Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
14/03 Khuôn vàng thước ngọc
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Khuôn vàng thước ngọc.
Thứ năm tuần 1 Mùa Chay.
“Ai xin thì sẽ nhận được”.
Lời Chúa: Mt 7, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho.
Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người!
“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Ðấy là điều mà Lề luật và các tiên tri dạy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Khuôn vàng thước ngọc
Trong Do thái giáo có hai trường phái đạo đức: phái của Shammai khắc khổ và phái của Hilel rộng rãi. Một ngày kia, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “thưa thày tôi muốn làm môn đệ thầy nhưng trước hết, xin thày cho tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thày giảng”. Shammai đã đuổi anh ta đi với một cuốn sách dầy về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta ra đi và đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel bảo anh: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật”. Anh ta nhận thấy đây là bài học quí giá và anh trở về.
Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Ký sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta.
Aristote đã dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”, Hoặc một triết gia La Mã đã bảo: “Đừng áp đặt trên người khác những điều bạn không thích”.
Trái với những tư tưởng có tính cách tiêu cực trên, Chúa Giêsu đã đưa ra khuôn vàng thước ngọc có tính cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là cốt lõi của Kitô giáo, là nét đặc biệt của Kitô giáo. Đừng là điều ác mà thôi thì xã hội chưa tốt đẹp. Chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho ta, lúc đó xã hội mới hy vọng tốt đẹp được.
Ước gì chúng ta hiểu thấu và thực hành bài học xử thế Chúa dạy hôm nay, đồng thời biết bắc nhịp cầu thông cảm với người khác, biết yêu thương và làm điều tốt cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cầu nguyện chẳng được gì.
Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người.
Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Mô-sê và lới các ngôn sứ là thế đó. (Mt. 7, 7-12)
Tin mừng khuyến khích chúng ta hướng về Chúa luôn để cầu nguyện. Đức Ki-tô đã bảo đảm rằng những lời cầu nguyện của chúng ta không vô ích vì Thiên Chúa là Cha tốt lành hơn mọi người cha trần gian, Ngài trả lời cho những điều chúng ta xin. Nếu chúng ta kiên tâm, vững chí, bền lòng cầu nguyện, chúng ta sẽ được đoái thương. Chính Đức Ki-tô đã quả quyết thế.
Tuy nhiên, chúng ta biết không phải mọi thứ luôn luôn được như vậy. Biết bao lần chúng ta xin mà chẳng thấy cho, tìm mà không thấy, gõ cửa mà chẳng mở! Chúng ta biết rõ rất nhiều người với đức tin chân thành mạnh mẽ – và có lẽ đó là trường hợp của chúng ta – trong suốt nhiều năm cầu khẩn Chúa … và chẳng được đoái thương. Họ cầu nguyện cho người thân yêu được khỏi bệnh. Họ cầu nguyện cho người yêu trở về đường ngay nẻo chính … và chẳng thấy gì. Có phải họ cầu nguyện vô ích chăng? Có phải Đức Ki-tô đã nói quá khi Người quả quyết: “Hễ ai xin thì nhận được”. Có phải thời đó Người đã hứa mà thời nay Người không thể giữ lời hứa chăng?
Chúng ta biết rõ đây không phải là trường hợp biệt lập, nếu chúng ta khảo sát cẩn thận những lời của Đức Giê-su trong toàn bộ nội dung để soi sáng cho nhau. Lúc đó, người ta có thể tóm tắt những lời dạy của Đức Giê-su vào ba điểm sau:
Trước hết, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng mỗi khi chúng ta hướng về Cha Người, Chúa Cha lắng nghe chúng ta và đáp lời chúng ta, Ngài không làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta. Bản văn thánh Mát-thêu đã nổi bật lên hàng đầu điều chúng ta kêu cầu.
Thứ đến Đức Giê-su cũng xác nhận Thiên Chúa không luôn luôn phải đáp lời và không cần phải ban cho những gì chúng ta cầu khẩn. Ngài đáp lời bằng ban cho những điều tốt hơn những gì chúng ta khẩn cầu. Ngài luôn luôn biết điều gì tốt hơn cho chúng ta.
Sau cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh cho chúng ta rằng chỉ có một lời cầu nguyện luôn luôn được đoái thương là lời: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Quên lời cầu nguyện cuối cùng này thì lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là không tưởng, và người ta cầu nguyện chẳng được gì.
J.Y.G
SUY NIỆM 3: CẦU NGUYỆN VỚI CẢ TÂM HỒN (Mt 7, 7-12)
Có nhiều người phàn nàn và trách móc Chúa rằng: đã biết bao nhiêu lần con cầu nguyện mà Chúa đã không nhận lời! Có nhiều lời cầu nguyện đã kéo dài thời gian đến độ mỏi gối chân chùn cũng chẳng thấy Thiên Chúa đáp ứng! Vậy đâu là ý nghĩa của lời hứa: “Xin sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở?”
Trước tiên, chúng ta cần xác định ngay rằng: Thiên Chúa tốt lành và luôn tìm mọi cách để ban cho con cái của mình những điều tốt đẹp hơn cả điều chúng xin.
Thứ hai, chúng ta phải thành thật mà nhận thấy rằng: có nhiều điều chúng ta xin tưởng chừng như là tốt, nhưng thực ra chỉ tốt đối với thiển ý của ta, còn thực ra thì lại là điều tai hại cho người khác hay là nguy hiểm và mất phần rỗi cho linh hồn.
Thứ ba, nhiều khi Chúa để một thời gian dài nhằm dạy cho chúng ta bài học kiên trì, trung thành, tín thác vào Thiên Chúa cách tuyệt đối.
Cuối cùng, mọi lời cầu nguyện của chúng ta phải được kết thúc bằng tâm tình: “Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Và “xin được theo ý Chúa, đừng theo ý con”.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta phỏng chiếu lời cầu nguyện của mình theo kiểu: “Ăn sổi ở thì”, tức là cái gì cũng muốn cho nhanh, cho mau và phải theo ý mình, trong khi đó lời cầu nguyện là biểu hiện của đời sống tâm linh, là niền tin, là tâm tình tín thác.
Hơn nữa, nhiều người ngay khi cầu nguyện cũng toát lên sự cạnh tranh, đấu đá và muốn Chúa đứng về phía mình để làm hại người khác! Hay nhiều khi cầu nguyện mà trong lòng thì kiêu ngạo, hành động thì huênh hoang, hoặc cầu nguyện với một thái độ nhàm chán như con vẹt, như chiếc máy!
Thử hỏi, cầu nguyện như thế, chúng ta có nâng tâm hồn lên với Chúa được không? Hay thực ra chỉ là qua lần chiếu lệ, còn lòng trí thì vẫn trơ trọi như gỗ đá!
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cầu nguyện và xin ban cho chúng con có được tâm tình khiêm tốn, tín thác, trung thành. Xin cho mọi lời cầu nguyện của chúng con được làm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Ban những của tốt lành
Suy niệm :
“Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy,
hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em.
Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy,
ai gõ thì sẽ được mở cho” (cc. 7-8).
Biết bao người đã tin vào lời này của Đức Giêsu và đã cầu xin.
Nhiều người đã được nhận lời, nghĩa là đã được như lòng mình ao ước.
Nhiều người khác tuy không được điều mình xin,
nhưng lại được ơn vui vẻ chấp nhận tình trạng của mình,
ơn nhận ra ý nghĩa của nó, ơn có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi.
Những người này cũng coi là mình đã được nhận lời.
Tuy nhiên, một số người khác vẫn đau khổ vì thấy không được nhận lời.
Họ xin những điều rất bình thường như có một người yêu, một đứa con…
Họ xin những điều rất tự nhiên, rất hợp lẽ,
như cho con bỏ ma túy, cho chồng bỏ vợ bé, cho có công ăn việc làm.
Bao người Do thái đã cầu nguyện khi 6 triệu đồng bào của họ bị tàn sát.
Bao người Việt Nam đã cầu nguyện trong cơn bách hại dưới các triều vua.
Có Chúa không? Chúa ở đâu? Sao Chúa lặng thinh và khoanh tay?
Chúa có lòng thương xót không? Chúa có toàn năng không?
Những câu hỏi đớn đau khiến một số người mất đức tin, trở nên vô thần.
Đức Giêsu khẳng định: xin sẽ được cho, tìm thì sẽ thấy, gõ sẽ được mở.
Thiên Chúa luôn luôn đáp trả mong đợi của con người,
nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều nó muốn,
vào đúng lúc và theo đúng cách con người muốn.
Con người phải tập đào sâu và thanh luyện ao ước của mình,
tập uốn ý mình theo ý của Thiên Chúa.
Rồi cuối cùng, con người cũng thấy mình được cho, được thấy, được mở.
Ai kiên trì cầu xin đều thấy mình dần dần được biến đổi.
Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chỉ ban cho con cái Ngài những điều tốt.
Nhưng đâu là điều tốt thật sự?
Đối với ta, đó là giàu sang, sống lâu, danh tiếng, thành công hay mạnh khỏe.
Đối với Chúa, không hẳn luôn là như vậy.
Điều Ngài thấy là tốt, đôi khi ta coi là hòn đá hay con rắn.
Và ngược lại, điều ta coi là tốt bây giờ thật ra là điều nguy hại mai sau.
Với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết ta thực sự cần gì.
Hãy phó thác chuyện đời mình cho tình yêu quyền năng của Ngài,
dù khi còn sống ở đời này, ta không hiểu hết được tại sao.
Cầu nguyện :
Lạy Cha là Chúa trời đất,
Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài.
Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán.
Cha đã cho con người được chia sẻ tự do của Cha,
và Cha luôn tôn trọng tự do ấy,
dù con người đã lạm dụng tự do để làm điều xấu.
Lạy Cha toàn năng,
khi trao cho loài người chúng con tự do,
Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha.
Bởi đó sự dữ có sức mạnh tung hoành trong thế giới này.
Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên,
chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống.
Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công
của bao người thấp cổ bé miệng.
Và Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá
trở nên dấu chỉ của tình yêu cao nhất, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ,
chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con.
Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày.
Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con.
Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió.
Và chúng con biết mình không bao giờ thất vọng. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/03 Dấu lạ của Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dấu lạ của Thiên Chúa.
Thứ tư tuần 1 Mùa Chay.
“Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Lời Chúa: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona.
Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Dấu lạ của Thiên Chúa
“Người Do Thái đòi dấu lạ, người Hy Lạp tìm triết lý, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh Thập giá”. Thánh Phaolô, người tự xưng là Do Thái hơn cả người Do Thái đã nêu bật não trạng của dân tộc ngài.
