Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
06/11 Bàn tiệc Nước Trời
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Bàn tiệc Nước Trời.
Thứ Ba tuần 31 thường niên.
"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
Lời Chúa: Lc 14, 15-24
Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".
"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lời Mời Dự Tiệc
Một trong những hình ảnh Kinh Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời Cứu thế đến, tất cả mọi người đều được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được dọn ra và khách được mời hôm nay không ai khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi của cải vật chất, bởi thú vui trần thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh cửu trên Thiên quốc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Chủ bị ế mặt
Đầy tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ bảo người đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người công chính liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Kẻ ấy chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm sai lầm về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu chuyện tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Khách từ chối vinh dự.
Quý khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa tiệc, như thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Quý khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt quá. Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến dự tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây giờ, Đức Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày cứu độ. Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi chỗ khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà tặng vinh quang của Thiên Chúa.
Tặng ban cho những người bất hạnh.
Ông chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng dân thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi mời tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn bị coi là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để họ thấy mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn nhấn mạnh để họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên Chúa vô cùng thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm thấy họ là kẻ bất xứng nhất.
RC
Suy Niệm 3: HẠNH PHÚC CHỈ CÓ ĐƯỢC KHI TA ĐẾN DỰ TIỆC (Lc 14, 15-24)
Xem thêm CN 28TN A (Mt 22,l-14) và thứ Năm tuần 20 TN
Nói theo ý hướng chủ quan: ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ấy là lúc chúng ta tạm cầm chiếc vé để vào Nước Trời, tuy nhiên, điều đó có thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào thái độ, cung cách sống kế tiếp của chúng ta.
Tại sao lại thế? Thưa là vì nhiều người lầm tưởng rằng: đã lãnh Bí tích Rửa Tội là chắc chắn được vào Nước Trời, nên không hề lo lắng gì đến chuyện sống ra sao và phải làm những gì? Những người như thế, họ chẳng khác gì những cô trinh nữ khờ dại có đèn mà không có dầu; hay như những người đầy tớ ngủ mê nên không biết ngày nào, giờ nào chủ họ sẽ về; hoặc như gia chủ không tỉnh thức nên đã để kẻ trộm đào ngạch khoét vách và lấy đi những thứ trong nhà...
Họ thật giống những người Dothái hôm nay khi được mời dự tiệc, họ đã không thèm đếm xỉa tới lời mời thịnh tình của Chủ, nên cuối cùng họ đã không đến, mà ngược lại, những người tội lỗi, nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, những người bên lề xã hội lại được vào chung vui tiệc cưới của ông Chủ.
Ngày nay, sự dửng dưng vô cảm với bàn tiệc Nước Trời vẫn còn đó nơi người Kitô hữu chúng ta. Vì thế, không lạ gì khi vẫn có những người thích ăn chơi, nhậu nhẹt, chè chén say xưa; hay vẫn tin vào những chuyện mê tín dị đoan; hoặc những chân lý nửa vời nên không màng chi đến chuyện đạo đức, lễ lạy..., nên người ta dễ bỏ qua những việc bác ái, đạo đức thường ngày... Chúng ta nhiều khi sẵn sàng đặt để vai trò của Chúa xuống hàng thứ yếu, nhưng khi được hỏi thì vẫn nói là mến Chúa trên hết mọi sự! Ôi thật là một sự giả hình!
Tin Mừng hôm nay cho thấy, chủ tiệc đã dọn sẵn cỗ bàn để đãi khách. Thiệp mời cũng đã được gửi đi, nhưng niềm vui chỉ có được khi khách đến hiện diện nơi bàn tiệc mà thôi.
Thật thế, những người được mời đâu đoái hoài gì đến thiện ý của Chủ tiệc, nên đã đặt những chuyện cá nhân lên trên và viện cớ: nào là đi tậu đất, thăm trại, mua bò và mới cưới...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết thảy mọi người, không phân biệt họ là ai... đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa và thi hành những điều Chúa dạy để được sống đời đời. Niềm vui sẽ nên trọn khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa phủ lấp trên mình và chi phối nơi cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ vì những lần chúng con khước từ tình yêu của Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Xin kiếu
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của bữa tiệc
do một ông Pharisêu chức sắc mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1).
Những lời Ngài nói trong bữa tiệc đã đánh động một người cùng bàn.
Ông chia sẻ với Đức Giêsu về niềm hạnh phúc
của người được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 15),
ở đó có mặt các tổ phụ và thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29).
Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn kể một dụ ngôn về Nước Trời.
Nước Trời giống như một đại tiệc do một người khoản đãi.
Ông đã mời nhiều quan khách đến dự.
Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn sai đầy tớ đi mời họ lần nữa.
“Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (c. 17).
Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc ấy, lại bị mọi người coi nhẹ.
Ai cũng có lý do để xin kiếu từ.
Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem miếng đất mới mua (c. 18).
Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm tra năm cặp bò mới tậu (c. 19).
Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở nhà với người vợ mới cưới (c. 20).
Có vẻ các lý do đưa ra đều có lý phần nào.
Nhưng thực sự chúng có phải là những lý do chính đáng
để từ chối đại tiệc mà mình đã được mời cách trân trọng hay không?
Vấn đề chỉ là chọn lựa.
Xem đất mới mua, xem bò mới tậu, ở nhà với vợ mới cưới,
những điều ấy hẳn cần thiết và quan trọng.
Nhưng có quan trọng bằng chuyện đi dự tiệc không?
Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự hiệp thông của tình bạn
thì có thể hoãn các chuyện khác không, để chọn điều có giá trị hơn?
Chúng ta hiểu được sự nổi giận của ông chủ,
khi thấy bữa tiệc dành để khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ.
Ông thấy chính mình bị xúc phạm, tình bạn bị coi thường.
Ông quyết định dành bữa tiệc này cho những ai không phải là khách quý,
những người thuộc giới hạ lưu, nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21).
Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống, ông đã khẩn khoản lôi kéo vào
cả những người ở ngoài đường hay trong vườn nho (c. 23).
Cuối cùng, người được mời trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24).
Còn những người có vẻ không xứng đáng lại được ngồi vào bàn.
Chẳng ai xứng đáng được dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa
nếu Thiên Chúa không mời.
Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi bàn tiệc cánh chung
nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó.
Chẳng ai có thể tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa,
nhưng con người có thể làm mình bị trầm luân mãi mãi
chỉ vì thái độ khép kín của mình trước ơn Chúa ban.
“Tôi xin kiếu”, đó là câu nói của nhiều người Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta xin kiếu một cách quá dễ dàng,
chẳng để ý gì đến nỗi thất vọng và đau đớn của người đãi tiệc.
Lời mời của Thiên Chúa bị từ chối chỉ vì những chuyện không đâu.
Chuyện tất bật làm ăn, chuyện vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè.
Có nhiều chuyện thấy có vẻ quan trọng hơn, khẩn trương hơn,
đến nỗi có người bỏ tham dự thánh lễ Chúa Nhật.
Hãy chọn Thiên Chúa và biết quý những gì Ngài muốn ban cho ta.
Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn rồi,
không chỉ ở đời sau, mà ngay ở đời này.
Ngài mong ta đến để dự tiệc, hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
05/11 Ân Huệ Tặng Không
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ân Huệ Tặng Không.
Thứ Hai tuần 31 thường niên.
"Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".
Lời Chúa: Lc 14, 12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.
Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bác Ái Vô Vị Lợi
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng nhau" hoặc "Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: "Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại".
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Tình Yêu Là Ân Huệ Tặng Không
“Trái lại khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc. 14, 13-14)
Khi kêu gọi quý khách hạ mình xuống để được vào nước trời, bây giờ Đức Giêsu chỉ dẫn chủ mời cần điều chỉnh mọi hành động của ông theo tình yêu Thiên Chúa để yêu người.
Tình yêu vụ lợi không được cứu độ.
Đối với dân Do thái, mời ăn tiệc là tỏ lòng thân ái và tình bạn. Họ chỉ mời những bạn hữu, anh chị em, cha mẹ, bà con và những người láng giềng giàu có, để mong được mời lại. Hành động của họ không đặt nền tảng trên tình yêu như Chúa truyền dạy. Đó là cách yêu mình, yêu vụ lợi.
Đức Giêsu không nói đừng bao giờ mời bạn hữu. Những người lương dân thường làm thế, nhưng đó không phải là dấu chỉ môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ phải tìm theo Chúa, không được đòi Chúa phải theo mình trong mọi việc của mình. Môn đệ phải sẵn sàng yêu mến, và chia sẻ cơm áo cho những người Chúa yêu, như kẻ nghèo khổ, què quặt, mù lòa.
Chỉ có ơn tặng không mới mở được cửa nước trời.
Con đường của Chúa vượt tới từ bỏ chính mình, tới vô vị lợi tuyệt đối. Nếu bạn mời những kẻ bất hạnh, họ không thể mời lại bạn, bạn mở con tim ra cho họ bằng một tình yêu vô tư, tặng không, như chính Thiên Chúa yêu họ.
Trước đó, bạn sẽ thấy hạnh phúc và phần thưởng trong ngày sống lại và phán xét.
Chính Chúa Giêsu ban bữa tiệc tình yêu và truyền lại cho các môn đệ làm mà nhớ đến cái chết hy sinh của Người. Trong bữa tiệc thánh đặc biệt này, Người không phân biệt và loại trừ một ai. Bữa tiệc Thánh Thể này cần mở ra mời hết mọi người, không phân biệt giai cấp xã hội, chủng tộc hay phẩm giá của họ.
Ta chỉ cần đọc lại thư của thánh Gia-cô-bê và những thư của thánh Phao-lô để nhận thấy Giáo hội sơ khai đã tha thiết nhắc lại lời dạy của Đức Giêsu nói với biệt phái khi họ mời Người.
Tình yêu là một ân huệ Thiên Chúa tặng không cho ta. Ta đã được cho không, thì phải tặng lại một cách quảng đại vô vị lợi.
RC
Suy Niệm 3: CẦN CÓ CÁI NHÌN HƯỚNG VỀ NƯỚC TRỜI (Lc 14,12-14)
Tại thành phố Sài Gòn, rất nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng Đậu”. Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là: bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, Tp. Sài Gòn.
Quán ăn phục vụ từ 10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.
Khi mở quán như thế, nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!
Hôm nay, Đức Giêsu xem ra cũng có vẻ bất thường khi nói với ông thủ lãnh những người Pharisêu khi mời Ngài đến dự tiệc rằng: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”. Câu nói này của Đức Giêsu quả thật là bất thường theo lối suy hiểu của con người. Không chỉ có một lần này, mà đọc lại các trang Tin Mừng, chúng ta thấy có rất nhiều lần Đức Giêsu dùng lối nói như vậy. Chẳng hạn như: Hiến Chương Nước Trời và những lời chúc phúc: “Phúc cho người nghèo, khóc lóc, đói khát, bắt bớ, tù đầy...”; hay khi đưa ra nguyên tắc éo le cho những ai muốn theo mình: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống đời đời”; hay “ai muốn làm lớn thì phải làm đấy tớ mọi người”; hoặc cứ để kẻ chết chôn kẻ chết...; còn khi nói về sự lựa chọn: Ngài đã lựa chọn: “Sẵn sàng bỏ 99 con chiên để đi tìm cho kỳ được 1 con chiên bị lạc; người đàn bà tìm được đồng xu đánh mất, thì lại mời cả xóm đế chung vui...!”.
Tại sao Đức Giêsu lại có cái nhìn như thế? Thưa là vì Ngài có một cái nhìn siêu nhiên, tức là cái nhìn hướng thượng, cái nhìn cứu độ. Chỉ những ai có cái nhìn như thế, hẳn mới đón nhận được giá trị cứu độ của nó đằng sau sự kiện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như thế để được cứu độ, bởi lẽ khi chúng ta hành động vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù..., ở đời này, họ không có gì để trả ơn cho chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ là người thay họ trả ơn gấp trăm cho chúng ta ở đời này và đời sau.
Có thể với lối nhìn như thế, nhiều người sẽ khinh chê, dè bửu, nhưng nếu bây giờ chúng ta dám lội ngược dòng để sống cốt lõi của Tin Mừng, thì trong cuộc sống mai hậu, chúng ta sẽ xuôi dòng để tiến về Quê Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu và sống ý nghĩa của Tin Mừng, để sau này, chúng con được vui hưởng hạnh phúc trên Quê Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đáp lễ
Suy niệm:
“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”:
đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người.
Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó,
không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des).
Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai.
Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc:
bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có.
Ngài đưa ra lý do: “Kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12).
Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc:
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13).
Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này,
vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14).
Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc.
Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang,
để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời.
Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu,
Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý.
Đó là khi làm điều tốt cho ai
ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.
Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.
Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản.
Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó.
Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không.
Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này.
Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết,
không kết thân với những người giàu có và thế lực,
để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta.
Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị,
những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ.
Có khi những người đó chẳng ở đâu xa.
Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm.
Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý,
chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn.
Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt,
trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình.
Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu.
Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới:
Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ.
Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm Nguyễn Cao Siêu SJ
04/11 Giới răn trọng nhất
- Viết bởi Mc 12, 28b-34
Giới răn trọng nhất.
Chúa Nhật tuần 31 Thường Niên năm B.
"Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất".
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34
1. Mến Chúa – Yêu người
Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.
Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.
Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.
Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.
2. Mến Chúa yêu người.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.
Trước hết là lòng mến Chúa.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.
Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.
Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.
Tiếp đến là tình thương người.
Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.
Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.
Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.
Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.
3. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.
Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.
Giới răn quan trọng nhất
Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.
Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.
Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.
Yêu như Chúa yêu
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.
Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”
Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).
4. Mến Chúa yêu người.
Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.
Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.
5. Điều răn đứng đầu.
Suy Niệm
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống cho người khác.
Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
"Yêu mến là chu toàn lề luật" (Rm 13,10).
Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.
Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi...", ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ "với trọn cả" được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?
Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
6. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.
Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.
Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?
Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:
1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:
Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.
Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).
Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).
Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).
2. Yêu người thì ta phải:
Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.
Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).
Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).
Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).
Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.
7. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?
3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?
8. Yêu mến Chúa hết lòng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.
Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!
Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).
Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?
Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.
9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình". Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: "Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em". Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?" Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: "Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này".
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
2. Con người tự do chọn lựa
Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: "giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa". Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.
3. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn
Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người "yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình" sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng "mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình". Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard.
Bối cảnh.
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.
Mở đầu.
Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.
1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.
Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?
2. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.
Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.
Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.
3. Thương yêu đồng loại như chính mình.
Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Câu hỏi.
Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.
11. “Tôi không biết điều tôi không thể”.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.
Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.
Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.
Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.
Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.
12. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu "10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen". Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống ; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.
- Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.
- Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)
Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ "hết" được lặp đi lặp lại nhiều lần: "Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em".
Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.
Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.
2. Đáp ca (Tv 130)
Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.
3. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
a. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: "Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?". Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
b. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất ; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi ; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi ; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội ; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần ; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi "Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?". Giáo lý viên đáp: "là Yêu Thương". Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: "Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau ; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương ; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau". Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ: 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo ; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương". Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói "Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước" và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.
Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.
2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.
Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.
3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. "Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ". Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:
. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái... Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v... Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
* 2. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: "Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được". Nhưng vua chuột đáp: "Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi".
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: "Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?" Nhưng vua chuột đáp: "Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai".
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục "Giải đáp thắc mắc" như sau:
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: "Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình". Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: "Mẹ ơi! Con thương Mẹ!" Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: "Mẹ cũng rất thương con". Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: "Những cái hôn của mẹ đâu?" Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: "Mẹ thương con. Con biết mà phải không?"
****
Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Người đáp: "Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi" (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: "Mến Chúa yêu người". Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy" (1Ga.4,20).
Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.
Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: "Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau".
Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: "Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân". Thomas Merton nói: "Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng". Rosalie còn khẳng định: "Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương".
****
Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.
Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe "dỏm" cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: "Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?" Anh đáp lại: "Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó"
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
* 6. Chuyện minh họa
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ: "Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!"
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình ; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu "Và tha nợ chúng con", chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
VII. GIẢI TÁN
Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.
13. Chúng ta có hướng về tâm điểm không?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’
1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.
2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.
14. Một tình yêu duy nhất.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.
15. Lề luật bóp chết con tim
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.
Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.
Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.
Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.
Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: "Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel". Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.
Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.
Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.
16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi
Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.
Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.
Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,
Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.
Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân... Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.
Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.
Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: "Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau" (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.
17. Suy niệm của Lm Gioan M Nguyễn Đức Hùng, CRM
GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG
VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.
Thưa các bạn,
Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).
Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.
Các bạn kính ái!
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…
Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!
Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!
Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.
Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?
Các bạn ạ!
Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?
Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!
Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.
18. Lòng kính mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI
Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: "Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.
Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:
* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,
* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,
* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,
* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,
* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em" (Deut 6:4-9).
II. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN
Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: "Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc" (Deut 10:13).
Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: "Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,
* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy" (Deut 11:26-28).
III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG
Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?
Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.
Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.
Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: "Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy" (Is 66:12-13).
Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: "Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết" (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.
Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt... Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.
Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh "Lạy Cha", các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.
Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.
Kết luận
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: "Phải kính mến Chúa", hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: "Con hãy đọc lời: "CHA YÊU CON" trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng". Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.
19. Mến Chúa Yêu Người
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này "giống nhau" ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình "hối lộ", cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: "Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau".
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
20. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne.
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này”. Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà”. Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.
Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?”. Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.
Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dung của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: Chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa… với tất cả tâm trí.
Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?
Làm sao tôi biết một người trong các bạn? Tôi phải nói với bạn và lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong Thánh Lễ.
Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là họa sĩ biếm họa hay một đầu bếp.
Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm. Cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời… nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.
Muốn hiểu một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo Hội, trong Thánh Lễ, rước lễ và các bí tích.
Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biệt về người đó nói lại cho chúng ta. Linh mục của bạn, ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa Làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên, báo chí, tạp chí và sách vở Công giáo nói với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.
Sử dụng lý trí để tìm hiểu mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
21. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Chọn người kế vị
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”
Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.
Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”
2. Tôi đi tìm Chúa
Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”
Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”
Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
3. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình
Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.
Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.
4. Hạt giống tình yêu
Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”
Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”
5. Lòng mến Chúa bị suy sụp
Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.
Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”
6. Tiếng chiên con
Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình...
Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ... Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..
Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: "Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình". Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.
Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó". Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết".
*****
Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..
"Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập I)
7. Chết vì yêu
Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện "Mùi cọp".
Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.
Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.
Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.
*****
Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.
Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày, tập IV).
22. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson.
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ: Yêu.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
23. Giới luật yêu thương.
Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:
- Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.
- Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.
Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.
Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.
Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao?
Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.
Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:
- Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.
Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
- Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:
- Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.
Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.
24. Chúa Nhật 31 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.
"Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi".
Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.
Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: "Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu". Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. "Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu". Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.
Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,
trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,
sau lại yêu người như mình ta vậy.
25. Yêu người.
Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.
Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.
Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.
Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.
Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
26. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
"NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI"
ROME - Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: "Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi." Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải "yêu người thân cận như chính mình."
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện:" cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?" và họ trả lời "Phải!" Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: "Các anh chắc không?"
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: " Lần này cái bình có đầy không?"
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: "Có lẽ chưa." Rất tốt!" vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: "Bây giờ cái bình đầy không?" Và tất cả mọi người trả lời không do dự: "Không!" "Chắc chắn là thế," vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: " "Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?" Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: " Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm."
"Không," giáo sư trả lời, "Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau."
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: "Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?
"Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
"Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: 'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh."
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn" do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
27. Sống như con người.
Hãy yêu thương nhau.
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.
Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.
Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.
Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.
Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:
- Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.
Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.
Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.
Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.
Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:
- Người với người là chó sói của nhau.
Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông, của tha thứ… Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:
- Hãy yêu thương anh em như chính bản thân mình.
28. Mến Chúa yêu người.
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
29. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất?
(Suy niệm của Lm Việt Toàn)
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: "thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất " của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa:"Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình" và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm:"không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy".
Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.
Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.
Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề:" làm việc này, việc kia có tội hay không " đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.
Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.
Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.
Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.
Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.
Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
30. Hai giới răn.
Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.
Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.
“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.
Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.
“Nhà vua du hành thế nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”
“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.
Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.
Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.
Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.
Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K. Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.
Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.
Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người.
Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi.
Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.
31. Thiếu sót.
Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.
Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.
“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.
Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.
Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.
Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.
Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác?”
Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.
Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.
32. Hoàn hảo hơn
(Suy niệm của Lm. P. Huỳnh Ngọc Tiên)
Chúa Giêsu đã từng phán: "Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn". Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: "Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ."
Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?" Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó." Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: "Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi..." Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): "Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình..." Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: "Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh".
Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: "Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta". Vậy Phaolô quả quyết rằng: "Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời". Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.
Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.
Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra". Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: "Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu".
33. Cầu thang.
Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.
Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)
34. Độc đáo.
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.
Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:
1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;
2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?
Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:
1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.
35. Mến Chúa, yêu người
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!
Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.
Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.
Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.
Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!
Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!
Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!
Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).
Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).
Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.
Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).
Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.
Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).
Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.
Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
36. Suy niệm của JKN.
Mến Chúa yêu người là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau - mến Chúa, và yêu người - thành một điều răn duy nhất?
2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước - điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 - làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.
Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).
2. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.
Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.
Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân.
3. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»
Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» - cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân - thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.
4. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»
Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).
Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa - cũng là yêu người - hết lòng hết sức. Amen.
37. Giới răn trọng nhất.
Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
38. Chú giải của Noel Quesson.
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện "cho các quốc gia" (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,'' Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn "cây vả bị khô héo”, Người đã nói "Con Người" đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, "bị tấn công”, "phản công". Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm" (Mc 11,27-33).
"Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình" (Mc 12,1-12).
- Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
- "Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?" (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng "đóng khung" đời sống tôn giáo của mình trong vòng "riêng tư" trong việc "thờ phụng" không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những "trường dạy Đức tin" gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để "nghiên cứu học hỏi". Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta "chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn" của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để "nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: "Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi" Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất".
"Phải phụng sự Chúa trước hết". Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe" Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết "lắng nghe", và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh "Shema" Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: "Thiên Chúa là Chúa duy nhất". Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: "Thiên Chúa là một". Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: "Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ "một" có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ "duy nhất". Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn "hợp nhất". Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn "lưu chảy", làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. "Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến", nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức" không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là...
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế "yêu Thiên Chúa" là đủ, hay "thương yêu anh em" cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ "điều răn" trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa" đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. "Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ "như Ta" để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: "Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
39. Yêu thương bằng việc làm.
(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)
1. Giới răn trọng nhất.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi...
Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani - tức là Đức Gioan Phaolô I sau này - đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?' Đức vua đi đâu, tôi đi đó'. 'Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?' 'Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua'... Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người...
Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại - tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.
2. Đáp lại tình yêu Chúa.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:
Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.
Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.
Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua... Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.
Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.
Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.
Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa..., nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!
3. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.
Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: 'Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?' Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: 'Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm...' Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.
Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ... Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.
Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: 'Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước'. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: 'Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?'
Đây là lúc chúng ta phải trả lời: 'Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!' Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: 'Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!'.
40. Thánh thiện là đức ái trọn hảo
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.
Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.
Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).
Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lc 7:47).
Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.
Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư ï lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.
Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.
“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.
“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.
Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:
“Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).
Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.
Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.
Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).
03/11 Khiêm tốn hạ mình
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Khiêm tốn hạ mình.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 30 thường niên.
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. "Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bài Học Khiêm Nhường
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Thật thế, theo Tin Mừng thuật lại, hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Con Ðường Khiêm Hạ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống khiêm tốn. Lấy câu chuyện chỗ ngồi trong bàn tiệc như một bài dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta tín hữu Kitô điều thâm sâu trong đạo: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Với châm ngôn này, Chúa Giêsu muốn đặt con người ra trước mặt Thiên Chúa. Thật thế, tất cả phẩm giá con người có được đều bởi Thiên Chúa mà ra. Từ sự sống thể lý đến các phẩm tính tinh thần, từ giá trị cho đến những thành đạt trong cuộc sống và nhất là những nhân đức con người tôi luyện được. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Nhân câu chuyện ngồi trong bàn tiệc mà thực khách hầu hết là những người biệt phái, vốn hám danh và tự mãn, Chúa Giêsu hẳn muốn nhắc đến thói giả nhân giả nghĩa và kiêu ngạo của họ. Với những thực hành tôn giáo như ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà họ chuyên cần thực thi, những người biệt phái dễ lên mặt khinh thị những thành phần thấp hèn trong xã hội. Chúa Giêsu đưa họ trở về với chân lý của con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi biết nhận ra giá trị đích thực của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Và nhận ra giá trị của mình cũng có thể là nhận ra sự hư không và thân phận hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðây chính là tâm tình cơ bản của Mẹ Maria. Chính khi nhận ra mình là người tôi tớ trước mặt Thiên Chúa mà Mẹ đã nên cao trọng. Mẹ đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa cho nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta cũng dõi bước theo Mẹ trên con đường khiêm hạ ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Phúc Cho Ai Hạ Mình Xuống
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho, Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc. 14, 10-11)
Đức Giêsu thường đồng bàn với biệt phái và luật sĩ. Họ đã rình xét lúc Người chữa người phù thũng và kết án Người trong lòng họ. Về phần Người đã để ý tới những khách đến chọn chỗ nhất.
Thực vậy, họ có thói quen tôn mình lên tự xếp mình vào bàn trọng vọng nhất. Những kẻ tưởng mình xứng đáng nhất đã giành nhau chỗ danh dự nhất vì trật tự chỗ ngồi không lệ thuộc vào tuổi tác nhưng sắp xếp theo địa vị cao thấp.
Đức Giêsu không dạy khôn ngoan của loài người
Theo sự khôn ngoan của loài người, người ta thường dạy nhau khi được mời đến dùng bữa, tốt hơn nên chọn chỗ thấp. Khi chủ thấy khách quan trọng thì đến mời người khách ấy lên chỗ cao hơn, lúc đó người ấy được vẻ vang trước mặt mọi người. Nếu khách làm trái lại thì thật xấu hổ, vì những kẻ được mời dự tiệc theo tục lệ Do thái, họ nằm trên đi-văng để ăn và rất khó đứng dậy đổi chỗ cho người vị vọng hơn. Cho nên ai hạ mình xuống không còn sợ bị hạ bệ trước mặt những người khác.
Đức Giêsu không trưng dẫn lời khuyên cổ nhân của sách khôn ngoan loài người. Sứ điệp của Người luôn luôn hướng dẫn ta đến nước Thiên Chúa và lời giáo huấn của Người luôn liên quan đến ơn cứu độ.
Người áp dụng vào nước trời
Người luôn luôn diễn tả chân lý đáng ghi nhớ này: Ai muốn vào nước trời phải trở nên bé nhỏ và khiêm tốn, không được đòi địa vị như luật lệ loài người sắp xếp. Không phải nhờ chính giá trị riêng của mình mà người ta sẽ được xét xử. Nhưng chính Chúa Cha, Đấng thấu suốt con tim và bụng dạ sẽ xét xử người ta.
Đức Giêsu lên án tính kiêu ngạo cố chấp của biệt phái. Họ sẽ bị hạ xuống vì họ đã cho mình là cao trọng, họ tìm danh lợi ở dưới đất, họ đã được phần thưởng rồi. Trái lại những kẻ nghèo khổ, thâu thuế, tội lỗi ý thức mình nhỏ bé hèn hạ trước mặt Thiên Chúa thì sẽ được nâng lên.
Phúc cho ai khiêm nhường, vì họ sẽ được thấy vinh quang nước Chúa.
RC
Suy Niệm 4: THẾ NÀO LÀ NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG ? (Lc 14, 1. 7-14)
Có một lần, trên xe buýt có hai linh mục, hai giáo dân. Vị linh mục lớn tuổi hỏi một bác đang cùng lộ hành với ngài rằng: theo ông, thế nào được gọi là người khiêm nhường?
Tưởng rằng với tuổi đời khá cao và đã từng trải, mình sẽ trả lời “ngọt như đường mía lau”. Bác ta trả lời rằng: “Thưa cha, người khiêm nhường là người không có bon chen với ai; luôn nghe lời của người khác và làm theo; và người khiêm nhường là luôn cho mình bất xứng!”. Vị linh mục kia trả lời: “Không đúng! Vì nếu người khiên nhường chỉ mong cho được bình yên thì họ thuộc về hạng người bị thụ động, mềm yếu; hay luôn làm theo ý người khác là người trốn tránh trách nhiệm, thiếu tự chủ, chứ thực chất không phải khiêm nhường; hoặc luôn coi mình là bất xứng thì không chừng, khiêm nhường kiểu này chẳng khác gì ‘một lần khiêm tốn bằng bốn lần kiêu ngạo’ vì họ có thể dùng chiêu thức này để người khác đề cao, khen ngợi và đánh giá mình đạo đức trước mặt mọi người”. Bác kia hỏi lại: “Vậy ai là người khiêm nhường thật?” Linh mục trả lời: “Người khiêm nhường là người sống đúng sự thật, biết nhận ra sự thật và tôn trọng sự thật”.
Thật vậy, theo tinh thần Tin Mừng, người khiêm nhường thật chính là người biết nhận ra sự thật hữu hạn của mình và nhận thấy Chúa quyền năng. Nhận ra mình yếu hèn, tội lỗi và Thiên Chúa yêu thương. Người khiêm nhường cũng là người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa, sự góp ý của anh chị em.
Nói chung, người khiêm nhường là người biết ý thức rằng: mọi sự mình có là do Chúa yêu thương. Vì thế, sống khiên nhường là luôn biết hạ mình trước mặt Chúa và tha nhân. Luôn biết sám hối, canh tân để được Thiên Chúa nâng lên trong ân sủng của Ngài, bởi vì: "... hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con học được bài học khiêm nhường của Chúa để chúng con được thuộc về Chúa cách trọn vẹn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Ngồi chỗ cuối
Suy niệm:
Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất,
Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10).
Mới nghe những lời khuyên này,
ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo.
Nên chọn ngồi chỗ cuối,
vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc,
bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên.
Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống.
Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ,
để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên.
Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục,
và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10).
Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không?
Chắc là không.
Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7),
Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều.
Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra:
Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang,
nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53).
Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này.
Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than.
Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26).
Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31).
Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.
Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11).
Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục.
Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều.
Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.
Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn,
thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau:
“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời.
Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái,
đối xử với nhau trong sự kính trọng,
xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang.
Chúng ta không giả vờ khiêm tốn.
Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo
còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.”
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy.
Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.
Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác.
Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội.
Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
02/11 Sự sống đích thực bên Chúa
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Sự sống đích thực bên Chúa.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 30 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này).
