Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
02/02 Dâng con trẻ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dâng con trẻ.
02/02 – Thứ Bảy đầu tháng, tuần 3 thường niên – DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến). Lễ kính.
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng kính hai biến cố: đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn nẻo đường đời.
SUY NIỆM 2: Trinh nữ hiến dâng
Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.
Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ lên đền thờ, rồi ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho Thiên Chúa.
Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như sau:
Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau.
Thực vậy, không một sự dâng hiến nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế?
Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát. Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải chấp nhận hy sinh và khổ đau.
Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Một khi đã cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.
Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.
Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.
Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay đắng của ông già Simêon:
- Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…
Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả nhất.
Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.
Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng, chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.
Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những ai trao ban một cách vui vẻ.
SUY NIỆM 3: Tiến Dâng Cho Chúa
Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: "Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng, cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm, vì Ngài đã vượt qua được cái tôi, và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha, chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ, đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình. Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo, một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi. An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày, trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ, cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ, nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
SUY NIỆM 4: Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con
Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem để dâng Hài Nhi Giê-su trong đền thờ là tục lệ sau này, thời Abraham và Môisê chưa có đền thờ! nhưng lễ dâng con thực sự có từ thời cắt bì, đó là lúc dâng con trẻ và lễ hy sinh đền tội và lễ tạ ơn.
Của lễ Đức Ma-ri-a dâng hoàn toàn hợp luật Môisê. Đức Ma-ri-a dâng mình trong đền thờ, Ngài vào đền thánh xin tư tế dâng lễ hy sinh lên trước Giavê Thiên Chúa để đền tội và thanh tẩy.
Điều đó dạy tôi gì? tôi phải hiểu sứ điệp đó thế nào? vì luôn luôn Tin Mừng nói với tôi một sứ điệp qua những câu kinh thánh. Tôi phải suy niệm, mới giúp tôi hài lòng về những đợt sóng lời Chúa, xem ra bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng đó là những tiếng nói linh ứng cho ai biết tự cầu nguyện tự phát.
Sứ điệp đó là sứ điệp sống dịu hiền, vui mừng trung thành theo luật dạy một cách đơn sơ chân thành. Bài ca của cụ già Simêon rất đẹp, lời tiên tri của bà Anna gợi lên một hình ảnh huyền diệu tô điểm thêm cho ngày dâng con.
Hai chứng nhân này nói với chúng ta rằng những kẻ nhỏ bé, khiêm tốn, nghèo khó cầu nguyện Thánh Thần trong con tim của họ. Chúa Thánh Thần mặc khải rằng Thiên Chúa ở đó với họ, và khi Chúa tự tỏ mình ra, thì chẳng còn gì bên ngoài thế giới lay chuyển được họ. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ ra trong sự thấp hèn và tối tăm như Hài Nhi tỏ vinh quang nơi hang lừa máng cỏ.
“Cháu còn là dấu hiệu gây chia rẽ...”. Lời tiên tri này là tiếng vang của lời Chúa sau này nghe như xé nát tâm can: Ai yêu mến cha mẹ mình... hơn tôi, không đáng làm môn đệ tôi”. “Ai không thuận với tôi, là chống lại tôi”. “Ai muốn theo tôi, phải tự bỏ mình, vác thập giá mình mà theo tôi”.
Môn đệ không trọng hơn Thầy. Không thể cứu mình khi còn nắm lấy những chuỗi xích khoái lạc và những tư tưởng riêng tư của mình.
Cần hoàn toàn đơn sơ chân thành yêu mến Đấng ban ơn hơn là xin ơn.
J.M
SUY NIỆM 5: Ánh sáng và vinh quang
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 6: Xin Mẹ Dâng Chúng Con Cho Chúa
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Maria dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, vì theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Maria, Giáo hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ”dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. Amen.
SUY NIỆM 7: ĐỨC GIÊSU – ÁNH SÁNG SOI MUÔN DÂN
(Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40)
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Dothái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria.
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
Ngọc Biển, SSP
SUY NIỆM 8: Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lc 1, 21-28)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa" ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: "Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái" (Lv 12, 6-8). Ông Simêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi, ẵm Hài Nhi trên tay và chào là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang "Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người "(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: "Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ".
Thánh Phaolô nói: "Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ" (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: "Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham... Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân" (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là "cặp bồ câu non"! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là "bản lề" chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để Cứu chuộc chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Simêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Simêon nói: "Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân" (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Simêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng trên tay cụ già Simêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta... Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta phản chiếu ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
SUY NIỆM 9: Cha mẹ hãy cho con tình thương
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Trong một lần dạy giáo lý hôn nhân tôi hỏi: Nếu như bạn phải tặng cho con cái điều quý giá nhất bạn sẽ chọn: dạy dỗ, làm gương, dành thời giờ ở bên con, miệt mài làm việc cho con tiền ăn học, vợ chồng yêu thương nhau thì các bạn sẽ chọn điều gì?
Xem ra yếu tố nào cũng quan trọng và cần thiết nhưng có một yếu tố quan trọng hơn theo tôi đó là vợ chồng yêu thương nhau.
Câu trả lời xem ra không thỏa mãn. Thế nhưng, thử hỏi nếu vợ chồng không thương yêu nhau thì mái nhà có giữ được không? Và nếu như vợ chồng không yêu thương nhau con cái sẽ ra sao? Mái nhà có là mái ấm hay là hỏa ngục trần gian?
Người ta thống kê số các tội phạm thanh thiếu niên hay những thanh thiếu niên hư hỏng đa phần là do cha mẹ chúng thiếu tình yêu thương nhau. Có thể họ đã ly dị nên con cái trả thù đời bằng việc lao vào các tệ nạn xã hội. Có thể do cha mẹ chúng hay bất hòa với nhau nên con cái không muốn ở nhà chỉ thích lêu lổng và phá phách. Có thể cha mẹ chúng thiếu hợp nhất nên con cái cũng mạnh đứa nào đứa nấy sống.
Thực vậy, điều quý nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái mình là tình yêu thương của gia đình. Cha mẹ yêu thương nhau. Con cái hòa hợp với nhau. Ðó chính là một cái nôi hạnh phúc mà khi con người được sống trong cái nôi êm đềm ấy thì khó có thể hư hỏng được. Cha và mẹ cứ nên nhắn nhủ với con cái với sứ điệp rằng "mặc dù cha mẹ không phải là hoàn hảo, thỉnh thoảng cũng có cãi lẫy, giận hờn với nhau, nhưng ba mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh nhau và bên cạnh các con". Cha và mẹ sống yêu thương nhau thì con cái sẽ học được bài học tình yêu từ chính trong nôi gia đình.
Các nhà xã hội học cho rằng trẻ em hôm nay đang sống trong một thế giới đầy bất an. Những nỗi lo sợ chồng chất từ gia đình đến xã hội là nguyên nhân gây nên những biến chứng trong cách cư xử của các em, bệnh trầm cảm và các rối loạn tinh thần. Một trong các mối lo sợ lớn nhất của các em ở lứa tuổi đi học là sợ cha mẹ chúng ly dị. Nhiều em thường xuyên phải nghe các tin đau lòng rằng cha mẹ của bạn mình trong lớp đang chia tay, hay thần tượng điện ảnh này của các em đang ra tòa xin ly dị, và các em cũng vô cùng hoang mang không biết chừng nào đến phiên cha mẹ mình sẽ chia ly. Nhiều em mắc phải sự lo âu thấp thỏm mỗi ngày, không biết chừng nào cái tin sét đánh này xảy đến cho cuộc đời của chúng nó.
Ðây cũng là điều gia đình thánh gia có thể vượt qua sóng gió khi họ yêu thương nhau. Họ bỏ qua những hồ nghi, những niềm vui riêng để gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng Con Chúa Trời Chí Thánh. Các ngài luôn chứng minh cho mọi người rằng các ngài luôn sẵn sàng ở bên nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Các ngài luôn lấy tình yêu của lòng nhân hậu bao dung để đối xử với nhau. Nhất là các ngài luôn ở bên nhau vì tin vào Chúa nên dám đón nhận nhau trong yêu thương hợp nhất.
Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây để cử hành nghi thức dâng con vào đền thờ. Hành vi dâng con vào đền thờ là hành vi thờ phượng để tạ ơn về ân ban Chúa ban là con cái được sinh ra. Dâng con vào đền thờ cũng xác định quyền và bổn phận giáo dục con cái của chúng ta. Chỉ có cha mẹ mới có quyền giáo dục con cái mình. Chỉ có cha mẹ mới có bổn phận giáo dục con cái của mình. Quyền và bổn phận vừa là vinh dự , vừa là trách nhiệm mà chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa và xã hội.
Trước mặt xã hội cha mẹ phải lãnh lấy trách nhiệm nếu con cái hư hỏng trước tuổi thành niên. Trước mặt Thiên Chúa thì cha mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa trong chính lương tâm của mình suốt cuộc đời.
Ðứng trước một trách nhiệm lớn lao như vậy, đòi hỏi cha mẹ phải hy sinh để nuôi dậy con cái. Sự hy sinh đòi cha mẹ phải "một điều nhịn chín điều lành" để gìn giữ mái ấm gia đình ngập tràn yêu thương. Sự hy sinh không chì dừng lại sự lam lũ kiếm tiền cho con cái mà còn hy sinh để cho con cái thấy tình thương của cha mẹ dành cho nhau và cho con cái. Có như vậy chúng ta mới mang lại sự phát triển tâm sinh lý nơi con trẻ một cách hoàn hảo. Và chắc chắn con cái sẽ biết ơn cha mẹ vì được sống trong một cái nôi đầy ắp yêu thương.
Ước gì chúng ta luôn dành tình yêu cho gia đình chúng ta, cho vợ chồng, cho con cái. Trên hết mọi sự hãy lấy tình yêu mà đối xử với nhau để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc và là chỗ dựa vững chắc cho con cái vào đời. Amen.
SUY NIỆM 10: Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài
(Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Nếu như trong lễ Hiển Linh chúng ta cử hành việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho các Đạo sĩ, là Dân ngoại, thì hôm nay khi được dâng trong Đền Thờ, Ngài đã tỏ mình ra cho chính dân tộc của Ngài.
Lễ Nến được mừng vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Lễ này còn có tên gọi là lễ Đức Maria được thanh tẩy theo Luật Môsê hay lễ Dâng Chúa trong Đền Thờ.
Sở dĩ có ngày lễ này là vì theo Luật Môsê quy định: Thứ nhất, các trẻ sơ sinh, trong thời gian Luật định, phải mang lên Đền Thờ dâng cho Thiên Chúa. Thứ hai, người phụ nữ sau khi sinh con (nếu là con trai) thì sau 40 ngày phải lên Đền Thờ để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta cho rằng khi sinh con, người phụ nữ bị ô uế. Thứ ba, con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc lại con.
Sau khi sinh Đức Giêsu được 40 ngày, Đức Maria và Thánh Giuse đã làm như Luật dạy. Thực ra, Đức Mẹ không cần phải làm nghi thức thanh tẩy, bởi vì Mẹ sinh con mà vẫn trọn đời trinh khiết, không một vết nhơ nào có thể chạm đến con người thánh thiện của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn khiêm tốn thi hành những gì lề luật truyền dạy.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của vị “sứ giả của giao ước” hôm nay có vẻ không giống như những gì mà ngôn sứ Malakhi đã loan báo. Bởi theo viễn tượng của vị ngôn sứ này, thì vị sứ giả của Thiên Chúa sẽ đến một cách bất ngờ để tái lập lại nền phụng tự của dân Thiên Chúa vốn đã trở nên lệch lạc bởi sự chểnh mảng của các tư tế cũng như sự thờ ơ của dân chúng: “Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán. Ai chịu nổi ngày Người đến ? Ai đứng được khi Người xuất hiện ? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc” (Ml 3,1-3).
Không riêng gì ngôn sứ Malakhi, mà ngay cả Gioan Tẩy Giả cũng loan báo về Đấng Messia với những lời lẽ tương tự: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." (Mt 3,12).
Trái ngược hẳn với những hình ảnh đáng kinh sợ mà các ngôn sứ đã loan báo, hôm nay, Chúa Giêsu - vị sứ giả của giao ước - lại bước vào đền thờ một cách âm thầm dưới hình hài của một trẻ thơ. Có lẽ sẽ chẳng có ai nhận ra Ngài cho đến khi cụ già Simêon – người được Thánh Thần linh hứng – loan báo rằng: Hài Nhi Giêsu mà ông đang bồng ẵm trên tay chính là “Ơn cứu độ mà Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Là Ánh sáng soi đường cho nhân loại và là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,30-32)
Mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là ÁNH SÁNG từ trời cao, được đưa vào đền thờ, để thắp sáng cho trần gian. Nhưng tiếc rằng, ánh sáng đó đã được chiếu soi vào nhân loại hơn 2000 năm qua mà vẫn chưa được nhiều người đón nhận.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được trao cho cây nến sáng với lời nhắc nhở rằng: Con hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô và hãy làm cho ánh sáng ấy cháy lên mãi… Vậy hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại xem, tôi và gia đình tôi đã làm gì để ánh sáng Chúa Kitô được thắp sáng nơi môi trường sống của mình ?
Việc Chúa Giêsu được dâng trong đền thánh là hình bóng hiến lễ Ngài sẽ dâng chính mình trên đồi Canvê. Thư Do Thái dạy rằng: Đức Kitô vừa là của lễ hoàn hảo đền tội chúng ta, vừa là tư tế dâng chính mình Ngài như của lễ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi hãy phó dâng bản thân cũng như mọi thành viên trong gia đình chúng ta cho Thiên Chúa để chính Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đi. Đó cũng là ý nghĩa cao đẹp mà nhiều hội dòng lựa chọn ngày lễ này làm lễ khấn dòng của mình. Để qua việc công khai đáp trả lại ba lời khuyên Phúc Âm, các tu sĩ cũng muốn trở nên ánh sáng cho trần gian và hiến dâng cuộc đời mình làm của lễ sống động cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình.
Sau cùng, mỗi tín hữu cũng được mời gọi noi theo các nhân đức của Đức Mẹ và thánh Giuse bằng việc yêu mến và thực thi nghiêm chỉnh những lề luật của Thiên Chúa, cho dù đó là điều nhỏ bé và tầm thường nhất, để nhờ đó, chương trình và ý định của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc đời này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng đã đến trong trần gian. Như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời, xin cho chúng con cũng biết tiếp nhận ánh sáng từ nơi Chúa là mặt trời công chính, để trần gian luôn tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương, sự cảm thông và tha thứ. Nhờ đó nơi gia đình, giáo họ, giáo xứ và cộng đoàn chúng con luôn được sống trong bình an và hạnh phúc. Amen.
SUY NIỆM 11: Tiến dâng cho Chúa
Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: "Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng, cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm, vì Ngài đã vượt qua được cái tôi, và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha, chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ, đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình. Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo, một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi. An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày, trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ, cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ, nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
SUY NIỆM 12: Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2) Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3) Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4) Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5) Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương!
SUY NIỆM 13: Thắp lên một ngọn nến
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng : tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là :
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này : Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau :
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố :
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết :
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao ?
Tôi xin thưa : - Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ :
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán : - Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng :
- Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen ?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng : - Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.
Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
SUY NIỆM 14: Mẫu gương của bậc cha mẹ
(Lm. Gioan Trần Khả)
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
SUY NIỆM 15: Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con
Những lưỡi gươm sầu khổ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: "Sao con lại khóc vậy hở Rosie?". Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: "Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà". Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: "Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
SUY NIỆM 16: Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Ý nghĩa của ngày lễ
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40 ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: "Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
Hãy sống trong ánh sáng
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
SUY NIỆM 17: Dâng Chúa trong đền thờ
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời".
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.
Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.
SUY NIỆM 18: Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
(Lm PX Vũ Phan Long)
1- Ngữ cảnh
Chương 1-2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca "Chúc tụng" (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5-2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc "Vinh quang" của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là "vinh quang của Israel") đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): "Các ngài" là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, "các ngài" phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ "đem [con] lên". Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, "cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà" (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là "con trai đầu lòng" ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: "Đức Chúa phán với ông Môsê: 'Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta". Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng "thanh gươm" đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek...). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi "thanh gươm" này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh "thanh gươm" là biểu tượng của sự "chia rẽ" và "mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một "lưỡi gươm sắc bén". Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là "Lời của Thiên Chúa" và "từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén" (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng muôn dân", tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt...) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi "dấu hiệu gây chống báng" được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết "thanh gươm" với "đâm thâu (= xuyên qua)". Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1-2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca "Chúc tụng", nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng "ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu" (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. "Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm...: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết ... Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người... Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày" (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
SUY NIỆM 19: Dâng Con trong đền thờ
(Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: "Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh".
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
SUY NIỆM 20: Các con là ánh sáng thế gian
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối" (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian".
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: "Các con là ánh sáng thế gian". Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: "Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
SUY NIỆM 21: Bảo vệ ánh sáng
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.
SUY NIỆM 22: Lễ Nến
(Lm. Nguyễn Ngọc Long)
A. Lịch sử
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.
01/02 Nước Thiên Chúa phát triển
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Nước Thiên Chúa phát triển.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 3 thường niên.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
LỜI CHÚA: Mc 4, 26-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa". Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống, hạt cải
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Vấn đề thân cận
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
Suy Niệm 3: MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ, PHẢI KIÊN TRÌ (Mc 4, 26-34)
Trong thời đại kinh tế thị trường, khái niệm “ăn sổi ở thì” rất quen thuộc. Quen đến độ đi đâu người ta cũng thích nhanh. Ăn gì cũng muốn có ngay. Làm gì cũng muốn thành công tức thời!
Sống trong thời đại chóng vánh như thế, con người luôn luôn bị đối diện với sự đổi thay, phải trái, trắng đen... từ thực tế cuộc sống, con người cũng phỏng chiếu đời sống tâm linh của mình theo khuôn mẫu đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu dùng dụ ngôn để rao giảng về Nước Trời. Nước Trời được ví như chuyện người gieo hạt giống, dù đêm hay ngày, người đó cứ gieo, hạt giống mọc lên lúc nào tùy ý, chỉ biết rằng, đến mùa là Chủ đi gặt lúa về. Đức Giêsu còn nói đến Nước Trời được ví như hạt cải nhỏ tý teo, nhưng khi gieo xuống, nó lớn mạnh đến nỗi chim trời đến làm tổ...
Qua hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu cho thấy: trước tiên, Thiên Chúa là Đấng luôn kiên trì như người gieo giống. Người không trần trừ, không đòi hỏi... Người cứ gieo và kiên nhẫn chờ đợi. Tiếp theo, Nước Thiên Chúa lúc ban đầu thì khiêm tốn, nhỏ nhoi, nhưng với thời gian và ân sủng, nước ấy lớn mạnh đến phi thường.
Trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng ta bị thử thách trong đêm tối! Có những điều chúng ta xin Chúa mà mãi không được, làm cho mình mất đức tin hay đức tin bị lung lay.
Tuy nhiên, chúng ta nhớ một chân lý muôn đời rằng: lửa thử vàng, gian nan thứ đức. Có cố gắng, kiên trì thì khi thành công mới thấy được ý nghĩa. Cũng vậy, đời sống đức tin cần phải được thanh luyện bằng sự kiên trì, trung thành và cố gắng, thì mới thực sự có giá trị cứu chuộc. Ơn cứu độ không đến như chuyện “ăn sổi ở thì” mà con người vẫn quan niệm.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa vì hôm nay Chúa dạy cho chúng con bài học về sự kiên trì, nhẫn nại, hy sinh. Xin Chúa ban cho chúng con biết trung thành với Chúa để được cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Bông lúa trĩu hạt
Suy niệm :
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.
Có cần phải tin vào Ðức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Máccô viết sách Tin Mừng,
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nêrô.
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Ðó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.
Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng
và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày,
chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Ðức Giêsu
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.
Sau hai mươi thế kỷ,
Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Ðây là lúc ta phải sống niềm tin:
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Ðừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
31/01 Đèn đặt trên đế cao
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đèn đặt trên đế cao.
Thứ Năm tuần 3 thường niên – Thánh Gioan Boscô, linh mục. Lễ nhớ.
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
* Chào đời năm 1815 tại Cáttennôvô, giáo phận Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế, khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.
LỜI CHÚA: Mc 4, 21-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðong đấu nào
Thi hào Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho tôi".
Từ xa, khi thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa". Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Hãy coi chừng!
Người nói với các ông: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì bí ẩn mà không phải là hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải là để đưa ra ánh sáng. Ai có tai thì nghe!” (Mc. 4, 21-23)
Khi ta nhắc nhở dặn dò ai điều gì thì lời ấy thường có hai ý nghĩa. Đôi khi ta muốn người ta phải dè chừng, có khi ta muốn họ phải cẩn thận, phải cân nhắc lời nói việc làm. Hai ý nghĩa này đều nằm trong những lời răn bảo của Chúa Giêsu. “Hãy coi chừng các người Pharisiêu, Người phán, vì họ nói mà không làm!” “Anh em hãy coi chừng, vì anh em không biết ngày nào giờ nào kẻ trộm đến!”. Đó là hai lời cảnh báo phải khôn ngoan và coi chừng.
Trái lại trong trích đoạn Phúc âm ta đọc sáng nay, lời răn bảo phải coi chừng có một tính cách tích cực, với nghĩa là “anh em hãy để ý đến điều anh em nghe”.
Thực vậy, trong trích đoạn này, những tiếng “điều anh em nghe, chính là mấu chốt điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn ta. Vì thế, muón hiểu được giáo huấn này của Chúa, ta cần phải có một sự quan tâm để ý đặc biệt, nếu không ta sẽ chẳng lĩnh hội được gì. Nội dung lời giáo huấn của Chúa cũng gói ghém trong những câu sau: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy và còn cho anh em hơn nữa”, có nghĩa là Lời Chúa chỉ đem lại hiệu quả tốt, tùy theo sự quan tâm chú ý của người nghe. Mức độ lắng nghe là thước đo hoạt động của Lời Chúa. Sau nữa chỉ có Lời Chúa mới có khả năng cho thêm, cho vượt cả mức lòng ta mong đợi nữa.
Ý nghĩa của câu sau cùng, giờ đây được sáng tỏ: “Ai đã có thì được cho thêm, còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” - hoặc nói khác đi: ai không chú ý lắng nghe, không mở lòng ra đón nhận, thì cái đã được gieo cũng sẽ mất đi, còn ai càng mở ra và càng cẩn thận thì càng nhận được hồng ân Thiên Chúa và giữ được cái đã được gieo vào lòng mình.
Ta có lắng nghe Lời Chúa không?
Nhiều người đã chịu phép Rửa tội, đã được học giáo lý đầy đủ: vỡ lòng, rước lễ, thêm sức, bao đồng v.v. Họ đã nghe đã học cả đấy. Vậy mà ngày nay họ chẳng giữ đạo, chẳng đi lễ, mà còn không tin nữa. Vì chểnh mảng, coi thường, họ chẳng còn gốc gác gì với cha ông họ là những người đạo dòng. Đức tin mai một như vậy đó. Chúng ta hãy coi chừng! Hãy coi chừng sự không quan tâm chú ý của ta. Lời Chúa không chịu cảnh người ta bịt tai hay lơ đãng. Ta không biết được rồi đây chính ta có thể trở thành con người không tin hay không? Nếu có, sẽ là bởi tại ta đã quá keo kiệt khi đong cho việc lắng nghe Lời Chúa vậy.
Suy Niệm 3: HÃY CHIẾU GIÃI ÁNH SÁNG CHO MỌI NGƯỜI (Mc 4, 21-25)
Thật là kỳ dị khi chúng ta thắp đèn rồi đem đặt ở gầm giường, hay lấy thùng úp lên. Chỉ những người khùng thì mới làm những chuyện như vậy!
Đức Giêsu đã có lần nói: Ta là ánh sáng thế gian. Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi chúng ta đi theo Ngài. Như vậy, khi chúng ta tin và đi theo Đức Giêsu, tức là chúng ta đi trong ánh sáng của Ngài.
Không chỉ dừng lại ở đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tỏa ánh sáng đó cho mọi người được thấy. Nói cách khác: chúng ta phải trở nên sứ giả Tin Mừng, chứng nhân của tình yêu. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện chúng ta chỉ nói tin Chúa, nhưng trong đời sống thực tế, không sống chứng nhân. Không! Ngài mời gọi chúng ta phải thắp đèn cho sáng và để trên đế nhằm cho mọi người được thấy ánh sáng (x. Mc 4, 21).
Như vậy, để trở thành một người Kitô hữu thực thụ, chúng ta phải hội đủ hai yếu tố, đó là:
Một là tin và đi theo Đức Giêsu; hai là sống chứng nhân, tức là chiếu tỏa các chân lý Tin Mừng của Đức Giêsu ngang qua cuộc sống của mình. Hội đủ hai yếu tố đó, chúng ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con, nhờ đó, mọi người cũng đón nhận được chính Chúa là nguồn sáng đích thực soi chiếu cuộc đời và thế gian này đi tới sự sống vĩnh cửu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đặt trên đế
Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc
được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.
Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).
Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.
Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên
qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.
Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,
rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.
Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.
Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,
và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.
Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,
nhưng phải được quảng bá và rao giảng.
Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,
nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,
Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),
vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.
Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),
Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.
Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,
những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).
Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is 53).
Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,
cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.
Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi :
vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,
hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.
Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.
Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.
Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.
Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/01 Dụ ngôn gieo hạt giống
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dụ ngôn gieo hạt giống.
Thứ Tư tuần 3 thường niên.
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
LỜI CHÚA: Mc 4,1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phải chăng lỗi tại Chúa?
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Suy Niệm 3: ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? (Mc 4, 1-20)
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Hạt giống Lời Chúa
Suy niệm :
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,
như rơi vào thửa đất màu mỡ,
đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.
Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”
Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.
Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”
Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu
mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.
Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,
nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.
Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.
Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.
Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,
vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.
Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.
Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,
mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.
Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.
Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.
Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,
không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.
Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.
Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,
đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.
Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,
thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.
Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.
Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.
Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.
Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.
Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.
Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,
họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.
Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?
Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.
Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.
Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.
Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,
ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/01 Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 3 thường niên.
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
LỜI CHÚA: Mc 3,31-35
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai là Mẹ Ta
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ôi thân nhân!
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Suy Niệm 3: THI HÀNH LỜI CHÚA LÀ THÂN NHÂN CỦA NGÀI (Mc 3, 31-35)
Không có bà mẹ nào mà lại không tương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đây là mẹ tôi
Suy niệm :
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.
” Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:
” Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại người cha.
Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:
” Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
28/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
28/01 – Thứ Hai tuần 3 thường niên – Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Satan phải diệt vong".
* Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở Aquinô, rồi theo học tại đan viện Montê Cátxinô, tiếp đến tại đại học Napôli, cuối cùng Tôma nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pari và Côlônhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là Anbêtô Cả. Thánh Tôma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đaminh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền. Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.
LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ".
Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.
Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tội ngoan cố
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Suy Niệm 3: THÍCH ỨNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO (Lc 10, 1-9)
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Vào nhà một người mạnh
Suy niệm:
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội ?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
27/01 Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng
- Viết bởi Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng.
Chúa Nhật 3 Thường Niên năm C.
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".
Lời Chúa: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21
1. Ơn gọi Kitô hữu
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu trở về quê nhà. Trong khi gửi tới dân làng Nagiarét, nơi Ngài đa lớn lên, một trong những sứ điệp quan trọng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy một tình yêu thương chân thành và nồng thắm. Thực vậy, lúc bấy giờ Ngài đã nổi tiếng khắp miền Galilêa và nhiều nơi khác, thế nhưng, Ngài đã không quên thôn ấp nhỏ bé Ngài đã sống suốt những năm tháng dài của tuổi ấu thơ và trưởng thành. Ngài muốn chuyển thông Tin mừng cứu rỗi cho những người bà con họ hàng.
Là Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài đã không chối từ những liên hệ của con người, nối kết ngài với Nagiarét. Và như thế, ơn thánh không phá hủy, mà trái lại còn kiện toàn bản tính tự nhiên của chúng ta.
Nếu nhìn lại cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy Ngài không đến để công bố những lề luật, rồi sau đó Ngài đứng bên lề cuộc đời. Trái lại, Ngài đã làm người, đã hóa thành nhục thể, trở nên một người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã dấn thân vào số kiếp con người, đã nhập cuộc vào trò chơi của lịch sữ nhân loại. Trước hết, Ngài đã tuân giữ những luật lệ phần đạo cũng như phần đời.
Phần đạo, Ngài cũng đã chịu phép cắt bì, hằng ngày Ngài vẫn đến hội đường để nghe đọc Kinh thánh, hằng năm Ngài vẫn lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua….Phần đời, Ngài đã biểu lộ lập trường của mình về việc nộp thuế:
- Của Cêsar hãy trả cho Cêsar. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Ngài đã thực sự hòa mình vào nếp sống của mọi người: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Thực vậy, Ngài đã đi ăn cưới tại Cana để chia sẻ niềm vui của đôi tân hôn. Trái lại, Ngài đã xúc động trước đám tang người con trai của một bà góa thành Naim, Ngài đã khóc thương trước nấm mộ của Lagiarô cũng như trước viễn cảnh của một Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn…Hơn thế nữa, Ngài còn cúi xuống xoa dịu mọi nỗi khổ đau của những người chung quanh: Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống đám đông trong hoang địa, Ngài đã xua trừ ma quỉ, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, và người chết được sống lại. Ngài đã chu toàn những công việc của nhân loại theo cách thức của Thiên Chúa để thánh hóa và đem lại cho chúng một giá trị tuyệt vời.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta rút ra được một quan niệm sống cho người Kitô hữu. Thực vậy, người Kitô hữu phải sống trọn vẹn cuộc đời của mình trong những giây phút hiện tại. Họ không được phép chê ghét và xa tránh những người bà con lối xóm. Họ không được phép chạy trốn và khước từ những thực tại trần gian. Trái lại, họ phải dấn thân, phải nhập cuộc như Đức Kitô ngày xưa. Tuy nhiên, họ dấn thân không phải là để cho thế gian lôi kéo. Họ nhập cuộc không phải là để cho tội lỗi vùi dập trong đám bùn nhơ. Đời sống của họ phải trở nên như một bông sen: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hơn thế nữa, họ dấn thân và nhập cuộc là để lôi kéo thế gian trở về cùng Chúa. Họ chính là muối mặn ướp cho đời khỏi ươn thối. Họ chính là ánh sáng chiếu tỏa vào thế gian còn chìm ngập trong tăm tối. Họ chính là men làm cho nhân loại này dậy lên hương thơm đạo đức và thánh thiện. Ơn gọi của người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô, là sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời, để thánh hóa bản thân và những người chung quanh.
Nếu so sánh quan niệm trên với những luồng tư tưởng lớn của Đông phương, chúng ta sẽ nhận ra được một sự khác biệt.
Thực vậy, Lão giáo thì ngần ngại trước cuộc sống ngắn ngủi phù du, nên đã đi tìm lãng quên trong men rượu, trong vui thú để rồi đã có một cái nhìn thật bi quan và yếm thế.
Khổng giáo thì hăm hở bước vào đời để cải tạo xã hội va đem lại cho bản thân mình chút vinh quang phù phiếm:
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Và sau cùng, Phật giáo thì ý thức rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là như một cánh bèo trôi dạt trên đó, để rồi lên đường kiếm tìn sự giải thoát cho cá nhân mình.
Chỉ Kitô giáo mới đưa ra một cái nhìn vừa lạc quan lại vừa đúng đắn, để xây dựng cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có một người đã nhiều năm vui vẻ chấp nhận cuộc sống với những thiếu thốn về tiền bạc và những buồn phiền trong gia đình. Người ta hỏi ông:
- Tại sao lại có thể an vui được như thế ?
Ông ta đã trả lời:
- Sở dĩ như vậy vì tôi biết sử dụng cái nhìn của tôi với đôi mắt sáng suốt.
Người ta tò mò hỏi:
- Như thế có nghĩa là gì ?
Ông ta nói:
- Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng việc chính của tôi là đạt tới trời. Rồi tôi nhìn xuống đất và hình dung ra nắm đất thân xác tôi sẽ trở thành. Sau cùng tôi nhìn sang bên cạnh và tôi nhận thấy có biết bao nhiêu người còn khốn khổ hơn tôi rất nhiều. Chính ba cái nhìn này đã làm cho tôi sung sướng và bàing lòng với cuộc sống mà không than van trách móc.
Người Kitô hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian. Bởi đó, hãy biết chấp nhận những thực tại trần gian, để nhờ đó thánh hóa bản thân và những người chung quanh trên con đường trở về cùng Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
2. Giá trị Tin Mừng - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bài Tin Mừng này nhấn mạnh đến giá trị lịch sử và nội dung của lời Chúa.
Xét về giá trị lịch sử, Thánh Luca đã mở đầu sách Tin Mừng bằng dựa vào thế giá “các người đã được chứng kiến ngay từ đầu đã phục vụ lời Chúa, truyền lại cho chúng ta”. Thánh Luca còn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự … để gởi “Ông Thêôphilô nhận thức được rằng giáo huấn Ông đã học hỏi thật là vững chắc”.
Trước hết, thánh Luca tra cứu nơi chính Đức Mẹ Maria, vì các biến cố đời thơ ấu của Đức Giêsu, từ lúc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ đến lúc Đức Giêsu lên 12 tuổi đi lễ đền thờ, Thánh Mathêu chỉ kể vài việc: Truyền tin cho Thánh Giuse biết Đức Maria thụ thai bởi phép Thánh thần, các hiền sĩ, Thánh gia trốn sang Ai Cập. Thánh Marcô và Gioan không kể gì. Thánh Luca kể khá nhiều về đời sống ẩn dật mà chỉ Đức Mẹ biết rõ thôi.
Thứ đến, Thánh Luca tra cứu nơi các tông đồ đã sống bên Đức Giêsu suốt ba năm giảng đạo. Hơn nữa, nhờ Gioan và Giacôbê là anh em họ hàng với Đức Giêsu nên có thể giúp thánh Luca biết về đời sống của Đức Giêsu lúc Người giảng đạo.
Sau nữa, Thánh Luca còn tra cứu rất đông các môn đệ mà Thánh Phaolô kể trong thư Côrintô, có tới 500 người tiễn Đức Giêsu về trời (1Cor. 15, 5-8).
Ngoài ra, Thánh Luca còn tra cứu nơi biết bao nhiêu bệnh nhân đã được Đức Giêsu cứu chữa có thể nói toàn dân Do Thái đã chứng kiến cuộc suy tôn Đức Giêsu làm vua và cuộc khổ nạn của Người trong ngày đại lễ quốc khánh của nước Do Thái.
Phần đông những người đã chứng kiến cuộc đời của Đức Giêsu vẫn còn sống lúc Tin Mừng Thánh Luca ra đời, vì Thánh Luca chép Tin Mừng khoảng năm 60-70 hay 70-80 nghĩa là khoảng 30-40 năm sau Đức Giêsu chịu chết. Như vậy những người chứng kiến đó cũng chỉ 50, 60 tuổi. Họ biết rất rõ về Đức Giêsu nên Luca không thể bịa đặt, thêm thắt, làm sai lịch sử về Đức Giêsu.
Thánh Luca lại là thầy thuốc, ở địa vị thầy thuốc, tất nhiên phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng cẩn thận. Trước khi cho một toa thuốc, Ông phải tỉ mỉ xem xét những triệu chứng gây ra bệnh tật, mới dám viết đơn thuốc. Sai trệch, cẩu thả là nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân và đe dọa chính thầy thuốc nữa. Tin Mừng Thánh Luca thật là một toa thuốc vô cùng quan trọng, vì đó là thuốc trường sinh cho cơn bệnh trầm trọng của nhân loại đang hấp hối. Thánh Luca cắt toa thuốc này không phải cho Ngài Thêôphilô và những người mới trở lại đạo, mà còn cho cả thế giới từ nay cho đến tận thế.
Ngài Thêôphilô là bậc thế giá, hàng trí thức và còn bao nhiêu Ngài trí thức vị vọng khác của hàng ngàn năm đã nhận biết chân giá trị thực sự về lịch sử của Đấng Cứu thế nhờ Tin Mừng của Luca. Nếu Luca viết sai lầm, giả dối, thì đã mất hết giá trị từ lâu rồi. Thế mà trải qua hai ngàn năm thử lửa, giá trị lịch sử về Tin Mừng càng ngày càng vững chắc. Không có một cuốn sách nào được in ra hàng ngàn thứ tiếng với hơn năm trăm triệu bản in và hơn hai tỷ cuốn sách như Tin Mừng Đức Giêsu.
Một thế giá khác hơn thế giá lịch sử, nó có giá trị tồn tại trong thời gian như lịch sử, mà còn vượt thời gian đến vô cùng, đó là thế giá nội dung của chính Tin Mừng. Thánh Luca đã tóm tắt nội dung của Tin Mừng vào mấy câu khởi đầu sau đây: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Mấy câu mở đầu đó cho ta thấy rõ: Tin Mừng là của Thần khí, việc rao giảng Tin Mừng là do Thiên Chúa sai đi. Đó là thế giá tuyệt đối của Tin Mừng, không một giá trị nào của trần gian có thể sánh được. Dù bao nhiêu công trình vĩ đại của loài người cũng chỉ có giá trị tương đối, chúng luôn luôn bị thời gian xoi mòn, cuối cùng sẽ bị cạn kiệt, tiêu tan. Còn Tin Mừng của Thần khí: “Dù trời đất này qua đi, thì lời Ta, một chấm, một phẩy trong Tin Mừng cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt. 5, 18). Thần khí Chúa đã khởi đầu công trình sáng tạo thế nào, thì khởi đầu công trình Tin Mừng cứu chuộc còn kỳ diệu hơn thế nữa. Thần khí đã khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai xuống thế làm người, đã khởi đầu cuộc giảng đạo Đức Giêsu, khởi đầu công vụ Tông Đồ và muôn ngàn công cuộc của Hội Thánh, của các thánh nhân, những cuộc canh tân, cải thiện đời sống muôn dân về tinh thần cũng như thể chất.
Chính Thần khí của Đức Kitô đã báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, đói khát: hèn về địa vị, thấp mồm bé miệng trong xã hội; nghèo về đói khát của ăn tthể xác, nhất là đói Lời Hằng Sống và hèn do tội lỗi đè nén trên lương tâm, đang mong chờ Thần khí đến giải thoát khỏi bị giam cầm trong tối tăm áp bức, đưa về cùng Thiên Chúa là ánh sáng vinh quang của mình.
Đại văn hào Don. Dostoievski của Liên Xô, lúc sinh thời đã ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tối tăm đã đè nặng trên tâm trí ông, khi tuổi đời đã xế bóng Thần khí của Tin Mừng đã giải thoát ông. Ông đã ăn năn sám hối và nói với vợ ông: “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn sách Tin Mừng”
Lạy Thần Khí Đức Kitô, xin hãy đốt nến sáng lên trong tâm hồn chúng con, không phải chỉ đến lúc hấp hối mà ngay bây giờ biết sốt sắng chiêm niệm Tin Mừng của Đức Giêsu trong Thần khí và Chân lý, cho chúng con được sống hạnh phúc trong tình thương bao la của Thiên Chúa. Amen.
3. Tin Mừng
Đoạn tin mừng vừa đọc trên đây, tóm gọn chương trình hoạt động của Chúa Giêsu trong ba năm truyền giáo của Ngài: đó là loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức. Đọc xong đoạn sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu xếp sách lại nói với mọi người: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn sách thánh anh chị em vừa nghe”.
Và quả thực như vậy, trong ba năm truyền đạo, Chúa Giêsu đã biểu lộ tình thương yêu bao la của Thiên Chúa cho loài người, nhất là những người tàn tật, yếu đuối và tội lỗi, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề.
Chúa Giêsu đã lấy máu đào trên thập giá, để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, và bao tính mê tật xấu khác do dục vọng và lòng ích kỷ của con người sinh ra.
Là tín hữu của Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng tiếp tục sứ mạng loan báo tin mừng cho người nghèo khó, đang góp phần vào công cuộc giải thoát những người bị áp bức, những nạn nhân của chiến tranh…Tin mừng của Chúa Kitô, không phải chỉ nói với nhân loại ngày nay về sự giải thoát khỏi án phạt đời đời mai sau, nhưng còn góp phần thăng tiến cuộc sống cụ thể của con người. đạo Kitô không phải là thuốc phiện ru ngủ quần chúng cắn răng chấp nhận bất công xã hội, mang lại niềm hy vọng cho nhiều người đau khổ, nghèo đói.
Điển hình là những đóng góp đáng kể về sức người, sức của và tài năng của đồng bào Thiên Chúa giáo cho việc đổi mới đất nước của chúng ta hiện nay. Vào còn bao chiến sĩ phúc âm: điển hình như các nữ tu dòng Sainta Paul, dòng nữ tử Bác Ái…cùng bao chứng tá Kitô âm thầm khác theo gương Chúa Kitô đem nguồn vui đến cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ.
Một tín hữu công giáo cùng người bạn dạo chơi trong vườn hoa. Giữa mùa hoa, nên hoa nở thật đẹp. Người bạn hỏi tín đồ công giáo rằng: “Anh thường nói với tôi về Chúa Kitô; Vậy, Ngài với anh có liên hệ thế nào?” Tín đồ dừng bước hỉ vào một đóa hồng tươi thắm nói: mặt trời có liện hệ với hoa kia thế nào, thì Chúa Kitô cũng liên hệ với tôi như thế.
Người Kitô hữu phải là bằng chứng của Chúa Kitô, cũng như bông hồng là bằng chứng tác dụng của ánh sáng mặt trời.
4. Ghen tỵ
Có hai đệ tử sau nhiều năm luyện tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế. Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện. Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn. Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một thì ta sẽ cho đệ tử B hai. Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con chột một con mắt.
Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của thính giả đối với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ không bằng lòng đối với sự thành công của Chúa Giêsu. Đây là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế. Đối với nhà lãnh đạo tôn giáo thì họ cảm thấy bị đe doạ khi Chúa Giêsu giảng dạy hay. Chúa Giêsu được đưa lên cao, còn họ bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống để họ được đưa lên cao. Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ đã dẫn đến hành động đả phá. Họ dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.
Rút từ bài học Phúc Âm và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và xã hội nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp nơi trong cuộc sống từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình anh chị em ghen tỵ nhau khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình. Nơi nhà trường học sinh này ghen tỵ học sinh khác trong khía cạnh học hành. Nơi xưởng thơ nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương.
Quả thật, sống trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta thường dễ đem chính mình so sánh với người khác. Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp. So sánh để rút ra điều hay điều dở làm cho cuộc sống chính mình và người khác khá hơn là rất tốt. Tuy nhiên so sánh để rồi mang đến thái độ ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, gièm pha người khác vì người khác thành công hơn mình là điều không tốt. Con người ghen tỵ sẽ không tìm thấy chính mình và không có hạnh phúc vì họ luôn ao ước vài tìm kiếm nơi người khác điều mà không phải là của họ.
Ước gì mỗi người nhìn vào chính mình để làm sao chúng ta thay đổi con người cũ đầy ghen tỵ, hiềm thù để mặc lấy con người mới đầy yêu thương, bác ái của Chúa.
5. Bụt nhà
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau, thử thách. Đó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu ước qua Tân ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả ; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia đã trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với lời Chúa, Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Đau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nhiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái, Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào, nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài ; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trờ về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc:’’không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình’’, đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazarét nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestine. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dàicủa Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mệnh tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép rửa, người kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô; bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiên, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
6. Đức Giêsu - Tin Mừng cho mọi người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Giêsu có là Tin Mừng cho bạn không? Xin bạn cho một vài thí dụ cụ thể trong đời bạn.
2. Thánh Thần là ai? Bạn hiểu gì về Thánh Thần?
3. Bạn có thấy ai ganh tị vì không được làm “đầu” hoặc “mắt” trong thân thể (Hội Thánh) không? Tại sao họ như vậy?
7. Suy niệm của ĐGM. Bart. Nguyễn Sơn Lâm
ÐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TIN MỪNG TRONG NGUYỆN ĐƯỜNG Ở NADARÉT
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trọng tâm của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng là đề tài chính của toàn thể Lời Chúa hôm nay: chúng ta thấy Ðức Giêsu đứng công bố Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét. Như vậy, câu chuyện Ezra đứng đọc luật pháp Môsê ở trước mặt con cái Israen như bài đọc I hôm nay kể lại, chỉ là hình ảnh báo trước việc Chúa Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Và như thế sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay như thư Côrintô kể, cũng chỉ là hiệu quả của việc công bố Tin Mừng này. Chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài đọc để hiểu rõ Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta những gì chung quanh việc công bố Tin Mừng.
1. Công bố Tin Mừng để triệu tập dân Chúa
Bài sách Nêhêmya đưa chúng ta trở về thời sau lưu đày trong lịch sử Israen, vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Ðức Giêsu giáng sinh... Nhà cầm quyền Ba Tư bấy giờ cho phép các dân bị trị được phục hồi các truyền thống của dân tộc mình. Con cái Israen được khuyến khích bỏ đất Babylon để trở về quên quán. Họ dựng lại đền thờ và tái thiết Giêrusalem. Công việc gặp nhiều khó khăn.
Trước hết phần lớn những người Do Thái làm ăn được ở đất khách, không muốn trở về. Những người yêu nước và tha thiết với quê cha đất tổ, muốn trở về nhưng lại ít phương tiện. Rồi về đến nơi, họ lại gặp thái độ thù địch của dân đã đến sinh sống tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Do đó việc trùng tu thánh điện tiến hành rất chậm. May có Ezra và Nêhêmya.
Hai người có uy tín với triều đình Ba Tư. Ezra là tư tế. Nhưng ở đất lưu đày không có nơi phụng thờ Giavê, ông đã chuyên khảo và suy niệm luật pháp Môsê. Ðang khi ấy Nêhêmya được giữ chức tiến rượu trong đền Vua, nhưng lòng vẫn hướng về Giêrusalem. Khi được tin công việc phục hưng xứ sở gặp nhiều khó khăn, ông đã xin phép hồi hương và được nhà vua phong làm Tổng đốc Giêrusalem. Nhờ sắc phong này ông đã giúp đồng bào xây dựng lại được tường thành để có thể sống yên ổn đối với dân đã đến lập cư tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Nhưng thành quách chỉ là giới hạn bên ngoài. Muốn củng cố tinh thần của đồng bào ông và xây dựng lại cộng đồng con cái Israen, cần phải có luật pháp. Và đây là phần đóng góp của Ezra.
Bài đọc I hôm nay giới thiệu ông trong vai trò luật sĩ hơn là tư tế. Và rõ ràng con cái Israen đã cử hành phụng vụ Lời Chúa chứ không phải là phụng vụ tế lễ.
Ðó là đặc điểm của Do Thái giáo sau lưu đày. Toàn dân tập họp lại đủ mọi thành phần già trẻ, trai gái. Và trăm người như một. Tất cả đều chăm chú nhìn vào thầy Ezra đang "kiệu" sách Luật lên đứng trên một bục gỗ cao, kê quay xuống quần chúng... chung quanh thầy có các phụ tế, tăng thêm vẻ trang trọng cho việc công bố Lời Chúa sắp cử hành. Thầy Ezra bắt đầu bằng mấy lời chúc tụng danh Chúa. Cộng đoàn sốt sắng đáp lại bằng những chữ "Amen, Amen", kèm theo lễ nghi phủ phục thờ lạy. Rồi Thầy Ezra bắt đầu đọc Lời Chúa trong sách Luật. Thầy đọc dễ dàng, trang trọng. Nhưng sách viết bằng chữ Hipri. Rất nhiều người trong dân chúng không hiểu thứ tiếng ấy một cách dễ dàng nữa. Ít ra họ cũng thấy có nhiều điều khó hiểu khiến Nêhêmya và các phụ tế phải giúp thầy Ezra giải nghĩa cho dân. Càng nghe con cái Israen càng bùi ngùi xót xa. Họ thấy Chúa thương dân đến như vậy mà cha ông họ đã không nghe tiếng Người. họ thấm thía những hình phạt mà Người đã buộc lòng phải gửi đến. Nước mắt họ trào ra... Cả Nêhêmya và Ezra phải vội vàng tuyên bố: Hôm nay là ngày thánh, không được khóc như vậy... Ðúng hơn phải biến những giọt lệ xót xa vì tội lỗi nên niềm tin và ơn Chúa cứu độ. Nên hãy ăn uống và chia phần cho mọi kẻ đang túng thiếu.
Rõ ràng buổi phụng vụ Lời Chúa theo sách Nêhêmya chúng ta vừa đọc có những nét rất gần với nghi thức công bố Lời Chúa trong các buổi phụng vụ của chúng ta ngày nay. Ðó là khởi nguyên để chúng ta hoàn thành. Chúng ta nhất định phải làm tốt hơn con cái Israen ngày xưa. Họ đã tập họp đầy đủ, các thành phần già trẻ, trai gái. Gia đình chúng ta có thể làm được như vậy chứ! Họ đã nghiêm chỉnh, chăm chú nhìn vào người đọc và lắng nghe Lời Chúa. Họ lại chẳng chịu để lời nào nghe mà không hiểu, nhưng đã đòi được giải thích. Chúng ta có làm như vậy không? Nhất là họ để cho Lời Chúa, lương tâm khiến họ có thái độ thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Chúng ta cũng cần biến việc đọc và nghe Lời Chúa nên như cơ hội để thực hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh hầu tìm thấy ơn cứu độ của Chúa trong việc đọc và nghe Lời sách thánh.
Ước gì Lời Chúa từ nay trở thành sức mạnh tập họp và thánh hóa gia đình chúng ta và giáo xứ chúng ta. Có như vậy chúng ta mới hơn được con cái Israen ngày xưa.
Tuy nhiên chúng ta phải dành cho việc công bố Lời Chúa trong nhà thờ một địa vị quan trọng hơn. Và cho được như thế chúng ta hãy xem bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét.
2. Dân Chúa hiểu Tin Mừng theo Ðức Giêsu
Chúng ta hãy tạm không nói đến những lời đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Ðó cũng là những lời mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi đây, chúng ta sẽ thấy rất ý nghĩa. Nhưng chúng ta hãy nhìn thẳng vào trọng tâm của bài Tin Mừng này.
Luca tóm tắt cho chúng ta thấy, Ðức Giêsu bấy giờ đầy Thánh Thần. Người ra khỏi sa mạc hẻo lánh sau 40 ngày đêm chay tịnh. Người trở về Galilê. Chắc chắn đi đến đâu Người cũng rao giảng Tin Mừng và chữa nhiều bệnh tật. Thế nên tiếng tăm Người đã đồn ra khắp nơi. Người ta đã nhiều lần hoan hô Người khi Người lên tiếng giảng dạy trong các hội đường. Vậy, Người đến Nadarét nơi Người sinh trưởng. Và theo tục lệ, người ta trao sách Thánh cho Người đọc... Người mở ra gặp trúng đoạn Isaia nói về người tôi tớ. Ðọc xong, Người gấp sách lại. Và trước mắt của trăm người như một đang hướng về Người. Người đã khởi sự giải thích Lời Chúa bằng những lời dễ dàng sau đây: "Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đọc, nay đang diễn ra".
Là vì người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã xức dầu Thánh Thần trong sách Isaia, không ai khác chính Người đang nói trước cử tọa trong nguyện đường ở Nadarét. Có lẽ khi viết những lời này, tác giả Isaia chỉ muốn chép quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa cử làm ngôn sứ cho Người. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Người đổ Thần Linh của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách các Vua I còn kể lại (19,16). Và sứ điệp mà họ phải tuyên bố chính là tin mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, tù đày, để mọi nơi như được hân hoan cử hành những năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước. Những lời Isaia ấy hợp cho mọi ơn gọi ngôn sứ. Nhưng chắc chắn phải được dành riêng để nói về Người Tôi Tớ Ðức Giavê, một nhân vật mầu nhiệm trong sách Isaia mà chắc chắn chính là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Quả thật, ai đã được xức dầu Thánh Thần rõ ràng và dồi dào phong phú như chính Người sau khi chịu phép rửa ở sông Hòa Giang? Và vị tiên tri nào đã giảng dạy mà gây được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi bỏ sa mạc trở về Galiêa? Nhiều bệnh nhân đã khỏi. Có những kẻ mù được trông thấy. Con người khó nghèo, tù đàuytrong cảnh lầm than không đang được giải thoát đó sao? Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan của những năm hồng ân đại xá. Ðức Giêsu thật có lý để tuyên bố: những lời tiên tri đang được thực hiện... và được thực hiện nhờ Người, do Người. Và người ta phải công nhận như vậy.