Người Do Thái xưa kia luôn đòi các luật sĩ làm dấu lạ để minh chứng lời mình tuyên bố, và dĩ nhiên họ đời dấu lạ nơi những ai tự xưng mình là tiên tri.
Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi sự chờ đợi này. Trong suốt giai đoạn hoạt động công khai, Ngài không chỉ bị thách đố làm dấu lạ, mà ngay khi giữ chay 40 đêm ngày để chuẩn bị sứ vụ rao giảng Tin mừng, Ngài đã bị cám dỗ thực hiện dấu lạ, như biến đá thành bánh, gieo mình xuống từ thượng đỉnh Đền thờ để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa. Cuộc thách đố này còn kéo dài cả khi Ngài bị đóng đinh Thập giá, lúc ấy Ngài bị thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thập giá”.
Trong bài Tin mừng hôm nay, những luật sĩ và biệt phái đến xin Chúa Giêsu cho họ thấy một dấu lạ không hẳn là những đối thủ của Ngài. Nhưng điều Ngài muốn họ phải tẩy sạch khỏi não trạng là những định kiến, qua đó họ vẽ sẵn một khuôn mặt, một hình ảnh Đấng Cứu Thế và họ đòi buộc Chúa Giêsu phải mang lấy và phải hành động rập theo khuôn mặt ấy. Nhưng ngược lại quan niệm của họ về một Đấng Cứu Thế oai hùng, đánh đuổi ngoại xâm và tái lập một nước Do thái hùng mạnh, Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế qua một dấu lạ nhỏ bé khiêm tốn, yếu đuối: như tiên tri Giôna nằm trong bụng cá, Chúa Giêsu cũng sẽ nằm trong lòng đất ba ngay ba đêm. Nhìn từ bên ngoài, đây là một dấu lạ thua thiệt, dấu hiệu của sự thất bại, nhưng Thiên Chúa đã dùng dấu hiệu đó để áp dụng định luật: nhu thắng cương, nhược thắng cường.
Tìm những dấu lạ, tìm những dấu chỉ thời đại để củng cố niềm tin vào sự hiện diện cứu rỗi của Thiên Chúa trong cuộc sống không phải là một điều sai lầm, nhưng còn là điều mà các Kitô hữu trưởng thành cần phải làm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lạc lối nếu dõi theo vết xe cũ của luật sĩ và biệt phái giữ khư khư những định kiến và bắt buộc Thiên Chúa phải hiện diện theo những khuôn mặt, hình ảnh chúng ta đã vẽ sẵn. Vì thế, chúng ta phải chú tâm tìm những dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa theo ý muốn của Ngài, chứ không phải theo quan niệm của chúng ta, nghĩa là chúng là phải tìm gặp sự hiện diện của Ngài trong thân xác một người bị chết treo trên Thập giá như một tên tử tội và được chôn táng trong mồ như một người bại trận.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Dấu lạ cả thể
Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.
Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay, đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 65 vụ thực sự là phép lạ theo đúng nghĩa mà thôi.
Thế nào là phép lạ? Thiên Chúa có làm phép lạ không? Ðó là những câu hỏi mà Tin Mừng hôm nay như muốn nêu lên để chúng ta cùng suy nghĩ. Chúa Giêsu đã thực sự làm nhiều phép lạ: Ngài biến nước thành rượu; Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông; Ngài chữa lành bệnh tật; Ngài là cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do Thái đã tin nhận và đi theo Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài. Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt, họ thách thức nếu Ngài làm một dấu lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.
Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh của tiên tri Giôna để nói về Ngài. Tiên tri Giôna đã đến Ninivê để rao giảng sự sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm. Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực hiện để đáp lại sự thách thức của những người Biệt Phái, thì dấu lạ đó không gì khác hơn là chính cái chết của Ngài: chết để nên lời, và lời ấy là lời của yêu thương.
Ngày nay, không thiếu những người thách thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt Phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một dấu lạ cả thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không bao giờ hành động như thế, Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người. Sức mạnh ấy đang được thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày. Ðó là phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người. Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh để nhận ra phép lạ Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng trở thành dấu lạ ấy cho những người chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Dấu lạ cá voi
Quả thật, ông Gio-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của Sa-lô-mon; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-mon nữa. Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng; mà đầy thì còn hơn Gio-na nữa. (Lc. 11, 30-32)
Người Do thái đòi Đức Giê-su làm một dấu lạ. Một đòi hỏi gây cấn luôn có trong đầu óc của họ về Đấng Messia đã được hứa trong Cựu ước: Ngài phải làm những dấu lạ để chứng tỏ sứ mệnh của Ngài. Thực ra nhiều lần Đức Giê-su đã làm phép lạ rồi. Nhưng lần này Người từ chối và từ chối khá quyết liệt, lại còn tố lại họ nữa: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác: chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Dấu lạ độc nhất Đức Ki-tô bằng lòng cho họ là dấu lạ an táng Người ba ngày trong lòng đất như Gio-na ở trong bụng quái vật của biển cả ba ngày.
Thái độ thực đáng kinh ngạc của Đức Giê-su đã đánh lạc hướng những người muốn tin Ngài, nếu họ được chứng kiến dấu lạ Ngài làm. Đức Ki-tô chẳng những từ chối đòi dấu lạ của họ mà còn dồn họ vào chân tường. Ngài đưa ra lý lẽ chứng minh họ không tin Ngài. Lý lẽ mà Đức Giê-su cho thấy là: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng …”. Dân Ni-ni-vê không đòi Gio-na làm dấu lạ. Ngôn sứ chỉ rao giảng đã đủ làm họ sám hối trở về. Chính ra dân Do thái phải nghe lời Đức Giê-su như vậy, hơn nữa, lời đầy uy quyền của Ngài đủ để là dấu lạ đến từ Thiên Chúa. Đức Giê-su từ chối yêu sách của họ vì dấu lạ bên ngoài chỉ thỏa mãn tò mò thôi. Chính bên trong con người lời Ngài mới làm cho họ thấy được tiếng vang dội của niềm tin cậy để nhận ra Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, chứ không phải phép lạ hào nhoáng trước mắt.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải đón nhận lời Chúa bằng một đức tin độc nhất vào Đức Giê-su. Chúng ta phải đón nhận cái chết ngược đời của Ngài làm chướng tai gai mắt những kẻ tham sân si. Nhờ đó chúng ta mới có thể đối mặt với những cái chết của chúng ta hàng ngày như thất bại, bệnh tật, buồn tủi đang chôn vùi chúng ta trong bụng thủy quái. Dù phải chết trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn sống tin cậy vào Đấng đã phục sinh và đừng đòi hỏi những phép lạ từ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, không muốn biểu diễn quyền phép để tìm kiếm lợi lộc, nhưng chỉ lo cứu độ. Thế là đủ cho chúng ta còn đòi chi nữa!
SUY NIỆM 4: KHÔN NGOAN THẬT (Lc 11 , 29 –32)
Ở đời, người ta hay đề cao những kẻ nói hay, hót giỏi, tức là nịnh bợ tốt. Họ cũng hay khen những kẻ biết dùng mánh khóe để lừa thầy phản bạn... Người ta cũng không tiếc đưa ra những lời ca ngợi những người thành đạt, giàu có và có chỗ đứng trong xã hội, bất luận điều đó đến từ đâu!
Sống trong một xã hội như vậy, chúng ta không lạ gì khi có rất nhiều người khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng những hành động lưu manh mà không hề áy náy!
Tuy nhiên, những điều mà người đời cho là khôn ngoan trên đây thì lại là dại dột, ngu xuẩn trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa là người biết sám hối.
Tại sao thế? Thưa! Bởi vì, sám hối là biểu hiện của một tâm hồn khiêm nhường, công chính. Sám hối còn là dấu chỉ của người thuộc về Chúa. Sám hối là điều kiện cần để được cứu độ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các Luật Sĩ và Pharisêu đòi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ thì họ mới tin. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không làm và ngược lại, Ngài đã dạy cho họ phải biết sám hối, nếu không thì không thể được cứu độ. Đức Giêsu đã cảnh báo họ, khi đưa ra hình ảnh nữ hoàng phương nam, dân Ninivê sẽ được cứu độ, vì họ đã đi tìm kiếm sự khôn ngoan, biết ăn năn sám hối, còn con cái trong nhà sẽ bị loại vì không biết sám hối.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết đi tìm lẽ khôn ngoan là biết ăn năn sám hối chân thành để được cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Con người sẽ là một dấu lạ
Suy niệm :
Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.
Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.
Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.
Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.
Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,
Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.
Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.
Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu
khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.
Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời
để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.
Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.
Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.
Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:
“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna.”
Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.
Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.
Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,
nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước ngài.
Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.
“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).
Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.
dù lời giảng của ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn
và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.
Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.
Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.
Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.
Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.
Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng
để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.
Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé
mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?
Cầu nguyện :
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/03 Cầu nguyện
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cầu nguyện.
Thứ ba tuần 1 Mùa Chay.
“Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
“Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cầu nguyện
Có một nông dân xứ Ars mỗi ngày trước khi ra đồng cũng như khi đi làm về đều ghé vào nhà thờ giây lát. Trong xứ, nhiều người để ý và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày này ông ghé vào nhà thờ làm gì thế”. Người nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
Câu trả lời của người nông dân trên đây diễn ta được cái cốt lõi của đời sống Kitô hữu, đó là việc cầu nguyện.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng chia sẻ kinh nghiệm: “Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa, máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con kết hiệp với Thiên Chúa, như một bóng điện sáng là nhờ kết hiệp với máy phát điện. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là phải cầu nguyện.”
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, qua đó Ngài nêu bật thái độ phải có khi cầu nguyện: Trước hết là tinh thần đơn sơ khiêm tốn, gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của con tim, chứ không phải là của khối óc. Thứ đến là tinh thần quảng đại tha thứ cho kẻ xúc phạm đến chúng ta. Đó là điều đương nhiên, vì thân phận của con người là yếu đuối, tội lỗi, và mọi người đều mắc nợ nhau trong đức bác ái của lời nói, việc làm, cách suy nghĩ, cho dù chúng ta vẫn giữ được đức công bằng.
Thật ra, như lời thánh Phaolô: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn ta. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được kết hiệp với Đức Kitô và được lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Thánh Thần để phát triển đời sống cầu nguyện, nhờ đó canh tân chính mình và môi trường sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Tha nợ
“Vậy anh em hãy cầu xin như thế này:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời
xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển,
triều đại Cha mau đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày,
Xin tha tội cho chúng con
Như chúng con cũng tha
Cho những người có lỗi với chúng con”. (Mt. 6, 9-12)
Theo các nhà chuyên môn Kinh thánh, trong kinh Lạy Cha, câu “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đúng hơn câu “xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”.