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
Lễ Nhất
LỜI CHÚA: Ga 6, 51-59
"Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ Nhì
LỜI CHÚA: Lc 23, 33. 39-43
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Lễ Ba
LỜI CHÚA: Ga 17, 24-26
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43; *Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
Suy Niệm 1: Sao Ngài bỏ rơi con?
(2/11: cầu cho các tín hữu đã qua đời)
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta
cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.
Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng
sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.
Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.
Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.
“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình
vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.
Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.
Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.
Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.
Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,
chết anh hùng hơn và chết lành hơn.
Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,
đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.
Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,
một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.
Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.
Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.
Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,
vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...
Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,
điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,
mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.
Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,
nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.
Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,
vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng.
Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,
và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.
Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.
Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.
Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.
Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang
để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.
Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.
Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,
nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.
Cái chết được chia đều cho mọi người.
Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?
Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?
Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.
Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.
Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,
sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.
Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.
Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống
nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 1b: Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Suy niệm 2: Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Suy Niệm 3: Sống Tháng Các Linh Hồn
(Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Suy niệm 4: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
Suy niệm 5: Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Hiền Lâm)
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Suy Niệm 6: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.
Suy Niệm 7: Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
Suy Niệm 8: Tưởng nhớ người đã ra đi
(Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Suy Niệm 9: Lễ Các Linh Hồn
(TGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm "lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài "Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
Suy Niệm 10: Lễ Các Linh Hồn
(ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản)
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
Suy Niệm 11: Nguồn nước mắt
(ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Suy Niệm 12: Tri ân tình cha, tình mẹ
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
Suy Niệm 13: Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
Suy Niệm 14: Nghĩ về sự chết
(ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Suy Niệm 15: Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Suy Niệm 16: Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình tôi" trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: "Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất-thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo: "Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?" (Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: "Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen."
Suy Niệm 17: Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 18: Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...". Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
Suy Niệm 19: Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
01/11 Phúc thay
- Viết bởi Mt 5, 1-12a
Phúc thay !!!!.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 30 thường niên – CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ Họ. Cầu cho giáo dân.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
* Đại lễ kính toàn thể các thánh nam nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng ha sa số những người đã được Chúa Kitô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
* Từ trưa ngày Lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày Cầu cho các tín hữu đã qua đời, ai viếng nhà thờ, nhà nguyện, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, thì được hưởng một ơn đại xá, với những điều kiện theo thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), nhưng phải nhường lại cho các linh hồn. Mỗi ngày được hưởng một lần mà thôi. Ai bị ngăn trở, có thể viếng nhà thờ, nhà nguyện, lãnh ơn đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau.
Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
* LỄ CÁC THÁNH
Lời Chúa: Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12
1. NƯỚC TRỜI LÀ CỦA HỌ
Suy niệm:
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình...
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
1b. Nên thánh
Có bao giờ chúng ta đi tham dự một chương trình diễn nhạc trẻ hay chưa? Những âm thanh vang dội như kích thích hàng ngàn bạn trẻ, hò hát, nhảy nhót, có khi lăng quay xuống đất như những nhạc sĩ trình diễn. Có thể nói được rằng họ say sưa trong tiếng nhạc. Phải chăng đó là một hình ảnh đặc thù cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại của âm thanh, ánh sáng và vận tốc. Trái đất dường như chỉ còn là một trạm dừng chân, để rồi từ đó người ta khởi đầu chinh phụ vũ trụ.
Hằng ngày chúng ta ghi nhận biết bao nhiêu âm thanh hỗn độn. Từ những lời nói thương yêu đến những lời chửi bới. Từ tiếng nhạc êm dịu đến tiếng động cơ chát chúa. Từ những âm thành ồn ào ngoài phố chợ đến những lời quảng cáo, tuyên truyền trên truyền thanh truyền hình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiếng động vang lên tựa hồ như vô tận.
Thế nhưng, giữa một môi trường như vậy, liệu con người có còn nghe thấy được tiếng nói từ trời cao hay không? Chính vì thế mà thánh Phaolô đã xác định để chúng ta được thấy rõ ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta hãy nên thánh. Ý muốn ấy phải chiếm một địa vị ưu tiên, phải là nỗi ưu tư số 1 trong cuộc đời chúng ta.
Tuy nhiên, con người thời nay lại nhún vai coi thường, vì nên thánh là một cái gì quá lạ lẫm đối với họ. Vậy nên thánh là như thế nào? Trước hết tôi xin thưa: Nên thánh không phải là chạy trốn trần gian vì trần gian có nhiều tội lỗi xấu xa. Nên thánh cũng không phải là quỳ gối chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng xưng tội một cách máy móc, và tham dự những thánh lễ ngày Chúa nhật. Sự thánh thiện hệ tại việc chúng ta chấp nhận Chúa là mục đích của đời sống, là trọng tâm của mọi tư tưởng, lời nói và việc làm. Đó là điều chính yếu, còn những sự khác chỉ là phụ thuộc.
May thay thời buổi chúng ta vẫn còn có những vị thánh. Đời sống của họ là một rao giảng quý giá. Họ như muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa là mục đích duy nhất của cuộc đời. Còn tất cả chỉ là mờ nhạt và vô nghĩa. Đối với họ Thiên Chúa là tất cả. Nỗi ưu tư của họ là tìm biết thánh ý Chúa mà thôi. Mặc dù chúng ta không có ơn gọi vào dòng tu, nhưng tất cả chúng ta đều được kêu mời trở nên thánh. Nên thánh không phải là một bổn phận làm cho chúng ta sợ hãi. Nó không cấm cản chúng ta hưởng thụ những niềm vui chính đáng, vì Thiên Chúa không phải là kẻ thù, nhưng là suối nguồn của những niềm vui trong lành. Tuy nhiên, Thiên Chúa phải trổi vượt trên mọi thứ đó, Ngài chính là cùng đích của chúng ta. Cho dù bên ngoài có những âm thanh ồn ào, thì trong thẳm sâu cõi lòng, chúng ta vẫn phải lắng nghe tiếng Chúa, vì tiếng nói ấy sẽ chỉ cho chúng ta thấy con đường nên thánh. Bởi vì: Ai tuân giữ những giới luật của Ta thì người đó sẽ được Ta yêu mến. Thực vậy, con đường nên thánh là con đường nhỏ hẹp, nhưng chính con đường ấy sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.
2. Hoa đời dâng Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: "mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình". Bài hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng... Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Hôm nay, Hội thánh mừng kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn bụi trần.
Như vậy, sẽ có bao nhiêu vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã tiền định: "Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện". Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ. Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giêsu đã lôi kéo bên Ngài những bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong ngày mai. Một Phê-rô, Simon... những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ...
Và hôm nay, những khuôn mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một cuộc đời mà người ta bảo rằng: "Người trồng cây phúc người chơi - Ta trồng cây hạnh để đời về sau".
Nguyện xin các thánh nam nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen.
3. Ánh sáng của các Thánh trên trời
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: 'tôi đã thấy'.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
- Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta... (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa. Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội lỗi.
Trong ngày lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục mỗi người: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5, 14). Thế gian tăm tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân thật.
Đang khi nhân loại sống hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm tốt.
Sở dĩ người ta không nhận ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi người..." ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
4. Chân Dung Các Vị Thánh
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói thánh là người làm theo ý Chúa, không theo bọn ác nhân. Thánh là người hoàn toàn thuộc về Chúa từ trí óc tới con người. Họ là những con người luôn sống thanh sạch "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ có tâm hồn thanh khiết, nhờ đó mà họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi tha nhân và một cách trọn vẹn nơi thiên quốc. Như vậy sự thánh thiện hệ tại ở tâm hồn luôn ở trong Thiên Chúa. Họ thuộc về Chúa. Họ sống cho Chúa. Họ sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc, những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại . . .nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Họ đã chiến thắng số phận đầy oan khiên khi tìm được niềm an vui vì chọn Chúa là gia nghiệp trọn đời.
Chân dung của các vị thánh được Chúa Giêsu phác hoạ qua tám nét chính mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Họ sống giữa cuộc đời đầy sóng gió của sự dữ, của những vòng xoáy cuộc đời đầy đam mê truỵ lạc, của những thói đời hưởng thụ nhưng họ vẫn giữ mình luôn thanh khiết không hoen ố tội nhơ, không thoả hiệp sự dữ, không lao vào vòng xoáy của danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa. Họ có mặt trong mọi nơi, mọi chốn. Họ thuộc đủ mọi màu da, sắc tộc. Họ thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Có thể họ là những người mẹ đang bươn chải "một nắng hai sương", với quang gánh trên lưng còng cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình chén cơm, chén gạo mỗi ngày.
Có thể họ là những người cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.
Có thể họ là một ai đó đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ không bán rẻ nhân phẩm của mình. Họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.
Có thể họ là những người già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.
Có thể họ là những người trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.
Có thể họ là chính chúng ta, những con người đang khao khát sống đời trọn lành. Có thể vì sự khao khát nên trọn lành mà chúng ta đang đi ngược dòng với trào lưu tục hoá của thế gian. Chúng ta trở thành kẻ thù nghịch của thế gian. Chúng ta không đồng thuận với mưu đồ đen tối. Chúng ta không thoả hiệp với sự gian dối giả tạo. Chúng ta đang phải chiến đấu từng ngày để nói không với tội và trung thành với tin mừng nước Chúa.
Như vậy, các thánh không ở đâu xa. Ở ngay trong cuộc đời chúng ta. Họ đang sống với chúng ta. Họ đang dâng những hy sinh hằng ngày cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Theo đức tin ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày nên thánh thiện hơn. Amen.
5. Các thánh
Nói tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.
Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
6. Bài học của sinh tồn
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một người đã hỏi một chuyên gia leo núi như sau:
- Nếu chúng ta ở lưng chừng núi đột nhiên gặp mưa lớn thì phải làm sao?
- Anh phải cố leo lên đỉnh núi!
- Tại sao không chạy xuống dưới? Gió mưa ở đỉnh núi chẳng phải lớn hơn sao?
- Đi lên đỉnh núi, cố nhiên mưa gió có thể lớn hơn, nhưng không đủ uy hiếp mạng sống của người. Còn chạy xuống dưới núi, xem ra khá an toàn, nhưng có thể gặp tuyết trượt bộc phát chôn sống.
Anh nói thêm: -... đối với mưa gió, chạy trốn nó, thì anh sẽ bị lũ cuốn trôi; đương đầu với nó, thì anh lại có cơ may sống sót!
Xem ra để sống sót trước khó khăn không phải là an phận“sống chung với lũ” mà phải “chiến đấu với lũ” để tồn tại. Và như vậy, quy luật chung để tồn tại là phải đối diện với khó khăn, với thử thách để vươn lên. Không lẩn tránh khó khăn. Không trốn chạy sự dữ. Nhưng phải tìm cách tồn tại trong những hoàn cảnh đầy khó khăn nhất.
Trong đời sống luân lý, lẽ thường cũng rất nhiều cám dỗ bủa vây. Cám dỗ như những cơn lũ muốn nhậm chìm chúng ta. An phận sống chung với chúng e rằng sẽ có ngày “mưa lâu thấm đất” khiến chúng ta cũng sa vào cám dỗ. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải chiến đấu với cám dỗ, phải chiến thắng cám dỗ và xua tan cám dỗ. Điều này chính Chúa Giêsu đã làm và đã chiến thắng trong cuộc cám dỗ 40 đêm ngày. Ma quỷ cũng đã bầy ra trước mặt Chúa những nhu cầu hưởng thụ rất đỗi bình thường của con người, nhưng chỉ với điều kiện là quay lưng lại với Thiên Chúa. Chúa đã Giêsu nhắc ma quỷ quy tắc là phải vâng lời Thiên Chúa, và điều quan yếu trong cuộc sống, không phải là sự đói khát thể xác mà còn tìm kiếm thỏa mãn cái đói của tâm hồn là chính Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh nam nữ, họ là những người con ưu tú của Giáo hội. Họ đã chiến thắng cám dỗ. Họ đã vượt qua thử thách để hôm nay cùng nhau cầm cành lá vạn tuế tung hô Chúa cửu trùng chí thánh. Họ đã đi qua những dòng đời vấn đục khác nhau nhưng lòng họ giống nhau ở chỗ luôn giữ lòng thanh khiết không chiều theo cám dỗ xác thịt. Họ sống giữa dòng đời đầy thị phi cùa sự bất công gian dối nhưng họ vẫn tỏa lan hương thơm của lòng bác ái, vị tha dấn thân phục vụ mọi người. Họ không để lòng tham trỗi dậy để rồi sống tham lam bất chính. Họ không để dục vọng thống trị để sống đam mê trụy lạc. Họ đã sống một đời yêu và yêu cho đến cùng, một tình yêu không toan tính thiệt hơn. Một tình yêu cho đi và cho đi mãi. Họ đã đối đầu với nghi nan, bách hại, tù đầy, tra tấn... nhưng vẫn một lòng trung thành sống theo thánh ý Chúa.
Điều quan yếu là họ đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh đời sống không bằng sức mình mà bằng cách cậy dựa vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa mới đủ sức cho họ vượt thắng nghi nan. Chỉ với ơn Chúa họ mới chiến thắng được những cám dỗ nằm sâu trong bản tính con người như tính kiêu căng, thói hưởng thụ... Họ đã biết cậy dựa vào ơn Chúa để làm chủ chính mình, để chiến thắng cám dỗ và dấn thân xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Hôm nay họ đang được ân thưởng hạnh phúc Nước trời nhờ một đời sống để ý Chúa thể hiện trong cuộc đời họ. Họ đã đạt được hạnh phúc viên mãn vì đã chiến thắng thế gian đầy cám dỗ bon chen này.
Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ. Cám dỗ hưởng thụ vật chất, hưởng thụ xác thịt. Cám dỗ ở ngay trong lòng mình khi tìm kiếm sự dễ dãi bản thân, tìm kiếm sự đồng lõa của dục vọng, của tính tham lam... Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực trước biết bao cám dỗ lôi kéo. Chúng ta cũng từng đứng dậy sau rất nhiều lần vấp ngã nhưng rồi vẫn ngã quỵ trước cám dỗ.
Mừng kính các thánh nam nữ là một dịp khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng về cuộc sống. Dầu cuộc sống có cám dỗ nhưng không đánh gục chúng ta nếu biết cậy dựa vào ơn Chúa. Dầu có những lần thất bại trước cám dỗ nhưng vẫn có thể đứng dậy để canh tân, để sửa đổi nhờ ơn Chúa. Chính nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa chúng ta sẽ mãi đứng vững và chiến thắng trong trận chiến nhiều cam go cám dỗ này.
Ước gì chúng ta luôn biết noi gương các thánh biết bám vào Chúa như cành liền cây để sức sống của Chúa mãi tuôn chảy trên chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ thất vọng về mình nhưng luôn biết đứng dậy làm lại cuộc đời nhờ ơn Chúa. Và xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn trong ơn thánh của Chúa. Amen.
7. Chiều rộng của Ơn Cứu Độ
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai cao điểm:
- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục. Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại không?
8. Các Thánh
Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?
Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
9. Những bậc thang của giá trị
Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia".
Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
10. Phúc thay ai hiền lành
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khát vọng lớn nhất, sâu xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các Thánh (Mat-thêu 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và một trong những đối tượng đó là người hiền lành: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp".
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29), "phúc cho những ai hiền lành", "hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu" (Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo như tre.
Trong cơn bão tố cuồng phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau thương.
Người hiền lành mềm mại như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có thể bào mòn đá cứng: "nước chảy đá mòn." Người hiền lành tuy mềm mỏng nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Người hiền lành lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường.
Họ hiểu được chân lý Chúa Giêsu dạy: "Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm" nên họ không dùng bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác, không theo luật "mắt đổi mắt răng đền răng" nhưng biết chế ngự tính nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"
Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"
Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng,
Chúa kêu mời "hãy học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền". Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
11. Các Thánh
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
12. Lễ các Thánh nam nữ
(Lm. Nhân Tài)
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
13. Ơn gọi nên thánh
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad... không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chỗ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13). Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
14. Các Thánh nam nữ
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
15. Người khổng lồ thiêng liêng
Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
Hai ngàn năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta. Điều gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm.
* Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
* Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
* Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
16. Ơn gọi Kitô hữu
Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:
- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết: - Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc… Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?.
17. Nên thánh
Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.
18. Thánh thiện
Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:
- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá”. Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
19. Niềm hy vọng hạnh phúc
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
20. Nên hình bóng Ngài
(GM. Giuse Vũ Văn Thiên)
(Bài giảng Lễ các Thánh nam nữ trên trời – năm 2014)
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
21. Nên thánh
Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
– Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:
– Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải thích:
– Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:
– Còn về đức khó nghèo thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
– Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:
– Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.
Không có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
– Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
22. Hạnh phúc thay
Một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.
23. Hạnh phúc Nước Trời
Làm sao có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về quê trời. Giáo hội cầm tay chúng ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan sách Khải huyền đã diễn tả:
- Thiên Chúa ngồi trên ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80 vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca mới: Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các Thánh. Giáo hội hướng dẫn chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về chúng ta. Giáo hội mong muốn chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã phán:
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên trời chúng ta thấy: Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta, bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô: Ông nọ bà kia lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
24. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
– Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:
– Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói:
– Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:
– Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sa lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen:
– Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
– Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
31/10 Cửa Hẹp
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cửa Hẹp.
Thứ Tư tuần 30 thường niên.
"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Lời Chúa: Lc 13, 22-30
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.
Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy Vào Qua Cửa Hẹp
Câu hỏi mà một người vô danh đặt ra cho Chúa Giêsu đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đó cũng là câu hỏi thông thường nơi các trường phái của các vị thông luật thời Chúa Giêsu, và là câu hỏi như muốn giới hạn số lượng những người vào Nước Chúa: "Thưa Thầy, phải chăng ít người được cứu thoát?" Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không nhằm đến số lượng nhưng là hướng tới một bình diện khác, tức là phẩm chất của những kẻ muốn vào Nước Chúa: họ phải qua cửa hẹp và cố gắng vào đúng lúc, khi còn thời giờ thuận tiện, đừng cậy dựa vào những liên hệ hời hợt bên ngoài với Chúa. Ơn cứu rỗi được Thiên Chúa trao ban cho mọi người: những kẻ trong dân Chúa chọn và cả những kẻ ở ngoài, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để dẹp bỏ mọi hàng rào ngăn cách, thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa.
Ðặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi không được hiểu theo phạm trù số lượng, nghĩa là không phải mọi người tự động đều được cứu rỗi. Sự cộng tác từ phía con người là điều cần thiết. "Hãy vào qua cửa hẹp", hẹp, vì nó đòi con người phải từ bỏ nhiều. Hình ảnh cậu bé Charlie trong phim hoạt hình, đứng trước cửa, ôm trên người rất nhiều thứ; cậu muốn bước ra ngoài chơi với bạn bè, nhưng lại không muốn bỏ những thứ đang chồng chất trên người mình; cậu bé bực tức nói lớn: "Làm sao tôi có thể bước qua cửa này được?". Nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng có thể hành xử như vậy: vừa muốn vào Nước Chúa, vừa muốn giữ lấy mọi thứ không phù hợp với Nước Chúa; muốn vào Nước Chúa, nhưng lại không thực hành giáo huấn của Ngài, không canh tân đời sống của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Xin cho chúng ta biết từ bỏ những gì không cần thiết, nhất là những gì mất lòng Chúa, để chúng ta có thể bước qua cửa hẹp trở về Nhà Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Con Ðường Dẫn Ðến Tự Do
Chính phủ Nam Phi mới đây đã quyết định cho đúc bức tượng cao ba mươi tầng lầu của nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền là cựu tổng thống Nelson Mandela. Theo dự trù, tượng đài kỷ niệm ông Mandela sẽ cao một trăm mười thước và được đặt tại hải cảng Elisabeth để cho những du khách tới Nam Phi qua đường biển phía đông chiêm ngưỡng người lãnh tụ khả kính này.
Song song với dự án bức tượng này, chính phủ Nam Phi sẽ làm một con đường đi bộ dài khoảng sáu trăm thước dẫn tới tượng đài. Con đường đi bộ này được đặt tên như trong bảng tóm lược đọc lên khi ông Nelson Mandela nhận giải Nobel Hòa Bình như sau: "Con đường dẫn đến tự do". Ông Nelson Mandela được trả tự do sau hai mươi bảy năm bị chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi cầm tù. Ông đã được bầu là tổng thống Nam Phi năm 1994.
Con đường dẫn đến tự do cho cá nhân ông Nelson Mandela, cho dân tộc Nam Phi cũng như cho cả thế giới là một con đường dài đến hai mươi bảy năm, qua đó ông đã trải qua không biết bao nhiêu gian khổ trong chốn tù đày. Con đường dẫn đến tự do nào cũng là con đường hẹp, đầy chông gai. Qua hình ảnh con đường của nhà đấu tranh Nelson Mandela chúng ta hiểu được con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa thánh Luca lại đặt Chúa Giêsu trong tư thế lên đường tiến về Giêrusalem. Với cái nhìn của vị thánh sử này cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc hành trình về Giêrusalem mà điểm đến cuối cùng là Núi Sọ và vinh quang phục sinh.
Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng Tin Mừng ngoài đường, cuối cùng cũng chết ngoài đường. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc lên đường và ra đi không ngừng. Ngài kêu gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài lên đường và ra đi như thế: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ta". Trong lệnh lên đường ban bố cho các môn đệ, Ngài nói rõ với các môn đệ: "không mang theo giày dép, bao bị, túi tiền, vào nhà nào người ta cho ăn thứ nào hãy ăn thứ đó, ai không đón tiếp thì đi ra".
Tóm lại, ra đi và lên đường là tư thế đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Mệnh lệnh ấy ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị cho tất cả những ai muốn làm môn đệ để đi theo Chúa Giêsu. Sống đức tin là không ngừng ra đi và lên đường. Ra đi và lên đường không chỉ có nghĩa là rời bỏ một nơi này để đến một nơi khác. Cuộc ra đi và lên đường cam go nhất đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu nhất hẳn phải là ra đi và lên đường khỏi con người cũ của tội lỗi. Trước khi lên đường về nhà Cha, người con hoang đàng đã phải phấn đấu mãnh liệt để ra khỏi bản thân và đứng dậy lên đường. Ðây chính là cuộc ra đi và lên đường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước vào, đây chính là cánh cửa hẹp mà Ngài mở ra cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria
Ðấng đã vội vã lên đường để đến với người chị họ Elisabeth luôn đồng hành với chúng ta, Mẹ giúp chúng ta biết nhìn về phía trước và tiến bước trong hân hoan, tin tưởng và cậy trông.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Không Có Đồ Bổ Béo Trên Bàn Tiệc Nước Trời
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài những kẻ được cứu thoát thì ít có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc. 13, 23-24)
Đức Giêsu lên đường về Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Nhiều lần Đức Giêsu nói Giê-ru-sa-lem là thành nơi các ngôn sứ bị kết án chết. Lời kêu gọi của Đức Giêsu càng ngày càng khẩn cấp. Thời giờ gần hết, phải lo cải thiện kẻo quá trễ.
Kẻ không được vào
Trong dân Ít-ra-en, người ta tranh luận nhiều về ơn cứu độ, một số kẻ cho rằng tất cả con cái Ít-ra-en đều được cứu độ. Số khác nói chỉ có những kẻ còn sót lại thôi. Khi nghe Đức Giêsu nói về nước trời đã đến, người ta hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?”. Người không đáp thẳng. Người nhấn mạnh mọi người phải cố gắng để vào vì cửa nước trời rất hẹp, những kẻ kiêu ngạo bành trướng, những kẻ tham lam, nông nổi chạy theo những tham vọng xác thịt không thể vào được nước trời. Chỉ có những kẻ bé mọn, những kẻ kiềm chế được dục vọng xác thịt, mới có thể ép mình lại chui qua cửa hẹp để vào được dự tiệc thiên quốc.
Xã hội chúng ta chỉ thích tìm an nhàn thoải mái, sung sướng thỏa mãn và tiêu xài phung phá của cải trái đất, không nghĩ gì đến tương lai. Mọi người đều phì nộn cả thể xác lẫn tinh thần vì đã thỏa mãn những ham muốn thì những lớp mỡ béo bọc lấp con tim không còn chỗ cho lời Chúa thấm nhập nữa.
Trương phình do quá đầy đủ
Ngoài ra, đến lúc người ta không ngờ, cửa đóng lại và không ai có thể vào được nữa. Những kẻ đứng ngoài dù nói ngon ngọt hay lắm: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài và Ngài cũng từng giảng dạy trong những đường phố của chúng tôi. Chúng tôi còn là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham, thuộc gia đình thừa hưởng lời Chúa”. Chúng thích hiểu biết và giữ lề luật Chúa, nhưng không có con tim, tấm lòng mộ mến sống lề luật, nên tất cả những kẻ đó đều bị loại ra ngoài. “Tất cả các ngươi đều làm điều bất chính”.
Để thuộc về dân Thiên Chúa thật phải đón tiếp Đức Giêsu. Chính đức tin vào Đức Giêsu làm cho họ nhỏ bé, gầy gò đi để có thể vào cửa hẹp trước khi cửa đóng lại. Như vậy, con cháu của các tổ phụ là khách được mời trước nhất, lại tự thấy mình bị loại, trong khi lương dân đến sau đã sống theo lời Chúa, nên đã được nhận vào nước trời.
RC
Suy Niệm 4: ĐƯỜNG HẸP DẪN ĐẾN SỰ SỐNG (Lc 13, 22-30)
Xem lại CN 21 TN C
Một gia đình nọ có hai người con trai. Cha của hai anh em là một người nông dân bình thường. Mẹ là người nội trợ. Nói chung gia đình nghèo, cộng thêm chuyện ông bố lại thường xuyên đau bệnh. Hai anh em bàn tính với nhau, người anh nói với người em rằng: “Em ở nhà chăm sóc cha mẹ, anh đi kiếm tiền thật nhiều để về giúp mẹ cha tuổi già và lo thuốc thang cho cha”. Người em hỏi: “Anh định kiếm tiền bằng cách nào?” Anh trả lời: “Anh sẽ đi tham gia băng cướp, chỉ có cách này là nhanh có tiền để lo cho cha mẹ...”. Và cuối cùng thì người anh đã quyết định hành nghề đâm thuê, chém mướn. Lúc ban đầu tiền bạc đến với anh quá nhiều, đến nỗi không những có tiền lo cho gia đình, anh ta còn nổi tiếng về cách ném tiền qua cửa sổ nơi những cuộc ăn chơi trác táng, thâu đêm suốt sáng... Tuy nhiên, chẳng bao lâu, anh ta đã bị căn bệnh thế kỷ Sida và đã chết khi tuổi đời còn khá trẻ.
Câu chuyện trên đây chỉ là ngụ ngôn nhằm dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay để hiểu được giáo huấn của Đức Giêsu rằng: con đường hẹp là con đường dẫn đến sự sống. Còn con đường thênh thang là con đường dẫn đến diệt vong. Muốn có được sự sống đời đời, con người phải cộng góp vào hành trình tìm kiếm đó bằng những sự hy sinh, và đôi khi cả cái chết hữu hạn để đổi lấy sự sống đời đời. Trên hành trình tìm kiếm đó, thánh Phaolô đã ví mình như một vận động viên chạy đua. Phải dày công tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ... Vòng hoa chiến thắng chỉ được trao cho những ai đạt được thành tích xuất sắc sau những vất vả mà thôi.
Thật vậy, con đường theo Chúa của mỗi chúng ta sẽ gặp đầy thử thách chông gai. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường lên Golgotha. Con đường của thập giá. Nhưng nếu muốn được hạnh phúc thật thì hẳn chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung thành theo Chúa trên con đường thập giá. Con đường của yêu thương, phục vụ. Con đường đi đến với những người ốm đau, bệnh tật, những người nghèo... Con đường hy sinh của thập giá. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường của tự hủy, hy sinh, từ bỏ chính mình để xây dựng hạnh phúc của tha nhân.
Đây là con đường khó và chẳng mấy ai đi! Tuy nhiên, nếu chúng ta trung thành đi trên con đường đó với tình yêu được lồng vào ngang qua hành động, cử chỉ của chúng ta, ắt chúng ta sẽ bình an và sẽ được phục sinh. Nếu không đi theo con đường đó, ngược lại, chúng ta cứ mải mê trong vũng lầy êm ái của tội, của thực dụng, của danh vọng, của quyền hành, thì đến ngày chung cuộc, chúng ta sẽ bị loại ra ngoài, nơi đó sẽ phải khóc lóc và nghiếm răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm đi theo Chúa trên con đường hẹp, để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Cửa hẹp
Suy niệm:
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp.
Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm.
Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều.
Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa,
thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24),
vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình,
với cái tôi cồng kềnh của mình,
nặng nề vì những vun vén cá nhân,
phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp
nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại,
khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng
nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng.
Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ,
cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ,
cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình.
Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng.
Họ gõ cửa và đòi vào.
Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc,
bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu,
và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt
đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ:
“Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy,
dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm...
Chúa vẫn không quen biết chúng ta
vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình.
Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục.
Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban,
nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa,
nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên:
“Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/10 Nước Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Nước Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 30 thường niên.
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Lời Chúa: Lc 13, 18-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sức Mạnh Nội Tại Của Nước Chúa
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm hai dụ ngôn về Nước Trời: hạt cải và nắm men. Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được. Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi. Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi: Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không? Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không? Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Sức Mạnh Của Nước Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội chúng ta được mời gọi suy niệm các câu 18-21 của chương 13 Phúc Âm theo thánh Luca, kể lại hai dụ ngôn ngắn của Chúa Giêsu về Nước Trời giống như hạt cải và giống như men được trộn với bột. Cả hai dụ ngôn đều làm nổi bật điểm khởi đầu khiêm tốn nhỏ nhoi của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn về hạt cải nhấn mạnh đến sự phát triển theo chiều ngang, theo thể lượng từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây có cành lá to lớn đến nỗi chim trời có thể đến đậu vào được; và dụ ngôn thứ hai về chất men được đem trộn vào bột, nhấn mạnh đến chiều sâu, đến phẩm chất sâu xa của Nước Chúa từ chất men có thể làm dậy cả thúng bột.