Có điều người ta chưa nhận ra đủ là Ðức Giêsu còn muốn đồng hóa mình với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà Isaia muốn nói đến trong đoạn tiên tri này. Người không phải chỉ là tiên tri nhưng còn hơn tiên tri. Người đến không phải để chỉ công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện ơn cứu độ. Bà con thân thuộc của Người ở Nadarét chưa nhận ra điều ấy và sẽ không chấp nhận như chúng ta sẽ thấy trong ngày Chúa nhật sau. Họ không bằng lòng khi vừa nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến vì trong thâm tâm, họ chỉ chờ được hưởng thụ những phép lạ mà Isaia đã loan báo và nghe rằng Người đã làm ở những nơi khác.
Luca viết đoạn Tin Mừng này không nhằm vào chúng ta đó sao? Lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô dường như chưa thật vững chắc vì âm thầm có lẽ chúng ta cũng đang tiếc xót việc người không làm nhiều phép lạ ở giữa chúng ta. Người đã làm ở đất thánh ngày xưa, cho những người thời bấy giờ. Còn ngày nay đối với chúng ta, dường như Người không làm gì cả nhưng chỉ đòi chúng ta tuyên xưng Người là Ðấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến...
Chính vì vậy Luca đã viết đoạn Tin Mừng này. Người viết cả quyển Tin Mừng thứ ba để, như trong lời mở đầu, chúng ta được am tường rằng giáo huấn chúng ta thụ lĩnh thực là đích xác. Và cho được như vậy Luca đã phải truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận rồi theo thứ tự đầu đuôi mà viết lại theo như các kẻ từ đầu đã được chứng kiến và phục vụ Lời Chúa đã truyền lại. Luca đã muốn cho tác phẩm của Người có giá trị đích xác để giúp chúng ta tin.
Nhưng thiết tưởng Người cũng đã làm gương để những ai muốn tin Chúa Giêsu Kitô cũng phải đào sâu giáo lý đã thụ lãnh. Không có sự truy tầm và suy niệm này, đức tin sẽ không chắc chắn và đích xác. Chúa Giêsu Kitô sẽ không rõ rệt ở trước mắt chúng ta. Người sẽ trở thành một nhân vật thuộc quá khứ hơn là hiện tại. Chúng ta sẽ thấy Người sống với dân Do Thái hơn là sống với chúng ta. Là vì chúng ta không thấy lời tiên tri đang thực hiện ở giữa chúng ta. Chúng ta đọc Kinh Thánh như những sự việc đã xảy ra mà đồng thời không thấy chúng diễn tả mầu nhiệm Ðức Kitô đang muốn ban ơn cứu độ cho mọi người. Nghĩa là không những chúng ta phải biết cử hành phụng vụ Lời Chúa như bài đọc I hôm nay đã cho chúng ta thấy. Nhưng chúng ta còn phải biết cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô để Lời Chúa trở nên bánh nuôi tinh thần nữa. Và chúng ta chỉ làm được công việc này nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh vì chỉ ở đây mới có phụng vụ Lời Chúa. Nhưng phải làm thế nào để có thể ở trong Hội Thánh?
3. Chúa Giêsu kết hợp chúng ta trong Hội Thánh
Bài thư Phaolô hôm nay viết về Hội Thánh một cách đơn sơ nhưng không kém phần sâu xa, và nhất là có giá trị rất thực tiễn. Tất cả chúng ta ở trong Chúa Giêsu như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Thế thì cũng như các chi thể của một thân thể không phủ nhận và từ chối nhau, thì chúng ta cũng phải chấp nhận và mật thiết kết hợp với nhau ở trong Chúa Giêsu. Các phận vụ ở trong Hội Thánh rất khác nhau, vì Người được ơn gọi làm tông đồ, kẻ được Chúa gọi làm tiên tri... nhưng đó là để ai theo phận nấy mà làm bộ phận cho thân thể. Không do một thân thể con người? Chẳng bao giờ mắt muốn mọi bộ phận khác trong con người phải như mình... vì như vậy chỉ có ngàn mắt mà không có thân thể.
Cũng thế muốn có thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô, mỗi người phải chấp nhận cho người khác đóng vai trò của họ và hơn nữa phải biết đau với bộ phận đau, vinh dự với bộ phận cinh dự. Nói cách khác, theo kiểu so sánh này, muốn thấy Chúa Giêsu Kitô còn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh để chúng ta được kết hợp với Người, ai ai cũng phải tôn trọng người khác và liên kết cộng tá với họ như các bộ phận trong một thân thể.
Hơn nữa, như lời Phaolô ám chỉ trong bài thư hôm nay mọi người phải chiếu cố hơn đến những bộ phận được coi như yếu hơn và không trang nhã mấy.
Ðó chẳng phải là thái độ và sứ mệnh của chính Ðức Kitô sao? Người được sai đến như người tôi tớ được xức dầu Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, kẻ tù đày... Bài Tin Mừng Luca đã cho chúng ta thấy rõ Người đến thực hiện mọi lời Tiên Tri. Người thật là vị được tuyển chọn để công bố lời cứu độ mà Ezra xưa chỉ là hình bóng xa xôi. Người còn tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh là thân thể có đầy đủ mọi bộ phận khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Chính khi kết hiệp với nhau mà các phần tử trong Hội Thánh thấy mình đang được thần trí của Chúa Giêsu Kitô làm cho sống động và mới thấy Người dang sống động trong Hội Thánh.
Thế nên chúng ta họp nhau lại để nghe Lời Chúa như con cái Israen xưa, thì chưa đủ. Chúng ta cùng nhau tham dự vào Mình Máu Chúa Giêsu để kết hợp với Người, như Người đã ở giữa cử tọa hội đường Nadarét xưa cũng chưa đủ. Nhận lãnh thần trí của Người rồi, chúng ta còn phải tôn trọng và muốn hợp tác với anh em, trong các công việc chung nữa, thì mới hiện đại hóa mầu nhiệm Chúa Giêsu đang cứu độ và cứu thế.
8. Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Họa lại Chúa Giêsu
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32.
Lúc đó có một người tên là Giêsu Kitô được coi như là tiên tri, có sức mạnh phi thường, cao lớn, vóc dáng thanh lịch điềm đạm, mái tóc phủ dài xuống đôi vai. Vàng trán ông cao, nghiêm nghị, đôi má không một vết nhăn, moi miệng cân đối hiền hòa, râu dài chẻ ra ở giữa, mắt tươi sáng dịu dàng. Theo nhiều học giả, bức chân dung này được mang về Vatican vào khoảng thế kỷ thứ 19.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tất cả thông tin về cuộc sống Chúa Giêsu, nhưng không thấy một chân dung nào của Người. Tại sao? Vì Thiên Chúa muốn chúng ta ý thức: Những việc Chúa Giêsu làm quan trọng hơn là những đường nét trong con người của Người.
*****
Mục đích và lý tưởng của Kitô hữu chúng ta là được nên đồng hành với Chúa Giêsu. Các tác giả sách Tin mừng không mô tả cho chúng ta biết Chúa Giêsu giống ai, vì ngoại diện của Người không quan trọng, không đáng chúng ta quan tâm. Điều quan trọng để chúng ta đồng hành với Người là thi hành việc Người làm. Người làm gì? Tin mừng hôm nay trả lời cho chúng ta:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho con người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Nét nổi bật nhất trong con người Chúa Giêsu là sự “cảm thông”. Người luôn tìm đến những kẻ bị xã hội và mọi người ruồng bỏ, Người đau khổ với niềm đau của con người. Người đến với những người mà không ai muốn đến. Người cứu giúp những kẻ bị gạt ra bên lề. Người là hiện thân của tình yêu. Giống Người là đi vào tình yêu của Người. Mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta là một đắp bồi cho dung mạo Chúa Giêsu. Cả cuộc sống bác ái của chúng ta là họa lại dung mạo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
2. Chúa Giêsu ra mắt đồng hương
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha… Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, các tổng thống Mỹ đua ra lời phát biểu đầu tiên. Bài phát biểu thường cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về những gì người ta chờ đợi nơi họ.
Tin mừng hôm nay cũng giống như một bài phát biểu. Chúa Giêsu được Chúa Cha chọn vào sứ vụ của Đấng Mêsia. Ngài bắt đầu sứ vụ bằng cách đứng giữa công chúng và nói cho ta biết điều ta chờ đơi nơi Ngài trong sứ mệnh cứu thế.
Điều gì làm tôi ngạc nhiên, ít là về những gì Chúa Giêsu đã nói trong sứ điệp khai mạc của Người? Tại sao?
“Tôi biết rõ con người, và tôi nói với các bạn rằng: Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người” (Napoléon Bonaparte) (Trích “Viễn tượng 2000”).
3. Tấm lòng vàng
Tại California bên Hoa Kỳ có một người ăn xin được nhiều người biết là ông En-đi-va-gát 70 tuổi. Ngày ngày ông đi nhặt những chiếc lông nhung. Ông không phải là kẻ ăn xin tầm thường, mà là người ăn xin triệu phú. Ông được trúng số độc đắc, thế là từ một người ăn xin nghèo khó nay trở thành triệu phú.
Nhưng ông không quên nguồn gốc của ông. Và vì đó mà ông rất thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Sở dĩ ông tiếp tục ăn xin là để gần gũi những người nghèo khổ bất hạnh để ông giúp đỡ. Tiền xin được ông đem giúp trẻ em nghèo được tiếp tục đến trường, các sinh viên theo đuổi việc học. Ngay lúc trúng số, ông đã biếu ngay 20 ngàn mỹ kim vào quỹ học bổng.
Ông là một triệu phú đích thực. Ông giàu không phải vì trúng số mà giàu vì tấm lòng vàng.
---------
Nét đẹp của câu chuyện trên đây là người triệu phú lại chấp nhận ăn xin cho người nghèo. Cũng như trong Tin mừng hôm nay, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong nghĩa là được phong vương lại được sai đi để chăm lo cho những người nghèo khó, tù đày, đui mù, bị áp bức…
Chính nét đẹp đó cũng đòi hỏi nơi người Kitô hữu chúng ta “đem Tin mừng cho người nghèo khó”.
Thế giới mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu tình thương.
Con người cần cơm bánh để sống, nhưng con người cũng cần tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống, vì ai sống trong tình yêu người ấy sống trong Thiên Chúa. (Trích “Tất cả là hồng ân”).
4. Vì hạnh phúc tha nhân
Truyện cổ Trung Hoa kể lại: Hai nước kia định giao chiến với nhau. Quân đội đôi bên đã đặt trong tình thế ứng chiến. Cả hai nước đều cho người đi trinh thám để tìm địa điểm tấn công thuận lợi nhất. Thế là chiến tranh xem ra không thể tránh.
Sau một thời gian quan sát kỹ lưỡng, đội trinh sát đôi bên đều về trình lên thượng cấp:
“Có một địa điểm nằm trên khu vực thuận lợi cho cuộc tấn công. Nhưng ngay tại địa điểm đó có một gia đình sinh sống, gồm hai vợ chồng và đàn con thơ đang sống đầm ấm hạnh phúc trong một mái nhà tranh xiêu vẹo. Chúng tôi đã tìm cách tiếp xúc với gia đình này. Họ là những người rất chân chất làm ăn và rất hiếu khách. Họ tha thiết được sống yên ổn trong mái chòi tranh nhỏ bé của họ. Nếu chúng ta tấn công vào đất địch, buộc lòng chúng ta phải tiêu hủy căn nhà của họ và sát hại chính họ nữa; như thế là chúng ta cướp mất hạnh phúc của họ. Chúng ta nghĩ rằng cuộc tấn công không thể diễn ra được”. Nghe xong báo cáo, bộ tổng tham mưu hai nước đều thấy hợp lý, nên chiến tranh đã không xảy ra.
*****
Chỉ vì hạnh phúc của một gia đình mà chiến tranh đã không diễn ra giữa hai nước. Nếu ai hành động vì hạnh phúc của người khác, nhất là những người bé nhỏ bất hạnh thì chiến tranh đã không xảy ra giữa người với người. Tận trong thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng người ta quên rằng: Hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết tạo hạnh phúc cho người khác.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến đem hạnh phúc cho ta, nhất là cho những “kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức!!!” Còn chúng ta, chúng ta có biết đem hạnh phúc niềm vui cho anh chị em chúng ta không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui Chúa ban cho đồng bào đồng loại chúng ta chăng? Hay chúng ta ích kỷ giữ riêng cho chúng ta?
Trong cái nhìn của đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không (free) của Chúa, tất cả những gì chúng ta làm được cho đến đức tin đều phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì nhận lãnh nhưng không (free) mà chúng ta cũng được mời gọi để trao ban nhưng không(free). Nếu chúng ta biết trao ban những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc, như Lời Người hứa; “Các con cho bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy, và đã dằn đã lắc…” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
5. Nghe bằng ba lỗ tai
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần tấn phong để loan báo Tin mừng cho chúng ta.
Chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng ba cách: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của tâm hồn.
Nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm trí là gì? Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho lời đó sống động như chúng ta đang nghe chính Chúa nói với chúng ta.
Thánh Inhatiô Loyola thường nghe Lời Chúa bằng cách này. Ngài nhắm mắt lại và tưởng tưởng như mình đang ở trong hội đường Do thái xưa nghe chính Chúa nói.
Lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim, và cố gắng áp dụng lời đó vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta như Charlic Pitts. Ông là chủ công ty xây dựng ở Toronto, Canađa. Ông càng làm ăn phát đạt thì cá nhân và gia đình ông càng bê bối sa đọa. Ông phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ ông đọc thấy: “Kẻ nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có ích lợi gì” (Lc.9,25). Ông ghi khắc lời đó vào trái tim và suy nghĩ xem phải áp dụng lời đó vào hoàn cảnh của ông thế nào.
Và nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm hồn là xin Chúa hướng dẫn phải làm gì theo Lời Chúa, như Charlie Pitts làm sau đây. Sau khi cầu nguyện, ông bàn luận với vợ con rồi bán công ty, lấy tiền mua một khách sạn, lợi tức của việc kinh doanh này ông dùng để giúp công cuộc truyền giáo.
Bởi thế, mỗi khi sắp nghe Linh mục đọc Tin mừng trong Thánh lễ, mỗi người Kitô hữu chúng ta làm dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực: làm dấu thánh giá trên trán có ý xin cho chúng ta hiểu được Lời Chúa; làm dấu thánh giá trên miệng để xin cho chúng ta biết nói Lời Chúa cho kẻ khác; làm dấu thánh giá trên ngực có ý xin Chúa cho chúng ta biết mến mộ Lời Chúa.
Như thế việc nghe Lời Chúa mới đem lại lợi ích cho chúng ta, gia đình chúng ta và tha nhân. (Theo “Sunday Homilies”).
Chúa Nhật 3 Thường Niên (Cha Phong, FB)
NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA
* LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
* CHIA SẺ:
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy ra, đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người; nhưng cũng có những sự kiện, biến cố xảy ra làm cho cả thế giới phải lo âu, sợ sệt.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, những người Hồi giáo cực đoan đã thành lập nên nhà nước Hồi giáo tự xưng tại vùng đất Irắc, từ đó, họ đặt ra những luật lệ khắc nghiệt, tàn độc, họ tiến hành các cuộc đánh bom liều chết, những vụ khủng bố kinh hoàng khắp nơi trên thế giới … làm cho tình hình thế giới trở nên rối ren, sự hận thù lên đến đỉnh điểm.
Ngày 13 tháng 3 năm 2013 Khi Đức Thánh Cha Phanxicô được chọn làm giáo hoàng của giáo hội hòan vũ, với một con người gốc Á Căn Đình, có lẽ thế giới đang còn tranh luận tại sao Đức Bênêdictô 16 lại từ chức. Do Chúa muốn, từ đó đến giờ Đức Phanxicô đã mang lại cho giáo hội nhiều điều thay đổi, nhiều luồng gió mới của Chúa Thánh Thần hoạt động. Năm vừa qua tháng 9 đã đến đất nước Hoa Kỳ, có bài tại Hội đồng liên hiệp quốc, tại thủ đô của hoa kỳ, và nhất là có sự khuyến khích cho các gia đình nhân đại hội gia đình thế giới tại Philadelphia. Nhưng tháng 11 vừa qua 2015, ngài đến Trung Phi thật như một phép lạ, vì an ninh không bảo đảm và ba quốc gia rất nghèo, chính ngài đã mở cửa năm thánh lòng thương xót Chúa tại đây cho toàn khối trung phi để Chúa Thương xót an ủi họ. Đây là sinh khí của Chúa Thánh Thần rất mạnh cho giáo hội chúng ta, trong thời đại này.
Cách đây hơn 2000 năm, một con người đã đem đến cho nhân loại sự bình an, tình yêu và hạnh phúc tràn ngập – đó là Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đến để cho con người được sống và sống đời đời. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người sự sống đời đời.
Chỉ có những ai tin vào Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tín thác vào Chúa Giêsu, những người đó mới được hưởng sự bình an và tình yêu viên mãn.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, con người chỉ nhận lãnh sự đau thương và chết chóc.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, chiến tranh, hận thù, khủng bố càng ngày càng gia tăng.
Chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mới xóa đi sự hận thù, chia rẽ, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi trên thế giới này.
* CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
9. Người nghèo của Chúa
"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó" (Lc 1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?
Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người.
Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.
Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức... họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.
Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói "loan Tin Mừng cho người nghèo khó" xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị "giam cầm" bởi một thứ "tù ngục" nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị "giam cầm" bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị "mù" một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: "mù" về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), "mù" trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), "mù" trong cách hành xử đối với nhau...Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ "mù quáng" trong những chọn lựa và hành động của con người! Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị "áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: "điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm". Đó lại không phải là mình đang bị "áp bức" bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!... Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.
Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là "người nghèo" của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: "Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa". Amen.
10. Đường nẻo Chúa - Thu Băng, CRM
Sau phép lạ ở tiệc cưới Cana, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp xóm. Ngài vào hội đường giảng dạy. Ngài đọc Thánh Kinh, gặp thấy đoạn sách: “Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó, ban bố thứ tha cho mọi kẻ giam cầm, người mù được chữa lành, người áp bức được tự do và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Lc.04:14-21).
Thánh Luca nhắc lại lời của ngôn sứ Isaia như nhắc đến đường lối hoạt động của Chúa, khác xa với đường lối hoạt động của chúng ta. Chúng ta chỉ đánh giá qua biểu tượng bên ngoài, chỉ dựa trên thế quyền (lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng), dựa trên danh giá (có thế mới bế nổi người), dựa trên giấu sang (Miệng nhà giầu có gang cò thép, nén bạc đâm toạc tờ giấy), và dựa trên kiến thức (có văn hóa cao). Còn đường lối của Chúa là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, khổ sở, đói khát…
Một Đavid bé con Chúa làm cho thắng nổi Goliat đồ sộ to lớn. Maria hè mọn Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Các môn đệ quê mùa dốt nát Chúa cho làm môn đệ giảng giải sự chân thật. Đường lối của người đời thì kiêu căng, kiêu ngạo, lên mặt, còn đường lối của Chúa thì khiêm hèn, đơn sơ, chất phác, đem hạnh phúc cho người khiêm tốn. Thánh Grêgoriô nói:
- Kiêu căng là dấu rõ ràng nhất của kẻ đã bị loại trừ, còn kẻ hèn yếu thì đặt niềm tin, cậy và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận tin mừng và được Chúa chúc phúc. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu có chỗ cho Chúa nữa.
Từ đó chúng ta suy ra: Người nào coi mình chỉ là số không, thì có đủ chỗ cho Đấng vô cùng, còn kẻ nào coi mình là vô cùng thì trước mặt Chúa họ chỉ là hư vô mà thôi.
Xưa có ông Trần Công, là người tốt, gặp ai cũng giúp, gặp việc gì cũng làm. Một hôm ông đến làng Hòa Đa, nơi đây đang bị hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, sông ngòi khô quêo không một giọt nước. Đi cả ngày, thấy khô cổ, ông vào làng kiếm nước, nhà nào cũng bỏ đi nơi khác. Ông trèo lên một ngọn núi cao, thấy xa xa một toán người cầm bình nước, ông gọi xin. Người kia nói:
- Làng chúng tôi bị hạn hán 6 tháng trời, dân làng bỏ đo nơi khác hết trọi Giá có người nào lên thỉnh thần mưa, nhắc khéo hộ chút thì tốt quá. Trần Công nói ngy:
- Tôi đây, chứ ai nữa. Rồi ông xấn xả đi liền, đi cả ngày chưa tới. Ông trèo lên đồi trọc, thấy bà già khòm lưng bị nhốt trong nhà kêu cứu:
- Cứu tôi với. Ông chạy đến thả tự do cho bà. Bà hỏi:
- Ông đi đâu đấy? Ông trả lời:
- Tôi đi tìm thần mưa giúp làng Hòa Đa, họ bị hạn hán lâu ngày rồi, xin thần mưa thương họ chút.
- Nhà Thần mưa còn xa lắm. Để tôi biếu ông cái này, nó có phép thần thông thu ngắn đoạn đường. Chỉ cần nói mình muốn đi đâu là đủ. Trần Công vui vẻ nhận tặng vật, cảm ơn, rồi bảo gậy:
- Hỡi gậy thần, hãy đưa ta tới xứ thần mưa. Tự nhiên ông thấy hoa mắt, cây nối, núi non chạy như bay về phía sau. Phút chốc ông thấy mình đến xứ Thần mư. Ông đến gọi cổng thì một người trương phi xuất hiện tự xưng là Thần mưa. Trần Công nói:
- Xin Thần mưa giáng phúc cho làng Hòa Đa, lâu quá rồi không có một giọt nước. Thần Mưa chỉ cho ông một con tuấn nã và một bình nước, rồi sai ông cỡi tuấn mã đi rảni nước xuống các làng ông muốn. Bỗng chốc, nước vẩy nước mưa lai láng cả mặt đất. Đến làng Hòa Đa Trần Công dội cả bình nước xuống, khiến thành bão lụt, trôi chảy cả nhà cữa, đất đai. Hôm sau ông từ giã ra về, cái gậy thần lại cuốn ông như lần trước. Đến làng Hòa Đa, nhà cửa, đất đai trôi sạch, khiến ông tiếc xót chép miệng than “Làm ơn nên oán”.
Đường lối của con người nghĩ là tốt, là hay nhưng đường lối Chúa thì khác. Chúa đã muốn phạt ai thì dù có tìm mọi cách để đem lại bình an cho họ, cũng sẽ bị Chúa trừng trị cách khác. Chi bằng lặng yên theo đàng nẻo Chúa thì hơn.
11. Sứ mạng của chúng ta đối với Lời Chúa?
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4,18-19). Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các người vừa nghe”(Lc 4,21). Vâng, đó chính là sứ mạng của Ngài. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã chu toàn trọn vẹn sứ mạng cao cả đó. Trước khi về trời, Ngài đã trao sứ mạng đó cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15. Vậy, chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng đó?
1. Đọc và suy gẫm Lời Chúa
Để loan báo về Đức Kitô thì trước hết phải biết về Ngài. Muốn biết về Đức Kitô một cách chính xác cần phải biết Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Để biết về Kinh Thánh, cần phải đọc Kinh Thánh dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Để hiểu ý nghĩa từng câu, từng đoạn trong Kinh Thánh cần phải liên kết nó với toàn bộ Kinh Thánh. Kinh Thánh là Lời Chúa. Lời Chúa là chính Chúa. Bởi vậy, cần phải đọc Kinh Thánh với một thái độ tôn kính và yêu mến. Chúng ta thường thấy ở phần cung thánh của nhiều thánh đường đã thiết kế hai nhà tạm: Một bên để Lời Chúa và bên kia là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể ngang hàng với nhau.
Trong bài đọc I, khi Esdras đọc Lời Chúa: Tất cả dân chúng đều lắng nghe ông đọc sách luật; tất cả đều đứng lên; toàn dân cảm động đến muốn khóc (x. Bài đọc I). Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca tường thuật lại: Chúa Giêsu đứng dậy đọc Sách Thánh. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống(x. Lc 4,20). Tất cả các cụm từ: Lắng nghe, đứng lên, cảm động, gấp sách lại…Là những thái độ thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa. Cũng vì để thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa, Giáo hội có thói quen đứng dậy khi đọc Lời Chúa, đặc biệt là đọc Tin Mừng. Sau bài Tin Mừng trong thánh lễ, các linh mục hôn kính Sách Thánh.
Để nhằm mục đích cho con cái được đọc và nghe Lời Chúa thường xuyên, trong các ngày thường quanh năm, ngoài bài Tin Mừng ra, Giáo hội sắp xếp các bài đọc trong thánh lễ thành năm chẵn, năm lẽ. Trong các ngày Chúa nhật, ngoài bài đọc I và II, Bài Tin Mừng được sắp xếp theo chu kỳ A,B,C. Ngoài ra, Giáo Hội còn đưa các bài đọc vào các Giờ Kinh Phụng Vụ. Giáo Hội còn khuyến khích các gia đình đọc Lời Chúa trong các giờ kinh tối sáng. Giáo hội còn mong muốn con cái của mình đọc một đoạn Lời Chúa: Trước các buổi sinh hoạt của các tổ liên gia hay trong các cuộc hội họp của hội đoàn, đặc biệt là tại các buổi chia sẻ Lời Chúa…Giáo Hội làm hết sức mình để mỗi người có thể tiếp xúc với Lời Chúa, đọc và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải dành nhiều thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa như Giáo Hội mong muốn.
2. Phổ biến Lời Chúa
Khi đã đọc và suy gẫm Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta còn cần phải tìm cách phổ biến Lời Chúa cho những người khác. Thánh Phaolô nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Đối tượng để chúng ta phổ biến Lời Chúa là hết thảy mọi người.
Trước hết, phải phổ biến Lời Chúa cho những người thân trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho nhau. Đặc biệt, cha mẹ có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho con cái. Nhiều cha mẹ thường đưa những kinh nghiệm rút ra từ các câu ca dao, tục ngữ để dạy con cái. Điều đó rất tốt. Nhưng sẽ tốt hơn, nếu cha mẹ biết vận dụng những câu Kinh Thánh, những câu chuyện được rút ta từ Kinh Thánh để dạy cho con cái mình. Để làm tốt điều đó, mỗi gia đình cần có ít nhất là một cuốn Kinh Thánh.
Thứ đến, chúng ta có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại câu Lời Chúa "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16,26a). Nhờ thế, Ngài đã thuyết phục được chàng trai trẻ là Phanxicô Xaviê từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để trở thành vị Tông đồ đem Tin Mừng cho người Á Đông. Theo gương Thánh Ignatiô, chúng ta có thể tặng cho bạn bè, tặng cho anh em lương dân, những người chúng ta gặp gỡ các câu Lời Chúa, sách Kinh Thánh. Và nếu có thể, hãy dạy giáo lý cho họ khi có cơ hội. Thánh Phanxicô viết cho Thánh Ignatiô từ Viễn Đông rằng: “Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho một kinh…Tôi đã bắt đầu dạy cho chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy cho chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng”(x. Bài đọc 2, Kinh Sách ngày 3/12).
Thứ ba, hãy phổ biến Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông đại chúng: Internet; sách báo... Hiện nay, hầu hết các Giáo Phận, các Dòng Tu và nhiều Giáo Xứ có trang Web riêng. Đa số các trang web đó đều phổ biến Lời Chúa và các bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Ngoài ra, trên các trang mạng xã hội, có rất nhiều cộng đoàn, cá nhân đăng tải các bài Lời Chúa, các câu Lời Chúa, các bài suy niệm…Thiết nghĩ, đó là cách phổ biến Lời Chúa rất hữu dụng. Đành rằng, phương tiện nào cũng có hai mặt: Mặt phải và mặt trái; mặt tốt và mặt xấu. Đừng vì mặt trái, mặt xấu mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội để phát huy mặt tốt. Trong mảnh ruộng đầy cỏ gú, cách tốt nhất để diệt chúng là trồng thế vào đó những cây giống tốt.
Ngoài ra, chúng ta có thể phổ biến Lời Chúa bằng nhiều cách khác nữa, tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta. Tôi thấy nhiều nhà thờ có chương trình hái lộc Thánh Lời Chúa trong đêm giao thừa hay trong ngày mùng một tết. Mỗi gia đình cử một đại diện lên hái lộc Lời Chúa, câu Lời Chúa hái được là châm ngôn sống của cả gia đình mình trong năm mới. Đó là cách làm rất có ý nghĩa.
3. Thực hành Lời Chúa
Sau khi đọc sách tiên tri Isaia(x. Is 61,1-2). Chúa Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”(x.Lc 1,21). Chúa Giêsu không những tuyên bố mà Ngài còn thực hiện trọn vẹn lời tiên báo của tiên tri Isaia: Ngài đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng; giải thoát cho những kẻ bị giam cầm trong tội; trả tự do cho kẻ bị áp bức; chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền...Chúng ta cũng vậy, không chỉ đọc, suy gẫm và phổ biến Lời Chúa mà còn cần phải thực hành Lời Chúa, nghĩa là sống chứng nhân Tin Mừng. Đây là cách loan báo Tin Mừng có sức thuyết phục nhất. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”. Có nhiều cách sống chứng nhân Tin Mừng, nhưng thiết nghĩ cách tốt nhất là sống hiệp nhất yêu thương: Sự hiệp nhất yêu thương đó đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bài đọc II, Ngài nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”(1Cr 12, 12-13). Đức Kitô là thân nho, mỗi thành phần trong Giáo hội là những cành nho. Cành nho phải liên kết với thân nho (x. Ga 15,1-8). Mặc dầu mỗi thành phần trong Giáo hội khác nhau về tiếng nói, màu da, chủng tộc… Nhưng đều là chi thể trong một thân thể là Đức Kitô. Vì vậy, cần phải liên kết với nhau, cần phải hiệp nhất yêu thương nhau. Hiệp nhất yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, trong các cộng đoàn và trong toàn thể Giáo Hội. Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất yêu thương khi tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44). Khi đạo Công Giáo mới du nhập vào nước ta, người ngoại giáo chưa biết gọi tên đạo chúng ta là gì, nhưng họ nhìn thấy các kitô hữu sống hiệp nhất yêu thương nhau nên họ gọi đạo chúng ta là đạo yêu thương. Cho nên, có thể nói “Yêu Thương” là tên gọi khác của đạo Công Giáo. Xin cho mọi người kitô hữu chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, như Chúa Giêsu đã từng nói:“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước khi về trời, Chúa đã trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng đó bằng cách siêng năng đọc, phổ biến và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
12. Tin Mừng được loan báo cho người nghèo
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"
(Lc 4,18)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo". Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình đón nhận.
Do cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Nkm 8,1-10)
Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E, D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra an ủi dân: "Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em".
2. Đáp ca (Tv 18)
Nối tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa: "Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn"
3. Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
4. Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) (Chủ đề phụ)
Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu là chi thể.
Các chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
Do đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Có phải là Tin Mừng không?
Quyển sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là "Ê Vang", trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường được gọi là Tin Mừng.
Xét theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ "Tin Mừng" là đúng nghĩa nhất. Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao?
Trên thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn nghe Tin Mừng. Tại sao? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng sao?
Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
* 2. Tin Mừng cho người nghèo
Không phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao? Vậy tại sao Ngài lại nói "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"?
Chúng ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng của Ngài:
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
Cho người mù biết họ được sáng mắt
Trả tự do cho người bị áp bức
Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức... và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ.
Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không "mù" một cách nào đó? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó?
Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
* 3. "Chúa đã sai tôi đi..."
Qua bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt:
- Khi còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc. Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
- Thỉnh thoảng cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách "Ông cũng bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi".
Dĩ nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời dùng chữ "giả hình" trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi". Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người " Chúa đã sai tôi đi", cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta "Chúa cũng sai tôi đi".
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: "Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu". Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng sai đi làm tông đồ với ai? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà Chúa sai ta đến với họ:
a/ Trước tiên là những người nghèo: Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không? hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy? Ta có cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không? Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời "không" thì sứ mạng tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/ Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ? Và khi đến với họ, ta có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào không? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay "Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin tưởng, hy vọng.
c/ Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa "Chúa đã sai tôi đi đến với họ". Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những người này cũng có mặt rất nhiều: trong sở làm của ta, ngoài đường phố chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không?
Ngôn sứ Isaia đã hát lên rằng "Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng". Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó. Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp!
* 4. "Ngày của Chúa"
Ngày một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng cái "Ngày của Chúa" mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói: "Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay". Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: "Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người". Mọi người xôn xao: "Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?" Lúc đó viên quản lý hô lớn: "Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình".
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những người pharisêu nghĩ rằng "Ngày của Chúa" là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo "Ngày của Chúa" là người xóa nợ, ngày hồng ân.
"Ngày của Chúa" không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là "Ngày của Chúa" hết. Tin Mừng về "Ngày của Chúa" là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. (FM)
* 5. Quyển sách
Sau nửa thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân Do Thái gắn chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân "sống với sách".
Kitô hữu chúng ta cũng là những người "sống với sách". Chỉ khác một điều là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một người lạ đến báo cho họ rằng "Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng". Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là "Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô". Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc xong quyển sách, một người trong họ nói: "Tiếc thay người mang quyển sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy". Một người nói: "Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của ông Kitô". Một người khác nữa góp ý: "Chúng ta thử gởi người đến đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào". Mọi người tán thành.
Họ cử Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp:
"Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không?"
"Họ có hòa thuận với nhau không?"
"Họ có đơn sơ không?"
Họ có hạnh phúc không?"
Tất cả các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này: "Những môn đệ của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không?".
Và sau đây là báo cáo của Francis:
Trên căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy:
Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả.
Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa.
Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của Thầy họ.
Hạng thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của chính họ đối xử lạnh nhạt.
Hạng thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Câu chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay không.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
* 6. Xóa nợ cho nhau
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho:
Ngã cứu nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần!
Nghĩa là:
Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
****
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hoá.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu toả ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; ngườt tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau..., để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 7. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay...
Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có "người" nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có "người kitô hữu" đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: "Thầy là cây nho, chúng con là cành". Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy, bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh Phaolô: "Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của thân thể ấy". Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / hết lòng yêu thương và tận tình giúp đỡ những ai khó nghèo.
2. Thần Khí Chúa sai tôi đi băng bó những tấm lòng tan nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều Kitô hữu / dám xả thân phục vụ những ai đang gặp đau khổ trong cuộc sống thường ngày.
3. Ngày nay / nghèo đói và bệnh tật / dốt nát và bất công / vẫn còn ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với hết thảy mọi người để xóa đói giảm nghèo / tiêu diệt dốt nát / giảm thiếu bất công / và khống chế bệnh tật / để ai nấy đều được sống trong hạnh phúc và an bình.
4. Hằng ngày / có biết bao lời nói độc ác / thiếu bác ái / góp phần giết chết / hoặc làm sứt mẻ tình thân hữu giữa con người với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn dùng lời nói và việc làm để kiến tạo hòa bình / xây dựng tình thương và xóa bỏ hận thù.
Chủ tế: Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người anh chị em gặp gỡ.
13. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qúy vị vừa nghe", lời kết luận trên đây của Ðức Giêsu tại Hội Ðường Nazareth phải là Kim Chỉ Nam cho mọi nỗ lực loan báo Tin Mừng. Có lẽ chúng ta vì miệt mài trong công tác rao giảng, nên ít có thời gian nghiêm túc xem xét lại hướng đi của mình.
Lời Kinh Thánh Ðức Giêsu vừa công bố tuy vắn gọn, nhưng lại có cái nhìn bao quát về hoạt động loan báo Tin Mừng:
1. Tin Mừng trước hết không phải là sản phẩm của trí tuệ con người, càng không phải là thành qủa lao động của con người, nhưng Tin Mừng là hành động của Thánh Thần Thiên Chúa trong lịch sử. "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng." Vì là công việc của Thánh Thần, người loan báo cũng như người lãnh nhận chỉ có thể được coi là cộng sự viên, nếu họ đặt mình dưới tác động của Thánh Thần. Ðây là điểm then chốt, nhưng thường lại dễ bị lãng quên. Người loan báo cũng như người lắng nghe thường dễ để mình bị lôi cuốn vào dòng suy nghĩ của trần thế.
2. Tin Mừng được loan báo "cho kẻ nghèo hèn", "những tấm lòng tan nát", "những kẻ bị giam cầm", "những người bị áp bức". Tin Mừng vì thế luôn là "công bố năm hồng ân của Thiên Chúa": sự tha thứ và giải thoát. Cảm nghiệm ấy đã trở thành nền tảng lòng tin của Dân Chúa ngay từ lúc được khai sinh trên đất Ai Cập khi Thiên Chúa quy tụ dân Người, dắt họ ra khỏi cảnh nô lệ, đưa họ về đất hứa. Và như đoạn sách Nêhêmi vừa trình bầy cảm nghiệm ấy một lần nữa trở nên sự sống của dân Chúa sau thời lưu đầy. Tin Mừng luôn là một việc tái tạo lại lịch sử: can dự vào chính cuộc sống, cầy xới, lật tung những tầng lớp khố đế thâm căn của con người, để đưa họ vào một thay đổi từ bản thân, đến gia đình và xã hội, trong chiều hướng thiết định một sự bình an mới, sự bình an dựa trên sự tha thứ và giải thoát.
3. Thánh Phaolô chỉ cho thấy đây là công việc vô cùng phong phú muôn hình muôn vẻ của quyền năng Thiên Chúa, và con người thật mỏng manh, chỉ có thể tiếp nhận một góc độ hạn hẹp: vì vậy Thiên Chúa ban cho mỗi người một ân điển, để họ cùng nhau diễn tả sự phong phú vô lường của Tin Mừng. Ðáng tiếc là con người thường có khuynh hướng giam hãm Tin Mừng trong cái vỏ mong manh của họ, không khai mở đón nhận sự cộng tác của anh em mình.
Tin Mừng vì thế có một năng động tính đến nỗi chúng ta có thể qủa quyết rằng không ai có thể nghĩ mình có thể đáp ứng sức linh hoạt của Tin Mừng, nếu không được Thần Khí Thiên Chúa tác động.
14. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Con người ngày nay tự hào về sự hiểu biết của mình, nhờ trí khôn ngoan, con người phát minh khoa học,...Thế nhưng đứng trước mầu nhiệm về Thiên Chúa, trí khôn con người không sao hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả hết được? Bởi vì con người mang bản tính giới hạn, bất toàn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giúp con người hiểu Lời Ngài cách xứng hợp.
Hôm nay chúng ta được nghe chính Đức Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18 - 19). Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe" (Lc 4, 20 - 21).
Phải, Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước tiên báo. Hơn nữa, suốt thời gian Ngài sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: "Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo". Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau này, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm; người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói...đúng như lời tiên tri Isaia đã tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa người đồng hương của Ngài, Đức Giêsu đã tuyên bố: "Ngài đến thể thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc". Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đày, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài giải thoát của họ và ban ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là trái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Đức Giêsu đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Do đó, Giáo Hội luôn ý thức sứ mạng của mình trong thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu là đem Tin Mừng cho người nghèo khó...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và ngày nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn thiết hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết nhất, liên quan đến công lý, phát triển và hòa bình.
Mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe". Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Đức Giêsu chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán nhờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như đoạn Phúc âm hôm nay, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những môn đệ của Chúa biết bắt chước theo gương Chúa, tiếp nối công việc của Chúa đem tình thương, công lý đến cho người khác. Amen.
15. Sống sứ vụ của Chúa – Anmai
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu. Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ. Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình:“Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại!
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em."
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư
Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban
còn chờ gì nữa? Không vang khúc hát tri ân Ngài?
Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ
Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời!
Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường?
Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời!
Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa. Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
16. Cộng đồng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: "Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật." (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa." (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: "Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh." (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy." (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: "Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một." (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: "Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất." (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: "Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận." (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung." (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: "Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa." (Kh 20,15).
17. Cùng uống Thần Khí độc nhất
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Thánh Philip Neri, biệt danh là “Tông đồ thành Rôma” là một trong những khuôn mặt vĩ đại đã đóng góp vào việc cải tổ Giáo Hội thời bây giờ. Ngài đã ảnh hưởng dân chúng bằng chính đời sống của mình. Ngài không viết một quyển sách, cũng không đưa ra một lý thuyết thần học nào, hoặc một đường hướng tinh thần nào. Neri sinh ở Florence năm 1515. Gia đình ngài sống chật vật nên đã gởi ngài đến ở với người bà con buôn bán giàu có. Trong thời gian này, Neri thường đến một hang đá gần nhà đã biến thành nhà nguyện, mà đọc kinh cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện Neri được soi sáng nên quyết định rời bỏ việc buôn bán mà tận hiến đời sống mình lên Thiên Chúa.
Sau khi từ giã người bà con, Neri đi lên Rôma vào năm 1533 và sinh sống bằng cách dạy kèm cho mấy đứa con của một người đồng hương. Neri theo học triết và thần học cho đến lúc Neri nhận thấy việc học đã cản trở việc kinh nguyện, nên Neri liền bỏ việc học mà sống như một vị ẩn tu. Ðêm đêm, Neri thường ra ngoài đường phố, lắm lúc đi vào trong nhà thờ, nhưng thường xuyên là đến hầm mộ của thánh Sebastiano mà cầu nguyện.
Thánh Philip Neri lúc 29 tuổi, nhận được một quà lớn lao của Chúa Thánh Thần. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho ngài những ơn đặc sủng của Chúa, thì một có một trái cầu bằng lửa rớt vào miệng ngài và nằm trong ngực ngài. Lúc ấy, ngài ngạc nhiên vì nhận được lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần. Vì không thể chịu được sức nóng của tình yêu Thiên Chúa, nên ngài phải ném mình xuống mặt đất để làm cho thân xác được mát mẻ hơn. Trong khi đó nơi lồng ngực ngài thì có lửa tình yêu thiêng liêng bốc cháy. Ngài phải nằm yên trong một hồi lâu để được phục hồị. Sau đó ngài ngồi dậy với tràn đầy niềm vui. Trái tim ngài sưng to lên như có một cái bướu lớn bằng nắm tay của một người lớn. Nhưng sau đó ngài không còn đau đớn nữa, trong suốt 50 năm của cuộc đời. Ngài cương quyết từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Giúp việc tại bệnh viện của những người bệnh gần chết và ngài bắt đầu rao giảng cho mọi người về Thiên Chúa, từ người ăn xin ngoài đường cho đến những chủ nhà băng.
Năm 1548 Neri thành lập một hội đoàn, cầu nguyện giúp đỡ những người hành hương đến Roma, thiếu thốn lương thực và nơi trú ngụ. Vi linh hướng của cộng đoàn khuyến khích Neri làm linh mục, thì sẽ giúp ích được nhiều hơn. Sau khi đã theo học đầy đủ, Neri được lãnh nhận chức linh mục vào năm 1551.
Tại trú sở mới, nhà thờ San Girolamo, ngài yêu mến phép giải tội. Những người trẻ tìm thấy nơi Neri những lời khuyên giải khôn ngoan và giúp cho đời sống thiêng liêng lớn mạnh. Neri cảm thấy những ngưòi trẻ này không chỉ cần tha tội, nhưng cần được hướng dẫn trong đời sống thường nhật nữa, nên Neri mời gọi họ đến nhà thờ mỗi buổi chiều, để đọc và học hỏi Kinh Thánh và cùng nhau cầu nguyện. Số người đến tham dự càng ngày càng gia tăng, nên ngài cùng Cha Buonsignore Cacciaguerra chính thức thành lập một Hội đoàn cầu nguyện để hướng dẫn họ. Năm 1575, Hội đoàn này được Đức Giáo Hoàng Gregory XIII thừa nhận và những qui luật của Hội đoàn phản ảnh tính phóng khoáng của thánh nhân. Thánh Philip Neri đã làm nhiều phép lạ, trong dịp lễ Hiện Xuống năm 1544, Neri đã xuất thần và cảm thấy tim mình tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Sau đó khi dâng Thánh Lễ thì mặt ngài sáng rực một cách lạ lùng. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1595, như thường lệ, Thánh Neri ngồi tòa giải tội và tiếp những người đến thăm viếng. Trước khi đi về nghỉ ngài nói: “Cuối cùng rồi chúng ta cũng phải chết.” Và đêm đó ngài về với Chúa. (Kim Hà, 7 Vị Thánh Tràn Đầy Ơn Chúa Thánh Thần. MeMaria.org)
Tin Mừng Chúa Nhật 3 TN hôm nay, thánh sử Luca thuật lại Đức Giêsu về Nazareth, vào hội đường ngày Sabat, đọc sách ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Với tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, thánh Philip Neri đã bước theo bước chân Đức Giêsu, chu toàn cả ba sứ vụ: tư tế, ngôn sứ và vương giả. Đây cũng chính là ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu trong Giáo Hội và trong thế giới.
Tư tế
“Thần Khí Chúa ở trên tôi” Qua Bí Tích Thánh Tẩy, Thần Khí Chúa thánh hoá người lãnh nhận, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Giêsu. "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều mặc lấy Ðức Kitô." (Gl 3, 27) Người Kitô hữu bất cứ ở đâu, hay bất cứ thân phận nào được xức dầu trong Thần Khí đều trở nên đền thờ thiêng liêng, hiệp nhất với Đức Giêsu và Hội Thánh. Như thánh Phaolô đã mạnh mẽ minh xác với tín hữu Côrintô: "Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất, dù là Do thái hay Hy lạp, dù là nô lệ hay tự do, và hết thảy ta đã được cùng uống Thần Khí độc nhất. (1Cr 12,13 Bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, DCCT)
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, theo cách thức riêng của mình, trở nên đền thờ Thiên Chúa, chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa Cha. "Thực vậy, mọi hành động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô." (Hiến Chế Lumen Gentium, 34, đ 2)
Chức năng tư tế của tín hữu là hiệp dâng lên Thiên Chúa tất cả bổn phận, lẫn trách nhiệm theo ơn gọi, noi gương cuộc đời Ðức Giêsu hiến dâng, phục vụ cho Thiên Chúa và con người. Hằng ngày, người Kitô hữu tiến dâng lên Chúa những thành quả, lẫn thất bại, niềm vui lẫn nỗi buồn, âu lo và hy vọng, để biết ơn, cảm tạ, ngợi khen, cũng như để được an ủi, cứu giúp.
Ngôn sứ
"(Thánh Thần Chúa,) sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.” Người Kitô hữu còn có chức năng ngôn sứ, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là người nghèo hèn, đau khổ, bệnh tật, qua chính cuộc sống bản thân, qua chứng tá đức tin, qua lời nói chân thành và việc làm bác ái, tương thân, tương ái với tha nhân.
Nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót, từng Kitô hữu có thể tự kiểm điểm vai trò ngôn sứ của mình qua kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối. Thương Xác Bảy Mối thì tương đối dễ dàng thực hành, còn Thương Linh Hồn Bảy Mối thì người tín hữu Kitô đã chu toàn hay đã bỏ quên, chỉ vì lối sống vị kỷ mackeno, chẳng muốn dây dưa với tha nhân, khỏi phiền luỵ. Nếu thế, đến ngày cánh chung, Chúa cũng sẽ ngoảnh mặt làm ngơ, không biết chúng ta là ai, mà cho vào hưởng Nước Chúa.
“Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý." (Hiến Chế Lumen Gentium 35, đ. 3)
Vương giả
“Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Hơn nữa, nhờ thuộc về Đức Giêsu người Kitô hữu còn dược vinh dự thông phần vào chức năng vương giả của Người. Đem ánh sáng Tin Mừng giải thoát tha nhân khỏi ngục tù tội lỗi chế ngự, khai sáng những kẻ mù loà, hoa mắt trong thế giới vật chất phù phiếm hấp dẫn, đem sự thật, công lý và tình thương đến những kẻ bị sự dữ khai trừ, đàn áp, bị bỏ rơi. Như thế, người Kitô hữu được mời gọi phục vụ, xây dựng và phát triển Nước Chúa ngay tại thế.
Nhưng trước hết, người Kitô hữu phải chiến đấu với chính mình, tỉnh thức vượt qua các chước cám dỗ hằng ngày, cũng như luôn ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh, canh tân, đổi mới, người Kitô hữu mới có thể phục vụ Đức Giêsu đang hiện hữu trong mọi người. Như thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ, để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa.” (Rm 6, 13)
Nếu con bảo "giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần" có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo "giáo dân là tư tế, tiên tri, vương giả", có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức họ được Chúa gọi? Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh Tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho phép Thêm Sức? (Đường Hy Vọng, số 333)
Lạy Chúa Thánh Thần xin thương xót, giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, chu toàn ba chức năng Tư Tế, Ngôn sứ và Vương Giả với người thân thuộc đến Giáo xứ, Cộng đoàn và tất cả tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng chúng con ý thức rằng, nhờ Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chúng con luôn được vinh hưởng Lòng Thương Xót, trở nên đồng hình, đồng dạng Con Chúa, cũng như biến thành chi thể của Người. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con chân thành tri ân, cảm tạ, ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa chí nhân chí ái muôn đời. Amen.
18. Người phá tan xiềng xích lầm than
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài.
Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, "Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào" (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng. (Ga 6, 53)
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá)
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh sữ Luca giới thiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đấng Cứu Thế. Đấng Messia mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo hàng trăm năm trước.
Đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn
Người đến không đem Tin Mừng đến cho quý bậc vương giả, quý chánh khách, quý nhân sĩ học cao hiểu rộng, quý vị kiêu căng, hợm hĩnh tự phụ về tài năng, về chức tước, bổng lộc. Mà Người đến với những thân phận nghèo hèn, những kẻ cùng đinh, những thân phận bên lề xã hội, những người bé nhỏ, khiêm tốn, nhường nhịn, tự hạ, vị tha, chân thành ý thức bản thân như cát bụi với Đấng Tạo Hóa.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.”(Lc 4, 18)
Đến thờ lạy Đấng Cứu Thế trong hang đá Bê Lem, những trẻ mục đồng chăn chiên khốn khó, với tâm hồn chân thành, trong sáng, những nhà chiêm tinh thiện tâm, nhiệt tình khao khát yết kiến Vua Vũ Trụ.
Khởi sự đi rao giảng, Người cũng kêu gọi và chọn những tông đồ từ dân thuyền chài tầm thường, nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc. Những người sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự thế gian, công việc, gia đình, để đi theo Chúa.
Trong khi đó, bao nhiêu luật sĩ, kinh sư, tư tế và cư dân thành Giêrusalem đều nghe biết Đấng Messia được sinh hạ ở Bêlem, nhưng vẫn lạnh nhạt, hờ hững, làm ngơ, chẳng hề đoái hoài đón nhận Ngươì.
Cũng như trào lưu xã hội hiện nay, đang đua nhau phủ nhận Chúa, đang xua đuổi Người ra khỏi mọi lãnh vực. Khi đua nhau vái lạy những con Bò Vàng tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, lạc thú, thay vì kính Chúa, yêu người, thì Tin Mừng đương nhiên trở nên điều xa xỉ, không cần thiết với họ.
Do vậy, Tin Mừng chỉ có thể đến được với những tâm hồn khiêm cung, nhỏ bé, đói khát sự công chính, sự thật và chân lý. Chúa Giêsu vẫn khuyên nhủ mọi người, hãy trở nên trong sáng, hồn nhiên, đơn sơ như trẻ thơ, dễ dàng nhận được những hạt giốngTin Mừng, ươm chồi, nảy lộc, thành cây xanh tươi, sinh hoa thơm trái ngọt sau này.
Đem tự do cho người tù và bị áp bức
Chúa Giêsu đến thế gian không phải làm chiến sĩ anh hùng, giải thoát dân Israel khỏi ách đô hộ La Mã, không giải thoát những tù binh hay nô lệ. Nhưng giải thoát con người khỏi xiềng xích ma quỷ, khỏi quyền lực thế gian đen tối độc ác, khỏi cạm bẫy cám dỗ, khỏi đam mê xác thịt. Dẫn dắt con người đến bến bờ hy vọng cứu rỗi.