Câu đó nói tới thân phận của con người là con nợ không thể trả được đối với Thiên Chúa. Đó là tình trạng của kẻ tội lỗi mà chỉ có hồng ân lạ lùng của Thiên Chúa ân xá cho ta được thôi, còn ta không bao giờ đền bù cho đủ.
Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta nhớ tới dụ ngôn tên đầy tớ dã tâm bất nhân. Nợ của chúng ta sẽ được tình yêu Thiên Chúa thương tha thứ nếu chúng ta biết yêu thương tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta.
Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. Thực vậy, kẻ không yêu anh em mình trông thấy trước mắt thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1Ga. 4, 20). Chúng ta có thể đánh giá khả năng của chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta yêu người lân cận.
Tội chống lại tình yêu tha nhân có làm hại chúng ta gì không? Có thể chúng ta vẫn thành thật nói rằng chúng tôi yêu người lân cận cho dù họ là gì chăng nữa. Nhưng rất nhiều lần, chúng ta lãnh đạm với họ; chúng ta viện lẽ rằng không nên xen vào những việc của người khác. Có phải chúng ta một phần nào đã giống như Ca-in từ chối trách nhiệm đã giết em mình, đã giết người là anh em mình chăng?
Câu kết thúc bài Tin mừng hôm nay là: “Nếu anh em tha tội cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em …”. Chúng ta kêu xin tình thương, nhưng lại đánh nhau vì hòa bình. Chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu người ta. Người ta muốn được tha thứ, được thông cảm, nhưng chúng ta đã làm gì cho họ?
Tham dự Thánh lễ lúc này là để thông cảm hiểu biết nhau, để chúng ta chân thành nhìn nhận nhau là anh em, đồng bàn với nhau trong bàn tiệc tế lễ hy sinh, bàn tiệc tình yêu của Chúa và của chúng ta.
SUY NIỆM 4: CẦU NGUYỆN TRONG NIỀM TIN (Mt 6, 7-15)
Có một linh mục là giáo sư tín lý và luân lý tại nhiều chủng viện và học viện Công Giáo, khi nói về kinh nghiệm của việc dạy Giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, ngài chia sẻ: “Tôi đã dạy Giáo lý cho rất nhiều bạn trẻ dự tòng, có những bạn chỉ với thời gian rất ngắn, là tôi có thể Rửa Tội cho họ được. Tuy nhiên, có những bạn thì năm này qua năm khác, tôi vẫn không Rửa Tội cho!”.
Khi chúng tôi thắc mắc thì được ngài giải thích rằng: “Rửa Tội được hay không, đối với ngài là họ có biết cầu nguyện trong đức tin không? Nếu họ cầu nguyện sốt sắng và tin tưởng, ấy là lúc chúng ta Rửa Tội cho họ được, vì họ đã gặp được Chúa thực sự. Nếu không biết cầu nguyện, thì chúng ta có dạy hết ngày này, tháng nọ hay năm kia thì họ vẫn chỉ là cái xác không hồn mà thôi!”.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị và thái độ cần có khi cầu nguyện.
Trước tiên, cầu nguyện ở những nơi kín đáo, tức là có kinh nghiệm cá nhân với Chúa trước khi chúng ta cầu nguyện nơi tập thể, cộng đoàn.
Thứ hai, cầu nguyện cách chân thành chứ không sáo rỗng, hình thức, giả tạo. Cầu nguyện chân thành tức là một tâm hồn khao khát chân lý và sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi mình.
Cuối cùng, cầu nguyện với tinh thần tha thứ. Cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa đối với mình thì cũng phải tha thứ cho anh chị em. Đây là lời cầu nguyện sống động và hấp dẫn nhất.
Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi...
Mong sao, lời kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay cũng là lời kinh của chúng ta. Và khi chúng ta cất lên, mỗi người hãy đọc với trọn niềm tin kính, yêu mến và khao khát thực hành điều Chúa dạy. Có thế, đời sống đạo của chúng ta mới thực sự là có Chúa và có tình thương với anh chị em mình.
Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Biết rõ anh em cần gì
Suy niệm :
Mùa Chay là thời gian tăng cường việc cầu nguyện.
Nhưng vấn đề là cầu nguyện như thế nào theo đúng ý của Đức Giêsu.
Ngài đã cảnh báo về một thứ cầu nguyện có tính phô trương, tìm mình.
Ngài mời ta cầu nguyện một cách kín đáo (Mt 6, 6).
Cầu nguyện là gặp Cha, Đấng ở nơi kín ẩn và Đấng thấy ở nơi kín ẩn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng
cầu nguyện không phải là dùng những lời kinh như một thứ ma thuật,
để lèo lái hay cưỡng bách Thiên Chúa phải theo ý mình.
Cầu nguyện là mềm mại để uốn mình theo ý Chúa.
Sức mạnh của cầu nguyện không nằm ở chỗ lắm lời,
vì không phải cứ nói nhiều là được ưng nhậm (c. 7).
Cầu nguyện cũng không phải là thông tin cho Ngài biết về tình trạng của ta,
sợ rằng nếu ta không nói thì Ngài không biết (c. 8).
Thật ra, Thiên Chúa đã biết trước nhu cầu của từng người rồi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần bày tỏ để có tương quan với Thiên Chúa,
thổ lộ với Ngài cách đơn sơ hồn nhiên như con thơ nói với cha.
Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện.
Ngài dạy họ gọi Thiên Chúa là Cha, Abba.
Họ được phép gọi như Ngài đã gọi và chia sẻ chức vị làm Con của Ngài.
Một lời cầu nguyện có tính tập thể: “Lạy Cha chúng con.”
Chính vì Cha là Cha của chúng con nên chúng con là anh chị em với nhau.
“Cha ở trên trời”, vì thế Cha lại thấy hết mọi người và ở bên từng người.
Cha thật siêu việt vì Cha ở trên trời cao thẳm;
nhưng Cha lại thật gần gũi,
vì Cha lo cho từng con chim sẻ, từng bông hoa ngoài đồng,
Cha cho mặt trời mọc lên và mưa rơi xuống trên mặt đất.
Ba lời xin đầu tiên của kinh Lạy Cha hướng đến Thiên Chúa Cha.
Hẳn chúng diễn tả tâm tình chủ yếu của Đức Giêsu trong suốt đời.
Bốn lời xin tiếp theo hướng đến nhu cầu của nhóm môn đệ.
Xin bánh mỗi ngày, xin ơn tha thứ, ơn thắng được cám dỗ và sự dữ.
Có khi lời nguyện của chúng ta quá qui về mình, loay hoay với cái tôi,
với những ước mơ tính toán, những âu lo cho nhu cầu vật chất.
Hãy xin Chúa những điều lớn lao cho Nước Chúa trên trần gian,
còn mọi sự khác nho nhỏ, Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Cầu nguyện :
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn,
trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/03 Thiên đàng của bác ái
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Thiên đàng của bác ái.
Thứ hai tuần 1 Mùa Chay.
“Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
Lời Chúa: Mt 25, 31-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.
Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?”
Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?”
Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thiên đàng của bác ái.
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
Thiên thần trả lời:
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có trong sách không.
Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông.
Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.
Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi”.
Từ khởi đầu, dường như Thiên Chúa đã muốn tạo dựng cho con người một thiên đàng vĩnh cửu trên trần gian này. Trong cơn gió nhẹ của mỗi buổi chiều tà, Thiên Chúa đến truyện vãn với con người, đó là hình ảnh một hạnh phúc vô biên mà con người có thể hưởng nếu ngay từ trần gian này. Thế nhưng khi con người chối từ mối liên lạc với Thiên Chúa và chối bỏ chính mình, con người cũng đánh mât hạnh phúc ấy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để tái lập thiên đàng tại thế ấy cho con người, Ngài nói với con người rằng con người sẽ có được thiên đàng ấy khi nó biết xây dựng sự hài hoà với Thiên Chúa và với con người. Và vì Thiên Chúa tự đồng hoá với con người, nên chính trong sự hài hoà với tha nhân, con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm lại được thiên đàng đã mất.
Có biết bao ý thức hệ và triết thuyết hứa hẹn cho con người một thiên đàng tại thế, nhưng thứ thiên đàng ấy đã khong bao giờ đền, mà thay vào đó chỉ là hoả ngục của hận thù và chết chóc mà thôi. Làm sao có thể xây dựng được thiên đàng khi người ta chối bỏ hay chà đạp tha nhân, làm sao có thiên đàng khi người ta lấy hận thù làm men cho xã hội. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó là thiên đàng, nhưng ở đâu có tha nhân thì ở đó cũng có Thiên Chúa, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi gặp gỡ với tha nhân, mỗi nghĩa cử làm cho tha nhân là một bước tiến vào thiên đàng ngay từ cuộc sống này.
Xin cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân, và xin cho chúng ta luôn ý thức tha nhân chính là nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Người bên phải, kẻ bên trái
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trườc mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua mới phán với người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Để đáp lại Đức Vua sẽ bảo rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt. 25, 31-40)
Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục: không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.
Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời …”. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.
Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt: đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu? Để đáp lại, Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.
Mùa chay thúc bách chúng ta sống Tin mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa nghiêm túc giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, đó là cửa vào nước trời đời đời.
G.M
SUY NIỆM 3: YÊU ĐỂ ĐƯỢC SỐNG! (Mt 25, 31 – 46)
Đạo Công Giáo mà Đức Giêsu sáng lập là một thứ đạo yêu thương. Đạo yêu thương này được khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng và suốt dọc dài lịch sử cứu độ trong thời Cựu Ước nơi dân Israel.
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa cho loài người. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã rao giảng, đã chết để minh chứng tình thương, và đã sống lại để gieo niềm hy vọng. Như vậy, có thể nói rằng: Đạo Công Giáo là “Đạo Yêu Thương”. Ai không yêu thương thì không thuộc về đạo này. Nhưng yêu thương phải đi đến hành động thực tế, chứ không thể yêu trên đầu môi chóp lưỡi!
Hôm nay, bài Tin Mừng đưa chúng ta về viễn cảnh của ngày cánh chung qua giáo huấn của Đức Giêsu.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra chính là một hình ảnh về ngày phán xét, nơi đó, vị thẩm phán công bằng, tối cao ngự đến để xét xử.