Cả hai đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong dòng lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn cuối cùng sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn trên của Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi chúng ta phải đương đầu với những trở ngại, những thử thách trong đời sống đức tin, khi chúng ta nhìn thấy những điểm tiêu cực không ngừng xảy ra trong Giáo Hội, trong Nước Chúa.
Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới càng ngày càng bị trần tục hóa, càng ngày càng nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa hay không? Chất men lời Chúa có đủ sức mạnh thu hút con người và biến đổi con người trở nên tốt hơn hay không? Gần hai ngàn năm rồi, kể từ khi Con Thiên Chúa xuống thế thực hiện công việc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên thập giá và sống lại nhưng thử hỏi, nhân loại ngày hôm nay có tốt hơn ngày xưa không? Nếu suy luận theo cái lý tự nhiên, theo những toan tính phàm trần có thể chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào thất vọng. Nhưng lời dạy của Chúa Giêsu qua dụ ngôn trên không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng, chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ hoàn tất như thế nào nhưng hàng ngày chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân làm tất cả những điều mình có thể với ơn Chúa soi sáng.
Lạy Chúa,
Xin mở rộng đôi mắt niềm tin chúng con để chúng con được nhìn thấy những tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hàng ngày. Xin thương ban cho chúng con được kiên trì trong những thử thách và luôn luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Nước Trời Là Gì?
Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.
Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc. 13, 19-21)
Sau khi nói về ngày nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu muốn dân chúng hiểu rằng triều đại nước Chúa không phải là tai biến lớn của vũ trụ như các ngôn sứ loan báo. Ngày phán xét như Người đã nói trên, nhưng bắt đầu triều đại Thiên Chúa thì giác quan không thể thấy được. Đức Giêsu chỉ giới thiệu nước Thiên Chúa bằng những hành động chữa lành các bệnh tật và giải thoát khỏi thần dữ. Đó là những dấu chỉ nước trời. Qua dấu chỉ đó cho ta biết triều đại Thiên Chúa chính là sự sống đời đời trong con người và trong Giáo hội. Sự sống lành mạnh, không còn bệnh tật, đau khổ, chết chóc, sự sống thánh thiện, không còn dấu vết của sự dữ, của quỷ thần xấu xa tội lỗi.
Phát triển của sự sống nước trời
Hạt cải đen sấp sỉ lớn bằng đầu mũi kim khâu, ở bờ hồ Giê-nê-sa-rét. Cây nó cao lớn từ hai mét năm mươi đến ba mét (8-9 bộ). Lúc đầu, nó nhỏ nhất, bé bỏng nhất, lớn lên thật đáng ngạc nhiên, nếu vườn được trồng cấy quang đãng và tưới bón kỹ.
Đời sống đời đời trong mỗi Kitô hữu như hạt cải nhỏ bé được lớn lên nhờ ánh sáng lời Chúa, sức nóng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa và nước hằng sống của Thánh Thần, như thế, nó có thể lớn lên tới mức cho “chim trời đến làm tổ trú ẩn”. Nghĩa là cho các nhân đức sinh sôi nảy nở, được chở che và nuôi sống.
Sự sống dậy men, lan rộng
Ban chiều, bà nội trợ lấy nắm men trộn vào ba mươi ký lô bột (ba đấu). Sáng hôm sau, tất cả khối bột đã dậy men và chuẩn bị đặt vào lò.
Hành động của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng thế: Không thể thấy, không thể cảm được, lời Đức Giêsu thông ban sự sống cho mọi người qua nắm tay của các môn đệ cũng không thể thấy, không thể cảm được. Những người đó đang phát triển theo quyền năng biến đổi của men hằng sống và truyền thông sức mạnh đó sang người khác. Và cứ thế lan rộng, không gì có thể ngăn cản khối người đang phát triển đó. Chính vì thế, nước Thiên Chúa tiếp tục lớn mạnh, nhưng chẳng trông thấy sức sống mạnh mẽ đó từ khi khởi đầu cho đến tận thế. Chỉ có người đã nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa nhờ đức tin, trong khiêm tốn và phó thác cho hành động của lời Chúa, mới có thể am tường được nước trời đã đến và ngày giờ đút lò sắp tới.
Suy Niệm 4: NHỎ MÀ VĨ ĐẠI (Lc 13, 18-21)
Xem thêm CN 11 TN B (Mc 4,26-34), thứ Sáu tuần 3 TN (Mt 13,31-32), Và thứ Hai tuần 17 TN
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế cũng đâu cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương”.
Hay là:
“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến sự lớn mạnh của Nước Trời qua dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Thật vậy, hạt cải của vùng Palestine là một loại hạt nhỏ bé nhất trong những loài thảo mộc, nhưng khi nó đã lớn, thân cây của chúng cao to, có thể là nơi chim trời về làm tổ trong những tán lá xum xuê. Còn khi nói Nước Trời như một nắm men, Đức Giêsu cho thấy Nước ấy cũng sẽ lớn mạnh như men làm cho bột dạy lên thế nào thì Đạo Thánh mà Ngài thiết lập cũng sẽ lan rộng như vậy.
Thật thế, ngày nay, nhìn ra thế giới, chúng ta nhận thấy rất rõ sự lớn mạnh này. Khởi đi từ một nhóm môn đệ ít ỏi và lại gặp biết bao thử thách từ trong trứng nước như: cấm cách, bắt bớ và giết chết bằng những hình thức hết sức tàn bạo, dã man... Tuy nhiên, càng thử thách bao nhiêu, càng phát triển bấy nhiêu, đôi khi có lúc âm thầm, nhưng như than hồng rực nóng hơn nhiều lần ngọn lửa thế nào thì Đạo của Chúa cũng mạnh mẽ và mãnh liệt như vậy. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam của chúng ta cũng chứng minh rất rõ điều đó!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết cậy dựa và đặt niềm tin nơi Chúa. Tin tưởng rằng mình chẳng là gì, rất bé nhỏ, nhưng một khi đã gắn kết với Chúa trong sự khiêm tốn thì chắc chắc Chúa sẽ dùng vào những chuyện lớn lao cho chương trình của Ngài. Ví dụ như Phêrô; Phaolô; Âu tinh...
Khiêm tốn chính là vũ khí để chống lại những kẻ kiêu ngạo đang ngang ngược chống phá Giáo Hội. Chúng ta vững tin, sẽ có ngày chỉ một nắm men nhỏ, chúng ta sẽ làm cho cả khối bột dạy men nhờ ơn Chúa.
Điều quan trọng là hạt cải phải mục nát đi, men phải được hòa tan trong bột thế nào thì đời sống của người Kitô hữu cũng phải như vậy, tức là đời sống đạo của chúng ta phải chan chứa tình Chúa, tình người, sống công bằng, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại... Có thế, chúng ta mới làm cho hạt cải của niềm tin sống động làm chỗ dựa cho người khác. Làm cho men yêu thương lan tỏa để nhiều người yêu mến Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và trung thành gắn bó với Chúa để can đảm ra đi làm chứng cho Chúa bằng khả năng nhỏ mọn đơn sơ nhưng chân thành. Xin Chúa đón nhận và làm cho đóng góp của chúng con được hữu hiệu trong tình yêu Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Lớn lên và trở thành
Suy niệm:
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng.
Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo.
Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người.
Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.
Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé.
Ông có ước mơ mong mỏi gì không?
Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây.
Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19).
Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời.
“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt.
Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên,
để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.
Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn.
Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu.
Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột.
Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men.
Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết.
Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành.
Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa
trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong.
Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột
đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.
Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ.
Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay.
Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới.
Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại.
Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật,
khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua,
khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng,
khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới.
Kitô giáo có tương lai không?Kitô giáo có thể bị tàn lụi không?
Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng.
Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan.
Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm.
Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay,
đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa.
Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta.
Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón.
Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột,
đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng.
Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt?
Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới.
Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/10 Đừng giả hình
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đừng giả hình.
Thứ Hai tuần 30 thường niên.
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Lời Chúa: Lc 13, 10-17
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?" Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cốt Lõi Của Ðạo
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần".
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này". Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi".
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua".
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: "Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ". Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ngọn Lửa Nội Tâm
Thế vận hội năm 2000 dành cho những người khuyết tật đã kết thúc một cách tốt đẹp tại Sydney, Australia. Buổi lễ khai mạc hôm tối thứ Tư 18/10/2000 vẫn là biến cố được theo dõi nhiều nhất. Khi nữ lực sĩ ngồi xe lăn người Úc là cô Louis Xaviest châm ngọn đuốc vào vạc dầu nhỏ đặt giữa sân vận động, đám đông khán giả ngồi chật trong vận động trường đã đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng. Louis Xaviest được chọn để châm ngọn lửa khai mạc thế vận hội gồm hơn bốn ngàn lực sĩ khuyết tật của một trăm hai mươi chín phái đoàn tham dự; ngọn lửa soi rọi vào tất cả mọi thành tích của những lực sĩ mà không gì có thể ngăn cản nổi quyết tâm thi đua của họ. Ðiểm xúc động nhất đối với mỗi người dĩ nhiên là hình ảnh của những con người ra sức chống chọi với mọi nghịch cảnh để thắng vượt chính mình.
Ngọn lửa nội tâm, chủ đề của đêm khai mạc thế vận hội dành cho người khuyết tật đã nói lên được tấm lòng hăng say và nhiệt tâm vươn lên ấy. Nét rạng rỡ hân hoan và đầy hưng phấn của hàng ngàn lực sĩ khuyết tật đã thể hiện được ý nghĩa của thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vừa qua, đó là sự chiến thắng của ý chí con người.
Sự chiến thắng của ý chí con người chính là sứ điệp mà thế vận hội dành cho người khuyết tật muốn gởi đến cho thế giới. Nhưng cùng với sứ điệp ấy thế giới cũng đón nhận được một thông điệp khác không kém quan trọng, đó là sự tôn trọng và sự yêu mến cần phải có đối với người khuyết tật. Hàng ngàn lực sĩ được may mắn có mặt trong kỳ thi thế vận hội dành cho người khuyết tật là đại biểu của vô số những người khuyết tật trên khắp thế giới. Họ có thể là những người phải mang thương tật vì tai nạn. Nhưng có biết bao nhiêu người khuyết tật là nạn nhân của chính sự độc ác của con người, và nhất là đang đau khổ vì chính thái độ kỳ thị và dửng dưng của người đồng loại.
Tôn trọng và yêu thương những người anh chị em khuyết tật. Ðây là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng đào sâu và sống. Chúa Giêsu luôn dành ưu ái cho những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ðể đến với những người này, Ngài sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản. Trong Tin Mừng hôm nay, để chữa bệnh cho một người phụ nữ bị còng lưng, Ngài đã vượt qua một trong những thứ rào cản gai góc nhất đối với người Do Thái là những cấm kỵ của ngày hưu lễ. Nhiều người Do Thái mà ông trưởng hội đường là điển hình nại đến những cấm kỵ của ngày hưu lễ để bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vạch mặt chỉ tên những kẻ đạo đức giả. Ðạo đức giả là bởi vì họ vẫn lén lút làm việc xấu trong ngày hưu lễ nhưng lại ngăn cản không cho người khác được làm việc thiện trong ngày này.
Ðối với Chúa Giêsu, Lề Luật được làm ra vì và cho con người, chính vì thế mà Ngài đã khẳng định Lề Luật và sách các ngôn sứ đều qui về một mối duy nhất là yêu người. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản để đến với con người. Ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta bước theo Ngài, sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại và đạp rào cản trong cuộc sống để tìm đến với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống do luật pháp và truyền thống của con người dựng lên nhưng cũng có vô số những rào cản do chính chúng ta dựng lên ngay trong tâm hồn và trong ánh mắt của chúng ta. Những rào cản đó là lòng hận thù, sự ích kỷ và nhất là thái độ dửng dưng của chúng ta trước nỗi khổ đau của người khác.
Nguyện xin Ðấng đã đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người và trở nên mọi sự cho mọi người, xóa bỏ mọi thứ rào cản trong tâm hồn chúng ta để chúng ta bước đi bước trước, tới với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ngày Sabát, Ngày Làm Vinh Danh Chúa
Ngày sa bát Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” (Lc. 13, 10-12)
Theo sách Thứ luật của Cựu ước, việc thánh hóa ngày thứ bảy (ngày Sa-bát) như là ngày của Chúa, để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng dân Do thái khỏi nô lệ Ai cập. Ngày thứ bảy là dấu chỉ ngày dân Chúa được tự do. Tuy nhiên, nó đã trở thành ngày dân Do thái bị ràng buộc bởi rất nhiều giới luật cấm đoán hơn những ngày khác.
Đức Giêsu muốn phục hưng ý nghĩa chân thực của ngày Sa-bát, nó phải trở nên ngày con người thực hiện nhân phẩm và tự do của con cái Thiên Chúa và làm sáng danh Ngài.
Ngày giải phóng
Đức Giêsu đã chọn một dấu chỉ thế này: một người đàn bà bị quỷ ám từ mười tám năm, quỷ ngăn cản bà nhìn lên Thiên Chúa, hướng về trời, vì nó bắt bà phải còng lưng hẳn xuống, không thể nào đứng thẳng lên được. Bà không ngừng hy vọng được chữa lành, nhưng mọi phương thuốc loài người đều vô hiệu, không thể giải phóng bà khỏi tật gù lưng. Biết được nguyện vọng của bà, Đức Giêsu kêu gọi bà lại, đuổi quỷ ra, và đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sa-bát, ông đã lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày đó, đừng đến xin vào ngày Sa-bát”.
Đức Giêsu đáp lại: “Thế ngày Sa-bát, ai trong các ngươi lại không cởi giây, dắt bò lừa rời khỏi máng cỏ đi xuống nước? Còn bà này là con cháu Áp-ra-ham, là con cái Thiên Chúa, bị sa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?”.
Ngày Sa-bát chính là ngày của Chúa đã giải phóng dân khỏi nô lệ thì bây giờ Ngài đã dùng quyền năng và lòng thương xót của Ngài mà cứu chữa bà này khỏi nô lệ sa-tan. Còn việc nào làm vinh danh Chúa hơn trong ngày Sa-bát, bằng việc chặt đứt cái giây buộc trói bà và cho bà thứ nước đức tin mà bà hằng cầu xin.
Ngày tạ ơn Thiên Chúa
Ngày Sa-bát là ngày tôn thờ, vâng phục Đấng toàn năng sáng tạo và ngợi khen cảm phục trước những công trình vĩ đại của Ngài, người đàn bà được giải thoát bắt đầu tôn vinh Thiên Chúa. “Còn dân chúng vui mừng vì những việc lạ lùng của Chúa”.
RC
Suy Niệm 4: ĐỪNG VÌ LUẬT MÀ BẤT NHÂN VỚI ANH EM! (Lc 13, 10-17)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: vào một buổi chiều nọ tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn. Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người nhà nghe thấy có tiếng động trong quan tài? Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và mở nắp quan tài ra. Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi vì thấy người chết ngồi dạy! Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng: “Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết đã được thông báo và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay. Vì thế, cứ chiếu theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận”. Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi, mặc cho lời van xin của người trong quan tài!
Trên đây chỉ là câu chuyện giả tưởng nhằm phê phán những người sống hình thức, vụ luật, bất nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích rất nặng lời với những người sống vụ luật và bất nhân đối với người khác.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu chữa người đàn bà bị quỷ ám làm cho khòm lưng đã 18 năm vào đúng ngày Sabát. Thấy vậy, ông trưởng hội đường xem ra có vẻ khó chịu vì Đức Giêsu đã vi phạm luật ngày Sabát. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng nói: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabát, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabát sao?". Qua câu hỏi đó, Đức Giêsu mặc cho luật một tinh thần mới, đó là: yêu thương, liên đới và tha thứ. Đây chính là cốt lõi của luật. Luật mà không có tình yêu lồng vào thì đó là luật chết, vì nó giết chết con người cách khủng khiếp nhất.
Ngày nay, vẫn có nhiều người xem ra rất đạo đức như: đọc kinh, xem lễ hằng ngày; lần hạt thì hết chuỗi này đến chuỗi khác. Điều này rất tốt và ích lợi cho đời sống thiêng liêng nếu người đó biết thực hành những điều Chúa và Giáo Hội dạy ngang qua những việc đạo đức đó, tức là “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Nhưng chớ trêu thay, vẫn còn đó những cái xác không hồn khi không biết sống yêu thương, không có tấm lòng bác ái, nhân từ, vẫn sống man trá, lọc lừa nhân danh thứ đạo đức dởm bề ngoài. Lại có nhiều người đi lễ đâu phải vì lòng mến Chúa, mà chủ yếu là khoe mẽ quần là áo lượt! Vì thế, khi thấy cha giảng hơi dài một chút là khó chịu, bực tức, hoặc khi cha dẫn giải Lời Chúa mà đụng chạm đến lòng tự ái của mình là đùng đùng nổi giận và chỉ trích cha thế này, cha thế kia...! Tệ hơn nữa là đi lễ chỉ vì luật, nên không thiếu gì những bạn trẻ đi lễ “ôm” hay thuộc đạo “gốc”; đạo “ngắm”; đạo “dòng”!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo vì sợ điều này điều kia. Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người. Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu. Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện. Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự. Nếu không thì chỉ là chiếc xiềng quá nặng mà chúng ta vẫn cố đeo trên cổ đến nỗi bò lê lết để mang nó hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Luật Chúa; đồng thời, xin cũng cho chúng con biết đem luật yêu thương của Chúa ra thực hành trong cuộc sống nơi các mối tương quan. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Đứng thẳng được
Suy niệm:
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người,
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét.
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn.
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn.
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp.
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu.
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11).
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn.
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao.
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn.
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng.
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà.
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng.
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.”
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ.
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương.
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được.
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực.
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13).
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16).
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15),
mà là trói buộc bằng xiềng xích.
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà,
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường.
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật.
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do.
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng,
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua.
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài,
nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình.
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn…
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được,
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình.
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc.
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục.
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng,
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet,
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ?
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt,
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
28/10 Chúa Giêsu chữa người mù Giêricô
- Viết bởi Mc 10, 46-52
Chúa Giêsu chữa người mù Giêricô.
Chúa Nhật tuần 30 Thường Niên năm B.
"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Lời Chúa: Mc 10, 46-52
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?"
Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh".
Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52
1. Cặp mắt tâm hồn
Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao anh có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng anh không hề trông thấy? Người Ả rập trả lời: Khi nhìn vào những dấu chân con sư tử trên cát, thì tôi biết được rằng con sư tử mới đi qua đây, mặc dù tôi không trông thấy nó. Với Thiên Chúa cũng vậy, mặc dù Ngài là Đấng vô hình, nhưng những kỳ công của Ngài nói cho tôi biết về Ngài.
Chúng ta thật may mắn vì ngay từ lúc mở mắt chào đời, chúng ta đã có một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, như điều răn thứ nhất đã truyền dạy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dân tộc mê tín, tin vào những chuyện nhảm nhí như lửa, như gió và các vì tinh tú, hay như ca dao đã diễn tả: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Tại sao lại có tình trạng ấy?
Lý do thứ nhất, đó là vì sự yếu đuối, sự hạn hẹp của trí khôn con người, coi tất cả những gì đẹp đẽ, những gì oai hùng đều là thần minh. Họ giống như một bác nông dân, lần đầu tiên được bước vào cung vua, thấy bất kỳ ai ăn mặc đẹp đẽ cũng tưởng là nhà vua, nên quỳ gối chào kính.
Nhưng nguyên nhân chính yếu, đó là mưu mô của ma quỷ. Đã từ lâu, nó nuôi tham vọng được bằng Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia đã nói về nó: Ta sẽ lên tới trời và ta sẽ đặt ngai tòa của ta dưới những vì sao. Nó xúi bẩy con người đi tới chỗ thờ lạy nó và dâng tiến cho nó những lễ vật. Nhất là nó mong muốn người ta tôn kính nó như là Thiên Chúa. Chính vì thế, nó đã nói với Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ: Ta sẽ ban cho ngươi mọi vương quốc trần gian, nếu ngươi quỳ gối thờ lạy ta.
Điều ma quỷ không thể tìm được nơi Chúa Giêsu, thì nhiều người kém lòng tin đã hiến dâng cho nó. Tình trạng mê tín không phải chỉ ngày xưa, mà ngay cả hôm nay trong thời buổi văn minh cũng vẫn có. Không thiếu gì những tín hữu đã làm những chuyện nhảm nhí để cầu mong cho được điều nọ điều kia. Họ đã vâng phục loài người hơn là vâng phục Thiên Chúa. Họ đã chạy theo những đam mê dục vọng bất chính, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Họ lấy cái bụng của họ làm chúa.
Tội mê tín hiểu theo một nghĩa rộng, đó là việc từ bỏ Thiên Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thụ tạo. Những đam mê mù quáng như kiêu căng, hà tiện, những khát vọng quá đáng về tiền bạc, danh vọng và lạc thú chính là những thần tượng giả tạo, chúng ta cần phải trục xuất ra khỏi tâm hồn, để tâm hồn trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Có khử trừ tội lỗi, thì cặp mắt tâm hồn chúng ta mới được trong sáng và chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ và nơi những người chung quanh, cũng như nơi thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
2. Nhìn cái tốt
Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu. Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.
Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.
Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan. Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho gia đình và những người thân yêu.
Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.
Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
3. Rào cản.
Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.
Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.
Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?
Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.
Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.
Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.
Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.
4. Xin cho con được sáng – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Killer, ông Braille (Brai-ơ) (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Nếu họ được sáng mắt, họ sẽ thấy muôn cảnh vật tuyệt diệu lạ lùng đến chừng nào.
Một bà cụ ở Rạch Giá, bị mù từ 56 tuổi. Thế là tất cả mọi người mọi vật chung quanh bà đều trở thành đen tối, tất cả đối với bà như đã chết. Bà quên hết mọi mầu sắc, hình ảnh, cảnh vật. Đến năm 73 tuổi, khi được bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul) chữa khỏi, bà được thấy lại cảnh vật và người ta, bà quá sung sướng hạnh phúc, khi gặp tôi bà nói: “Đẹp quá cha ơi, đẹp như thiên đàng vậy cha ơi!”. Thực ra, bà đâu đã thấy thiên đàng đẹp thế nào? Đó chỉ là ước mơ và nay ước mơ của bà đã thành sự thực, thì đúng là thiên đàng của bà.
Tâm trạng sung sướng bà mù này giúp chúng ta thấy được anh mù Bartimê sung sướng đến chừng nào khi được Chúa Giêsu chữa anh sáng mắt và cũng cho ta thấy nỗi khổ cùng cực của tật mù. Anh Bartimê cùng cực hơn nữa, mù còn phải lần mò đi ăn xin, vì đi lại quá khó khăn, nên anh chỉ biết ngồi bên vệ đường, lắng tai nghe có ai đi qua thì giơ tay ra van xin bố thí. Hôm nay, anh ngạc nhiên, nghe thấy tiếng người ồn ào đông đảo bước đi rầm rập trước mặt anh. Họ xôn xao cười nói về Đức Giêsu mà bao nhiêu lần anh đã được nghe tin đồn về Ngài là con vua Đa vít đã thương cứu chữa bao nhiêu người tàn tật. Anh đã bao nhiêu lần khao khát được gặp Ngài. Không ngờ, đây là dịp may nhất đời anh. Thế là anh lấy hết sức kêu gào, át cả tiếng ồn ào dọa nạt. Anh kêu như thét lên: “Lạy Con Vua Đa vít, xin thương xót tôi”. Trước tiếng kêu não nùng đó, Đức Giêsu đã dừng lại gọi anh. Anh liệng áo choàng nhảy chồm lên đến với Người. Người cúi xuống hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Anh thưa: “Xin cho con được sáng”. Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Tức khắc, anh nhìn thấy được và theo Người lên đường. Sung sướng biết bao cho anh, chẳng những được sáng mắt, anh còn được sáng trong đức tin mạnh mẽ để theo Đức Giêsu và trở nên những người Kitô hữu có mặt trong cộng đồng Công giáo đầu tiên, vì thế thánh Marcô viết Tin mừng đã kể đích tên anh. Anh đã không còn bị ngồi cô độc bên vệ đường nữa. Anh đã được sống chung với mọi người, được sống trong cộng đồng chan hòa tình thương, chan hòa ánh sáng trong vũ trụ bao la đầy cảnh vật mầu sắc huy hoàng. Thật là kỳ diệu, ánh sáng đã cho anh thấy được muôn người, muôn vật sống động và hiện hữu mà Thiên Chúa dựng nên.
Trước đây, anh đã phải sống trong một vũ trụ như chưa có ánh sáng, trời đất muôn vật lù mù, tăm tối, hỗn độn, mông lung, hiu quạnh trống không như thuở khai nguyên, cho tới lúc Thiên Chúa gọi: “Hãy có ánh sáng”, trời đất muôn vật mới xuất đầu lộ diện với muôn hình muôn sắc (St. 1, 1-3).
Đức Giêsu chữa anh mù được sáng để khẳng định cho nhân thế nhận ra Người là ánh sáng đôi mắt, ánh sáng trời đất và nhất là ánh sáng phục sinh, ánh sáng sự sống vinh quang muôn thuở: “Lúc khởi đầu, nhờ Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành … Người là Sự Sống và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại … Thế gian nhờ Người mà có” (Ga. 1, 2-4 và 10). Nhưng vì phạm tội, loài người đã chết trong tăm tối: “Mọi người đã sinh ra trong tối tăm” (Eph. 4, 18). Đến nay, nhờ Người, “Thiên Chúa đã gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài” (1P. 2, 9 và Col. 1, 12). “Đức Kitô chiếu sáng trên chúng ta” (Eph. 5, 14) để “trong Chúa, chúng ta là ánh sáng” (Eph. 5, 8). Chính Đức Giêsu đã làm chúng ta nên ánh sáng để “chúng ta là ánh sáng thế gian” (Mt. 5, 14), nên “chúng ta phải sống như con cái sự sáng” (Eph. 5, 8 và 1Th. 5, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con, cho con được thấy ánh sáng của Người chiếu ra từ lời Chúa, từ việc Chúa làm và từ đời sống thương yêu “thông cảm với những kẻ ngu muội và lầm lạc, yếu đuối và bệnh tật để dâng mình tế lễ đền tội cứu chuộc muôn dân” (Dt. 5, 1-6).
5. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng. Người mù quáng dễ dàng thấy rõ những sai lầm của người khác nhưng mù tối về những sai lỗi của mình. "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng".
Vua Đa-vít được xem là một vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nặng nề. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy bà nầy làm vợ. Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua:
Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.
Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: "Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra." Bấy giờ tiên tri Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.
Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)
* * *
Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù quáng, vì người mù loà chẳng gây hại cho ai, còn người mù quáng có thể gây ra vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng không hề tự biết là mình mù quáng, vì thế sự chữa trị lại càng khó khăn hơn.
* * *
Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng nhận ra mình mù quáng và cần được cứu chữa cũng là điều rất khó khăn.
Điều kiện cần thiết nhất để được Chúa Giêsu cứu chữa là phải khao khát được sáng.
Anh mù Bartimê có lòng khao khát được sáng rất mãnh liệt. Khi anh ta nghe biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta liền cất tiếng kêu to: "Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi". Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được khao khát được sáng bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: "Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!
Thế rồi, khi được biết là Chúa Giêsu cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mau mắn thưa ngay: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy."
Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giêsu, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.
Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Khi đó, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều điều đáng tiếc và đáng hổ thẹn trong đời mình.
6. Sáng đôi mắt đức tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Đây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*****
"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Đức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).
Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Đavít".
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".
***
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
7. Ngọn đèn cho thân xác
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Con mắt là đèn soi cho thân xác con. (Mt 6, 22)
Christine Hà, cô gái khiếm thị đầu tiên tham dự chương trình MasterChef đã khiến mọi người phải kinh ngạc, vì tài năng và nỗ lực hiếm có của cô và giành được giải quán quân Vua đầu bếp Mỹ lần thứ ba, vượt qua hơn 100 đầu bếp của nước Mỹ, vừa diễn ra vào tối 10/9/2012.
Trong vòng chung kết, hai thí sinh được yêu cầu nấu 3 món ăn trong vòng hai giờ. Các món của Hà được đánh giá cao về cân bằng dinh dưỡng và thực hiện hoàn hảo, mà cô miêu tả là " bản giao hưởng của những hương vị".
Khi 19 tuổi, Hà được chẩn đoán mắc một chứng bệnh về thị giác rất hiếm gặp khiến cô bị rối loạn khả năng tự miễn dịch và dần dần các dây thần kinh thị giác, và một số dây thần kinh trong tủy sống bị tê liệt. Thị lực của cô mất dần kể từ năm 1999 và hoàn toàn mất hẳn vào năm 2007.
Trước đây, Hà không biết nấu ăn và mới chỉ cách đây vài năm cô mới bắt đầu khởi động từ những món ăn đơn giản nhất. Cô mày mò tự học, dù trước đó cô chưa trải qua một trường lớp, hay được một vị đầu bếp nào đứng ra dạy bảo.
Tường thuật Tin Mừng hôm nay, kể về anh chàng Batimê cũng mù lòa, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã phải cố gắng vượt qua những rào cản của đám đông, đe dọa, cấm đoán, để xin Chúa Giêsu cứu chữa.
Mù mắt sáng lòng
Tuy bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội, ngồi ăn xin vất vưởng vệ đường với đôi mắt mù lòa, anh Batimê vẫn nóng bỏng niềm hy vọng được cứu chữa. Dù hẩm hiu số phận, anh vẫn chờ đợi và sẵn sàng tỉnh thức, đón nhận phúc lành. “Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, anh nghe nói đó là Đức Giêsu Nazaret, anh ta liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 46-47)
Cũng như cô Christine Hà mù lòa, chàng Batimê được Thiên Chúa bù đắp lại bằng các giác quan còn lại phát triển hơn người bình thường. Điều khác biệt giữa chàng Batimê và cô Christine Hà, là kết quả nhận được, một bên chỉ là tiền bạc, danh vọng phù vân và bên kia kho tàng viên mãn đời đời.