“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,…,trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4, 18)
Ngay nơi tù ngục,Tin Mừng vẫn đem lại ánh sáng tự do cho những ai đang quằn quại chịu nhục hình. Giải thoát tâm hồn họ khỏi ách tù đày, khỏi áp bức tra tấn, khỏi thù hận, nghi kỵ, bất mãn, như ĐHY Phanxicô Xaviê đã trải nghiệm “Dẫu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.“(Tv 23, 4)
Nhất là Tin Mừng còn phá tan vòng kiềm tỏa của ma quỷ, giam hãm con người trong ngục thất tội lỗi u mê, tìm được lối thoát an toàn. Những tù nhân của đam mê vật chất, những con tin của cuộc sống trụy lạc, sớm thức tỉnh, sẽ được tự do trở về với Lòng Thương Xót vô bờ.
Đem ánh sáng cho người mù
“Người sai tôi đi công bố cho người mù biết họ được sáng mắt.” (Lc 4, 18)
Người đem Tin Mừng đến dẫn dắt, soi sáng, hướng dẫn những ai mù lòa lạc đường trong tối tăm, trong bóng đêm vô thần. Những người đang bị chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, khuynh đảo che mất tầm nhìn về tương lai. Nhất là chủ nghĩa duy tương đối và khuynh hướng tục hóa đang thách thức và đe dọa thô bạo đến niềm tin Kitô hữu. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119, 105)
Trước cái bả danh lợi, sắc dục, của cải, con người dễ dàng mù quáng lao theo chước cám dỗ chiếm đoạt, không còn biết đến công bằng, chánh trực và đạo nghĩa. Trước những lời nói có cánh, khen ngợi, dụ dỗ, khích động, con người cũng dễ dàng gục ngã, a dua, tán đồng, hoặc bị phỉnh lừa. Đó là chính là lúc cần đến Lời Chúa đến soi sáng phân minh, đâu là thật giả, đâu là con đường chính đáng phải theo.
Ban phúc Hồng Ân
Đấng Cứu Thế công bố năm hồng ân của Chúa, không chỉ là một năm duy nhất, mà kéo dài cho đến ngày chung thẩm. Nay thời thế mạt sắp đến gần, thế nhưng có bao nhiêu người chịu lắng tai nghe, tiếng kêu khần thiết trong hoang mạc của ông Gioan Tiền Hô, để kịp thời ăn năn sám hối?
Nhiều người đang trở nên điếc đặc, hay mù lòa trong cái xã hội hỗn độn, phù phiếm, gian manh, lừa đảo, bóc lột, đàn áp, bất nhân, bất nghĩa. Trong đó, con người coi nhau như cừu địch, chỉ biết đua nhau bước lên đầu lên cổ người khác để tiến thân, để hưởng thụ. Nhưng Đấng Cứu Thế đã kịp thời đến xua tan bóng đêm hãi hùng, chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng, hóa giải những mưu ma, chước quỷ, mời gọi mọi người quay trở về đường ngay, nẻo chính, về với quê hương Nước Trời.
Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi xiềng xích tội lỗi, xin mở mắt, mở tai con ra, để biết đón nhận Tin Mừng, áp dụng vào đời sống thường ngày.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con biết ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa nhân lành, hầu con xứng đáng hưởng hồng ân cứu độ. Amen.
19. Con người sống trong sự giải thoát của Thiên Chúa
Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời xưa đã làm cho người Việt nam sống trong sự nô lệ của những người giàu sang và có quyền thế. Sống trong tâm trạng như thế thật là thê thảm. Chính những người Do thái ngày xưa cũng đã hết sức cực khổ vì phải làm tôi mọi cho người Ai Cập. Nhờ Thiên Chúa mà họ đã được giải thoát để trở về sống an bình trong vùng đất Chúa hứa.
Hình ảnh ấy báo trước một sự giải thoát quý báu thiêng liêng hơn mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi thời Tân Ước. Thiên Chúa thực hiện điều ấy nơi Chúa Giêsu, Con duy nhất của Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào hội đường Nagiaret và người ta trao cho Người đoạn sách thánh. Ðây là việc làm mà Chúa Giêsu thường làm trong mỗi ngày Sabat. Ðoạn sách thánh hôm nay được trích từ sách tiên tri Isaia: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 28 - 19).
Có một sự lạ thường đối với Chúa Giêsu trong ngày hôm nay là đọc xong đoạn sách thánh này Người mạnh dạn tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21b). Nghĩa là chính Chúa Giêsu sẽ làm những điều này cho toàn thể nhân loại. Người đem đến cho con người sự giải thoát. Giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời.
Từ khi tổ tông phạm tội thì con người đã đánh mất sự tự do thiêng liêng Thiên Chúa ban. Mà hậu quả của tội lỗi là sự chết. Dầu rằng chính con người tự chọn lấy điều ấy cho mình, nhưng Thiên Chúa vẫn không nỡ lòng nào để cho các con cái của Người phải gánh chịu mãi những hậu quả ấy. Ðó là hậu quả hết sức đát. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát con người. Và chính Chúa Giêsu là Ðấng đến đem cho con người sự giải thoát thiêng liêng vô cùng cao quý.
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế này là bằng chứng hùng hồn nhất về sự giải thoát mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Chúa Giêsu đi đến đâu là bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tội lỗi của con người được cứu chữa và tha thứ đến đó. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ban quyền lại cho các tông đồ và những người kế vị: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)
Ðược nhận lãnh ơn tha thứ mỗi khi phạm tội là một ơn vô cùng cao quý. Ðặc biệt, cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong Năm thánh về linh mục và Năm thánh 2010. Ðây là một thời gian hết sức thuận tiện để chúng ta được lãnh nhận những ơn tha thứ của Chúa. Hãy biết tận dụng thời gian này cho thật sự có ích lợi.
20. Lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ - Jos. Vinc. Ngọc Biển
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên - Việt Nam.
Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm đức giám mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức giám mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).
Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.
Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức... nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.
1. Sứ mạng của Đức Giêsu
Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.
Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).
Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).
Về mặt thể xác, Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.
Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
2. Sứ mạng của Giáo Hội
Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”(Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.
Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).
Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!
Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!
Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội chỉ đi với kẻ có quyền, người ta sợ; chỉ đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.
3. Sứ mạng của chúng ta
Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.
21. Đức tin hoàn hảo - Lm. Nguyễn Chánh
1/ Trong những lời cuối cùng để kết thúc Tin Mừng thứ tư, tác giả Gioan Tông Đồ nói đến mục đích của cuốn sách mà mình biên soạn, nghĩa là nhằm giúp độc giả được đón nhận đức tin vào Đức Giêsu Kitô, nhờ đó mà họ sẽ được sống. Vì thế Thánh Gioan đã kết luận: "Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người"(Ga 20,31). Như vậy theo nét nhìn của Thánh Gioan thì: Đức Giêsu Kitô là đối tượng của đức tin chúng ta; Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Nhưng thực tế thì như thế nào?.
2/ Đó là một sự thật phũ phàng.
Gọi là phũ phàng vì qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, phần nào đã tỏ được thái độ của người làng quê Nazarét, đồng hương với Chúa Giêsu khi Chúa về thăm họ: Đó là thái độ phẫn nộ hơn là vui vẻ; thái độ xua đuổi hơn là đón tiếp. Thái độ căm phẫn còn thể hiện khi những người trong Hội đường muốn lôi Chúa Giêsu lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực thẳm nhằm làm nguy hại đến tính mạng Ngài (x. Lc4,30).
Hơn nữa, gọi là phũ phàng, vì đọc xuyên suốt Tin Mừng chúng ta luôn bắt gặp một Đức Kitô luôn bị từ khước, cho dẫu Ngài là Con Thiên Chúa; rồi một hình ảnh của Đấng đến nói lời Chúa Cha, nhưng thường bị mọi người hững hờ, vì có lúc họ đã nói:" lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi"(Ga6,60). Rồi chúng ta còn gặp hình ảnh của Đấng bị thất bại trong các phép lạ Ngài làm. Mặc dù phép lạ Chúa làm là do quyền năng Thánh Thần, nhưng lại bị người ta coi đó là sức mạnh của ma quỷ. Vì họ nói những phép lạ Chúa làm"là dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỳ"(Lc 11,15). Rồi cuối cùng chúng ta lại thấy sự thật phũ phàng đã bao trùm lên Đức Giêsu Kitô là Vua dân Do thái, khi vị Vua này đã bị chính người đồng hương của mình tước đọat hết phẩm giá của một con người, khi họ nhục mạ, chế giễu, khạc nhổ, đánh đập, đóng đinh, và cuối cùng chính họ đã giết Ngài trên thập giá với một thân hình trơ trọi.
3/ Nguyên nhân nào đã làm ra những sự thật phũ phàng đáng tiếc như thế?
Đó cũng là vì thái độ thiếu khiêm nhường. Vì thiếu khiêm nhường nên đa số người Do thái luôn khẳng định những giáo lý, những truyền thống mà họ đã lãnh nhận từ cha ông của họ đó là tuyệt đối. Vì tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để nhận lấy lời dạy mới mẻ của Chúa Giêsu như "ách êm ái và gánh nhẹ nhàng"(Mt 11,30). Vì là tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để đón nhận lời giải thích của Chúa Giêsu về niềm tin của họ. Mục đích là Chúa giúp họ có một đức tin hoàn hảo. Đức tin hoàn hảo là đức tin phải được xây dựng trên lời nói và cách sống của Chúa. Rất tiếc cho những người đồng hương của Chúa Giêsu. Vì Chúa đến với mục đích để giúp cho người nhà của mình có một đức tin tuyệt đối, nhưng họ không muốn. Ngược lại vì sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa dân tộc Do thái, đã bị mọi người coi như một cái gai trong mắt mình, nên họ đã đi đến một hành động tuyệt đối mù quáng, đó là khử trừ Chúa ra khỏi đức tin của họ, ra khỏi cộng đoàn mà họ đang sống.
4/ Sự thật chối bỏ Chúa cách đây hơn hai ngàn năm vẫn chưa chấm dứt. Sự thật này vẫn lan tràn nơi đây nơi đó, ngay cả trong cộng đoàn chúng ta, và trong cách sống chúng ta. Vì thực tế để đạt đến đức tin hoàn hảo nơi Chúa đó không phải là chuyện đơn giản. Vì tin Chúa thì Chúa luôn mong muốn chúng ta phải sống như Chúa: chịu hiểu lầm, chịu nhục mạ vì Tin Mừng, chịu đau khổ, chịu hy sinh, chịu mất đi những của cải mình có để đổi lấy yêu thương theo Tin Mừng. Nói chung để có đức tin hoàn hảo là chúng ta phải đi trên con đường hẹp, con đường thập giá. Đây chính là hành động của đức tin.
Khi đối diện với con đường thập giá, chúng ta cảm thấy mình bị thiệt thòi, thấy cuộc sống bị gò bó, trước mắt đó là những gian truân thử thách. Vì thế chúng thường rút lui, không muốn đi theo con đường hẹp của Chúa nữa, không muốn hành động vì đức tin nữa. Từ nguyên nhân đó chúng ta rất dễ rơi vào thái độ lệch lạc đức tin và dễ bị đánh mất đức tin trong cuộc sống, cũng vì muốn sống ích kỷ, không muốn sống theo đòi hỏi của Tin Mừng.
5/ Theo thống kê ngày 31-1-2006 của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các dân tộc: Trong năm 2006 đã có 24 linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân đã bỏ mình trên đường truyền giáo, khi phục vụ tại các miền truyền giáo hay giữa các thành phần kém may mắn trong xã hội. Sự hy sinh của những anh hùng truyền giáo này, đã làm cho dấu ấn đức tin không thể phai nhoà trong lịch sử Giáo Hội.
Vì muốn có một đức tin "hoàn tất", nên các ngài phải chấp nhận chịu ngược đãi. Vì muốn có một đức tin "hoàn chỉnh", nên các ngài phải chấp nhận bách hại. Vì muốn có một đức tin "hoàn hảo" nên các ngài rất vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó là một đức tin tuyệt đối vô cùng.
6/ Hôm nay khi hướng ánh mắt nhìn lên ơn cứu độ, mỗi người chúng ta hãy can đảm chọn cho mình một con đường thật chắc chắn, thật bảo đảm để tiến bước về ơn cứu độ. Con đường chúng ta đi để được ơn cứu độ không gì khác hơn là con đường đức tin, con đường sống đức tin. Sống đức tin để chúng ta có một đức tin hoàn hảo. Nhưng để có một đức tin hoàn hảo đòi hỏi chúng ta phải gánh chịu những hy sinh thử thách, chính những hy sinh này sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. Vì thánh Giacôbê đã quả quyết: "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người" (Gc 1,12)
22. Phải nghe bằng ba lỗ tai – Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: "Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: Lỗ tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn"
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường (Sy-nagogue). Đền thờ thì chỉ có một cái, tức Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do Thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu và bồ câu. Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng thuyết nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ Misa của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống chúng ta giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phục vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ; giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc Ly; "Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Ngài cầm chén lên và nói: "Đây là chén của giao ước mới ký kết trong máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con" (Lc 22:20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là lắng nghe. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa đề là The Royal Hunt of the Sun (Hoàng gia đi săn mặt trời). Vở này kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta; "Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này" Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ; "Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?"
Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí. Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do Thái để nghe Chúa Giêsu nói. Ngài tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu; "Thần khí Chúa ngự trên tôi. Và Ngài còn tưởng tượng ra nỗi phấn khích như điện giật lan chuyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố "Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó".
Như thế nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng Lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây dựng điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông; "Được lời lãi cả thế gian mà mất đi chính mình thì lợi ích gì đâu?" (Lc 9:25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: "Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!". Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách lắng nghe Lời Chúa sau cùng là nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về Lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi hủy diệt đời sống ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rổi quản trị nó". Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, ngoài phút giây chúng ta cầu nguyện chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm mơ ước muốn cải tạo hoàn cảnh hiện tại, Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta về môt trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, những chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Chúa bằng ba cách;
Bằng lỗ tai tâm trí,
bằng lỗ tai trái tim
và bằng lỗ tai linh hồn.
Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa dược diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta, và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
23. Lời quyền năng là Thần trí và là sự sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.
Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 1,21).
Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).
Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.
Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).
Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).
Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.
Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).
“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.
Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng.
Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.
24. Sự gần gũi hằng ngày của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Những người có mặt trong Hội Ðường Na-da-rét hôm đó thật vô cùng kinh ngạc khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố: Những lời hứa về Ðấng Messia mà các vị đã nghe, nay đã được hiện thực nơi tôi! Và chúng ta có thể dễ dàng hiểu được sự bất bình của những người Na-da-rét, vì trên thực tế tình hình nơi chính chúng ta cũng không khác lắm so với hoàn cảnh của họ. Vâng, chúng ta đã nghe biết sứ điệp của Giao Hội và sự đòi hỏi của nó là loan truyền ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, nhưng ngay trong Giáo Hội, chúng ta lại cảm nghiệm được rất ít ơn cứu rỗi đó. Cách đây mấy năm, có một bạn thanh niên nói: “Giáo Hội muốn tìm cách giải thoát thế gian ra khỏi sự dữ, nhưng chính Giáo Hội lại là sự dữ!” Có lẽ đây là một lời nói quá nặng của một người đang trong tâm trạng thiếu bình tĩnh! Nhưng trong thực tế, lời nói đó đã bộc lộ điều mà nhiều người từng thầm che đậy trong lòng, khi họ cảm thấy đau khổ và thất vọng về Giáo Hội, về những tính cách nhân loại bất toàn trong Giáo Hội, như: Trước những yếu đuối, những lầm lỗi và những luật lệ khe khắt của Giáo Hội, v.v...Vì thế nhiều người đã tỏ ra dè dặt trước sứ điệp cứu rỗi mang tính cách thiên sai do Giáo Hội loan báo, cũng như đã đánh mất dần lòng tin tưởng vào sứ vụ và sự thánh thiện của Giáo Hội.
Vấn đề khó khăn đó của con người ngày nay, cũng chính là vấn đề của những người Do-thái ở Na-da-rét xưa kia. Họ biết Ðức Giêsu là ai, và họ cũng cho là mình biết rõ Ðấng Messia phải như thế nào. Theo họ, Ðức Giêsu, người đồng hương của họ và hình ảnh mà họ vẫn có được về một Ðấng Messia, hoàn toàn không trùng hợp với nhau. Nói cách khác, người anh em đồng bào Giêsu này của họ không thể là Ðấng Thiên Sai từng được toàn dân mong chờ từ hàng thế kỷ nay.
Thế mà ngày nay, tuy chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế gian qua con người Ðức Giêsu Na-da-rét, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái ngược với quan điểm và sự chờ đợi của những người Do-thái xưa kia, nhưng tương tự như hai môn đệ Em-mau xưa (x Lc 24,25), chúng ta vẫn không tránh được những khó khăn, một khi chúng được mời gọi: Phải rút tỉa ra từ sự nhận thức về sự kiện Thiên Chúa nhập thể trong con người Ðức Giêsu, những hiệu quả cụ thể cho cuộc sống của mình và đồng thời không còn đem những quan niệm nhân loại hẹp hòi của mình ra để đo lường và phê phán về Thiên Chúa và chương trình cứu rỗi của Người nữa. Thí dụ: Khi chúng ta khắt khe đòi hỏi Giáo Hội phải hoàn toàn tinh tuyền và hoàn hảo thế này thế kia, thì chúng ta đã quên đi là chính mình đang ngồi trên cùng “một hàng ghế” với những người Do-thái xưa kia ở trong Hội Ðường Na-da-rét, những người đã chờ đợi một Ðấng Messia xuất hiện uy hùng trong vinh quang Thiên Chúa, đến nỗi không một ai còn dám nghi ngờ được sứ vụ thiên sai của Người nữa! Trong khi đó, Ðấng Messia, Ðấng Thiên Sai lại đã xuất hiện trong thế gian hoàn toàn khác hẳn: Người đã đến như một người bình thường, yếu đuối, chứ không có hào quang rực rỡ nào cả; nhưng lòng tin tưởng phó thác của Người vào sự cứu rỗi và sức mạnh của Thiên Chúa thì hoàn toàn tuyệt đối. Ðức Giêsu không cần đến quyền bính hay sự vinh quang rực rỡ bên ngoài. Người chỉ biết tuân phục và thực hiện thánh ý Thiên Chúa Cha, và Người hoàn toàn phó mặc cho Thiên Chúa hướng dẫn sứ mệnh của Người đến chỗ thành công, cũng vì thế Người đã khước từ tất cả mọi phẩm chất thần thiêng, để sống hòa mình vào cuộc sống hằng ngày của con người như một người trong họ. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi Phi-líp-pê: “Ðức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như mọi người trần thế” (Pl 2,6-7).
Do đó, kể từ Ðức Giêsu cuộc sống hằng ngày của con người mang dấu ấn thần thiêng. Ðể tìm gặp Thiên Chúa, con người không cần phải rời bỏ thế gian, và con người cũng không cần phải chờ đợi một dấu hiệu đặc biệt về sự gần gủi của Thiên Chúa. Thay vào đó, con người cần phải tin vào sự gần gủi của Thiên Chúa trong chính cuộc sống hằng ngày của mình, và qua chính những kinh nghiệm về nghèo khổ, tật nguyền, mù lòa và đau ốm (x. Lc 4,18). Tuy nhiên, để đạt được điều ấy, trước tiên chính con người phải có những kinh nghiệm đó đã. Vâng, khi một người càng ý thức được sự nghèo nàn của mình, thì càng hiểu rõ được “Năm hồng ân của Thiên Chúa” có ý nghĩa gì; đó chính là: Dù cho vương vấn mọi lầm lẫn và tội lổi, con người vẫn không bị xua đuổi loại trừ và không phải lo âu bối rối. Niềm hy vọng và tương lai luôn mở rộng trước mắt con người. Giáo Hội luôn ý thức được điều đó, nên luôn tìm cách gần gủi với con người để giúp cho con người đạt tới được một cuộc sống sung mãn. Dĩ nhiên, Giáo Hội đã và sẽ không luôn luôn thành công trong công tác nâng đỡ con người như thế. Giáo Hội còn có thể làm nhiều hơn nữa, nhân bản hơn nữa, hành động đầy yêu thương hơn và bộc lộc được sức sống của mình một cách mãnh liệt hơn nữa, v.v...!
Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế giới này qua con người Ðức Giêsu và chỉ cho chúng ta biết phải sống và phải cư xử thế nào: Ðó là phải bắt chước gương Ðức Giêsu mà biết thông cảm nỗi cơ cực của kẻ khác và tìm cách mang tới cho họ sức sống mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và còn tiếp tục ban cho chúng ta.
Những con người biết ý thức và thực thi được điều đó, thì không còn khổ sở và khó chịu về những yếu đuối và lầm lỗi của kẻ khác nữa, trái lại tìm cách giúp đỡ họ điều họ đang cần, như: Một lời nói đầy thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một cái mĩm cười thanh thản vui tươi, dành cho họ một chút thời giờ, v.v... Tất cả những điều đó hoàn toàn phản chiếu tinh thần Phúc Âm - và đều nằm trong tầm tay của chúng ta, bất cứ ai cũng đều làm được - vì thế chúng là dấu chỉ sự gần gủi của Thiên Chúa - cả hôm nay nữa -, là dấu chỉ tiên báo ơn cứu rỗi mà Ðức Giêsu đã công bố trong Hội Ðường Na-da-rét năm xưa, tức: “Giải phóng người bị cầm tù, mang lại ánh sáng cho người mù lòa, trả tự do người bị áp bức và loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,18). Amen.
25. Đấng Cứu Thế.
Hội đường là nơi tụ họp có tính cách tôn giáo của người Do Thái. Đồng thời, ngày Sabat, tức là ngày nghỉ lễ được cử hành tại hội đường, với việc nghe đọc Thánh Kinh và diễn giảng. Mọi người Do Thái trưởng thành, tức là từ 30 tuổi trở lên đều có thể được đề nghị hay tình nguyện lên đọc và giải thích Kinh Thánh.
Trở về Nadarét lúc này, Chúa Giêsu đã trên 30 tuổi, cho nên Ngài đã tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng tại quê nhà. Theo thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu đã nhiều lần giảng dạy trong các hội đường và lời giảng dạy của Ngài hẳn đã có được một sức lôi cuốn và hấp dẫn, vì chẳng bao lâu, tiếng tăm Ngài đã được làn truyền khắp vùng. Tất cả bầu khí phấn khởi này được sử dụng như là phần nhập đề cho Tin Mừng lớn lao, mà Ngài sẽ rao giảng tại hội đường Nadarét, như là một xác định lập trường và công bố chương trình hành động của Ngài. Vậy lập trường ấy như thế nào và chương trình hành động của Ngài ra làm sao?
Tôi xin thưa: Lập trường ấy, chương trình hành động ấy xoay quanh lời loan báo của tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu tấn phong tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, giải phóng những kẻ bị giam cầm, làm cho người mù được sáng, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Lời loan báo này có nghĩa là thời cứu chuộc đã bắt đầu, và Chúa Giêsu, người đang đọc và cắt nghĩa đoạn tiên tri này, chính là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu và sai đến để thực hiện ý định cứu chuộc mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, trước một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Có thể xưa cũng như nay, nhiều người đã chờ đợi ở Vị Cứu Tinh những việc cả thể và lớn lao, những chiến công lừng lẫy và oanh liệt. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người khổ đau, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến và phải thực hiện. Trước mặt Ngài, thời cứu độ là thời tái lập lại trật tự và tình thương giữa người với người.
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu tại hội đường năm xưa chính là một sự thách đố đối với cá nhân mỗi người chúng ta, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, bởi vì cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội có nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa nơi trần gian, thế nhưng cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội đã thực sự tái lập trật tự và tình thương yêu giữa người với người hay chưa?
26. Lời trên đôi tay - Dã Quỳ
Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn, ngự trị và tràn đầy quyền năng. Đây là một hành trình, là thời gian đặc biệt cho một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Đây là thời gian hồng ân của Chúa cho nhân loại (Lc 4, 19), nhưng cũng là thời gian thách đố của con người trước Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo và mời gọi thực thi.
- Đây Là Thời Gian Hồng Ân vì là thời Thiên Chúa trực tiếp gặp gỡ con người qua Đức Giêsu Kitô - Đấng được Xức Dầu và tràn đầy Thần Khí. Là lúc Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho con người, nhất là những người nghèo khó: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"(Lc 4, 18-19). Đây có thể được gọi là tuyên ngôn cứu thế của Chúa Giêsu. Với những từ ngữ, những cử chỉ, những việc làm cụ thể và sự đón tiếp của Chúa Giêsu với những người nhỏ bé nghèo hèn, những người bị tước đoạt tự do, họ đang bị giam cầm trong nhiều hình thức, những người mù không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và muôn tạo vật, những người đang đau khổ vì bất công, những người đang bị gạt ra lề của tôn giáo và xã hội, những người tội lỗi đang sống với tâm hồn tan nát... và Người mở lòng cho tất cả những ai khốn cùng.
Chúa Giêsu diễn tả lời của Thiên Chúa cách xác thực, nghe được, thấy được và hiện diện giữa con người. Người trở nên dấu chỉ tình yêu hữu hình của Chúa Cha cho nhân loại. Người hiến thân cho Tin Mừng mà Người vừa công bố và làm cho Tin Mừng ấy hiện thực để con người có thể mắt thấy tai nghe và hưởng tràn trề hồng ân cứu độ của Thiên Chúa "Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng..."(Lc 7, 22-23).
Bằng lời giảng dạy, qua lối sống và những hành động cụ thể, Chúa Giêsu mạc khải và thể hiện tình yêu của Người đối với nhân loại. Người xót thương thân phận con người hữu hạn và mong manh của chúng ta nên Người biểu lộ lòng thương xót đặc biệt cho những ai đau khổ, bất hạnh, tội lỗi. Và tình yêu thương xót ấy không chỉ là Lời chúng ta nghe nhưng là việc làm trên đôi tay của Chúa Giêsu mà chúng ta có thể thấy, chứng nghiệm vì: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe."(Lc 4, 21) Lời ứng nghiệm trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu và đỉnh cao là cái chết và sự phục sinh của Người để giải thoát, để cứu nhân loại cách trọn vẹn.
- Thế Nhưng Đây Cũng Là Thời Gian Thách Đố Của Chúng Ta, vì đứng trước tình yêu thương của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo, chúng ta không chỉ lãnh nhận, nghe, thấy nhưng Người đòi hỏi chúng ta phải để cho tình yêu và Tin Mừng hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Sứ mạng của Chúa được tiếp nối nơi chính chúng ta là những Kitô hữu, như lời nhắn nhủ của ĐTC Phanxicô: "Ước gì những lời Chúa Giêsu công bố sẽ được trở nên tái rõ ràng trong việc đáp trả phát xuất từ đức tin, cũng như trong chứng tá đời sống mà tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để cho đi."(Trích Tông Sắc Misericordiae Vultus số 16)
Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta bằng những việc làm cụ thể biểu lộ tình yêu và Người mời gọi chúng ta là những môn sinh của Người đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban cách nhưng không. Người đã từng mời gọi các môn đệ "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi."(Mc 6, 37) Hãy yêu thương bởi vì đó là huấn lệnh của Chúa và là giới luật cốt yếu của Tin Mừng. Chúng ta là chi thể của thân thể Chúa Kitô, mỗi người có trách nhiệm và bổn phận yêu thương, nâng đỡ những chi thể khác như lời thánh Phaolô khuyên:"Vậy anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau."(1Cr 12, 27.25) Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa, mang đến cho người nghèo một cử chỉ ủi an, nâng đỡ và trao lại ánh nhìn tin yêu hy vọng cho những ai thất vọng sầu khổ...Hãy họa lại khuôn mặt của Chúa Kitô, hãy đặt Lời của Người trên bàn tay của chúng ta và hãy để Thần Khí hướng dẫn chúng ta trong từng việc phục vụ, trong từng nhịp sống bác ái xót thương.
Nguyện xin Chúa Giêsu- Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa ở cùng chúng con và xin ban tràn đầy quyền năng Thánh Thần, giúp chúng con biết đem Tin Mừng thực thi cách thiết thực trong cuộc sống chúng con. Amen.
27. Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chẳng hạn về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói:
- Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel.
Chẳng hạn việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo:
- Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập.
Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả:
- Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con.
Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố:
- Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông.
Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Mỗi lời tiên tri là một lời nói trước, về một biến cố nào đó sẽ xảy ra, liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa. Những lời nói trước về Đức Kitô, được Thiên Chúa tỏ bày cho các tiên tri, để rồi chính các tiên tri đã công bố hàng trăm năm về trước cho dân Do Thái.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta phải tin nhận rằng Đức Kitô đã đến với chúng ta, Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân mong đợi, như trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã dẫn chứng lời tiên tri Isaia, để xác quyết rằng Ngài là Thiên Chúa đã đến trong trần gian để cứu chuộc những người nghèo đó, khổ đau và bất hạnh. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố.
Còn chúng ta thì sao? Trong giờ phút quan trọng này, chúng ta cũng đang sống lại những biến cố đã được ứng nghiệm: Thánh lễ là sự giáng sinh, là cái chết và phục sinh của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Thế nhưng chúng ta có đón nhận lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể một cách trang nghiêm và sốt sắng, hay chúng ta lại cứng lòng như dân làng Nadarét, để cuối cùng đã xua đuổi Chúa, và tìm cách xô Ngài xuống vực sâu.
28. Đón nhận
Trong quyển sách mang tựa đề "Chuyện ở đời", có một câu chuyện như thế này: Ông chủ điền nọ rất giàu có. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn canh tác. Nhưng rồi sau một thời gian làm ăn thất bại, các tá điền lâm vào cảnh túng th iếu nợ nần, nên không thể đóng thuế cho chủ theo đúng kỳ hạn được. Và dù biết rằng ông chủ mình rất tốt bụng, nhưng họ vẫn áy náy lo sợ vì không biết chủ sẽ hoãn nợ cho mình được bao lâu. Một ngày nọ, tất cả các tá điền được mời tới để ông chủ gặp mặt. Ai nấy đều hồi hộp sợ ông chủ thu hồi lại đất vì họ không còn khã năng để đóng thuế nữa. Khi mọi người có mặt đông đủ thì người quản lý của ông chủ bước ra và nói: "ông chủ biết chắc là ai trong các ngươi cũng không đủ khả năng để đóng thuế, cho nên ông chủ nhờ tôi nói cho các người hay " Nói tới đây, viên quản lý ngừng lại, và dường như tim của các tá điền cũng ngừng đập theo, và rối viên quản lý nói tiếp: "..hôm nay tôi mang đến cho các ngươi một tin mừng, đó là ông chủ quyết định tha hết nợ nần cho các ngươi. Từ nay các ngươi cứ an tâm làm ăn sinh sống ". Thế là mọi người sung sướng reo hò. Họ ôm nhau múa nhảy hát ca. Sau nhiều năm vất vã cực nhọc, hôm nay họ mới nhận thấy ánh sáng mặt trời là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất thanh thót, cây cỏ chung q uanh mình thật rực rỡ và đáng yêu.
Thưa quý ông bà và anh chị em! Câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội muốn trình bày trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh lễ hôm nay: "Chúa Giêsu là niềm vui cứu độ". Niềm vui đó không phải là những lời loan báo suông với những hứa hẹn, mà là chính con người của Chúa Giêsu, cùng với những lời loan báo thật chính xác của tiên tri Isaia về Người: "Thánh Thần chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, Công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Đây là một tin mừng mà Người Quản Lý của Thiên Chúa mang tên là Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho tất cả mọi người. Quả thật, nếu đọc lại tất cả những gì đã được ghi chép trong phúc âm, chúng ta sẽ th ầy được rằng: Đức Giêsu đã thực hiện từng câu từng chữ một trong lời giới thiệu của tiên tri Isaia qua những lời dạy dỗ, các phép lạ, và qua cung cách ứng xử của Người. Chính vì thế mà hôm nay Người hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tuyên bố trước mặt mọi người rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Thánh Kinh mà tai các ngươi vừa nghe". Nói khác đi là hôm nay, Đức Giêsu muốn nói cho mọi người biết rằng: Người chính là Đấng Cứu Thế, là người Tôi Tớ Giavê mà Isaia đã loan báo thủơ nào. Lời của tiên tri Isaia vi ết về sứ mạng của chúa Giêsu, cũng là lời viết cho sứ mạng của Giáo hội ở mọi nơi và mọi thời, nhất là trong thời đại này, sứ mạng ấy càng trở nên cấp bách và khẩn thiết hơn.
Đứng trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta cũng mang lấy chính vai trò của người mẹ mình, đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa, là nối dài những công việc mà Người đã làm, là đem tinh thần của Người đến với tất cả các môi trường mà chúng ta đang sinh sống và làm việc. Sứ mạng này chúng ta đã nhận lấy trong ngày lãnh Bí tích Rữa tội khi Giáo hội tuyên bố: "Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy dùng chính đời sống tốt lành của con để giúp những người chung quanh nhận biết được ánh sáng của Chúa". Thế nhưng bây giờ thử hỏi rằng: Chúng ta đã đón nhận lời đó ra sao? Chúng ta đã sống, chúng ta đã thực hiện lời đó trong mức độ nào? Có bao giờ chúng ta đón nhận lời của Chúa giống như là dân Do Thái trong câu chuyện của bài đọc thứ nhất không? Tác giả của bài đọc một thuật lại là: ngày hôm ấy, Thầy Tư Tế Esdras không phải là chỉ đọc vài ba phút như chúng ta ở đây, mà Thầy đã đọc từ sáng cho tới trưa. Vậy mà không ai càn nhằn trách móc, không ai bỏ ra về cả. Khi Thầy Tư Tế mở sách ra thì toàn dân đều đứng dậy, họ cúi mình, họ phủ phục sát đất để nghe lời của Chúa. Và tác giả cho biết thêm là mọi người đều khóc trong ngày hôm đó.
Họ khóc không phải mỏi chân hay dài dòng, cũng chẳng phải vì đó là những luật lệ mà họ phải gánh vác, mà họ khóc vì họ đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho họ. Vì tình thương, vì muốm bảo vệ, vì muốn họ nên tốt hơn, mà Chúa đã ân cần ban lời của Chúa cho họ.
Thưa anh chị em! Chúa chúng ta đã hứa rằng:
"Điều Ta dạy, con ơi giữ cho thật đúng
Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời ".
Vâng! quá rõ ràng, quá dứt khoát. Lắng nghe và sống Lời Chúa là con đường duy nhất dẫn chúng ta về "Trời mới đất mới", nơi mà ánh sáng mặt trời luôn tươi đẹp, tiếng chim trên cành luôn thánh thót, cây cỏ luôn rực rỡ muôn màu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để khi bước qua năm mới dương lịch này, chúng ta cãm nhận được tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình, thì chúng ta cũng sẵn lòng đón nhận lời dạy của Người như là một hướng dẫn tốt nhất cho con thuyền cuộc đời của mình. Đón nhận không phải là để cho riêng mình, nhưng là để chia sẻ lại những lời đó cho người khác bằng một đời sống chân thành đầy bác ái, để qua đó, mọi người khi nhìn thấy đời sống tốt lành của mình thì cũng thốt lên rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà chúng tôi vừa nghe".
29. Chúa yêu người nghèo
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đây là lời đã được tiên tri Isaia tuyên sấm từ xa xưa trong Cựu Ước. Hôm nay Chúa Kitô nhắc lại và tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa đã làm cho lời sấm của tiên tri Isaia thành hiện thực và chính Chúa là người thực hiện lời sấm ấy.
Chúa đến để “mang Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó là những người nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói… Chúa Kitô được sai đến với những người bị giam cầm, thiếu thốn tự do bởi nhiều sự trói buộc. Những trói buộc đó có thể là nỗi lo sợ về muôn điều đe dọa về vật chất cũng như tinh thần; hoặc có thể là sự hoang mang bởi nhiều nỗi lo, nỗi chán chường; hoặc bị trói buộc bởi những ích kỷ tham lam…
Chúa Kitô ưu tiên dành cho người nghèo trong trái tim của Người. Đúng thôi, bởi người giàu có thì có quá nhiều việc phải lo. Thời gian đâu còn, cả tâm hồn cũng không lúc nào trống để Lời Chúa có thể đến và lớn lên. Vì thế, trong Tin Mừng, chúng ta nhận ra, những lời ngọt ngào, dịu dàng, Chúa Kitô đều dành cho những người nghèo khó, người bé mọn: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 11); Hoặc: “Đức Giêsu cất tiếng nói: ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (11, 25)…
Trong khi những lời gay gắt nặng nề, Chúa lại không tiếc để chỉnh đốn, trách cứ người giàu có, người có quyền hành: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” (Mt 23, 13); “Chúa nói rằng: ‘Thật, nhóm Pharisêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi” (Lc 11, 39-41).
Đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta ý thức hơn thế giới quanh chúng ta còn nhiều người nghèo. Họ nghèo từ tinh thần đến vật chất. Họ cần sự quan tâm, chia sẻ của chúng ta. Ước gì mỗi người đều hiểu rằng, cuộc sống sẽ đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi có những người giàu quan tâm đến người nghèo, người nghèo quan tâm đến người nghèo hơn, khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau mà sống liên đới đùm bọc lấy nhau…
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến tràn ngập tâm hồn chúng con, như xưa Chúa đến và hoạt động nơi Chúa Kitô, để chúng con cũng có một tấm lòng giàu tình yêu thương bác ái như Chúa Kitô. Xin cho chúng con luôn tìm đến vơi anh chị em hơn là tìm an thân cho mình, để nhờ biết quan tâm lẫn nhau, chúng con có hạnh phúc và bình an. Amen.
30. Xóa nợ cho nhau – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: ‘Ngã cứu nhi thượng lương chi ách. Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần’. Nghĩa là: ‘Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ. Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo’.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu, rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Đức Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Đức Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hóa.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một năm Toàn Xá, Năm Thánh, năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu tỏa ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm tỏa trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; người tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ. Và Năm Đức Tin qua đi trong cuộc đời mà họ không hề nhận được một chút Hồng Ân nào của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo. Xin cho chúng con cũng biết xóa nợ cho nhau, không chỉ xóa nợ tiền bạc mà còn xóa đi những bất bình, nghi kỵ, thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
31. Lời Chúa có được ứng nghiệm nơi tôi?
(Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất)
Tại Hội Đường quê nhà, hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố lời tiên báo cúa sứ ngôn Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài chính là Đấng Kitô đem Loan báo và đem Tin Mừng Cứu độ cho dân tộc cho muôn dân.
Cụ thể hơn, Chúa Giêsu sau một thời gian đi Rao giảng Tin Mừng Ngài nổi tiếng khắp nơi. Hôm nay Người trở về quên hương Nararet, vào Hội trường quen thuộc, nơi mà những năm sống ẩn dật Chúa vẫn thường đến, nhất là Ngày xa bát để như mọi người Do Thái đạo đức khác để tôn thờ và nghe Lời Chúa. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức, Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia được Thánh Thân Chúa tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia. (x.HGNM)
Sau khi công bố lời Sứ ngôn Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tơi, vì Ngà xức dầu cho tơi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Ngay sau đó, Chúa Giêsu công bố: Lời sứ ngôn trên đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Trong Chúa Thánh Thần Chúa Giêsu đã hoàn thành viên mãn sứ vụ Loan báo Tin Mừng cứu độ mà chính ngài là Tin Mừng Cứu độ.
Điểm độc đáo, công cuộc Công bố Tin Mừng Cứu độ Chúa Giêsu không chỉ cho riêng Ngài. Ngài ủy quyền cho Giáo hội và không ngừng mời Giáo hội tiếp tục thực thi công cuộc Loan báo Tin Mừng mang tính bản chất của Giáo hội.
Quả thế, Chúa Giêsu ngay sau khi Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ để tiếp tục sứ vụ Loan báo Tin Mừng Cứu độ đến với muôn dân, cho đến ngày tận thế. Đấng Phục Sinh nói: ‘Như Cha đã sai Thầy Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 21, 21-23)
Tuy nhiên, chỉ khi nhận ơn Chúa Thánh Thần trong biến cố Ngũ Tuần Giáo hội mới chính thức khai mạc sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Thật vậy, khi nhận viên mãn ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi của Giáo hội sơ khai đã hăng say, can đảm dấn thân phục vụ cho công cuộc Truyền giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, không sợ gian khó, chẳng ngại hiểm nguy, ngay cả tính mạng cũng chẳng nề. Thậm chí, các ngại có kinh nghiệm sống động: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng’…
Nhờ Bí tích Rửa Tội mỗi chúng ta đã được Thánh hiến cho Chúa Giêsu, trở thành chi thể của Chúa Giêsu. Thánh Phaolo trong bài đọc 2 đã khẳng định rõ điều đó. Thánh nhân quả quyết Mỗi Kitô hữu là thân thể, là chi thể của Chúa Giêsu.
Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, là chi thể của Chúa Giêsu vấn đề trong Chúa Thánh Thần ta có tiếp tục Công cuộc loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu không; có để Chúa Thánh Thần biến đổi để như Chúa Giêsu tích cực sống đời chứng nhân Tin Mừng…
Nói cách khác,
Trong sức mạnh Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu quả quyết: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe"
Đây chính là điều đáng để mỗi chúng ta nghiệm xét.
Tôi là chi thể- thân thể Chúa Giêsu, vậy ta có tiếp tục để cho Lời Chúa ứng nghiệm trong đời sống mình hay chưa?
Ta có là dấu chỉ, là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu hay chưa?.
Chủ để sống Năm thánh của Giáo phận: ‘Sống và Loan báo Lòng thương xót của Chúa’ có hiện tại hóa trong lời nói việc làm của mình hay chưa?.
Ngày 25.01 tới, giáo xứ chúng ta có niềm vui Hồng ân được Đức cha Giuse về làm phép nhà Giáo lý, nhất là Ban Bí tích Thêm Sức cho hàng trăm con em chúng ta.
Khi cử hành Bí tích Thêm Sức, Mẹ Giáo hội hiện tại hóa Ngày lễ Ngũ Tuần xin Chúa Ban Chúa Thánh Thần cho các thụ nhân để kiện toàn ơn Bí tích Rửa Tội. Để chứng thực và giúp trở thành chiến sĩ Loan báo Tin Mừng, can đảm sống Đức tin.
Đấy cũng là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại Bí tích Thêm Sức mà mình đã lãnh nhận, xem mình có để Chúa Thánh Thần giúp sống Đức tin, để Lời Chúa ừng nghiệm nơi đời sống mình hay chưa.
Bài đọc 1 trích sách Nơ- khê-mi-a cho ta hình ảnh đáng suy nghĩ. Dân Do Thái, cách đây hơn 2500 năm, sau nhiều năm lưu đầy, lần dầu tiên toàn thể dân Chúa đã được quy tụ tại quảng trường để nghe kinh sư Ét-ra, thống đóc Nơ-khơ-mi-a và các thầy Lêvi giải thích Lời Chúa. Khi nghe Lời Chúa, dân đã ăn năn khóc lóc, phủ phục thờ lạy Đức Chúa [1].
Họ đã để cho Lời Chúa đụng chạm đến đời mình, còn chúng ta, mang danh là Kitô hữu – là thân thể- chi thể của Chúa Giêsu có để Lời Chúa đụng chạm đến con tim mình chưa!
Quả là rất buồn, khi nghe đây đó trong chúng ta, giữa chúng ta còn những hiềm khích, đố kỵ, gian tham, nghi ngờ làm hại nhau…. Chỉ vì vài trăm ngàn ta sẵn sàng xâm hại đến phẩm giá người khác, chà đạp tín uy, xúc phạm đến tình người… Nhiều khi ta sống còn tệ hơn những người chưa biết Chúa. Không đâu xa, đôi khi là hàng xóm của nhau, anh chị em nhau, thậm chí ngay trong một gia đình.
Giáo hội đang trong tuần lễ cầu nguyện cho sự Hiệp nhất Giáo hội, liệu ta có ý thức để xây dựng gia đình hiệp nhất, công đoàn hiệp thông trong yêu thương; Giao hòa với Chúa gắn liền với giáo hòa anh chị em.
Xin Thánh Thần của Chúa Giêsu hãy đến và thúc đẩy mỗi chúng con ý thức, hăng say và can đảm dấn thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, biết Sống Và Loan Báo Lòng Thương Xót Của Chúa.
-----------------------
[1] Lm Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.176
32. Thiên Chúa, Đấng Giải Thoát
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Tin mừng hôm nay gồm hai phần: Lời mở đầu Tin mừng thánh Luca, với lời "Kính gửi ông Thêôphilê"; và trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương là Nagiarét, miền Galilê "trong quyền lực của Thánh Thần". Trong lời mở đầu Tin mừng của mình, thánh Luca đã tuyên bố những sự kiện mà ngài viết ở đây là "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự... và giáo huấn... thật là vững chắc." Trong trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương, thánh Luca thuật lại việc Đức Giêsu vào Hội đường và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... xức dầu cho tôi... sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó... ân xá cho kẻ tù đày... cho kẻ đui mù được thấy... trả lại tự do cho người bị áp bức... công bố năm hồng ân của Chúa".
Đây thật là những dấu chỉ của thời đại cứu thế, thời đại Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu trở về quê hương xứ sở của mình. Điều này cho thấy sứ vụ công khai đầu tiên của Người được thực hiện nơi quê quán. Người đã trở nên nỗi tiếng "danh tiếng Người lan tràn khắp miền chung quanh". Người muốn mang tin mừng cứu độ, "năm hồng ân của Chúa" khởi đi từ những người thân thuộc, họ hàng, đồng hương đến toàn thể thế giới. Như thế, Đức Giêsu, tuy là con Thiên Chúa, sinh ra bởi quyền năng Thánh Thần, vẫn gắn bó mật thiết với quê hương của mình. Việc trở về quê cha đất tổ nói lên mối thâm tình nhân loại. Việc loan báo năm hồng ân của Chúa nơi quê nhà nói lên ân sủng tràn đầy nhờ sự hiện diện của Người.
Đời sống công giáo là gì, nếu không phải là "gắn bó với nơi mình sinh ra", nhưng làm cho nơi đó trở thành nơi hồng ân. "Ân sủng không phá hủy tự nhiên, nhưng kiện toàn" (thánh Tôma Aquinô). Một đời sống công giáo thực sự không tách rời chúng ta khỏi người đồng hương của mình, người hàng xóm láng giềng, người thân quen, nhưng làm cho chúng ta gần gũi với họ, có khả năng yêu mến họ, để biến cuộc sống trở nên hồng ân.
Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ nơi những người nghèo, những người bị áp bức, những người khuyết tật, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Lời ngôn sứ Isaia sẽ được Đức Giêsu thực hiện trong sứ vụ công khai. Người là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa. Người quan tâm đến những nỗi khổ về thân xác cũng như tâm hồn của con người. Người giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự dữ, đồng thời mở con mắt đức tin cho họ. Tình yêu, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa vẫn được tiếp tục trong và qua Hội thánh của Người. Nhờ các bí tích, Đức Giêsu tiếp tục giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể Người, củng cố chúng ta bằng ân sủng của Người. Qua lời rao giảng và giáo huấn của Hội thánh, Đức Giêsu vẫn đang chiếu dọi ánh sáng Người vào nơi tối tăm. Năm hồng ân của Thiên Chúa vẫn đang được thực hiện nơi những tâm hồn đón nhận Tin mừng và ánh sáng của Đức Giêsu. Đức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi lo âu, sợ hãi, đơn độc, ích kỷ...miễn là chúng ta biết lắng nghe Lời Người. Đức Giêsu đổ tràn ân sủng người trên những ai thành tâm tìm kiếm "hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho".
Như thế, Đức Giêsu chính là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và là hồng ân. Người đang hiện diện để cứu độ con người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, trường cửu,
Chúa tạo dựng và Chúa hoàn tất.
Một năm dưới mắt Chúa chỉ là một phút chóng qua.
Nhưng đối với chúng con là tạo vật,
đôi mắt đâu có thấy được chiều dài cũng như chiều sâu
của chuỗi ngày chất chứa những điềm tốt và điềm xấu.
Chúng con biết chắc một điều:
Mỗi năm là một bước tiến đến gần Chúa.
Người đời tiến đến tuổi già, người kitô hữu tiến về ngày mới.
Năm cũ đang trôi qua, tựa như một con đường cái,
lúc thì thẳng tuột, lúc thì quanh co,
lúc lên đèo, lúc xuống dốc, lúc đầy ổ gà.
Đã có lúc chúng con đến chậm, bị kẹt xe, chúng con lỡ hẹn.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh trong năm mới sắp đến.
Xin cho con khao khát Lời Chúa. Amen.
(Lời nguyện cầu Phi châu)
33. Thi hành sứ mạng - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Ga-li-lê. tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Na-da-rét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Na-da-rét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do Thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Na-da-rét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ I-sai-a nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đợi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Lu-ca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. I-sai-a công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo. Người tôi tớ ấy chính là tôi, người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều I-sai-a đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn Sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tât. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. Những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo Hội và trong Giáo Hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo Hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách I-sai-a thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo Hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo Hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến "linh hồn". Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện, các trại phong, trại tế bần, trại dưỡng lão...Ai đã khai hóa cho thế giới "Mandi" của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo Hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hữu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoặc xua đuổi hoặc giữ người khác lại cho Chúa Ki-tô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Ki-tô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
34. Tôn giáo của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại một lần Chúa Giêsu về thăm Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, Ngài vào hội đường với mọi người trong ngày Sa-bát, như từ nhỏ đến lớn Ngài vẫn tới hội đường này. Cũng như tại các nơi khác, Ngài đã làm như thế từ lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng. Có lẽ vì đã nghe tiếng đồn về công cuộc rao giảng của Ngài nên người ta trao Sách Thánh cho Ngài đọc, Ngài mở ra và đọc trúng đoạn ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng người tôi tớ của Thiên Chúa.
Đọc xong, Ngài gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Luca chỉ ghi lại một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa Giêsu muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết rằng: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà Isaia đã loan báo, người tôi tớ ấy chính là tôi.
Suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Sách Thánh ấy. Ơn cứu độ Chúa Giêsu công bố và thực hiện không phải chỉ là “cứu các linh hồn” nhưng là sự giải phóng toàn diện con người và xã hội khỏi nghèo đói, bệnh tật, tù đày, áp bức, bất công… Chúa cho người ta hưởng một phần hiệu quả của sự giải phóng ấy qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Ngài cho người ta nếm những ân huệ của “Năm Toàn Xá của Thiên Chúa”. Như vậy, chính Chúa Giêsu đã tự giới thiệu sứ mạng của Ngài tại hội đường Na-da-rét, và qua ba năm cuộc đời công khai, quả thực Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng ấy.
Ngày hôm nay, sứ mạng của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại, hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đều thuộc về Giáo hội, chúng ta đã và đang thụ hưởng những hồng ân cao cả của Chúa, chúng ta phải làm sao cho những người mình gặp gỡ, tiếp xúc, được hưởng những ân huệ ấy như mình. Vậy chúng ta phải làm gì và làm thế nào ? Chúng ta hãy sống cho thật tốt đẹp ơn gọi làm người của mình. Tại một bộ lạc trong rừng già Phi châu, có ba thanh niên, sau khi trải qua một số thử thách, đã đến trình diện với viên tù trưởng của họ. Ông nhìn từng người rồi nói: “Trong sáu ngày qua, các ngươi đã được đưa vào rừng sâu để trải qua một cuộc thử thách, sau không biết bao nhiêu gian khổ và nguy hiểm, các ngươi đã trở về bình an vô sự, nhưng vẫn chưa đủ, các ngươi hãy kể lại cho ta nghe tất cả những gì các ngươi đã làm trong sáu ngày qua để xứng đáng được gọi là chiến sĩ”.