Điều kỳ lạ, đó là vị thẩm phấn này không xét xử dựa trên chức nghiệp để thưởng công, mà là ngang qua hành vi về sự cảm thông, lòng nhân ái đối với những người bần cùng của xã hội. Lạ kỳ hơn nữa là kết thúc, vị thẩm phán ấy đồng hóa chính mình với những người được giúp đỡ khi tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm cho những người bé mọn ấy là làm cho chính ta”.
Nhìn ra thế giới hôm nay, chúng ta thấy không ít nếu không muốn nói là nhan nhản những hành vi như: bon chen, lừa lọc, mưu mô quỉ quyệt, chiến tranh, hận thù, khủng bố …
Tất cả những điều đó đi ngược lại quy luật của tình yêu, và tất nhiên, không thể đi vào trong mối tương quan với vị thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay.
Xin Chúa ban cho mỗi người ý thức được hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Chúa, và chỉ có nơi Ngài mới trường tồn vạn kiếp. Vì thế, ngay trong giây phút này, xin cho chúng ta biết sống yêu thương nhau để sau này được hưởng niềm vui, hạnh phúc bên Thiên Chúa tình yêu. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Làm cho chính Ta
Suy niệm:
Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,
có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.
Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.
Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.
Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.
Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.
Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.
Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không ?
Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không ?
Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,
Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.
“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả
và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”
Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm:
“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu
bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”
Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.
Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của thánh Têrêsa Calcutta.
Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.
Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,
mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.
Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,
nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.
Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,
mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).
Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.
Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.
Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.
Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,
nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.
Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.
Cầu nguyện :
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
10/03 Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!
- Viết bởi Lc 4, 1-13
Chúa Nhật Thứ I Mùa Chay Năm C
Lc 4, 1-13
HỒI TÂM
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Hồi tâm là một hành vi tâm lý, nhìn lại quá khứ để nhận ra những việc mình đã làm. Có thể đó là những việc tốt, nhưng cũng có thể đó là những việc chưa tốt. Việc hồi tâm đòi hỏi lòng can đảm và trung thực, vì có nhiều người rất sợ đối diện với lương tâm của chính mình. Đó là lý do tại sao có những người, sau khi làm điều ác, uống rượu hoặc hút chích ma túy để quên đi quá khứ, để gạt bỏ lời khiển trách của lương tâm. Hồi tâm giúp chúng ta nhận ra những lầm lỗi của mình, để rồi sửa chữa, uốn nắn và canh tân cuộc đời.
Lời mời gọi “Hãy trở về” cũng có nghĩa là “Hãy hồi tâm”. Hồi tâm là một trong những thực hành quan trọng của Mùa Chay. Việc hồi tâm phải được thực hiện trước mặt Chúa, trong tâm tình cầu nguyện và với thiện chí chừa cải.
Hồi tâm cũng là ôn lại lịch sử đã qua. Ông Môisen đã chỉ thị cho các tư tế Do Thái, mỗi khi dâng của lễ đầu mùa, phải nhắc lại quá khứ của dân tộc mình. Quá khứ này vừa kể lại thuở hàn vi nghèo khổ, vừa ghi đậm dấu ấn quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Do Thái nhớ lại cha ông mình ngày xưa chịu cảnh lang thang phiêu bạt, nhờ quyền năng của Chúa, họ được định cư và phát triển đông đúc “như sao trên trời và như cát dưới biển”. Quá khứ đã qua của dân riêng Thiên Chúa vừa huy hoàng, vừa đau khổ. Lời cầu nguyện của tư tế cũng nhắc tới thời kỳ đen tối, dưới ách nô lệ của người Ai Cập. Lại một lần nữa, Chúa giang cánh tay uy quyền để giải thoát họ, đưa họ về miền đất hứa. Đó là lý do để người Do Thái, từ thế hệ này đến thế hệ khác, phải dâng của lễ để tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa (Bài đọc I).
Việc hồi tâm cũng giúp chúng ta lượng giá cuộc sống hiện tại, để nhờ đó, chúng ta luôn khôn ngoan thận trọng trước những cạm bẫy giăng đầy xung quanh. Thánh Luca đã thuật lại việc Chúa Giêsu vào hoang địa. Ở đó, Chúa cầu nguyện, ăn chay và chịu cám dỗ. Tên cám dỗ là ma quỷ. Nội dung cám dỗ là lời mời gọi ở ba khía cạnh: bánh ăn trong lúc đói; bổng lộc vinh hoa để quên sứ mạng thiên sai; làm những điều ngoạn mục (gieo mình từ nóc Đền thờ) để vui chơi giải trí. Như chúng ta thấy trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu đã dùng Lời Chúa để đánh bại ma quỷ.
Ba cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng luôn tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Quả vậy, bất kể thời nào, lứa tuổi và bậc sống nào, chúng ta cũng bị cám dỗ về ăn uống, về vinh hoa và thử thách Thiên Chúa. Hồi tâm chính là nhận ra những cơn cám dỗ ấy, để khôn ngoan can đảm khước từ những lời mời gọi ngọt ngào nhưng chứa nọc độc. Cám dỗ giống như những viên thuốc độc bọc đường, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng dễ dàng đầu độc và giết chết chúng ta.
Sau khi thất bại, quỷ rút lui và chờ đợi thời cơ – Thánh Luca kết thúc trình thuật như thế. Kể cả lúc chúng ta chiến thắng cám dỗ của ma quỷ, chúng ta vẫn phải luôn thận trọng. Tâm tình cầu nguyện, gắn bó với Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng những tấn công của Satan. “Lời Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng”. Sức mạnh của chúng ta đến từ Lời Chúa và vào lòng trông cậy vững vàng nơi Ngài. “Tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa sẽ được cứu thoát” (Bài đọc II).
“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 15). Giữa biển đời sóng gió phong ba, Chúa Giêsu biết chúng ta sẽ trải qua nhiều cám dỗ. Người cầu xin Đức Chúa Cha, để Ngài gìn giữ các môn đệ và những ai tin vào Chúa Giêsu. Người tín hữu không tách rời khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian với sức mạnh diệu kỳ của Thiên Chúa, để rồi họ chiến thắng nhờ sức mạnh ấy. Sống tinh thần Mùa Chay là sống tinh thần hoang địa. Ở đó, giữa thinh lặng và trong tinh thần chay tịnh, chúng ta sẽ gặp Chúa và được đón nhận từ Ngài sức mạnh siêu nhiên, giúp chúng ta thắng cám dỗ đang vây bọc tư bề.
Sau cùng, hồi tâm giúp chúng ta hướng về tương lai, với lạc quan hy vọng. Chúng ta tin vào tình thương của Chúa và vào lòng nhân hậu của Ngài. Thiên Chúa là Đấng “không nỡ bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,2), có lẽ nào Ngài bỏ rơi chúng ta, khi chúng ta cậy trông phó thác nơi Ngài?
“Điều gì tốt anh em phải đạt cho bằng được, hãy chiến đấu nếu cần. Vậy, anh em đừng sợ cám dỗ, nhưng hãy vui mừng, bởi vì chúng đưa đến thành tựu. Thiên Chúa phù giúp và bảo vệ anh em” (Thánh Barsanuphius)
“Thiên Chúa như một người mẹ ẵm con trên tay bên bờ một vực thẳm. Trong khi bà mẹ tìm cách giữ con cho khỏi nguy hiểm, thì đứa nhỏ lại cố sức để nhào xuống đó”.
Xin Chúa giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bao bọc vây quanh chúng ta, để sống giữa trần gian, mà lương tâm chúng ta vẫn thanh thoát, tâm hồn chúng ta vẫn gắn bó với Chúa trọn đời. Amen.
Về mục lục
.
SỰ LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự kiện gắn liền nhau “Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc’ (Mt) “và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào samạc’ (Mc) “Chúa Giêsu đầy Thánh Thần, từ giã vùng sông Giođan” (Lc), Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.
Ba nhãn quan về chính một sự kiện
Biết rằng Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn; lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một trình thuật và một cốt truyện về căn tính của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài trong lịch sử Israel.
Trình thuật trong ngữ cảnh của Luca
Trình thuật này tự nó hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự khởi đầu (‘Chúa Giêsu được dẫn vào trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ”). Cuộc gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật, chia rẽ (“ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu mà chờ dịp”). Nhưng trình thuật của chúng ta là thành phần của một lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22), tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào samạc.
Đọc lại trình chúng ta thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh hiển bởi sự nhận biết (“danh tiếng Người đồn ra khắp vùng”), sẽ được hoàn tất khi thời gian tới; có nghĩa là khổ nạn bất chợt.
Một vở kịch ba hồi
Trình thuật diễn ra theo một trình tự rõ ràng. Trước hết, các diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân vật không cần được giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc của người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị, mô tả tên nó có nghĩa là một chương trình. “Satan” tiếng Dothái (“quỷ” tiếng Hylạp) chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước tiên và trước hết mọi sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán là Con.
HỒI THỨ NHẤT (V. 1-4)
Hồi thứ nhất có khung cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ nét. Đối với con người trong Thánh Kinh, samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở trong tình trạng cần thiết và mỏng giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa ra sự thiếu điều cần thiết này: “Hãy truyền cho hòn đá này biến thành bánh”. Như là một gợi ý quy kết một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa. Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương với là Con Thiên Chúa.
Đứng vào cương vị quyền lực: “hãy truyền cho hòn đá này…”. Tránh trật tự bình thường của bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma quỷ.
– Ra lệnh: ngươi phải vâng lời: “có lời chép”. Nó ẩn chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ.
– Được mời gọi trở lại cách đặc biệt, đồng nhất với con người “người ta sống không nguyên bởi bánh”. Đó là cả một chương trình. Đối với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói khác, để làm cho samạc chỉ còn là nơi mong muốn.
HỒI THỨ 2. (V 5-8).
Sự chuyển biến đột ngột ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm hữu lập tức (trong chốc lát), và trong tổng thể( tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử thách, một sự thống trị tuyệt đối trên các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.
Nếu ông là con Thiên Chúa (5,3)
Nếu ông thờ lạy tôi (5,7).
Ở đây, ma quỉ tự vạch trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt phải theo một thần biến hoá và thờ tân lượng có bộ mặt các nước thế gian.
Đối diện với lời đề nghị này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt chính ma quỉ và vị trí của nó: “ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa “. Nó dẫn Ngài lên cao để thử thách nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt ra sự khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.
HỒI THỨ 3 (V 9-12).
Cuối cùng ma quỉ mang Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết của dân Dothái.