Nhưng tại sao cả đám đông đang mải mê đi theo Chúa, không một ai công khai xưng tụng danh Chúa Giêsu là Con Vua Đa vít? Đó là tước hiệu của Đấng Mêsia trong dân gian, mà Chúa Giêsu, trong các chương Tin Mừng Mác Cô trước đây, đã cấm quỷ và người được hưởng phép lạ, cũng như chính các môn đệ, nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, chàng Batimê thoải mái gọi Người ngay giữa đám đông bằng tước hiệu Mêsia, thì Người không cấm nữa. Có lẽ vì lời tuyên xưng đó phát xuất từ Niềm Tin mạnh mẽ, không phải cậy nhờ vào các phép lạ hay dư luận. Trong khi đó, các thầy tư tế, Biệt phái, luật sĩ đang ráo riết phủ nhận Người là Đấng Mêsia. Nên ai dám khẳng định điều đó, thì đương nhiên gây thù chuốc oán với họ.
Chính Đức Tin đã soi sáng cho anh Batimê nhìn thấy Đấng Mêsia, đã ban cho anh thêm sức mạnh, dũng cảm tuyên xưng thánh danh Người. Chính Đức Tin đã thúc đẩy anh công khai cầu xin Chúa, không e ngại bị gây khó dễ, bắt nạt, đàn áp, không sợ bị bịt miệng vì công bố sự thật thánh thiêng. Chính con mắt Đức Tin đã soi đường chỉ lối cho anh.
Vượt qua thách đố
Hành trình của anh Batimê đến với Chúa Giêsu, lại còn tiếp tục chịu nhiều thách đố trở ngại, tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đám đông xúm xít rẻ rúng, khinh rẻ, hoặc nghi ngờ, cũng như cảnh giác anh ăn xin Batimê nghèo nàn rách rưới, hôi hám, dơ bẩn, ngăn cản anh lại gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, anh cứ la lên, lớn tiếng, kêu xin Chúa rủ lòng thương anh. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48)
Nếu anh Batimê không dốc lòng, dốc sức kêu van thống thiết, thì liệu anh có át nổi tiếng những tiếng hỗn loạn, đe nạt của đám đông, để thấu nổi đến tai Chúa chăng? Dẫu vậy, Người không bao giờ bỏ quên những người khốn cùng, bệnh hoạn, tật nguyền, như mù, què, câm điếc, phong hủi.
Nhưng nếu anh cứ do dự, yếu bóng vía, sợ hãi các thế lực đàn áp, những lời hăm dọa, quát nạt, không còn tin tưởng, trôngcậy vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu, thì liệu anh được đoái thương chăng?
Đáp lại Ơn Gọi
Đức Giêsu đứng lại và nói:”Gọi anh ta lại đây!”Người ta gọi anh mù và bảo:”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. (Mc 10, 49-50)
Nghe tiếng gọi, anh Batimê vội vàng đáp lại, bỏ ngay những gì đang cản trở, thoát khỏi sự níu kéo, ràng buộc vào vật chất, tiện nghi, áo choàng vướng víu, đứng phắt dậy, dứt khoát mau chóng đến với Chúa. Chứng tỏ lòng nhiệt tình, lòng thành tâm sôi sục, sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi.
Dù anh mù lòa, nghèo nàn, bộ dạng xấu xí, thảm não, nhưng lòng anh rạng ngời, luôn sẵn sàng rộng mở, nhạy bén đón nhận Ơn Gọi. Anh đã hân hoan, mừng rỡ nhận lãnh phước lành.
Hai con mắt hướng dẫn chúng ta trên con đường đi tới Nước Trời là con mắt của đức Tin và đức Mến. Lòng tin càng mạnh mẽ và lòng mến càng nồng nàn thì đường đi càng sáng sủa và chắc chắn. (DC de Ségur)
Dứt khoát đi theo Chúa
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”Người nói:”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. (Mc 10, 50-52)
Từ lòng Tin, niềm trông Cậy, lửa Mến đã cháy bừng trong tâm hồn anh. Batimê đã được giải thoát khỏi sự u mê, tăm tối, khỏi ách satan ma quỷ giam cầm anh trong bóng đêm dày đặc tội lỗi. Nay anh đã thấy ánh sáng nẻo ngay, chân lý, sự sống viên mãn, sẵn sàng can đảm đi theo Chúa.
“Hãy theo Thầy!” các Tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa. Con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (ĐHV, 61)
Lạy Chúa, xin cho con luôn sáng lòng, để thoát khỏi u mê tội lỗi giam cần vây hãm, để con nhận ra tiếng Chúa gọi, mà đi theo Chúa mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng lòng trí con luôn nhận ra ánh sáng ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, đang mời gọi, mong chờ con tìm đến, để kết hợp sống chặt chẽ với Người. Amen.
8. Trở nên Bartimê
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Trở lại Assisi, một tối kia bè bạn đặt chàng Phanxicô đứng đầu để chi tiêu thỏa thích. Chàng cho dọn một bữa tiệc thịnh soạn như chàng vẫn thường làm trong quá khứ. Ăn uống no nê xong, họ kéo nhau ra khỏi nhà. Đám bạn đi phía trước, vừa đi vừa ca hát qua các ngả đường thành phố. Tay cầm cây trượng thủ lãnh, chàng lùi lại sau họ một ít, không ca hát nhưng mải miết suy tư. Bỗng nhiên chàng được Chúa viếng thăm. Chúa đổ đầy tâm hồn chàng một sự êm dịu lớn lao đến mức chàng không nói năng, hay cử động gì được. Chàng không thể cảm nghiệm và nghe thấy gì khác ngoài sự êm dịu kỳ lạ này, nó khiến chàng thoát ra ngoài mọi cảm giác. Và như Phanxicô sau này cho biết, giả sử lúc đó người ta có định xẻ thịt mình, thì chàng cũng không thể nào cử động được.
Khi các bạn ngoảnh lại và thấy chàng cách họ khá xa, họ liền quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đã biến đổi thành một con người khác. Họ hỏi chàng: "Anh nghĩ ngợi gì mà không đi theo chúng tôi? Có phải đang tính đến chuyện cưới vợ không?" Chàng mạnh dạn trả lời: "Các bạn nói đúng đấy! Tôi đang nghĩ đến việc cưới một người vợ quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn bất cứ người nào các bạn đã từng thấy." Họ cười nhạo chàng. Thực ra chàng nói câu ấy không phải tự ý mình, nhưng do được Thiên Chúa linh ứng, vì vị hôn thê là đời sống tu trì chân thực, mà sau này chàng sẽ noi theo, một vị hôn thê quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn nhờ có đức khó nghèo.
Kể từ giờ phút ấy, chàng bắt đầu coi thường bản thân và khinh chê những gì trước đây chàng ưa thích. Vì chưa hoàn toàn tách khỏi các sự phù vân của thế gian, nên sự biến chuyển vẫn chưa trọn vẹn. Tuy nhiên chàng cũng dần dần rút lui khỏi cảnh huyên náo và bon chen của trần thế và chăm chú tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô trong con người nội tâm. Để che giấu khỏi tầm mắt những kẻ thích nhạo cười viên ngọc quí, mà chàng đem bán mọi tài sản để mua lấy, chàng thường xuyên và gần như mỗi ngày, lánh mình cầu nguyện ở nơi kín đáo. Chàng được thúc đẩy làm như vậy, vì chính niềm êm dịu đã được nếm trước đó. Nay niềm êm dịu ấy lại viếng thăm chàng thường xuyên hơn nữa, cuốn hút chàng vào cầu nguyện ngay giữa quảng trường hay giữa những nơi công cộng khác.
Mặc dầu từ lâu chàng đã là ân nhân của người nghèo, nhưng kể từ đấy, chàng quyết tâm không bao giờ từ chối bất kỳ người nghèo nào đến xin bố thí nhân danh Chúa, trái lại còn sẵn lòng cho rộng rãi hơn thường lệ. Như thế, mỗi lần có kẻ nghèo đến xin ngoài đường, chàng đều lấy tiền cho. Nếu không sẵn tiền, chàng lấy mũ hay giây thắt lưng của mình cho người ấy, để chắc chắn là người ấy không ra về tay không. Nếu không có cả những thứ ấy, chàng không ngần ngại đến một chỗ khuất, cởi áo ra, đem trao cho người nghèo và năn nỉ người ấy nhận lấy vì lòng mến Chúa. Chàng cũng mua cả những vật dụng để trang hoàng nhà thờ, và kín đáo gởi các thứ đó đến các linh mục nghèo túng. (Truyện thánh Phanxicô do ba người bạn thuật, Ofmvn.org)
Chàng công tử hào hoa Phanxicô thành Assisiô bất ngờ nghe tiếng Chúa gọi. Chàng cảm thấy ngây ngất, hạnh phúc vô cùng. Con tim mù lòa của chàng được hào quang Nước Trời chiếu dọi vào, trở nên ấm áp lạ lùng. Bỏ mặc những tiếng cười chê của bạn bè, thị phi của thiên hạ, chàng Phanxicô can đảm canh tân cuộc đời, y như anh chàng mù Bartimê được Chúa cho sáng mắt.
Tin Mừng Chúa nhật 30 hôm nay, Thánh sử Máccô thuật lại hành trình đức tin của chàng hành khất Bartimê mù lòa. Công khai hóa niềm tin, tích cực khấn xin chữa lành, anh tìm đến Đức Giêsu, vượt qua gian nan, thử thách, dám từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.
Tin Người
Giữa đám đông chen chúc, hỗn độn, ô hợp, xô bồ, anh Bartimê mù lòa đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được biết Đức Giêsu đi ngang qua, liền cất lên tiếng cầu khẩn: "Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương con." (Mc 10, 46-47) Tiếng kêu tha thiết, mãnh liệt, tràn đầy tin cậy, tưởng chừng lạc lõng, bị lấn át đi, chẳng ai có thể nghe được. Không bỏ cuộc, anh lại lớn tiếng lập lại ước nguyện: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi."
Hình như lời xưng tụng “Con Vua Đavít” không được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ? Bởi vì thiên hạ đang mong đợi một Đấng Messia, cứu nhân độ thế, giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Roma, phải uy nghi, hùng dũng, tiền hô hậu ủng, chứ không phải ông Giêsu Nazareth bình dân bụi đời. Mặc cho quần chúng sáng mắt nhưng tối lòng, đang vây quanh Đức Giêsu, dọa nạt, cưỡng bức Bartimê phải im lặng, anh vẫn không chịu khuất phục, càng khẳng định, xưng tụng, gào to hơn: “Con vua Đavít!” càng van xin lòng thương xót của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chói lọi giữa đêm u ám kiếp mù lòa, đức tin anh Bartimê bỗng rạng ngời bừng sáng, không cần giấu diếm, che đậy, không đắn đo, không khôn ngoan theo thế gian, bất chấp những đòn trả thù dã man của những kẻ quá khích kình chống Đức Giêsu, đang lởn vởn vây quanh gầm ghè hăm dọa. Bartimê vẫn anh dũng tuyên xưng đức tin.
Tìm Người
Mặc dầu nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi." Giữa tiếng ồn ào, giữa đám đông huyên náo, giữa xã hội nhiễu nhương, đa dạng, Đức Giêsu vẫn luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn đáp lại bất cứ ai khẩn cầu Người, cần đến Người cứu chữa, giúp đỡ, che chở. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh." Không bao giờ Người phụ lòng bất cứ một ai chân thành tìm đến Người cứu giúp. "Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu."
Vượt qua những rào cản hữu hình, vượt qua nỗi sợ hãi đến với Đức Giêsu, anh Bartimê còn can đảm vất bỏ đi tấm áo choàng bất ly thân của anh, vốn gắn bó che thân và mưu sinh. Cương quyết bỏ đi tất tần tật những gì vương vấn, vướng víu, trở ngại để đến với Chúa. Đức tin trưởng thành của anh dẫn đến hành động xả kỷ rất quyết liệt, rất dũng cảm, không chút e dè, chần chừ, so đo, tính toán: “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu," dứt khoát bỏ mình, dấn thân theo Chúa. Hành trình đức tin khi này đưa Bartimê đến tầm cao mới, thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất tầm thường. Thánh Phanxicô cũng đã noi gương anh Bartimê, cho đi áo quần, giày mũ, của cải, để hân hoan, thảnh thơi đi theo Chúa.
Theo Người
Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh." Tức thì anh ta thấy được và đi theo. Dù hoàn toàn hiểu nguyện vọng của anh, Đức Giêsu vẫn tôn trọng tự do của anh, muốn chính anh bộc lộ ra công khai. Rồi chính quyền năng Người đã cứu chữa anh sáng mắt, nhưng Người nhấn mạnh đó là thành quả của đức tin đáng được tưởng thưởng của anh Bartimê. Một sự khiêm tốn cả thể và một tầm quan trọng vô cùng của đức tin.
Hành trình đức tin của Bartimê bắt đầu từ lặn lội đi tìm Chúa, vượt qua gian khó, thử thách, từ bỏ mình, khám phá ra Ánh Sáng, được chiếu sáng cả thân xác lẫn tâm hồn, được nhận biết chân dung nhân ái của Đức Giêsu, tiếp tục dìu dắt anh đồng hành cùng Người, hướng về Giêrusalem theo Thánh Ý Đức Chúa Cha.
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở nên chàng Bartimê mới, biết tin yêu lắng nghe, từ bỏ của cải, bươn chải tìm đến Chúa, hội ngộ với Chúa, được chiếu sáng tâm hồn và được đồng hành với Chúa trên đường hy vọng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từ bỏ mọi sự thế gian, dâng hiến trọn đời theo Chúa, xin cầu bầu cứu giúp chúng con thoát khỏi đêm đen đầy ma lực cám dỗ, để tỉnh thức tìm đến Ánh Sáng Chúa Kitô. Amen.
9. Thiên Chúa thương cứu con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.
I. Thiên Chúa- Đấng thương xót con người
Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày, Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.
Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc. Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!
Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.
II. Gọi anh ta lại đây
Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác, Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.
Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.
III. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người
Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với bạn, từ ngữ nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?
2. Bạn thích Đức Giêsu ở điểm nào nhất?
3. Bạn ao ước Thiên Chúa làm gì cho bạn?
10. Chúa cho người mù được thấy
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện anh mù Bartimê kêu xin Ðức Giêsu "Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Và Ðức Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời chúng ta.
- Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị em chúng ta.
- Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 31,7-9)
Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương; tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được cứu chữa.
2. Ðáp ca (Tv 125)
Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi kiếp lưu đày.
3. Tin Mừng (Mc 10,46-52)
Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong "nước" Ðức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để "sửa lưng" các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn "thấy" Ðức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn "đi theo" Ngài.
- Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết "xin cho tôi được thấy", và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn "đi theo" Ðức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).
- Trước đó, khi được Ðức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ ("liệng áo choàng"), thay đổi nếp sống (từ "ngồi ở vệ đường" đến "đứng dậy"), quy hướng về Ðức Giêsu ("nhảy đến với Ðức Giêsu").
4. Bài đọc II (Dt 5,1-6) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do thái tiếp tục suy tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm: (1) Vị đó được chọn từ giữa loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa. (3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.
IV. Gợi ý giảng
1. Sáng đôi mắt đức tin (Mc 10,46-53)
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Ðây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*****
"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Ðức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).
Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Ðavít".
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".
***
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
2. Thị giác và thị lực
Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.
Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.
Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.
Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia "Con Vua Ðavít".
Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy xin cho con được thấy".
3. Ðứng trước một người tàn tật
Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:
1. Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh... Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó "1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi"; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.
Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: "Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan". Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay "Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt..."
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
4. Tâm sự của một người mù
Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: "Chẳng có gì đặc biệt cả".
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ "Không thể nào như thế được". Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc và thất vọng.
2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.
3. Xin cho những người bị đui mù cả phần xác lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Ðức Giêsu / và được Ðức Giêsu thương chữa lành.
4. Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh tai hại ấy.
Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta không còn mù lòa nữa, nhưng thấy được thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta.
VII. Giải tán
Sau khi được Ðức Giêsu chữa khỏi mù, anh Bartimê đã nhìn thấy được và đi theo Ðức Giêsu trên con đường Ngài đi. Chúng ta cũng được Chúa cho thấy con đường mà chúng ta phải đi để theo Chúa. Chúng ta hãy hăng hái tiến bước trên con đường ấy.
11. "Xin cho con được thấy"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: "Mày mù hay sao mà không thấy đèn của tao". Người kia trả lời rằng: "Đèn mày còn sáng đâu mà tao trông thấy".
Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.
Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp, trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn. Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong muốn thay đổi cuộc đời.
Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương". Với thiện chí của mình anh đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của thế gian bố thí.
Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác. Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột, lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế nên mình làm theo.
Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà không hay.
Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ trẽn sống theo đam mê của mình.
Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.
Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của chính mình.
Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
12. Mù có phải là bất hạnh không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.
Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.
Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.
Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.
Lạy Chúa, sẽ thật hạnh phúc cho con, nếu con có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại sẽ thật bất hạnh cho con nếu con có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm 30. Con xin tạ ơn Chúa vì ngài đã ban cho con có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Người gìn giữ con để đôi mắt đức tin của con cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là "bất hạnh", là "đáng thương" như người ta vẫn nghĩ. Amen.
13. Mù lòa
Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất , mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn... cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.
Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội "ngàn năm một thuở". Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước "mắng bảo anh ta nín đi". Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.
Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu "dừng lại". Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ....Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu. Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.
Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: "lòng tin của anh đã chữa anh". Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.
Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp...không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cứ cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy"
Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: "Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu...". Amen.
14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!
Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:
- Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình...
- Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.
- Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.
Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?
Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?
Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?
Thưa Bạn,
Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.
Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.
Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!
15. Đôi mắt Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn,
Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Cô gái nhớ nhung chàng trai phố núi dù chỉ mới gặp gỡ qua “đôi mắt”.
Tôi đã gặp đôi mắt người phố núi,
Chiều cao nguyên trong khói toả sương mù,
Chẳng hề quen sao đôi mắt hẹn hò?
Trong giây phút làm hồn tôi rung cảm.
Tôi đã yêu đám mây chiều lơ đãng,
Những đường mòn,những đồi dốc không tên,
Đôi mắt anh làm tôi thấy yêu thêm,
Thành phố núi những buổi chiều hiu hắt.
Sao tôi chỉ yêu người qua đôi mắt?
Đôi mắt buồn như phố núi hoàng hôn,
Anh có là thi sĩ lúc chiều buông?
Đang mơ mộng tìm vần thơ viết dở.
Đôi mắt.Trời ơi, kiêu kỳ hoang dã!
Anh nhìn tôi rất lạ rất thân tình,
Anh đã làm chảy máu trái tim xinh,
Đêm phố núi về tương tư đôi mắt.
Tôi đến đây, miền cao nhiều gió lạnh,
Chỗ thân quen ở lại một đôi ngày,
Mai mốt về tôi biết nhớ gì đây?
Hay chỉ nhớ một chàng trai phố núi?
Tôi sẽ về, chắc lòng còn tiếc nuối,
Tình cảm này tôi biết gởi về đâu?
Khi tôi và anh chưa biết tên nhau,
Hy vọng gì sau một lần gặp gỡ!
Tôi sẽ về, chắc không còn gì nữa!
Anh cũng xa vời như gió như mây,
Tình yêu của tôi lãng mạn phút giây,
Nhưng tôi sẽ thương nhớ hoài đôi mắt. (Thanh Dương)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
- E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc trg 69–71, Lm Nguyễn Tầm Thường).
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mes-si-a "Con Vua Ðavít". Anh kêu xin: "Rabbuni, xin cho tôi được thấy", và Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con". Bar-ti-mê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giê-ru-sa-lem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bar-ti-mê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân con
với những yếu đuối và khuyết điểm,
nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa;
từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng,
để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
16. Xin cho con được thấy - Hiếu Nguyễn
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Sáng mắt đức tin
Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.
2. Thế giới mù lòa
Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:
Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.
Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”
3. Người ta quát nạt anh ta
Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”
Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.
4. Biết mình mù
Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…
Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).
5. Người mù nhìn thấy
Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….
Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.
Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”
Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.
6. Tâm sự của một người mù.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp : "Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
7. Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói :”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
8. Chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói :
- Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.
Người bạn trả lời :
- Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :
- Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người kia đáp :
- Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này : Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…
9. Tìm thấy mẹ nhờ con mắt tình yêu:
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.
17. "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù: “Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh?” - Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: “Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì (ông cậu) sẽ cho cháu ngay!” Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao!
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: “Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được!” Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa?
Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: “Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!" Hay: "Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì!” Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa!
Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: “Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa!” Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: “Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa!” Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng?
“Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con - chúng con - đang thiếu thốn!” Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v... Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao?
Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, “Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn” phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta!
Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng “Giáo Hội Công Giáo” là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v...! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:
những người già nua, những người bệnh tật,
những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,
những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,
những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v...
Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!
Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v... Tất cả đều nói lên “mặt trái của một chiếc mề đay”, những “con chiên ghẻ” trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.
Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.
Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi - chúng ta - có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta!
“Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi!”
Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:
“Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con!”
Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô - Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:
Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!
Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn!
Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác!
Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con!
Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.
18. Can đảm – Lm. Vũ Đình Tường
“Can đảm lên!"
Đức Kitô đáp lại tiếng kêu chữa lành anh mù thành Bartimaeus, và đám đông dân chúng thúc dục anh can đảm lên, đừng sợ, Đức Kitô gọi anh đó. Can đảm thay cuộc đời, đổi lối sống, làm lại từ đầu. Can đảm dứt bỏ quá khứ hướng về tương lai tràn đầy hy vọng, tình yêu Chúa.
Đổi đời
Trước khi Đức Kitô đáp lại tiếng anh kêu cứu, người ta đã ngăn cản anh đến với Đức Kitô, người ta cấm không cho anh lên tiếng. Anh càng kêu to hơn và Đức Kitô đáp lại tiếng anh nài van. Lời nói của Đức Kitô có sức mạnh thay đổi tâm can con người. Lời Chúa thay đổi tâm can anh mù, thay đổi tâm can đám đông. Lời Chúa có sức mạnh chấm dứt đau khổ anh mù đang gánh chịu. Sức mạnh Lời Chúa mở mắt anh mù, chấm dứt chuỗi ngày tăm tối. Anh mù mắt sáng bước đi trong ánh sáng bình minh, anh không còn phải ngồi vệ đường xin ăn. Anh tự làm nuôi sống mình. Anh bước đi trong sự thật, trong ánh sáng Lời Chúa và trở thành môn đệ Đức Kitô, bước đi theo Ngài. Mọi nơi anh đều thuật lại việc lạ lùng Đức Kitô làm cho anh. Trước đây anh không có bạn bè, chỉ có những người thương hại cho anh cơm bánh. Trở thành môn đệ Đức Kitô anh có nhiều bạn bè, tông đồ Chúa, đám đông theo Ngài và những ai tin vào Ngài. Anh trở thành phần tử trong công đoàn đức tin Kitô.
Tương lai bừng sáng
Từ giã cuộc sống tối tăm, không còn ăn vận rách rưới như xưa, thay áo mới nhìn anh sáng sủa, mặt tươi vui, hớn hở. Đầu tóc chải tươm tất, anh đi đứng khoan thai, đầu cao, mắt sáng, hãnh diệnt rở thành môn đệ Đức Kitô. Đời anh thay đổi hoàn toàn, anh biết thưởng thức vẻ đẹp của nắng sớm, mắt tròn xoe nhìn nắng chiều và ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên mà trước đây anh không hề được thưởng thức. Tương lai anh sáng vực với hy vọng tràn trề bởi từ nay anh có Đức Kitô chỉ đạo, dẫn đường và ban cho anh sự sống mới. Gặp gỡ Đức Kitô anh từ người vô danh trở thành lừng danh bởi bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng chuyện riêng đời anh trở thành chứng nhân tình yêu và lòng thương xót vô biên Chúa dành cho anh.
Nhìn bằng mắt đức tin
Anh mù là mẫu mực người lắng nghe sinh động. Anh chưa hề nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh nghe nói về Ngài và nhớ những điều anh nghe được. Dù không nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh biết Ngài sanh trưởng nơi Nazareth, con vua Đavít và Ngài có sức mạnh thần thiêng trên các bệnh tật. Anh nghe biết Ngài sắp đi qua nơi anh đang xin ăn và lên tiếng kêu cầu. Lời cầu của anh rất đơn sơ. Lậy Ngài, xin cho con mắt được sáng. Đơn giản trong lời cầu, mạch lạc, rõ ràng xin điều anh mong mỏi, ước ao.
Người mù mở mắt chúng ta học biết con mắt đức tin nhìn thấy Chúa trước con mắt xác thịt. Anh mù nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài trước khi Ngài mở mắt anh. Anh dùng mắt xác thịt chiêm ngắm vẻ đẹp kì công sáng tạo của Chúa. Kì quan trần thế củng cố đức tin nơi anh. Chúng không ban cho anh niềm tin nhưng làm cho niềm tin của anh vững mạnh hơn. Đức tin anh có trước khi nhìn thấy kì công của tạo hoá. Đức Kitô đã nói với anh. Đức tin anh đã mở mắt anh và điều anh xin cho mắt sáng được toại nguyện bởi anh có lòng tin vào Ngaì. Anh nhận biết Đức Kitô nhờ con mắt đức tin và con tin yêu mến nồng nàn trước khi nhìn thấy bằng con mắt xác thịt.
19. Mù sương – Lm. Vũ Đình Tường
Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra con đường theo Chúa có lúc nọ, lúc kia, khi thẳng, khi cong. Đức Kitô xác nhận con đường Ngài chọn đi là con đường có cửa hẹp. Đường dẫn vào cửa hẹp dẫn đến sự sống. Mt. 7,13.
Dù đường đời hay đường theo Chúa. Con đường nào cũng có lúc quanh co, khi uốn khúc. Có đoạn chênh vênh sườn núi. Có đoạn gập gềnh khúc khuỷnh ẩn sau cánh rừng. Lại cũng có đoạn vắt ngang cánh đồng xanh, bao la, bát ngát, đây đó có chim kêu, kia nọ có bướm lượn. Dù thung lũng sâu hay trên đỉnh non cao, đường có lúc trong sáng, gió nhẹ bay. Khi khác lại mù sương, gió buốt, thốc từng cơn. Khi trong sáng trước mắt hứa hẹn một tương lai rực rỡ, khi mây đen bao phủ, tương lai mù mờ.
Song song với đường đời, người Kitô hữu còn có đường thiêng liêng dành riêng cho những ai nối gót Đức Kitô. Tự nguyện bước trên đường này sẽ nhận được ơn riêng Chúa ban. Ngài ban ơn hỗ trợ, nâng đỡ, khuyến khích, mời gọi Kitô hữu cùng nâng đỡ, dìu nhau tiến bước. Nếu có ai không may trượt chân, mệt mỏi, vấp ngã hãy đỡ nâng, giúp họ tiếp tục tiến bước.
Đường thiêng liêng
Chúa không tạo dựng đường riêng cho từng Kitô hữu. Ngài mời gọi Kitô hữu nhập thế, đi chung đường đời. Đã làm người ai cũng trải qua đường đời. Kitô hữu nhập thế để trở thành muối, thành men ướp đời. Nói cách khác, Kitô hữu vừa chung đường đời vừa có nhiệm vụ làm người chỉ đường, linh đạo cho nhân thế.
Cần biết rõ con đường mới có thể chỉ đường rõ ràng, mạch lạc. Không rõ con đường sẽ chỉ mông lung, lơ mơ. Cả hai đều lạc. Đường tâm linh soi sáng, hướng dẫn đường đời mà không thể ngược lại. Chúa soi sáng, dẫn đường tâm linh. Đây là đường vĩnh cửu, luôn đúng. Trào lưu xã hội chỉ đạo đường đời. Trào lưu thường có thời. Hết thời trào lưu chết, đường theo trào lưu cũng chết theo.
Vững tin, hèn tin
Chọn đường đời hay đường tâm linh đều không tránh khỏi lo âu, phiền muộn. Mạnh tin, coi lo âu, phiền muộn là cơ hội dẫn đến gần Chúa hơn. Gian truân, thử thách giúp cảm nghiệm rõ tình yêu Chúa. Cảm nghiệm Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chia sẻ mọi biến cố trong đời.
Một khi Kitô hữu cảm nhận rõ ràng tình yêu Chúa dẫn dắt trên đường khi nguy khó người đó trở nên quyết tâm, bám chặt vào Chúa, vững tâm, không sờn lòng trước chông gai, bão tố. Đời lắm gian truân, đức tin và lòng thành càng lộ tỏ vững chắc. Tin theo mà không tính toán hơn thiệt.
Trái lại kém lòng tin thường coi lo âu, phiền muộn là chướng ngại. Thiếu phó thác vào Chúa. Cậy sức riêng giải quyết thử thách, nguy nan. Tin mà thiếu phó thác. Tâm tình lạnh nhạt, hay nản lòng. Tin giai đoạn, lúc tin, lúc không. Tìm cách trốn chạy đau thương, phiền muộn. Vừa chạy vừa than, trách. Cuống lên, chạy quanh. Chạy quanh chẳng tới đích. Hoạ may gặp đường cùng. Đường cùng không lối thoát nên bất mãn. Vì bất mãn nên coi thường, thờ ơ cầu nguyện. Tất cả đều do yếu kém đức tin gây ra.
Đức tin không trưởng thành so với tuổi đời. Đức tin không lớn so với thời gian tin theo. Đức tin trưởng thành nhờ sống bác ái, yêu thương, sống đời thánh thiện.
Chỉ đạo
Vì có đường nên cần có người chỉ đường, hướng dẫn cách đi, lối đi. Đức Kitô tự nhận Ngài là con đường.
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Ga 14,6
Chọn con đường Chúa đi, chọn Ngài làm Đấng chỉ đạo bảo đảm chọn đúng đường. Chúa vừa là con đường cho con tiến đi vừa là Đấng chỉ đạo cho con tiến bước. Con đường Ngài chỉ đạo là sự thật. Trong sự thật luôn chứa mầm sống, sự sống. Đường Chúa hướng dẫn là chân lí, sự thật, mang lại sự sống vĩnh cửu.