Lần lượt mỗi người kể lại thành tích của mình. Người thứ nhất cho biết là anh đã giết được con báo. Người thứ hai kể lại anh đã hạ được một con trăn khổng lồ. Đến phiên mình, người thứ ba chỉ biết đứng im lặng, tên anh là Ma-ma-đu. Ông tù trưởng hỏi anh: “Nào Ma-ma-đu, ngươi đã làm được gì ?”. Một cách nhỏ nhẹ, anh nói rằng anh đã lấy được một tảng mật ong. Nghe thế mọi người cười ồ lên, bởi vì họ cho rằng lấy được mật ong thì có gì đáng gọi là một thành tích. Ông tù trưởng hỏi anh: “Tại sao ngươi lấy mật ong mà không chịu đi săn thú dữ ?”. Ma-ma-đu trả lời: “Cha mẹ tôi đã già yếu bệnh tật, tôi luôn nghĩ đến các ngài, cho nên tôi đã lấy mật ong mang về biếu các ngài”. Nghe thế, viên tù trưởng liền đứng dậy, ông lấy cây đao trao cho người thanh niên và tuyên bố: “Ngươi hãy cầm lấy cây đao, bởi vì ngươi là người xứng đáng để lãnh nhận danh hiệu chiến sĩ hơn cả. Trước khi trở thành một người thợ săn giỏi, cần phải nên người đã, và chỉ có một cách duy nhất để biết một kẻ nào đó đã thực sự nên người là kẻ đó biết đặt tình thương trên tất cả mọi sự và hiếu thảo với cha mẹ mình”.
Trước khi trở thành một chiến sĩ, phải sống xứng đáng như một con người đã. Người dân nước Mỹ có thể sẽ nói: “Trước khi trở thành tổng thống, hãy sống xứng đáng như một con người đã”. Đó là lý do tại sao người Mỹ đòi hỏi vị tổng thống của họ phải là một người có đời sống trong sạch, gương mẫu. Tất cả những ứng cử viên bị phát giác có những lem nhem, lăng nhăng đều bị cử tri tẩy chay.
Chúng ta cũng có thể nói: Trước khi là một tín hữu Chúa Kitô, hãy sống xứng đáng như một con người đã. Thực ra ơn gọi làm Kitô hữu không loại bỏ hoặc chồng lên ơn gọi làm người. Thiên chức Kitô hữu phải là một thể hiện cao độ của chính ơn gọi làm người. Và ngược lại, sống cho ra người, sống xứng với những đòi hỏi của phẩm giá con người, đó cũng có thể là một cách thế làm Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người của Ngài. Ba mươi năm thinh lặng của Ngài ở Na-da-rét là một thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người ấy. Sống cho tha nhân, chết cho tha nhân, đó cũng chỉ là đòi hỏi tất yếu của ơn gọi làm người mà thôi. Con người không thể làm người một cách thành toàn nếu không đặt tình yêu thương trên tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã đi cho đến tận cùng ơn gọi làm người ấy khi Ngài dốc cạn giọt máu cuối cùng, Ngài đã trở thành con người kiểu mẫu, bởi vì Ngài đã sống trọn vẹn cho tha nhân. Vì thế, đạo của Chúa Giêsu, tôn giáo của Chúa Giêsu cũng chính là đạo, là tôn giáo của con người. Chúng ta chỉ có thể là tín đồ đích thực của tôn giáo ấy nếu chúng ta biết yêu thương mọi người như anh em của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Kitô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
35. Thời gian cứu độ đã đến – Cố Lm. Hồng Phúc.
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện.” Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ “hôm nay” thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, “giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời”, xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
37. Hôm nay đã ứng nghiệm ...
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Truyền thống cũng là sáng tạo
''Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Luca.''
Để hiểu ý nghĩa của câu này, cần phải biết rằng Tin Mừng hoàn toàn không phải là một bộ sưu tập những mẩu chuyện liên quan đến Đức Giêsu và các giáo huấn của Người. Mỗi tác giả Tin Mừng đều là một chứng nhân về Con Thiên Chúa, và khi viết Tin Mừng, tác giả có ý trả lời vấn đề vẫn thường được nêu lên: Đức Giêsu là ai ? để nhờ đó mỗi người có thể gặp được Đức Giêsu khi nghe nói về Người, hay khám phá ra Người qua cuộc sống của các môn đệ. Mỗi nhân chứng này kể lại lòng tin của mình vào Đức Giêsu dựa theo một lịch sử: những sự kiện và những lời Đức Giêsu nói. Tuy nhiên mỗi tác giả còn dựa vào kinh nghiệm riêng của mình và của môi trường sống. Điều này giải thích vì sao mỗi tác giả có nét đặc trưng và âm giọng khác nhau.
Dù vậy, vẫn luôn chỉ có một Tin Mừng, bởi vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô. Mọi bản văn trong Kinh Thánh đều quy hướng về Người.
Bản văn được phụng vụ sử dụng hôm nay là một thứ sắp xếp lại. Đây là một cách thức đọc Tin Mừng. Cách thức này làm nổi lên ba đề tài: Luca quyết định viết một quyển sách; Đức Giêsu mở quyển sách; Người gấp sách lại và bắt đầu hoạt động.
Thánh Luca biên soạn theo một trật tự có sẵn. Người ta nhận ra ngay đây là một ông thầy đang nghiên cứu và soạn thảo nhằm hiểu các biến cố cách khách quan. Mục đích của tác giả thật rõ ràng: giúp người đọc nhận thức được rằng giáo huấn mình đã học hỏi thật là vững chắc. Chính vì vậy, những chữ được viết ra phải đem lại điều chắc chắn. Tác giả mong muốn mỗi người cảm nhận được sự vững chắc này và mỗi người phải tự kiểm chứng lại giá trị của điều đã được viết ra. Nói cách khác, mỗi người phải chọn lựa và dấn thân. Một truyền thống được gọi là đích thực khi truyền thống ấy luôn khơi dậy sức sáng tạo.
Khi vào hội đường Na-da-rét và đọc bản văn ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu cũng không làm gì khác hơn. Người không lặp lại bản văn, không bình luận về bản văn lâu đời này; Người cũng không đưa ra những nhận định uyên bác về thời kỳ bản văn được soạn thảo. Trái lại, Người làm nảy sinh một ý nghĩa mới, Người đem lại sức sống cho những chữ chết. Chữ viết không chỉ là chứng từ của quá khứ, nhưng trở thành nguồn mạch cho hoạt động. Đức Giêsu không phải là nhà khảo cổ hay người chú giải. Người hoàn tất điều bản văn đã nói. Người mở ra một thế giới mới. Vì vậy, Người quả quyết: ''Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.''
Đức Giêsu là Đấng mà mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ''có'' nơi Người (2 Cr 1,20), Người không thể đọc lời Chúa mà không thi hành, không hoàn tất ngay tức khắc. Chính vì thế, theo bước chân Người đi, các phép lạ được thực hiện cho những người nghèo khó, những kẻ bị tù đày, người mù, người bị áp bức ...
Như vậy, quả là điều vô ích khi một số Kitô hữu muốn đóng khung truyền thống, đóng khung lời nói và hoạt động của Đức Giêsu. Người ta muốn hiểu chính các điều đã xảy ra trong quá khứ, thế nhưng người ta lại quên rằng, những điều ấy được truyền lại cho thế hệ sau với mục đích mỗi thế hệ phải đọc lại theo một cung cách mới, phù hợp với bối cảnh sống hiện tại của mình. Dấn thân phục vụ lời Chúa, đó là bước vào một hoạt động sáng tạo, đó là biến mình trở thành người phục vụ cho những khởi đầu mới.
Lời Chúa không thể mất đi
Tin Mừng cứ chạy, chạy mãi: từ Luca đến Ti-mô-thêu, từ những nhân chứng tai nghe mắt thấy đến tất cả chúng tôi - tức là những cộng đoàn tiên khởi, từ ngôn sứ Isaia đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến những người Do-thái đang tụ họp trong hội đường, và đến cả những người ngày nay - tại sao lại không?
Lời Thiên Chúa do Đức Giêsu công bố, dù mọi người đã biết, nhưng vẫn có tính cách đặc biệt. Người ta chẳng hiểu vì sao Người có uy quyền như thế.
Trước đấy, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng ra khắp miền Galilê. Nhưng khi trở về quê hương, Người biết rõ là người ta không để ý lắng nghe lời Người nói. Tại những miền khác, Người thường đến với những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ bị tù đày, những người mắc bệnh phong hủi, hay với kẻ mù loà, với người đàn bà goá ... Còn hôm nay, Người xuất hiện trong một cuộc hội họp: Người tỏ mình ra trong Hội Đường của người Do-thái.
Đức Giêsu đứng lên, đọc sách, và ngồi xuống như những người khác. Thế nhưng điều Người nói quả là lạ lùng, khó có thể tin được:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố
cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa.
…
Hôm nay dã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Các lời Đức Giêsu nói và những việc Người làm vừa có tương quan hỗ tương với nhau, vừa có liên hệ tới toàn bộ sứ điệp Cựu ước. Vì vậy, các thính giả nhận ra một sự thật rõ ràng: Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt !
Người ta vẫn gặp thấy những người hăng hái dấn thân phục vụ người nghèo, mặc dù hoàn cảnh của họ không thuận lợi lắm -nếu không muốn nói là bi đát, và công việc phục vụ của họ rất khiêm tốn. Chính lúc ấy, dường như lời họ nói có sức thuyết phục hơn, chặt chẽ hơn, làm cho người nghe phải bối rối. Trước những mẫu gương này, thường có hai phản ứng: một là bịt tai lại, không muốn lắng nghe, hai là để ý và theo dõi bước chân người đi trước.
Theo cái nhìn trong đức tin, các vị thánh, các ngôn sứ hay những người được Chúa xức dầu là những người dùng lời nói hay hành động của mình để thúc đẩy người khác nói và hành động, làm cho vương quốc tự do của Chúa được xuất hiện.
Như thế, Thần Khí Thiên Chúa luôn hoạt động trong mọi người và trong mọi thời để người nghèo, kẻ tù đày, người bị áp bức trong mỗi thời đại được giải thoát, về cả đời sống vật chất lẫn những khát vọng sâu xa của con người.
Và như vậy, Tin Mừng không bao giờ bị mất đi.
"Ngày hôm nay''
Tất cả được bắt đầu vào ngày Đức Giêsu mở sách ra và đọc lại lời ngôn sứ Isaia, và tuyên bố với mọi người: ''Hôm nay'' đã ứng nghiệm ...
Không ai, có thể lầm lẫn về lời tuyên bố này, vì đoạn sách Đức Giêsu vừa đọc lại nói về Đấng Mê-si-a. Và Đức Giêsu quả quyết: Hôm nay và chính tôi.
Lời tuyên bố này không phải là một lời sấm, nhưng là một biến cố, một biến cố duy nhất và không thể đảo ngược lại. Lời tuyên bố này đòi mỗi người phải tự xác định lại mình trong tương quan với Đức Giêsu. Bởi vì vẫn chỉ là một lời duy nhất, một lời luôn có tính hiện đại: lời Đức Giêsu nói tại hội đường Na-da-rét, lời thánh Luca viết cho ông Thê-ô-phi-lô, và lời chúng ta đang nghe hôm nay.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào lịch sử cửa toàn thể nhân loại và của mỗi người. Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải hành động vì cuộc sống vĩnh cửu của mình.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người bước vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng duy nhất.
Chính ngày hôm nay là một cuộc truyền tin cho mỗi người, bởi vì họ phải lắng nghe và chọn lựa.
Chính ngày hôm nay, Thiên Chúa đang đến với mỗi người. Chính Người đang hiện diện, qua Hội Thánh, qua các bí tích. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải đón tiếp Thiên Chúa.
Phần chúng ta, chúng ta sống ngày hôm nay như thế nào, chúng ta làm gì ?
Thánh Luca đã khởi đầu Tin Mừng từ ngày hôm nay. Đó cũng là khởi đầu cho mọi cuộc loan báo Tin Mừng. Ngày hôm nay là một biến cố, người ta không chỉ bình luận về biến cố, nhưng người ta sống và loan báo.
38. Phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể: "Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
39. Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
- Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
- Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
- Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là... "Bạn" (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em.
Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức"..., chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: "hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe".
40. Chúa Nhật 3 Thường Niên
"Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16)
Những ngày đầu ra đi rao giảng Tin Mừng, danh tiếng của Chúa Giêsu đã lan rộng, được mọi người tôn vinh khắp nơi trong đất nước của mình và một trong những nơi quan trọng Ngài muốn gởi sứ điệp đó là ở các hội trường.
Hội đường đã gắn liền với đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái, một nơi biểu lộ nhu cầu tâm linh không thể thiếu của họ. Ở đây, họ được nghe và đọc Kinh Thánh, học hỏi Lề Luật, Giáo Lý và mục đích trên hết là học đến để tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu luôn sống đúng với tinh thần quí báo của cha ông, của dân tộc mình. Có rất nhiều đoạn Phúc âm mô tả Chúa Giêsu là mẫu mực tuân giữ tinh thần này. Cũng như hôm nay: "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16).
Giờ đây ngoài tư cách là một công dân thông thường của đất nước mình, theo thói quen đến hội đường vào ngày Sabát để nghe Kinh Thánh, Ngài còn là người đại diện để công bố Lời Chúa và đặc biệt hơn cả chính Ngài lại là nhân vật mà Lời Chúa đề cập. Đoạn Kinh Thánh thật đẹp mô tả về một Đấng Cứu Thế với những đặc tính lý tưởng làm cho lòng người bình an và hạnh phúc khi vị này xuất hiện và bây giờ Chúa Giêsu đang ở ngay trước mặt mọi người.
Ngày hôm nay hằng tuần vào mỗi ngày Chúa nhật chúng ta tụ họp nhau để nghe Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa và để thờ phượng Thiên Chúa. Đời sống đạo của chúng ta thật sự hạnh phúc và ý nghĩa khi cùng nhau một lòng một ý hướng lòng lên Chúa, yêu mến và thờ phượng Ngài. Chúng ta thử nghĩ xem nếu đời sống đạo thiếu vắng ngày Chúa nhật và những buổi tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ, cử hành Lời Chúa, cùng nhau chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể sẽ như thế nào? Ngày Chúa nhật quí báu biết bao, bằng những lời kinh tiếng hát chúng ta cùng nhau thờ phượng để khi ra về lòng đầy hớn hở vui tươi. Đời sống đạo thật sự hạnh phúc, đầy đủ cũng từ những của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn nó là động lực vững vàng để chúng ta bước vào cuộc sống thường ngày với những trăn trở, lo toan, mạnh dạn đối diện với cuộc sống bấp bênh, nhiều cám dỗ. Cuộc đời có Chúa, luôn có Lời Chúa dẫn dắt và hướng dẫn chúng ta.
Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta học nơi Ngài lòng trung thành với Lề Luật, không chỉ với lòng trung thành mà đó còn một bổn phận nhưng trên hết vẫn là lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha dựng nên và yêu thương chúng ta.
Với những tâm tình đó chúng ta cảm ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho chúng ta. Có Chúa cuộc sống chúng ta luôn có điểm tựa vững chắc và biểu hiện cụ thể của người con thảo, chúng ta trung thành giữ và yêu mến ngày Chúa Nhật.
41. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Nhìn vào xã hội ngày hôm nay, đâu đâu anh chị em cũng thấy trường học, từ những trường cho các cháu bé đến những trường cao cấp, đủ mọi ngành nghề. Mọi người trong chúng ta, nếu có đủ điều kiện thì cũng lo đến trường học, để lo tương lai bản thân, gia đình. Khi có con cái cũng thế. Ai cũng cố gắng cho con mình đến trường, để học những điều hay, điều tốt, học để bảo đảm cho tương lai. Thật thế những người có học, thì tương lai không đến nỗi tệ, cho dù về mặt vật chất của cải không sung túc, nhưng ít ra họ cũng biết cách sống làm người. Cũng có những người có vốn học thức, nhưng không biết đem những gì mình đã học để áp dụng vào đời sống, thì cũng trở nên vô ích. Còn có những người không chịu đến trường, không nghe lời cha mẹ, cũng không chịu học một người nào để biết những điều tốt đẹp của cuộc sống, thử nghĩ xem, đời sống của những người đó sẽ như thế nào, khi họ chỉ biết cậy dựa vào bản thân, chỉ học hỏi nơi bản thân.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người, Ngài sống thật sự gương mẫu cho con người: " Theo thói quen, Người vào hội đường". Như vậy từ lâu,Ngài đã có thói quen như những người thời bấy giờ, đến hội đường để học hỏi những điều cần thiết cho cuộc sống. Trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Ngài đến hội đường, mọi người cũng đến hội đường và chăm chú nghe. Mọi người thời bấy giờ nhận thấy: hội đường là một trường học, là một ngôi nhà mà Thiên Chúa là Cha còn tất cả mọi người là anh em. Gia đình hội đường là nơi họ sống và lớn lên, cho nên hội đường không thể thiếu được trong đời sống của họ. Nhờ hội đường mà đời sống về phần đạo cũng như đời thường, được nuôi dưỡng, bồi bổ mỗi ngày được lớn mạnh thêm.
Thiên Chúa ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài còn cho mỗi người có trí thông minh và sự tự do, để biết chọn lựa tốt xấu cho cuộc sống. Chúng ta những người đang ngồi trong nhà thờ này, ai cũng có điều kiện để học biết. Trước tiên là cha mẹ, trường học đầu tiên mà mỗi người đều được trải qua. Kẻ đến là những người thân thuộc chung quanh. Đó là những ngôi trường tự nhiên không thể thiếu được trong cuộc sống làm người. Đa số trong chúng ta đều được đến trường học, để trao dồi thêm kiến thức. Nhưng những gì mà mình đã học biết, những gì đã tích lũy bao nhiêu năm qua, có sinh lợi ích thật sự cho chúng ta không? Đặt biệt, chúng ta còn là người Công Giáo, từ nhỏ đến giờ, chúng ta đã đến nhà thờ, đã nghe, đã biết, đã học, đã nhận lãnh rất nhiều. Nhưng những điều đó có sinh ích lợi gì cho chúng ta không? Hay chúng ta giống như những người học mà không biết đem áp dụng những gì mình đã học, để sinh lợi cho cuộc sống, như thế thì phí đi những gì mình đã vất vả đầu tư. Nếu như thế, thì buồn thay cho Đấng đã từng hy vọng nơi chúng ta, khi cố công chỉ dạy. Đó là Thiên Chúa, Ngài từng thương yêu mỗi người, chăm sóc cách đặt biệt, tạo nên những phương tiện cần thiết để chúng ta được học biết. Thế mà chẳng đem lại kết quả gì sao? Như vậy, nhà thờ của ngày hôm, có phải là ngôi nhà hội họp, là hội đường, là nơi không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta không? Chúng ta có thấy cần thiết để đến nhà thờ nhận lấy sự hiểu biết để mà sống, nhận lấy sự bồi bổ cho đức tin, nhận lấy những lẽ phải để sống xứng đáng là con Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hay là chúng ta sợ nhà thờ, chúng ta không quen đến nhà thờ, chúng ta thấy không cần thiết để lắng nghe, để học biết. Nếu như thế thì chúng ta sẽ ra sao, khi không học, không biết gì hết?
Mỗi người nhìn vào chính mình, nhìn vào những ngày tháng đã qua. Có những lúc chúng ta chìm đắm trong cô đơn thất vọng, cuộc đời không lối thoát, đó là những lúc chúng ta không biết đến với Chúa, không biết lắng nghe, không biết đem ra áp dụng những gì Thiên Chúa đã chỉ dạy chúng ta phải sống. Cũng có những lúc chúng ta can đảm đứng vững vàng trước những sống gió của cuộc đời, chúng ta vượt qua được những khó khăn của cuộc sống mà hiên ngang bước đi. Đó là những lúc chúng ta luôn có Chúa bên cạnh, luôn biết chạy đến với Ngài, luôn biết học nơi Chúa. Đó cũng là những lúc chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa không thể thiếu vắng trong đời sống của chúng ta được.
Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng đến với Ngài.
42. Sống cho người nghèo – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.
Trong thánh lễ phong Chân phước cho Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: "Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ". Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị sang hèn, giai cấp... Chính Mẹ đã từng nói: "Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa". Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo".
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối "không có nơi gối đầu". Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. "Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai". Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thốn tư bề để cảm thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.
Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn. Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.
Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Năm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan đón mừng năm Đức Tin, là dịp để chúng ta nhìn vào cung cách sống phục vụ quên mình của các nhà truyền giáo đã không quản ngại vất vả, gian truân, đói khát, thiếu thốn để vun trồng tin mừng cho quê hương Việt Nam. Chính đời sống yêu thương phục vụ của các nhà truyền giáo và của các bậc cha ông chúng ta ngày xưa đã đánh động những người dân Thăng Long đến nỗi họ đã từng nói với nhau: "Kìa nhìn xem người ky-tô hữu họ yêu thương nhau biết bao". Đó cũng phải là cung cách sống của chúng ta, những con người thời đại hôm nay hãy biết sống quên mình, biết sống phục vụ vì lợi ích anh em để làm chứng cho Chúa. Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
43. Kinh Thánh, một bản tình ca
Từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và Ngài đã yêu thương con người cách rất đặc biệt. Ngài coi con người như con cái của Ngài, cho hưởng hạnh phúc trong khu vườn địa đàng. Từ khi con người phạm tội, xa cách Thiên Chúa, Thiên Chúa như người Cha già luôn mong nhớ đứa con đi hoang. Bởi không hiểu tình Cha mà con dại khờ nghe theo lời dụ dỗ của kẻ ác.
Ðể cứu giúp con mình trong cảnh lầm than, Cha đã sai biết bao sứ giả đến bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dù loài người thế nào, dù con người phản bội, tội lỗi, Chúa vẫn một lòng yêu thương sẵn sàng đón nhận trở về. Tình yêu Thiên Chúa vơi con người là tình yêu của một người Cha, và có thể ví như tình yêu khắng khít của tân lang với tân nương.
Khi dân Do Thái phản nghịch với Chúa, bỏ Chúa theo các thần khác, họ phải chịu cảnh lưu đày nơi đất nước mà các thần này được tôn thờ. Nhưng rồi khi họ có lòng hối cải, Chúa lại qui tụ họ lại như trong bài đọc II chúng ta thấy: Yavê Thiên Chúa thức tỉnh vua Kyrô để ông ban sắc chỉ cho dân Israel trở về nước tái thiết lại đền thờ Giêrusalem. Và khi dân chúng đã trở về định cư, chính tư tế Esdras đã quy tụ họ lại, giáo huấn họ bằng cách mang sách luật ra đọc cho toàn dân Israel nghe. Dân chúng hiểu được tình thương của Chúa đối với họ và nhận ra những sự xúc phạm của mình đối với tình thương của Ngài. Họ ăn năn khóc lóc khi nghe những lời trong sách luật và quyết tâm sống trung thành với Chúa, tuân giữ những lời Chúa dạy trong sách luật.
Sách luật mà tư tế Esdras đọc đây không phải là bộ luật hình sự của một quốc gia thế gian toàn là những quy định cấm đoán và mức hình phạt. Sách luật này là bộ Ngũ kinh, là lời Chúa dạy. Đó là luật tình thương, bồi bổ tâm linh như bài đáp ca thánh vịnh 18. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa trong ngời sáng soi con mắt. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh, phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. Vì vậy, luật Chúa đem lại sự sống, đem lại sự giải phóng, đem lại hạnh phúc thật cho con người.
Trong bài Phúc âm, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa, Ngài đến làm ứng nghiệm tất cả những gì sách thánh Cựu Ước đã tiên báo. Ngài là Ðấng của lời hứa, Ngài là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài cảm nghiệm rất rõ sứ mạng của Ngài: Thiên Chúa xức dầu cho Ngài, sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.
Chúa Giêsu là Ðấng cứu tinh của chúng ta. Chúng ta có nhận thức rõ tình thương của Ngài đối với chúng ta chưa? Ngài là Thiên Chúa đến không phải để lấy uy quyền trách phạt chúng ta nhưng để phục vụ bằng lời rao giảng, bằng sống hy sinh và nhất là bằng cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta hãy đáp tình thương yêu ấy. Một tình yêu chung thủy vì loài người được đáp trả bằng sự thờ ơ của nhân loại. Một mối tình không nói được hết bằng lời nhưng bằng sự hy sinh đổ hết máu mình ra để chuộc lấy linh hồn chúng ta.
Chúng ta hãy yêu mến Chúa, hãy cảm nghiệm tình thương Chúa trong cầu nguyện, trong hy tế thánh lễ và đáp trả bằng những việc hy sinh cụ thể để có thể xứng đáng với tình thương hy sinh của Người.
44. “Bản tuyên ngôn tình thương”
(Suy niệm của Nguyễn Chí Thanh, OP)
Ngày 10-12-1948. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người… đây là lần đầu tiên trong lịch nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền của con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch chiến tranh cho nhân loại mỗi lúc hiểu rằng hòa bình chỉ có thật sự có khi con người biết tôn trọng những quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta cũng chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Thưa cộng đoàn, nếu bản tuyên ngôn ở trên được con người đặt ra để cử xử với nhau trong cuộc sống ở trần gian này, cho dù thế nào đi nữa nó vẫn có những bất toàn của nó. Thì trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã công bố “bản tuyên ngôn tình thương”, bản tuyên ngôn ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian, và được thể hiện bằng thần khí, bằng sự thật, bằng cuộc sống, bằng tình yêu, bằng tình người và sẽ bằng chính máu – thập giá của Người
Trở lại với trình thuật Tin Mừng, chúng ta thấy thánh Mát Thêu diễn tả: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Thưa cộng đoàn, đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến trần gian và đi vào cuộc sống làm người chỉ trừ tội lỗi, vì vậy “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế ”.
Đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu là sợi chỉ nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước. Do đó Người đến không phải là để phá đổ những cái cũ nhưng là để kiện toàn và tạo cho nó một sinh khí mới.
Thưa cộng đoàn, qua bài đọc một chúng ta thấy rất rõ sách luật đã nói đến “hôm nay là ngày thánh hiến Đức Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”
Đó cũng chính là điều đã ứng nghiệm rằng một viễn tượng hết sức tốt đẹp là sẽ có một đấng thiên sai đến với toàn dân, sẽ giải phóng họ thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực, khỏi cảnh bị áp bức bóc lột; vì thế “ hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em ”
Và vì vậy đã ứng nghiệm qua trình thuật Tin Mừng của thánh Mátthêu được Đức Giêsu công bố, chúng ta thấy “Bản tuyên ngôn tình thương” đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trước đó năm thế kỷ là “Thần khí chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Nhưng để thực hiện, để mở ra bản tuyên ngôn này thì chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất có chìa khóa mở ra.
Điểm cốt yếu của bản tuyên ngôn tình thương tại thủ phủ Nazaret được Đức Giêsu công bố ít nhiều đã làm xáo trộn trật tự sẵn có. Vì đối với não trạng của người Do Thái, đặc biệt của các thượng tế và kinh sư, thường coi những kẻ nghèo hèn, những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ đui mù câm điếc… là do Thiên Chúa chúc dữ, do đó cần loại những kẻ ấy ra ngoài đời sống sinh hoạt của tôn giáo, của phụng tự, của xã hội. Thế mà một Đấng Thiên Sai lại đi rao giảng sự giải phóng cho những người ấy. Vâng thưa công đoàn, sao mà có thể chấp nhận cho được ! .
Nhưng đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến loan báo một thứ Tin Mừng khác hẳn, không phải là một thứ Tin Mừng chỉ dành riêng cho một dân tộc ưu tuyển nào, hay chỉ dành riêng cho các thượng tế và kinh sư, nhưng Đức Giêsu còn mang đến một thứ Tin Mừng cho những người đang sầu khổ, đui mù, câm điếc và những dân ngoại đang khao khát lời Chúa.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn được Đức Giêsu công bố, đã biến Đức Giêsu trở thành một vị Thiên Chúa ngôi vị, đã trở thành anh cả giữa một đàn em đông đúc mà qua bài đọc hai cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Đầu, là Trưởng Tử, còn chúng ta là những thành phần được kết hợp với người, được thông phần với người vì chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất.
Chính vì vậy Đức Giêsu đã sống đồng hành, sống cùng sống với thân phận của mỗi con người; lúc thì thủ thỉ như cha con, lúc thì chung chạ như anh em, lúc thì đồng bàn như bạn hữu.
Đức Giêsu không chỉ dừng lại đồng hành bên cạnh những thân phận ấy, nhưng Người nhận thấy nơi những con người bệnh tật, bần cùng đói khổ, tội lỗi ấy một giá trị mới, một phẩm giá mới; là được làm con Thiên Chúa. Một cách quyết liệt hơn nữa nói như tôn sư Eckhart “ Thiên Chúa xuống làm người để con người trở thành Thiên Chúa” là vậy.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn tình thương được Đức Giêsu công bố vẫn còn rất thời sự, vẫn còn rất nóng hổi đối với thế giới của chúng ta đang sống. Vậy mỗi người ki tô hữu chúng ta sẽ thực hành bản tuyên ngôn ấy như thế nào trong thế giới hôm nay?. Đây là vấn đề tôi cũng như các quý ông bà anh chị em phải suy nghĩ rất nhiều trước bối cảnh chúng ta đang sống.
Ắt hẳn cũng còn rất nhiều điều chưa ứng nghiệm là bởi vì qua thái độ sống của mỗi người chúng ta chưa thực hiện được qua bản tuyên ngôn của Đức Giêsu;
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa sống đúng với chứng tá là một ngôn sứ đến với những con người bất hạnh, và vẫn còn những thái độ tránh xa họ.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa mở rộng tấm lòng ra để đón nhận những nỗi đau của đồng loại, bởi vì chúng ta sợ không dám chia sẻ những gì chúng ta có như tinh thần và vật chất.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa công bố một sứ điệp Tin Mừng chân thật, sứ điệp Tin Mừng đó chính là thể hiện cách sống của chúng ta đối với những người bất hạnh.
Vâng, đúng vậy, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào chức vụ tư tế, ngôn sứ, vương đế phổ quát của Đức Giêsu.
Cho nên mỗi ki tô hữu chúng ta cũng phải có trách nhiệm loan báo, công bố, và thực hiện bản tuyên ngôn đó; là loan báo niềm vui đến với những người đang khát khao lời Chúa biết rằng Thiên Chúa luôn luôn đón chờ, luôn dang rộng cánh tay để dìu dắt nâng đỡ, an ủi một khi trông cậy vào Người
Và công bố niềm hy vọng đối với những người tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật, đui mù câm điếc về cả tinh thần lẫn thể xác là Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, và luôn luôn ôm trọn tất cả những tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật của mỗi người chúng ta bằng trái tim đầy thương yêu của Người và chữa lành những vết thương ấy qua Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta đón nhận mỗi ngày.
Chính vì vậy mỗi người chúng ta cầu xin Chúa luôn tăng thêm thần khí để dẫn dắt chúng ta dám sống, dám xả thân phục vụ và thực hiện bản tuyên ngôn tình thương mà Đức Giêsu đã trao lại là: mang Tin Mừng đến với mọi người, qua đó nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì chỉ có như vậy chúng con mới có thể thực hiện lời Người đã dạy “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Và cũng chỉ có như vậy thì “hôm nay sẽ ứng nghiệm lời kinh thánh” trong bối cảnh chúng ta đang sống và qua đó làm bật dậy sức sống mới trong từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.
45. Niềm tin vào Đức Kitô giải phóng con người.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Trong phần đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thu hẹp nhận định vào điểm thánh Luca đã soạn thảo Phúc Âm của ngài với tất cả thái độ nghiêm túc của giới trí thức đương thời. Chúng ta dừng lại ở phương cách Đức Giêsu thuyết giáo trong nhà hội ở Nagiarét. Chúa tham gia đầy đủ vào những tục lệ dân tộc, tuân giữ ngày hưu lễ như những người Do Thái khác, nghĩa là đến tụ họp tại hội đường nghe đọc Lề Luật rồi nghe người ta bình giải. Người giữ hội đường đưa cho Chúa một cuốn sách về Cựu Ước (thời đó sách là một tờ giấy rất dài cuộn lại). Chúa đọc trong đó một bản văn mang ý nghĩa lời sấm về Đấng Mêsia. Chúa đọc xong, tất cả mọi người, kể cả Chúa, ngồi xuống. Bấy giờ Chúa loan báo cho đám thính giả rằng thời đại cứu độ mà nhân loại mong đợi đang mở ra cho họ, Chúa dùng lối nói bóng cho họ linh cảm rằng Đấng Mêsia đang hiện diện trước mắt họ.
Đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết giảng thuyết của Đức Giêsu bắt nguồn từ đâu và nhằm mục đích gì?
1) Bắt nguồn từ quyền phép Chúa Thánh Linh. Một trong những nét được coi là đặc điểm của Đấng Mêsia hiện rõ lên ở đây: đó là quyền phép Chúa Thánh Linh. Sở dĩ Đức Giêsu có được quyền phép ấy vì Người là Con Thiên Chúa. Tuy vậy, trên bình diện nhân tính, quyền phép ấy Chúa có được cũng là do sự Người cầu nguyện liên tục. Chúng ta có thể nghĩ rằng mỗi lần trước khi nói và hành động, Chúa cầu xin Chúa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn Người. Nhờ mối liên hệ tâm linh ấy, Chúa là một người có những lời nói châu ngọc khiến người nghe ngưỡng mộ, và có một quyền năng làm phép lạ khi nào Chúa muốn. Đây là một quy luật căn bản cho tất cả những ai sau này đến lượt mình mang sứ vụ loan báo cho thế gian rằng thời đại cứu độ đã tới. Dẫu cho ngày nay không cần phải làm phép lạ, sự giảng dạy về đức tin vẫn phải bắt nguồn từ tâm tình tuỳ thuộc hoàn toàn vào Chúa Thánh Linh.
2) Mục đích giảng thuyết của Đức Giêsu là loan tin một sự giải phóng. Chúng ta nói rõ, không phải là một sự giải phóng về chính trị, nhưng là giải phóng về tâm hồn: mở ra một vận hội hy vọng cho những kẻ vô vọng. Được dễ dàng chuẩn bị nhất để đón sứ điệp ấy, là những kẻ nghèo, những kẻ bị áp bức, những kẻ đi tìm sự thật cho trí óc và giải thoát cho tâm hồn. Chúa phán rằng sự hiện diện của Người mở ra một năm ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là khai mạc một thời đại mới, thời đại cứu độ. Chúa tuyên bố điều ấy một cách dè dặt. Chúa để cho người ta phỏng Chúa là AI hơn là Chúa xác nhận. Chúa biết rõ sự áp bức thật sự là những thiên kiến của trí óc và những mờ ám của tâm hồn. Suốt ba năm giảng dạy, Đức Kitô giáo dục dân chúng cách tuần tự, cho họ quyền tự do nghe hay không nghe, dẫn dắt họ tiến dần đến chỗ hiểu biết rằng niềm tin vào Chúa đem đến sự giải phóng thật sự. Tất cả những cuộc giải phóng khác đều xuất phát từ sự giải phóng Chúa đề nghị với nhân loại.
46. Này là thân mình của Đức Kitô! – Charles E. Miller
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một số người Công Giáo đã thất vọng nơi những cấu trúc gần đây của những nhà thờ, họ nhìn thấy chúng quá tiêu điều, không trang trí những đồ dùng sốt sắng và thiếu đi vẻ đẹp. Một số khác thì nhắm đến những nhà thờ cổ hơn thì quá cầu kỳ. Chúng ta hãy hướng đến bài đọc thứ hai ngày hôm nay. Đúng hơn là hãy quan sát những cấu trúc và trang trí của tòa nhà, hãy nhìn xem những người ở bên trong nhà thờ. Với đôi mắt đức tin Công Giáo của bạn hãy nhìn họ như họ thật sự là: Thân Mình của Đức Kitô, được làm nên bởi nhiều phần tử khác nhau. Bên trong mỗi con người là ánh sáng rực rỡ của con người Đức Kitô, Đầu của thân mình là Giáo Hội. Ánh sáng rực rỡ ấy chiếu sáng không chỉ trên những người mà đôi mắt của họ được soi sáng bởi chân lý và những người của Giáo Hội thật sự là thân mình của Đức Kitô, bên trong mỗi người là một vẻ đẹp đặc biệt và lạ lùng. Lúc ấy tôi ước ao, chúng ta có một cái nhìn quang tuyến X thiêng liêng cho phép chúng ta trong suốt Thánh Lễ nhìn xuyên được vẻ đẹp bên trong. Và tiếp theo chúng ta sẽ thấy đôi hôn phối ở gần chúng ta thì phải tranh đấu để giữ cho cuộc hôn nhân của họ được tồn tại, họ phải cầu nguyện nồng nhiệt biết bao để nắm bắt lại ân sủng thời họ mới cưới, tất cả bởi vì họ thật sự tin đó là ý muốn của Thiên Chúa, họ là hai trong một xác thịt. Đức tin của họ thì rất xinh đẹp.
Chúng ta thấy một người thanh niên ăn mặc lịch lãm. Với một cái nhìn đặc biệt chúng ta có thể biết anh ta đang nài xin Chúa giải thoát anh ta khỏi ách nô lệ của một đam mê đang đe dọa phá hủy đời sống của anh. Kế bên anh là một người thanh niên khác cũng đang cảm tạ Chúa vì những ân phúc trong đời sống của anh và xin Chúa hãy cho anh biết anh phải làm gì, để dâng mình cho Giáo Hội như là một linh mục. Bên trong cả hai con người đều rực lên ánh sáng xinh đẹp của đức tin. Chung quanh chúng ta, chúng ta nghe nhiều người đang nhiệt tình đọc kinh hoặc hát những bài hát sốt sắng. Họ là những thành phần rất khác biệt nhau trừ sự kiện họ là những người trưởng thành trẻ đã không còn đến với Thánh Lễ nữa. Tất cả bọn họ đều đã xa rời Giáo Hội Công giáo, một số khác đã kết hợp vời các tôn giáo khác, một số người nghĩ cuộc sống sẽ rất đẹp nếu Thiên Chúa không hiện hữu. Tiếp đó, một điều gì đã xảy ra, điều gì khác cho mỗi một người, làm cho họ nhận biết rằng họ cần có Thiên Chúa và Giáo Hội của Người biết bao. Bởi vì họ có hạt giống đức tin gieo bên trong họ, họ biết phải trở lại tìm kiếm Thiên Chúa ở đâu. Họ trở lại để nâng niu Giáo Hội với một sự nhiệt tình, cũng giống như những người mới gia nhập Giáo Hội vào ngày lễ Phục Sinh. Chúng ta chú ý đến những đứa trẻ. Nếu không có tia X quang, chúng ta vẫn có thể thấy sự đơn sơ và khiêm nhường của chúng. Chúng ta được nhắc nhở khi Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Thiên Chúa”. Trẻ em là một cuốn Phúc Âm sống động và chúng thì giống như những bông hoa đáng yêu trang trí cho Giáo Hội.
Thánh Phaolô đã suy niệm về sự hiệp nhất Đức Kitô với dân Người là Giáo Hội. Thánh nhân đã viết cho các tín hữu thành Corintho rằng: “Thân Mình của Đức Kitô thì có nhiều chi thể, tất cả những chi thể mặc dù chúng có nhiều nhưng chỉ là một Thân Thể, đó là Đức Kitô”. Bài học đầu tiên nói với chúng ta, dân chúng đã hạnh phúc biết bao khi họ tái khám phá cuốn sách Luật (ở đây có thể là Đệ nhị luật). Chúng ta sẽ hạnh phúc trong ngày của Chúa đã khám phá Thân Mình của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong bài đọc của thánh Phaolô nơi Thánh Lễ ngày Chúa Nhật ngày hôm nay đã ứng nghiệm giữa chúng ta. Hãy nhìn chung quanh bạn. Hãy chiêm ngắm Thân mình của Đức Kitô. Vẻ đẹp thật của ngôi nhà thờ. Chân lý lớn lao này đã cho chúng ta một tiếng Amen sốt sắng.
47. Sứ mệnh được sai đi
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến với trần gian. Ngài đã sống một cuộc đời của người được sai đi. Khoảng thời gian sống ẩn dật và những năm rao giảng Tin Mừng, Ngài luôn thực hiện trọn vẹn công việc của một ngôn sứ:"Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó", sống chứng nhân tình yêu giữa đời.
Chúa Giêsu xuất hiện công khai giữa đời với những chuỗi ngày rao giảng không mệt mỏi. Khắp những nẻo đường xứ Galilê đều ghi dấu bước chân của Ngài. Danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến với nhiều lời khen tặng. Chính nơi vùng đất Galilê này Ngài bắt đầu sứ mệnh với nhiều thành công. Nhiều người đã đón nhận và say sưa với sự hiện diện của Ngài. Giai đoạn này được gọi là Mùa Xuân của Galilê. Ngài đến như mang lại một luồng gió ấm áp từ nơi Thiên Chúa. Chưa có phe đối lập nào xuất hiện, lòng người đang còn khát khao lời hằng sống đem lại sự tươi mới cho cuộc đời. Bởi lẽ bản tính con người Galilê ưa chuộng những gì mới mẻ và thích đổi thay.
Hôm nay Chúa Giêsu vào hội đường như thói quen Người vẫn làm trong ngày Sabbat. Tại đây, trong bối cảnh trang nghiêm, Ngài chính thức công bố chương trình hoạt động của mình: Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo nàn, khốn khổ. Như thế, Ngài đến để thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
Tin mừng Chúa Giêsu được rao giảng cho hết mọi người nhưng đối với những người không khổ sở thiếu thốn thì Lời Chúa như đang nói với ai đó, chẳng liên can gì đến họ. Cho nên đối với họ đó chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Nhưng đối với những người nghèo là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, bị giam cầm, bị áp bức, bệnh tật.. họ đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Với những người như thế, họ thật sự cần đến Chúa Giêsu. Do đó, những lời công bố của Chúa Giêsu mới thật sự là Tin Mừng cho họ.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người nhận lấy sứ mệnh là ngôn sứ của Chúa, là người được Thiên Chúa sai đi. Ngài sai ta làm tông đồ cho Ngài. Công việc tông đồ là gì? Chúa Giêsu đã cụ thể đó là loan Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngày nay có những hạng nghèo mà người tông đồ phải đến loan tin: nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo ân sủng, nghèo đức tin.
Những người nghèo về vật chất: cuộc sống của họ thường vất vả, cơ cực. Ta có đủ tôn trọng và cư xử lễ độ với họ không? Ta có giúp đỡ họ hay tìm cách vận động để ngượi khác giúp đỡ không? Ta có những lời an ủi động viên để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa Chúa không? Hãy đến cảm thông, chia sẻ và an ủi họ. Hãy cho họ biết rằng họ là những người Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Những người nghèo tình thương: đó là những người cô đơn, không nhà cửa, những người đau bệnh ít người đến viếng thăm. Họ là những người bị bỏ rơi phải lang thang lề đường, phố chợ. Có thể họ là những người gần cạnh bên ta. Ta có đến thăm nom họ không? Ta có gieo chút bình an, chút tình thương nào không? Người được sai đi loan Tin Mừng phải cho người khác một hy vọng và tin tưởng rằng Thiên chúa vẫn đoái nhìn đến họ.
Những người nghèo ân sủng: đó là những người tội lỗi, bê trễ trong đời sống đạo. Ta có mạnh dạn nhắc nhở để họ trở về với tình thương của Chúa không?
Sau cùng, những người nghèo đức tin: hạng này rất đông. Những người này hiện nay gặp rất nhiều nơi sở làm, trong đám tiệc, xóm giềng...Đừng quên Chúa sai ta đến với họ để cũng rao giảng Tin Mừng cho họ. Nếu ta ngại ngùng không dám nói thẳng thì ít ra đời sống của ta phải tỏ ra mình là người tông đồ thật sự và luôn sống tốt với mọi người.
Sứ mệnh đến với người nghèo của Đức Giêsu luôn được tiếp tục trong Giáo hội và qua Giáo hội. Chúa Giêsu mong muốn là môn đệ Ngài tiếp tục sứ mạng ấy. Vì được nhận lãnh Tin mừng và hồng ân từ Thiên Chúa, ta cũng phải làm cho ơn ấy tiếp tục đến với nhiều người: gặp nhau trong niềm vui, nâng đỡ ai đau khổ, xoa dịu các oán hờn. Tình yêu Chúa sẽ đổ tràn cho những người biết rộng tay đón nhận và mạnh dạn dấn thân.
48. Lời tiên tri ứng nghiệm
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”.
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
- “Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?”
Thầy Giuse đáp:
- “Tôi không biết”.
Lúc ấy thầy Antôn nói:
- “Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết”.
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”. Nhưng với thầy Giuse người có uy tín nhất, người đã trả lời “tôi không biết”, thầy Antôn lại bảo: “Chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp”.
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”.
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tru trong Cựu ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ; Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêsa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơ mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêsa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: “Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.
Mẹ Têrêsa tức giận nói với Thánh Phêrô: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng”.
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiều người cùng khổ và cô dơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là “thừa sai bác ái” trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêsa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hơn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như trang Tin Mừng nêu lên, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
49. Giải thoát
Ta đang sống trong một thế giới mà dường như người ta đang rất đề cao sự tự do. Tự do đi lại, tự do ăn uống, tự do mua sắm... Dường như càng ngày con người càng không muốn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì hay bất cứ ai. Họ chỉ muốn tự mình giải quyết tất cả những vấn đề của cuộc sống. Thế nhưng, trớ trêu thay khi càng tự mình đi tìm tự do theo ý mình bao nhiêu thì người ta lại càng tự trói buộc mình bấy nhiêu. Như vậy, tự mình chúng ta không thể giải thoát được mình. Chúng ta phải cần nhờ đến Thiên Chúa.
Các thầy tư tế và Lêvi sau khi đọc sách luật đã giải thích cho dân chúng nghe. Họ bảo dân chúng hãy vui lên và đừng buồn nữa vì Thiên Chúa là thành trì bảo vệ. Đây là điều ta thấy được trong bài đọc 1.
Con Chúa Giêsu trong bài Tin mừng sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"Người đã tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Nghĩa là chính Chúa Giêsu đang đến và ngay hôm nay Người đang thực hiện những việc đó cho con người chúng ta.
Chắc chắn từ trước đến giờ và mãi mãi về sau không có ai dám tuyên bố như Chúa Giêsu hôm nay. Chỉ có Con Thiên Chúa mới dám khẳng định như vậy. Bởi lẽ, sứ mạng chính của Người khi đến trần gian là đem ơn cứu độ và ơn giải thoát cho muôn người.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta cũng sẽ thấy sau khi Tổ tông phạm tội, Thiên Chúa đã không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát họ. Thiên Chúa cứu gia đình ông Nôe khỏi lụt Đại hồng thuỷ. Thiên Chúa chọn Ông Abraham để thành lập dân riêng....Nổi bật nhất là qua Môsê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Còn với Chúa Giêsu thì chỉ trong 3 năm mà Người đã giải thoát cho không biết bao nhiêu người bị đủ các thứ bệnh hoạn tật nguyền. Người đã giải thoát cho nhiều người từ bị đui mù, què quặt đến bị quỷ ám. Bên cạnh đó, Người còn giải thoát cho nhiều người bị xã hội và lề luật chèn ép như người phụ nữ tội lỗi, ông Dakêu người thu thuế, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình...
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục giải thoát ta. Những Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, những chỉ dẫn của Giáo hội, các Bí tích... là những phương thế Thiên Chúa dùng để giải thoát ta. Quan trọng nhất là qua đó Thiên Chúa sẽ giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết.
Như thế, chỉ có đặt niềm tin và phó thác nơi Thiên Chúa thì ta mới mong được thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
50. Lời các bạn nghe đã thành tựu - McCarthy
Suy Niệm 1. CUỐN SÁCH
Khi dân Do Thái trở về quê hương sau nửa thế kỷ lưu đày ở Babylon, họ phải xây dựng lại quốc gia họ. Ét-ra đã kêu gọi dân chúng thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa. Ông bắt đầu đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ thời kỳ đó, đời sống và tôn giáo của người Do Thái có nền tảng là sự tuân thủ chính xác Luật Môsê. Là những Kitô hữu, chúng ta cũng là một dân của “sách Thánh”, tuy nhiên trong trường hợp của chúng ta là sách Tin Mừng.
Có một câu chuyện về một dân tộc chưa bao giờ nghe nói về Tin Mừng. Một ngày kia, một người nước ngoài đến và loan báo: “Tôi đến và mang cho các bạn một Tin Mừng”. Khổ nỗi, ông ta bị mắc bệnh và chết trước khi ông có thể nói cho họ nghe Tin Mừng. Người ta tìm thấy một cuốn sách nhỏ trong ba-lô của ông. Nhan đề cuốn sách là: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Họ kết luận rằng đó là điều mà người nước ngoài muốn nói với họ. Họ bắt đầu đọc cuốn sách ấy.
Dù cuốn sách đã cũ, sứ điệp xem ra vẫn mới toanh. Nhân cách trung tâm hiện rõ ra với họ từ những trang sách mốc meo. Đó là một con người đầy sức sống, đã có được sự hiền lành và lòng thương xót cao cả. Họ đọc các tường thuật về những phép lạ. Người đã thực hiện cho những người bệnh và những người quẫn bách. Họ đọc thấy Người đã đi ra khỏi đường lối thông thường để liên kết với những người bị gạt bỏ. Lời Người tốt đẹp và có quyền bính gây một ấn tường sâu sắc trong lòng họ. Quả là một cuốn sách lạ lùng và lôi cuốn!
Tội nghiệp cho ông mang cuốn sách này đến đây và đã chết, có người nói: “Rõ ràng ông ta là một môn đệ của Đấng Kitô đó”.
“Nhưng ở xứ sở của ông ta, hẳn phải còn có nhiều môn đệ”, một người khác nói. “Chúng ta có nên sai một người đến đó để xem người dân sống giáo huấn mới này như thế nào hay không? Rồi người ấy sẽ trở về, tường thuật lại và có lẽ sau đó chính chúng ta có thể cố gắng sống giáo huấn ấy?”.
Họ chọn Francis, một thanh niên chính trực. Anh đã đi du hành khắp nơi và quan sát kỹ lưỡng. Anh sẵn sàng tìm gặp các thành phần tiêu biểu của quần chúng rộng rãi. Anh không vội vàng đưa ra kết luận và phán đoán. Sau cùng đến ngày mà anh cảm thấy đã quan sát đủ, anh liền trở về quê hương. Vừa mới về đến, đồng bào anh đã đặt ra cho anh những câu hỏi dồn dập:
“Những môn đệ của Sách Thánh có yêu thương nhau không?”
“Họ có sống hoà bình với nhau không?”
“Họ có sống một cách đơn sơ không?”
“Họ có hạnh phúc không?”
Nhưng mọi câu hỏi có thể tóm gọn trong câu hỏi này: “Các môn đệ của Đức Kitô có sống theo đúng Sách Thánh không?”.
Và đây là một bản báo cáo tóm tắt về những gì Francis nhận thấy, được anh trao cho đồng bào anh:
“Về cơ bản, tôi thấy có năm loại Kitô hữu. Trước hết, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu nhưng chỉ trên danh nghĩa. Dù rằng họ đã được rửa tội, họ không tuân giữ một điều gì trong đạo và cũng không cam kết điều gì.
“Thứ hai, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu chỉ bởi thói quen. Dù rằng họ công khai cam kết tuân giữ theo giáo huấn của Đức Kitô, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến cách họ sống. Thậm chị, tôi còn thấy họ sống theo những nguyên tắc không liên quan gì đến những lời dạy trong Sách Thánh, mà trong nhiều trường hợp còn ngược lại với những lời dạy ấy.
“Thứ ba, tôi nhận thấy một số người rõ ràng là có lòng nhiệt thành với đức tin Kitô giáo. Họ dấn thân trong những công việc tốt lành. Nhưng dường như họ còn thiếu một yếu tố quan trọng. Họ dường như có ít hoặc chỉ có một bài phẩm chất mà Thầy họ yêu cầu.
“Thứ tư, tôi nhận thấy những người mà các bạn có thể gọi là các Kitô hữu hành đạo. Theo tôi những người này đã hiểu rõ tinh thần của Sách Thánh. Họ thật sự quan tâm đến người khác và không hổ thẹn là những Kitô hữu. Tôi thấy họ bị bách hại ở một số nơi. Ở những nơi khác, họ gặp phải tình cảnh có lẽ là tệ hại nhất: sự dửng dưng khủng khiếp của đồng bào họ.
“Sau cùng, tôi đã gặp một số người, phải thừa nhận là không nhiều, và tôi không ngần ngại gọi họ là những Kitô hữu đích thực. Họ là những người có đời sống tâm linh sâu xa. Khi gặp họ, tôi cảm thấy mình gặp được chính Đức Kitô”.