Ở đây ma quỉ còn biện minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề nghị này rất (thô thiển). Trong thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ biết thể hiện sự thật bên ngoài. Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại với Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết rõ hơn.
Khi đó, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên. Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường.
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: “ma quỷ lìa bỏ Ngài mà chờ dịp”. Để chúng ta hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít nhất là hai dấu hiệu. Trước hết Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ nạn đến, Lc viết: “Satan nhập vào Giuđa Iscariot” (Lc 22,3): đó là dấu hiệu “chờ dịp” hoàn thành.
Sử tính của cuộc cám dỗ
Hình như hiển nhiên rằng trình thuật này không phải được hiểu theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố cục được soạn thảo rất công phu, trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó là một cuộc sáng tạo từ hư không. Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để phân tích tính lịch sử của cuộc cám dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải trong đời sống công khai. Những người Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá và tự cứu mình đi” (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách cũng chính những thuật ngữ mà tên cám dỗ: “Satan, hãy lui ra, ngươi làm cho Thầy vấp phạm” (Mt 16,23). Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ kỳ dị ở một số người Dothái.
Nhưng lời giải thích này có thể rất phù hợp với một giả thuyết khác ở khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu một bước ngoặt trong đời mình, Chúa Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng, thu hút đám đông bằng những phép lạ và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược dòng với những khao khát của quần chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.
Mở ra chiều kích Kitô học
Điểm mạnh của các trình thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức mạnh chuyển tiếp các tường thuật về những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất hiện như:
– Con người (“người ta sống không nguyên bởi bánh”) Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự nhiên gian truân của con người nhân loại.
– Người tin gặp gỡ Thiên Chúa của họ được mạc khải trong Sách Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.
– Người con trời gọi đến Thiên Chúa của mình để thoả mãn những nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế, quyèân lực chính trị).
– Người con gặp Cha mình trong khi nghe Lời ở đó con người tìm thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm của sự nhập thể đến tận cùng.
Về mục lục
.
CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI CÁM DỖ VỚI CHÚA GIÊSU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có vô vàn cám dỗ hủy diệt cuộc đời
Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.
Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.
Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.
Cám dỗ có thiên hình vạn trạng
Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…
Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.
Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi.
Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.
Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:
“Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”
Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”
Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.
Cám dỗ không buông tha bất cứ ai
Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giê-su ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giê-su sẽ chiếm lấy.(Mc 10,37)
Ngay cả Chúa Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Do-thái 4,15).
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giê-su.
Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).
Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giê-su làm vua. (Gioan 6,15).
Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).
Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giê-su không bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.
Cùng với Chúa Giê-su, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám dỗ trong cuộc đời
Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.
Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.
Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹpcủa con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.
Noi gương Chúa Giê-su, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giê-su, cầu nguyện với Chúa Giê-su để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.
Về mục lục
.
ĐỜI LÀ CUỘC CHIẾN KHÔNG NGỪNG
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa chay khởi đầu với thứ tư lễ tro và kéo dài 40 ngày. Chúa Nhật thứ sáu mùa chay là Lễ Lá, khởi đầu tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu. Mùa chay dọi lại cuộc hành trình của dân Chúa trong hoang địa 40 năm trước khi vào đất hứa, cũng như biến cố Đức Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 ngày trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng công khai, và cụ thể chuẩn bị tâm hồn tín hữu hôm nay chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Đức Giêsu tử nạn phục sinh.
Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Bài đọc thứ nhất cho thấy người Do Thái mỗi năm trình diện trước nhan Chúa với hương hoa mình thu lượm được, và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Đấng can thiệp vào lịch sử dân tộc: Cha tôi là người Aram đã sống ở Aicập, bị hà hiếp và chúng tôi đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng chúng tôi khỏi ách nô lệ… Thiên Chúa đã kiến tạo và dìu dắt dân Do Thái qua Abraham, Isaac và Môsê…
Người Việt Nam cho mình là con rồng cháu tiên, con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ, con cháu vua Hùng với bốn ngàn năm văn hiến…! Đó là cách nói của người Việt Nam về chính mình, nhưng dù nói cách nào chăng nữa thì cuối cùng, người Việt Nam vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được Thiên Chúa tạo dựng, và Ngài đã làm một số người Việt Nam trở nên những bậc anh hùng, dám hiến dâng mạng sống để làm chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hướng dẫn dân tộc Việt Nam.
Những gì dân tộc Việt Nam đang là đang có, đều là ân điển Thiên Chúa ban. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử Thiên Chúa yêu thương tất cả loài người qua dân tộc Do Thái, cũng tương tự vậy lịch sử dân tộc Việt Nam là chuỗi những biến cố các anh hùng dân tộc đã thực hiện trong tình yêu của Chúa, qua các triều đại vua Hùng, qua bà Trưng bà Triệu, qua một ngàn năm sống dưới sự cai trị của người Tàu mà không bị đồng hóa hoặc tiêu diệt. Thiên Chúa hiện diện nơi lịch sử dân tộc Việt Nam với nét nhịn nhục, sự kiên cường và tính anh hùng bất khuất của người Việt Nam. Thiên Chúa yêu thương người Do Thái, và Ngài cũng yêu thương người Việt Nam không kém gì người Do Thái. Dân tộc Do Thái là mẫu, là hình ảnh, để giúp các dân tộc khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi mỗi dân tộc.
Thiên Chúa yêu thương và gần gũi mọi người thuộc mọi dân tộc
Thiên Chúa nói với con người qua lương tâm của mỗi người, và Ngài đã nói với con người qua lịch sử dân Do Thái cũng như qua các ngôn sứ, và trong thời cuối cùng Ngài đã nói với con người qua chính Con Một của Ngài là Ngôi Lời nhập thể. “Lời rất gần ngươi, ngay nơi miệng và trong lòng ngươi”. Nếu ai muốn nghe tiếng Chúa, ắt có thể nghe được vì Thiên Chúa rất gần con người.
“Nếu ngoài miệng tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và trong lòng tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết, thì được cứu”. Tin vào Đức Giêsu, thì được cứu, dù người đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, vì “tất cả những ai kêu cầu danh Thiên Chúa đều được cứu”.
Xin cho mỗi người nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với từng người, và với dân tộc mình trong dòng lịch sử.
Đời là cuộc chiến
Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi cuộc chiến. Đã là người, ai cũng phải chiến đấu. Cuộc chiến thể lý, không phải ai cũng phải đương đầu; nhưng cuộc chiến thiêng liêng hay nội tâm thì ai cũng phải trải qua. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu trải qua cuộc chiến của Ngài:
– Ngài đói, và có cám dỗ muốn ăn, muốn có gì để ăn, muốn biến đá thành bánh để ăn. Tại sao không biến đá thành bánh để ăn, khi tất cả để phục vụ con người, đặc biệt khi mình đói? Cám dỗ trở nên cực kỳ mãnh liệt khi ý tưởng “nếu không được ăn bây giờ thì mình sẽ mất sức và như vậy không biết mình còn có thể sống được nữa không”!
– Con người nếu để tự do, không biết cái gì xảy ra. Tại sao không dùng quyền lực để thống trị con người? Tại sao không làm vua và cưỡng bức tất cả mọi người phải được rửa tội, như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn không? Tại sao lại cho con người tự do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt người ta làm điều tốt?
– Nếu tôi nổi tiếng và được người ta kính phục, thì khi tôi giảng về Thiên Chúa người ta sẽ nghe, và Chúa sẽ được vinh danh hơn. Làm sao để lấy được lòng tin và kính phục của con người? Tôi có thể nhảy từ đỉnh đền thờ xuống, và giảng cho người ta một bài về Thiên Chúa, và người ta sẽ nghe lời tôi giảng! Nhưng nhảy xuống thì tan xương nát thịt. Tại sao Thiên Chúa không can thiệp? Tại sao Thiên Chúa không sai thiên thần đến đỡ chân tôi?
Đức Giêsu đã phải chiến đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều thân xác của con người. Và Ngài đã thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài không biến đá thành bánh, Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thách thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa làm theo ý riêng mình. Con người ngày nay cũng có những cám dỗ tương tự như Ngài ngày xưa, có lẽ là:
Tại sao tôi không được phá thai khi đó chỉ là một tế bào trong thân xác tôi? Tại sao tôi không được cloning (sinh vô tính) khi tôi không có con, khi tôi muốn có người nối giòng? Tại sao con người không được làm những thí nghiệm về con người (tái tạo con người khi cho phôi và tinh trùng gặp nhau, xem nó phát triển như thế nào, và v.v… rồi có thể hủy những “thai nhi” như vậy)?
Tại sao tôi không được thỏa mãn mình khi người khác đồng ý, khi tôi có tiền và người khác cần tiền, v.v…?
Tại sao tôi không được coi những giá trị “đa số người đời thừa nhận” làm giá trị của tôi, chẳng hạn tiền bạc, địa vị, danh vọng…
Mỗi người trong cuộc sống thường ngày, phải chiến đấu với ma qủy, với chính mình, với thế gian và những giá trị của nó. Xin Chúa giúp, để mỗi người chúng ta vượt qua chính mình, để chúng ta trở nên giống Đức Giêsu, nên thánh mỗi ngày trong từng hành vi quyết định của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Theo bạn, con người hôm nay bị cám dỗ về điều gì nhất? Làm sao để vượt qua?
Có gì lợi ngay ở đời này khi vượt qua chính mình, khi thắng được “cám dỗ”?
Dân tộc Do Thái có chỗ đứng đặc biệt trong chương trình của Thiên Chúa. Theo bạn, dân tộc Việt Nam có chỗ “đặc biệt” trong chương trình của Thiên Chúa không? Xin mời bạn chia sẻ chỗ đứng đặc biệt của dân tộc Việt Nam trong chương trình của Thiên Chúa, nếu bạn “thấy”!
Về mục lục
.
CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Lm. Giuse Trần Đình Túc
Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương, vua nước Tần lại muốn xâm chiếm nước Thục. Nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh, Huệ vương sai lấy đá tạc hình một con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Huệ vương nhờ đó sẵn lối đi, liền đem quân tiến đánh, cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, vừa để lại trò cười cho thiên hạ.
Vua Thục chỉ vì tham chút lợi nhỏ giả tạo mà mất nước, và số vàng kia cũng quay trở lại vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê nhà vua dại khờ vì đã chọn lựa sai.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa, thử thách. Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống.
Cám dỗ gắn liền với phận người tự do. Bởi tự do chỉ thực sự có giá trị và ý nghĩa khi nó đi liền với chọn lựa. Những chọn lựa thật dứt khoát của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên một thái độ mới trước những thách đố của cuộc sống, đồng thời cho chúng ta cái nhìn chân xác hơn về bản chất của những cơn cám dỗ trong cuộc đời.
Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục làm điều xấu, nhưng còn là những mánh khóe biến giả thành thật, thực thành ảo, là thủ đoạn tô hồng những khía cạnh chân thật, đánh bóng những nhu cầu giả tạo – thoạt nhìn – thật tốt đẹp và cần thiết, nhưng thật ra, đó chỉ là hình ảnh ảo, hoặc một cái nhìn rất phiến diện.
Cám dỗ thứ nhất ma quỷ đưa ra hôm nay là nhu cầu ăn uống, là đánh vào bản năng sinh tồn, đánh vào thân xác luôn đòi hỏi nâng niu, chiều chuộng. Đây quả là một nhu cầu thật thiết thân, nhưng chưa phải là nhu cầu cao nhất, càng không phải là nhu cầu độc nhất. Bởi cứ mải đánh bóng nhu cầu vật chất, nhiều người bị mờ mắt, không còn ý thức đến nhu cầu tinh thần, và nguy hiểm hơn, đánh mất phẩm giá của mình để rơi vào một hình thức nô lệ khác: nô lệ cho vật chất và cái bụng.
Cám dỗ thứ hai là một nhu cầu khác, cao hơn và hấp dẫn hơn nhu cầu ăn uống. Đó là cơn cám dỗ chính yếu của con rắn địa đàng trong bài đọc I hôm nay: “Chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt hai người sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”.
Ngày nay, đó là cơn cám dỗ nhắm vào bản năng đối kháng. Là tìm cách chạy trốn giới hạn cùng những thực tại phũ phàng để bay lên bằng ảo giác của bia bọt và thuốc kích thích,… Là thèm khát địa vị, quyền chức thế gian, nhắm vào khuynh hướng thích ngồi chiếu trên, để thống trị, áp đặt quyền lực trên người khác…
Bởi Thiên Chúa luôn có vẻ như vắng mặt, nên con người rất dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là tiện nghi, sắc đẹp, kiến thức, tài năng,…
Khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn là một khát vọng chính đáng. Nhưng mối nguy của nó ở chỗ điều kiện luôn đi kèm: phải thỏa hiệp với sự dữ. Nhiều người vì muốn thăng quan tiến chức mà phải chạy chọt, gian lận, sống luồn cúi, bất lương và vì thế, họ vô tình “bái lạy” ma quỷ mà không hề hay biết.
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ xảo quyệt nhất. Vì nó không xui giục người ta bỏ Chúa, nhưng khuyến khích người ta chạy đến cầu xin với Ngài để được ban phép lạ. Thực ra, cầu xin không phải là chuyện xấu xa, và một đời sống đạo đức, gắn bó với Thiên Chúa là điều đáng khuyến khích.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khước từ lời đề nghị của quỷ ma, vì xin không phải là thử, lại càng không phải là thách thức Thiên Chúa, đòi kiểm chứng bằng dấu lạ điềm thiêng. Đó là cơn cám dỗ tìm những pha ngoạn mục, kiếm những chuyện thần kỳ, muốn gặt hái những thành công lẫy lừng bằng những chuyện kinh thiên động địa.
Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ, dùng quyền năng Thiên Chúa để trốn tránh khó khăn, nghịch cảnh. Thích phô trương màu mè, nhưng rất ngại nghe Lời Chúa, hoặc mượn danh nghĩa việc tông đồ để cầu danh trục lợi. Không ít người đã từ bỏ, không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì xin mà không được.
Như thế, Ác thần chẳng những dùng điều xấu xa, mà còn có thể lợi dụng việc đạo đức tốt lành để đẩy con người ra xa Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc vì nó tiến từng bước: từ hạ thấp phẩm giá đến tước mất tự do của con người. Sau cùng là chối bỏ, khước từ Thiên Chúa. Cơn cám dỗ càng hiểm độc khi âm mưu nham hiểm được bọc trong lớp vỏ nhung lụa, ngọt ngào, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào sa mạc, vì 40 ngày chay tịnh đầy thử thách, không chỉ như giai đoạn thanh luyện, chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới của Ngài, mà còn là một gặp gỡ, để đón nhận sức sống từ trời cao cho hạt mầm cứu độ đâm chồi nảy lộc giữa lòng thế giới. Ngài đi vào sa mạc không chỉ để đối đầu với thử thách mà còn để sống tâm tình con thảo với Chúa Cha.
Vì thế, sa mạc không chỉ là nơi hoang vu, thiếu thốn, nhiều cạm bẫy đáng sợ, mà còn có thể là chặng dừng quan trọng, là nơi gặp gỡ của những con tim. Con tim Thiên Chúa và con tim nhân loại.
Mùa Chay vì vậy, không chỉ là mùa của kiêng khem, khổ chế trong u sầu than vãn, mà còn là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Bởi những cơn cám dỗ và lời thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa” trong Tin Mừng hôm nay vẫn có đó giữa đời thường, như gắn liền với thân phận đàn con lũ cháu của Ông Bà Nguyên Tổ.
Dù có khoác lớp áo mới hào nhoáng, hấp dẫn, tinh vi, hiện đại hơn, thì cũng là một chuỗi những cám dỗ của thuở đầu tạo dựng. Nếu lo sợ đi tìm một biện pháp giải trừ, tìm một phương cách để chống chọi hay tránh né vẫn thật sự chưa đủ. Điều cần thiết là một định hướng, một thái độ, một cách nhìn. Bởi một khi đã gạt Thiên Chúa ra khỏi những suy nghĩ của mình, chúng ta cũng rất dễ hào phóng mở lòng ra với cơm bánh, của cải và danh vọng. Vì thế, khi chọn bước vào cuộc chiến suốt 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ với thế gian rằng: Con người có thể thắng được những cám dỗ của thế lực tối tăm, nếu biết chọn đứng về Thiên Chúa và sống bằng sức sống của Ngài.
Chọn Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài, là thông điệp mà Chúa nhật đầu Mùa chay hôm nay gửi đến chúng ta, như lời gọi mời một tư thế đứng thẳng, và để lại sau lưng những ươn lười, ngần ngại. Đứng thẳng lên để cùng với Chúa Giêsu đi tới trong cuộc hành trình Mùa chay: nói KHÔNG với cái xấu, cái thấp hèn; nói KHÔNG với lối sống buông thả, gian tà, nhu nhược.
Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là cách nhìn của mỗi chúng ta về những khó khăn, thách đố của đời thường. Bởi những thách đố của cuộc sống hôm nay có thể làm chúng ta lo sợ, tránh né, hoặc thỏa hiệp với tà tâm, bất chính, nhưng cũng có thể là cơ hội cần thiết giúp chúng ta lớn lên hơn, vững vàng hơn, để sống công chính và thẳng ngay trong tư thế đứng thẳng của những người con Thiên Chúa.
Về mục lục
.
HÀNH TRÌNH CUỘC ĐỜI
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để ở lại nơi đó bốn mươi ngày. Thế ra, để một hoạt động mang lại hiệu quả, hoạt động đó phải được xây dựng trên nền tảng tĩnh lặng. Chính trong tĩnh lặng mà con người có thể xác định đường đi nước bước và tiến tới việc chọn lựa chính xác mục tiêu.
Trước đây, mỗi lần đọc bài Phúc âm “Chúa Giêsu vào hoang địa chịu ma quỉ cám dỗ”, tôi đều nghĩ đến nỗi cảm thông sâu xa mà Đức Giêsu đã chia sẻ với nhân loại trong thân phận con người. Đời là một cuộc chiến đấu và chọn lựa. Trong kiếp người, Đức Giêsu cũng không ra khỏi thông lệ đó. Chắc hẳn Ngài không chỉ đơn thuần hiểu thấu nỗi đau khổ nơi thân xác lẫn tinh thần của kiếp nhân sinh, nhưng Ngài còn cảm được những khó khăn, yếu đuối, và gian nan trước bao cuộc chiến của con người với ma quỉ, xác thịt, và thế gian.
Đức Giêsu cũng trải qua cuộc chiến như ai. Ngài cũng chịu thử thách giống Ađam ngày xưa trong vườn Địa đàng. Ngài cũng đón nhịu cám dỗ như Dân Do thái trong hoang địa. Nhưng Ađam thì sa ngã, chạy theo những lôi cuốn của giác quan và quyền lực. Dân Do thái thì bất trung, dám thử thách và chống lại Thiên Chúa khi tôn thờ “cái bụng” và thần ngoại.
Riêng Đức Giêsu, Ngài đã chiến thắng và mang lại cho con người một niềm hy vọng tươi sáng và hướng đi huy hoàng: Chọn lựa và tin tưởng Thiên Chúa, con người sẽ chiến thắng Satan.
Để có thể làm nên cuộc chọn lựa chính xác và tin tưởng vững vàng những gì mình lựa chọn, tôi cần có sự tĩnh lặng tâm hồn. Nếu đời là một cuộc chiến và chọn lựa liên lỉ, tôi phải không ngừng tìm vào “hoang địa”, để nơi đó luôn xác định cho lối đi, đích tới và phương tiện tiến bước của đời mình.
Lần này, khi đọc lại bài Phúc âm “Chúa Giêsu chịu cám dỗ” qua lăng kính “đi vào tĩnh lặng để xác định một sự chọn lựa”, tôi đón nhận được từ Lời Chúa một nguồn sinh lực mới, làm phong phú cho hành trang đức tin, trên con đường hy vọng.
Chúa Giêsu đi vào hoang địa, nơi đó trong thinh lặng và nguyện cầu, Ngài xác định con đường mình sẽ đi: “con đường cứu độ nhân loại”. Đích tới của việc cứu độ đó không phải là mang lại cơm bánh cho con người. Đối với Đức Giêsu, cứu độ hay giải phóng không phải là việc cung cấp cho con người phúc lợi vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh” (Lc 4:4). Đây chính là lầm lẫn của thần học gia Leonard Boff, khi quá chú tâm đến việc giải phóng con người khỏi cái nghèo thân xác mà quên mất nỗi tiều tuỵ bần cùng của tâm linh, một sự bần cùng mà chỉ có Chân Lý Yêu Thương mới giải phóng được mà thôi. “Chân Lý sẽ giải phóng con người.”
Nhưng chân lý đó ở đâu nếu không phải là từ Lời Chúa. Thế nên yếu tố mà Đức Giêsu chọn lựa để cứu độ con người chính là Lời: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4). Mà Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Như thế, Ngài tự khẳng định: không ai khác, không một điều gì khác, ngoại trừ Ngài, chính là con đường cứu thoát duy nhất cho nhân loại.