Mù sương
Niềm tin tôn giáo không thể chết, nhưng có thể lu mờ, sống tình trạng mù sương. Tâm hồn mù sương đáng thương hơn đáng trách vì luôn sống trong tình trạng ngờ vực, lo âu, sợ sệt. Sợ niềm tin Kitô không bảo đảm được hạnh phúc nên nhờ vật chất bảo vệ. Mù sương thường nhập nhằng giữa linh đạo và đường đời. Để quyền lợi, danh vọng, đường đời hướng dẫn, chỉ đạo tâm linh.
Kẻ khai sinh câu ‘tốt đời, đẹp đạo’ tạo hoả mù cho tôn giáo. Hoả mù vì mỗi chính quyền định nghĩa đời một kiểu. Cần phải xác định loại đời nào. Không phải hễ tốt đời là đẹp đạo cả đâu. Kẻ phản đạo vẫn có thể làm tốt đời. Trái lại, tâm hồn thánh thiện không bao giờ làm hại đời. Nếu hại sao có thể gọi là thiện tâm, là lành thánh. Câu nói chính xác là tốt đạo sẽ đẹp đời. Ngược lại đẹp đời chưa chắc tốt đạo.
Tốt đời, đẹp đạo là sai. Câu này không đúng. Nét đẹp của đạo thể hiện một cách trọn vẹn, trong sáng khi tôn giáo có tự do thực sự. Tôn giáo phục vụ, làm tốt hơn đời sống con người. Tôn giáo sống gò bó trong khuôn khổ của đời. Tôn giáo đạt mục đích làm đẹp. Lạm dụng nét đẹp tôn giáo để khoe với đời, với người. Tôn giáo ích chi cho con người.
Một tâm hồn công chính, thánh thiện là nhờ sống niềm tin. Lạm dụng niềm tin chỉ có thể xảy ra cho kẻ thiếu đức tin và kẻ không niềm tin.
20. Vỉa hè – Lm. Vũ Đình Tường
Vỉa hè là nơi mà người có con mắt thương mại buôn bán, kiếm sống; kẻ tàn tật, người mù loà, kiếm ăn hàng ngày. Người mù không nhìn thấy ông đi qua, bà đi lại nhưng nhận biết người đang tiến tới. Người mù không thể nhìn bằng mắt thường nhưng bằng cảm quan để nhận biết những gì xảy ra quanh mình. Người mù không nhìn thấy người cho đồng bạc nhưng biết hành động bác ái của người cho qua việc nghe đồng tiền rơi trong giỏ cói. Người mù qua cảm quan nhận biết sự hiện diện của người đang đứng gần kề. Người mù cảm nhận sự việc đang diễn ra quanh mình. Người mù biết sắp đến là một người hay một nhóm. Người mù cảm nhận khí trời hôm nay nắng đẹp hay mưa phùn hay bầu trời mù mây. Dù không trông thấy nhưng cảm nhận trong trí của anh ta.
Mong muốn có được cái này, cái nọ là ước mong chung của đa số. Khi có được điều ước mong lại không thích, không ưa, không hài lòng, lại muốn có cái khác vì thế mỗi chúng ta đều có những ước mong viển vông, hoặc ngay cả không biết chắc mình muốn gì, thích gì. Trong khi anh mù Batêmô dù không nhìn thấy nhưng lại nhìn rõ trong đầu điều anh ước ao, mong muốn. Anh mong tấm lòng bác ái, cử chỉ từ thiện từ người qua đường. Trong khi đó anh mong được Đức Kitô ban cho mắt sáng. Khi chưa gặp Ngài anh kêu nài
‘Lậy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con'
Khi gặp Ngài điều xót thương thổ lộ rõ hơn. Anh xin cho được mắt sáng. Điều anh xin hoàn toàn trái ngược với hai người sáng mắt tuần trước nhắc đến của hai tông đồ. Họ sáng mắt thân xác nhưng lại mù mờ mắt tâm linh. Vì thế Đức Kitô nói với hai ông: Các con không biết điều các con xin (Mc 10,38).
Nhìn thấy mới tin là điều nhiều người mong ước nhưng không có chi bảo đảm điều bạn nhìn thấy là sự thật hay bảo đảm bạn nhìn chính xác, rõ ràng. Nếu nhìn luôn chính xác làm gì có chuyện chọn sai, mua lầm. Nếu nhìn thấy luôn chính xác thì làm gì có chuyện hối hận đã đi sai đường, lạc lối, đã phản tỉnh về nhận thức sai lầm.
Đám đông đi theo Đức Kitô lên tiếng can ngăn anh mù, không cho anh lên tiếng. Càng can ngăn, anh càng kêu to hơn. Đức Kitô dừng lại nói với đám đông để anh ta đến cùng Ngài. Tiếng của Ngài có lẽ nhỏ nhẹ, êm đềm, mời gọi. Dù là tiếng nhỏ nhẹ đó pha trộn với tiếng đám đông ồn ào, huyên náo thế mà anh mù vẫn nghe được tiếng Ngài. Không chần chừ nhưng nhanh chóng đáp lại tiếng Ngài gọi. Anh vui mừng nhảy nhón, chạy đến cùng Đức Kitô. Không phải vì anh nài nỉ dai dẳng mà Đức Kitô chữa anh mà chính là đức tin biểu lộ qua hành động. Điều này chính Đức Kitô xác nhận trước đám đông. Hành động thể hiện đức tin thầm kín trong lòng của anh biểu lộ qua hành động vui mừng nhảy múa, chạy nhanh đến và cuối cùng là đi theo Đức Kitô.
Đức Kitô sau khi cho anh mắt sáng bảo anh.
Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh.
Thay vì ra đi, anh chọn ở lại, chọn đi theo. Anh vất lại sau lưng tất cả để theo Chúa. Anh vất lại đồng tiền xin được trong ngày. Anh vất lại chỗ tốt mà anh ngồi xin bao năm qua mà nhiều người mù khác mong có được chỗ kiếm ăn tốt đó. Anh vứt lại cái khung cảnh quen thuộc và những người giầu bác ái luôn mở rộng tay phát cho anh miếng cơm. Anh vứt lại cái áo choàng duy nhất vật giữ ấm trong ngày giá lạnh. Anh vất lại lối sống cũ để mặc vào người lối sống mới, lối sống không nhà cửa, không chốn dựa đầu nhưng lại thảnh thơi, tâm tư thư thái, lòng an bình. Anh vứt lại í riêng để đón nhận ý Chúa soi đường, chỉ lối đời anh.
Người ta khoe mẽ đi nhiều biết rộng đúng câu ca dao, tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Người mù này không đi đâu xa, nếu có cũng chẳng nhìn thấy gì thế mà anh học được sàng khôn. Anh học được sự sống đời đời. Anh học được đức tin để tin vào Đức Kitô và chính niềm tin đó giúp anh sáng mắt. Vì thế đức tin không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong, từ con tim chân thành yêu mến. Con tim biết lắng nghe Lời Chúa và biết đêm ngày giữ trong lòng Lời Ngài. Sàng khôn nằm trong con tim, không phải nơi phong cảnh của đất trời bao la.
21. Niềm tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.
Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo (Gier 31, 8).
Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo. Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh khao khát của chúng ta.
Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.
Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! " Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô. Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin (the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).
Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm 325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." (Lc 17, 5).
Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.
22. Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt
(Suy niệm của Huệ Minh)
Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm bác sĩ quen về mắt để bác sĩ cho thuốc nhỏ đỡ vì chưa có dịp về thành phố. Có công có việc gì mới đi để kèm theo chứ chẳng lẽ con mắt đau một tí là chạy về. Chạy đi chạy về vừa mệt vừa tốn tiền xe nữa.
Con mắt có vẻ thốn và khó chịu vô cùng. Có lẽ, cảm nghiệm này không phải của riêng người bệnh này nhưng là cảm nghiệm của những ai đã hơn một lần đau mắt.
Đau mắt thôi đã thấy khó chịu như vậy mà nếu như khi ta khiếm thị, ta không nhìn thấy đường, không nhìn thấy vật thể trước mặt ta nữa thì khó chịu biết bao.
Mẹ cho đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời và để làm duyên
Trời cho em con mắt màu đen để thương để nhớ để ghen để hờn
Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn,
là bài ca hay nhất, là tuyệt tác của thiên thu.
Con mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là cửa sổ để thu tất cả những hình ảnh, những cảnh vật vào tâm hồn con người. Và vì thế, con mắt phải nói đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể của con người. Con mắt đui mù quả là khiếm khuyết lớn cũng như làm cho con người bị giới hạn và thiệt thòi nhiều.
Ngày hôm nay, ta bắt gặp hình ảnh anh chàng mù thành Giêricô con ông Timê tên là Bartimê. Anh ta mù nhưng may mắn là anh còn nghe được. Vì mù, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm gì nên chỉ còn cách duy nhất là ăn xin. Đang ngồi ăn xin nhưng anh nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi".
Thấy anh kêu như vậy và vì anh là người khuyết tật nên người ta ăn hiếp anh và ta bắt gặp nhiều người mắng anh bảo im đi. Trước thái độ của những người sáng mắt ngăn cản, anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi".
Hẳn nhiên là lời kêu của anh đã đến tai Chúa Giêsu, không chỉ tai mà còn đập vào mắt Chúa Giêsu hình ảnh của một con người khuyết tật để rồi Chúa Giêsu không đi nữa mà đã dừng lại và truyền mọi người gọi anh đến. Đơn giản, Chúa Giêsu nói với anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Nghe Chúa Giêsu nói và anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
Quá tuyệt vời! Anh mù đã thấy và đã đi theo Ngài.
Dừng lại một chút vì ta choáng. Ta phải đưa ta trở về với thực tại Tin Mừng ngày hôm đó ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa, của phép lạ mà Chúa Giêsu làm.
Quá sức tưởng tượng với niềm tin của anh chàng Bartimê.
Và, ta cũng có dịp nhìn lại niềm tin của ta.
Niềm tin của ta dường như nó sao sao í! Và nhất là khi ta đủ hai con mắt sáng và rất sáng nữa. Giản đơn là Chúa ban cho ta đôi mắt sáng đó nhưng ta có cảm nhận được đó là quà tặng, là ơn của Chúa đâu. Nếu có thì ta đã cảm nhận và cảm tạ chứ đâu có ai oán là sao Chúa để cho con thế này thế kia? Chúa cho sáng mắt, đó phải chăng là một hồng ân, một quà tặng quá lớn của Chúa không?
Sáng con mắt nhưng mù tâm hồn. Chính vì mù tâm hồn nên đâu có nhìn thấy được ơn Chúa.
Bài hát mà Cha Bạch Văn Lộc khi còn sống rất thích hát và mời mọi người cùng hát. Khi đó, còn bé, nghe thì nghe, hát thì hát đó nhưng cũng chưa hiểu tâm tình của Cha cố Henry:
Lạy Chúa, xin mở mắt con
Biết nhìn kỳ công của Ngài
Trời xanh, tinh tú long lanh
Hoa ngàn cùng muôn muông thú
Ðồi kia ai đắp nên non
Sông dài, trùng dương mênh mông
Biết rằng Ngài đã thương con
Thế mà con đâu có hay!
EPHATA Hãy mở! Mở ra!
EPHATA Hãy mở ra!
EPHATA, EPHATA
Ta phải xin Chúa mở con mắt ta để ta thấy kỳ công của Chúa, kỳ diệu của Chúa ít là ngay bên đời ta thôi.
Thử nhìn lại đi, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm... cuộc sống của ta như thế nào? Ngày nay ta có nhiều lắm đó chứ! Nhìn lên ta không bằng ai nhưng khi nhìn xuống ta lại chợt thấy có nhiều người không may mắn như mình.
Ở gần Mẹ, mỗi tuần lại được nhìn thấy những lời khấn, những lời xin của con cái Mẹ từ khắp nơi về lại thấy có điều gì đó man mác buồn.
Mẹ ơi! Xin Mẹ cho con được ơn, được tiền để trả nợ Mẹ ơi! Chồng của con vướng vào ma túy, xin Mẹ cho anh ơn hoán cải. Mẹ ơi! Con của con mê chơi game, xin Mẹ cho con của con đừng mê game nữa.
Mẹ ơi! Mẹ ơi...
Nhìn lại mình, dĩ nhiên vẫn còn đó những chứng bệnh như rối loạn tiền đình, như viêm tai... nhưng, vẫn may mắn là còn tiền và có tiền để đi khám và chữa bệnh. Cũng như may mắn hơn nữa là có người này người kia là nhân viên ở các bệnh viện thấy khờ khờ từ quê lên tỉnh nên chỉ vẽ, hướng dẫn cho để khỏi bị la. Vào bệnh viện, dễ bị người này người kia ăn hiếp vì khờ khạo lắm vì nhà quê lên tỉnh.
Nhìn lại thì thấy sao Chúa thương mình và không xin cho mình hết bệnh mà xin cho mình đủ sức để gánh bệnh và gánh bệnh cho biết với người ta.
Nói đến đây lại nhớ có vài lần vào bệnh viện, người quen dù biết mình bận rộn, dù cũng thương và lo cho mình đó nhưng lại bảo là cứ chờ để cho biết người người nghèo!
Hay! Đúng! Có khi phải chờ, phải đợi như thế mới có cái cảm của người nghèo chứ không thì không có cơ hội để cảm cái khó khăn của người nghèo khi vào bệnh viện.
Và cũng vui là có lần vào viện, tưởng là được khám ngay nhưng không, bị vịn lại vì huyết áp cao quá. Nhân viên bảo là nhiều khi được thương chưa hẳn là tốt, mấy em nó đưa đi vội vội và lên cầu thang nên huyết áp cao mà cái huyết áp này là huyết áp giả nên rất khó để khám bệnh.
Thế đó, phải chờ, phải đợi để có cái cảm với người nghèo, người khác.
Đời ta, ta may mắn, ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng đôi mắt của ta vẫn không thấy, vẫn chưa thấy. Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hổi nỗi đau là gì, ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, chỉ cần một ly nước thôi, chỉ cần bát cơm vơi...
Ta còn may mắn, ta con hạnh phúc hơn nhiều người nhưng con mắt đức tin của ta khép lại, mù quáng vì ta chạy theo vất, của thế gian và phù hoa. Khi ta để cho tiền của, quyền lực, danh vọng lâp đầy lòng ta, lấp đầy mắt ta thì khi đó ta không còn thấy Chúa nữa. Và khi đó, ta lại thủ thỉ, thỏ thẻ với Chúa:
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.
23. Chúa Nhật 30 Thường Niên
"Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh" (Mc 10,52)
Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức mạnh của niềm tin nó sẽ cứu chữa chúng ta khỏi đau khổ và bất hạnh. Chúa Giêsu đến để kêu gọi mọi người hãy tin vào Ngài, chính Ngài sẽ giải thoát, cũng như chính Ngài khơi gợi niềm tin trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai tin vào Ngài thì được cứu khỏi tội lỗi và được hạnh phúc.
Trong Tin Mừng có rất nhiều câu chuyện diễn tả về sức mạnh của niềm tin như câu chuyện đầy tớ của một đại đội trưởng Rôma (Mt 8, 5-13) với việc Chúa Giêsu chỉ phán một lời là được cứu sống và người đàn bà bị băng huyết mười hai năm khi chỉ nghĩ rằng đụng vào tua áo của Chúa Giêsu là được khỏi (Mt 9, 20-22), thật sự bà được chữa khỏi mà không cần một hành động hay lời nào của Chúa Giêsu hay người con gái của bà góa ngoại giáo xứ Canana (Mt 15,21-28), khi Chúa Giêsu thử thách bà bằng cách làm ngơ trước sự van xin tha thiết nhưng cuối cùng con gái bà cũng được chữa khỏi...còn rất nhiều câu chuyện khác trong Tin Mừng nói lên sức mạnh của niềm tin.
Ở đây, anh mù Bactinô được sáng mắt do sự kêu cứu quyết liệt và kiên nhẫn của anh ta. Anh không thấy nhưng anh nghe được, anh nghe người khác bàn tán về một ông Giêsu nào đó có khả năng làm nhiều chuyện lạ, có thể nói anh kêu cứu Chúa Giêsu một cách cầu may. Cái mù đã làm anh đau khổ một thời gian dài và hiện tại dù có nhiều người quát mắng, cản trở mình nên anh gào lên thống thiết và mãnh liệt hơn khi nghe tin Chúa Giêsu đã gần đến mình vì bây giờ là cơ hội anh được giải thoát. Chúa Giêsu đã đoái đến và cứu chữa anh.
Nơi Chúa Giêsu, khi thực hiện một việc cứu chữa, Ngài có nhiều cách để thực hiện, bằng lời nói, hành động hay ngay cả một sự thách thức để thử thách. Đó là quyền của Ngài nhưng Ngài luôn biết nhu cầu, ước muốn và suy nghĩ của con người. Ngài đến là để cứu chữa khỏi mọi bệnh tật, tội lỗi của con người, điều còn lại là nơi mỗi người chúng ta có muốn, kiên nhẫn và tin vững vàng vào quyền năng và tình thương của Chúa hay không?
Chúa Giêsu không cho thấy Ngài đã làm gì để cứu chữa anh mù này, Ngài chỉ kêu gọi hãy để anh đến gần mình và người khác đừng cản trở anh chỉ với một câu xác nhận đơn giản "lòng tin của anh đã cứu anh", anh mù Bactimê được sáng mắt, một cuộc sống mới đầy ánh sáng đã đến với anh.
Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người, nơi vũ trụ vạn vật này và sâu xa hơn là Ngài ở trong chính thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta. Làm sao nhận ra, để tin, để xác tín và sống trọn vẹn với Chúa, Chúa vẫn ở ngay trước mặt chúng ta với những gì chúng ta đang có và đang sống hôm nay. Chúa cũng nói với chúng ta niềm tin của con đã cứu con, tin như nào thì được như thế ấy nhưng tất cả điều xuất phát từ nơi Chúa, ơn của Chúa và chính Chúa là Đấng ban ơn. Ơn Chúa luôn dư đầy cho những ai luôn biết mở rộng lòng mình để đón nhận, tin vào Chúa thì cuộc sống sẽ thay đổi tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Niềm tin có sức mạnh giải thoát nhưng chúng ta phải tin vào điều gì và tin vào ai? Đó là điều quan trọng.
Lạy Chúa xin cho con có được niềm mạnh mẽ và sâu xa vào Chúa để đời sống của con được biến đổi và được cứu chữa khỏi mọi tội lỗi.
24. Người mù.
Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.
Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.
Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.
Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.
Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ... Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
25. Xin thương xót tôi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.
"Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại." Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?
Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
26. Lòng thương – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Nỗi khổ của con người
Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.
Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.
Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!
Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người
Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.
Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.
Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.
Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.
Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu
Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).
Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm.
2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10, 46-52 trên?
3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin chia sẻ.)
27. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.
Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.
Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.
2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh
3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?
4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?
5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
28. Chúa chữa anh mù Bactimê
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục...” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.
Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.
Có một câu chuyện kể như thế này:
Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.
Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.
Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.
Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?
Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?
Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.
Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.
Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.
Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.
Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ... đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.
Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.
“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.
Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.
Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.
29. Chúa Nhật 30 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.Có lần tôi nghe bài hát được ca sỹ Nguyễn Hưng diễn tả hết tâm tình, nên tôi rất thích. Bài hát mang tên Đôi mắt, trong đó có những câu;
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời. Để nhìn đời, và để làm duyên. Mẹ cho em đôi mắt mầu đen, Để thương để nhớ, để ghen để hờn. Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn, Là bài thơ hay nhất, Là lời ca không dứt, Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Thật thế, đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác của thiên nhiên. Nếu đôi mắt đóng lại, thì mọi hướng đi dường như cũng đóng lại và cuộc đời dường như ở vào một tình thế bất động, ở bên lề của cuộc sống.
Nhìn vào anh mù đang ngồi ở vệ đường. Đôi mắt anh ta không thể mở được, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh ta cũng trông chờ những tin tức dư thừa để theo dõi tình hình chung quanh một chút ít nào đó, đôi khi còn bị ngăng cản. Anh cũng muốn hòa với mọi người bước trên đường cuộc sống, nên khi được hỏi, không cần suy nghĩ lâu, anh trả lời ngay: "Lạy Ngài xin cho tôi được sáng mắt". Anh không xin tiền bạc hay của nuôi thân. Anh đã vất tấm áo choàng là món đồ nghề của mình, nhảy chồm lên, vượt khỏi tình trạng bất động, bên lề đường, bên lề cuộc sống. Cú nhảy là bước chân đầu tiên để bước vào con đường của cuộc đời. Mặc dù đôi mắt thể chất chưa được sáng nhưng mắt tâm hồn anh đã mở ra, đã nhìn thấy Đấng mở mắt cho mình. Anh bước theo con đường mà ngài dẫn dắt.
Mỗi người chúng ta có được cái tuyệt tác của thiên nhiên, cửa ngõ tâm hồn đó là đôi mắt. Nhưng vì chúng ta xử dụng quá nhiều để nó trở nên là cái gì quá bình thường, cho đến đỗi nhiều khi chúng ta không còn biết quí trọng nó nữa, thậm chí nhiều khi chúng ta quên mất đi sự hiện diện của cái tuyệt tác này. Khi nào mà đôi mắt có vấn đề, khi đó chúng ta mới cảm thấy phải chú ý, nhưng có khi lại quá trể để không còn có thể làm gì được nữa.
Cái cửa ngỏ của tâm hồn đó nhiều khi cũng bị chúng ta đóng kín nó lại, không cho nó nhìn thấy những điều cần phải thấy, không cho nó nhìn thấy hướng đi đúng đắn để mà đi. Chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, áo choàng của sự nóng nải, cố chấp để không thể nghe được tiếng mời gọi thống thiết, áo choàng của sự ghen tương đố kỵ, để không thể bước chân trên con đường yêu thương và chấp nhận người khác ở bên cạnh. Chúng cũng không thể vượt qua được sự tự ái quá lớn của bản thân, vì chiếc áo choàng đó quá nặng nề làm trì trệ bản thân. Chính vì thế chúng ta không thể nào có được cú nhảy vọt như anh mù trong bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Nhiều lần Chúa đến bên cạnh, hỏi ý kiến, nhưng chúng ta không dám mở lời xin cho được sáng mắt, vì sợ phải bỏ đi chiếc áo choàng nghề nghiệp của mình. Chúng ta cũng sợ phải bước đi theo Chúa, vì con đường của Ngài là con đường Thập Giá, con đường vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là con đường yêu thương. Chúng ta sợ phải vất đi chiếc áo choàng bản thân mình, nên nhiều lần không nhận ra được Ngài trong đám đông qua lại của cuộc đời. Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì cửa ngõ tâm hồn mình đã tự đóng lại, vậy thì cái tuyệt tác của thiên nhiên đã phí đi nơi con người của chúng ta. Chẳng lẽ con đường mà Chúa Giêsu bước đi cùng với bao nhiêu người đã từng bước theo, không phải là con đường của chúng ta sao? Chẳng lẽ chúng ta chịu ngồi lì bên lề cuộc sống mãi như thế sao? Vậy thì tương lai mai sau, kết thúc cuộc đời chúng ta cũng đành chịu ngồi bên lề cuộc sống, chứ không chịu vào con đường hạnh phúc mà Thiên chúa mời gọi mỗi người cùng chung hưởng hay sao? Như thế thì cuộc sống đời người vô ích quá.
Xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng ta nhìn thấy đường đi của Ngài và can đảm bước theo.
30. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa… xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý. Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.
Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù? Thưa đó là những người không thấy.
Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng… Đó là…
Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…
Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.
“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.
Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha (x.Mt 3,17; Mc 1,11).
Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.
31. Lòng tin của anh mù
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giê-ri-khô về Giê-ru-sa-lem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: "Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau". Người bạn trả lời: "Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi". Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Hon-đa đụng phải. Với vẻ buồn lẫn tức giận, anh mù nói: "Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?". Người kia đáp: "Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm". Anh mù tưởng mình "thấy", còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: "Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy".
Anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi ngang qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi". Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin "Con vua Đa-vít". Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: "Hỡi con vua Đa-vít, xin thương xót tôi". Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?". Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: "Lòng tin của anh đã cứu anh". Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đồi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Na-da-rét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người Na-da-rét, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên Sai, con vua Đa-vít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ...mà chúng ta không có một cử chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
32. “Đức tin của anh đã cứu anh” - Yvon Daigneault.
Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.
Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.
Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.
Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?
Người mù thành Giêricô biết tin tưởng
Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.
Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.
Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.
Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.
33. Đui chột – Lm. Minh Anh
Chuyện kể rằng, có một thanh niên mù lòa từ thuở mới sinh. Anh phải lòng một cô gái. Càng biết cô, tình cảm anh dành cho cô ngày càng sâu sắc. Với anh, cô thật duyên dáng, thông minh và trìu mến. Từ đó, một tình yêu chân thành và đằm thắm cũng đâm chồi giữa hai người.
Cho đến một ngày kia, có người bạn nói với anh, cô gái ấy không xinh đẹp, không xứng đáng với anh... Hỡi ôi, cũng từ dạo ấy, sự quan tâm anh dành cho cô bắt đầu vơi và tương quan giữa hai người cũng trở nên hờ hững. Kể cũng tệ thật! Vì có bao giờ anh nhìn thấy cô ấy đẹp đâu? Một người mù như anh đâu có phán đoán theo dáng vẻ bên ngoài? Và với anh, để nhìn thấy, đôi mắt đâu phải là tất cả. Anh mù lòa đã đành, nhưng xem ra bạn anh và lòng anh lại đui chột hơn.
Tình yêu đâu chỉ được nhìn từ bên ngoài cũng như tự nguyên ngữ, "trừu tượng" là thuộc tính của tình yêu. Saint Exupéry thật có lý khi nói, "Điều chính yếu thì không thể thấy bằng mắt. Để thấy nó, phải nại đến con tim, nại đến tâm hồn".
Các bạn trẻ thân mến,
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một thanh niên mù lòa khác, tên anh là Bartimê, người đã đến với Đức Giêsu. Thánh Marcô kể, vừa nghe Ngài đang ngang qua, anh bắt đầu kêu lên: "Lạy ông Giêsu con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi", và lập tức quăng lại áo choàng, anh đến với Ngài.
Mỗi ngày, là một kẻ tật nguyền câm nín bên vệ đường, chẳng có gì lạ khi anh xin người khác dủ thương. Nhưng hôm nay, thật lạ, vì với tư cách một thanh niên, anh gọi đích danh một thanh niên khác để xin dủ lòng. Và để có thể lặp đi lặp lại một lời cầu xin khẩn thiết đến thế, hẳn anh phải tin chắc người bạn trẻ ấy có khả năng chữa lành không chỉ đôi mắt xác thể nhưng cả sự u mê dày đặc có thể có trong tâm hồn mình; người thanh niên ấy hẳn không chỉ bứng anh ra khỏi vệ đường nhưng còn đưa "anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi" như Tin Mừng kết thúc. Đây là cao trào của trình thuật. Thật tuyệt vời và huyền nhiệm, hẳn anh sẽ là môn đệ của Đức Giêsu.
Thật đáng cho chúng ta kinh ngạc, vì dẫu Bartimê đang mù loà thể chất, nào ngờ đâu, mắt tâm hồn của anh chẳng vẩn đục chút nào; trái lại, nó thật ngời sáng, đúng hơn, mắt đức tin của anh chói sáng.
Phần chúng ta, chúng ta đang sống trong một thế giới tranh tối tranh sáng, ở đó, bóng tối tưởng chừng như đang nuốt chửng ánh sáng, một thế giới mà khả năng nhìn thấy ánh sáng của đôi mắt đức tin thật cấp thiết và sống còn. Vì lẽ ngoài khuyết tật mù lòa thể chất, thế giới đang chứng kiến nhan nhãn bao hội chứng đui chột tinh thần. Cũng có thể mỗi người chúng ta đang mắc phải một trong những hội chứng đó.
Hội chứng ích kỷ, bức tường che chắn những nhu cầu của anh chị em.
Hội chứng vô cảm, giấy thông hành để vô cảm trước bao vết thương vô tình hay cố ý gây cho người khác.
Hội chứng tự phụ, thảm đỏ trải trên những sai sót của bản thân.
Hội chứng ghét ghen, tảng băng nổi cản lối đại cuộc.
Hội chứng duy vật, mù sương trước những giá trị tinh thần.
Hội chứng nông cạn, voan che các giá trị đích thực của một con người.
Hội chứng hợm hĩnh, man khai phủ lấp một thực tế: mọi người có nhân phẩm như nhau.
Hội chứng thành kiến định kiến, pháo đài án ngự sự thật.
Hội chứng sống hối hả, tính cách của người đánh mất muôn vẻ kỳ diệu chung quanh
Như vậy, một con tim nghèo, một đầu óc hẹp, một tâm hồn nhỏ... tất cả đều dẫn đến hội chứng đui chột, triệu báo một nhãn quan gập gãy, què quặt, phủ đầy bóng đêm lên ngày sống và... thế giới phải hẹp lại (x. F. McCarthy). Vậy thì, không chỉ đôi mắt mới làm cho thấy, chúng ta còn phải thấy bằng trí óc, qua tinh thần và nhờ con tim. Là Kitô hữu, còn hơn thế nữa, Kitô hữu thấy nhờ tin, tin vào Thiên Chúa, tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô, là Ánh Sáng phải đến đã đến trong thế gian mà anh mù Bartimê đã nhận ra.
Vậy là có nhiều thứ đêm tối cũng như có nhiều loại đui chột. Có thứ đêm tối phàm phu, có loại đui chột tục tử. Cũng thế, có thứ đêm tối đức tin, có thứ đui chột của lòng trông cậy. Cảnh vực thần linh còn đó, sự hiện diện của Thiên Chúa còn đây, nhưng sẽ không thấy gì, sẽ không cảm nhận gì nếu không có đức tin. Anh mù Bartimê đã có một đức tin mạnh mẽ, anh đã thấy nhờ tin. Đức Giêsu nói: "Lòng tin của anh đã cứu anh".
Đức tin là ánh quang soi dọi thế giới vô hình, chiếu sáng những điều vĩnh cửu và mặc khải những điều trên cao. Đức tin là những ngọn đèn đường dọc theo đaị lộ dẫn đến cuộc sống đời đời mà những kẻ không tin chẳng bao giờ có thể bước đi trên đó.