Câu chuyện không cho chúng ta biết dân tộc ấy có đón nhận Tin Mừng hay không. Ngày nay, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới tuỳ thuộc vào chúng ta. Có là một đặc ân to lớn nhưng là một công việc làm nản chí. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được Chúa Thánh Thần ban ơn phù trợ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Cuốn sách duy nhất mà nhiều người sẽ đọc biết Tin Mừng chính là cuốn sách của đời sống chúng ta.
Suy Niệm 2. GIÁO HỘI LÀ NHIỆM THỂ ĐỨC KITÔ.
Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, những bác sĩ khác chuyên về não bộ hoặc về mắt, về tai v.v… Sự chuyên môn hoá là điều tốt như có thể có một khía cạnh tiêu cực. Nhà chuyên môn có thể chỉ quan tâm đến các bộ phận của con người mà không quan tâm đến chính con người. Họ hiếm khi hiểu rõ con người có mắt, hoặc tai hoặc hông đang được điều trị.
Thân thể con người tạo nên một thể thống nhất dù nó bao gồm nhiều chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô (Bài đọc 2). Qua phép Rửa Tội, chúng ta đã trở thành những chi thể của Thân Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Một số người muốn sống một mình, không nhờ cậy vào ai, được độc lập với cộng đoàn. Nhưng không thể có một Kitô hữu cô lập như thế. Những người chủ tâm tách lìa mình ra sẽ làm tổn thương cộng đoàn. Chúng ta là một phần của người khác và phải cố gắng không để mình sống biệt lập.
Cộng đoàn có những yêu cầu đối với chúng ta. Vì lẽ đó, cám dỗ muốn sống một mình, không cần đến ai, muốn tìm kiếm sự cứu độ độc lập với những người khác là một cám dỗ mạnh mẽ. Nhưng điều đó không thể có được. Chúng ta cần cho nhau, giống như những phần của một thân thể cần lẫn nhau.
Và Giáo Hội cần đến mọi người chúng ta. Chúng ta cần có ý thức mình thuộc về nhau và thuộc về Đức Kitô. Chúng ta phải được bao gồm cả khi chúng ta chỉ muốn tốt hơn là lo cho chính mình.
Thuộc về một cộng đoàn có những lợi ích rõ ràng. Hãy lấy những cây sậy làm ví dụ. Từng cây một, chúng mềm yếu và bị bẻ gãy dễ dàng. Nhưng khi cột chúng lại với nhau thành bó, chúng thật sự không thể bẻ gẫy được. Điều đó cũng đúng với con người.
Sức mạnh to lớn là kết quả của sự hợp quần. Người ta có thêm lòng can đảm khi hiểu biết nhau, động viên nhau, và nương tựa nhau. Khi ta cùng nhau làm việc thì có thể làm được nhiều điều vĩ đại.
Tầm quan trọng của cộng đoàn được Đức Giêsu nhấn mạnh và Người dùng một hình ảnh khác để mô tả nó. Đó là hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng đã minh hoạ sâu sắc tính hiệp nhất và lệ thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là cành nho cần có cây nho. Nhưng cây nho cũng cần có cành, bởi vì chính cành sinh ra quả.
Đức Giêsu muốn tương quan ấy tồn tại giữa Người và các môn đệ. Đó là cách mà Người muốn có ở giữa Người với chúng ta. Người là cây nho, chúng ta là cành. Vả lại, nếu nói theo ngôn ngữ của Phaolô: “Đức Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là những chi thể”. Nếu một người không có ý thức thuộc về cùng một cộng đoàn, chăm sóc và chịu trách nhiệm cho nhau, người ấy không thật sự là một Kitô hữu.
Hoa quả mà Đức Giêsu mong muốn nơi chúng ta, trước tiên là sự hiệp nhất ở giữa chúng ta. Bởi sự hiệp nhất ấy, mọi người sẽ biết rằng chúng ta thuộc về Đức Giêsu, nói cách khác là bởi sự liên kết có ở giữa chúng ta và sự chăm sóc mà chúng ta thực hiện cho nhau.
51. Trọn vẹn
"Người đến Nagiaret, nơi sinh trưởng..."
Một trong những điều bắt buộc với nhà truyền giáo là học tiếng nói của người bản xứ. Điều này không đơn giản là chỉ học để giao tiếp thông thường mà phải trao dồi càng chuẩn xác bao nhiêu càng tốt. Đến khi nào mà ngay chính người sở tại cũng không nhận ra được đây là một giọng nói của người nước ngoài nói tiếng nước mình mà như người bản xứ thật sự thì mới được coi là đạt yêu cầu. Thực tế điều này rất khó, đòi hỏi nhiểu tời gian và lòng kiên nhẫn. Tuy vậy, điều thú vị là khi am tường được ngôn ngữ của một dân tộc thì gần như thấu hiểu được trọn vẹn nền văn hóa của họ.
Ngược lại khi đến một xứ truyền giáo thì ít nhiều nhà truyền giáo cũng mang theo những nét văn hoá của xứ sở họ. Do đó, nếu biết khôn ngoan chắc lọc thì những xứ truyền giáo sẽ có nhiều cơ hội làm giàu thêm cho nền văn hoá vốn có của dân tộc mình. Được như vậy thật là điều đáng coi trọng.
Theo chân Đức Giêsu, hôm nay chúng ta trở về Nagiaret, nơi chôn nhau cắt rốn của Người, nơi đã in đầy những dấu chân của Người, cũng là nơi chứng kiến Ngài lớn lên trong suốt 30 năm ẩn dật. Từ ngày từ giã đất mẹ ra đi làm loan báo Tin Mừng cứu độ theo ý Cha đến nay, Đức Giêsu mới có dịp trở về thăm quê. Lần trở về quê này quả thật có nhiều điều để nói. Ngài trở về "trong quyền lực Thánh Thần" và trong cái "danh tiếng đang lan tràn khắp chung quanh". Có lẽ dân chúng đã chờ đợi ngày này lâu lắm rồi. Chờ đợi để được chiêm ngưỡng người con đã làm rạng danh xứ sở. Nhưng quan trọng hơn là chờ đợi để được nghe những "cung vàng thước ngọc" từ miệng Người thốt ra. Và họ đã được toại nguyện. Ngài vào hội đường. Vị cai quản hội đường không ngần ngại trao cho Ngài Thánh Kinh, và ưu ái dành cho Ngài công việc giảng giải Lời Chúa.
Quả thật, Đức Giêsu hôm nay không như một Giêsu, con một người thợ mộc ngày xưa. Giêsu hôm nay là Con Một Thiên Chúa đã được chứng nhận rõ ràng. Hàng thật đã được đóng ấn và xức dầu.
Ấy vậy mà trong mắt dân chúng Ngài vẫn rất thân quen, gần gũi, dễ thương như ngày nào. Ngài cao vời hơn chính tầng mây nhưng cũng thật đơn sơ và thân thuộctrong vị trí của những ngưòi bà con họ hàng, trong cái tình làng nghĩa xóm chân chất nhưng dạt dào nghĩa nhân. Là bởi đức Giêsu không phủ nhận cái nhân tính của mình. Ngài vẫn không từ chối quê hương máu thịt trần gian. Hơn thế, Ngài đã dùng chính cái thiên tính, và sức mạnh Thánh Thần để thánh hóa, truyền cho cái trần gian ấy một sức sống thiêng liêng, làm cho nó nên trọn vẹn theo ý Ngài.
Không biết vô tình hay hữu ý mà nhiều người vẫn còn ngộ nhận rằng theo đạo Công giáo là theo tà đạo, là chối bỏ truyền thống dân tộc, là bất hiếu. Tôi không phủ nhận có sự hiểu lầm hoặc là trong chính nội dung giáo lý, hoặc là trong cách ứng xử của những người có đạo. Đây thật sự là điều đáng tiếc. Nhưng phải nói ngay rằng, không bao giờ có sự mâu thuẫn đó. Bằng chứng là khi các nhà truyền giáo Tây phương sang Việt Nam thì chưa bao giờ các ngài cố gắng để xóa bỏ những truyền thống của dân Việt. Nếu có sự sai lầm là bởi các ngài đã hiểu không đúng và do đó đã áp dụng không phù hợp.
Ơn siêu nhiên không làm mất ơn tự nhiên. Nhưng thánh hoá con người, bổ túc cho những bất toàn của con người và tăng thêm sức mạnh để giúp chúng ta sống trọn vẹn và tốt đẹp hơn trong cuộc sống tự nhiên. Sự mất thăng bằng hay nói cách khác tại sao chúng ta không mở rộng được tâm hồn, không hoà nhập được với vũ trụ vạn vật và con người. Tại sao ta không giúp được gì cho người khác mà ngược lại còn cản trở họ tiến triển cũng do ta thiếu ơn Chúa mà ra. Tại sao ta khắc khoải, đau khổ, chán chường, thất vọng... bởi vì ta không nhận ra được những may lành mà Chúa đã ban. Với lòng tin, phó thác, và sự trợ giúp của Chúa ta dễ dàng vượt qua những trở ngại và hân hoan tiến bước.
Ước gì, ơn Chúa không trở nên hư mất mà còn làm cho chúng ta thêm triển nở trọn vẹn hồn xác.
52. Công bố năm hồng ân
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau khi Chúa Giêsu đã lãnh nhận lễ rửa của Gioan và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giuđê một thời gian rồi quay về Galilê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Luca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được dồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.
Nơi đâu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài giảng đầu tiên là tại hội đường Nadaret không phải là một làng, nó được gọi là ‘Polis’ nghĩa một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Nadaret tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn ra phong cảnh từ đỉnh đó như sau: “Lịch sử của Israel mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Êlia đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh canh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ea từ trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba con đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thường gia chở nặng hàng háo từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngọ. Chính nơi đây Chúa Giêsu đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Hôm ấy là ngày sabat. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giêsu đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn được nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon. Chúa Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsia (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đâu với câu “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi”, đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thương như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải póng hco những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải póng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giêsu đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.
Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.
Khi Chúa Giêsu giảng dậy trong các nhà hội, thường vẫn có đọc Sách Thánh, như đây là cơ hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh “Thần Khí Chúa ngự trên tôi.” Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri Isaia đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố “Thần Khí Chúa”, Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và bây giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.
Trước những người đồng hương Nagiarét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giêsu đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: “Đây không phải là con ông Giuse sao?” Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Kitô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo ký và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhẫn ra Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đã bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.
May mắn hơn dân làng Nagiarét, chúng ta biết được nghĩa Chúa Giêsu áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giêsu áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giêsu dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ “Thần Khí” hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ “Đức Chúa” trong ý của Chúa Giêsu phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.
Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giêsu. Lời sấm trong sách tiên tri Isaia cho thấy một sự hiện diện qua việc xức đầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.
Chúa Kitô quả quyết Ngài được xức dầu do Đức Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giêsu được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là “Đấng được xức dầu”. Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.
Việc xức dầu là đề hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giêsu loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. Điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng… Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (61,2), Chúa Giêsu ngừng lại sau “Năm hồng ân” và bỏ qua loan báo “ngày báo phục”. Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng “Năm hồng ân” diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên “Thần Khí Chúa”. Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giêsu thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Kitô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giêsu. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động cho Chúa Con, chính Ngài qua Chúa con “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ.” Khi Chúa Giêsu hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. Chính Chúa Giêsu cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?” Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện tinh thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giêsu trích dẫn chính lời tiên tri Isaia, và kể lại cho Gioan điều mắt thấy tai nghe: “Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.” (Mt 11,4,6)
Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Kitô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: “Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Kitô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao,
Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Kitô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Kitô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung…”
53. Năm hồng ân của Chúa.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn. Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu đứng đọc Sách Thánh. rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người. Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đỉnh đạc, khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại. Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng. Đoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia. Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Đức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này. Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình. Đây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Đức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột. Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài, sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Đức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Đức Kitô chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ. Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em, kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Đức Giêsu. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Đại Năm Thánh 2000 đã kết thúc, nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha đã mời gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo nhân dịp Năm Thánh 2000. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để những người chung quanh được vui tươi hơn, nhẹ nhàng hơn?
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, chiến tranh. Bạn có thể kể ra những cuộc xung đột hay chiến tranh mà bạn biết? Đâu là lý do gây ra chúng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau - để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo: bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con thấy Ngài nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố, nơi những hy sinh vô vị lợi, và cả nơi những thao thức của ai đó, muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
54. Hôm nay
Câu kết của bài hát "Bài ca cây lúa" được hát như thế này "Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay". Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng đề cao giá trị của thời phút hiện tại, cái "hôm nay" của cuộc sống. Đặc biệt trong các sách Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần dùng "thì hiện tại" trong các cuộc đối thoại của Ngài "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe", "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ", "Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất... "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."... Thế giá trị của cái hôm nay quan trọng như thế nào cho ơn cứu độ của chúng ta?
Hôm qua là lịch sử, ngày mai thì bí ẩn chỉ có hôm nay là quà tặng, quà tặng của cuộc sống. Cuộc sống người Kitô hữu của chúng ta cũng thế, Chúa vẫn hằng đến với chúng ta hằng ngày và đặc biệt trong ngày hôm nay của cuộc sống. Trong bài Phúc Âm Luca chúng ta được nghe hôm nay, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn sách Tiên Tri Isaia thì Ngài nói "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe". Ứng nghiệm là ứng nghiệm cái gì? Thưa là ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo ngay chính lúc này, chính ngày hôm nay. Chúa Giêsu nhận mình là người mà Tiên Tri Isaia loan báo, là người được xức dầu, để loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Đối với Thiên Chúa không có quá khứ cũng chẳng có tương lai mọi sự đối với Chúa chỉ toàn là hiện tại. Qua mỗi trang Tin Mừng ta dễ dàng thấy nếu ai biết nhận ra Chúa đến với họ và họ biết nhanh chóng đón Chúa thì họ như được tất cả do Thiên Chúa ban cho, còn ai ngập ngừng lần lựa thì Chúa kể như "đồ ngốc" và như họ bị vuột mất mọi thứ.
Đơn cử như trường hợp Dakêu, ông nghe biết Chúa Giêsu tiến vào thành Ghêrikhô thì ông đã phải vượt qua những rào cản hữu hình cũng như vô hình, từ những khiếm khuyết thể lý cho đến những khiếm khuyết luân lý. Ông vượt qua tất cả. Chúa Giêsu thấy sự nỗ lực của ông và Chúa đã đáp lại hơn cả sự mong đợi của ông. Chúa còn ban ơn cứu độ cho gia đình ông"Hôm nay nhà này. được ơn cứu độ...".Về phía Dakêu sau khi đón nhận Chúa vào nhà mình, ông đã biến đổi: từ một con người coi tiền tài danh vọng là tất cả mọi sự thì nay ông nhận ra Chúa và ơn cứu rỗi của Người là cùng đích đời ông nên ông nói "Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, thì tôi xin đền gấp bốn". Rõ ràng khi Dakêu thấy Chúa Giêsu thì ông không chần chừ, lần lựa mà ông đón Chúa và nhà mình và ông nhận được ơn cứu rỗi.
Người giàu có trong dụ ngôn của Chúa Giêsu thì ngược lại. Sau khi thấy mình có đầy dư gạo thóc, ông định phá bỏ những kho lẫm cũ để xây dựng những kho lẫm mới lớn hơn và ông cho rằng lúc đó mình sẽ an tâm cho số phận của mình. Chúa bảo "Đồ ngốc vì đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi". Người nhà giàu này chần chừ lần lựa, tự lo cho chính mình, đợi kế hoạch của mình hoàn thành đã thì mới tính tiếp. Chúa không coi đó là cách thức khôn ngoan vì đối với Chúa mọi sự phải là hiện tại.
Trở lại bài đọc I, Tiên Tri Nơkhemia và tư tế Et-ra sau khi giảng giải lề luật cho dân chúng thì các ông nói "Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc..."và chính ngày hôm nay là ngày hồng phúc Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày Thiên Chúa mang Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn.... ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy sống "ngày hôm nay" như là hồng ân của Chúa, Chúa đến với ta từng giây, từng phút trong cuộc đời, ta phải nhận ra Chúa qua từng biến cố, từng cảnh sống. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận cuộc sống trần thế và Ngài đón nhận nó như là ân ban và Ngài đã thánh hoá đem lại ơn cứu độ cho những ai biết thánh hoá từng ngày sống của mình.
55. Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
(Suy niệm của Lm. Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi rao giảng Tin Mừng"
Thông thường chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ đi giảng dạy trên khắp bờ cõi xứ Giuđêa, mà quên rằng Ngài vẫn hành đạo như mọi người Do Thái thời đó, và theo thói quen, thì ngày nghỉ lễ, Ngài vào Hội Đường. Hôm đó Ngài được mời đọc sách, vừa mở ra Ngài gặp đoạn chép rằng:" Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..." Sứ mệnh của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế là: rao giảng Tin Mừng để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Là những người tin theo Ngài, sứ mệnh của chúng ta, qua lời nói và hành động, cần phải phản ảnh Tình thương Thiên Chúa đến biến đổi tất cả, như Chúa Giêsu đã đến để thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức...
Khi đề cập đến Tình Yêu, hẳn nhiên chúng ta không thể nào không biết đến nhiều phong trào hiện đại với chủ đề "yêu cuồng sống vội" hoặc những trào lưu tư tưởng chủ trương tự do luyến ái... do đó những từ ngữ "yêu-thương" được quá thông dụng đến độ không còn mang ý nghĩa đặc thù, và đôi khi giá trị của những chữ đó cũng bị giảm sút.
Và lúc còn nhỏ, khi được dạy bảo phải thương yêu nhau, qua những câu ca dao: anh em như thể tay chân... thương người như thể thương thân... bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy không cùng giống nhưng chung một giàn v.v... chúng ta nghĩ rằng thương yêu là ngoan ngoãn, vâng lời, không làm buồn lòng người trong gia đình hay bạn bè. Nhưng khi lớn khôn, ta lại hiểu thêm tình yêu không chỉ giới hạn một cách tiêu cực ở mức không làm hại kẻ khác, và nếu chúng ta là chứng tá của Đức Kitô thì mức độ Yêu Thương cần phải vượt xa hơn nữa. Yêu Thương là cổ động bênh vực lẽ phải chống lại những gì làm nguy hại đến đời sống con người, là đứng về phía bảo vệ quyền lợi những người bị bất công áp bức hoặc bị ruồng bỏ, là dấn thân đấu tranh cho công ích để mọi người đều có phần trong miếng cơm manh áo, được hưởng hạnh phúc trong công lý và bình đẳng. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu nắm rõ từ lúc bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng.
Cựu Ước, đối với Đức Kitô, là Lời của Thiên Chúa tác động trên "Đấng được xức dầu" sẽ phải đến (còn được gọi là: "Đấng thiên sai"), và gợi ra hai đường hướng có vẻ khác nhau: trong nhiều trường hợp, đấng thiên sai được coi như một tướng lãnh hùng mạnh dẫn đưa dân Ít-diên làm bá chủ thế giới và áp đặt lề luật Thiên Chúa ở khắp nơi. Nhiều nhà chú giải còn thêm rằng vị thiên sai đó sẽ xét đoán, lên án và tiêu diệt những ai không chấp nhận lề luật này. Ngược lại trong những đoạn khác, vị thiên sai được xem như là người của Thiên Chúa đến để liên kết Dân của Ngài trong một giao ước tình yêu và tha thứ, vì Thiên Chúa là Đấng ban tặng tình thương và ân sủng, ban phát một cách nhưng không, Ngài không áp đặt và hoàn toàn tôn trọng sự tự do của những ai ngỏ lời cùng Ngài. Vậy thì tràn đầy Thánh Thần, "đấng được xức dầu" (Đấng Thiên Sai) sẽ không đè bẹp ngọn lau bị dập nát, Ngài không dập tắt ngọn đèn lu mờ, nhưng sẽ nâng đỡ những người nghèo khổ, goá bụa và mồ côi, Ngài sẽ mang ánh sáng, sự giải thoát và hoà bình đến cho những ai tiếp nhận Ngài.
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Qua đoạn cuối Phúc Âm của Chúa Nhật này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quyết định, Ngài tuyên bố: Ngài là Đấng được xức dầu và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chứ không phải là một tướng lãnh hùng mạnh. Và cách thức loan báo Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ là vấn đề ngoan ngoãn lịch thiệp, nhưng là những hành động dũng cảm ưu đãi những kẻ bất hạnh, tội lỗi, bị đàn áp dưới đủ mọi hình thức. Như thế mới thật là Tin Mừng.
Riêng chúng ta, thế nào là thực hiện Tin Mừng cho những người khác? Cách thức nào chúng ta nối tiếp công việc rao giảng của Đức Kitô? Nếu viện lý không va chạm với ai để an tâm và an phận trong cuộc sống thì rất dễ, như vậy thì đời sống của chúng ta có phải là Tin Mừng cho trần gian này hay không? Sống đạo và hành đạo không chỉ là tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hoặc các Lễ trọng trong năm, mà còn phải thực thi Yêu-Thương bằng hành động. Điển hình nhất (ví dụ): sẵn sàng đóng góp vào quỹ cứu trợ đồng bào bị nạn lụt, tùy theo khả năng... quyết tâm không làm tổn thương đến thanh danh của người khác, nhất là sống trong một Cộng Đoàn... gia nhập các Hội từ thiện hoặc các đoàn thể chống kỳ thị, chống vi phạm nhân quyền v.v... tuỳ mỗi người tự tìm những phương thức thực hiện Tình Yêu tha nhân, để cuộc sống của chúng ta trở nên ánh sáng và niềm vui cho kẻ khác.
Ước gì câu "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó" được áp dụng cho cuộc sống hôm nay và từng ngày của chúng ta.
56. Chúa Giêsu và chỗ đứng của người nghèo hèn
(Suy niệm của Lm Phan Kế Sự)
“Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho: kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Kinh sư Esdra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, khi nhắc lại những ân huệ mà Giavê Thiên Chúa dành riêng cho dân tộc Israel, đã làm cho nhiều người cảm động đến rơi lệ. Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. “Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em."
Khi trở về quê hương của Mình, Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng Mình cho chính những người bà con thân yêu của Mình, như là một lời giới thiệu về những việc Mình đã và đang làm cho mọi người. Sứ mạng đó đã được các tiên tri tiên báo, và Ngài chính là Người đến để hòan tất. Ngài cũng chính là đầu của thân thể mầu nhiệm, mà mọi chi thể đều phải lệ thuộc và hướng về. Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi và khỏe mạnh, bởi với Ngài, mọi người đều được Thiên Chúa quan tâm,yêu thương và chăm sóc. “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.”
Mỗi người chúng ta là một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa, đặc biệt là những người nghèo. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, cho đến những phép lạ, Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những ai không có chỗ tựa nương, không có chỗ trông nhờ,không có ai giúp đỡ. Sự xuất hiện của Ngài ở đâu,bất cứ lúc nào, cũng đều là tâm điểm lôi cuốn tất cả mọi người.Ngài đã đồng hành với mọi người bằng những tiêu chí: cùng ăn, cùng ở và cùng sống với những người đói khổ, khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Ngài không sống riêng cho mình, nhưng trái lại bị quấy rầy suốt ngày, thậm chí không còn giờ để ăn uống, gia đình cũng tưởng “Ngài đã mất trí”.
Năm đức tin, năm mà Giáo Hội muốn tất cả chúng ta trở về nguồn, vừa để học hỏi và đào sâu những Lời Chúa dạy; và cũng để soi dọi lại cách sống của mình có còn thích hợp với những gì Chúa dạy và những gì Chúa muốn cho xứng với bậc mình. Thường chúng ta vẫn tự mãn về cái gốc gác của mình: nào là 50 năm đạo gốc, nào là những chức vụ mình đang mang trên thân mình, nào là những thành tích rỗng tuếch bằng những con số thống kê ảo, nào là những công trình hòanh tráng đã thực hiện cho Giáo Hội.
- Liệu những khoe khoang, khoác lác đó có thực sự thích hợp với cái nhìn và cách sống của Chúa.
- Liệu những con số thống kê có thực sự nói lên những nỗ lực của chính mình hay cũng chỉ là những nhận vơ, cho những khó nhọc và đóng góp của những đồng trinh nhỏ của những bà góa nghèo hằng ngày kiếm được bằng cả cuộc sống cơ cực.
- Liệu cách sống giầu sang khoe mẽ, những thói quen tiêu xài phung phí, những thái độ chơi ngông có thực sự thích hợp với lời giảng dạy như chính Chúa đã sống.
- Liệu những hành động tiêu cực hoặc cách đối xử với anh em mình bằng những thái độ “lọai trừ” có thực sự xứng đáng là những ngừơi đem Chúa Kitô đến cho người khác, hay chỉ là những lời phản chứng đang ngày đêm âm thầm phá họai Giáo Hội.
Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin hãy đến trên tất cả chúng con.Xin hãy làm cho tất cả chúng con trở thành những nhân chứng thực sự của tình thương Chúa giữa trần thế, để trong mọi hòan cảnh, chúng con là những hiện thân đích thực của Chúa.
Xin hãy thanh luyện và thanh lọc khỏi chúng con những gì là giả dối,giả hình và thiếu sót để mỗi người chúng con xứng đáng là những chi thể lành mạnh và có ích trong thân thể mầu nhiệm của Chúa.
Lạy Chúa xin hãy thánh hóa chúng con. Amen.
57. Hợp nhất
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi hai ước muốn, đều tích cực, đều hợp lý như nhau nhưng chưa bao giờ được dung hòa một cách tốt đẹp.
Thực vậy, từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta đều mong muốn người khác biết đến những tư tưởng, những tài năng của mình, đòi hỏi họ phải tôn trọng và giúp đỡ để chúng ta phát triển được toàn diện con người. Khuynh hướng này có tính cách cá nhân.
Đằng khác, con người lại ước muốn hợp nhất, để xã hội này trở thành một cộng đồng hợp nhất và thương yêu, trong đó, con người không còn phải trải qua những sự trống vắng và cô đơn. Ước mơ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong một thế giới bị phân hóa trầm trọng. Đây là một khuynh hướng có tính cách cộng đồng.
Hai ước mơ trên đây càng mãnh liệt bao nhiêu thì lại càng va chạm dữ dội bấy nhiêu, và cho đến nay chưa ai có thể dung hòa được một cách tốt đẹp.
Riêng với những người Công giáo, những người có đức tin, thì sự dung hòa ấy khả dĩ có thể tìm thấy được nơi Đức Kitô và lời Ngài phán dạy. Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia đã mô tả cái quang cảnh hùng vĩ: Dân Chúa tụ tập để lắng nghe lời Ngài. Esdras đọc và chú giải lời Chúa, còn dân Chúa thì vui mừng đến rơi lệ bởi vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cảnh tượng trên đây đã được chính Đức Kitô thực hiện trong Tân ước. Đúng thế, Ngài đến để thực hiện sự hiệp nhất giữa muôn người. Ngài đến để thực hiện những lời hứa đã được tiên báo. Ngài đến để phá vỡ những bức tường ngăn cách, như nghèo đói, bệnh tật và dốt nát. Công cuộc hợp nhất này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không ngừng được thực hiện dưới tác động của Chúa Thánh Thần…
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy chúng ta tìm về gặp gỡ để tạo thành một thân thể, tuy một mà nhiều, tuy duy nhất mà lại đa diện, trong muôn ngàn sắc thái của ơn Chúa. Nếu suy nghĩ chúng ta cũng sẽ nhận thấy nhân loại tự bản tính vốn đa diện: Có Do Thái, có Hy lạp, có nam có nữ, có trắng có đen, nhưng nhờ bí tích Rửa tội, con người đã gặp gỡ, đã hiệp nhất và trở nên một.
Vì thế sự hiệp nhất không phải chỉ là kết quả của những cố gắng giữa người với người, mà hơn thế nữa còn là một ơn Thiên Chúa trao ban. Bởi vì, nếu chỉ cậy dựa vào sức người, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại, hay nếu có đạt được thì đó chỉ là một sự hiệp nhất dổm, một sự hiệp nhất giả hiệu mà thôi.
Sự hiệp nhất đích thực chỉ được tìm thấy trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Nó là kết quả của một công trình lâu dài, của một nỗ lực không ngừng để tẩy rửa, để tinh luyện tư tưởng dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, hiệp nhất không có nghĩa là phải dẹp bỏ, phải bóp chết các tài năng, các ơn thánh cá nhân. Vườn hoa chỉ đẹp, khi mỗi cánh hoa đều phô diễn trọn vẹn cái sắc thắm của mình. Cũng thế, tất cả các ơn Chúa ban, đều phải được xử dụng để làm vinh danh Chúa và góp phần đem lại lợi ích chung.
Thế nhưng trở ngại vẫn còn đó, nào ích kỷ, nào tự ái, nào kiêu căng. Con đường tiến về hiệp nhất vẫn còn nhiều chông gai và sỏi đá, tuy nhiên, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới đích, nếu như chúng ta luôn trung thành với lời Chúa và với Kinh Thánh.
Ước chi hôm nay chúng ta bắt đầu sống sự trung thành ấy trong chính cuộc sống của mình, bằng cách chấp nhận người khác, để cộng đồng nhân loại sẽ là một vườn hoa đủ màu đủ sắc của Thiên Chúa.
58. Phải nghe bằng ba lỗ tai
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường. Đền thờ thì chỉ có một, tức là Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu, bồ câu… Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong Đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phụng vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ, giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc ly: “Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là ‘lắng nghe’. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa là ‘Hoàng gia đi săn mặt trời’ (The Royal Hunt of the Sun). Vở kịch kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Kinh Thánh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?” Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí?
Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe Lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Chúa Giêsu nói. Thánh nhân tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói của Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”, và thánh nhân còn tưởng tượng ra nỗi phấn kích như điện giật lan truyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã được ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”. Như thế, nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho Lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây đường điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông: “Nào người ta được ích gì khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại mất hay thiệt chính mình?” (Lc 9,25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: “Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!”. Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách thức lắng nghe Lời Chúa sau cùng là lắng nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống chúng ta phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi nó huỷ diệt đời sống của ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rồi quản trị nó. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, ngoài giây phút chúng ta cầu nguyện. Chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm ước muốn đang lớn mạnh, khiến ta phải làm một điều gì đó để cải tạo hoàn cảnh hiện tại; Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta; hoặc Ngài khiến chúng ta cảm thấy nghiêng chiều về một trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, nhưng chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn.
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: Bằng lỗ tai tâm trí, bằng lỗ tai trái tim và bằng lỗ tai linh hồn. Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta; phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta; và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
59. Hồng ân cứu độ
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR)
Trước khi nhậm chức, các nguyên thủ quốc gia thường công bố diễn văn thể hiện đường hướng hoạt động sẽ mang lại lợi ích cho đất nước.
Trong thực tế, "nhân vô thập toàn". Mọi cố gắng của con người luôn giới hạn nên tôn giáo mới chính là lời đáp cho con người tìm về lẽ sống.
Hôm nay, khai mạc sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ, Đức Giê-su đã công bố lời ngôn sứ I-sai-i-a. Lời ấy không lý thuyết phô trương, nhưng ứng nghiệm nơi cuộc đời của Người.
Ngày Sa-bát, Người Do Thái vào hội đường để nghe công bố và giải thích lời Chúa. Họ đón nhận giáo huấn của Đức Chúa nhờ nghe và suy gẫm lời của Người.
Ngày nọ, trong hội đường Do Thái, một nhân vật đặc biệt xuất hiện giữa đám đông dân chúng. Sau khi công lời ngôn sứ I-sai-i-a, người ấy khẳng định những lời ông ta vừa công bố hôm nay đã ứng nghiệm (x. Lc 4, 20). Người ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người mang tên Giê-su.
Bằng ngôn ngữ và văn hóa của nhân loại, Đức Giê-su đã công bố lời Thiên Chúa và quả quyết lời Thiên đã ứng nghiệm nơi sứ vụ cứu thế của Người. Một sứ vụ do Chúa Cha sai thực hiện trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn..." (Lc 4, 18).
Như vậy, đón nhận Chúa Giê-su và lời của Người là đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, muốn đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa người ta phải đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần trong sự thần phục suy tôn Chúa Giê-su là Cứu Chúa. "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).
Ơn cứu độ nơi Chúa Giê-su không mơ hồ trừu tượng. Sự hiện diện của Người ở đâu đều mang lại ơn đổi mới đến đó:
- Được Đức Giê-su chữa lành, mẹ vợ ông Phê-rô đã trỗi dậy phục vụ (x. Mc 1, 31).
- Đón tiếp Đức Giê-su đến nhà, ông Gia-kêu đã được ơn hoán cải nên đã quyết tâm đền bù thiệt hại gấp bốn, và chia nửa gia tài cho người nghèo (x. Lc 19, 8).
- Nghe lời Đức Giê-su chỉ dạy, gười phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp đã nhận ra sự thật nên nhanh chóng trở về làng kêu gọi mọi người ra gặp Đức Giê-su (x. Ga 4, 28).
- Ánh mắt của Đức Giê-su đã giúp ông Phê-rô hoán cải (x. Lc 22, 61).
- Lời hứa của Đức Giê-su trên thập giá, đã bảo đảm cho người trộm lành được phúc thiên đàng (x. Lc 23, 43).
- Cuộc sống và sự chết của Đức Giê-su đã giúp cho viên sĩ quan chỉ huy nhận ra Người là Con Thiên Chúa (Mt 27, 54).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục Sinh cắt nghĩa Sách Thánh và tham dự Thánh Lễ do chính Đấng Phục sinh dâng hai môn đệ trên đường Em-mau, đã phục hồi tinh thần, ngay trong đêm trỗi dậy trở lại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 23, 33).
- Tiếng Chúa Giê-su Phục Sinh gọi đã giúp bà Ma-ri-a Mác-đa-la nhận ra Chúa và hăng hái lên đường loan báo tin vui Chúa đã phục sinh (x. Ga 20, 16).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục sinh, các Tông Đồ đã vượt qua cơn mệt mỏi chán chường hầu vững vàng thả lưới bắt cá (x. Ga 21, 6) và hân hoan ra đi khắp nơi loan báo tin vui cứu độ có Chúa cùng hiện diện và dấu lạ kèm theo (x. Mc 16, 20).
Như vậy, Chúa Giê-su chính là Lời Chúa đã thành xác phàm. Lời ấy đã: phục sinh người chết, xua trừ quỉ mà, mang lại niềm hy vọng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh: người điếc nghe được, người mù xem thất, người câm nói được, người què đi được... công bố năm hồng ân cứu độ và vẫn đang được tiếp nối nơi những hoạt động của Hội Thánh Chúa.
Hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su đã khởi đi từ việc công bố lời Thiên Chúa, thứ đến là những hoạt động cứu sống nhân mạng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh. Đỉnh cao của hoạt động cứu thế là: Công bố năm hồng ân với ơn giải thoát: "kẻ giam cầm biết họ được tha... trả tự do cho người bị áp bức" (Lc 4, 18).
Năm hồng ân chính là thời gian Thiên Chúa ban ơn đặc biệt cho con người. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã thi ân cho nhân lọai. Chính việc Chúa Giê-su đến trong thế gian đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi.
Trong Chúa Giê-su, phẩm giá con người được nâng cao. Họ không còn bị nô lệ cho bất cứ một thể chế nào hay hệ tư tưởng nào. Thiên Chúa đã giải thoát họ để họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và thờ phượng Người trong chân lý và sự thật.
Nối tiếp họat động cứu thế của Chúa Giê-su, Hội Thánh không ngừng loan báo tin vui cứu độ bằng lời, bằng tình yêu với những họat động trợ giúp cụ thể, nhất là bằng chính mạng sống của mình.
Ngày nay, theo định kỳ 25 năm và những dịp đặc biệt, Hội Thánh mở Năm Thánh hầu giúp dân Chúa ý thức sâu sắc thời gian thánh là thời gian hồng ân Thiên Chúa ban cho con người để họ thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, sống tình hiệp nhất yêu thương và hiệp thông huynh đệ trong lòng Hội Thánh và thế giới, và nhất là tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống sống động nơi Chúa Giê-su Cứu Thế.
Hội Thánh đang đồng hành với nhân nhân loại đây đó vẫn còn nhiều vấn nạn về phận con người: Con người hiện diện trên đời để làm gì? Sau khi chết con người đi về đâu? Đâu là con đường giải thoát?... Tự sức con người, những câu hỏi này mãi mãi chỉ là vấn nạn. Do đó, Hội Thánh mang nơi mình sứ vụ làm chứng cho niềm tin, trở nên trung gian để muôn người tìm đến với Chúa Giê-su, đón nhận lời của Người hầu khám phá lẽ sống cho đời mình.
Tuyên ngôn của tân nguyên thủ quốc gia là những thiện chí giúp ích cho đất nước an bình thịnh vượng.
Tuy nhiên,giữa lý thuyết và thực tế luôn có khoảng cách.
Trong khi đồng hành với cuộc đời, người tín hữu chọn bước theo Chúa Giê-su, tin Người là con đường là sự thật và là sự sống, "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).
60. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 21 tháng 1 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và "phó tướng" Biden đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh "bộ đôi quyền lực" này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này. Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden. (Antoine Nguyễn).
Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.
Tại quê hương Nazaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
Trước đó ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: "Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11,4-5). Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội...Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45).(x. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).
Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.
1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
"Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố...". Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã "bị giam cầm" nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.
Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác.
Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" (Lc 2,40); "ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu "được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy". Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc "xức dầu", được tấn phong làm "Đấng được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.
3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu xác định: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe." Trải suốt Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là "ngày hôm nay" vào lúc Người tại thế, mà còn là "ngày hôm nay" của Giáo Hội nữa.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:"Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ" (Lumen Gentium, 8). Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là "sự thật giải thoát" (Ga 8,32).
"Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương". (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
61. Tiếp nối sứ vụ - Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Loan báo Tin Mừng
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro).
Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay. Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo. Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết. Sở dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu. Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu. Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ. “Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Đi công bố
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
- Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.
- Cho người mù biết họ được sáng mắt.
- Trả tự do cho người bị áp bức.
- Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không "mù" một cách nào đó? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
62. Đường nẻo Chúa
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói của tiên tri Isaia, mà thánh Luca đã nhắc lại qua đoạn Tin mừng hôm nay:
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được rằng: tư tưởng và đường nẻo của Chúa thật khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Chúa cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của chúng ta bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường đánh giá người khác qua những biểu hiện bên ngoài, dựa trên quyền lực và giàu sang. Đúng thế, người có tiền thì được yêu mến:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khác tầm. Có nghĩa là ngèo mà ở giữa phố chợ cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở trên rừng trên núi, đèo heo hút gió cũng vẫn có kẻ chịu khó tìm đến. Hay: Thấy người sang bắt quàng làm họ. Miệng nhà giàu có gang có thép. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Còn người có quyền, thì được vị nể, trọng kính:
- Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng.
Bởi đó, người đời thường mơ ước được giàu sang và quyền thế. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đem Tin mừng đến cho những kẻ nghèo hèn. Trong bài giảng trên núi Ngài còn chúc phúc cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ và bị bách hại. Lần khác, Ngài cũng đã nguyện cầu:
- Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu không cho những người thông thái biết những sự mầu nhiệm này, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn.
Chúa không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm như vậy. Một Đavít nhỏ yếu với vóc dáng của một cậu bé chăn chiên, thế mà Chúa đã cho thắng được Golíat, lên ngai vàng và trở thành một vị vua hùng mạnh, dẫn đưa dân Do Thái tời một thời đại hoàng kim. Một Maria khiêm tốn với thân phận của một nữ tì, thế mà Chúa đã chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và khi Chúa đến, thì ai là những người đầu tiên được diễm phúc đón nhận tin mừng giáng sinh, nếu không phải là những mục đồng, những kẻ chăn chiên vất vả nghèo túng. Rồi những môn đệ được Chúa mời gọi để cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Phúc âm là ai nếu không phải là những bác tuyền chài quê mùa và dốt nát.
Chính Chúa cũng vậy. Ngài không đến với binh đội hùng hậu, nhưng đến dưới vóc dáng của một hài nhi bé nhỏ, nghèo túng, không một mái nhà ẩn náu. Vậy tại sao Ngài lại dành Tin mừng và phúc lành cho những kẻ khó nghèo và dành yêu thương cho những người bất hạnh?
Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng hôm nay tôi chỉ xin đưa ra một lý do rất đơn giản mà thôi. Sở dĩ Chúa hành động như vậy là vì người giàu sang và quyền thế thường hay cậy dựa vào sức riêng của mình, nên rất dễ sinh ra kiêu căng. Mà đã kiêu căng, thì chắc chắn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong Kinh thánh, Chúa đã phán:
- Ta chống lại kẻ kiêu căng.
Hay trong lời kinh ngợi khen, Mẹ Maria cũng đã nói:
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao nhưng người phận nhỏ.
Vì thế, thánh Gregorio đã nói:
- Kiêu căng là dấu chỉ rõ ràng nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Trái lại, người nghèo hèn và bất hạnh sẽ cảm thấy mình yếu đuối, thấp hèn và thiếu thốn, nên dễ đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận Tin mừng và được Chúa chúc phúc.
Muốn bỏ một vật gì vào túi, thì chiếc túi phải rỗng. Nếu túi đã đầy thì làm sao nhét vào cho được. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu còn chỗ cho Chúa nữa. Trong khi đó người nghèo hèn và bất hạnh luôn cảm thấy tâm hồn mình trống để cho tình thương của Chúa hoạt động.
Từ đó, chúng ta đi tới kết luận: người nào coi mình chỉ là một con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Trái lại, kẻ nào coi mình là vô cùng, thì trước mặt Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
63. Lời Chúa
Tác giả tập sách có tựa đề: “Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời” kể lại cuộc mạo hiểm của những người lính Hoàng Gia Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX đi chiếm thuộc địa bên Nam Mỹ, tại vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia Pe-ru.
Một người trong nhóm đem tặng cho viên tù trưởng trong bộ lạc da đỏ một quyển Kinh Thánh và nói: Đây là quyển sách Thánh, nơi Thiên Chúa nói với con người và ban cho con, những ai lắng nghe được lời Ngài, một sức mạnh phi thường vượt qua được mọi gian nan thử thách và được hạnh phúc trường sinh.
Đón nhận quyển sách,viên tù trưởng kia vui mừng vội mau tìm nơi vắng đưa sách lên tai để lắng nghe Thiên Chúa nói. Nhưng thật là vôi ích, ông cầm lên, đưa xuống đủ cách mà im lặng vẫn hoàn im lặng, không có tiếng Thiên Chúa nào phán cả. Bực mình, viên tù trưởng ném sách đi và lẩm bẩm: Ta bị gạt, ta đã bị gạt.
Có thể ta sẽ cười thái độ ngớ ngẩn của cả hai người, người cho cũng như kẻ nhận. Không chỉ cầm quyển sách Kinh Thánh trong tay là nghe được Lời Chúa. Người cho cũng như người nhận cần phải thực thi một vài điều kiện để giúp cho mình và kẻ khác được nghe Lời Chúa. Bài Phúc Âm của Chúa Nhật III Mùa thường niên được trích từ Phúc Âm thánh Luca, tác giả đã cẩn thận ghi lại như sau:
Kinh thánh là sách bán chạy nhất thế giới, vượt mọi kỷ lục từ xưa đến nay. Kinh thánh được ham mộ vì đó là một cuốn sách chứa đựng kho tàng Lời Chúa, chứa đựng đầy dẫy những bí quyết giúp con người sống ơn gọi làm người của mình, đứng đắn và hạnh phúc. Biết lắng nghe lời Chúa và để cho lời Chúa thấm nhập tấm lòng rồi đem ra thực hiện trong cuộc sống của mình là con người thành công trong nỗ lực sống ơn gọi làm người hạnh phúc. Cũng chính vì thế nên Mẹ Giáo Hội cống hiến Lời Chúa cho tín hữu qua các bài đọc phụng vụ mỗi ngày. Từ sau Công Đồng Vaticano II đến nay, các bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật được phân chia như sau: Hãy Ra Khơi
Chu kỳ A theo Phúc Âm thánh Matthêu.
Chu kỳ B theo Phúc Âm thánh Marcô.
Chu kỳ C theo Phúc Âm thánh Luca.
Còn Tin Mừng theo thánh Gioan thì đặc biệt dùng cho mùa Phục Sinh và mùa phụng vụ khác.
Trong số bốn thánh sử, thánh Luca là người có óc sử gia hơn cả. Trong những câu mở đầu đọan Tin Mừng hôm nay, thánh sử cho biết ngài đã sưu tầm, tra cứu kỹ lưỡng các loại tài liệu truyền miệng cũng như viết tay để viết ra sách Tin mừng.
Là người gốc Siry Antiôkia, thánh sử Luca không thuộc Do Thái giáo. Nghề bác sĩ y khoa khiến thánh sử đặc biệt chú ý đến các phép lạ chữa lành bệnh tật. Thánh sử đã từng là môn đệ của các Tông đồ, bạn đồng hành và cộng sự viên của thánh Phaolô. Vì là người ngoài Do Thái giáo theo Kitô giáo, thánh Luca chú ý viết Tin Mừng cho anh chị em không Do Thái giáo, nên hay cắt nghĩa các tập tục Do Thái để giúp họ hiểu dễ dàng hơn. Thánh sử không chủ ý viết lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu mà chỉ kể lại chứng tích lịch sử. Chứng tích lịch sử của Thánh sử Luca nhấn mạnh đến mấy mấu điểm thần học chính yếu sau đây:
Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho những người ngoài Do Thái thấy con đường ơn cứu độ. Ngài thuyết giáo lưu động nhưng là hiện thân tình yêu thương Thiên Chúa có đối với loài người, đặc biệt đối với những người tội lỗi, yếu đau, bé nhỏ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt ngoài lề xã hội, không tiếng nói, không quyền lợi, bị áp bức, chèn ép, bóc lột và đối xử tàn tệ nhất. Vì thế, ở đâu có bước chân và sự hiện diện của Ngài là ở đó bừng lên ánh sáng cứu độ, niềm an vui và tình yêu thương hòa hợp.
Chúa Giêsu cống hiến ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, không trừ một ai và ngay trong thời điểm của hiện tại, ngày hôm nay trong lúc này và ở đây. Qua Ngài, Thiên Chúa đến thăm và cứu rỗi con người, thế nên mọi người cần phải biết tỉnh thức, chăm chú lắng nghe, nhìn xem và nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu, đón nhận Ngài và sống theo Ngài, vượt qua cái chết để đạt đến cuộc sống Phục Sinh vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn trao ban và dành để cho con người.
Nơi phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa thường niên chúng ta thấy thánh sử Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu. Ngài chịu phép thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô tại sông Giócđan và Thánh Thần Thiên Chúa đã hiện diện trên Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thánh Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn Chúa Giêsu và giờ đây trong bài giảng đầu tiên tại thành Nagiaréth, Chúa Giêsu cũng được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đây là ngày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho những người đồng hương của Ngài khi Ngài nói: “Đoạn Sách Thánh hôm nay đã được ứng nghiệm”. Chúa Giêsu muốn nói rằng, ơn cứu độc được Thiên Chúa hứa ban ngày xưa, hôm nay hiện diện trong con người của Ngài. Sự hiện diện của ơn cứu rỗi đó không theo quan niệm và tiêu chuẩn của loài người, nhưng là theo chương trình của Thiên Chúa. Ơn cứu rỗi đó nằm trên một bình diện cao cả hơn, rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó không chỉ hạn hẹp trong một số người hay một dân tộc, lại càng không phải là sự giải phóng về chính trị, kinh tế, văn hóa cấp thời trần thế. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem lại cho con người được dành để cho tất cả mọi người tin và chấp nhận Tin Mừng của Ngài, không phân biệt giai cấp, màu da và chủng tộc.
64. Niềm vui
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật lại sứ vụ rao giảng của Đức Kitô tại hội đường Nagiaréth, chính Đức Kitô đã công bố cho mọi người biết “niềm vui cứu độ” đã khởi sự. Vì “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh em vừa nghe”.
Với lời khẳng định này, Đức Kitô chứng tỏ cho thấy Ngài chính là “niềm vui cứu độ”., mà chúng ta là những Kitô hữu đã thực sự tin và đón nhận niềm vui đó chưa? Chúng ta đã làm gì cho niềm vui ấy được triển nở trong thế giới hôm nay?
1. Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ
Câu chuyện tư tế Esdras đã nỗ lực canh tân đời sống dân Chúa và củng cố giao ước cũ. Cũng như việc ông đứng đọc Luật Môsê trước mặt con cái Israel, trong bài đọc 1. Đó chỉ là hình ảnh báo trước việc Đức Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Chính Đức Kitô mới là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, Ngài đến để hoàn tất và kiện toàn Lề luật, bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh, Ngài thiết lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người.
Hôm nay tại hội đường, Đức Kitô đã khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà tiên tri Isaia đã loan báo.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo luật ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Đức Kitô đã tự giới thiệu mình là vị ngôn sứ phải đến loan báo “niềm vui cứu độ”. Sự hiện diện của Ngài đã khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của năm hồng ấn cứu độ.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ngay trong lời của Đức Kitô, nhờ Thánh Thần mà Lời đã trở thành hiện thực. Người nghèo được ưu ái, kẻ tù đầy được giải phóng, người mù được xem thấy. Những điều này rõ ràng nói lên tình yêu thương của Chúa dành cho những kẻ biết đón nhận Đức Kitô bằng một lòng tin. Đức Kitô đến tái lập trật tự và mặc cho thế giới này một khuôn mặt mới của công bình tình thương và an vui. Cho nên, việc tuyên xưng niềm tin nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ, là chúng ta đón nhận chính niềm vui cứu độ ngay giữa những gì là tang thương và bi đát.
2. Đón nhận niềm vui cứu độ
Trong Tông thư “Khởi đầu thiên niên kỷ mới”, Đức Gioan Phaolô II mở ra cho chúng ta một hướng đi tiến vào thiên niên kỷ mới. Đó là “Gặp gỡ Đức Kitô, chiêm ngắm Đức Kitô, bước theo Đức Kitô và làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô”.
Đức Kitô đã đem “niềm vui cứu độ” đến thế gian. Ngài biến những đau buồn thành niêm vui nội giới cho chúng ta… Một niềm vui trọn hảo không gì có thể làm lu mờ đi được. Niềm vui đó không chỉ ấp ủ trong lòng mà phải được tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan kết bởi những việc làm lành thánh.
Như Thánh Phaolô luôn miệng nhắn nhủ tín hữu Philipphê rằng “hãy vui lên”, mặc dù chính ông đang bị cầm tù và Giáo Hội đang rơi vào cảnh bị bách hại.
Để được niềm vui đích thực như Thánh Phaolô đã lãnh nhận nơi Đức Kitô. Chúng ta phải biết thay đổi cách sống bằng tình yêu thương, công bằng bác ái. Khi đó chúng ta mới thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô, chiêm ngắm Ngài và bước theo Ngài bằng chính những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Bằng không, bóng tối của tội lỗi của ích kỷ sẽ bao phủ cõi lòng, cho dù bên ngoài chúng ta vẫn tỏ ra vui cười, nhưng bên trong sẽ không có được niềm vui bình an. Vì chỉ có Chúa mới là tình yêu và là “niềm vui cứu độ” cho chúng ta, “Đức Kitô là đường là sự thật và là sự sống”… Khi chúng ta có Chúa trong lòng rồi, chính niềm vui sẽ thúc đẩy và biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô bằng việc đem Tin Mừng Cứu độ đến với những người anh em vẫn chưa biết Chúa. Đó chính là cách chúng ta trao ban “niềm vui cứu độ” là chính Đức Kitô…
3. Trao ban niềm vui cứu độ.
Vì chỉ có một Tin Mừng Cứu độ duy nhất cho mọi người mọi thời. Đó là Đức Kitô, trong Ngài Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn biểu lộ “niềm vui cứu độ” cho nhân loại. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà công cuộc cứu độ của Chúa vẫn đang sinh hoa trái trong Giáo Hội và qua Giáo Hội từ bây giờ cho đến muôn đời.
Khi chúng ta lãnh nhận các bí tích là chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là hệ quả của “niềm vui cứu độ” mà chính Đức Kitô đã đem đến để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Nhờ lời rao giảng và giáo huấn của Giáo hội, Đức Kitô tiếp tục thông truyền ánh sáng của Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.