Sau khi đã nhìn ra con đường giải thoát chân chính và duy nhất, Đức Giêsu đã làm thêm một cuộc chọn lựa khác: chọn lựa phương tiện. Đối với Ngài, phương tiện cứu độ không phải là phép lạ.
Nhảy từ trên đỉnh cao của đền thờ xuống mà không hề hấn gì thì quả là một phép lạ cả thể đấy chứ. Không chừng nhờ phép lạ như vậy mà nhiều người sẽ phục sát đất và tin nhận mình là Đấng Thiên Sai. Nhưng Chúa Giêsu không chọn phép lạ.
Ngày hôm nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đến nỗi đã phát minh không biết cơ man nào là “phép lạ”. Ví dụ, trước đây, khi một noãn cầu của người phụ nữ được thụ tinh, nhiều lắm là mười tháng sau, một đứa bé sẽ chào đời. Nhưng hiện nay, kỹ thuật khoa học có thể làm phép lạ giữ trứng thụ tinh đến 6, 7 năm sau mới cho mầm sống tiếp tục phát triển và chào đời. Bằng phép lạ cloning (sao người), khoa học có thể làm ra một thân xác không đầu để lấy các cơ phận, mà cung cấp cho những ai cần đến.
Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã xác định phép lạ không phải là phương thế tuyệt hảo để cứu độ con người. Ngài thấy trước rằng khi thiếu niềm tin, khi mất chân lý, thì phép lạ hay bất cứ một sự thần thông biến hoá nào cũng không mang ơn cứu độ. Trái lại, chỉ gây ra tình trạng huỷ diệt nhân phẩm và làm tàn lụi sự sống con người.
Thế nên, phương thế cứu độ không phải là phép lạ, nhưng là niềm tin. Một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa chính là phương thế mang ơn cứu độ. Biết bao lần Chúa Giêsu chữa lành què quặt, đui mù, đau yếu, phung hủi… và Ngài chẳng bao giờ tuyên bố: “Phép lạ của Ta đã cứu chữa con” nhưng luôn là: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.” Như thế niềm tin vào Chúa Giêsu chính là phương thế cứu độ bảo đảm nhất.
Đã có con đường và phương tiện di chuyển, nhưng đâu là cùng đích cho cuộc hành trình? Xin thưa: “Thiên Chúa”. Đức Giêsu chỉ rõ: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Người” (Lc 4:8).
Trong thinh lặng và cầu nguyện của mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi nhìn lại hành trình cuộc đời. Thử hỏi, nẻo đường tôi đi có được soi sáng bởi Chân lý Tin mừng, hay chỉ là gian dối lọc lừa? Niềm tin trong tôi đang dẫm chân tại chỗ hay vững vàng tiến bước? Đích cùng của đời tôi chính là Thiên Chúa Tình Yêu, hay miếng cơm, xác thịt, đồng tiền, uy quyền, danh dự.
Có quyết tâm đi vào sa mạc lòng mình, với những hy sinh, cầu nguyện, bố thí, giúp đỡ đồng loại,
Có chân thành nhìn lại và trả lời với chính mình về con đường, phương tiện, và đích tới trong đời,
Có chọn lựa, tin tưởng, và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa,
Tôi mới mong có được một mùa Chay ý nghĩa và tràn đầy sức sống nội tâm, hứa hẹn một ngày Phục sinh vinh quang.
Về mục lục
.
SÁM HỐI MÙA CHAY
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Sống trên hành trình đức tin luôn là chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỉ, xác thịt, thế gian. Và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là bản thân mình, địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không tránh khỏi cuộc chiến đấu này, nhưng Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trước khi bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Trong thời gian này, Ngài gặp thử thách như Ađam Evà khi xưa trong vườn Địa đàng, nơi bài đọc I chúng ta vừa nghe.
Nhưng Ađam Evà đã nghe theo lời ma quỉ xúi dục, không vâng phục Thiên Chúa, mà nghe lời ma quỷ xúi dục, nên giơ tay hái trái cấm. Ông Bà đã sa ngã và hậu quả để lại cho con cháu ngàn đời, là đánh mất ơn làm con Chúa.
Dân Do Thái ngày xưa ở trong sa mạc 40 năm trước khi trở về miền Đất Hứa, nhiều lần họ sa đi ngã lại trước bao thử thách chỉ vì miếng ăn. Đã bao lần họ nổi loạn, chống đối Môisen, họ muốn quay trở lại đất nước Aicập, thà sống kiếp nô lệ mà còn có của ăn, còn hơn là sống trong sa mạc thiếu thốn này.
Đối với Đức Giêsu, sau khi ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, ma quỷ biết Ngài đói, nên bày mưu lập kế cám dỗ, nhưng Đức Giêsu đã cương quyết chống lại lời ma quỉ xúi dục, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho biết, ma quỉ đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Đức Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh chống lại ma quỷ và nói lên ý muốn dứt khoát đứng về phía Thiên Chúa. Cuối cùng, ma quỉ đành phải rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến hầu hạ Ngài.
Anh chị em thân mến,
Ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu năm xưa cũng là ba cơn cám dỗ của chúng ta ngày nay. Là người Kitô hữu, muốn chiến thắng ma quỉ, chúng ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn biết chọn Chúa, sống theo thánh ý Chúa và dùng Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Trong Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào hoang địa với Đức Giêsu, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Chúng ta không có điều kiện đi vào hoang địa theo nghĩa địa lý, nhưng chúng ta có thể vào hoang địa cuộc đời.
Vào hoang địa cuộc đời, là hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Chúng ta dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích.
Vào hoang địa cuộc đời, đối với chính mình, đừng quá bận tâm vào của cải vật chất, mà quên đi mục đích ta sống ở đời này để làm gì, và quê hương đích thực của chúng ta ở đâu?. Đồng thời, chúng ta kìm hãm miệng lưỡi, giảm bớt nói hành nói xấu người khác.
Vào hoang địa cuộc đời, mỗi ngày làm cho tha nhân một cử chỉ đẹp nào đó. Cụ thể, chúng ta giảm bớt những chi tiêu không cần thiết, giảm bớt ăn chơi phung phí, dành chút quà vật chất để chia sẻ cho những người nghèo trong Mùa Chay thánh này. Nếu có thể được, chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bệnh tật đau yếu, đang cô đơn trên giường bệnh.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần Mùa chay với tâm tình trở về. Trở về để được Chúa yêu thương, trở về để được Ngài tha thứ. Trở về với chính mình bằng việc sám hối mọi lỗi lầm, và trở về với tha nhân trong việc tha thứ và bố thí. Amen.
Về mục lục
.
CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa chay thánh. Thứ Tư vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hành trình, hành trình Mùa chay, đó là một cuộc hành trình hướng tới lễ Phục sinh. Chúng ta là những người đã được chịu phép rửa tội, nhưng chưa hoàn toàn sống đời sống của một Kitô hữu. Mùa Chay mời gọi chúng ta thay đổi tâm hồn, và sống Tin mừng một cách trọn vẹn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta biết, khi nhập thể vào trần gian với thân phận con người, Đức Kitô cũng từng trải qua nhiều thử thách cam go, chịu ma quỉ cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh trong sa mạc. Ma quỉ cám dỗ Ngài xoay quanh ba chủ đề : thú, lợi, danh.. Nhưng Ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Lời Chúa.
Chúa cũng để cho ma quỉ cám dỗ chúng ta, không phải để làm hại ta mà là để cho chúng ta trưởng thành hơn và tỏ lòng trung thành đối với Chúa. Con người yếu đuối không thể vượt qua được những mưu chước của ma quỉ, nhưng chúng ta đã có ơn Chúa trợ lực, Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, Ngài không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Hãy cầu nguyện để múc lấy sức mạnh nơi Chúa :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Và với ơn Chúa chúng ta sẽ chiến thắng như thánh Phaolô đã nói :”Omnia possum in eo qui me confortat”(Pl 4,13) : Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Đnl 26,4-10.
Dâng của lễ đầu mùa trước kia là một nghi lễ của dân ngoại, trong đó con người nhìn nhận mình không nắm giữ các bí ẩn của thiên nhiên và của sức sống vạn vật. Vì vậy, con người cầu xin các thần chiếu cố ban ơn.
Tuy nhiên, trong bài đọc 1 hôm nay, ông Maisen dạy cho dân chúng : khi dâng của lễ đầu mùa phải có tâm tình gì : đó là tinh thần biết ơn. Bởi vì, nhìn ngược dòng lịch sử, tổ tiên của dân Do thái ban đầu chỉ là những kẻ phiêu bạt nơi người Ai cập, phải làm nô lệ cho họ. Thiên Chúa đã dùng quyền năng Ngài mà giải thoát họ và xây dựng họ thành một dân tộc hùng mạnh. Vì thế, hằng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình mà dâng lên Ngài.
+ Bài đọc 2 : Rm 10,8-13.
Luật đạo cũ xưa tỏ ra quá tỉ mỉ và rắc rối. Thánh Phaolô đem đối chiếu với luật xưa, để người tín hữu thấy rằng lòng tin ở Đức Kitô Phục sinh thì đơn giản như thế nào. Ơn cứu độ chỉ có được bởi lòng tin : Ai tuyên xưng trong lòng và tuyên xưng ra rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại và đang làm Chúa tể, thì sẽ được cứu độ.
Một khi đã có một niềm tin như thế, một niềm tin duy nhất, thì khi đó không còn phân biệt Do thái với dân ngoại. Tất cả đều có một Chúa. Đây là điểm tựa duy nhất cho đời sống đạo của chúng ta.
+ Bài Tin mừng : Lc 4,1-13.
Đoạn trình thuật của thánh Luca về các cám dỗ cũng giống như đoạn trình thuật của thánh Matthêu. Tuy nhiên thánh Luca để ý hơn đến việc chứng tỏ Đức Giêsu chiến thắng các cám dỗ với tư cách người đứng đầu một nhân loại thực sự, một dân Israel mới. Trên bước đường đi về Đất Hứa, dân Israel đã gặp nhiều cám dỗ :
– Cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn.
– Cám dỗ thờ tượng con bê vàng.
– Cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
Họ đã sa ngã vào những cám dỗ đó. Nay Đức Giêsu chính là Israel mới, Ngài cũng sống trong sa mạc thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Được như thế, Đức Giêsu đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ.
Đức Giêsu vào trong sa mạc.