Thế nhưng, bạn đừng quên, những ngọn đèn ấy, những ánh quang ấy thường chỉ đủ sáng cho những ai bước từng bước thật nhỏ đang khi trên đầu, mây u ám vẫn cứ giăng mắc và dưới chân, thử thách, chướng ngại vẫn luôn rập rình. Phải chăng, Thiên Chúa để vậy hầu chúng ta chỉ biết hoàn toàn cậy trông và phó thác vào một mình Ngài, Đấng như một con đường mà ai đi trên đó, phải vừa cất bước phải vừa khám phá.
Với thánh vịnh 50, chúng ta có thể cầu nguyện. Lạy Chúa, con sinh ra trong đống tội, mẹ con đã hoài thai con trong tội. Con đui chột, mù lòa chệnh choạng, mắc phải đủ thứ hội chứng; hôm nay, xin cũng chữa lành con, cho con đầy lòng tin để thấy tình yêu Chúa đang ngời sáng trong thế giới u minh này; cho con đầy lòng cậy để thấy Chúa trong anh chị em, nhất là những anh chị em tưởng chừng như họ là con cái của sự tối tăm; cho con đầy lòng mến để con can đảm chỗi dậy sau đêm dài u mê hầu bước đi trên con đường Chúa đi, Amen.
34. Kể cả người mù cũng thấy – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.
Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Phúc Âm ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.
Bây giờ, chúng ta nhìn ra thế giới chung quanh chúng ta và nhìn xem nó với những ý nghĩa thật sự của nó. Chúng ta có thể nghe những người bi quan nhìn một cái ly và nhìn xem nó như là một nửa của sự trống rỗng và những người lạc quan thì nhìn cùng cái ly đó và thấy đó như là một nửa đã đầy. Một con người đức tin nhìn cái ly nước đó và nói: “Cám ơn Chúa”. Con người hiểu biết nước là một đặc ân lớn lao của Thiên Chúa, đặc ân này không chỉ là cần thiết để duy trì sự sống của con người, nhưng còn có nghĩa là Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào đời sống của Người qua phép rửa.
Chúng ta có thể thấy cha mẹ của chúng ta với tình yêu sâu xa dành cho đứa con, khi đứa trẻ nhìn vào gương mặt của cha mẹ nó. Xuyên qua đức tin chúng ta có thể nhìn thấy tình phụ tử đã giới thiệu chân lý là tất cả mọi sự trong đời sống đến với chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy những đứa trẻ thật đáng yêu bởi vẻ đẹp và sự đơn sơ của chúng. Đức tin dẫn chúng ta xuyên thấu những đứa trẻ để thấy chân lý này. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta là những đứa con quý giá của Người trong Đức Kitô.
Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Người nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.
Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta theo Đức Kitô tiến lên đồi Calvariô vì trong Thánh Lễ chúng ta ý thức mình đứng dưới chân thánh giá, thông dự vào hy tế của Đức Kitô. Thánh Lễ là một lời mời gọi chúng ta dâng hiến chính mình với Đức Kitô, tư tế tối cao của chúng ta, cho Cha trên trời để nài xin cho chúng ta được sống xứng đáng với đức tin Kitô giáo và chúng ta được trung thành và trung tín với Đức Kitô của Người cho đến chết.
Ngày hôm nay chúng ta có thể hỏi: “Chúng con sẽ đi đâu và chúng con sẽ nhìn vào ai?” Chúng ta có thể từ bỏ Đức Kitô, Đấng đã ban cho chúng ta đặc ân đức tin, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và là Đấng đã hứa cho chúng ta sự sống đời đời thế nào được? Khi chúng ta đạt được Nước Trời, chúng ta sẽ vui hưởng cái nhìn ân phúc của Thiên Chúa. Đức tin chuyển đổi ánh nhìn và chúng ta sẽ nói: “Bây giờ tôi đã thấy ý nghĩa của tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta”.
35. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
“Con muốn Ta làm gì cho con?” “Lạy Thầy xin cho con được thấy”.
Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), ngài bị mất khẩu vị. Vì muốn ăn để có sức đề kháng chống lại bệnh, ngài thường nghĩ tưởng về các món ăn hầu gia tăng khẩu vị đã bị tê liệt do hóa chất gây ra. Sau khi xuất viện, ngài ngồi nghĩ về món gà luộc chấm muối chanh, và quyết định ra siêu thị mua gà về ăn. Ngài luộc tất cả 3 con gà đã mua với ý nghĩ lạc quan và vui vẻ rằng sẽ ăn được càng nhiều càng tốt. Sau khi dọn gà lên bàn, ngài chỉ ăn được có một cái đùi gà mà thôi, rồi ngồn nhìn 3 con gà luộc phì cười mà nói: “Con gà trong đầu mình sao nó ngon thế, còn những con này sao nó giống vỏ cây trộn với nước sình!”
Đa số chúng ta đã từng kinh nghiệm, ở một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta muốn có ngay một cái gì hay một điều gì và thưởng thức liền. Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để có nó, Nhưng khi được rồi, chúng ta lại bị mắc cạn trong chính những ước muốn của mình, không thỏa mãn, ngong ngóng kiếm tìm cái khác và sau cùng bị rơi vào một tâm trạng trống rỗng! (Rm 13:14; Gl 5:16).
Để không trở thành nô lệ cho lòng ham muốn của mình, chúng ta nên tự hỏi cái mình muốn có phải là ý muốn của Thiên Chúa (1TX 4:3), là Đấng đã hứa rằng khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Ngài, Ngài sẽ nhận lời chúng ta không? Và trong bài Phúc âm hôm nay, Mc. 10:46-52, Chúa Giêsu đã làm điều này. Ngài nghe lời thỉnh cầu của người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Nhưng trước khi đáp lại ước nguyện của anh, Chúa Giêsu đặt cho anh một câu hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Tại sao Ngài lại hỏi câu hỏi này?
Câu hỏi này nghe giống như câu hỏi của linh mục hỏi cha mẹ mang con cái đến xin chịu phép rửa tội: “Ông bà hay Anh chị xin Hội thánh cho cháu điều gì?”
Theo linh mục Eugene Laverdiere, câu chuyện phúc âm hôm nay là đoạn kết luận của một phần khá dài và quan trọng trong phúc âm của Máccô, từ chương 8:22 đến chương 10:52. Chúa Giêsu nói ám chỉ về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài, cũng như của những ai muốn bước theo ngài. Phần thứ nhất (8:31-9:29): sự hy sinh phải có cho những ai muốn làm môn đệ ngài. “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8:34). Phần thứ hai (9:30-10:31): liên hệ đến sự phục vụ trong cộng đoàn. “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:34). Phần thứ ba (10:32-46): những đức tính để lãnh đạo trong cộng đoàn Kitô giáo. “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (10:38).
Kết hợp ba phần lại với nhau sẽ trình bày những đòi hỏi cần thiết cho những ai muốn đáp lại lời Chúa kêu mời để tạo thành người Kitô Hữu và được thanh tẩy trong phép Rửa tội. Câu chuyện anh mù Bartimê được Chúa Giêsu chữa lành có hai phần: anh mù đã được Chúa gọi như thé nào và anh đã đáp lại ra sao. Đây là câu chuyện của ơn kêu gọi để trở nên một người Kitô hữu. Câu chuyện của Phép Rửa Tội.
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận thử thách. Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem bước vào cuộc thương khó và sống lại. Anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe danh tiếng đồn thổi về Chúa Giêsu, anh la to: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Chúa Giêsu đã gọi anh lại.Anh vứt bỏ áo choàng, đứng dậy, đến với Chúa. Anh đã xin được nhìn thấy và đi theo Ngài cùng với các môn đệ trên đường lên Giêrusalem.
Anh mù được nhắc rõ tên là Bartimê, con ông Timê. Theo các nhà chú giải thánh kinh, đây là chỗ duy nhất rong Phúc âm nhất lãm – Maccô, Mathêu , và Luca – nhắc đến tên người được chữa lành. Sự nhấn mạnh bất thường đến tên người được chữa lành này ắt phải có một ý nghĩa.
Trong ngôn ngữ cổ của các sắc dân ở vùng ĐịaTrung Hải, một tên gọi không phải chỉ là một nhãn hiệu để nhận dạng một người, nhưng còn diễ tả cái nhân cách hay số mệnh cuả người đó. Theo tiếng Aramaic, Do Thái cổ, “Bartimaeus”, Bartimê có nghĩa là “người con trai, hay người ô uế.” Đây người ăn xin bị mù. Quan niện bình dân của người Do Thái cho rằng mù là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi hay sự ô uế (Ga 9:34).
Nhưng theo tiếng Hy Lạp, “Bartimaeus” cũng có thể hiểu là “người con trai, hay người vinh dự”. Nó chỉ cái bản chất và số phận nội tâm của một người. Với một tên mang hai ý nghĩa, Máccô có lẽ muốn nói với chúng ta rằng đây là một con người đáng được vinh danh nhưng đang sống trong một tình trạng bất hạnh. Và điều mà Chúa Giêsu đã làm cho anh, không phải chỉ là phục hồi cái nhìn thể lý, nhưng trên hết mọi sự, Ngài phục hồi cái phẩm giá và số phận đời đời của anh. Đây chính là ý nghĩa lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (10:51).
Thật vậy, khi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu gần tiến tới giai đoạn cuối cùng rồi mà các môn đệ vẫn chưa nhận ra sứ mạng của ngài là gì. Phêrô, các môn đệ và dân chúng giống như những người mù, có mắt để nhìn nhưng vẫn không thấy (8:18). Họ cần phải được chữa khỏi sự mù lòa tinh thần, để nhìn ra giá trị của ơn cứu rỗi qua cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu.
Bà Helen Keler, một người mùa, câm và điếc, rất nổi tiếng với đời sống đức tin gương mẫu và mạnh mẽ, nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học đã nói: “Thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy sự gì cả.”
Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, anh mù Bartimê đã vứt bỏ áo choàng, đếng dậy, đến với Chúa. Trong phúc âm của Maccô (1:6) cũng như trong nhiều văn hóa áo choàng được kết hợp mật thiết với tư cách của một con người. Nó giống như tấm thẻ căn cước giúp nhận rạng ra một người là ai. Để bước theo Chúa Giêsu, Bartimê đã phải cở bỏ chiếc áo cũ, biểu tượng của con người cũ, cách sống cũ.
Từ thời giáo hội sơ khai, mặc chiếc áo mới trong nghi thức Rửa tội đóng một vai trò biểu tượng rất quan trọng đối với người Kitô Hữu. Theo sách Giáo Lý Công giáo, số 1243: “Y phục trắng tượng trưng cho sự người lãnh nhận phép Rửa tội ‘đã mặc lấy Chúa Kitô’” (Gl 3:27).
Chiếc áo trắng diễn tả một sự thay đổi sâu xa trên ba bình diện: Xét về hữu thể học hay nhân chủng học, sự thay đổi được diễn tả qua sự chết và sống lại, sinh ra và tái sinh. Xét về tâm lý, sự thay đổi được diễn tả qua những hình ảnh của ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Xét về luân lý, nó diễn tả một sự biến đổi trong cách sống đạo đức và thánh thiện, trong lời nói, tư tưởng và hành động. Ở cả ba bình diện, phép Rửa Tội đưa một người từ bên này sang bờ bên kia, từ sự mù lòa của đêm tối tội lỗi qua ánh sáng của sự sống con cái Thiên Chúa (GLCG #1213, 1265).
Trong ý nghĩa này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Như chúng ta biết, người mù là người đi xin ăn để sống. Sự mù lòa là lý do duy nhất để anh kiếm tiền. Hiển nhiên là người mù ngồi bên vệ đường để xin tiền. Có người mù nào lại ngồi xin khách qua đường cho được nhìn thấy không? Nếu có thì ắt hẳn người đó phải mang một ý muốn phi thường, một quyết tâm lớn lao, một ước muốn mà ít có người mù nào dám mơ ước, vì nó đã vượt ra ngoài khả năng của con người. Một ước muốn dựa trên niềm tin vào một Đấng Tối Cao. Do đó, khi Chúa Giêsu hỏi anh, câu hỏi của Ngài đã hàm ý: Anh có muốn tiền không? Hay là muốn được nhìn thấy? Anh có muốn mất tất cả mọi sự trong đời để chỉ lấy một điều tốt lành thôi không? Anh có muốn nhẩy vào một thế giới mà anh không biết, nhưng lại là thế giới tốt hơn không? (Pl 1:23).
Có lần tôi vào thăm một trại cùi. Trước khi đến trại phải qua một khu phố chợ đông đức và kẹt xe, vì những người buôn bán và ăn xin lấn chiếm lòng đường. Nhìn thấy những người cùi ngồi ăn xin trên đường, tay chân băng bó với những vết máu đỏ, ruồi nhặng bu quanh thật ghe tởm, tôi quay sang hỏi một nhân viên làm việc trong bệnh viện cùi: “Bệnh cùi bây giờ đã chữa được chưa?” Anh cho biết với ngành y họchiện nay, bệnh viện đã có đủ thuốc chặn đứng được bệnh cùi rồi, nghĩa là bệnh cùi có thể chữa được. Nhưng còn bệnh cùi tinh thần thì vãn chưa “khắc phục” được. Có nhiều người cùi tuy đã đượckhỏi bệnh rồi, nhưng vẫn nguỵ trang bệnh cùi bằng cách băng bó tay chân, lấy cá chết thối giã ra đắp lên cho ruồi nhặng bu lại, lấy thuốc đỏ bôi vào… để xin tiền! Xin tiền bằng bệnh cùi đã trở nên một nghề nghiệp để sống, mặc dù đã khỏi bệnh nhưng vẫn không muốn vượt thoát ra khỏi cái lợi lộc vật chất do bệnh cùi mang lại. Họ bị bênh cùi tinh thần!
Anh mù Bartimê này thất khác thường! Anh không muốn tiền! Lời cầu xin của anh lại chẳng vĩ đại hơn lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan, hai môn đệ đã muốn xin Chúa cho một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong vinh quang của Ngài hay sao? (Mc 10:35-45). Anh lại không tốt hơn chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời và sua cùng htì buồn bã bỏ đi vì ham mên của cải trần gian sao? (Mc 10:17-22).
Hôm nay nếu Chúa hỏi chúng ta: con muốn gì? Một cách thành thật chúng ta sẽ trả lời ra sao? Giống như Giacôbê và Gioan, con muốn ngời bên hữu, bên tả, chỗ quyền lực tối cao trên thế giới này? Giống như người thanh niên giàu có, con cũng muốn giữ lại của cải trần gian? Con muốn xin những sự mà trong đời con chưa bao giờ thực hiện được? Con muốn có những cái mà con chưa bao giờ có?...
“Con muốn Ta làm gì cho con?” Đây chính là câu hỏi phải suy nghĩ. Khi cầu nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện đó chỉ là một điểm nhỏ trong lời cầu nguyện của chúng ta, hay đó chính là lời cầu nguyện của cõi lòng ta? Thiên Chúa không phải là ông Già Noel – Santa Claus thích cho quà. Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ vui vẻ mà thôi, nhưng ngài muốn chúng ta nên thánh (Dt 12:14). Tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta hay từ chối đều nhắm vào mục đích tối thượng này.
Chúng ta cứ tiếp tục cầu xin Chúa, nhưng không thể xem Chúa như “cái thẻ rút tiền ATM” – a divine ATM. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và muốn ban cho chúng ta nhiều hơn là lòng chúng ta mong ước.
“Con muốn Ta làm gì cho con”? Một Thiên Chúa đầy hồng ân đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta mỗi ngày.
36. Suy niệm của Achille Degeest.
ĐỨC KITÔ KHÔNG CHỮA KHỎI MỌI TẬT BỆNH, NGƯỜI CHỮA KHỎI MỘT KẺ TẬT NGUYỀN.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.
Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình. Chúa chữa anh khỏi, chúng ta ghi lại hai điều:
1) Dừng lại, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy đến.
Người ta có thể nghĩ rằng Chúa sai các môn đệ gọi. Ta để ý ba giai đoạn trong quá trình đầu của sự việc người mù gặp Chúa. Biết Chúa ở đó, anh kêu lên để gọi Chúa. Đó là tiếng con người kêu lên với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu sai môn đệ chuyền đạt lời gọi của Người. Đức Kitô nói với nhân loại qua trung gian Giáo Hội của Người. Như vậy, giáo hội ngày nay là ai? Là chúng ta. Hai câu hỏi: chúng ta có quan tâm đừng bao giờ làm cái đập ngăn chận những tiếng kêu của người nghèo, họ la lớn về một phía Đấng họ cảm thấy không xa họ, tuy không nhìn thấy Người? Chúng ta có lo lắng kêu gọi người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất là Đức Giêsu Kitô không? Lời Đức Kitô kêu gọi thế giới vang dội xuyên qua Giáo Hội. Mối bận tâm của chúng ta phải hướng về đâu. Phải chăng chúng ta chỉ lo tranh luận dai dẳng về bản chất Giáo Hội và sự điều hành “định chế”? Giả sử số đông Kitô hữu, gồm cả cấp hữu trách trong Giáo Hội, có mối quan tâm hàng đầu là làm môn đệ Đức Kitô sống động và kêu gọi người ta đến gặp Chúa. Nếu vậy, những Kitô hữu ấy có bị tràn ngập dưới những vấn đề không? Về điểm này, hiến chế Ánh sáng muôn dân của Công đồng Vaticanô II, soi sáng chúng ta.
2) ‘Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?
Câu hỏi của Chúa có thể bị xem là một câu hỏi dị thường. Chúa biết rất rõ người mù chờ đợi sự gì ở Chúa, anh chờ Chúa chữa anh được sáng mắt. Kẻ tật nguyền đó đã kêu lên xin Người thương xót. Phía sau tiếng kêu của anh, là niềm cậy trông vào một quyền lực siêu phàm có thể chữa được anh. Chúa muốn anh đối thoại với Người. Chúa muốn thử nghiệm một lòng tin phôi phai và hướng dẫn lòng tin ấy đi quá hy vọng một sự chữa lành tức thì, để tiến đến mọi sự liên hệ trực tiếp với Chúa. Kẻ mù, với tư thế một con người, trả lời Đức Giêsu như thể trả lời Đấng Cứu Thế. Chúa không chữa khỏi một tật bệnh, Chúa chữa khỏi một kẻ tật nguyền trong tâm hồn kẻ ấy, ơn thiên phú của đức tin đã vào sâu và được nghênh đón. Hãy đi lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Người ấy có thể trở nên một trong những môn đệ trung kiên đã gắn bó theo Chúa không? Có lẽ là thế. Một điều đáng nhớ: Chúa Giêsu không chữa lành tội của tôi, Chúa chữa lành tôi, một kẻ tội lỗi, bởi vì tôi đã hiến dâng Chúa niềm tin của tôi.
37. Tin, thấy và đi theo
"Lạy Thầy xin cho con được thấy"
Các môn dệ và dân chúng gặp Chúa Giêsu, thấy Chúa Giêsu thường xuyên nhưng họ lại không nhận ra Chúa Giêsu là con vua Đavid, là Messia. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt người thế, chỉ thấy hình dáng con người của Chúa Giêsu mà không tìm hiểu sâu hơn nữa, nên không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế.
Có lẽ đang lúc đất nước bị đô hộ, người do thái chỉ nghĩ đến một ông vua Messia trần thế để thỏa mãn niềm tự hào dân tộc của họ chứ không nghĩ xa xôi về ơn trọng đại của Thiên Chúa sắp ban cho loài người: ơn cứu chuộc linh hồn, đem lại sự sống đời đời cho mọi người. Lý do chính khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là vì họ nghĩ đến quyền lợi trần thế nhiều hơn lợi ích phần hồn, ưu tiên cho vật chất nhiều hơn tinh thần, bận tâm cho đời này hơn là đời sau.
Những người sáng mắt thể lý mãi lo nghĩ đến vấn đề vật chất, chức quyền nên khó nhận ra chương trình siêu việt của Thiên Chúa. Còn anh mù Bartimê nghe biết Chúa Giêsu bằng con mắt tâm hồn, anh đã tuyên xưng Chúa Giêsu bằng tước hiệu của Đấng Messia: Con vua Đavid. Cho dù nhiều người không muốn cho anh gặp gỡ Chúa Giêsu và nói lên lời tuyên xưng của mình nhưng anh vẫn la to: Lạy Con vua Đavid, xin thương xót tôi.
Chúa Giêsu ở giữa đám đông vây kín, nhưng Ngài vẫn nghe rõ tiếng của anh từ xa. Ngài truyền gọi anh đến. Anh tin tưởng hết lòng vào Chúa Giêsu nên vứt bỏ áo choàng là tài sản rất quan trọng của anh, bỏ vị trí quen thuộc của mình để đến với Chúa Giêsu. Anh đã được toại nguyện và đi theo làm môn đệ Chúa.
Anh mù Bartimê có lòng tin qua những lời người ta thuật lại cho anh về Chúa Giêsu. Anh được Chúa mở mắt và cho làm môn đệ. Còn chúng ta, chúng ta là những người sáng mắt, chúng ta có giống đám đông dân chúng: có mắt mà tâm hồn thiếu ánh sáng đức tin, không nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện bên mình, không biết rằng mình đang được diễm phúc nhìn ngắm, nghe những lời phán dạy trực tiếp từ Người và còn được sờ chạm vào Người nữa. Nếu như đôi mắt tâm hồn của họ mở thì họ đã không giết Chúa Giêsu. Nếu như đôi mắt đức tin của chúng ta mở thì chúng ta sẽ không bỏ lễ Chúa Nhật và rất ham đi lễ hằng ngày để được gặp Chúa, để lắng nghe Lời Người, để được ăn Thịt uống Máu Người trong Bí tích Thánh Thể, được rước Người vào lòng mình. Nếu đôi mắt tâm hồn chúng ta mở rộng thì chúng ta sẽ nhận ra mọi người là anh em, sẽ yêu thương tha nhân và sẵn sàng cứu giúp những người nghèo khổ xung quanh.
Ước gì chúng ta biết đến với Chúa để Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta được sáng thêm, đời chúng ta gắn bó với Chúa hơn như anh mù Bartimê trong Tin mừng hôm nay. Như thế, mọi công việc chúng ta làm hàng ngày đều là làm với Chúa và vì Chúa. Đó là sự an ủi cho những khó nhọc hàng ngày của chúng ta, đó cũng là phần phúc của chúng ta đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra tình thương và hồng ân Chúa trên chúng con để chúng con biết cảm tạ Chúa và hết lòng cậy trông vào ơn cứu độ của Ngài.
38. Mù dắt mù.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách qua đường chặn ông lại và hỏi:
- Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù mà!
- Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.
Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh la lớn:
- Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?
- Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!
Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền phản ứng quyết liệt:
- Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng hay sao?
- Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…
Thưa anh chị em,
Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.
Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?...
Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi theo Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.
Thưa anh chị em,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối. Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.
39. Nhìn cái tốt – Gm. Arthur Tonne.
Nàng là một phụ nữ không bao giờ có thể thấy được một điều gì tốt đẹp nơi người khác. Bất kể ai làm điều gì tốt, nàng cũng tìm ra được một điều sai. Một người nào đó làm một việc tốt, nàng vẫn có thể tìm ra một nguyên nhân xấu xa. Nàng ưa câu nói: “Nó phải có ẩn ý… Nó rút ra được gì trong đó”. Nàng bắt lỗi mọi người. Nhiều người chúng ta ít nhiều có tật xấu như nàng. Nàng bất thường, để lấy lại niềm tin, nàng ý thức rằng cái tật “bới bèo ra bọ” làm nàng sợ hãi. Nàng đến bác sĩ tâm thần, nhưng ông chẳng giúp nàng được bao nhiêu. Ngày kia, được nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thực sự thức tỉnh nàng: Nàng bị mù trước những cái tốt đẹp của người khác. Nàng can đảm nhìn sự thật và thay đổi nhãn quan với người khác.
Chúa Giêsu chữa người đui mù thể xác, để chứng tỏ rằng Người cũng có thể chữa bệnh đui mù thiêng liêng. Quả thật. Bệnh đui mù tinh thần và thiêng liêng còn tai hại hơn đui mù thể xác. Loại đui mù thiêng liêng này lây nhiễm người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi: “Tôi có mù trước cái tốt của kẻ khác không?”. Nếu có, chúng ta kêu cầu Chúa Kitô chữa chúng ta như người đui mù trong bài Tin Mừng.
Nơi tốt nhất để bắt đầu sửa chữa là ngay trong gia đình. Vợ bạn quên đính nút áo sơ mi, thay vì nghĩ đến sự thiếu sót này, trước hết bạn hãy nghĩ đến những việc tốt nàng đã làm trong ngày đó cho bạn và cho gia đình: Nấu ăn, giặt giũ, lau chùi, săn sóc con cái… Chồng bạn quên đổ thùng rác, không sao đâu, bạn hãy nghĩ để chàng làm việc cả ngày cho bạn và các con.
Thanh niên nam, nữ: bạn cần nghĩ đến những việc tốt cha mẹ đã làm cho bạn, hơn là những lần các ngài không cho phép bạn hoặc muốn bạn ở nhà.
Tập nghĩ đến cái tốt người khác làm, thay vì nghĩ đến lầm lỗi của họ, như trong trường giữa thầy và trò, như cha sở và giáo dân, như các thành phần của hiệp hội, công nhân trong công đoàn. Ông chủ của bạn không thể hoàn toàn xấu, người công nhân không thể hoàn toàn vô dụng. Mở mắt ra để thấy cái tốt của người khác, nghĩ tới nó và nói về nó.
Nhìn cái tốt nơi người khác là một cách để yêu người. Tình yêu không tiêu cực. Tôi không thể yêu một ai bằng cách nói: “Tôi sẽ không bao giờ nghĩ tàn nhẫn về bạn, hoặc nói tàn nhẫn cho bạn”. Đó không phải là tình yêu. Tình yêu phải tích cực: “Tôi sẽ bỏ cách thức của tôi, tôi sẽ cố gắng đặc biệt để nghĩ, nói và hành động tử tế với bạn”. Hoa trái lớn của việc tìm cái hay cái tốt trong người khác là cảm giác hài lòng và hân hoan. Và chúng ta còn giữ được giới răn của Chúa Kitô bảo ta đừng xét đoán.
Để nhìn thấy cái tốt cái hay của người khác, chúng ta cần sức mạnh thiêng liêng, một thứ phép lạ. Chúa Kitô sẽ làm phép lạ cho bạn nếu bạn xin Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.
40. Suy niệm của Anmai, CSsR
XIN MỞ CHO CON ĐÔI MẮT THẤY TÌNH YÊU KỲ DIỆU CỦA CHÚA KHẮP NƠI
Ngày còn bé, thi thoảng Mẹ và Dì dẫn lên Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Cũng thi thoảng được nghe những sáng tác của Cha Thành Tâm. Một bài hát đã đi vào lòng của mình tự bao giờ chẳng hiểu. Chắc có lẽ nhịp điệu bài hát ấy nó hơi sôi động và dễ hát nên dễ nhập tâm:
"Lạy Chúa xin mở mắt tôi biết nhìn kỳ công của Ngài
Trời xanh tinh tú long lanh, mây ngàn cùng muôn muôn thú
Đồi kia! Ai đắp nên cao, sóng trào đại dương mênh mông.
Biết rằng: Ngài đã thương tôi thế mà tôi đâu có hay.
Ephata hãy mở! Mở ra! Ephata! Hãy mở ra! Ephata".
Giờ lớn lên một chút, thi thoảng nghe lại bài hát này thấy vẫn còn hay vì lẽ lời cầu nguyện của bài hát này hết sức mộc mạc và cũng hết sức dễ thương: Lạy Chúa xin mở mắt con!
Vâng! Nhiều lúc mình có mắt nhưng mắt có chịu thấy đâu để rồi cũng phải xin Chúa mở ra để nhìn thấy kỳ công của Chúa đang thực hiện trên cuộc đời này. Cứ chịu khó xin đi, Chúa sẽ nhận lời nguyện xin của mỗi người chúng ta như Chúa chữa anh chàng mù thành Giêricô hôm nay trong tin mừng Máccô vậy.
Trang tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa anh chàng mù thành Giêricô được phác hoạ như là một tiền dẫn để chuẩn bị cuộc tiến vào Giêrusalem chịu khổ hình thập giá của Chúa Giêsu.
Thánh Maccô đã khéo lép sắp xếp cách hành văn để tạo nên một sự song chiếu với trình thuật chữa người mù Betsaiđa (Mc 8, 22-26). Vì chưng câu chuyện chữa người mù thành Betsaiđa cũng đã là một thứ tiền khúc cho cuộc tuyên xưng đức tin của Phêrô (Mc 8, 27-33)
Nói cách khác, phép lạ chữa người mù Betsaiđa cũng như phép lạ chữa người mù Giêricô được Thánh Maccô trình bày như những trình thuật chuyển mạch đưa dẫn tới sự tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Thiên sai cứu độ.
Và họ đến Giêricô. Lúc Người ra khỏi Giêricô cùng với môn đệ và dân chúng đông lắm, thì có con của Timê là Bartimê, một người ngồi ăn xin dọc đường. Nghe nói là Chúa Giêsu Nadarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi. Nhiều người quát bảo hắn im, nhưng hắn càng kêu hơn nữa: Lạy con Đavit xin thương xót tôi (c. 46-48).
Giêricô vốn là một thành cổ xưa nhất của Palestina, nằm cách Biển Chết khoảng 10 km về phía Bắc, cách Giêrusalem chừng 30 km về phía Đông Bắc. Trong Tin Mừng Maccô, đây là nơi dừng chân sau cùng của Chúa Giêsu trước khi tiến vào Giêrusalem. Cũng chính ở đây, Chúa Giêsu chữa lành cho Bartimê, một kẻ ăn xin mù lòa.