Một trong những mẫu gương mà chúng ta có thể noi theo chính là Mẹ Maria, khi vừa có trong lòng, Mẹ đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình bà Isave. Chúng ta là những kitô hữu đã được lãnh nhận hồng ân Cứu độ trong ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng phải tiếp tục đem “niềm vui cứu độ” đến cho những anh chị em vẫn chưa biết Chúa, bằng việc rao giảng Tim Mừng và qua chính đời sống thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ước chi sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chân nhận và xá tín rằng “Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ” duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi…Nhờ Ngài mà tâm hồn mọi người được hoan lạc va bình an, nếu biết mở lòng ra đón nhận thần lương nuôi hồn và mở đôi tay ra để trao ban niềm vui cứu độc cho những ai còn ngồi trong bóng đêm của tội lôi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết mở lòng đón nhận “niềm vui cứu độ”, để rồi niềm vui đó không ngừng triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
65. Sứ mạng
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hômnay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được b iết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi…Ai đã khai hóa cho thế giới “Man di” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
66. Những bàn tay Kitô giáo
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương và được chở đến một nhà thương của các nhà truyền giáo. Sau một vài tuần tịnh dưỡng và được săn sóc đầy đủ, tên cướp đã được phục hồi hoàn toàn. Tên cướp rất biết ơn các nhà truyền giáo và tự hứa là sẽ không bao giờ ăn cướp của bất cứ Kitô hữu nào. Lời hứa của tên cướp đã được đồn ra và hễ ai gặp tên cướp ấy đều thú rằng, "Tôi là Kitô hữu." Như thế, tên cướp đã gặp vấn đề và hắn thắc mắc làm sao biết được ai là Kitô hữu và ai không phải là Kitô hữu. Hắn đã trở lại nhà thương và hỏi các nhà truyền giáo. Các nhà truyền giáo đã nói với hắn rằng nếu ai là Kitô hữu thì tất nhiên phải biết Kinh Lạy Cha và 10 Giới Răn. Từ hôm đó, ai tự xưng với hắn là Kitô hữu thì đều phải đọc Kinh Lạy Cha và Thập Giới.
Nếu mọi người đang hiện diện nơi đây được hỏi để chứng minh đức tin của mình bằng Kinh Lạy Cha và Thập Giới, tôi không biết có bao nhiêu người sẽ thi đậu, tuy nhiên tôi cho rằng đó không hẳn là bài thi của đức tin.
Bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha, Thập Giới, và Kinh Tin Kính, và những bài Thánh Vịnh, thậm chí cả Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, tất cả những lời kinh này không đủ để trả lời cho câu hỏi, "Bạn có phải là Kitô hữu không?" Nói như vậy có nghĩa là "Bạn có biết khuôn đúc hóa chính mình theo cuộc sống của Chúa Kitô không? Bạn có cố gắng để sống đời Kitô hữu không? Bạn có trở nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu hay bạn là người xa lạ đối với Thiên Chúa?
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca kể lại cho chúng ta về cuộc cấm phòng của Chúa Giêsu trong hoang địa và bị cám dỗ do ma quỉ, Ngài "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh" (Lc 4:14-15). Chúa Giêsu bắt đầu thu hút dân chúng đến với Ngài để nghe giảng dạy. Sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng một cách tốt đẹp. "Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét", Thánh Luca tiếp, "là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát" (Lc 4:16). Ngài đứng trước dân chúng và đọc một đoạn sách trong sách Isaiah: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4:18).
Tất cả những con mắt trong hội đường đều tập trung vào Chúa Giêsu, như Thánh Luca đã kể lại. Thêm một lần nữa, Chúa Giêsu lại gây thêm một ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. Sau đó Ngài bắt đầu nói với dân chúng, "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." Nói một cách khác, "Đoạn văn vừa rồi trích từ trong sách Isia thật ra là nói về tôi. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, và tôi là người được xức dầu để rao giảng cho người nghèo khổ, mùa lòa, và trả tự do cho người bị áp bức. Đi xa hơn một chút nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4:19). Nhưng những người vừa mới khen Chúa Giêsu họ đã trở thành một đám côn đồ muốn giết chết Ngài.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta phải có thái độ giống như của Chúa Kitô. Nói một cách khác, hiểu biết Chúa Kitô đem Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa đến và giải thoát cho nhân loại vẫn chưa đủ. Chúng ta còn phải biết đem Tin Mừng đó thấm nhập vào con người của mình và để cho nó sinh hoa kết quả. Qua đó, chúng ta biết cử xử làm sao với chính mình và với người khác giống như Chúa Kitô.
Thái độ này được diễn tả cách sống động qua một câu truyện nhỏ "Bàn Tay" của tác giả Sylvia Sunderlin.
Vào ngày mừng sinh nhật thứ 100 của người bố chồng, tôi quì bên bố và nắm lấy bàn tay nhợt nhạt và yếu ớt của ông. Bố chồng tôi nghiêng mình về phía tai tôi và nói nhẹ, "Con có một đôi bàn tay tuyệt vời." Những lời khen đó xem như là quá đáng. Tôi vẫn thường cảm thấy xấu hổ với bàn tay của tôi bởi vì nó xấu quá. Các khớp đốt ngón tay thì không còn xinh xắn, ngón tay cái thì bị cong sang một bên, còn ngón trỏ thì bị một cái lồi lên nữa. Nghe bố chồng tôi khen như vậy, tôi thật cảm động và chỉ còn biết thì thào, "Cám ơn bố!"
Những giây phút đó còn vang vọng trong tôi. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bàn tay mình, và suy nghĩ rằng bố chồng mình thật hiền lành. Nhưng có lẽ ông đã nói sai... Tuy nhiên, dần dần, tôi bắt đầu quan sát bàn tay của tôi kỹ lưỡng hơn. Tôi bắt đầu khám phá ra những việc nó đang làm.
Nó đang cầm cây bút chì và kim chỉ, cái chổi và cái xẻng, cuốn sách và cây vợt tenis. Trộn bột pha bánh và đốt lên những ngọn nến sinh nhật. Các ngón tay ấn lên ấn xuống trên phím đàn dương cầm và bàn chữ, sử dụng cây cọ để vẽ và chiếc bàn ủi. Bàn tay này đã dùng để chải tóc cho con cái, gạt đi những dòng nước mắt, băng bó vết thương, và vỗ vễ những ai sầu khổ...
Rồi một ngày nọ, tôi nhìn bày tay của tôi và nhận ra chúng thật đẹp đẽ. Bố chồng tôi đã giúp cho tôi nhìn ra cái đẹp mà Thiên Chúa đã muốn tôi phải nhìn: các món quà quí giá từ Ngài, đã được ban cho tôi để phục vụ!
Thái độ của các bạn phải là thái độ của Chúa Kitô để người khác có thể nhìn thấy bàn tay của các bạn đẹp đẽ, là những bàn tay Kitô giáo, được ban tặng để phục vụ.
67. Trở về – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Đức Giêsu trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4:14a).
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: “Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?” Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: “Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên.”
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: “Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế.”
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất “chảy sữa và mật ong” nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là “việc vàn của xác thịt.”
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: “Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí.” Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói “đời là một cuộc trở về.” Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: “Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?”
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện “Trở Về” rất đáng suy tư. Số là anh Jim O’Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O’Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
68. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
(c. 14) Thánh Luca dùng câu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" để giúp người đọc hiểu rằng đoạn tiên tri Isaiah trong câu 18 ám chỉ chính Đức Giêsu (Thần Khí Chúa ngự trên tôị..)
(c. 15) Hôị đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Luật thời đó chép rằng nơi nào có mười gia đình Do Thái trở lên thì phải có một hội đường. Nghi thức tôn giáo tại hội đường thường có ba phần:
ạ Dâng lời cầu nguyện.
b. Một vài giáo dân đứng lên đọc các đoạn Kinh Thánh. Có lẽ Đức Giêsu đã được chọn trước để đọc đoạn Kinh Thánh trong ngày đó.
c. Phần giảng dạy do một người thông thạo Kinh Thánh trình bày, và sau đó là bàn luận.
(c.18) Đức Giêsu dùng đoạn Isaia để nói vềcông cuộc cứu độ của Ngài. Đoạn trích dẫn này được viết theo lối hành văn thời đó:
ạ loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
b. kẻ giam cầm được tha
c. người mù được sáng mắt
b'. trả tự do cho người bị áp bức
á. công bố năm hồng ân của Chúa
Trong lối hành văn cổ này người đọc thấy câu a và á giống nhau, câu b và b' giống nhau. Nhờ đó câu c được làm nổi bật lên thành điểm chính trong năm câu.
(c.19) Cứ cách 50 năm, người Do Thái tổ chức 1 năm hồng ân. Trong năm này, các nô lệ được thả, và các món nợ được tha. Những người nghèo khổ đều trông chờ năm hồng ân này. Đức Giêsu đến, mang ý nghĩa mới cho năm hồng ân: tha thứ và cứu thoát con người khỏi xiềng xích của tội lỗi. Năm 2000 sắp tới được Giáo Hội chọn là năm hồng ân.
(c. 20) Đọc xong Đức Giêsu ngồi xuống. Người đọc có cảm tưởng là Ngài đã làm xong việc. Thực ra, lúc đó Đức Giêsu mới khởi sự bài giảng. Những người giảng dạy (thí dụ như các rabbi) thường ngồi xuống trước khi bắt đầu giảng.
Một Điểm Chính
Thiên Chúa luôn trung thành với dân Ngài. Ngài đã hứa sẽ cứu thoát, và mang ánh sáng hiểu biết đến để mở mắt cho chúng ta là những kẻ mù lòa. Lời hứa đó đã được Đức Giêsu thực hiện.
Suy Niệm
Đối với tôi, thế nào là tự do? Trong tôn giáo của tôi, tôi đang tự do, hay đang bị giam cầm như thế nào?
Thế nào là mù lòa? Tôi nhắm mắt vài phút và thử xem tôi có thể nhớ rõ các màu sắc quanh tôi, những khuôn mặt thân quen? Tôi xin Chúa Giêsu chữa những mù lòa của tâm hồn tôi, xin cho tôi được ánh sáng và hiểu biết mới.
69. Đức Giêsu đến giải phóng con người - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến cuộc sống đời thường của con người?
2. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao trùm ấy không? Tại sao?
3. Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có phải là thái độ đúng đắn không?
Suy tư gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).
Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ, hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả - cũng là một ngôn sứ - ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.
2. Đức Giêsu đến để giải phóng con người toàn diện
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.
Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu là cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn mà còn có 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người - đặc biệt những kẻ nghèo khổ - được sống và chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, là con cái và là hình ảnh của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu phải bảo vệ quyền sống cho ra người
Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng - là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ được sống cho xứng với phẩm giá con người - thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»
4. Phải tranh đấu cho công lý
Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống cho ra người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng.
Muốn cho mọi người đang sống được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền sống cho ra người một cách cũng hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người - mà trước hết là chúng ta - sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
5. Tranh đấu như thế có hợp với tinh thần Kitô hữu không?
Việc tranh đấu cho quyền làm người và sống cho ra người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ bỏ ý muốn làm ngôn sứ!
Cũng tương tự như các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình.
70. Sống đức tin hiện tại - Lm Trần Bình Trọng
Theo truyền thống tại giáo đường Do thái, thì trong việc thờ phượng, người ta thường cho đọc một bài Sách Luật, một bài sách tiên tri, theo sau là bài giảng. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được mời vừa làm người đọc sách thánh, vừa là người diễn giảng. Chúa chọn bài trích sách tiên tri Isaia: “Thánh thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18). Rồi Người ban lời huấn dụ, những lời đơn giản, nhưng quan hệ, những lời vượt trí hiểu của người nghe. Phúc âm thuật lại: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người (Lc 4:20). Rồi Người gấp sách lại nói: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh qúi vị vừa nghe (Lc 4:21).
Thực ra thì không phải chỉ có đoạn Kinh Thánh này mới được ứng nghiệm, mà tất cả toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Người đã hoàn tất mọi điều viết trong Kinh Thánh Cựu Ước. Bằng việc tỏ ra là Người ứng nghiệm lời Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa Giêsu biểu lộ cái căn tính thực sự của Người. Người biết rõ Người là AI, và tại sao Người đến trong thế gian.
Cho tới lúc này, người Do thái tự vinh quang hoá cái dĩ vãng của họ. Họ được nhắc nhở họ là dòng dõi được lựa chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện và dân riêng của Chúa. Họ được dạy bảo về Apraham mà họ coi là tổ phụ. Họ lắng nghe những câu chuyện về Môisê, người đã đưa họ thoát khỏi vòng nô lệ bên Ai-cập, vượt qua biển đỏ. Họ học biết về vua Solomon đã xây dựng đền thờ Giêrusalem đồ sộ và nguy nga, và làm sao Nơ-khe-mi-a đi tiên phong trong việc tái thiết đền thờ sau cuộc lưu đầy bên xứ Babylon.
Cũng vào thời kỳ đó, người Do thái mơ tưởng về tương lai của họ. Điều họ chú tâm và tầm quan trọng của họ trong lịch sử xem ra nằm trong tương lai. Họ hướng về cái ngày tái thiết vương quốc của họ. Vì thế chính Đấng cứu thế đang ở giữa họ, nhưng họ không nhìn thấy, hay không chấp nhận. Cho nên họ vẫn mong đợi vị cứu tinh khác.
Những cái tự hào của người Do thái cổ xưa một phần nào cũng giống những cái tự hào riêng của mỗi người chúng ta. Ta có thể tự hào là gia đình tôi theo đạo gốc, gia đình tôi có người làm linh mục, làm giám mục, làm bà sơ. Tôi đã được chụp hình và bắt tay với hồng y nọ kia, ngay cả với đức giáo hoàng. Tổ tiên tôi là thánh tử đạo nọ, thánh tử đạo kia. Quê tôi có nhà thờ lớn được kiến trúc theo kiểu này kiểu nọ. Những cái tự hào đó cũng là tốt bao lâu giúp cho mình sống theo mẫu gương đạo hạnh của tiền nhân. Tuy nhiên những cái tự hào đó có thể khiến cho mình trở nên tự mãn và dựa thế, không muốn tiến thân trên cuộc hành trình đức tin và sống đạo. Ta để cho mình sống như cây tầm gửi. Cái việc tổ tiên ta là người thế nọ thế kia, hay làm được chuyện nọ việc kia là một chuyện. Còn cái việc chính ta có sống đạo và thực thi đức tin hay không lại là chuyện khác.
Trong khi ta đang sống trong thời gian ở giữa, giữa cái thời gian Chúa Cứu Thế đã đến trong lịch sử loài người và cái thời gian Người sẽ đến để kết thúc lịch sử loài ngưòi, ta không được ngồi đó với thái độ tự mãn hoặc thờ ơ lãnh đạm. Ta phải sống cái đức tin hiện tại ở đây và bây giờ với khả năng và phưong tiện có thể. Nếu ta coi việc Đấng Cứu Thế đã đến như một biến cố thuộc dĩ vãng, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại, là ta để cho đức tin dựa vào quá vãng. Đức tin của ta không phải là đức tin dựa trên quá vãng hay hướng về tương lai. Nhiều người trong chúng ta cũng đặt đức tin vào tương lai. Họ tự nhủ mình: Ngày nào đó họ sẽ đi xưng tội để làm hoà với Chúa, họ sẽ sống đạo hạnh hơn; họ sẽ làm lại cuộc đời, sẽ sống đạo hạnh hơn. Và cái ngày đó không bao giờ đến, hay đến quá trễ vì bất thình lình họ đã trở thành người thiên cổ.
71. Đức Giêsu tại Nadarét – Lm. PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại các chặng của TM Mc.
Lc đặt phần 1 của Tin Mừng dưới dấu chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào (Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các hoạt cảnh theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật Galilê. Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê “trong quyền năng Thánh Thần” (4,14). Ở 4,44, ngài thay thế Galilê bằng Giuđê, nhưng để nói về toàn lãnh thổ của người Do Thái; đứng đầu các thành phố và làng mạc được loan báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê, nơi có vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31; 7,1).
Vậy, chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn quan của Lc ở đoạn này. Chuyển động không nằm trong việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc rao giảng về Nước Trời: Bằng việc hoán chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy rằng con người và sứ mạng của Đức Giêsu mới là ưu tiên (Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách Bài đọc gộp vào đây hai bản văn xa nhau ba chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý hướng của sự ghép nối này; có lẽ các chuyên viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai bản văn “mở đầu”: mở đầu Tin Mừng theo Lc (1,1-4) và khởi đầu việc rao giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2) Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3) Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
a) Thăm viếng hội đường Nadarét (c. 16),
b) Đọc Kinh Thánh (cc. 17-20),
c) Giảng dạy (c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
- Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt 4,13), nhưng lại không gọi là “quê hương/quê quán” của Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7), nhất là bởi vì đối với Lc, “quê hương” của Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
- đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu giảng dạy dựa trên Kinh Thánh. Ta có thể hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã được ông trưởng hội đường (archisynagôgos) mời đọc và trình bày mộtbản văn Kinh Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ đầu tiên, việc cử hành ngày sabát tại hội đường dường như gồm có việc hát một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn] (hoặc shơmôneh esrêh = “Mười Tám [lời chúc lành]” và đọc một seder (quyển nghi thức) hay một pârâshâh trích từ tôrah (Lề Luật = Ngũ Thư) và mộtđoạn các Ngôn sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó là bài diễn giải các bản văn Kinh Thánh đã đọc. Cuộc cử hành chấm dứt bằng lời chúc lành của ông trưởng hội đường và lời chúc lành tư tế (x. Ds 6,24-26).
Tác giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah, nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ quan tâm hơn đến việc ứng nghiệm các lời sấm Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu Ước theo quan điểm Kitô học.
- cuốn sách ngôn sứ Isaia (17): Người ta yêu cầu Đức Giêsu đọc mộtđoạn Ngôn sứ bằng tiếng Hípri. Tác giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri ra tiếng Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ không còn hiểu tiếng Hípri nữa. Sự kiện người ta “trao cho” Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho hiểu rằng người ta quy định phải đọc một đoạn văn Isaia, tức là có mộtchu kỳ các bài đọc Ngôn sứ cũng như các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường như người đọc có thể chọn (x. câu 17b).
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi (18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là mộtđoạn tổng hợp Is 61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai câu bị bỏ là Is 61,1c ở cuối Lc 4,18 (“băng bó những tấm lòng tan nát”) và Is 61,2b ở cuối Lc 4,19 (“một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta”). Bỏ Is 61,1c thì không có hậu quả gì đáng kể, nhưng bỏ Is 61,2b là cố tình bỏ đi mộtphương diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
- vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy là chính Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng Mêsia như mộtchất dầu xức cho Đấng Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ mạng cứu thế.
- để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là “để loan báo Tin Mừng” là mục tiêu của “Chúa đã xức dầu” hay là mục tiêu của “Người đã sai tôi”. Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, “he has sent me to preach good news to the poor” (dịch sát là “to announce good news to the poor he sent me”).
- người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng hội đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là “các kỳ mục” (prebyteroi, Lc 7,3) và “các người giúp việc” (“người cán sự”, NTT) (hypêretês, Cv 13,5) giống như “ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng thánh”.
- ngồi xuống (20): Khi đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình bày ý nghĩa bản văn (logos paraklêseôs, Cv 13,15), người ta ngồi.
- chăm chú nhìn Người (20): Động từ atenizein là động từ Lc ưa chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9; 23,1). Thường động từ này diễn tả sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của bản văn này).
- Hôm nay (21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng sinh]; 3,22 [phép Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33; 19,5.9 [Dakêu]; 23,43 [người trộm lành]): Đây là từ ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
- đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này tương ứng với kiểu nói “thời kỳ đã mãn của Mc 1,15. Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta biết về phương pháp làm việc của tác giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết về Đức Giêsu từ bao thế hệ. Các thông tin được những con người có lương tâm đánh giá, cân nhắc rồi viết ra. Như thế, đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang đường hoặc những chuyện ngụ ngôn do tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa trên các sự kiện lịch sử được đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu ra chứ không chịu phủ nhận các sự kiện ấy.
* Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng mộttóm tắt; còn chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa lên phía trước (3,19-20). Đoạn tóm tắt này cho mộtcái nhìn tổng quát trên sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê (những tóm tắt: 4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy đoạn tóm này không nhắc tới nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa hay lời lêu gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là “quyền năng Thần Khí” (c. 14). (b) Hoạt động của Đức Giêsu được mô tả trước tiên như mộtviệc “giảng dạy” (c. 15); ta hiểu Đức Giêsu “giảng dạy” dưới quyền năng Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn được Lc nhấn mạnh nơi câu “được mọi người tôn vinh”.
* Thăm viếng Nadarét (4,16-21)
Sau đó, Đức Giêsu “đến Nadara, là nơi Người sinh trưởng”. Theo thói quen, Người đi vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc thời thơ ấu của Đức Giêsu (x. 2,39-40.51-52). Thành này được ngài gọi mộtlần duy nhất ở đây là Nadara, nhưng không được gọi là “quê hương” của Đức Giêsu, có thể vì Đức Giêsu không chào đời tại đây, hoặc đúng hơn, bởi vì ngài coi cả đất Israel là “quê hương” Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc cử hành, Người đứng lên để đọc Sách Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để đọc mộtđoạn sách các Ngôn sứ. Dường như vào thời Đức Giêsu, người ta không quy định rõ mộtchương trình đọc các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi lại là Is 61,1-2 theo Bản LXX, với một vài sửa đổi.
Đối với các thính giả của Đức Giêsu, bản văn này là lời của mộtngôn sứ, mà họ có thể nói là Người Tôi tớ Đức Chúa với bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo mộtnăm hồng ân có thể so sánh với năm đại xá theo luật Môsê (Lv 25,8-17), nhưng ở đây không phải là con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can thiệp với ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải là việc tha hoàn toàn các món nợ giữa người Do Thái với nhau, mà là mộtơn cứu độ tuyệt vời thuộc về thời cánh chung, cũng có thể gọi là Nước Thiên Chúa, mộtthời đại được nồng nhiệt chờ mong.
Nghe đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên trong các con tim, và tất cả các thính giả của Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải bản văn đầy hứa hẹn ấy.
“Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»” (4,21). Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của bài giảng của Người. Người sẽ hiện tại hóa nơi bản thân Người nội dung của lời sấm Người vừa đọc. Khi làm như thế, Người đã xử sự như ngôn sứ.
Từ ngữ đầu tiên rất hệ trọng: sự hiện diện của Đức Giêsu chính là mộtgiai đoạn độc đáo trong thời gian cứu độ, được diễn tả bằng “hôm nay”. Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lấy Thánh Thần như mộtviệc xức dầu đã đưa lại cho Người phận vụ thánh thiêng là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là mộtMêsia như mộtvị vua trần thế; để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác định công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41) và chỉ mạc khải như thế cho riêng các môn đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu sức mạng, Người chỉ nhận mình là như vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh), và chắc chắn các đề tài cốt yếu của Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người nghèo, giải phóng những kẻ bị giam cầm và những người bị áp bức, cho người mù được thấy. Những từ ngữ này cho thấy Đức Giêsu chiếu cố đến những người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho thấy rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn, hứa ban sự giải phóng cho những người tội lỗi đang bị sự dữ khống chế, ban khả năng nhìn cho những ai sẽ đi đến với với đức tin (trong cách giải thích cái nhìn theo nghĩa “thiêng liêng” này, Đức Giêsu trung thành với tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố mộtnăm hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là đề tài truyền thống của các ngôn sứ liên quan đến Ngày của Đức Chúa, mộtngày vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Đức Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người có ám chỉ nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26; 9,26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn đến đến sứ mạng trần thế của Người, là “thời gian” ơn cứu độ được ban cho Israel; chính thời gian này được Người gọi là “năm hồng ân của Đức Chúa”, thời gian Thiên Chúa chiếu cố đến dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, “Nước Trời đã đến gần”, người ta có thể đi vào Nước Thiên Chúa nhờ sứ mạng của Đức Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân biệt thời gian hoạt động của Đức Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó xác định chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và các đòi hỏi của Người.
Tác giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này, Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và ngài cũng cho biết như thế (4,14-15; 4,23; x. Cv 1,8). Nhưng ngài vẫn muốn đặt truyện này vào ngày khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu và cho thấy chính Đức Giêsu xác định sứ mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu truyện đã xảy ra trong mộthội đường: đó là phương pháp của Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách thực hành của các nhà truyền giáo trong các xứ sở ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác giả muốn cho thấy rằng sứ điệp cứu độ được bao giờ cũng được ngỏ với người Do Thái trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết luận
Qua bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới thiệu chương trình hoạt động của Người: Người là Đấng Mêsia được giới thiệu ở phép rửa nay xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị áp bức; Người mang đến cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy chương trình của Thiên Chúa. Đối với Israel, sứ mạng trần thế của Người là thời gian ân sủng, mà họ phải tận dụng “hôm nay”. Nay không còn phải là những con người được tha các món nợ và tìm lại được tự do dân sự. Nay chính là Đức Chúa (Yhwh), thân hành đến nơi bản thân Đấng được xức dầu của Ngài, để tha nợ cho nhân loại và giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ sự dữ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự kiện Kitô giáo chủ yếu dựa trên can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cho thấy Kitô giáo khác mọi tôn giáo khác. Thiên Chúa chúng ta là mộtThiên Chúa của các sự kiện, những sự kiện thực hữu; Ngài không phải là mộtthần tượng hoặc mộttư tưởng thuần túy. Vị Thiên Chúa này lại rất quan tâm đến con người đến độ đi vào trong lịch sử cụ thể của con người. Chính vị Thiên Chúa này hôm nay vẫn đang kêu gọi chúng ta qua Đức Giêsu, con người cụ thể làng Nadarét.
2. Ngay từ đầu, Đức Giêsu liên kết hoạt động của Người với Kinh Thánh, với Lời Chúa. Người khẳng định mạnh mẽ rằng nhờ Người, Thiên Chúa hoàn tất các lời Ngài đã hứa. Như thế, ngay từ đầu đã có câu trả lời về uy quyền của Đức Giêsu, nghĩa là về quyền bính đang đứng đàng sau Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Đức Giêsu có sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Người cũng khẳng định rằng Thiên Chúa đã sai phái Người. Lời khẳng định này có giá trị cho Người hơn là cho bất cứ ngôn sứ nào, bởi vì Người phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa trong tư cách là Con Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa nói và hành động qua Người, toàn thể công trình của Người là công trình cứu độ và phải được đón tiếp với lòng biết ơn và lòng tin.
3. Tại sao lại có hoàn cảnh của những người nghèo, những người đói khát, những người bị hành hạ, những người đau ốm, tuyệt vọng và mọi kẻ thất thế và phải gánh chịu một số phận gian khổ? Họ không may, trong khi những người khác được may mắn? Có thể có chăng cho họ việc thay đổi số phận, hay là họ cứ phải cam chịu như thế? Phải chăng Thiên Chúa muốn như thế? Đức Giêsu đã loan báo sứ điệp của Người cho những con người như thế. Thiên Chúa không hất hủi họ. Thiên Chúa ở về phía họ và chiếu cố đến họ. Thật ra sứ điệp của Đức Giêsu không phải là mộtchương trình cải cách xã hội. Người không cổ võ việc phân chia đồng đều các của cải. Sứ điệp của Người hướng niềm hy vọng của người nghèo không vào của cải vật chất, nhưng vào Thiên Chúa.
4. Tuy nhiên, chúng ta phải ra sức loại trừ các hoàn cảnh túng quẫn và bất công. Niềm hy vọng Đức Giêsu mang lại không phải là mộtngày nào đó, loài người sẽ đạt tới chỗ loại từ mọi túng quẫn và có thể thiết lập công lý bình đẳng. Sứ điệp của Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho người nghèo ơn cứu độ trọn vẹn. Đàng khác, chỉ nguyên việc là người nghèo, người sa cơ thất thế, không phải là đã đủ. Một người nghèo mà đặt hết niềm cậy trông nơi của cải trần thế thì vẫn đang lạc đường. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh. Người cứu thế qua các bí tích. Người đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu đã hưởng nhờ hoạt động từ bi thương xót của Người. Chúng ta phải nối dài hoạt động của Đức Kitô ra, bằng cách gieo rắc niềm vui và ánh sáng, thoa dịu các nỗi khốn cùng về thể lý và tinh thần, giải thoát người ta khỏi những nỗi lo sợ khiến tê liệt, đưa người rta ra khỏi sự dốt nát, nâng đỡ người sống trong cô đơn, chế giảm các nỗi hiềm khích…
72. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
TIỀN NGÔN (1,1-4)
Trong phần Tiền ngôn này Luca sử dụng một thể loại văn xuôi tuyệt hảo trong Hy ngữ – toàn bộ, chẳng hạn chỉ là một câu chuyện nguyên bản – và một từ vựng rất giống với các bản khảo luận Hy Lạp thời đó về nhiều vấn đề khác nhau. Từ đó, Luca muốn nói rõ rằng sách của ông là một tác phẩm có tính cách thời sự dành cho những người cùng thời ông không phải là người Do Thái và dùng những cấu trúc riêng. Do đó, truyền thống Tin Mừng được nâng lên như một tác phẩm văn chương.
Trước hết, Luca tự định vị mình trong tương quan với những người đi trước đã viết trình thuật; những phẩm chất mà ông hy vọng làm sáng tỏ (một thông tin cẩn thận về những gì đã xảy ra từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục) mà theo ông nghĩ là họ còn thiếu – điều đó giải thích công việc của ông. Ít nhất việc này nhằm đến hai nguồn mà Luca sẽ dùng; Tin Mừng của Maccô, chẳng hạn, không ghi lại cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu cũng như những lần hiện ra sau Phục Sinh, và một tập hợp những lời của Thầy (nguồn “Q”), dường như trong đó không có một trình thuật nào.
Những người đi trước ông đã kín múc từ truyền thống một thuật ngữ có gốc gác Kinh sư, để chỉ việc lưu truyền bằng miệng các Tin Mừng do các chứng nhân chính thức. Những người này đã thay đổi nếp sống: lúc đầu – Lc 3,23 sẽ chỉ cho thấy từ ngữ chỉ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chứ không phải là lúc Ngài sinh ra – họ đã là những chứng nhân mắt thấy tai nghe những hành động và giáo huấn của Chúa Giêsu (đó là nội dung qnt), rồi họ đã trở thành những tôi tớ phục vụ Lời (quyển thứ hai: Công vụ Tông đồ). Luca cho thấy hai mức độ sống này khi kể lại chuyện Matthêu giữa nhóm Mười Hai: nhân chứng mới này được chọn từ những kẻ đã theo Chúa Kitô từ khi Ngài chịu Gioan làm phép rửa cho đến ngày Ngài được nâng lên (Cv 1,21-22). Nhưng ở đây Luca không nhắc đến tên Giêsu, ông thích đặt mình trong một bối cảnh lớn hơn, đó là những biến cố đã được Thiên Chúa thực hiện, qua sứ vụ của Chúa Giêsu nơi chứng tá của các tông đồ.
Như thế Luca tường thuật nhờ bốn đặc tính đã được nên ở trên (một thông tin cẩn thận về tất cả những gì từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục), đó là phong cách riêng của ông. Ông đã có ý cẩn thận lắng nghe truyền thống Giáo Hội và viết một trình thuật liên tục. Liên tục ở đây trước hết không có nghĩa là theo trật tự thời gian đúng hơn phải cho thấy rằng tác phẩm của ông soi sáng cách thức mà Thiên Chúa thể hiện từ biến cố này đến biến cố khác, ý định cứu độ của Người trong lịch sử. Không thể chối cãi rằng Luca có quan tâm đến lịch sử, nhưng khi đã biết các tác phẩm của những sử gia Hy Lạp và Latinh đồng thời với ông, chúng ta đừng đánh giá dự phóng của Luca theo quan niệm ngày nay về việc nghiên cứu lịch sử.
Tất cả các tác phẩm được đề tặng ông Thêôphilê rất đáng kính, một người mới trở lại, gốc ngoại giáo, có lẽ giữ một địa vị quan trọng trong hành chánh La Mã. Mục đích Luca theo đuổi là thuyết phục Thêôphilê về sự vững chắc của giáo lý mà ông đã nhận – bày tỏ một phong cách làm việc rõ ràng có tính cách Giáo Hội.
Tiền ngôn được viết bằng một ngôn ngữ Hy Lạp rất hay. Điều đó cho thấy sự tương phản lớn lao với “Tin Mừng thời thơ ấu”. Để nói lên rằng những biến cố đương thời mà ông kể vẫn tiếp tục lịch sử thánh, Luca đã sử dụng một ngòi bút khác và bắt chước thể văn của bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Hy Lạp, tức bản Bảy Mươi. Chúng ta thử tưởng tượng Jean Laconture mô phỏng Bossuet để tả lại thời thơ ấu của De Gaulle... Có những lối mô phỏng thể văn đầy ý nghĩa. Để hiểu Luca, ta cũng phải biết rằng, trong thế giới Hy Lạp thời ông, chỉ có những gì “cổ điển” mới có thế giá, còn những gì “mới mẻ” thì đáng ngờ vực. Hơn nữa, bản Bảy Mươi cung cấp cho Luca từ vựng và những kiểu mẫu tư tưởng để nói về biến cố Giêsu Kitô.
RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT
Gần như được sáng tác hoàn toàn bởi Luca, cảnh rao giảng của Chúa Giêsu trong một thành nơi Người đã được nuôi dưỡng có một tính cách chương trình hóa rất rõ nét; thực vậy, nó loan báo những chủ đề sẽ chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ Luca-Công vụ.
Phần tóm tắt dẫn nhập (14,15) nói lại một lần nữa việc Chúa Giêsu được trang bị bằng Thần Khí tiên tri, Đấng, sau thời gian ở sa mạc, sẽ dẫn dắt Người trên các nẻo đường của sứ vụ. Nội dung giáo huấn của Chúa Giêsu không được nhắc đến – trong khi ở Mc 1,15 Người rao giảng một cách rõ ràng về Vương Quốc của Thiên Chúa, như vậy lời giảng đại khái đầu tiên của Chúa Kitô sẽ là giải thích lời tiên tri Isaia. Luca sẽ rất thường ghi chú rằng Chúa Giêsu giảng dạy mà không nói nội dung; đó là vì nói lên lời là một hành động, không lệ thuộc vào nội dung. Trái ngược với vị Tẩy Giả, Chúa Giêsu thường giảng dạy trong những nơi chốn và những thời gian đặc biệt gắn liền với công việc này: Chúa Giêsu có thói quen vào một hội đường trong ngày Sabat. Hãy chú ý sự phân biệt khi Luca nói về những hội đường của họ (c. 15); bởi vì vào quãng năm 85-90 khi Luca viết Tin Mừng, thì việc đoạn tuyệt với đối tượng đã tới cao điểm, thẩm quyền Do Thái giáo cấm các Kitô hữu từ nay không được rao giảng khi cử hành nghi thức tại hội đường. Cuối cùng, lần thứ nhất ta gặp chủ đề về danh tiếng của Chúa Giêsu và phát sinh từ lời giảng có quyền uy của Ngài.
Phần thứ nhất của trình thuật (cc. 16-22) diễn tả một phần phụng tự hội đường. Phần này bỏ lời kinh khai mạc và bài đọc thứ nhất trích từ Luật Môsê, để chỉ giữ lại trích dẫn dài của phần hai: sấm ngôn Is 61,1-2, Luca chỉ bỏ một lời đe dọa: “Công bố ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta”… Theo sấm ngôn trên đây, vai trò của sứ giả là loan báo một cách có hiệu quả việc chấm dứt những gì làm cho người nghèo phải đau khổ và những kẻ tàn phế trong cuộc sống, công bố khai mạc một thời kỳ trong đó con người sẽ được Thiên Chúa tiếp nhận. Cấu trúc của các câu 16-20 rất kỹ lưỡng:
(Người) đứng lên
họ trao cho Người cuốn sách
Người mở ra
Gặp đoạn chép rằng (Is 61,1-2)
(Người) cuộn sách lại
trả cho người giúp việc
rồi ngồi xuống.
Như vậy độc giả của Luca, vừa được soi sáng bởi cuộc hiển linh dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, hiểu rất rõ rằng người hùng của Thiên Chúa, được xức dầu bằng Thần Khí, chính là Đức Giêsu và sứ vụ được diễn tả đó là sứ vụ Người sẽ thi hành như được kể trong phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.
Tuy nhiên, ngay khi ngồi xuống –ở Palestin khi giảng thì ngồi, nhưng trong các hội đường ở hải ngoại thì lại đứng (Cv 13,16)- Chúa Giêsu giải thích cho người Nagiarét: “Hôm nay, đoạn đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Người không nói rõ ra: “bởi vì Kinh Thánh nói về tôi và các ông có thể thấy điều đó” –cũng như Người không bao giờ nói mình là Đức Kitô hay vị tiên tri. Người cung cấp cho các thính giả các dấu chỉ, nhưng để họ tự do dùng trí thông minh mà đón nhận hay từ chối dấu chỉ được trao ban: Người mời họ nhận cái mới mẻ đã xảy đến giữa họ. Nhưng, tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Chúa Giêsu, những người Nagiarét chỉ nhìn thấy một phương diện của Chúa Giêsu (con ông Giuse); họ không thể nhận ra nơi Người vị Ngôn Sứ cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ.
73. Chú giải của R. Gutzwiller
LỜI TỰA CỦA THÁNH KÝ.
Lời mở đầu Tin mừng của Thánh Luca đưa ra ánh sáng hai ý niệm quan trọng:
1. Tin mừng muốn chuyển đạt một sự xác thực. Điều này được nói rõ như là mục đích riêng của Tin mừng. Sự xác thực này dựa trên những yếu tố khác biệt nhưng trước hết dựa trên chính nội dung của Tin mừng. Tin mừng trước hết không phải là một giáo thuyết, nghĩa là không phải là một kiến trúc trí thức, cũng chẳng phải là một bộ luật với những giới luật và cấm đoán, hay là một vòng hoa gồm những chuyện thần tiên mà một thế hệ sau đã thêu dệt lên chung quanh con người Giêsu; hơn thế Tin mừng càng không phải là một huyền thoại, nói khác đi, là một tư tưởng viết lên thành kịch. Trái lại, trong Tin mừng, các sự kiện thực sự đã được kể lại. Lòng đạo đức đích thực phải khách quan, xây trên những thực tại.
Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên, và việc Ngài đến trong thế gian này là một việc lớn lao nhất, chính yếu nhất trong các chân lý. Ở đây phát sinh một sự kiện hiển nhiên, có thể sờ thấy đuợc, nhờ đó mà tất cả mọi hoạt động của nhân loại và tất cả các sự vật khác có được một giá trị và một ý nghĩa mới mẻ. Đó là những sự kiện cụ thể mà Tin mừng kể lại.
Tiếp đến là chủ ý nói tới những biến cố xảy ra giữa chúng ta, ‘trong môi trường của chúng ta’. Thánh Luca không phải như là một sử gia cố gắng tái lập những biến cố cổ xưa từ nhiều thế kỷ nhờ vào các nguồn mạch. Ngài viết trong chính miền mà những sự việc đã xẩy ra và thuộc về thế hệ chứng nhân của những việc đó.
Những nguồn mạch Ngài múc ra bảo đảm được sự đích thực. Ngài không trực tiếp là Tông đồ hay môn đệ của Đức Giêsu. Ngài cũng chẳng hề được diện kiến Thày hay nghe chính lời Thày. Nhưng những cái Ngài biết, dựa vào những chứng nhân tận mặt, họ làm chứng về những cái họ đã chứng kiến, mà không phải chỉ là đứng ngoài nhìn, nhưng còn được tham gia việc phục vụ Lời Chúa nữa. Nhiệm vụ chính của họ là truyền đạt Tin mừng và tất cả hoạt động của họ đều nhằm vào viễn tượng này. Họ không nói lại lời nào khác mà trao lại ‘lời’, trao lại ‘những lời của Ngôi Lời’, những ngôn từ thần linh nhân loại của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thánh Luca đã dùng đến nhiều nguồn khác nhau. Ngoài những bản văn chính lục của Matthêu và Máccô, Ngài còn sử dụng những nguồn khác và hơn thế, Ngài đã dùng một số lớn những bằng chứng khẩu truyền. Một khi biết được sự chính xác của trí nhớ người Phương đông cổ xưa, người ta sẽ hiểu được những chuyện kể truyền khẩu được quy định nhanh chóng trong một hình thức cố định được truyền lại hết sức là chính xác.
Cuối cùng, chính Thánh Luca là con người được coi là chắc chắn. Ngài chú trọng đến tất cả những gì được cung cấp từ nguồn ngọn, Ngài không phải là con người dễ tin và nhẹ dạ: là người Hy lạp và là thày thuốc, Ngài là một quan sát viên biết cân nhắc, có tài đánh giá thực tại, không ưa những chuyện mơ mộng và huyền hoặc. Ngài không hài lòng với việc chỉ nhắc lại cái chính yếu thôi, nhưng nhấn mạnh tới các nguồn mạch. Tin mừng của Thánh Luca không bắt đầu như Thánh Máccô bằng cuộc đời công khai của của Chúa Giêsu. Nhưng hơn ai hết, Ngài thuật lại với nhiều chi tiết, những khởi đầu của một sứ điệp lạ lùng: truyền tin, giáng sinh và hơn thế nữa sự mong đợi và sinh nhật của Vị Tiền hô.
Cuối cùng, Ngài quyết định ‘cứ tuần tự’ kể lại các biến cố, không phải kéo dài từ đầu chí cuối mà sắp xếp theo một lược đồ rõ rệt, một tổng hợp gồm nhiều yếu tố được thích ứng một cách rành mạch, hợp lý.
Như vậy, dưới cái nhìn thế trần, Tin mừng theo Thánh Luca đã làm thành một văn phẩm chính xác. Còn với các tín hữu, chúng ta chỉ biết dưới những lời này Thần Khí Thiên Chúa, Đấng linh ứng cho tác giả Tin mừng, tuy dấu mình, chính Thần khí này là tác giả thực sự của Tin mừng, Đấng ban cho chúng ta niềm chính xác hoàn toàn do sự thật bất-khả-ngộ.
2. Cùng với mục đích của nó, lời tựa này còn cho chúng ta thấy ít nhiều đặc tính cá biệt của Tin mừng. Tác giả là người Hy lạp và là một y sĩ. Hai sự việc này có tầm mức quan trọng đặc biệt: là thày thuốc, Thánh Luca đã chú trọng rất nhiều tới tác động cứu độ và chữa trị của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã học lại cho chúng ta cách dồi dào những cử chỉ giúp đỡ và chưã lành bệnh nhân thể xác, khuyên nhủ và thứ tha bệnh nhân tinh thần, những tội nhân.
Vậy hình ảnh Đức Kitô đây mới là dung mạo của Đấng Cứu đời đích thực. Đức Giêsu chữa cả xác lẫn hồn. Qua các cuộc tranh luận, chiến đấu hay qua đau khổ, tử nạn và sống lại hoặc qua sự thảm bại hay chiến thắng, tất cả đều được biến đổi dưới sự từ tâm sáng ngời đầy nhân đạo và lòng bác aí của Ngài.
Thánh Luca không phải là một dân thường như Thánh Máccô hay một nhà tranh luận học thức như Thánh Matthêu, hoặc một thần học gia và một nhà thần bí như Thánh Gioan, nhưng là một y sĩ, hiểu được nỗi thống khổ của con người và sự trợ giúp của Thiên Chúa, hiểu được bệnh tật và việc chữa trị được tội lỗi và ơn tha thứ.
Thánh Luca là người Hy lạp, là dân ngoại chứ không phải là Do thái. Vì thế sứ điệp của Ngài đã làm nổ tung những khuôn khổ chật hẹp của người Do thái. Cái nhìn của Ngài bao gồm cả nhân loại, chân trời của Ngài rộng như vũ trụ. Ngài nhấn mạnh tới yếu tố mới mà Chúa Giêsu đem đến, đó là Tân ước và việc tạo dựng một dân mới của Thiên Chúa; Lời mời gọi được trao đến tất cả mọi người như đã âm vang tới cả hoàn vũ, đến nỗi Giáo Hội phổ quát trở thành công việc của Đấng cứu độ toàn cầu.
Lời tựa ngắn gọn và trọng yếu này thực sự sửa soạn cho yếu tố cấu thành nên mục đích và nguồn gốc của Tin mừng theo Thánh Luca. Vì thế nó cho thấy nơi tác giả thái độ trí thức xứng hợp và việc chuẩn bị nội tâm.
Chúa Giêsu tới, đòi hỏi một sự thay đổi toàn bộ cả bên ngoài lẫn bên trong.. Con người sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi đó nếu nó dựa trên sự chính xác và mở rộng ra được những viễn tượng lớn lao và rộng rãi. Mục đích, đặc tính của Tin mừng Luca đã bảo đảm được cả hai điểm đó.
TRỞ VỀ GALILÊ
Trước khi thuật lại một giai đoạn quan trọng trong việc giảng Tin mừng ở Galilêa, Thánh Luca đã viết một dấu nhập nhắn làm nổi bật tất cả hành năng của Chúa Giêsu trong giai đoạn này.
‘Chúa Giêsu trở về Galilêa’. Điều này tự nó không hiển nhiên. Hoạt động có tính cách chờ mong Đấng Messia đã được Gioan Tẩy giả mở đầu ở xứ Giuđêa; như vậy, khởi đầu công cuộc giảng Tin mừng ở đó hợp lý biết bao.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn được chuẩn bị để đi vào xứ này bằng bao biến cố xảy ra bên bờ sông Giođan, vì xứ Giuđêa với thủ phủ là Giêrusalem, quê hương riêng của dân Thiên Chúa. Chính ở đây có đền thờ, ở đây các lễ hy sinh được dâng tiến và muôn dân tuôn về đó, ở đây người ta thấy có giai cấp tư tế, các trường phaí bác học và rồi truyền thống các tiên tri cũng được lưu giữ ở đây.
Thế nhưng, trái với sự mong chờ, Chúa Giêsu lại trở về Galilêa. Sau này, Ngài mới lên Giuđêa, ở đó Ngài sẽ đương đầu với các thù địch, sẽ hiến mạng sống mình làm lễ hy sinh và kết thúc công trình cứu độ của Ngài. Nhưng giờ ấy chưa đến.
Trước hết, Ngài muốn thư thả để tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa, đặt nền móng cho Giáo Hội, thu họp những người tin. Ngài thấy xứ Galilêa có số dân chúng sẵn sàng hơn. Nước Thiên Chúa là một hồng ân: vì thế, những người quyền cao chức trọng, những người giàu có, những đầu óc kiêu căng không thể chấp nhận được. Họ ngỡ rằng mình có thể giúp mình được rồi; kẻ tự tin ở sức riêng mình đâu có hy vọng nơi Đấng Cứu Chuộc. Kẻ câỵ dựa vào sức lực riêng mình, thì không biết chuẩn bị để đón nhận ơn sủng.
Từ đây, những nét chính trong bố cục Tin mừng của Thánh Luca đã lộ ra. Xứ Galilêa là điểm khởi hành. Những phân chia chính yếu trong cuốn sách Thánh này được sắp xếp theo những nơi chốn địa dư: phần thứ nhất diễn biến trong xứ Galilêa, phần thứ hai trên đường từ Galilêa đến Giuđêa, phần thứ ba ở ngay trong xứ Giuđêa.
Bên trong hai miền trên, Thánh Luca xen lẫn và phối trí theo một mức độ nào đó, một loạt các biến cố theo thứ tự niên biểu, nhưng chỉ phác hoạ những nét chính, vì đó bao giờ cũng là sự liên tục có tính cách luân lý hơn là vấn đề niên biểu.
‘Trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng một Thần trí đã đưa dẫn Chúa vào chốn cô tịch, bây giờ lại đưa dẫn Ngài đến giữa loài người. Điều này có ý nói Chúa Giêsu hoàn toàn để cho Thần trí hướng dẫn.
Ai muốn hướng dẫn đời mình chỉ bằng những ý tưởng của riêng mình, và tin tưởng ở cảm hứng của mình thì sẽ không tìm được vị thế đúng đắn của mình trong trật tự cao sang và thánh thiện của Thiên Chúa. Còn người nào biết cầu nguyện, mở cửa lòng mình đón nhận những sự trên cao, hẳn được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, dầu trong cảnh tĩnh mịch hay giữa lòng đại chúng. Chúng ta đã đánh mất tâm tình sẵn sàng để được dẫn dắt như thế, đó là căn cớ của mọi hỗn độn, vô trật tự.
Thánh Thần Thiên Chúa đồng thời cũng tượng trưng cho mầu nhiệm riêng tư thâm tình nhất của Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn thấu suốt bí nhiệm đó, hành động và quyết định của Ngài.
Tin mừng nói về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Những lời giảng mạnh mẽ của Chúa Giêsu, sức mạnh của các phép lạ Ngài làm hết thảy đều phát xuất từ nguồn phong phú mãnh liệt là Thánh Thần Thiên Chúa. Từ ngữ Hy lạp ‘dunamis’ gồm có ý tưởng chuyển động. Ở đâu Thần trí Chúa hoạt động, ở đó hẳn sẽ có chuyện lạ. Đây không phải là sự yên nghỉ suông, mà là một hoạt động đang trên đường đi đến hiện thực.
Những khả năng thực hiện việc lớn, khả năng sáng tạo của Thánh nhân không thể đem đồng hoá với hoạt động bên ngoài; đó là một năng động, một năng động tính thực sự, kín múc từ trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều vị thánh nhân xác yếu đuối, dễ bị bệnh tật, thế nhưng sức làm việc của các Ngài chưa chắc người khoẻ mạnh cường tráng có thể theo đuợc. Sức mạnh của các Ngài là sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng muốn làm những việc vĩ đại bằng những công cụ mỏng dòn.
‘Tiếng tăm Ngài lan ra khắp miền xung quanh’. Vẻ tĩnh mịch của làng Nagiarét, sự cô tịch của vùng hoang địa từ nay thuộc về quá khứ. Chúa Giêsu đã xuất hiện giữa con người. Sứ điệp của Ngài không còn chi bí mật cả: tiên vàn lời kêu gọi được chuyển từ làng này qua làng kia, sau được truyền từ xứ này qua xứ nọ và rồi từ dân này tới dân khác.
Viên đá được ném xuống mặt hồ: những gợn sóng, những vòng đồng tâm cứ lan rộng cho đến khi đụng vào ngưỡng cửa của vĩnh cửu. Một âm điệu mới đã vang lên và sẽ chẳng bao giờ ngưng đọng nữa dù là trong thời gian, dù là trong thế giới bên kia.
Sự lan tràn của Tin mừng này ngay từ khởi đầu, công cuộc giảng phúc âm ở Galilêa đã mang lại cho lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trước quần chúng một tính chất mạnh mẽ vô địch, một vẻ tươi mát của mùa xuân, của giọt sương mai và niềm vui khi hừng đông xuất đầu lộ diện. Một đàng người ta cảm thấy có sự trao ban, một đàng là sự đón tiếp đầy nhiệt tình hoan hỷ. Những dân cư khiêm tốn, quê mùa, những ngư phủ mộc mạc tỏ ra rất sung sướng vì có một vị tiên tri xuất hiện giữa họ, xuất thân từ giai cấp họ; một người hiểu được họ, biết được nếp sinh hoạt của họ, chia sẻ số phận của họ, đồng thời lại cao cả hơn họ, nói năng rõ ràng, hướng dẫn sáng suốt và hành động vì lòng thương yêu.
‘Ngài giảng dạy trong các hội đường của họ’. Chúa Giêsu còn dạy dỗ ở nhiều nơi khác nữa: ở bờ hồ, trên triền núi, trong tư gia; nhưng tiên vàn Ngài năng dạy dỗ trong các hôị đường, bởi chính ở nơi đây, dân chúng tụ tập lại để nghe đọc lề luật và các tiên tri.
Đối vời giáo lý của Thày, lề luật và các tiên tri tượng trưng cho điểm gặp gỡ bề ngoài lẫn bề trong. Nhưng trước hết nhấn mạnh đến giáo huấn. Đấy không phải là điểm quan trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Cái chết và Phục sinh của Ngài còn vĩ đại hơn nhiều. Nhưng dầu sao, nếu giáo huấn có được đặt lên hàng đầu thì cũng là để chứng tỏ giá trị của Lời giảng.
Ngài tỏ mình ra như một tiến sĩ luật, bởi vì Ngài công bố quan niệm đúng đắn về luật cũ và về luật mới của Tin mừng.
