, đã có biết bao người thua cuộc. Đã có nhiều người phải đầu hàng vì thiếu niềm tin mạnh mẽ, can trường.
Thật vậy, muốn chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đôi khi chúng ta phải có đủ độ lỳ trong hy vọng vào quyền năng của Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con thêm niềm hy vọng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chuẩn bị sẵn sàng
Suy niệm :
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi
là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.
Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét
đã sống với nhau bao lâu mà không có con.
Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).
Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.
Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,
dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).
Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?
Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).
Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh
để lau hương án và dâng hương mới.
Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,
ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.
Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.
Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,
vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.
Một con người chưa được mang thai và chào đời,
nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.
Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).
“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).
Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.
Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,
Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).
Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.
Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn
đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).
Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.
Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.
Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.
Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.
Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.
“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”
Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.
Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.
Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,
Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.
Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.
Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.
Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.
Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,
có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 18/12 Thiên Chúa ở cùng chúng ta
- 17/12 Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô
- 16/12 Phải làm gì?
- 15/12 Gioan Tẩy Giả là Elia
- 14/12 Chủ quan, phiến diện
- 13/12 Gioan Tẩy giả được Chúa khen
- 12/12 Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
- 11/12 Con chiên lạc đàn
- 10/12 Chữa người bất toại và quyền tha tội
- 09/12 Dọn-sửa đường cho Chúa đi