Một người mù ăn xin: Trong bối cảnh thời đại ở Đông Phương lúc ấy, bệnh mù mắt được coi như thứ bệnh vô phương cứu chữa và số phận của nạn nhân thường rất bi đát. Đa phần trong họ không có cách kiếm sống nào khác ngoài việc đi ăn xin (x. Ga 9,8). Bởi thế, một cách nào đó, bệnh tật này gợi nhớ nỗi khốn cùng tuyệt vọng của kiếp người.
Trở lại câu chuyện Tin Mừng, người mù này là con của Timê. Tên gọi Bartimê là một ngữ vựng Aram ngữ có ý nghĩa y hệt (Bar = con; Bartimê = con của Timê). Thánh Maccô vẫn có thói quen lấy lại nguyên ngữ Aram. Chi tiết này cũng là bằng chứng cho thấy thánh ký có lấy nguồn tài liệu từ một truyền thống Aram ngữ.
Người mù đó ngồi ăn xin ở vệ đường và khi nghe biết Chúa Giêsu Nadarét đi qua, anh đã lớn tiếng khẩn cầu sự trợ giúp của Người: "Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi". Và khi mọi người quát bảo anh ta im, anh ta lại càng kêu xin lớn nữa: Lạy Con Đavit, xin thương xót tôi (x. c. 47.48).
Trong truyền thống Do Thái, tên gọi Con Đavit là một tước hiệu bình dân gán cho Đấng Thiên sai.
Người mù ăn xin đó đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, vốn được dân Do Thái chờ mong. Anh ta đã khẳng khái tỏ bày sự tin tưởng vào Người, bất chấp sự cản trở của dân chúng.
Cách miêu tả của thánh ký gợi lên sự kiện này: dân chúng háo hức tháp tùng Chúa Giêsu, song họ không có một đức tin chân thực, họ mù quáng về sứ mệnh Thiên sai của Người. Đang khi đó, một kẻ mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường lại đặt tin thác vào Người con Đavit, tức là Đấng Thiên sai được đợi trông. Chắc hẳn lòng tin tưởng đó của anh còn cần phải được soi sáng hơn, y như trường hợp người phụ nữ băng huyết đã được chữa lành và tin tưởng vào Người. Tuy nhiên, có điều chác chắn là người mù đã tin vào sự vĩ đại cũng như quyền lực của nhân vật mà anh ta van xin. Anh ta biết rằng, ít ra chính Thiên Chúa đã ban cho anh cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu. Bởi thế, anh đã không nản lòng van xin sự trợ giúp. Dù biết rằng Chúa Giêsu là người quê ở Nadaret (x. c 47a Giêsu Nadaret), anh ta đã không dừng lại ở gốc gác lý lịch, nhưng đã tỏ bày sự tín nhiệm không do dự: Giêsu con Đavit xin thương xót tôi.
Trong nhãn quan thần học Maccô, người mù ăn xin này nói lên mẫu gương tuyệt vời của một môn đệ dứt khoát chọn theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem, tức con đường khổ nạn.
Đứng dậy, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy... Hắn vứt áo choàng một bên, nhảy chồm dậy và đến cùng Chúa Giêsu. Người lên tiếng nói vói hắn: Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi? Người mù đáp lại: Rabbuni, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu ngươi. Và lập tức hắn đã thấy được mà theo Người lên đường (c. 49-52).
Khác với nhiều lần trước, lần này Chúa Giêsu không khước từ danh xưng Thiên sai gán cho Người. Người để cho kẻ mù ăn xin lớn tiếng tuyên xưng Người là Con Đavit. Thêm một lần nữa chúng ta phải bắt nhận ra được ý nhắm thần học ở đây trong liên hệ với thần học về Bí mật Thiên sai của thánh ký Maccô. Tại sao Chúa Giêsu không còn căn dặn im lặng hay bó buộc im tiếng? Độc giả Maccô sẽ không quên rằng Chúa Giêsu đang đi trên đường tiến về Giêrusalem mà Giêricô là trạm chót sắp vượt qua. Người đang trên đường gần kề cuộc khổ nạn thập giá: ý định của Thiên Chúa về công cuộc cứu độ sắp hoàn thành. Bởi vậy không còn lý do gì để giữ mãi những màn che Bí mật Thiên sai: tất cả sắp được tỏ lộ một cách thanh thiên bạch nhật. Đành rằng khó lòng mà tránh được mọi hiểu lầm về một Đấng Thiên Sai chính trị và và trần tục như sau này Người sẽ bị kết án như thế. Song le, không có cản trở nào làm đổ vỡ được hoạch định của Thiên Chúa. Theo ý định của Thiên Chúa cái chết của Người sẽ là con đường dẫn tới ơn cứu độ cho nhân loại. Người thực sự là Đấng Thiên Sai cứu độ, dù rằng khác với cách mơ ước trần tục ích kỷ của người Do Thái.
Người đến đem ơn cứu độ cho tất cả ai đón nhận, mà việc chữa lành người mù ăn xin là một dấu chỉ: dấu chỉ của đức tin cứu độ.
Chính vì thế, Người đã nói với nạn nhân: Đức tin của ngươi đã cứu người. Gợi nhắc sự việc y hệt Người đã chữa cho phụ nữ băng huyết khi bà bị bệnh (Mc 5,34) Và kẻ được chữa lành đã lên đường theo Người (c. 52b). Đó cũng là sứ điệp ngõ cho những ai chọn theo Người. Như đức tin vào Chúa Giêsu đã chữa lành người mù, cũng thế đức tin đưa dẫn kẻ tin Người biết chọn theo Người trên con đường khổ nạn để có được ơn cứu rỗi đích thực nơi mầu nhiệm phục sinh này.
Vấn đề ở chỗ mù là mù đức tin. Cuộc đời của khá nhiều người, mắt vẫn sáng ấy nhưng không nhìn thấy được đức tin và đức tin cũng chẳng thể nhìn bằng con mắt thường nhưng nhìn bởi con mắt của lòng tin, của sự tín thác vào Thiên Chúa. Anh chàng mù hôm nay dù đã bị ngăn cản nhưng anh đã vượt qua cái ngăn cản của con người để đến với Chúa và anh ta đã được toại nguyện.
Chúng ta, có thể được sáng mắt, không cần Chúa chữa cho mình được sáng về thể xác như anh mù nhưng có thể chúng ta bị khuyết tật, bị khiếm khuyết chút gì đó trong con mắt tâm hồn, con mắt đức tin. Và vì vậy, chúng ta nên chăng cũng bắt chước anh chàng mù để xin Chúa chữa con mắt tật bệnh của chúng ta. Lời nguyện trong Thánh Thi kinh sách thứ Năm tuần II thật hay:
Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù loà bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để con nhìn thấy mặt Ngài.
Lạy Chúa Giêsu - con vua Đavít, xin chữa cho con để con nhận thấy tình yêu của Chúa thật kỳ diệu xiết bao và đặc biệt là kỳ diệu với riêng mảng đời của con. Chúa đã thương ban cho con qúa nhiều ơn lành nhưng hình như con cứ như mù loà để không nhận ra những ơn ấy. Lạy Chúa, xin mở mắt con.
41. Đức tin của con đã cứu con – Noel Quesson.
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Một người lính trẻ hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh la lên: Mẹ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn về được với mẹ”. Người lính đáp: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh được nghe nhiều về Chúa, và lòng trí anh đã ghi nhớ đuợc một số điều căn bản. Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần, anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua Đavid, xin thương con”. Do thiện chí và do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi nghe người ta bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy. Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhảy lên và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.
Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35), phải chọn địa vị rốt hèn (9,35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10,38-44)… Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”.
Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra Ngài đang hiện diện với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa trên đường phục vụ hôm nay.
42. Mù loà.
Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu cầu:
- Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.
Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài. Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp cho cuộc đời chúng ta hay không? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không?
Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục.
Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông lỏng.
Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.
Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.
Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.
Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:
- Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung cửa.
Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra, hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên Chúa.
Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ thù đột nhập.
Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:
- Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
43. Khát vọng chính đáng
Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng có những khát vọng không chính đáng. Khát vọng làm lớn của Giacôbê và Gioan (ngồi bên tả, bên hữu Chúa Giêsu) là không chính đáng. Khát vọng được nhìn thấy của người mù Bartimê trong Tin mừng là rất chính đáng.
Những khát vọng chính đáng mà không khả thi thì cũng chỉ là mơ mộng hão huyền. Khát vọng của anh chàng mù Bartimê đã trở thành hiện thực vì anh đã gõ đúng cửa, tìm đúng nơi để tỏ bày khát vọng của mình. Và Chúa Giêsu đã đong đầy khát vọng chính đáng của anh nhờ lòng tin vào Chúa vững mạnh của anh. Con mắt tâm hồn sáng tỏ sẽ mở ngỏ cho niềm tin đi về và làm lớn mạnh niềm tin ấy.
Có thể nói, trước khi gặp Chúa, con mắt thể xác của anh chàng Bartimê bị mù, nhưng con mắt tâm hồn, con mắt đức tin của anh là rất tốt và rất sáng. Anh đã nhìn thấy được Chúa Giêsu là Con Vua Đavit và là Con Thiên Chúa, Đấng có thể đông đầy khát vọng chính đáng nơi anh: "Lạy Con Vua Đavit, xin cho tôi được thấy". Với con mắt đức tin sáng tỏ như thế khiến cho anh có sức mạnh để đến được với Chúa Giêsu dù bị ngăn cản bởi những người khác. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng: con mắt đức tin quan trọng hơn con mắt thể xác vì khi con mắt đức tin đã sáng rồi thì mọi chuyện cũng trở nên sáng. Con mắt đức tin sẽ giúp cho con người tin nhận Thiên Chúa, Đấng là nguồn Aùnh sáng và nguồn Hạnh phúc của con người trong cuộc đời này. Cho nên, điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là làm sao giữ cho con mắt đức tin của mình đừng bao giờ bị mù hay bị che khuất bởi những dục vọng đen tối của mình.
Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người dù con mắt thể xác vẫn sáng, vẫn đẹp nhưng con mắt đức tin của họ đã bị mù. Vì thế, họ không nhận ra được Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, không nhìn thấy người khác là anh em của mình. Mù mắt đức tin sẽ dẫn đến những hậu quả đáng sợ như:
- Thấy mình là tất cả nhưng không thấy Thiên Chúa. Họ không cần ai làm người chỉ đường cho họ trong cuộc đời này. Vì thế, họ bước đi trong cuộc đời này mà không biết mình đi đâu. Nói cách khác là họ không thấy và không biết con đường mình đang đi. Chỉ biết mình đang đi nhanh, đi hết tốc độ. Và vì không biết đường cũng không thấy đường nên họ không đi tới được nơi mình muốn tới, hoặc sẽ bị sa xuống vực thẳm. Có thể nói, tâm hồn của nh?ng ng??i có tâm hồn mù tối như ly nước đã đầy, không thể rót gì thêm vào đó được nữa. Chúa có ban ơn cho họ thì cũng bằng thừa. Thiên Chúa cũng hãy còn xa lạ với họ lắm!
- Không nhìn thấy tha nhân là anh em của mình nên họ sống ích kỷ, tham lam, độc ác với đồng loại của mình. Họ sẽ nhìn người khác theo kiểu: người với người là chó sói của nhau. Ai mạnh thì thắng, ai yếu thì thua. Không có vấn đề tình yêu trong cuộc đời này. Anh mù Bartimê cũng đang bị người ta ngăn cản trong việc anh đến với Chúa Giêsu. Họ cho rằng anh mù này không đáng được xót thương. Nhưng với Chúa Giêsu thì mọi sự đã thay đổi.
- Bất mãn và hay buông xuôi với những gì xảy ra không đúng với ý muốn của họ. Vì họ không thấy được ý nghĩa của những gì mà họ gọi là "đau khổ". Đối với họ, thập giá là điều ô nhục, là dấu chỉ của sự suy tàn trong vô vọng. Họ không thể thấy và không thể hiểu hiểu: " Con đường từ Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh huy hoàng".
Chúng ta hãy xét lại xem con mắt đức tin của mình có được sáng hay chưa? Xin Chúa ban cho chúng ta luôn có được con mắt đức tin luôn cháy sáng, để chúng ta biết nhận ra những điều quan trọng trong cuộc đời này là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Nếu đôi mắt tâm hồn của chúng ta có bị lu mờ hay mù tối thì chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa để được Người chữa lành cho chúng ta để chúng ta biết khao khát những chuyện đẹp lòng Chúa trong cuộc đời này, vì Chúa đã phán: "Phúc cho biết khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho no đầy". Amen.
44. Chúa Thánh Thần.
Thông thường, trong mọi tổ chức của con người, đều có một vị lãnh đạo. Có khi vị lãnh đạo đó là do cả nhóm chọn ra, có khi là do cấp trên bổ nhiệm, hoặc có khi là do một áp lực nào đó. Chúng ta có lẽ mong ước mọi người đều được quyền dìu dắt lẫn nhau, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra. Tôi nghĩ tội lỗi đã phá hủy các mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, bằng sự ngờ vực, tính cạnh tranh và nhiều thứ khác nữa.
Tin Mừng đối với người Kitô hữu chúng ta là một giải pháp cho nhu cầu của chúng ta được dẫn dắt trên đường thánh thiện. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một vị hướng dẫn vô phương trách cứ, đó là Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta đã quyết tâm bước theo Chúa Giêsu thì việc đem ra thực hành quyết tâm đó, theo thánh Phaolô chính là để mình “được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần”. Cụm từ này nghĩa là gì?
Trước hết, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự hướng dẫn phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải do thế tục hay xác thịt. Chính Chúa Thánh Thần có chức năng dẫn dắt chúng ta đến chân lý cứu độ. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Cha là Thiên Chúa thật. Một khi chúng ta đã chấp nhận sự thật, chúng ta sẽ dễ dàng vâng theo thánh ý Người.
Thần khí làm cho chúng ta trở nên con cái và là người thừa kế của Thiên Chúa là một đề tài suy gẫm phong phú khôn lường. Bạn hãy nghĩ đến đặc quyền làm con cái của Thiên Chúa! Quyền làm con Thiên Chúa này đối nghịch với việc làm nô lệ cho tội lỗi.
Như vậy, mọi sự đều dẫn đến việc chúng ta có thật lòng tận hiến bản thân cho Thiên Chúa hay không, để đón nhận ơn làm con cái của Người. Nếu chúng ta hiểu rõ ân huệ làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng để sống như những người con của Cha trên trời. Điều này có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi, và mở lòng ra để đón nhận sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đốt lửa yêu mến trong con. Xin dẫn đưa con vào sâu trong sự sống của Thiên Chúa.
45. Tin tưởng.
Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong việc cầu xin Chúa.
Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám đông đó.
Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.
Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác, những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát, khốn khổ.
Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ chính Chúa.
Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi, anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng ta.
Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.
Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện. Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.
Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay chưa được? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách: hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay, chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.
46. Ước ao được nhìn thấy
Một trong những nỗi khổ tâm của con người là không được nhìn thấy cảnh vật và những người đang sống xung quanh mình. Thà rằng không có đôi mắt chứ nếu có mà không nhìn thấy được thì còn bất hạnh nào hơn. Vì đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Nếu rơi vào hoàn cảnh ấy chắc chắn ao ước duy nhất của chúng ta là được nhìn thấy.
Cũng vậy người mù Bartimê trong đoạn Tin mừng hôm nay rất ước ao được nhìn thấy. Hoàn cảnh của anh lại càng đáng thương hơn vì không những anh bị mù mà anh lại còn nghèo nữa. Vì nghèo nên anh phải ngồi ăn xin bên vệ đường ngày này sang ngày khác.
Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua, bất chấp tất cả anh đã kêu xin Người: "Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi! " (Mc 10, 47b)
Chúa Giêsu biết nỗi khổ tâm của anh nhưng Người vẫn muốn anh xác định lại một lần nữa: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" (Mc 10, 51). Với tất cả lòng tin và phó thác trọn vẹn vào Chúa Giêsu anh tiếp tục kêu xin Người. "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được" (Mc 10, 51b). Không chần chừ Chúa Giêsu đã cho anh toại nguyện: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" (Mc 10, 52a)
Không những Chúa Giêsu cho anh được sáng đôi mắt thể lý mà Người còn ban cho anh được sáng đôi mắt đức tin. Chính đôi mắt đức tin ấy giúp cho anh quyết định đi theo Chúa Giêsu. Ðể quyết định theo Chúa Giêsu chắc chắn anh đã thấy được mình yếu đuối. Từ sự yếu đuối ấy, anh tin rằng Chúa Giêsu là nguồn sống của đời mình.
Thánh Augustinô đã một lần cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa xin cho con biết con". Biết Chúa là Ðấng yêu thương, là nguồn sống của đời con. Biết con là một thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cần được hưởng tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Thánh nhân được sáng mắt đức tin nên ngài đã dâng lời cầu nguyện một cách khiêm tốn và chân thành như thế.
Trong thế giới hôm nay, con người ta rất dễ bị ru ngủ trong tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá. Do đó, người kitô hữu chúng ta không nhiều thì ít cũng bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng để rồi người tín hữu không còn tin vào Chúa, họ ỷ lại vào sức của riêng mình. Ðây là điều rất nguy hiểm cho đời sống đức tin của người tín hữu chúng ta.
Tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá sẽ làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta không còn biết Chúa là ai cũng như không còn biết là ai nữa. Những lúc đó chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của Thánh Augustinô mà chân thành khiêm tốn dâng lên Chúa. Chúng ta có thật lòng ước ao được nhìn thấy thì Chúa Giêsu mới chữa lành cho.
47. Sinh viên y khoa.
Fred Collier là một sinh viên y khoa. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo khổ tại tiểu bang Kansas nên không không đủ tiền để lấy bằng bác sĩ. Ông không biết làm sao để có thể học cho xong để lấy cái bằng.
Rồi một ngày kia, ông bất chợt cầm lên một tờ báo tại một hiệu hớt tóc nọ. Trong đó có một bài báo viết về sự hiền lành và tình yêu của bà Eleanor Roosevelt, đệ nhất phu nhân của Tổng Thống Franklin Roosevelt.
Fred đã về nhà và viết thư cho cựu đệ nhất phu nhân. Ông đã gởi lá thư đi nhưng không biết có được ích gì không.
Sau đó một thời gian, đệ nhất phu nhân Roosevelt đã đồng ý để gặp Fred. Sau cuộc nói chuyện, bà Roosevelt đã đồng ý để giúp đỡ Fred.
Sau đó một thời gian, cựu đệ nhất phu nhân đã thân hành đến nhà của Fred để thăm. Nhà của Fred là một phòng đi thuê chật hẹp (apartment). Chủ nhà đã hết hồn khi biết rằng căn hộ của mình được một vị khách quí như thế đến thăm.
Sau khi Fred học xong và đậu bằng cấp y học, ông nói với bà Roosevelt là ông không biết phải làm cách nào để mà báo ơn bà. Bà nói với ông rằng ông không cần phải lo lắng việc trả ơn. Sau đó bà tiếp: "Tôi sẽ được trả ơn bằng cách là khi nào anh đi làm và có tiền thì hãy giúp đỡ cho những người xứng đáng được giúp đỡ như chính anh."
Câu truyện của Fred có nhiều phần giống như câu truyện của anh mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như người mù, Fred đã gặp những khó khăn trong cuộc sống mà tự anh không thể làm gì được. Giống như người mù, anh đã tìm đến những người khác để xin họ giúp đỡ. Giống như người mù, Fred đã được giúp đỡ để hoàn thành giấc mơ của anh.
Cả hai câu truyện của Fred và bà Roosevelt và người mù mà Chúa Giêsu diễn tả cho chúng ta một điều quan trọng. Đó là trong cuộc sống của chúng ta có những lúc chúng ta phải biết chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu và cách Fred đã chạy đến xin người khác giúp đỡ. Chúng ta biết chạy đến tới Chúa để xin Ngài giúp đỡ. Có đôi lúc, loài người phải bó tay không thể giúp đỡ chúng ta giải quyết các vấn đề. Chúng ta chỉ còn biết một điều là chạy đến với Chúa Giêsu xin Ngài giúp đỡ như người mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Gương mẫu để giúp chúng ta biết chạy đến xin Chúa ra tay giúp đỡ là chính Chúa Giêsu trong cảnh vườn Ghếtsimani. Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha nâng đỡ Ngài: "Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự. Vậy xin cất chén này khỏi Con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha" (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã trình bày sự cần thiết của Ngài với Chúa Cha: "Cha có thể làm được mọi sự", nhưng Ngài còn thêm "Đừng theo ý Con, một theo ý Cha."
Và đó chính là cách Thiên Chúa thường giúp chúng ta. Ngài chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta. Có lúc lời chấp nhận ấy giống như chúng ta mong đợi hoặc có lúc Ngài chấp nhận theo ý của Ngài sắp đặt.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết chạy đến xin người khác và Thiên Chúa giúp chúng ta trong những cơn cùng khổ như Fred và người mù đã làm.
Nếu chúng ta biết làm những việc này với tinh thần cầu nguyện thì chúng ta sẽ được họ giúp đỡ chúng ta hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà nó diễn tả cách thức Thiên Chúa trả lời những lời cầu nguyện của chúng ta trong cách thức mà chúng không thể nào dám nghĩ đến.
"Con xin cho được khỏe mạnh, để làm những việc lớn lao; Con đã lãnh nhận được sự đau yếu, để có thể làm những việc tốt hơn... Con xin cho được giàu sang, để con được hạnh phúc; Con đã lãnh nhận được sự nghèo khổ, để con biết khôn ngoan... Con xin cho được quyền hành, để con được ca tụng; Con được sự yếu đuối, để con biết trông cậy vào Chúa... Con cầu xin cho được tất cả những gì cần thiết, để cuộc sống con được vui vẻ; Con lãnh nhận được sự sống, để có thể an hưởng tất cả...
48. Mù loà.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là một người mù lòa về phương diện thiêng liêng?
Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ.
Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.
Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.
Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu, nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những người mù lòa.
Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và bất hạnh.
Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã xác quyết:
- Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.
Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội. Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì?
Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
- Chơi dao có ngày đứt tay.
- Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.
Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.
Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
49. Chúa Nhật 30 Thường Niên
Mắt là một trong những giác quan của con người. Chính nhờ mắt mà chúng ta nhân ra những vật xung quanh. Không cần phải nói chúng ta cũng biết mắt cần thiết thế nào cho con người. Vì thế mà người ta thường nói ghép kết quả của các giác quan khác với thị giác, ví dụ: nghe thấy, ngửi thấy, cảm thấy...cho nên không thể thấy được, đó là một khiếm khuyết, một thiệt thòi, một nỗi bất hạnh của con người.
Thức đêm mới biết đêm dài. Chỉ có người trong cuộc mới có thể cảm nhận được sự việc nó là thế nào. Chỉ có người mù mới cảm nhận được mù khổ như thế nào. Còn chúng ta chỉ có thể dựa vào biểu hiện của họ để có thể biết được phần nào mà thôi.
Phản ứng của anh mù này càng lúc càng quyết liệt: ban đầu anh gào to, khi bị người ta quát nạt, ngăn cản anh càng gào to hơn, khi được Chúa Giêsu gọi đến, anh liền vất áo choàng, đứng phắt dậy đến với Chúa Giêsu. Những biểu hiện đó giúp chúng ta hiểu được cuộc sống trong mù tối nó đã đày đọa anh như thế nào, Còn nữa, lời khẩn cầu thật tha thiết và quyết liệt như thể anh có thể đánh đổi cả sinh mạng để có thể được cứu chữa. Khi được nhận lời, anh vất ngay áo choàng, như thân phận đáng thương của anh để được đổi thay số phận. Chưa biết Chúa Giêsu sẽ làm gì cho anh, nhưng được thấy là tất cả những gì anh chờ đợi, mong mõi. Khi Chúa Giêsu hỏi: "anh muốn tôi làm gì cho anh", anh đã không xin gì hơn là xin được thấy. Và Chúa Giêsu đã không làm anh thất vọng. Mù thì khổ, thấy được là hạnh phúc. Đó là bài học mà thánh Maccô muốn nói với chúng ta.
Chúng ta đâu có mù, vậy bài học này có ích gì cho chúng ta?
Phải, mắt chúng ta vẫn sáng, chúng ta vẫn còn thấy tiền, vàng, của cải vật chất. Chúng ta nhận ra lỗi lầm của người khác dễ dàng. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta không nhận ra đâu là đúng, đâu là sai, đâu là thiện, đâu là ác, đâu là công bằng, đâu là bất công; đâu là việc phải làm, đâu là điều cấm kỵ, chúng ta không nhận ra thân phận của mình cũng tội lỗi, xấu xa, cũng rất đáng được người khác dũ lòng thương và cứu chữa.
Khổ là ở chổ đó, nguy cũng là ở chổ đó. Người biết mình bệnh thì lo chữa chạy thuốc thang, còn người không biết mình bệnh thì cứ thản nhiên mà sống, có khi lại lây nhiễm cho người khác mà không hay, để rồi đến một ngày, chết mà không hiểu lý do. Hậu quả sự mù lòa của đôi mắt tâm hồn cũng thế.
Nguyên nhân có thể vì chúng ta sống trong thế giới của những người mù nên không thể biết được thế nào là sáng. Cũng có thể do mưu ma chước quỷ làm mờ mắt chúng ta mà chúng ta không hay, nhưng cũng có thể đôi lúc chúng ta tự bịt mắt mình để không phải thấy, không phải biết, nhằm trốn tránh trách nhiệm hay để làm càng điều chúng ta muốn. Những lúc đó, chúng ta có mắt mà cũng như mù thôi.
Dù nguyên nhân nào đi nữa thì mù vẫn là mù. Mù thì phải sống kiếp khổ đau. Người mù đôi mắt thân xác thì sống khổ kiếp sống trần gian, rồi cũng sẽ qua đi, nhưng mù đôi mắt tâm hồn thì sẽ khổ muôn đời.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Người đã từng mở mắt trần tục cho anh mù thành Giêricô này thì người cũng sẽ mở mắt tâm hôn cho những ai kêu cầu người, bởi người đã từng tuyên bố: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con nhận ra thân phận đáng thương của mình, để con có thể nhìn thấy Ánh Sáng ban sự sống đời đời.
50. Lòng tin.
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Batimê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giêricô về Giêrusalem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Batimê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đavít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên sai, con vua Đavít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
51. Sự mù loà.
Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm. Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.
Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp. Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra trong các bệnh viện của chúng ta.
Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt đến mức nào?
Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như: “Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi” hoặc “Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…
Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt? Phải chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong?
Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi ngờ và lưỡng lự.
Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.
Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên. Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.
Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu. Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy được với con mắt của đức tin.
Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã được thấy.
52. Vất bỏ.
Báctimê đã sống trong một tình trạng tồi tệ. Bệnh mù lòa là một nỗi đau buồn kinh khủng. Anh ta đã ngồi ở vệ đường, bên lề cuộc sống. Anh bắt buộc phải ăn xin và sống nhờ vào lòng bác ái của những người khác. Tình trạng của anh thật vô vọng.
Và tuy vậy, dường như anh có một thứ giàu sang. Anh có đức tin trong Đức Giêsu. Có thể đó chỉ là đức tin của người tuyệt vọng, nhưng vấn đề quan trọng vẫn là đức tin. Khi anh nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua, không còn nghĩ đến lòng tự trọng và sự e thẹn, anh bắt đầu kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin đủ lòng thương tôi?” Anh không cần biết liệu Đức Giêsu có khước từ lời cầu của anh hoặc người ta đang quát nạt bắt anh phải im đi. Anh tiếp tục kêu to.
Khi anh nghe Đức Giêsu cho gọi anh, anh đứng phắt dậy, vứt bỏ chiếc áo choàng và đến gần Đức Giêsu. Cái áo choàng này là vật duy nhất có giá trị mà anh có. Đối với anh, nó có ý nghĩa bằng cả thế giới. Nó không chỉ đem lại cho anh sự ấm áp, mà còn che đậy sự cùng khổ thảm hại của anh và do đó nó cho anh một mức độ phẩm giá và khả kính. Tuy nhiên, anh đã vất bỏ nó đi và đi đến với Đức Giêsu như anh đã làm – trong tất cả sự tối tăm, nghèo khổ và thảm hại của anh và Đức Giêsu đã đón tiếp anh, trả lại cho anh thị giác.
Khi chúng ta đến bác sĩ để khám bệnh, chúng ta được yêu cầu cởi bớt áo quần. Lột bỏ là trở nên dễ bị tổn thương. Nhưng làm thế nào để bác sĩ định bệnh và chữa trị nếu chúng ta không để bác sĩ trước tiên trông thấy bệnh ấy?
Chúng ta cũng mù lòa theo những cách nào đó. Chúng ta cũng nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đến gần Người. Người muốn làm điều tốt cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta thấy việc vất bỏ áo choàng để đến cùng Người sao khó quá. Lòng tự trọng làm chúng ta cố mặc lấy một cái dáng vẻ bên ngoài nào đó cho người ta thấy.
Chúng ta hãy tin rằng, chúng ta phải trở nên hoàn hảo. Nếu không, Người không yêu thương chúng ta nữa. Thừa nhận tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta sẽ khiến Người loại bỏ chúng ta, nhưng nếu chúng ta hoàn hảo, nếu chúng ta tốt, thì chúng ta chẳng cần đến Người.
Chúng ta phải thực hiện một hành động đức tin triệt để và tín thác vào Đức Giêsu. Chúng ta phải từ bỏ sự giả vờ, che đậy, ẩn mình sau những bức màn và mặt nạ, và phải bằng lòng xuất hiện trước mắt Người như chúng ta thật sự là thế. Chúng ta không có gì phải sợ ngoài lòng nhân hậu và sự chữa lành của Người. Một bệnh nhân không cảm thấy được chấp nhận nếu điều xấu nhất nơi người ấy không được chấp nhận. Cũng thế, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận nếu chúng ta không để Người nhìn thấy khía cạnh xấu nhất của chúng ta.
Nhiều người ngồi bên lề cuộc sống để ăn xin, không phải tiền bạc, nhưng lòng yêu thương, sự quan tâm, cảm giác họ quan trọng và đời sống này có một ý nghĩa. Nhiều người trong họ rất ngại ngùng xin được giúp đỡ. Họ sợ sự lãnh đạm thờ ơ của những người khác bắt họ phải im đi.