Chúng ta luôn phải lắng nghe Lời Thiên Chúa để khỏi bị những lời của nhân loại dẫn vào mê lộ. Chính Lời của Thiên Chúa, giáo lý của Chúa Giêsu, chứ không phải khoa học, sẽ giúp giải quyết những bí ẩn tối hậu, và giải đáp những vấn đề thâm sâu nhất.
‘Ai nấy đều ca tụng Người”. Con người của Ngài, cách Ngài nói, cách Ngài tỏ mình, thái độ, hành năng của Ngài có một cái gì hấp dẫn khó cưỡng lại được. Ai lắng nghe Ngài mà lòng không thành kiến và nội tâm không chai đá thì hẳn phải thán phục và mến yêu Ngài. Vì Ngài có sức bắt buộc phải chọn lựa. Quần chúng xôn xao, nọi người và mỗi người phải chọn lựa cho mình một thái độ theo hay không theo, không ai được kính nhi viễn chi, dửng dưng, trung lập… Một sự hồ hởi nổ tung. Đây là phản ứng đầu tiên. Từ từ sự chống đối manh nha và rồi lớn mạnh thành cả một mặt trận phản kháng. Nhưng ở khởi đầu, thì chỉ có một đám đông dân cư vui mừng hoan hỉ. Mọi người đều vang tiếng hát bài ca mới; Người ta nói đến cuộc khởi hành mới… Thần khí của Chúa Giêsu Kitô làm phát sinh nhiệt tình phấn khởi.
Bằng vài lời đó, công cuộc rao giảng Tin mừng ở Galilêa được phác hoạ như là một giáo lý và hành năng có sức mạnh lớn lao, một khơi động niềm vui và là công trình của Chúa Thánh Thần.
NAGIARÉT
Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ chính thức ở Nagiarét. Thánh ký không muốn nói rằng Chúa Giêsu giảng ở đó lần đầu, vì Ngài có nói đến bản văn viết về Chúa đã giảng dạy ở Caphanaum. Nhất là vì Thánh Luca muốn chứng tỏ bằng một thí dụ, và ngay từ đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu cho thấy lý do hành năng của Ngài đã gây ra sự phân cách, người chấp nhận, kẻ từ bỏ.
Vì thế, quang cảnh tả ở đây cấu thành một thứ lời tựa và mở đầu cho hoạt động của Chúa ở Galilêa, nhờ việc khai triển trình thuật đó cùng với bầu khí của nó.
NHIỆT TÌNH ĐÓN NHẬN.
Trong hội đưỡng, khi hai bài đọc về lề luật và tiên tri chấm dứt, thì một cử toạ có thể đứng lên chú giải bản văn, hoặc là giải thích, hoặc là đưa ra bài giáo huấn xây dựng. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài bảo người ta đưa cho Ngài cuốn sách tiên tri Isaia, Ngài đọc bản văn Ngài đã chọn rồi ngồi xuống để giáo huấn. Mọi người chờ đợi với sự kinh ngạc khôn tả. Chúa Giêsu chưa làm gì ở Nagiarét khiến người ta chú tâm đến Ngài. Ngài cũng chẳng là một Ra-bi đã từng tra cứu sách này sách nọ… Bỗng dưng người ta nghe đồn Ngài đã khởi sự giảng dạy trong những thành khác ở xứ Galilêa.
Đây là lần đầu tiên Ngài trở về ngôi làng nơi Ngài sinh trưởng, nơi mà ai nấy đều biết Ngài tỏ tường. Ngài sắp nói gì đây?. Trong bản văn Ngài vừa đọc, tiên tri Isaia mô tả thời cuối cùng kết thúc cuộc lưu đày và mở đầu cho một thời kỳ huy hoàng tương lai, thời kỳ Đấng Cứu Thế xuất hiện. Với một vẻ đơn sơ nhưng trang trọng, Chúa Giêsu đã áp dụng những lời tiên tri vào chính bản thân Ngài cách rất tự nhiên: ‘Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe’.
‘Thánh Thần Chúa ngự trên tôi’. Nếu ai có thể nói được điều đó thì hẳn phải là Chúa Giêsu. Không phải Ngài chỉ xem thấy Thần khí ngự xuống trên mình dưới hình thức mắt trần xem thấy được khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đến độ nói theo loài người thì hiển nhiên Ngài đã được tràn đầy Thần Linh Chúa. Nhưng nhờ sự kết hợp bản tính Thiên Chúa với bản tính nhân loại nơi một chủ vị, Ngài còn tràn đầy Thần Linh Thiên Chúa đến độ Thần Linh đồng hoá với Thần Trí của Ngài tự nhiên và ngự lại ở trên Ngài không phải trong chốc lát nhưng là cách chủ yếu và thường tồn. Hơn ai hết, Ngài tỏ ra là một người của Thiên Chúa và một người thiêng liêng.
‘Người đã xức dầu cho tôi’. Chúa Kitô là dầu tuyệt hảo bởi vì Ngài trổi vượt hơn hết thảy mọi tiên tri, và tỏ mình ra cả về phần Thiên Chúa lẫn phần riêng của Ngài, như chưa từng có vị nào trong số các tiên tri đã làm. Ngài là Lơì của Thiên Chúa đã nhập thể; vì là Dầu, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Đấng Thống trị tối cao, bởi vì Nước của Ngài là Nước Thiên Chúa, Đấng không hề biết giới hạn là gì cả về không gian lẫn thời gian. Ngài là vị Tư Tế đã được hiến thánh bởi vì xét như là Người-Chúa, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, một hiến lễ của Ngài đã có giá trị mang lại hiệu quả và ý nghĩa cho mọi hiến lễ khác. Ngài là Đấng Messia dân Israel mong đợi, nay đã đến rồi.
‘Người đã sai tôi’. Một ơn gọi trong Tôn giáo bao giờ cũng kèm theoi một sứ mạng Xức dầu không phải để cho riêng ngươì-được-xức-dầu, nhưng là cho những người mà vị này được phái tới. Tự căn bản, Chúa Giêsu là Đấng được sai đi. Sứ vụ của Ngài là một sự kéo dài việc Ngài sinh ra từ Thiên Chúa: Đấng xuất phát từ Cha qua việc nghĩa tử nay đi vào trần gian để đưa dẫn thế gian về với Cha. Cốt tuỷ của sứ vụ Ngài là như thế đó.
‘Đem Tin mừng cho người nghèo khó’. Đây là những người nghèo khó về vật chất, nhưng trước hết là những người nghèo về phần thiêng liêng. Chỉ có ai ý thức được sự khốn khổ của mình mới biết chuẩn bị đón nhận ‘Tin mừng’ ban phát ân sủng. Chúa Giêsu biết không được sai đến với những kẻ ngỡ rằng mình đã đầy đủ rồi, nhưng là đến với những người đau khổ vì hoàn cảnh của bản thân mình và hoàn cảnh của trần gian. Đối với những người này sứ điệp của Ngài thực là một Tin mừng.
‘Loan truyền sự giải thoát cho kẻ tù đày’. Tù đày bề ngoài ở Babilon, rồi được trở về tự do chỉ là một dấu chỉ phớt qua của ý định lớn lao này: ‘giải phóng con người khỏi ách tù đày bề trong do tội lỗi và quỷ ma trói buộc. Nói theo nghĩa chặt, đây mới chính là tù đày và giải phóng. Chúa Giêsu là một chiến sĩ giải phóng vĩ đại nhất của loài người. Vì thế tự do là một trong những chân lý chủ yếu, là một trong những yếu tố căn cơ của sứ điệp Kitô giáo. Ở đâu người ta không còn cảm thấy hơi hướng của tự do này, ở đó câu nệ hình thức, lo âu, sợ hãi một lần nữa lại làm cho mọi sự tê liệt, Tin mừng bị bóp méo ngay từ trong bản chất của nó.
‘Cho người mù được thấy’. Ở đây cũng lại có ý chí sự mù loà nội tâm, sự tối tăm nghi hoặc đối với những vấn đề trọng đại, đêm đen của tâm hồn vì xa cách ánh sáng Thần Linh. Chúa Kitô soi chiếu trần gian. Nhờ Ngài ánh sáng bừng lên trong tâm trí người đi tìm kiếm; soi sáng tâm hồn bị áp bức, soi sáng đêm đen tội lỗi. ‘Người mù loà được xem thấy’. Đức Kitô chỉ cần đụng tay là ánh sáng trở lại với người mù: đây là dấu chỉ mãi mãi mới mẻ về sự soi sáng thật mà Chúa Kitô đã mang đến cho những ai bị mù loà phần linh hồn.
Nhờ ánh sáng mạc khải, ánh sáng của lý trí sẽ trở nên ánh sáng có bản chất đặc biệt cho đến khi nó rạng soi trong ánh sáng vinh quang, không còn pha lẫn chút tăm tối nào nữa. ‘ánh sáng của lý trí’, ‘ánh sáng của mạc khải’ và ‘ánh sáng của vinh quang’ rốt cuộc đều là hoa trái của ‘Ánh Sáng Chúa Kitô’.
‘Trả tự do cho kẻ bị áp bức’. Đức Kitô đứng về phía những người yếu, phía kẻ cô thế, bị bóc lột, áp bức. Sứ điệp của Ngài có tính cách xã hội. Nhưng, ở đây còn có một cái gì thâm thuý hơn. Quyền lực ma quỷ, Satan, áp bức và đe doạ tâm hồn. Một sự áp bức đè nặng con người và làm cho cuộc sống bị bất ổn. Satan là thủ lĩnh thế gian: đó là lý do tại sao Kitô giáo là một cuộc cách mạng tôn giáo, vì nó lật nhào kẻ muốn chiếm đoạt địa vị không thuộc về mình; thay vào đó là quyền năng tối cao của Thiên Chúa, không áp bức nhưng giải phóng.
‘Loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa’. Hừng đông của thời kỳ vĩ đại của ơn cứu độ mở đầu với việc Đức Messia đến. Tất cả mọi năm hoan hỷ của Israel chỉ là điềm báo cho thời tương lai này, thời mà sự vui mừng vô tận phát sinh từ âm hưởng của Tin mừng.
Như thế, khi áp dụng những lời tiên tri vào bản thân mình, Chúa Kitô mô tả con người và sứ vụ của Ngài bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng uy nghiêm đến độ dân chúng nín thở, hồi hộp lắng nghe và cảm kích. Họ ngạc nhiên về sự kiện Ngài dạy dỗ, con người chưa bao giờ học hành ở đâu cả; họ kinh ngạc về cách Ngài dạy dỗ, hoàn toàn khác với lề thói của các thày dạy lề luật họ đã quen; và họ bị những điều Ngài giảng dạy hấp dẫn, vì đây là sứ điệp ban ơn cứu độ, ánh sáng, sự trợ giúp và tự do.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
74. Chú giải của Noel Quesson
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không "thấy" Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc "thế hệ thứ hai". Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra... và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh 'Thần (Lc 1,35)... mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)... được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)... Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một "người nhắc" nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu "giảng dạy trong các hội đường" (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường "vùng Galilê của dân ngoại" (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là "phụng vụ Lời Chúa". Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã "thánh hiến" một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời" nhiều lần: "Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ "xức dầu” được gọi là "chrisma" trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là "christos" do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ "loan báo Tin Mừng" dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là "truyền bá phúc âm". Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy - vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự' "giải phóng"... và sự "phục hưng" Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người "nghèo hèn" tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ "nghèo hèn" trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái "những kẻ nghèo hèn "…
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản... kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?... hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không "thực hiện" lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ "giải phóng" hay trả lại tự do chính là từ "aphésis" cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v...) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng "hôm nay" mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa" cho đến "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
75. Chú giải của Fiches Dominicales
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trang minh họa dự tính của Luca
Vì là người ngoại đến với đức tin Kitô giáo, Luca đã không được biết Đức Giêsu nhiều. Bởi vậy, trước khi viết về Đức Giêsu, Luca đã muốn "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự" và cố gắng căn cứ vào những nguồn tài liệu có giá trị, để cho tác phẩm của mình hữu ích và có nét độc đáo đối với phần đông độc giả là những người cũng từ ngoại giáo trở lại như ngài, mà điển hình là "ngài Thêôphilê đáng kính ".
Nếu Luca có ý "tuần tự viết ra câu chuyện" thì không phải là viết theo cách thức những nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay vốn quan niệm, mà chỉ là để phục vụ và hỗ trợ cho một suy tư thần học mà thôi, như ngài sẽ nói lên điều đó trong các phẩm thứ hai của mình. Dự tính của Luca là chỉ muốn kể lại việc Thiên Chúa mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin như thế nào" (Cv. 14,27). Vì thế tác phầm của Luca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cũng cả về mặt địa lý nữa.
- Chương trình cứu độ xét về mặt lịch sử:
+ Sau thời kỳ LỜI HỨA
+ thì đến thời kỳ THỰC HIỆN
Với thời Chúa Giêsu, Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trông ngôn ngữ và hành động của Đức Giêsu.
Với thời của Giáo hội, thời của Thần Khí được thông ban tràn đầy qua Đức Kitô phục sinh.
- Chương trình cứu độ về mặt địa lý được diễn ra chung quanh Giêrusalem.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với lời Sứ thần báo tin cho ông Dacaria ở trong Đền thờ, sẽ là thành đô cho Đức Giêsu lên đó để sống trang sử "xuất Hành " của Người và cũng là nơi, như cuối Phúc âm Luca có ghi, để các Tông đồ ngày ngày sẽ lên Đền thờ mà chúc tụng Đức Giêsu như là Đức Chúa phục sinh (Phúc âm theo thánh Luca). Sách Tin Mừng của Luca mở đầu từ trong Đền thờ thì cũng kết thúc ở đây.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với biến cố Thăng thiên, cũng sẽ là thành đô để từ đó các người phục vụ Lời Chúa sẽ bung ra trên mọi nẻo đường nhân loại để mang Tin Mừng "cho đến tận cùng trái đất " (Sách Công vụ Tông đồ).
2. Buổi hội họp ở hội đường
“Được đầy Thánh Thần" khi chịu phép rửa ở sông Giođan, và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để đối đầu quyết liệt với ma quỷ và Người đã chiến thắng, giờ đây Đức Giêsu đã trở về Galilê và đến Nadarét là "nơi Người mới sinh trưởng". Như một người Do thái đạo đức, Người vào hội đường "như Người vẫn quen làm trong ngày sabát".
Khác với Matthêu và Maccô đặt biến cố này – thiết tưởng có vẻ đúng hơn vào cuối thời kỳ thi hành sứ vụ ở Galilê, còn Luca thì đã đặt vào đầu thời kỳ, để phục vụ tốt hơn cho dự tính của mình và đã kết cấu bài tường thuật của mình như một "biến cố điển hình" khai mở và tóm tắt trước những gì sắp xảy ra, tức là việc Đức Giêsu bị dân Người chối bỏ và công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân ngoại.
- Hôm đó là "ngày Sabát” là ngày để nghe đọc Sách Thánh, ngày kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, ngày mà người có lòng tin trong khi chúc tụng Thiên Chúa giải thoát dân Người thì cũng phải nghĩ đến việc giải thoát chính mình và người khác khỏi ách nô lệ.
- Chúng ta đang "trong hội đường" và Luca đưa ra cho chúng ta một bức tranh quý giá về phụng vụ diễn ra vào mỗi ngày thứ bảy. Nếu như Luca bỏ qua phần nghi thức mở đầu (lời khái quát, kinh cầu nguyện lời chúc lành), cũng như không gợi lại bài đọc thứ nhất, thì ngài lại mô tả cách rất tỉ mỉ và gần như khoan thai, mọi cử chỉ và nghi thức mà Chúa Giêsu đã làm.
3.... lúc ấy Chúa Giêsu loan báo "Tin Mừng"
Theo tập tục để lại từ bao đời (cf. Công vụ Tông đồ 13,15 và tiếp theo: Phaolô và Banaba viếng thăm hội đường ở An-ti-ô-khi-a miền Pixidia), Đức Giêsu được cộng đồng tôn giáo Do thái tiếp đón, mời đứng lên đọc một đoạn sách thánh; sau đó Người ngồi xuống để giải thích đoạn sách Tiên tri vừa đọc.
Đoạn sách của buổi phụng vụ hôm đó đúng là Isaia 61, 1-2: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Đây là một trong những lời sấm lớn, vốn nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân tộc Do thái. Truyền thống của họ coi đây là lời loan báo về Đấng thiên sai đến; Người đầy tràn Thần Khí, Người đem đến "Tin Mừng", là loan báo về thời đại mới bắt đầu khai mở, dân tộc Israel được giải phóng và khởi đầu triều đại của Thiên Chúa.
4. về "hôm nay” ứng nghiệm lời Kinh Thánh.
Bây giờ là lúc Chúa Giêsu đã cuộn sách lại và trả cho người giúp việc hội đường Người ngồi xuống và bắt đầu giải thích những lời vừa đọc. Một bài giải thích mà Luca đã tóm tắt lại bằng một câu tuyệt vời: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". R. Meynet chú giải: "Kinh thánh tuy là những lời nằm chết trong sách, lại có được sức sống nhờ được đọc lên lúc này. Được nói lại từ một cửa miệng, Kinh Thánh lại trở thành lời mang ân sủng cho những ai nghe. Phép lạ của việc đọc sách thánh là làm cho những lời xưa của vị tiên tri đã chết rồi, trở thành lời sống động của Đấng được sai đến hôm nay. ("Phúc âm theo thánh Luca. Phân tích tu từ", Cerf, tr. 62).
Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, tất cả những lời tiên tri loan báo đều ứng nghiệm: Người là Đấng Mêsia được sai đến (Is. 61) tràn đầy Thần Khí của Đức Chúa; bản thân và sứ điệp của Người là "Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo hèn". Cùng với Người và trong người, thời đại mới của ân sủng, thời đại "công bố một năm hồng ân của Chúa" được khai trương. Cùng với Người và trong Người, Thiên Chúa ra tay hành động để giải thoát mọi người, “người bị giam cầm, người mù, người bị áp bức", tất cả đều được Người ban ơn cứu độ và tha thứ. Cùng với Người và trong Người, "Hôm nay" hồng ân của Chúa ùa tràn vào dòng lịch sử của loài người.
Trong hội đồng Nagiarét, Đức Giêsu khởi đầu sứ mệnh của Người “với quyền năng Thánh Thần” của phép rửa Người chịu. Sứ mệnh đó, Người sẽ theo đuổi xuyên suốt dòng lịch sử trong Giáo hội của Người, "với quyền năng Thánh Thần" của ngày Hiện Xuống.
Chúa nhật tuần tới, chúng ta sẽ chăm chú đọc nốt phần cuối của đoạn Phúc âm này.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một bản tóm lược về sứ mệnh của Đức Giêsu.
(H. Villliez, trong "Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 86)
“Hành động mở màn cho sứ vụ của Đức Giêsu đã diễn ra ở Nadarét... Trong hội đường, vào ngày sabát. Vì là một người ngoại giáo trở lại, nên Thánh sử Luca chủ tâm nêu bật hai điều này: sứ điệp trước tiên đã được gởi đến cho người Do thái, sau đó nhờ một khúc quanh lịch sử nhiệm mầu, sứ điệp ấy sẽ được loan báo cho dân ngoại. Câu chuyện này giống như một việc làm trước thời hạn, diễn tả những gì sẽ sảy ra. Đúng là một bản tóm lược về sứ mệnh của. Đức Giêsu. Câu chuyện vay mượn quá khứ tôn giáo của dân tộc Do thái và sách tiên tri Isaia thứ ba được viết từ năm thế kỷ trước, như để nhấn mạnh rằng cội nguồn không bị đứt đoạn và truyền thống cũng không bị mai một, có nghĩa là cội nguồn và truyền thống vẫn được tiếp nối và duy trì.
Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội và làm đảo lộn trật tự sẵn có là: kẻ nghèo, giải phóng, năm hồng ân. Ngươi ta ngờ vực, cũng là điều dễ hiểu thôi. Các đồng bào và đồng hương Nadarét của Đức Giêsu sẽ chống đối quyết liệt. Làm sao mà chấp nhận được một Đấng Mêsia cổ vũ việc giải phóng người nghèo và tuyên bố: "Năm hồng ân là chính hôm nay". Nếu "theo sách Isaia thứ ba", Tin Mừng là lời loan báo cho những người lưu đầy được hồi cư, thì với Đức Giêsu, Tin Mừng lại chính là lời loan báo cho những người nghèo biết rằng họ là “những người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt”, rằng họ được giải phóng. Với Đức Giêsu, hôm nay chấm dứt mọi kiếp nô lệ lầm than. Tóm lại, nhờ Thần Khí và Tình yêu, hôm nay là cuộc giải phóng toàn diện, giải phóng mọi hình thức bất công và tội lỗi.
Sau cùng, loan báo Tin Mừng còn là loan báo "năm hồng ân". Năm nay phải là năm đại xá, năm nợ nần sẽ được tha hết, nô lệ sẽ được giải phóng, là năm mà con người nhờ tuân theo luật Chúa sẽ lập lại được một trật tự trần gian ngày càng nên giống Nước Trời hơn.
2. “Mầu nhiệm của Lời Chúa".
(J Thunus. "Dans vol ascemblées” tập 2. DDB. trg 395)
"Hôm nay, bạn có nghe tiếng Người chăng?" Câu nói trong Thánh vịnh 94 này đã là khởi điểm để bức thư gởi tín hữu Do thái triển khai rộng rãi về tính hôm nay của Lời Chúa (Dt. 3,7- 4,11). Bài giảng của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét càng làm cho tính cách "hôm nay" này mang ý nghĩa đặc biệt.
"Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Rồi người bắt đầu nói với họ: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe" (Lc. 4,20-21).
Mầu nhiệm sâu xa rõ ràng là nằm trong lời nói đó. Lời Chúa đã được ghi chép lại ở một thời điểm của lịch sử là Lời nói cho mọi thời và là lời hằng sống và thực tế cho người biết lắng nghe trong tâm tình thờ phượng. Sự sống của lời Chúa là sự sống của Thần Khí, Đấng sẽ "dẫn tới sự thật toàn vẹn" (Ga. 16,13)
3. "Loan báo Tin Mừng: một trách vụ của mọi tín hữu”.
(M. Dcgraeve, trong "Unité des chrétiens". Tháng 10-l994) số 96, trg 23 và 24)
“Hiệp thông huynh đệ, sống trong cùng một mái nhà là một thực tại phải xây dựng không ngừng. Sự hiệp thông phải được thể hiện dần dần. Thực sự, sự hiệp thông đã có đó rồi. Rất nhiều khi chúng ta chỉ thấy được những mối chia rẽ giữa các tín hữu, giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, nhưng cũng thấy ngay trong nội bộ của mọi Giáo hội, cả trong nội bộ của các cộng đoàn của chúng ta nữa. Nhìn kỹ vào những mối bất hoà kia, ta có thể nghiệm thấy rằng nếu biết dùng những phương tiện của sự hiệp thông, chúng ta sẽ xây dựng được cuộc sống huynh đệ. Để được như vậy, chúng ta phải biết nhìn nhận nhau là những con người khác nhau, nhưng đã được quy tụ lại bởi cùng một Lời và cùng tự nhủ là phải ráo riết thể hiện nước Chúa bằng việc rao giảng Tin Mừng.
Ý muốn chối bỏ những khác biệt thường dẫn tới sự từ chối người khác. Dẫu sao, giữa các cộng đoàn và các Giáo hội của ta cũng như giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, tính khác biệt là một quy luật chung, không ai chối cãi được.. Phải tôn trọng tập thể khác đã đành, mà bản thân mỗi người cũng cần biết tôn trọng nhau nữa. Như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ những đau khổ của nhau, giống như những phần mình của một thân thể cùng chung phần đau đớn với phần khác trong thân thể vậy: đó chính là giáo huấn bản của thánh Phaolô. Nhận biết điều này và tôn trọng nhau như vậy không gì phù hợp với lẽ phải hơn, bởi lẽ chỉ một Thánh Thần sống trong ta và một Đức Kitô là đầu mới có thể cho phép ta thực hiện được điều này mà thôi. Chính Đức Kitô, Lời nhập thể là sự thiện chung mà mọi người cùng hưởng. Lời Chúa quy tụ chúng ta lại, cách riêng vào mỗi ngày Chúa nhật, ngày mà chúng ta cùng nhau chúc tụng tôn vinh Đức Kitô phục sinh, nên các Giáo hội Kitô của chúng ta, dù khác biệt nhau thế nào, thì Lời này vẫn phải được chia sẻ, hiểu biết, để Lời mang lại hoa trái và hoa trái tồn tại.
Nếu chúng ta thực sự ý thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của Lời này, thì ta sẽ càng có khả năng hơn để thực hiện được việc rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ, việc giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, bị áp bức và đem ánh sáng đến cho kẻ mù lòa. Đây là trách vụ chung mọi người cùng phải gánh vác, dù các Giáo hội và cộng đoàn của ta có là gì chăng nữa. Nếu chúng ta muốn sống tình bác ái huynh đệ giữa các Kitô hữu với nhau, ta phải bắt lay xây dựng một thế giới chan hòa tình huynh đệ.
76. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU TẠI NAGIARÉT
1. Sách bài đọc của phụng vụ đã tổng hợp làm thành một bài đọc hai đoạn phúc âm cách nhau đến 3 chương trong Phúc Âm thánh Luca. Thực khó tìm thấy được ý hướng xếp đặt này; một cách đơn giản có lẽ phụng vụ muốn ráp nối 2 đoạn văn khai mạc: một đoạn của phần nhập đề Phúc âm Luca và đoạn kia nói đến việc Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy tại Nagiarét. Dù sao, giả thiết phần nhập đề của phúc âm không đặt ra vấn đề gì đặc biệt trong việc chú giải, chúng ta chỉ cần chú giải ở đây phần thứ hai của bài đọc phụng vụ, nghĩa là sự rao giảng của Chúa Giêsu tại Nagiarét.
2. Cả ba Phúc âm nhất lãm đều phù hợp nhau khi kể lại rằng, sau khi được thanh tẩy và bị cám dỗ, Chúa Giêsu trở về Galilêa để bắt đầu rao giảng ở đó (Mc 1,14; Mt 4,12; Lc 4,14). Lời rao giảng công khai của Đấng thiên sai đi liền theo sau các giai thoại siêu nhiên được thực hiện cách âm thầm.
Theo Mc 1,15 và Mt 4,17, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa đã gần đến và cần phải thống hối ăn năn để thông dự vào nước ấy (Macco xác định đó là Tin mừng và phải lãnh nhận Tin mừng ấy bằng đức tin). Luca không phải là không biết đến những đề tài này trong lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu (4,43; 5,32). Nhưng thay vì tóm lược lời rao giảng ấy trong một câu thì tác giả lại trình bày nó trong một khung cảnh rộng rãi, khung cảnh ấy phác họa những đường hướng hướng căn bản khai mào cho sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu. Đó là một khai mào trọng thể được Thánh Thần hướng dẫn (4,14.18), là Đấng đã tuôn tràn trên Chúa Giêsu từ ngày thanh tẩy (3,22; 4,1).
3. Trình thuật tiếp theo một đoạn tóm lược lời rao giảng của Chúa Giêsu tại Galilêa: Ngài giảng dạy trong các hội đường, gây sự chú ý và lòng nhiệt thành khắp cả vùng (4,14-15). Rồi “trở lại Nagiarét là nơi Ngài đã sinh trưởng, và theo thói quen, thì ngày nghĩ lễ, Ngài vào trong hội đường, đứng dậy đọc sách” (c.16), Luca vắn tắt nhắc lại điều ông đã kể về thời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nagiarét (2,39-40.51-52). Chỉ lần này tác giả gọi thành nhỏ này bằng tiếng Aram Nazara (như trình thuật tương tự của Mt 4,13) nhưng tác giả không gọi thành đó là “quê hương” của Chúa Giêsu (như Mc 6,1 và Mt 13,54 đã gọi): có lẽ vì Chúa Giêsu không sinh ra ở đó (2,4-7), và nhất là vì đối với Luca thì “quê hương” của Chúa Giêsu là tất cả vùng đất Israel (x.các chương 24-27).
Phúc âm của ông đã cho thấy cha mẹ Chúa Giêsu nhiệt thành tuân giữ lề luật (2,21.22-34.39.41-42), tác giả sẽ còn kể nhiều lần Chúa Giêsu vào trong các hội đường ngày hưu lễ (4,31-33; 6,6; 13,10). Nhưng đây là ngày hưu lễ đầu tiên mà Chúa Giêsu lên tiếng công khai trong buổi cầu nguyện ở hội đường. Do đó, theo phong tục thời bấy giờ, Ngài đứng dậy sau khi nghe sách luật và ra mắt quần chúng bằng một bài đọc sách các tiên tri.
4. Cách chung người ta thừa nhận rằng vào thời Chúa Giêsu thì việc đọc các sách tiên tri trong hội đường ngày hưu lễ không theo một lịch trình rõ ràng, nghĩa là không theo một chu kỳ gồm những bài đọc dọn sẵn như phụng vụ chúng ta ngày nay (ít ra đó là ý kiến của phần đông các nhà chú giải Phúc âm Luca. Lập trường của Strack-Billerbeck trong cuốn Commenter zum Neuen Testament, IV Minchen năm 1928, trang 169-170, dầu vậy lập trường này cũng bị chống đối: xem Guilding, The Fourth Gospel and Jewish Waship, Oxford, 1960, tr. 7-10, 21-22, 125-126; vấn đề hình như cũng chưa được giải quyết ổn thỏa). Điều này rất phù hợp với trình thuật của Luca, Chúa Giêsu “gặp ngay” bản văn (chắc chắn sau khi đã tìm kiếm: Chúa Giêsu là người biết rõ Kinh Thánh, có thể dễ dàng tìm được một đoạn nói về Đấng Messia trong hầu hết các sách tiên tri; khi tỏ ý cho người chủ nhà hội mời Ngài giải thích đoạn văn Isaia, chắc chắn Ngài có thể chọn một trong nhiều đoạn văn loan báo về Đấng Messia) có thể giúp Ngài giải thích sứ mạnh của mình.
Bản văn Chúa Giêsu đọc là Is 61,1-2. Luca trích dẫn theo bản văn LXX với một vài thay đổi: nơi câu một của tiên tri, tác giả bỏ sót câu “chữa lành những tâm hồn tan nát” và ngắt câu hai trước những chữ “và ngày báo thù”; tác giả thêm vào câu 1: “trả tự do cho những kẻ bị áp bức”, chắc hẳn là do Is 58,6; từ đầu câu 2, tác giả thay tiếng: “rao” (appeler) bằng “công bố” (proclamer) đã có sẵn ở câu trước.
Đối với thính giả Chúa Giêsu, bản văn này là lời của một tiên tri và họ có thể đồng hóa vị tiên tri ấy với người tôi-tớ-Giavê mà những lời sấm của người tôi tớ ấy được tìm thấy ngay trong chính sách này (nhất là 42,1-7 có những tương quan chặt chẽ với 61,1). Bản văn loan báo một năm hồng ân tương đương với định chế của năm toàn xá theo luật Môisen (Lv 25,8-17). Nhưng mọi người đều hiểu rõ rằng, đối với Isai, điều quan hệ ở đây không phải chỉ đơn giản nói đến những tính toán giữa con người với nhau: chính Thiên Chúa sắp can thiệp bằng ân sủng của Ngài, và sự tự do mà Ngài loan báo hoàn toàn vượt lên trên sự tha nợ giữa những Do thái; đó là sự cứu độ lạ lùng của thời cánh chung và có thể đồng hóa với nước Thiên Chúa, mà người ta sẽ sôi nổi chờ đợi.
5. “Bấy giờ Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Trong câu đầu tiên này Chúa Giêsu đưa ra tất cả ý hướng bài giảng. Ngài sắp thực hiện nơi Ngài lời sấm ngôn tiên tri mà chính Ngài vừa đọc. Làm như vậy, Ngài xử sự như một tiên tri.
Tiếng đầu tiên của Chúa Giêsu thật quyết liệt. "Hôm nay” xuất hiện nhiều lần nơi Luca, và chỉ Luca mà thôi, trong những đoạn khác nhau nói đến ơn cứu độ được thực hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu: ngày sinh nhật (2,11), chịu thanh tẩy (3,22), chữa lành người bất toại (5,26), những phép lạ và cuộc tiến lên Giêrusalem (13,32-33), tha thứ cho ông Giakêu (19,5-9), lời hứa tha tội người trộm lành (23,43). Tiếng này ám chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu tạo nên một giai thoại thoại đặc sắc trong thời cứu độ. Luca không xem đây là thời thế mạt, vì ông biết Giáo hội đang nối tiếp cuộc đời Chúa Giêsu và ông trông đợi ngày Chúa trở lại (12,40; 17.22-37; 18,8; 21,27). Nhưng ông cũng nhìn thấy trong sứ điệp của Chúa Giêsu, một thời kỳ đặc biệt của lịch sử, một thời đại ân sủng giữa những sửa soạn của Cựu Ước và thời bành trướng của Giáo hội, “trung tâm thời gian”, thành ngữ danh tiếng của Conzelmann.
Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài sấm ngôn của Is 61. Khi chịu phép rửa Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần như một xức dầu ban cho Ngài một phận vụ thánh mà Luca diễn tả như là phận vụ của Messia (hoặc do việc trông đợi Đức Kitô trong 3,15 hoặc do lời Chúa Cha trong 3,22 lấy lại lời sấm phong vương cổ xưa của thánh vịnh 2,7). Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Messia khác xa các vua trần gian mà các người đương thời mong đợi. Để tránh hiểu lầm Ngài không công khai minh định mình là Đấng Messia (x.4,11) và chỉ mạc khải điều đó cho nhóm tông đồ này, sau này khi họ đủ khả năng lãnh hội mạc khải đó (9,18-21). Còn bây giờ, lúc mới bắt đầu sứ vụ Ngài thích tự xưng là tiên tri mang tin mừng cứu độ. Có lẽ bản văn Isaia cho thấy Ngài là chân dung người tôi tớ Giavê, và nói lên các đề mục chính yếu của Tin mừng Ngài rao giảng là: người nghèo được ưu đãi, kẻ tù đày bị áp bức được giải phóng tự do, người mù được xem thấy. Những điều đó rõ ràng nói lên lòng ưu ái Ngài dành cho những kẻ khiêm nhu và các phép lạ Ngài sắp làm để thắng bệnh tật thể xác. Đồng thời các lời đó còn đưa ra các yêu sách và ân huệ của Ngài: lời mời gọi có tâm hồn nghèo khó, lời hứa giải phóng tội nhân đắm chìm trong giận dữ, cho người tin được xem thấy (khi chú giải “xem thấy” này, Chúa Giêsu theo sát tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2 tiên tri vừa loan báo một năm hồng phúc vừa loan báo một ngày báo oán; như thế ông trình bày đề tài cựu truyền về ngày của Giavê, vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Ở đây Chúa Giêsu không nói đến việc phán xét: không phải là Ngài loại bỏ chủ đề Ngài thường đề cập trong Tin mừng (Lc 6,20-26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), nhưng trong diễn từ này Ngài chỉ nhắm đến “trung tâm thời gian” là lúc mà ơn cứu độ được ban cho Israel; chính là thời gian mà Ngài gọi là năm hồng phúc của Chúa, là dịp thuận tiện mà dân Ngài phải lợi dụng (thật bạo gan khi muốn tìm ở đây một chỉ dẫn về thời hạn sứ vụ của Chúa Giêsu; bản văn Isaia nói là rao giảng trong một năm, nhưng Chúa Giêsu ở đây không nói chi đến thời gian hoạt động của Ngài).
Tóm lại, theo Luca, tư tưởng Chúa Giêsu ở đây giống như tư tưởng trong lời loan báo: Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Lc 1,15 và Mt 4,17 đã ghi lại vì lời loan báo này cho thấy bây giờ người ta có thể vào nước Thiên Chúa nhờ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Nhưng cách diễn tả của Luca chính xác hơn: phân biệt thời gian Chúa Giêsu hoạt động với thời gian hoàn tất có ý nghĩa cánh chung Luca cũng xác định đúng vai trò, hồng ân và các yêu sách của Chúa Giêsu.
6. Giai thoại này bộc lộ các ý hướng chính của Luca. Ông biết giai thoại Nagiarét này nằm sau một chuỗi hoạt động của Chúa Giêsu. Ông nói câu đó trong hai câu đi trước đoản văn này (4,14-15) và gián tiếp ám chỉ ở 4,23. Ông đặt giai thoại này vào lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Hiển nhiên ông muốn chính Chúa Giêsu xác định sứ mạng ngay từ đầu phúc âm. Ý hướng này cũng có ở đầu sách Cvsđ (Ccsđ 1,8), là câu ghi lời Chúa Giêsu loan báo sứ mệnh truyền giáo của các tông đồ, và cho thấy lược đồ cuốn sách.
Cũng như trong Macco và Matthêu, khung cảnh câu chuyện là hội đường. Đây là một trong những phương pháp của Chúa Giêsu (4,15.33-34; 6,6; 13,10). Đây cũng là cách các nhà truyền giáo (mà Lc được tháp tùng) thường làm; tại mỗi thành, các Ngài bắt đầu rao giảng tại hội đường (Cvsđ 9,20; 13,5.14.44; 14,1; 17,1.10; 18,4.7.19; 19,8). Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh sứ điệp cứu rỗi được ban cho Israel trước hết bắt đầu từ thánh kinh và phụng tự; giao ước mới hoàn tất giao ước cũ.
Mc 1,15 và Mt 4,17 tóm tắt sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu là: công bố nước Thiên Chúa gần đến. Luca làm sáng tỏ điều đó hơn nữa khi trích Is 61 là đoạn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã tự áp dụng cho mình. Trong cảnh ở Nagiarét, bản văn cho thấy đấng Messia, được giới thiệu khi chịu phép rửa, đã ra mắt công chúng như là vị tiên tri được Thánh Thần tấn phong; Ngài sắp đặc biệt lưu tâm đến các người nghèo khó, đau khổ, bị áp bức (đây là tư tưởng của riêng Luca); Ngài đến giải thoát họ và cho họ nhìn thấy chương trình của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giêsu tạo nên thời đại ân sủng cho Israel, mà họ phải biết lợi dụng ngay từ hôm nay.
KẾT LUẬN
Màn khai diễn là một điểm rất quan trọng để hiểu những chương phúc âm kế tiếp. Một cách nào đó Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài. Trước hết Ngài đem đến ơn cứu độ, giải phóng, ánh sáng, ủi an: tất cả những thứ đó đều dành cho những người nghèo khó và bị áp bức. Thực sự đã bắt đầu một năm mới toàn xá. Nhưng lần này không phải chỉ có con người mới tha nợ và trao trả quyền công dân, tự do. Trong ngôi vị được xức dầu, chính Giavê đến tha nợ cho con người và giải thoát con người khỏi nô lệ sự dữ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kiến thức về Chúa Giêsu mà chúng ta có được, kiến thức mà các vị thủ lãnh giáo hội, cha mẹ và những nhà giáo dục truyền lại cho ta từ đời nọ sang đời kia, bắt nguồn từ các sách phúc âm. Những sách phúc âm này, như tác giả Phúc âm Luca cho biết trong những câu đầu của Phúc âm ta vừa đọc, đã được viết bởi các nhân chứng đã chứng kiến các biến cố, hay bởi những người cẩn thận như Luca, đã sưu tầm cách chắc chắn trước khi xuất bản. Như vậy có nghĩa là đức tin của chúng ta không phải được dựa trên những dụ ngôn hay thần thoại do trí tưởng tượng bày ra. Đức tin của chúng ta đặt cơ sở trên những sự kiện lịch sử được nhiều người thà đổ máu để làm chứng hơn là chối bỏ những sự kiện này. Điều này mang lại cho Kitô giáo một bộ mặt đặc biệt, độc nhất trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Kitô giáo được đặt trên cơ sở chính yếu là sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử, phân biệt Kitô giáo với các tôn giáo cũng như với mọi hệ thống tư tưởng khác. Thiên Chúa chúng ta là Chúa tể mọi sự kiện,mọi hành động có thực, không phải là ngẫu tượng hay thuần tư tưởng. Và Thiên Chúa ấy lưu tâm đến lịch sử cụ thể của con người, chính Thiên Chúa ấy ngày nay còn kêu gọi ta qua trung gian Chúa Giêsu, con người cụ thể ở Nagiarét.
2. Khi rao giảng một trong những sứ điệp của mình cách công khai tại Nagiarét là “nơi mình đã sinh trưởng” (c.16), Chúa Giêsu cho thấy rõ sự tế nhị của tâm hồn Ngài. Là người có tiếng tăm khắp vùng Galiles (c.14-15), Ngài không quên nơi mình đã lớn lên. Ngài muốn thông truyền cho người láng giềng, bà con, người đồng hương Tin mừng cứu độ, “năm hồng phúc” mà Thiên Chúa ban cho dân Israel và thế giới qua Ngài. Cho dầu là Con Thiên Chúa, được sinh ra nơi Thánh Thần, Chúa Giêsu cũng không từ chối những tương quan nhân loại nối kết Ngài với thành Nagiarét. Ân sủng không đến để phá hủy nhưng để hoàn hảo những gì tự nhiên: để sống đời Kitô hữu trọn vẹn thay vì làm cho chúng ta tách rời khỏi người đồng hương lại làm cho chúng ta xích lại gần họ hơn và khích lệ ta yêu mến họ một cách trung kiên và tế nhị hơn.
3. Cho dầu là Đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng tiếp tục lui tới hội đường “theo thói quen của Người: (c.16). “Ngài tự đặt mình dưới lề luật” (Gal 4,4) như trình thuật về thời thơ ấu đã cho thấy điều đó. Ngài không đến để phá bỏ lề luật, nhưng thực thi và kiện toàn Lề luật. Là môn đệ của Ngài, chúng ta phải chọn con đường là vâng lời và tuân theo thánh ý Chúa Cha được bộc lộ trong luật Chúa và luật Giáo hội.
4. Chúa Giêsu đã đến trước hết là để cứu vớt những người nghèo, bị áp bức đui mù. Sứ vụ công khai của Ngài thấy Ngài luôn quan tâm nâng đỡ những người đau khổ Ngài gặp trên đường. Nhưng trước hết Ngài chú ý đến những người đau khổ trong tâm hồn. Vì những người đau khổ phần xác chỉ là hậu quả và dấu chỉ của đau khổ phần hồn. Vì vậy, chính khi chữa lành bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, trước tiên ngài nhằm giải thoát những tâm hồn tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, mở mắt đức tin. Công việc từ bi của Ngài luôn được tiếp tục trong giáo hội và qua giáo hội. Nhờ các nhiệm tích, Chúa Giêsu tiếp tục giải thoát các tín hữu nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng họ bằng bánh Thánh Thể, ban cho họ sức mạnh ân sủng. Nhờ lời giáo huấn của giáo hội, Chúa Giêsu tiếp tục thông truyền ánh sáng Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm. Và mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh của mình, đã được thụ hưởng hồng ân cao cả ấy của Chúa Kitô, thì đến lượt mình cũng phải làm cho những người mình gặp cũng được hưởng ân huệ ấy như mình. Mỗi người phải tiếp nối công việc của Chúa Kitô quanh mình, bằng cách tuôn tràn niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng tất cả nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời tiên tri Isaia hôm nay được hoàn tất, năm hồng ân của Chúa hôm nay được công bố, và nước Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
77. Chú giải của William Barclay
LỜI GIỚI THIỆU CỦA MỘT SỬ GIA
Lời mở đầu của Luca rất độc đáo vì trong cả ba sách Phúc Âm đầu tiên, đây là chỗ duy nhất có chính tác giả bước lên sân khấu và dùng đại từ “Tôi”. Trong đoạn Kinh Thánh này có ba điều cần chú ý:
1. Đây là một trong những mẫu văn chương Hy Lạp đẹp nhất trong Tân Ước. Luca đã dùng cách giới thiệu sách các đại sử gia Hy Lạp quen dùng. Herodotus, một tác giả nổi tiếng về lịch sử Hy Lạp đã mở đầu cuốn sách của ông như sau: “Đây là những sưu tầm của Herodotus thành Halicarnassus”. Về sau, có một sử gia khác là Dionysius ở thành Halicarnassus viết thư sau ở đầu cuốn sách của ông: “Trước khi bắt đầu viết, tôi đã thu thập tài liệu, một phần do lời tường thuật của những người thông thái tôi từng quen biết”. Khi bắt đầu viết sách Phúc Âm, Luca đã tuân theo những khuôn mẫu cao nhất và bằng một giọng văn Hy Lạp sáng sủa nhất.
Dường như ông đã tự nhủ: “Mình đang tường thuật một truyện vĩ đại nhất thế giới, nên chỉ những gì tuyệt hảo mới xứng hợp với chuyện này”. Có một số bản cổ đã thực là những sản phẩm tuyệt vời, viết bằng mực bạc trên nền vải điều, và người ký lục, khi viết đến danh Thiên Chúa hay Chúa Giêsu thì viết bằng chữ vàng. Tiến sĩ Boreham kể về một người thợ già, mỗi đêm thứ sáu, chọn sẵn những đồng tiền mới nhất, sáng nhất để dâng ở nhà thờ vào ngày Chúa nhật. Sứ giả, viên ký lục và người thợ nói trên đều chung một ý tưởng là chỉ có những gì tốt nhất mới xứng đáng cho Chúa Giêsu. Bao giờ họ cũng muốn dâng điều tốt nhất của mình cho Đấng Tối Cao.
2. Điều rất có ý nghĩa là Luca không thoả mãn với các sách đã chép về Chúa Giêsu. Ông phải viết một cuốn sách về Ngài. Tôn giáo thật không phải là một thứ gì nghe qua người khác. Đó phải là một khám phá cá nhân. Tiến sĩ Gossip của đại học Trinity ở Glasgow thường nói rằng bốn sách Phúc Âm đều quan trọng, nhưng mỗi người cần phải vượt qua đó để tới Phúc Âm của kinh nghiệm cá nhân.
3. Hiếm có đoạn Kinh Thánh nào chiếu toả như tia sáng về tính cách linh cảm của Kinh Thánh đến thế. Không ai phủ nhận Phúc Âm Luca là sách được Chúa linh hứng, tuy vậy ông đã bắt đầu bằng lời quả quyết: đó là một công trình nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Ơn linh hứng không ban cho một tâm trí lười biếng, chỉ biết ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng cho tâm trí nào biết suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu. Ơn linh hứng thật chỉ đến khi trí não tra cứu của con người gặp Thánh Linh mặc khải của Thiên Chúa. Lời Chúa được ban ra, nhưng chỉ cho nhưng người biết tìm kiếm Lời ấy mà thôi. “Hãy tìm sẽ gặp” (Mt 7,7).
MÙA XUÂN XỨ GALILÊ
Chúa Giêsu vừa rời khỏi hoang địa, Ngài liền phải đối diện với một quyết định khác. Ngài biết giờ hành động của Ngài đã đến, Ngài đã xác định phương cách rồi, bây giờ Ngài phải bắt đầu tại đâu?
1. Ngài bắt đầu tại Galilê.
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ Đông sang Tây. Galilê có nghĩa là vòng tròn, phát xuất từ chữ Galil trong tiếng Do Thái. Người ta gọi thế bởi vì vùng đất ấy được vây bọc bởi các nước ngoại bang. Chính vì thế mà Galilê luôn bị các thứ ảnh hưởng thâm nhập và đã trở thành phần đất tân tiến, ít bảo thủ. Đó là một vùng đông dân cư nhất của xứ Do Thái. Sử gia Josephus, người đã có lần làm thống đốc tại vùng này cho biết rằng miền đó có 204 làng hoặc thành, làng nào cũng có số dân không dưới 15.000. Hầu như khó tin rằng Galilê có thể lên tới ba triệu dân. Đó là vùng đất phì nhiêu lạ thường. Một tục ngữ đã phản ánh điều này: “nuôi một vạn cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa con ở xứ Giuđê”. Khí hậu rất tốt và nước uống dư dật khiến Galilê trở thành một vườn cây của xứ Palestine. Danh mục các loại cây mọc ở đó chứng tỏ đất rất tốt: cây nho, ôliu, vả, giẻ, hồ đào, thông, cọ, bá hương, trắc, dầu thơm, thông các loại, sung, dương, sim, anh đào, thạch lựu, chanh, trúc đào… Chính người Galilê là những người vùng cao của xứ Palestine. Josephus nói về những người Galilê rằng: “họ chuộng sự mới mẻ, bản tính họ thích đổi thay, và chỉ thích nổi loạn. Nếu có lãnh tụ nào đứng ra khởi xướng một cuộc nổi dậy là họ sẵn sàng theo ngay. Họ dễ nóng giận và ưa tranh cãi”. Người ta thường nói: “Người Galilê không bao giờ thiếu can đảm”, “người Galilê mê tìm danh tiếng hơn là tìm lợi lộc”. Chúa Giêsu đã bắt đầu sự vụ tại một nơi như vậy. Đó là đất của Ngài, nơi đó đem đến cho Ngài –ít ra lúc ban đầu- một số thính giả biết đón nhận và say sưa với sứ điệp của Ngài.
2. Ngài đã bắt đầu trong hội đường.
Hội đường là trung tâm đời sống tôn giáo ở xứ Palestine. Trong nước chỉ có một Đền Thờ, nhưng luật quy định rằng hễ ở đâu có mười gia đình Do Thái thì ở đấy phải có một hội đường, và như thế ở trong mỗi thành, mỗi làng, dân chúng nhóm họp thờ phượng trong hội đường. Không có tế lễ trong hội đường. Đền Thờ mới là nơi để dâng của lễ, hội đường chỉ để giảng dạy. Làm thế nào Chúa Giêsu có thể vào hội đường và làm sao khi Ngài chỉ là thường dân, một thợ mộc ở Nagiarét, có thể giảng dạy tại đó? Nghi thức thờ phượng ở hội đường có ba phần:
a. Phần thờ phượng bằng cầu nguyện.
b. Phần đọc Kinh Thánh. Có bảy người trong cộng đoàn đứng lên đọc. Vì họ đọc bằng tiếng Do Thái cổ là ngôn ngữ đại đa số dân chúng không còn hiểu nữa, nên phải có các thầy Targum giúp dịch sang tiếng Aram hay Hy Lạp. Khi đọc luật thì mỗi lần một câu, còn đọc sách ngôn sứ thì mỗi lần đọc ba câu.
c. Phần giảng dạy. Tại hội đường không có chức vụ giảng chuyên nghiệp, cũng không có một người biệt riêng để giảng dạy. Vị chủ tịch hội đường sẽ mời một nhân vật đặc biệt nào đó có mặt trong giờ họp nói mấy lời, sau đó tới giờ thảo luận. Như vậy Chúa Giêsu mới có cơ hội tham gia tại đó và toà giảng ở đó đã mở cửa cho Ngài vào giai đoạn này.
3. Đoạn Kinh Thánh cho biết mọi người đều khen ngợi Ngài.
Giai đoạn Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ đây được gọi là Mùa Xuân xứ Galilê. Ngài đã đến đó như một luồng gió từ Thiên Chúa. Phe đối lập chưa xuất đầu lộ diện, lòng người còn đang khao khát lời hằng sống và dân chúng chưa nhận thức được Ngài sẽ đụng chạm mạnh mẽ như thế nào tới niềm tin chính thống đương thời. Rao giảng một sứ điệp đã được thai nghén kỹ càng bao giờ cũng thu hút được thính giả.
Một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nagiarét, quê nhà của Ngài. Nagiarét không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nagiarét toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta. Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bại và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận. Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas. Có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Chúng tôi đã phác hoạ giờ thờ phượng tại hội đường và đoạn sách này cho ta thấy cả một bức tranh sống động về hoạt động phụng vụ ở đó. Không phải Chúa Giêsu cầm một quyển sách, vì thời đó mọi sự được viết trên những cuộn da. Ngài đã đọc Is 61. Trong câu 20, bản dịch King James đã nói sai về “kẻ giúp việc”. Thực ra vị này là một viên Chazzan đảm nhiệm nhiều thứ công tác. Ông có bổn phận lấy ra và cất vào những cuộn Kinh Thánh, có bổn phận giữ cho hội đường sạch sẽ, có bổn phận thổi ba hồi kèn bạc từ trên nóc hội đường loan báo ngày Sabat, ông cũng là giáo viên trong trường học của vùng ấy nữa. Câu 20 nói rằng Chúa Giêsu ngồi xuống, khiến ta có cảm tưởng Ngài đã làm xong công việc. Thực ra, Ngài sắp sửa bắt đầu, vì diễn giả ngồi mà giảng và các rabi cũng ngồi khi giảng dạy (do tục lệ này mà chúng ta thường nói ghế của giáo sư).
Chúng ta cần để ý tới hai điều:
1. Chúa Giêsu có thói quen vào hội đường vào ngày Sabat. Tại đó hẳn có nhiều điều Ngài hoàn toàn không đồng ý và làm Ngài cảm thấy khó chịu, nhưng Ngài đã đến đó. Việc thờ phượng tại nhà hội có thể có nhiều thiếu sót, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua hiệp thông với dân Chúa bằng thờ phượng trong Ngày của Chúa.
2. Đọc lại đoạn Kinh Thánh trong Isaia mà Chúa Giêsu đã đọc hẳn chúng ta nhận thấy sự khác biệt giữa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy Giả. Gioan giảng về tai hoạ, và khi nghe sứ điệp của ông, người ta phải rùng mình kinh sợ. Còn Chúa Giêsu đem Phúc Âm-Tin Mừng đến. Chúa Giêsu biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng bao giờ cũng là thịnh nộ do tình thương.
78. Góp phần thi hành sứ vụ Thiên Sai
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu công bố về năm hồng ân của Chúa
Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với một chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: Thê-ô-phi-lô là một người giàu có và đáng kính thời bấy giờ. Ong này đã được tác giả Lu-ca gửi tặng cuốn Tin Mừng để nhờ ông làm người bảo trợ cho việc sao chép ra nhiều cuốn sách trên các tấm da thuộc, hầu có thể phổ biến đi nhiều nơi.
- C 3-4: + Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Vì Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ theo Đức Giê-su ngay từ đầu, nên ông phải tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời và Tin Mừng của Người rồi viết lại. +Tuần tự viết ra: Ông viết Tin mừng theo thứ tự văn chương và các đề tài giảng huấn, chứ không theo đúng thứ tự thời gian trước sau.
- C 14-15: + Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy: Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây Thần Khí lại thúc đẩy Người trở về Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. +Người giảng dạy trong các hội đường của họ: Hội đường là nơi người Do thái đến hội họp, cầu nguyện và nghe giảng Kinh thánh vào các ngày Sa-bát. Ở mỗi làng khắp xứ Pa-lét-tin cũng như tại những nơi có người Do thái cư ngụ đều có hội đường.
- C 17b-19: + Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giê-su đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa,. +Thần Khí Chúa ngự trên tôi...: Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) nói về việc xức dầu tấn phong của một ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giê-su đã ứng dụng vào sứ mệnh của Người: Người mới được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa của Gio-an, và coi đó là nguồn gốc phát sinh các hoạt động cứu độ của Người. +Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng Ân hay năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo Luật Mô-sê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (x Lv 25,10-13). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội một cách thiết thực cụ thể. Đây là tin mừng giải thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm nô lệ cho những kẻ giàu có quyền thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của đồng loại.
- C 20-21: + Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Lu-ca, để nhấn mạnh tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11); “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22); “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21); “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b); “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9); “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì ba lần anh đã chối không biết Thầy” (Lc 22,34.61); “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
CÂU HỎI:
1) Lu-ca đã viết lời tựa sách Tin Mừng gửi cho ông Thê-ô-phi-lô nhằm mục đích gì? 2) Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ. Vậy ông đã làm gì để có thể viết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su cách chính xác được? 3) Hội đường Do thái là gì và dùng để làm gì? 4) Câu trích trong sách ngôn sứ I-sai-a được Đức Giê-su đọc tại hội đường Na-da-rét đã ứng nghiệm vào sứ mệnh cứu thế của Người như thế nào? 5) Bạn hãy kể ra 5 câu Kinh thánh có chữ “hôm nay” trong Tin mừng Lu-ca.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Nên thân nhân của Chúa nhờ sống giới răn yêu thương của Người:
Dan Clack kể lại một câu chuyện như sau: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một bé trai khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần nhìn vào gian hàng trưng bày quần áo trước một cửa hàng sang trọng. Em đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ tơi tả, trông như một mảnh giẻ rách. Một bà sang trọng đi ngang qua trông thấy và đọc được ước muốn trong đôi mắt của em. Bà liền đến cầm tay em dẫn vào tiệm và mua cho em một đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, khi cả hai bước ra ngoài phố, người đàn bà tốt bụng liền nói với cậu bé:
- Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Cậu bé trố mắt nhìn người vừa cho quà và hỏi:
- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười vỗ nhẹ vào vai cậu và trả lời:
- Con ơi, không phải đâu, ta chỉ là một trong những đứa con của Chúa thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
- Cháu đã sớm biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
Câu nói của cậu bé trong câu chuyện trên cho thấy: Chính lối sống yêu thương vị tha là dấu chỉ giúp tha nhân nhận biết chúng ta là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35), và việc thực hành yêu thương cũng làm cho chúng ta trở nên con cái trong đại gia đình của Chúa như Người đã nói: ”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, người phụ nữ trong câu chuyện trên đã thực hành lời dạy quảng đại yêu thương của Chúa: ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Vậy mỗi người chúng ta trong những ngày này sẽ làm gì cụ thể giúp đỡ tha nhân để nên con cái Thiên Chúa và nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu?
2) Chúa nói với chúng ta bằng những cách nào?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó có một màn kịch kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha đã tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng: “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà ông ta cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào phát ra từ cuốn sách. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt!
3. THẢO LUẬN: Một gia trưởng kia muốn mọi người trong gia đình thực hành Lời Chúa, nên đã treo một tấm bảng trên bức tường trong phòng ăn. Mỗi Chúa Nhật ông sai cô con gái lớn trong nhà viết lên bảng một câu Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật và một lời nguyện quyết tâm thực hành Lời Chúa bằng một việc cụ thể. Trước mỗi bữa ăn và trong giờ kinh tối gia đình, các thành viên sẽ đọc chung lời nguyện hoặc một người sẽ cầu nguyện tự phát ngắn gọn, kết thúc bằng lời thưa Amen của mọi người. Theo bạn, cách làm này có dễ thực hiện không? Có giúp cho mọi người trong gia đình bạn thực hành được Lời Chúa không? Tại sao?
4. SUY NIỆM:
1) Đức Giêsu công bố Tin Mừng về sứ vụ Thiên Sai:
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
2) Hội Thánh có bổn phận tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên Sai:
Trong Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại một số đoạn: Trong ngày Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (Lc 2,11). Khi Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (Lc 19,9). Chúa Giêsu cũng hứa với kẻ trộm cướp bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không những là "hôm nay" khi Người còn đang sống, mà còn là "hôm nay", khi Người tiếp tục sứ vụ Thiên Sai trong và nhờ Hội Thánh là các tín hữu chúng ta.
3) Thi hành sứ vụ Thiên Sai hôm nay là đem Tin Mừng cho người nghèo hèn:
Là loan báo cho những kẻ đang bị giam trong lao tù ngục thất được tha hay đang bị giam hãm trong thói ích kỷ tham lam biết họ được Chúa đến cứu thoát.
Là góp phần chữa lành những kẻ đang bị mù tối thể xác được nhìn thấy, hoặc đang lầm lạc được thoát vòng u mê tối tăm.
Là khai mở một năm Toàn Xá ban Hồng Ân cứu độ.
Mỗi Kitô hữu có sứ vụ tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, an ủi những người cô thế cô thân, xoa dịu các vết thương, loại trừ những sự sợ hãi, giải thoát những người đang bị áp bức... Mỗi tín hữu chúng ta cần trung thành thi hành sứ vụ đã được Đức Kitô trao phó, là góp phần làm cho sấm ngôn của ngôn sứ Isaia sớm trở thành hiện thực, công bố năm hồng ân của Chúa và Nước Trời an lành hạnh phúc sớm được thực hiện trong cuộc sống xã hội Việt Nam hôm nay.
4) Làm tông đồ là sống bác ái để làm chứng cho Chúa:
Là ki-tô hữu, chúng ta phải trở thành cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi cộng tác để làm bùng lên ngọn lửa tin yêu mà Người đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương từ trong gia đình ra đến khu xóm, giáo xứ và ngòai xã hội. Đó chính là đường nên thánh, là chìa khoá mở cửa thiên đàng cho mọi người chúng ta.
Đức Gio-an Phao-lô II đã nói: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy này đồng thời cũng là những chứng nhân”. Thực vậy, lời giảng suông thường khó thuyết phục người khác cho bằng gương sáng, như người ta thường nói: ”Trăm nghe không bằng một thấy”. Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ trở thành vô ích và có khi còn phản tác dụng: làm cho người ta ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên trong lễ phong chức linh mục như sau: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Cần áp dụng lời Chúa trong cách suy nghĩ, cách ứng xử giữa đời thường.
Mỗi người chúng ta cần sống hiệp nhất yêu thương nhau noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự giữa thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình; Các tổ chức quốc tế thường hợp tác với nhau để chống lại sự kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính, bệnh tật; Các cơ quan đoàn thể đã biết hợp tác để chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác... Xin cho các tín hữu chúng con cũng biết hợp tác với tha nhân để góp phần làm cho ngôi nhà chung của nhân lọai là trái đất ngày một an toàn tốt đẹp hơn.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân: nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa... Xin cho mọi người không còn bị đau khổ, không còn nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương thể hiện qua thái độ biết quan tâm chia sẻ và phục vụ cho nhau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
79. Mở đầu sứ vụ của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thánh Luca tường thuật Tin Mừng của Ngài là để loan báo sứ điệp của Chúa, thông báo Lời Chúa. Bởi vì, thánh Luca không phải là sử gia để ghi chép cuộc đời của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã nghe những người mục kích những việc Chúa làm, những Lời Chúa nói để tường thuật lại sứ điệp cốt yếu của Chúa Giêsu. Do đó, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đã trình bầy hai phần và phần nào cũng là phần mở đầu cả. Phần thứ nhất trích lời mở đầu của Tin Mừng thánh Luca và phần thứ hai là lời mở đầu sứ vụ của Ngài trong Hội Đường làng quê Nagiarét.
Bài đọc nhất tư tế Ê-dơ-ra đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng, gồm đàn ông đàn bà, và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn...Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Đoạn sách này cho chúng ta hiểu rõ đáp ca: " Lạy Chúa, những lời Ngài phán dạy. Là thần khí và là sự sống của chúng con ". Do đó, thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 12, 12-30, có viết: " Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người thứ nhất là làm tông đồ, thứ hai là làm ngôn sứ, thứ ba là làm thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được tài quản trị, được nói những thứ tiếng lạ...". Rõ ràng, tất cả phải được chọn và được sai đi để nói Lời Chúa và công bố sứ điệp tình thương của Ngài như lời tung hô Tin Mừng viết: " Ha-lê-lui-a.Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi.Đem Tin mừng cho người nghèo khó.Công bố lệnh ân xá cho những kẻ bị giam cầm.Ha-lê-lui-a ". Thánh Luca không làm công việc của một nhà viết sử. Ngài chỉ muốn trình bầy và công bố Lời Chúa, và kể lại những việc Chúa đã làm. Ngài muốn dạy Giáo lý hơn là viết cuộc đời của Chúa theo kiểu sử gia. Nên, Ngài đã để sự kiện Chúa Giêsu giảng Lời Chúa, cắt nghĩa Lời Chúa tại Hội Đường Nagiarét ngay đầu Tin mừng của Ngài.
Ở đây, thánh Luca đã nhấn mạnh sự kiện Chúa Giêsu giảng Lời Chúa ngay tại Hội Đường quê hương của Ngài ngày sabát, là để cho thấy trước tiên Chúa giảng dạy cho dân Do Thái vì thánh Luca là dân ngoại mới trở lại đạo và rồi qua bước ngoặt lịch sử thông điệp của Chúa Giêsu dựa trên lời ngôn sứ Isaia: " Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghẻo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa ", sẽ được công bố cho cả dân ngoại.
Thực tế,lời công bố của Chúa qua lời tiên tri Isaia đã thực hiện nơi chính Ngài.Lời ngôn sứ ấy dù đã được loan báo cách đó rất lâu nhưng nó đang được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu ngay tại nơi Chúa sinh trưởng. Lời này cho thấy truyền thống không hề bị ngắt đoạn nơi Chúa.
Chúa Giêsu đã tóm tắt sứ điệp tình thương của Ngài: người nghèo được nghe giảng Tin Mừng, Chúa giải phóng người bị áp bức và công bố năm hồng ân. Những người Do Thái trong Hội Đường lúc ấy, năm ấy, giờ ấy đã rất ngạc nhiên vì Chúa làm đảo lộn hoàn toàn trật tự có sẵn. Họ thẳng thừng chối từ Ngài. Họ không thể tin được những lời nói ấy lại ám chỉ về Ngài. Họ không chấp nhận nguồn gốc, lai lịch của Ngài. Ngài là con bác thợ mộc Giuse và con bà nội trợ Maria. Họ không thể chấp nhận Đấng Cứu Tinh, Đấng Thiên Sai lại đi loan báo sự giải phóng cho những kẻ bị đàn áp, những kẻ thấp cổ bé họng, những người cùng khổ. Họ không thể tin giờ này lại là giờ của hồng ân và rồi họ đâm ra căm ghét Ngài, tìm cách khử trừ Ngài.
Vâng, ngôn sứ Isaia trong quyển thứ ba có loan báo rằng, Tin Mừng là những người xa quê hương, xứ sở sẽ được trở về nơi cũ. Tin Mừng Chúa Giêsu công bố hôm nay là Tin Mừng cho người nghèo, Tin Mừng của tình yêu, của cứu độ bởi vì họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương.Họ sẽ được Thiên Chúa giải phóng khỏi tội lỗi, khỏi những điều ràng buộc của sự dự nhờ tình yêu và thần khí của Chúa.
Chúa loan báo Tin Mừng, công bố năm hồng ân để người người được chan hòa ân sủng, người áp bức, kẻ tù đầy được cứu thoát và rồi mọi người sẽ nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương chúng con bằng một tình yêu cao vời khôn ví. Xin cho chúng luôn sống hiệp nhất yêu thương nhau để tất cả chúng con được nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Amen.
80. Giờ cứu rỗi đã đến rồi - Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi
Trong cuộc sống gian trần, con người thường thích muốn biết tương lai, số phận, danh vọng, địa vị. Người ta cầu nguyện cũng có mà đi xem bói bài, bói toán, mê tín dị đoan cũng có. Ở Pháp người ta đề cập đến Nostradamus, ở Việt Nam có thời con người hay nói tới cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dù nói gì thì nói, tất cả những lời tiên đoán, những dự tính, những vị tiên tri cũng chỉ có thể làm được việc này việc nọ, nói được câu này câu kia là do Thánh Thần Chúa tác động và do quyền năng của Chúa cho phép mà thôi.Hôm nay lời Kinh Thánh cũng nghiệm ngay vào con người của Chúa Giêsu.
Theo sách Nohémi thuật lại thì Esdras tụ tập dân chúng công bố lời Chúa và giải thích lề luật, cắt nghĩa lời Chúa. Dân chúng nghe lời Chúa, tung hô và phủ phục trướcmặt Chúa cầu nguyện. Đây là nghi thức phụng vụ lời Chúa thường được tổ chức trong các hội đường Do Thái ngày Sabbát. Nghi thức phụng vụ này là phần thứ nhất trong thánh lễ ngày nay. Thánh Luca trong Tin Mừng của Ngài hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu trở về quê Nagiarét sau nhiều năm Ngài đã sống với Mẹ Maria, thánh cả Giuse và các bà con dân làng thành Nagiarét. Ngài bỏ cha mẹ, họ hàng, dân chúng để đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Thực tế, Chúa Giêsu đã sống ở làng Nagiarét 30 năm. Dân làng Nagiarét đã quá rõ về lý lịch của Ngài. Ngài là con bà Maria nội trợ, con thánh Giuse thợ mộc. Chính vì đã quá quen biết Chúa Giêsu, dân chúng mới tò mò tìm đến với Ngài để xem Ngài giờ đây ra sao. Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse bây giờ lại trở thành một Rabbi. Tại Hội Đường Do Thái, người ta trao cho Ngài cuốn Thánh Kinh, Ngài giở ra và gặp thấy đoạn viết:" Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Đoạn sách này thuộc đoạn 61 của ngôn sứ Isaia. Đoạn này dân chúng đã được nghe nhiều lần và nhiều người đã thuộc nằm lòng. Điều ngạc nhiên đó là Chúa Giêsu gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố:" Hôm nay, lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện". Đây là một sự tuyên bố gây ngạc nhiên đến kinh ngạc đối với nhiều người vì chưa có một ngôn sứ nào dám xưng như thế. Tuy nhiên chỉ có một người hiểu được sự việc ấy là Mẹ Maria. Chúa tuyên bố Ngài là Đấng cứu độ. Ngài "hôm nay" để giải thoát nhân loại, để khai mở năm hồng ân cứu độ.
Chúa Giêsu đến khai mở năm hồng ân, năm toàn xá. Ngài được Thánh Thần tấn phong, xức dầu. Do đó, chúng ta cũng đã được xức dầu để trở nên ngôn sứ loan truyền ơn cứu độ cho Chúa. Chính Thánh Thần đã chi phối cả đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng để cho Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc đời, lời nói, hành vi của chúng ta bằng việc chúng ta cộng tác vào ơn cứu rỗi của Chúa. Giờ cứu độ đã đến. Ơn cứu rỗi mỗi người chúng ta đều được lãnh nhận. Đoạn Kinh Thánh của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Lời đó cũng sẽ ứng nghiệm nơi mỗi người chúng ta. Được lãnh nhận bí tích rửa tội, tháp nhập vào thân thể Đức Kitô, mỗi người chúng ta là chi thể của Người, chúng ta phải sống sao để làm vinh danh và cả sáng cho con người của Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta không được làm ngơ trước nỗi nhọc nhằn, đau khổ của những người khác vì ơn cứu độ không dành riêng cho ai nhưng cho tất cả mọi người. Giờ cứu độ là giờ Chúa Giêsu được tôn vinh. Giờ Chúa Giêsu được vinh hiển qua cái chết và phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn là những sứ giả Tin Mừng, loan báo hồng ân cứu độ của Chúa và là chứng nhân cho Đức Kitô chết và sống lại. Amen.
81. Sứ vụ đầu tiên của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Sống nơi gia đình ẩn dật 30 tại làng quê Nagiarét, Chúa bắt đầu thực hiện sứ mạng công khai của Ngài. Khởi đầu sứ vụ, Ngài đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài. Ngài mở đầu sứ vụ đầu tiên của Chúa, tại Hội Đường Nagiarét quê hương của Ngài, Chúa Giêsu đã đọc đoạn Kinh Thánh trích lời ngôn sứ Isaia: ''Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa ".
Chúa nhật thứ III thường niên, năm C nhằm giới thiệu cho nhân loại, cho mọi người biết rõ con người của Chúa Giêsu, Người thực là Đấng Thiên Sai muôn dân hằng trông đợi, mong chờ. Tuy nhiên, cái trớ trêu và nghịch lý ở đây là tại quê nhà Nagiarét, dân chúng đã hững hờ, không nhận ra và không tiếp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bởi vì họ chỉ nhìn Chúa Giêsu là người bình thường, dân dã, con bác thợ mộc Giuse và con bà Maria. Họ quay lưng lại với Chúa Giêsu. Sứ điệp của Chúa Giêsu là rao giảng Nước Thiên Chúa đã sắp tới, nên người ta phải sám hối và tin vào Tin Mừng. Công việc của thánh Luca trong đoạn Tin Mừng này và cốt lõi của Chúa nhật này là thông báo Lời Chúa, nói lên sứ điệp chính yếu của Chúa Giêsu. Luca muốn giảng dạy giáo lý. Thánh Luca, một người ngoại giáo trở lại muốn nhấn mạnh rằng thông điệp của Chúa Giêsu trước tiên là gửi cho người Do Thái và qua đó dần dần thông điệp ấy sẽ được thông báo cho dân ngoại, cho mọi người. Thánh Luca không có ý thuật lại cuộc đời của Chúa Giêsu vì Ngài không phải là nhà sử học nhưng Ngài chỉ là người thông đạt Lời Chúa, diễn tả lại giáo lý của Chúa Giêsu. Việc công bố Kinh Thánh, Lời Chúa qua ngôn sứ Isaia tại Hội Đường Nagiarét như tiên báo tất cả những sự việc sẽ xẩy ra sau đó. Chúa Giêsu đã dựa vào lời của ngôn sứ Isaia để đưa ra bản tóm lược về Nước Thiên Chúa và cho mọi người biết rằng việc trích dẫn Isaia nói lên nguồn cội và truyền thống không bao giờ bị cắt đứt. Sứ vụ đầu tiên của Chúa Giêsu, nói cách khác ba điểm then chốt của thông điệp Nagiarét là: "Những người nghèo, sự giải phóng và năm hồng ân". Ba điểm này làm đảo lộn những gì người Do Thái đã nghe, đã sẵn có. Mới đầu nhiều người thán phục Chúa. Rồi họ đâm ra nghi ngờ. Sau đó, những người Nagiarét chối từ Ngài cách thẳng thừng. Họ tự nghĩ làm sao Đấng Cứu Thế lại đi rao giảng sự cứu thoát cho những người nghèo khó, những người thấp cổ bé họng, những người sầu khổ? Làm sao giờ phút này và bây giờ lại là thời điểm của năm hồng ân?
Người Nagiarét đã vấp phạm vì Chúa. Họ đã quay phắt 180 độ và quyết tâm khước từ Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng những người Israen bị lưu đầy ở Babylon sẽ được trở về nơi cố hương bản quốc. Tin Mừng của Chúa Giêsu hôm nay là Tin Mừng cho những người nghèo.Thiên Chúa yêu thương họ và mãi mãi yêu thương họ. Thiên Chúa cứu vớt họ khỏi mọi tội và quảng đại hy sinh mạng sống để cứu họ nhờ Tình yêu và Thần khí. Chúa loan báo Nước Thiên Chúa là loan báo năm hồng ân: năm ân huệ chứa chan, tội lỗi được tha, người áp bức được giải cứu, kẻ nô lệ được giải phóng. Loan báo năm hồng ân là xây dựng trời mới đất mới trong đó công bình, tình thương và an bình được tái lập.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết nhận ra Chúa nơi mọi người và biết nhận ra những dấu chỉ tình thương của Chúa. Amen.
82. Hôm nay Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP.)
Mỗi buổi sáng chúng ta thường chào hỏi nhau. Chẳng phải vì xã giao mà thôi. Trong lòng chúng ta ước ao cho nhau một ngày tốt đẹp, tốt đẹp từ "khởi sự cho đến hoàn thành". Đây là một truyền thống đáng trân trọng, như thể khi thức dậy người ta bước vào một ngày mới, cuộc đời mới, mọi sự sẽ diễn biến như ý. Các nguyên thủ quốc gia khi đăng quang nhận chức đều đọc diễn văn hoạch định chương trình hành động cho nhiệm kỳ của ông, vì lợi ích quốc gia. Đối với mọi người, mỗi ngày đều là khởi sự mớii, vơí những quyết tâm, những chương trình cho ngày ấy. Nhung người tín hữu khởi sự mới là bí tích rửa tội. Bí tích này cống hiến chúng ta một quan điểm hoàn toàn khác về thế giới, chính mình, tha nhân và về Thiên Chúa, mà mỗi ngày chúng ta phải nhìn lại lối sống của mình như những kẻ liên kết với Chúa Giêsu. Chúng ta lãnh thánh tẩy để làm môn đệ Ngài. Nhưng bước đường theo Chúa còn dài. Mỗi ngày chúng ta phải học hỏi việc đón nhận Đức Kitô như Cứu Chúa của mình, gia đình và xã hội. V?y chúng ta phải phục vụ Ngài ra sao? Khi đồng hành với người khác trên con đường luôn thay đổi, nhiều khúc quặt của cuộc đời? Mỗi ngày đều mang tới những thách đố mà người môn đệ Chúa không thể khoe mình thực hiện cách hoàn hảo, như bài đọc 2 hôm nay chỉ rõ: "Giả như toàn thân chỉ là mắt thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai thì lấy gì mà ngửi?" Vậy theo quan điểm tôn giáo chúng ta chúc nhau "good morning" để hy vọng lần nữa nói "có" cho chức vụ làm môn đệ Chúa. Bí tích thanh tẩy không phải là kết thúc nhưng là khởi đầu của tiến trình theo Chúa.
Bài đọc 3, thánh Luca nói rằng ông viết Phúc Âm cho những tín hữu đang học đạo, nghĩa là chưa hoàn thành việc làm tôi Chúa. Bài đọc gồm 2 phần, trích từ chương 1 và 4. Phần thứ nhất dẫn nhập vào Phúc Âm và Công vụ các tông đồ. Ông nêu rõ lý do và nhân vật ông đề tặng: " Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự kiện đã được thực hiện giữa chúng ta... Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài..." Ông Thêôphilô có lẽ là một vị vọng nhà nước mới trở lại công giáo. Nhưng ý nghĩa của tên ông là "Kẻ Thiên Chúa yêu mến". Như vậy mỗi chúng ta được phép nhận mình như người tiếp đón Phúc Âm Luca. Chúng ta đều là tín hữu mới trở lại đạo, cần học hành và tìm hiểu những hậu quả của đức tin. Mỗi ngày đối diện với khởi sự mới thì điều chi có ý nghĩa cho chúng ta để trở nên kẻ "Thiên Chúa yêu mến"? Được Ngài kêu gọi để phục vụ Đức Kitô? Chúng ta môi miệng nhiều quá rồi, xin hãy đi vào nội dung thực tế!
Thánh Luca giúp chúng ta thi hành điều ấy khi viết: " Mong ngài nhận ra rằng giáo huấn ngài học hỏi thật là vững chắc." Mục tiêu viết sách của thánh nhân là để chúng ta nhận ra giáo huấn mình học hỏi là vững chắc. Từ "nhận ra" trong tiếng Anh (realize) có nhiều nội dung. Thứ nhất, hiểu cách đầy đủ và chính xác. Đây là nội dung đầu tiên thánh Luca muốn giúp. Chúng ta quán triệt các sự thật Phúc Âm mà chúng ta lãnh nhận về Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu về Thượng Đế. Thứ 2, nhận ra còn có nghĩa làm trở nên thực tại hay thực tại hoá. Nội dung này đưa chúng ta đi xa hơn nhận biết, đến mức hành động. Những gì chúng ta hiểu biết thì thực hiện. Thứ 3, nhận ra còn có nghĩa thực tế (realistic) không mơ mộng hay lý thuyết suông. Liệu đức tin của chúng ta chỉ là một lý tưởng, một ý nghĩa tốt đẹp chứ không phải là "thực tế" mà chúng ta cần bày tỏ cho tha nhân, cho thế giới? Liệu lối sống của chúng ta thực tế, có thật chứ không phải viển vông? Lối sống "good to see, but not to live in" (coi đẹp đẽ lắm, nhưng không sống được), tức giả hình! Mong chúng ta hiểu được như vậy. Hy vọng rằng: mỗi ngày chúng ta cố gắng biến nếp sống mình thành thực tại Tin Mừng. Chúa Giêsu sẽ trợ giúp mỗi linh hồn quán triệt các hệ quả của Tin Mừng như Ngài tuyên bố trong hội đường Nazareth hôm nay. Tại đây Ngài hoạch định chương trình và sứ mệnh của mình, của những ai theo Ngài: loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, chữa lành những tâm hồn tan vỡ...
Nhưng trước khi bước sang phần thứ hai của bài Phúc Âm, chúng ta nên nhìn lại bài đọc một để thấy rõ ý Lời Chúa Giêsu trong hội đường Nazareth hơn. Đoạn trích sách Nêhêmia kể lại việc canh tân giao ước giữa Đức Chúa và tuyển dân. Thời điểm là sau cuộc lưu đày Babylon, tuyển dân trở về quê hương xứ sở. Nhưng mọi sự đã bị tàn phá. Đền thờ không còn nữa, nhà cửa, ruộng vườn bỏ hoang. Bổn phận của tổng trấn Nehêmia là gây dựng lại xứ sở, đặc biệt thành Giêrusalem và đền thờ. Việc đó chẳng thể thực hiện được nếu không kèm theo việc canh tân tôn giáo. Tư tế Esdra lo nhiệm vụ này: " Hôm ấy, ông Esdra cũng là tư tế, đem sách luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách luật trước mặt đàn ông, đàn bà, và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa và toàn dân lắng tai nghe sách luật". Cuộc canh tân tinh thần diễn ra như vậy, Esdra mở sách luật, chúc tụng Đức Chúa, toàn dân lắng tai nghe. Họ tỏ dấu sầu thương khóc lóc vì quá khứ phản bội nhưng cấp lãnh đạo can họ đừng làm vậy, vì hôm nay là lễ hội tiến dâng cho Đức Chúa, hãy về mở tiệc mừng, ăn thịt béo, uống rượu ngon... toàn dân đáp lại: Amen, Amen (đồng ý, đồng ý). Mối tương giao giữa Thiên Chúa và tuyển dân được nối lại. Giao ước được canh tân và tăng cường. Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của Israel và Israel là dân Ngài.
Đến đây chúng ta hiểu ra ngụ ý của Phúc Âm tuần trước về tiệc cưới Cana. Nó dẫn vào Tin Mừng Luca như dẫn vào bàn tiệc Lời Chúa: thịt béo, rượu ngon cho linh hồn mỗi người. Chúng ta cần múc lấy hiệu quả thiêng liêng của bàn tiệc này. Nếu không Tin Mừng Luca trở nên vô ích. Tư tế Esdra hôm nay khuyên tuyển dân làm như vậy để canh tân tinh thần, hầu xây dựng lại xứ sở và đền thánh. Suốt năm nay mỗi khi nghe đọc Luca, chúng ta ăn năn sám hối về quá khứ bất trung rồi nghe Esdra khuyên: " Anh em hãy ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn. Vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta." Ước chi suốt năm tới, mỗi Chúa nhật nghe đọc Tin Mừng Luca là chúng ta dự tiệc ngon ngọt lời Chúa.
Thánh Luca kể lại việc Chúa trở về Galilêa "trong quyền năng Thánh Thần": "Khi ấy, được quyền năng Thần Khí thúc đẩy Đức Giêsu trở về Galilêa, và tiếng tăm người đồn ra khắp vùng lân cận." Bài đọc nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Linh trong sứ vụ Đức Kitô. Ngài thăm viếng những người cần được cứu chữa, canh tân, giống như tuyển dân thời Nehêmia và Esdra. Vị ngôn sứ Esdra nói với tuyển dân vừa trở về từ kiếp nô lệ: " Chúng ta đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành luỹ bảo vệ anh em." Tương tự, Chúa Giêsu bắt đầu công khai giảng dạy cho những ai cần tăng cường giao ước với Thiên Chúa. Tuy nhiên, một khi việc canh tân khởi sự rồi, điều chi khiến tuyển dân và chúng ta lại bẻ gẫy giao ước? Và điều chi giúp chúng ta tránh được tình trạng đáng buồn ấy? Câu trả lời là Thánh Linh. Trước khi trở về Nazareth, Chúa Giêsu đã được tràn đầy Thần Khí ở bờ sông Giođan lúc chịu phép rửa Gioan. Cũng Thần Khí ấy dẫn Ngài vào sa mạc để chịu thử luyện và đã giúp Ngài thắng các cơn cám dỗ. Cũng Thánh Thần thúc đẩy Ngài hoàn thành sứ vụ. Và Luca còn tiếp tục kể ra ảnh hưởng mạnh mẽ của Thần Khí trong Công vụ tông đồ. Vậy Thánh Thần sẽ là sức mạnh của chúng ta trong việc trung thành với giao ước: "Chúa là sức mạnh tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là thành trì che chở tôi, tôi khiếp gì ai nữa?" Có điều là chúng ta phải ngoan ngoãn để Thánh Thần dẫn dắt. Mê theo dục vọng, chịu sự lôi kéo của thế gian, chúng ta sẽ nhanh chóng rơi vào phản bội và đổ vỡ.
Trong hội đường, người ta đưa sách thánh cho Chúa Giêsu. Mở ra Ngài gặp ngay lời tiên tri Isaia: "Thánh Thần Chúa ngụ trên tôi, Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..." Lời đó nói lên căn cước và sứ mệnh của Chúa. Phải chăng cũng là lời nói lên căn tính và sứ vụ của mỗi tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ? Tôi viết những dòng này trước khi tổng thống Hoa Kỳ, ông G.W.Bush đọc diễn văn trước khối đại đoàn kết quốc gia. Chúa Giêsu dùng hình ảnh của tiên tri Isaia để tiết lộ danh tánh và kế hoạch cho vương quốc của mình. Ngài cũng ám chỉ chúng ta đối với thế giới, nhất là trong tình hình hiện nay, đang cần đến bàn tay xây dựng của các tín hữu. Như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chỉ ra trong bài diễn văn đầu năm vừa qua. Xin lắng nghe và góp phần công sức của mình. Chẳng vậy, tiếng nói của Đức Thánh Cha vô ích mà thôi. Tôi hy vọng bài diễn văn của tổng thống hoa kỳ hoạch định chính sách đứng đắn cho quốc gia và thế giới. Tức đẩy xa chiến tranh, tẩy trừ nghèo khó, áp bức, bóc lột, bạo lực! Ông sẽ lèo lái chúng ta ra khỏi cá nhân chủ nghĩa đầy ích kỷ và đoàn kết toàn dân xây dựng hoà bình công lý. Đó là hy vọng sâu thẳm nhất của các công dân thiện tâm, dù là Cộng hoà, Dân chủ hay không đảng phái nào.
Thần khí đã ban quyền năng cho Đức Kitô để Ngài mặc xương thịt cho lời tiên báo của Isaia. Điều mà vị ngôn sứ đoan hứa cho dân tộc Dothái thì nay được ứng nghiệm nơi ông thợ mộc làng Nazareth, mà toàn thể nhân loại được hưởng nhờ. Thần khí ấy cũng ban khả năng và hướng dẫn chúng ta, khiến chúng ta thực tại hoá những điều Chúa Giêsu loan báo hôm nay: kẻ trần truồng được ăn mặc, kẻ đói khát được no nê, tù đày được thả, mù loà xem thấy, què đi được, điếc nghe được, bệnh tật được lành và nghèo khó được nghe Tin Mừng. Chúng ta không chỉ đơn giản chào hỏi nhau "good morning" mà còn làm cho cuộc sống có ý nghĩa.
Chúa Giêsu không nói về những chuyện xa xôi. Những chuyện xảy ra trong tương lai hay ở đời sau, nhưng ngay lúc này ở Nazareth. Thánh Luca nhiều lần nhắc đến từ "lúc này" khi nói về ứng nghiệm của tiên tri Isaia. Hôm nay Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài, ban cho họ được tự do... Sau cùng Chúa Giêsu trả sách cho người giúp việc rồi ngồi xuống giảng dạy một bài: " Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Nếu không có chi khác thì bài giảng của Chúa ngắn nhất mà những người rao giảng Phúc Âm từ xưa đến nay từng nói. Nhưng hiệu quả của nó sâu đậm vô bờ. Xin quý vị mở Phúc Âm đọc tiếp.
Tóm lại, bài Phúc Âm chúa nhật này cống hiến cho chúng ta sự hiện diện sung mãn của Thiên Chúa trong ngôn ngữ Đức Kitô. Ngài nói Chúa ban tự do cho chúng ta và điều ấy là sự thật, tự do thân xác, linh hồn và tinh thần. Chẳng thế lực nào áp bức chúng ta được nữa. Nhân loại được hưởng ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Ánh sáng của Lời Chúa xua tan bóng đêm tội lỗi. Chúng ta tiếp tục được tự do. Nhưng còn nhiều linh hồn khác đang ngồi trong bóng tối sự dữ. Vậy điều chúng ta kinh nghiệm lúc này hãy chia sẻ với kẻ khác: Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Amen.
83. Khai mở Năm Hồng Ân
(Suy niệm của Fr Jude Siciliano, OP.)
Thưa quý vị,
Khi khởi sự năm phụng vụ C, tức Chúa nhật 1 mùa vọng, chúng ta tập trung nghe Phúc Âm Luca. Một Tin Mừng đầy đủ nhất trong ba Tin Mừng nhất lãm, nó là bảng tổng hợp thánh Matthêu, Marcô và cuộc điều tra cẩn thận của thánh nhân. Nhưng từ ấy đến nay phải phân tán vì những ngoại lệ trích sách Tin Mừng khác. Hôm nay chúng ta lấy lại khí thế ban đầu, gọi là năm Luca. Bởi lẽ cho đến hết năm, các bài đọc đều trích từ thánh nhân, theo một thứ tự ngăn nắp trước sau. Do đó, Tin Mừng chúa nhật này bắt đầu bằng một đoạn dẫn nhập và lời giảng đầu tiên của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét. Chúng ta đang ở trong giai đoạn khởi sự sứ vụ công khai của Ngài và một ý nghĩa nào đó, của Hội Thánh, của mỗi người tín hữu. Riêng đối với Giáo Hội Việt Nam thì cũng là khởi đầu năm thánh truyền giáo, kỷ niệm 470 năm Đức Tin đến với đất nước và con cháu Lạc Hồng.
Tôi phải thành thật thú nhận khi liếc qua bài Tin Mừng, tự nhiên có cảm giác “khổ lắm, biết rồi”. Tôi đã rao giảng nó cách đây ba năm, đúng hơn, nhiều năm trước, vào những năm C. Ở vị trí nhà thuyết giảng đồng thời là kẻ thờ phượng Chúa, tôi bối rối không hiểu còn điều chi mới mẻ để chia sẻ với thính giả ? Trái tim, trí óc, lòng muốn còn rung động khi đọc bài Tin Mừng quá quen thuộc này nữa không? Với bổn phận giảng thuyết tôi có thể tìm ra những điểm tiếp cận mới cho năm này ? Liệu tôi còn tâm huyết để đi trọn con đường ? Quý vị nào cùng cảnh ngộ, xin chung lời cầu khẩn Thần Khí Chúa soi sáng.
Chí ít, tôi tìm ra một nhân vật cùng hoàn cảnh, đó là thánh Luca. Chúng ta nghe ông tâm sự: “Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta…” Nghĩa là những điều ông sắp viết không có gì mới mẻ, mọi sự đã được soạn thảo cả rồi, độc giả đã quen với những điều ấy. Tuy nhiên ông vẫn quyết định viết theo thứ tự, ngõ hầu Thêôphilô ngộ ra tính chân thật của những biến cố đó, chứ không phải dối trá bịa đặt. Ở đây, cũng có điểm mới, đó là tính vững chắc của Phúc Âm. Liệu cộng đoàn thánh Luca đã thuộc lòng câu chuyện của Chúa Giêsu chưa ? Có đúng nó đã mất tính thời sự và chỉ còn là tranh ảnh treo tường, không mấy ai chú ý trong cuộc sống vội vã hàng ngày ?
Thực ra, trong giai đoạn đầu của Phúc Âm Luca, chúng ta khởi sự một hành trình. Hành trình sẽ đem độc giả đến những nơi xa lạ, gặp những người không quen, nhiều linh hồn thực sự thiếu thốn đang tìm kiếm chân lý và cuộc sống thiêng liêng, kẻ khác chỉ là thân hữu, bạn bè giúp sức trên đường đi. Phần đông là thù nghịch. Họ ném nghi ngờ, vật cản trên lối tiến. Tuy nhiên, chúng ta sẽ biến đổi khi đi hết con đường. Chuyện của ông sẽ nuôi dưỡng tâm linh chúng ta và giải quyết nhiều khó khăn, thắc mắc nảy sinh từ cuộc sống. Ba năm qua, mọi sự đã thay đổi nhiều, mặc dù nếp sống của chúng ta dường như vẫn theo lối cũ, chẳng có chi khác thường.
Một điều chân thật: Lời Chúa không bao giờ bế tắc, tù đọng, nhưng luôn tuôn chảy. Nó không phải là chuyện ngày xưa, xảy ra từ lâu lắm như các chuyện cổ tích. Mặc dù văn phạm trong Phúc Âm đang ở thì quá khứ “đã”. Nhưng thực chất là chuyện hiện tại. Nó “đang” cần cho những tâm hồn theo Chúa Giêsu đích thực. Họ cần nghe Lời Chúa và gẫm xem các việc Người làm. Nếu như “đã” thì làm thế nào “thấm” được? Cho nên, ai đó cảm thấy năm phụng vụ C này là chuyện “khổ lắm biết rồi nói mãi” (Déja vu, all over again) thì xin ăn chay, cầu nguyện Thánh Linh Chúa để Ngài ban phước lành trước khi khởi sự hành trình. Thực ra trong năm Luca, chúng ta đi hành hương hơn là du lịch, cầu nguyện hơn là tìm thú vui chơi. Trên đường chúng ta sẽ nghỉ ngơi và suy gẫm. Như những người hành hương đạo đức khi xưa, chúng ta cùng tiến bước về thánh địa. Khởi sự mỗi chặng đường đi người ta có thói quen cầu xin phước lành. Cũng vậy khởi sự một năm phụng vụ mới, chúng ta cần ơn Thánh Linh để hoàn tất hành trình. Để rằng mọi người sẽ có sức sống mới, nhiệt huyết mới, phấn khởi mới ngõ hầu cùng nhau tiến tới trong đức tin. Mỗi ngày theo quy luật tự nhiên, vạn vật đổi mới, thì mỗi ngày theo quy luật sự sống, con người cần tiến tới. Không tiến tới, hoá thạch, là phản tự nhiên, phản siêu nhiên. Cho nên khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…” chúng ta phải cầu xin Thánh Linh ngự trên mỗi người, đổi mới mỗi người, sai chúng ta đi rao giảng Lời Chúa. Đó là nhiệm vụ phải chu toàn, nếu muốn làm môn đệ Ngài, ngoài ra là dối trá.
Hiện thời, chúng ta suy gẫm sâu xa hơn về Tin Mừng chu kỳ C, chúng ta khẩn nài Thiên Chúa đốt lửa sốt sắng trong lòng mình. Thần Khí Chúa sẽ ngự trong mỗi con tim để chúng ta đủ nhiệt tâm gieo vãi Lời Chúa cho thế gian, đang lầm lạc, đói khát chân lý và phần rỗi cho linh hồn mình. Ôi lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con cảm nghiệm được lửa Lời Chúa và đam mê rao giảng Nước Trời “thuận tiện cũng như không thuận tiện”. Khi lãnh phép thanh tẩy, mọi tín hữu đều được kêu gọi công bố “Tin Mừng” cho khắp thế gian bằng lời nói việc làm. Xin đừng để lu mờ ơn gọi đó, nhưng ngày càng sáng tỏ và thôi thúc. Phúc Âm hôm nay nhắc lại mệnh lệnh rao giảng cho mỗi người. Theo thánh Luca Chúa Giêsu còn sai 72 môn đệ, ngoài 12 tông đồ, đi khắp các làng mạc Palestine rao giảng Nước Trời.
Xin lưu ý, bài đọc 3 hôm nay cho thấy rõ sự thật trong toàn bộ Phúc Âm thánh Luca: Sứ vụ của Chúa Giêsu hoàn toàn đặt dưới tác động của Chúa Thánh Linh: “Thần Khí Chúa đậu trên tôi, Ngài sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Thánh Gioan Tiền Hô xác nhận: “Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Sau đó là một loạt những công việc yêu thương Chúa Giêsu thực hiện trên toàn cõi Giuđêa dưới sự thúc giục của Chúa Ba Ngôi. Các hình ảnh Chúa dùng để rao giảng cũng mang đặc trưng năm hồng ân mà người Do Thái quen thuộc. Những điều kẻ nghèo khó, người khốn khổ, kẻ tù đày, bị áp bức mong mỏi suốt cuộc đời, thì nay đã trở nên hiện thực nơi Đức Giêsu. Họ được giải phóng, chữa lành, nghe Tin Mừng. Như vậy năm hồng ân, năm được Thiên Chúa chấp nhận, thực tế đã khai mở và được công bố cho toàn thể địa cầu. Điều chỉ là giấc mơ, niềm hy vọng trong trái tim dân tộc Israel thì nơi Đức Kitô đã trở thành thực tế. Khoảng trống rỗng trong lịch sử nhân loại nay được lấp đầy bằng sự hiện diện của Chúa Cứu Thế. Thực ra, những điều nghe trong bản văn quá khứ, chúng ta phải hiểu hiện tại. Nội dung của nó là cho ngày nay. Ai hiểu nó chỉ trong lịch sử đã qua thì hoàn toàn sai lầm. Lời Chúa không phải cho kẻ chết, mà chủ yếu cho người sống, uốn nắn và dạy bảo linh hồn nên hoàn thiện. Bài diễn văn công bố sứ vụ thiên sai công khai của Chúa Giêsu cũng không phải dành cho tương lai, một ngày nào đó, thế giới bị quên lãng của nghèo đói, khổ cực sẽ được nhìn ra và nhu cầu được thoả mãn, sửa chữa. Đúng hơn, Ngài phán bảo chúng ta bây giờ. Những sai lầm của thế giới hiện nay cần được sửa chữa, những điều lành thánh cần được thăng hoa, nhân rộng. Hơn nữa Ngài không chỉ nói về thế giới vô hình mà cả thế giới hữu hình. Ngài tuyên bố năm hồng ân cho tất cả mọi loài, mọi vật. Hình ảnh năm hạnh phúc có trong sách Lêvi ký đoạn 25, câu 8 đến 55. Người Do Thái nào cũng thuộc lòng và hiểu rõ ý nghĩa của nó, không thể nhầm lẫn. Thánh Luca khi viết những dòng này đã tra hỏi kỹ lưỡng “nhiều người”, cho nên tư tưởng của ông là chính xác và cụ thể, không tưởng tượng viển vông: “Có nhiều người đã ra công tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu… kể lại cho chúng ta… mong ngài nhận thức được rằng giáo huấn ngài học hỏi là vững chắc.” Chẳng còn gì rõ ràng hơn ! Hết chỗ để nghi nan bài bác.
Cho nên vào thời điểm người ta tâm linh hoá quá đáng Kinh Thánh, làm cho nó trở nên linh thiêng, tối tăm, thì chúng ta cần coi lại. Chúa Giêsu tuyên bố cuộc giải phóng toàn diện của năm hồng ân: Kẻ què đi được, người mù sáng mắt, kẻ bị giam cầm được tự do. Không phải chỉ trên bình diện tinh thần mà còn cả vật chất. Vì thế mọi hình thức áp bức, kìm kẹp, bất công trong Giáo Hội phải bị loại trừ. Nhân phẩm con người phải được tôn trọng triệt để bất cứ ở đâu, tuổi nào, trẻ cũng như già, con nít cũng như người lớn. Phá thai là một trọng tội phạm đến sự sống con người. Tước bỏ quyền tự do, hạnh phúc người khác phải được coi là tội bất công. Chúa Giêsu nói về thời của Ngài và sự giải phóng do Ngài đem lại cho dân chúng, cho toàn thể thế giới. Thánh Luca áp dụng nó nơi cộng đoàn của mình và chỉ ra tinh thần giải phóng và tự do đang tiến hành trong Hội Thánh, kêu gọi mọi thành phần góp tay, chung sức xây dựng lợi ích chung, ngõ hầu Nước Thiên Chúa được tỏ hiện rõ nét trước mặt chư dân. Ngày nay cũng vậy, những điều Chúa công bố trong sứ vụ của Ngài, phải được thi hành trong các Giáo Hội, để biểu lộ Ngài đang hiện diện. Theo truyền thống, vị tổng thống mới của Hoa Kỳ, khi lên nhậm chức, đều đọc trước quốc dân bài diễn văn, tường trình công việc tương lai, những dự tính, những chiến thuật chiến lược kinh tế, dân sự, quốc phòng. Bài diễn văn của Chúa Giêsu trong hội đường Nadarét không chỉ trong kỳ hạn của Ngài, mà còn cho toàn thế giới mọi nơi, mọi thời. Nhất là trong đời sống của những kẻ tình nguyện theo Ngài. Chúng ta phải làm rõ những đặc tính ấy bằng lời nói việc làm. Nếu không chỉ là dối trá, lừa đảo bàn dân thiên hạ. Đối với người Hy Lạp, Thần Khí bất định hình mà Chúa Giêsu rao giảng không hiểu được. Họ yêu chuộng cụ thể, trật tự, hài hoà. Nghệ thuật còn lại ngày này của họ chỉ rõ điều đó. Nhưng chính Thánh Thần và lửa bất định hình của Chúa Giêsu lại mạnh mẽ nói lên tự do của ơn thánh. Chúng ta có nhiệm vụ làm thế nào cho thế giới ngày nay hiểu. Chính tính chất vô định của Thánh Linh mà nhân loại được giải phóng khỏi áp bức, bất công.
Ước chi năm phụng vụ C, Chúa Giêsu làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, theo như thánh Luca kể lại, cho thấy những dấu chỉ cụ thể Ngài tuyên bố, trở nên Tin Mừng cho thế giới hôm nay. Xin cho chúng ta, những người tin kính và rao giảng Nước Đức Chúa Trời, được tràn đầy Thần Khí, miệng lưỡi tự do, lòng trí sốt sắng, công bố cho toàn thế giới: Họ được giải phóng theo tuyên ngôn của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét. Ngõ hầu cùng nhau sống hạnh phúc, thánh thiện suốt năm hồng ân Luca. Amen
26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- Viết bởi Lc 10, 1-9
Diễn Văn Truyền Giáo.
Thứ Bảy tuần 2 thường niên – Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục, Lễ nhớ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô.
Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
SUY NIỆM 2: Quốc Khánh của Australia
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Vào nhà, vào thành phố
Suy Niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
***
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
***
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
***
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
SUY NIỆM 4: Thánh Timôthê và thánh Titô
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
SUY NIỆM 5: TÔNG ĐỒ ĐOÀN CỦA ĐỨC GIÊSU
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau :
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.
4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai.
6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21) ; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8 : Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18 : Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34).
- Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
- Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
- Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
- Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
- Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
- Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt ! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài ? Ai thương người bằng Ngài ? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy :
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này !” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh
SUY NIỆM 6: THÁNH TIMÔTHÊ VÀ THÁNH TITÔ
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại
- Viết bởi Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
Thứ Sáu tuần 2 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Lời Chúa: Mc 16, 15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tông Đồ Phaolô Trở Lại
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
J.M
SUY NIỆM 2: Thánh Phaolô Trở lại
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Con phải làm gì?
Suy niệm :
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện :
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 4: Thánh Phaolô Trở lại
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
SUY NIỆM 5: NGƯỜI HÙNG CỦA TIN MỪNG
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
SUY NIỆM 6: THÁNH PHAOLÔ TÔNG ÐỒ TRỞ LẠI
(http://www.simonhoadalat.com)
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI ?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai ?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
SUY NIỆM 7: Thánh Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại – Cú ngã ngựa lịch sử
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng:" anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24/01 Chúa Giêsu là ai?
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu là ai??.
Thứ Năm tuần 2 thường niên – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
LỜI CHÚA: Mc 3, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm.
Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hiểu biết Chúa Giêsu
Có một giai thoại về Trang Tử như sau:
Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài mà được sống lâu".
Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử:
- Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Khi người ta quá nhiệt tình
Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc. 3, 10-11)
Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng Chúa Giêsu muốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: “Họ đổ xô đến để sờ vào Người”. Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.
Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?
Hoảng hốt và vội vã
Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.
Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.
Điều khiến Chúa Giêsu lo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.
Cõi lòng ngổn ngang
Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là “những nhu cầu của đời sống hiện đại”! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc “săn tìm” mới lạ khác.
Nếu Chúa Giêsu không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.
Suy Niệm 3: ĐI THEO CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ? (Mc 3, 7-12)
Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.
Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.
Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.
Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Chữa lành nhiều bệnh nhân
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược
những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.
Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3, 6),
nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.
Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem
kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),
giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.
Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).
Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế !
Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.
Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.
Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền
để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông.
Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.
Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).
Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.
Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.
Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,
họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.
Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,
nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.
Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành
khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.
Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.
Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,
đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.
Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,
và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo.
Con người hôm nay nhận ra Chúa Giêsu
không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”,
nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách :
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này :
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.