Bactimê là một kiểu mẫu cho những người khác. Nhiều người mù lòa và không có phương hướng nhưng họ đã tìm ra mục tiêu. Nghị lực và phương hướng cho đời mình và đó là kết quả của việc họ đi theo Đức Giêsu sẽ dẫn đến một đời sống hạnh phúc và viên mãn, một đời sống được chia sẻ với những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy anh chị em túng thiếu của chúng con; xin cho chúng con nghe thấy tiếng khóc thầm của họ để chúng con không thể đi ngang qua. Vì chúng con cũng là những người hành khất nhưng Chúa làm cho giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa nhưng Chúa mở mắt chúng con.
53. Câu chuyện.
Tên tôi là Báctimê. Hãy để tôi cố gắng thuật lại bị mù như tôi ra sao. Bị mù tức là bị phân ly với những người khác. Đó là sống trong thế giới của riêng mình. Thỉnh thoảng sự cô độc quấn chặt lấy tôi như sương mù lạnh lẽo. Tôi bị phân ly với mọi vật làm cho đời sống đáng giá, người ta cho rằng những sự vật tỏa sáng là việc đương nhiên.
Tôi bắt buộc phải đi ăn xin, điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn lệ thuộc vào lòng bác ái của những người khác. Tôi ngồi bên vệ đường, bên lề cuộc sống. Tương lai tôi là một con đường dài, nhưng là một con đường không có đích đến. Cuộc đời không bao giờ có thể khác được. Tôi sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Luôn luôn ở bên lề, luôn luôn cô độc và phân ly.
Tôi khao khát một điều là thấy được. Và khát vọng này cứ đeo đẳng tôi chỉ cần nó buông tôi ra thì có lẽ tôi sẽ có được đôi chút bình an trong lòng mình.
Một số người cho tôi một đồng bạc khi họ đi ngang qua. Nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện với tôi. Không một ai bước vào thế giới cô độc của tôi dù chỉ trong một phút. Sự thờ ơ của người khác là điều làm tôi tổn thương nhiều nhất. Thật khủng khiếp khi có người đối xử với bạn như thể bạn là một khúc gỗ không có chút cảm xúc nào.
Người ta nhanh chân bước vội khi đến gần tôi và đi chậm lại khi họ đã đi qua rồi. Tôi có thể nói như thế vì tôi nghe thấy tiếng bước chân của họ. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó. Nó làm cho tôi có cảm tưởng rằng một cách nào đó, tôi mắc bệnh truyền nhiễm.
Thầy tư tế nói với tôi rằng sự mù lòa của tôi, do tội lỗi gây ra. Điều này có nghĩa là ngay cả Thiên Chúa cũng không có thời gian dành cho tôi và Người cũng đã đẩy ra ngoài.
Sự thể là như thế cho đến một ngày kia tôi nghe thấy âm thanh của một đám đông. Tôi dò hỏi và người ta nói với tôi rằng Đức Giêsu đi ngang qua đây. Thình lình niềm hy vọng lóe sáng trong tôi, và tôi bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!”.
Người ta bắt tôi phải im lặng và nói rằng tôi chỉ gây ra trở ngại. Nhưng tôi từ chối giữ im lặng. Tôi kêu lên to hơn nữa.
Rồi người ta nói với tôi rằng Người đã nghe thấy tôi và đã cho gọi tôi. Vất bỏ cái áo choàng, tôi dò dẫm đường đến gặp Người. Người hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Tôi đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” Người không hỏi thêm gì nữa, Người chỉ nói: “Anh hãy đi lòng tin của anh đã cứu anh”.
Làm sao tôi có thể đi và quên hết mọi sự về Người? Tôi đi theo Người trên con đường Người đi. Tôi đã trở thành một môn đệ của Người. Niềm vui thấy được thì to lớn biết bao. Tôi muốn đến và sờ vào mọi người. Tôi xem họ tất cả đều là bạn bè của tôi. Khi tôi gặp Đức Giêsu, tôi cảm thấy tình yêu của Người. Người không chỉ đưa tôi từ bên lề vào bên trong cuộc sống mà còn cho tôi một chỗ danh dự ở bàn tiệc sự sống.
Đức Giêsu nói rằng sứ vụ của Người là “mở mắt cho người mù”. Trong sứ vụ ấy, vấn đề không phải là đem lại cái nhìn thể chất cho người ta nhưng là đem lại cho họ một tầm nhìn, một cách nhìn khác về đời sống. Vấn đề không phải là mở con mắt thể chất của người ta nhưng là mở ra trí óc, sự tưởng tượng và đặc biệt là tâm hồn của họ. Cuộc du hành thật sự để khám phá chủ yếu không phải là tìm kiếm những vùng đất mới nhưng là để có những tầm nhìn mới.
Đức Giêsu đã mở mắt cho ông Dakêu trước nguy cơ của cải, và khiến ông này chia tài sản cho người nghèo. Người đã mở mắt cho tên gian phi bị đóng đinh với Người để anh thấy lòng thương xót của Thiên Chúa và đón anh vào thiên đàng.
Chúng ta không nhất thiết phải mù về thể chất để cảm thấy mình ở trong bóng tối. Có những lúc bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể cảm thấy mình cô độc và lẻ loi. Chúng ta thấy mình ở bên lề mọi việc. Chúng ta không còn có ích và được chú ý đến. Người ta quên chúng ta. Không có tình yêu thì thế giới rất tối tăm. Và người ta muốn chúng ta phải im đi. Và chính chúng ta cũng hổ thẹn không dám kêu to.
Và những lúc đó, chúng ta phải có can đảm và sự khiêm nhường để kêu to cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Đức Giêsu là Đấng đưa chúng ta từ bên lề vào bên trong. Người nói với chúng ta rằng chúng ta quý giá đối với Chúa Cha. Người cho chúng ta một chỗ ngồi ở bàn tiệc nước trời.
Người muốn chúng ta làm cho người khác điều mà Người đã làm cho Bác timê. Chúng ta không được thờ ơ với một người cô độc và để họ ở bên lề. Nhưng với lòng yêu thương, sự chăm sóc, thời gian, chúng ta phải đem một ánh sáng nhỏ vào trong một thế giới của bóng đêm.
54. Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho...
(Suy niệm của Lm. Joseph Vũ Mộng Thơ)
Cả ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay đều có thể áp dụng không ít thì nhiều trong cuộc sống hằng ngày của người Việt tha hương chúng ta.
Bài đọc 1: Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia: "Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về... có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con... họ vừa đi vừa khóc..." nhưng là khóc trong vui mừng và tưởng như trong giấc mơ. Như chúng ta đã biết là không một ai muốn sống xa quê hương xứ sở của mình lâu ngày vì mỗi người đều có nơi "chôn nhau cắt rốn", có làng mạc, có quê hương, có quê cha đất tổ. Dù cho là lên tỉnh học, tu nghiệp hay du học nước ngoài thì cũng mong có ngày trở về làng cũ thăm lại quê cha cũng như họ hàng láng diềng. Nếu không là vinh qui bái tổ thì ít lắm cũng gây dựng được sự nghiệp gì đó để làm nở mày nở mặt gia đình và cả dòng họ cha mẹ mình nữa. Còn dân Israel xưa bị đầy biệt xứ và làm nô lệ cho nước Babylon trong tủi nhục và lao động cực khổ cả ngày đến độ không còn có thì giờ để tế lễ cho Chúa cũng giống như người Việt tha hương chúng ta hôm nay bị đầy biệt xứ vì tự do: tự do nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí và bình luận... Chúng ta ước mong có một ngày trở về trong thanh bình, trong no ấm và hoàn toàn tự do. Là con cháu Lạc Việt, chúng ta sẽ cất cao giọng hát hòa bình để ca tụng Thượng đế xưa đã không bỏ rơi Dân Người thì nay chẳng chóng thì chầy Ngài cũng giải thoát con dân Việt Nam chúng ta khỏi cảnh lưu đầy biệt xứ này. Hãy tin tưởng, hãy nguyện cầu... cho quê hương và cho Giáo Hội Việt Nam.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta là "các vị thượng tế được chọn giữa loài người... người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy." Nhiều giáo dân không thể nào (tưởng tượng) hay chấp nhận các linh mục hay các vị chủ chăn của mình có khuyết điểm nọ kia. Thực ra nếu đã là người thì ai ai cũng đều có ưu hay khuyết điểm mặc dù các ngài được nhiều ơn Chúa để dẫn dắt con chiên tránh những dịp tội. Nếu có khi vấp phạm thì cũng có nhiều ơn trên để chóng trở lại với Chúa hơn. Cả hai xét đoán tiêu cực này đều không tốt: một là thần tượng hóa các ngài (coi như không thể nào vấp ngã) hoặc khi các ngài vấp phạm thì kết án gắt gao và có khi lấy làm vấp phạm (bỏ đạo) nữa. Có người hỏi tôi: "các cha có phải đi xưng tội hay không?" Đáp: "Có chứ, vùng chúng tôi ở đây thường thì các cha xưng tội ba tháng một lần, cũng có khi một tháng một lần... với những các cha khác." Bởi vì tất cả chúng ta không ít thì nhiều đều là những con người dòn mỏng, yếu đuối dễ sa ngã... nhưng điều này không quan trọng bằng việc nhận biết mình để xin Chúa thứ tha và khi chúng ta trong sạch với lương tâm mình và với Chúa thì chúng ta có khả năng lãnh nhận ơn Chúa và nghị lực dồi dào hơn để thăng tiến và giúp đỡ người khác tích cực hơn.
Bài đọc 3: Chúa chữa người mù thành Giêricô
Anh chàng mù này không như thời đại chúng ta là có xã hội chăm sóc mà anh ta phải đi ăn xin thì mới có ăn, lại thế hồi đó người ta còn tin rằng "bệnh hoạn" là hình phạt của Thượng đế... cho nên anh bị dân chúng và xã hội hất hủi khinh miệt. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những người kêu cầu đến Chúa và nhất là tin tưởng nơi tình yêu thương của Ngài. Cho dù đám đông nói anh ta "im miệng" lại vì nơi chốn đông người này làm gì mà Chúa nghe thấy, và lại bao nhiêu người đang cần đến Ngài thì đừng nên làm rộn người khác. Nhưng anh ta vẫn không nản lòng vì anh tin rằng thế nào Chúa cũng thương đoái đến anh... mà thật thế, Chúa Giêsu dừng lại, truyện vãn với anh và Ngài còn khen anh có một đức tin mạnh mẽ không sờn lòng trước nghịch cảnh.
Xin Chúa cho chúng ta có được đức tin như anh này dù chúng ta cứ tưởng như Chúa ít khi nghe lời chúng ta khấn xin nhưng Chúa nói: "Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho...".
55. Người tàn tật.
Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ
Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: Có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Đứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không lỡ chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy. Người ta đem bà ra tòa vì tội giết con. Nhưng tòa án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu. Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khỏe xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khỏe, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? Chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mới khiến loài người mơ tới một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng Thiên Chúa có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
56. Suy niệm của JKN.
Thái độ của người theo Chúa trước cảnh bất công, cùng khốn của đồng loại
Câu hỏi gợi ý:
1. Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không?
2. Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì?
3. Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?
Suy tư gợi ý:
1. Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt
Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu - người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ - sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu - những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài - đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.
Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».
2. Người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.
Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.
3. Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói
Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?
Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).
Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?
4. Thái độ của người Pharisêu
Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.
Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.
57. Xin cho con được thấy – Lm. Minh Vận.
Tại Việt Nam, trong một giáo xứ nọ, có một bà người ta quen gọi tên là "Con Mẹ Mướp". Bà ta dữ như "sư tử hà đông" hay còn được ví như một "bà chằng". Tại sao vậy? Là vì bất cứ ai làm gì bà cũng chê, cũng tìm đủ lý lẽ để bắt bẻ, để hạch xách; ngay cả chồng bà, bà cũng không kính nể; con cái, cháu chắt trong nhà, bà cũng luôn miệng la mắng, khiến trong gia đình lúc nào cũng luôn cảm thấy một bầu không khí căng thẳng, nghẹt thở. Gia đình mất hẳn tình thương yêu đầm ấm thuận hòa. Vợ chồng thiếu tình yêu đương âu yếm tôn trọng nể vì nhau; cha mẹ luôn càu nhàu cãi cọ nhau, la rầy mắng nhiếc nhau; làm nên gương xấu, khiến con cái mất lòng hiếu thảo, tôn kính phải có đối với bậc sinh thành ra mình.
Cuối cùng, bà ta cũng bất mãn cả với chính mình và trở thành con người bất bình thường; luôn nổi cơn cáu kỉnh, làm cho mọi người phải chán ghét xa tránh bà, khiến bà trở nên cô độc, gia đình bà trở thành như một hoang đảo, không ai thèm lai vãng thăm hỏi.
Vì cảm thấy mình bị lẻ loi và bị mọi người chán ghét, cũng giật mình; bà đi tìm một bác sĩ phân tâm để chữa cái bệnh "cáu kỉnh" cho bà. Nhưng ông bác sĩ cũng phải bó tay hàng phục, chẳng sao chữa trị cho bà được.
I. ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CHỮA CON
Một buổi sáng Chúa Nhật, bà có tên là "Con Mẹ Mướp" đi dự lễ và nghe bài Tin Mừng tường thuật câu truyện Chúa chữa người mù từ mới sinh mà chúng ta vừa nghe. Câu truyện đó làm cho bà bừng tỉnh và xúc động khác thường, khiến bà rưng rưng giọt lệ, tự cảm thấy mình cũng bị mù lòa, không nhìn ra được cái hay cái tốt, cái ưu điểm nơi tha nhân. Thế rồi, được ơn Chúa đánh động, bà quyết tâm sửa đổi thái độ và nhờ ơn Chúa trợ giúp bà đã thành công. Bà đã trở nên một người đàn bà thùy mị, vui vẻ, lạc quan và dễ thương với hết mọi người. Gia đình bà đã trở nên một tổ ấm yêu đương, thuận hòa, hạnh phúc, đến nỗi khiến mọi người phải thán phục, khen ngợi, kính nể và coi đó như một mẫu gương phải noi theo bắt chước.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã làm phép lạ chữa anh chàng bị mù từ mới sinh, bởi anh đã đặt niềm tin vững mạnh nơi Chúa, như chính lời Chúa đã phán với anh: "Đức tin của con đã chữa con". Chính vì Đức Tin đó, mà không những Chúa đã chữa anh khỏi bệnh mù lòa phần xác mà còn chữa anh khỏi cả bệnh mù lòa phần linh hồn, là cho anh được ơn nhận biết Chúa, hiến thân theo Chúa để suốt đời phụng sự và yêu mến Người.
II. BỆNH MÙ CỦA NGƯỜI THỜI NAY
Giữa một thế giới văn minh khoa học tiến bộ ngày nay mà vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh mù lòa, không sao nhận ra ánh sáng, họ phải mò mẫm trong bóng tối; không thưởng thức được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những cảnh uy hùng của vũ trụ, những kỳ công kiệt tác của Đấng Tạo Hóa... Đó chính là cái bệnh mù lòa tinh thần. Bệnh mù lòa phần xác dù có cực khổ thế nào đi nữa, cũng chưa thấm vào đâu với nỗi khổ của cái bệnh mù lòa tinh thần. Biết bao nhà thông thái, biết bao triết gia, khoa học gia, chính trị gia là những kẻ tự hào cho mình là thông thái khi đề ra những triết thuyết làm lẽ sống cho con người; đã sáng nghĩ ra được máy móc tối tân để chinh phục không gian, để canh tân đời sống; đã chế tạo ra được những khí giới tối tân để tác oai tác quái nhằm tiêu diệt đối phương, đe dọa sự sống còn của các dân tộc.
Khi chữa cái bệnh mù phần xác cho anh chàng mù từ mới sinh trong Tin Mừng, Chúa cũng muốn cứu chữa cái bệnh mù lòa tâm hồn cho con người, để họ được diễm phúc nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa hầu được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, là thứ hạnh phúc con người phải khát khao và nỗ lực tìm kiếm.
III. XIN CHO CON ĐƯỢC XEM THẤY
Với niềm tin tưởng, chúng ta hãy khiêm tốn chân nhận sự mù lòa, sự nghèo nàn, hữu hạn thiếu thốn của mình và tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được ơn xem thấy, để chúng ta biết:
Nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng ta, nhận ra những điểm hay điểm tốt nơi tha nhân, để biết tôn trọng kính nể họ. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác của Người, để chúng ta biết dâng lời chúc tụng ca ngợi Đấng Tạo Hóa muôn loài. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa, để chúng ta biết tôn kính, vâng phục, hiếu thảo với các vị theo thánh ý Chúa.
Nhất là xin cho chúng ta biết chân nhận thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; biết nhìn nhận ra những ơn phúc do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa, biết tôn thờ, phụng sự và hết lòng kính mến Chúa, xứng với nghĩa vụ là một tôi trung, con thảo của Người.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta được ơn nhận ra Chúa luôn luôn, nhận ra Chúa nơi mọi người, nhận ra Chúa nơi mọi thụ tạo, nhận ra Chúa nơi mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong mọi biến cố Chúa để xảy đến dù may hay rủi, dù xuôi thuận hay bất trắc; nhận ra Chúa nơi mọi kỳ công Người sáng tạo bằng một Đức Tin sống động và kiên vững, để luôn hết lòng thuần phục Chúa trong mọi sự, bằng một tình con thảo hằng biết yêu mến làm hài lòng Cha.
58. Đức Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
- môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.
- Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
- một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
- Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Kitô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.
- nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
- Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.
- anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?
- vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1]. Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
- đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
- đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
- Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.
- Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
- Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).
- anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.
Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
2. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
3. Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
4. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.
59. Chú giải của Noel Quesson.
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất" thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho "công việc tiến vào miền đất hứa" ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là "thành phố mặt trăng", chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm "dấu lạ" cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn "mù tối" trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải "mất mạng sống mình" (8,35), phải trở nên "người cuối chót" (9,35), phải tự "móc mắt, chặt tay, chặt chân" để khỏi phạm tội (9,47), phải "trung thành trong hôn phối" đến độ anh hùng (10,9), phải "uống chén đắng và nhận phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người" (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để "theo Chúa".
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là "hình trạng" của sự "khó nghèo", của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người "hành khất mù ngồi dưới đất" này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ "tưởng mình thấy rõ" (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua", Người "đang đến". Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!"
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. "Xin thương xót tôi". Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là "Kyrie Eleison". Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc... phương thế tự thánh hóa mình nhờ "lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót". Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là "Ièsou, eleison, Ièsou, eleison"
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể "thở" với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít" ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai" không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông "Vua" thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người "sẽ lập lại vương quyền tại Israel". Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên "nắm quyền". Người là "Vua", nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!"
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các "môn đệ" bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về "vai trò của Giáo hội": thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. "Đứng dậy" (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là "thức dậy” hay "sống lại" (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc "áo ngoài" là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng" để tự mình "tuyên xưng Đức tin".
Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được"
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là "việc khai sáng". Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: "Lúc bấy giờ mắt họ mở ra". Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ "khuôn mặt đầu tiên" mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
60. Chú giải mục vụ của William Barclay.
PHÉP LẠ BÊN VỆ ĐƯỜNG (Mc 10,46-52)
Với Chúa Giêsu, điểm cuối cùng là chặng đường không còn bao xa nữa. Giêricô chỉ cách Giêrusalem 15 dặm, chúng ta phải cố gắng hình dung lại quang cảnh này. Con đường chính chạy xuyên qua Giêricô. Chúa Giêsu đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua. Khi có một Rabbi được trọng vọng thực hiện một hành trình như vậy, thường thường vị ấy vừa đi, vừa thuyết giảng cho một đám đông người vây quanh, gồm dân chúng, các môn đệ và những người muốn học hỏi đi theo để nghe. Đây là một trong nhiều cách dạy dỗ thông thường nhất. Theo luật, tất cả những người Do Thái thuộc phái nam trên 12 tuổi, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều phải lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Dĩ nhiên điều luật này khó có thể tuân hành trọn vẹn và tất cả mọi người đều đổ về Giêrusalem. Số người không thể đi được thường có thói quen đứng dọc dài theo hai bên đường của các thị trấn hay làng mạc để chúc bình an cho khách hành hương đi qua đó. Vậy, bấy giờ chắc phải có nhiều người đứng dọc theo các đường phố Giêricô, có lẽ đông hơn thường lệ nữa, họ rất nôn nóng, hiếu kỳ, muốn xem mặt chàng thanh niên vùng Galilê đã có can đảm đứng lên chống lại sức mạnh tổng hợp của chính thống giáo. Giêricô có một đặc thù. Có trên 20.000 thầy tư tế và một con số đông tương đương người Lêvi trực thuộc Đền Thờ. Họ không thể cùng phục vụ một lúc trong Đền Thờ. Do đó, họ được chia làm 26 phiên ban thay nhau phục vụ. Nhiều thầy tư tế và người Lêvi trong số này thường trú tại Giêricô khi chưa đến phiên phục vụ trong Đền Thờ. Hôm ấy, trong đám đông tại Giêricô hẳn cũng có nhiều người trong số họ. Vào dịp lễ Vượt Qua tất cả những người này đều có mặt phục vụ tại Đền Thờ. Đây là một cơ hội hiếm hoi mà mọi người đều có công tác. Nhưng nhiều người vẫn chưa vội khởi hành. Họ còn nóng lòng gấp đôi dân chúng, mong được trông thấy tận mắt kẻ phản loạn sắp xâm chiếm Giêrusalem. Cho nên hôm ấy, có lẽ trong đám đông đang có nhiề con mắt lãnh đạm, thù địch chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vì rõ ràng nếu Chúa Giêsu đúng, toàn thể việc thờ phượng trong Đền Thờ trở thành lỗi thời.
Ở cửa phía Bắc thành phố có một người ăn mày mù tên là Batimê. Anh ta nghe nhiều tiếng chân người đi, nên dò hỏi xem có chuyện gì xảy ra, và ai sắp đi ngang qua. Người ta bảo đó là Chúa Giêsu. Lập tức anh ta đứng dậy kêu to lên để khiến Chúa Giêsu phải chú ý đến mình. Với số đông người đang đi theo Chúa Giêsu để lắng nghe những giáo huấn của Ngài, thì tiếng hét to đó là một xúc phạm. Họ cố làm cho Batimê phải im tiếng, nhưng đã không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh ta cứ hét thật to đến nỗi đoàn người đông đảo đó phải dừng lại và người ta dẫn anh ta đến với Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện có rất nhiều điểm soi sáng, qua đó, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều có thể gọi là những điều kiện để một phép lạ có thể xảy ra.
1/ Có sự kiên trì triệt để của Batimê.
Không có gì ngăn cản được tiếng kêu gào của anh ta mong được đối diện với Chúa Giêsu. Anh quyết tâm phải gặp cho bằng được con người mà từ lâu anh trông mong được gặp mặt với tình trạng tật nguyền của mình. Trong trí Batimê ước muốn nhìn thấy Chúa Giêsu không phải là một sự mơ hồ, hoặc do cảm xúc. Đây là một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.
2/ Anh ta đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu ngay tức khắc, hết sức sốt sắng, sốt sắng đến nỗi anh ta đã vứt đi chiếc áo ngoài để chạy đến với Chúa Giêsu cho nhanh hơn.
Nhiều người khi được nghe tiếng gọi đã thực sự tự nhủ “Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Batimê nghe tiếng gọi, anh lập tức chạy đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xảy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Batimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một vài điều sai quấy, muốn hiến thân cho Chúa Giêsu trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta cũng không chịu hành động ngay, rồi dịp may qua đi và chẳng bao giờ trở lại.
3/ Anh biết đúng nhu cầu của mình đang cần được sáng mắt.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chỉ là sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ cái răng đang đau chứ không chữa bất kỳ cái răng nào. Giữa chúng ta với Chúa Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà rất ít người muốn đối diện: tự xét mình. Khi đến với Chúa Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Batimê, sẽ có chuyện lại xảy ra.
4/ Batimê có một quan niệm hết sức thiếu sót về Chúa Giêsu.
Anh ta cứ nằng nặc gọi Ngài là con vua Đavít. Thật vậy, đó là danh hiệu của Đấng Mêsia, nhưng cả tư tưởng đó nói lên một Đấng Mêsia chinh phục thế gian, một vua thuộc dòng dõi Đavít sẽ đưa dân Israel đến chỗ vĩ đại của dân tộc. Đó quả là một ý niệm hết sức khiếm khuyết về Chúa Giêsu. Dầu vậy, Batimê vốn có đức tin ấy đã hàn gắn cho khuyết điểm về thần học của anh. Điều đòi hỏi không phải là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về Chúa Giêsu. Dầu thế nào chúng ta sẽ chẳng bao giờ hội đủ điều kiện đó. Điều đòi hỏi chúng ta là đức tin. Một tác giả khôn ngoan đã viết “Chúng ta phải đòi hỏi người ta suy nghĩ, nhưng không nên trông đợi họ trở thành những nhà thần học trước khi trở thành Kitô hữu”. Kitô giáo bắt đầu qua một phản ứng đối với Chúa Giêsu, phản ứng do tình yêu cảm biết đây là người thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngay cả khi chúng ta không thể suy nghĩ nổi mọi sự theo thần học thì chính sự đáp ứng từ tấm lòng được xem là đủ.
5/ Cuối cùng có một mối quan hệ quý báu.
Batimê chỉ là một người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Chúa Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng. Anh ta bắt đầu với nhu cầu, tiếp tục bằng lòng biết ơn và kết thúc bằng sự trung thành, và đây là phần tóm tắt rất đầy đủ về các giai đoạn trong việc làm môn đệ của Chúa.
61. Con mắt Đức tin – Trầm Thiên Thu
Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác, nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng,…
Cũng với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, nhưng mỗi người đều có cách nhìn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).
Với người Đông phương cổ đại còn có “con mắt thứ ba”, gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn”. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng!
Con mắt nhìn khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền chỉ là phương tiện, không là mục đích. Tiền là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu (Tục ngữ Pháp – L’argent est un servant bon mais un maitre mal).
Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà không sạch thì cũng vô ích: Lòng bẩn! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không dễ chút nào! Đừng nói hay, có dịp tham mà không tham đó mới là trong sạch. Người đó (giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống.
Người có tâm hồn trong sạch như vậy hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” [Tv 125 (126):2]. Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Chính người đó thấy mình chan chứa một niềm vui, vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh Chúa.
Đời là bể khổ. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” [Tv 125 (126):5]. Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin. Vững đức tin trong khốn khổ cùng cực có lẽ chưa ai bằng Thánh Gióp.
Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung, nhất là trong Năm Đức Tin này với chủ đề Tân Phúc Âm hóa. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa!
Những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác càng có trách nhiệm nặng nề hơn trong việc loan truyền đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4). Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Thế nên, có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Thánh Phaolô chỉ ra rõ ràng: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, nhưng phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác và bất túc.
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Ngài cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48).
Chúng ta thấy có hai thái cực rạch ròi: Những người quát nạt Batimê là những người ngăn cản người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người có niềm tin kiên vững. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. Có thể gọi tắt là 3T cho dễ nhớ.
Nghe Batimê gào to, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10:52).
Sự việc diễn ra nhanh chóng, ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ”, nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “mù đức tin”. Chứng mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Do không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự xét mình về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con đức tin vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xin mở con mắt đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và biết chân thành chia sẻ nỗi đau của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
__________________________________
(*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.
Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.
62. Xin cho được nhìn thấy
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Người mù thành Giêricô biết đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta kêu van xin Chúa Giêsu thương xót. Càng bảo anh ta im đi thì anh ta lại càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (Mc 10:17). Người mù này xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi bày tỏ đức tin. Tiếng kêu cấp cứu của anh ta đã khiến Chúa động lòng thương xót và hành động. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52). Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa Giêsu làm phép lạ, Người đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Đức tin của người mù Batimê đã cứu chữa anh ta.
Người ta không cần phải mất mát hoàn toàn sự vật gì thiết yếu, mới cảm thấy luyến tiếc. Có ông linh mục kia bị đứt một mạch máu nối vào một phần tư của mắt trái, làm mờ mắt phải. Lúc đầu linh mục đó không trông thấy người qua lại bên phải. Đọc sách rất khó khăn vì mặt chữ bị chói loà khi ẩn khi hiện. Đọc một trang sách phải mất cả nửa giờ đồng hồ. Không lái xe và không dâng thánh lễ được trong cả tháng. Rất xuống tinh thần. Rồi theo định luật bù trừ của Đấng tạo dựng, những phần khác của thần kinh thị giác phải bù đắp lại cho phần đã mất. Với thời gian, linh mục đương sự đã có thể nhìn thấy rõ hơn, lái xe và dâng lễ được trong tâm tình cảm tạ đội ơn.
Từ ngữ mù loà được dùng tới ba mươi ba lần trong các Phúc âm, trong đó có mười hai lần bàn đến mù loà của tâm hồn hay mù loà thiêng liêng. Nếu bị mù loà về phương diện thiêng liêng mà không biết, người ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết mình mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Do đó ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân trong nhiều trường hợp trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn. Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?
Vậy đâu là những căn do của bệnh mù loà thiêng liêng? Ghen tuông, kiêu căng, tự phụ, tham lam, nóng giận, hay những đam mê khác nhau, có thể khiến người ta bị mù quáng về phương diện thiêng liêng, hoặc bị mù quáng toàn diện hay bị mù phần nào đó. Nếu hướng chiều về đàng trái về một vài phương diện nào, khiến ngưởi ta bị mù về một vài phương diện đó mặc dù về phương diện khác, họ không bị mù.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng. Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
Lời cầu nguyện cho người mù loà:
Lạy Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.
Xin tha thứ những lần
con coi nhãn quan thấy được là ngẫu nhiên.
Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia
tìm ra phương thế giúp người mù được thấy.
Nếu bị bệnh mù loà thiêng liêng,
xin cho con được biết mình:
tạ ơn về những ưu điểm Chúa ban
và sửa đổi những khuyết điểm của con. Amen.