Đừng ai tưởng rằng Đức Giêsu không thể bị cám dỗ vì Ngài là Thiên Chúa. Mặc dầu có bản chất thần thánh, Ngài cũng có một bản chất con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm.
Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một nơi lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện. Và trong thời gian suy nghĩ cầu nguyện đó, ma quỉ có thể thực sự hiện ra để cám dỗ Ngài không ? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Ngài đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dầu quỉ sứ không hiện ra với chúng ta với hình dáng của một con người. Ngài đã bị cám dỗ về ba phương diện : thú, lợi, danh.
Ý nghĩa của chữ “Cám dỗ”.
Trong tiếng Do thái, chữ “Cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi : ai thắng cám dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta “lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn :”Thứ quỉ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay và cầu nguyện”. Nhớ lời trong kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Đức Giêsu trong bài Tin mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa (Carôlô).
Ba chước cám dỗ.
Theo thánh Luca, Đức Giêsu bị 3 chước cám dỗ thử thách :
– Cơn cám dỗ thứ nhất : Đức Giêsu ăn chay trong sa mạc. Ngài đói, nên cám dỗ đầu tiên của ma quỉ là tìm kiếm của ăn để nuôi dưỡng thân xác :”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”(Lc 4,3).
– Cơn cám dỗ thứ hai : Ma quỉ đề nghị Đức Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thỏa mãn những ước muốn ái quốc của quần chúng. Dân Israel hy vọng rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến như một người chiến thắng, và Ngài sẽ giải thoát dân Israel bằng gươm giáo. Đức Giêsu có nên dùng quyến lực của Ngài để thực hiện giấc mơ ấy không ?
– Cơn cám dỗ thứ ba : Ma quỉ đề nghị :”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông ! các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá” (Lc 4,10). Đây là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng của người Do thái xưa (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục : đó là cơn cám dỗ trên nóc Đền thờ Giêrusalem…
Ba chước cám dỗ này qui về ba chữ : THÚ, LỢI, DANH.
a) Về THÚ: Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Đức Giêsu đã thắng cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất, nhưng khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
b) Về LỢI: Ma quỉ ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Ngài chịu tôn thờ nó. Nhưng Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b; 10,22; 22,29), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).
c) Về DANH: Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm kiếm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11; Tv 91,11-12). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa đó qua lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Đnl 6,16).
Cuối cùng cả ba chước cám dỗ đều qui về một điều : đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chúng, đây là những chước cám dỗ chủ yếâu trong Giáo hội của Ngài, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.
II. CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ.
Suy nghĩ một chút, chúng ta thấy chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và Đức Giêsu bị cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên quan gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi :
– Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ?
– Phải chăng chúng ta ham chuộng danh vọng trần thế ?
– Phải chăng chúng ta không chịu vận dụng hết khả năng của mình mà cứ để Thiên Chúa làm phép lạ cho mình ?
Sự khôn ngoan của ma quỉ.
Ma quỉ rất tinh quái, nó biết rõ những nhu cầu của con người từ nhu cầu ăn uống cần cho thể xác, đến nhu cầu ham mê danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là kiêu ngạo. Cái khôn của ma quỉ làø làm cho cám dỗ mang một dáng vẻ hấp dẫn, hợp với sở thích và ý muốn của con người, nên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ để ta ưng theo. Do cái vỏ quyến rũ, mỹ miều bên ngoài của nó như vậy nên mới dễ đánh lừa ta, khiến ta thường bị sa lầy, mắc bẫy.
Truyện : Mua cái bóng cây.
Ngày xưa, có một người giầu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột ngạt thì ông nhà giầu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc nào không biết.
– Ê, ông nhà giầu quát, Ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây ? Xéo ngay.
– Vì sao lại thế ? anh nhà nghèo hỏi.
– Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của tao, ông nhà giầu lý luận.
– Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông đàng hoàng. Xin ông đừng lo.
Nghe nói đến tiền, ông nhà giầu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức lắm nhưng đành bấm bụng chịu.
Một hôm ông nhà giầu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách, anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giầu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải thích :”Cái bóng cây này là của tôi. Ôâng chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi ! Tôi có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào”. Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra về. Ít ngày sau, ông nhà giầu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở đâu là bỉu môi chế giễu :”Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây” ! Bị bẽ mặt, ông nhà giầu đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng cây mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giầu nữa. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 107-108)
Qua sự cám dỗ về lòng tham lam tiền bạc, ông nhà giầu đã đưa kẻ thù vào ở trong nhà mình. Một cách nào đó, qua những cám dỗ, chúng ta cũng mở cửa tâm hồn cho ma quỉ vào xâm chiếm linh hồn mình. Tất cả những mưu thâm chước độc của ma quỉ thì thiên hình vạn trạng khiến con người khó mà đứng vững nếu chúng ta không cảnh giác đề phòng, không biết cầu cứu với Chúa, không năng nhận những phương thế hỗ trợ thiêng liêng.
Những cám dỗ của chúng ta.
Ngày xưa ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thế nào thì ngày nay chúng vẫn cám dỗ chúng ta như vậy, mà còn nhiều trò nguy hiểm hơn nữa. Tất cả những chước cám dỗ ấy cũng qui về ba mối : thú, lợi và danh.
a) Về thú vui.
Tiền nhân dạy rằng:”Nhân sinh tại thế dĩ thực vi tiên” nghĩa là con người sinh ra ở đời, thì việc ăn uống là ưu tiên và cần thiết.
Nói lên câu đó, tiền nhân có ý bảo rằng : con người sinh ra thì phải ăn uống. Có ăn có uống thì mới sống được. Có sống thì mới làm việc được, do đó mới có câu:”Có thực mới vực được đạo”. Song le, vì ma quỉ nó dốt CHỮ NHO, nên mới cắt nghĩa quẹo đi:”Con người sinh ra chỉ để ăn uống”, nên thiên hạ đâu đâu cũng thuộc giáo điều của nó:”Không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài”.
Thánh Phêrô đã khuyên :”Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”(1Pr 5,6). Con người có khuynh hướng thỏa mãn xác thịt, muốn làm cho thân xác được béo tốt, được thưởng thức mọi thú vui không biết ngừng lại. Nhưng người ta có biết rằng “Cực lạc sinh bi ai” ? Cái gì thái quá cũng sinh tai hại. Mùa chay này nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu nói với ma quỉ:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.
b) Về lợi lộc.
Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho con người nếu chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này và đã bán linh hồn cho ma quỉ, trở thành tay sai của nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài đầy quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và lần lượt đều đã bị diệt vong. Ma quỉ cũng cám dỗ Đức Giêsu trở nên giầu có và quyền thế như các vua chúa trên trần gian, nhưng Ngài đã khước từ, Ngài chấp nhận “yếâu đuối”(1Cr 1,27). Cơn cám dỗ về quyền hành, về giầu sang phú quí cũng là cơn cám dỗ của chúng ta.
Ngoài ra, danh vọng và giầu sang phú quí chưa hẳn là hạnh phúc vì danh vọng và giầu sang là con dao hai lưỡi : nó có thể phục vụ ta, biến nó thành tôi tớ trung thành của ta, mà nó cũng có thể ức chế ta, biến ta thành nô lệ của nó, sai khiến ta làm đủ mọi điều gian ác.
Truyện : Ca sĩ Elvis Presley.
Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên chàng ca sĩ nổi tiếng thế giới là Elvis Presley.
Chàng rất giầu có : một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, còn có biết bao đạo quân những người hâm mộ coi chàng là thần tượng.
Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận:”Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.
Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Đức Giêsu nói :”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
c) Về DANH.
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”(Tv 91,11-12). Đó là cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời công khai của Ngài : Hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời… Hãy chứng minh ông là Thiên Chúa… Hãy biểu lộ quyền hành của ông, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu Thế chúng tôi đang mong đợi…
Đức Giêsu đã không nhận những thách thức ấy mặc dầu Ngài có thể làm được tất cả. Thực ra, những thách thức đó chỉ làm cho Đức Giêsu lìa xa con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài : Ngài phải chết. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này”(Lc 22,42). Chính nhờ thái độ vâng phục tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi”(Mt 27,46), mà chứng tỏ mình là Con Một của Cha…
Đức Giêsu lánh xa khuynh hướng khoe khoang, Ngài chịu thất bại trước những thử thách ấy để đạt được mục đích. Còn chúng ta thì luôn có khuynh hướng khoe khoang, mà quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke ma túy cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó.
Khuynh hướng khoe khoang đó cũng là tính kiêu ngạo ẩn náu trong con người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tính kiêu ngạo cũng muốn bùng ra làm cho con người quên đi tình trạng thật của mình mà chỉ muốn vươn lên trên mọi người. Ma quỉ cũng chỉ là các thiên thần đã quên đi bản tính của mình mà đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng Lãnh Thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỉ vương. Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.
Hãy tỉnh thức và đề phòng.
Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi giống như những hàng giả bây giờ. Đàng sau những cám dỗ chúng gây ra sự ảo tưởng để đánh lừa người ta, để đưa người ta vào bẫy và lúc đó không còn thể ra được. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi hỏi phải lựa chọn. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn ấy không ?
Để nhận thức đúng đâu là cơn cám dỗ và sự nguy hiểm của nó như thế nào, ta phải hiểu nội dung của cơn cám dỗ gồm có ba thành phần : người bị cám dỗ là chúng ta, kẻ cám dỗ là ma quỉ, trung gian môi giới cám dỗ có thể là người khác hoặc một sự vật hoặc một cơ hội. Do đó, diễn tiến của một cơn cám dỗ dù đột ngột hay dai dẳng đều được chuẩn bị, hành động rất khéo léo với mục đích xúi dục con người đi đến chỗ phạm tội lỗi.
Phương cách dụ dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt vì nó không bao giờ xui ta phạm tội ngay, mà ban đầu chỉ những chiều theo đôi chút, không bao giờ dụ dỗ con người phạm ngay tội nặng, mà chỉ xúi giục phạm những tôi nhẹ, không bao giờ cám dỗ một lần rồi bỏ qua, mà là nhiều lần, lặp đi lặp lại cho đến khi ta chiều theo ý nó.
Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau : chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô, và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm họa sẽ xẩy đến.
Truyện : Bà Evà bị cám dỗ.
Tại Anh quốc, trong viện bảo tàng nghệ thuật Manchester Art Gallery có một bức tranh của họa sĩ Spencer Stanhop mang tựa đề là “Eve”. Bức tranh vẽ hình một con rắn đang thì thầm những tư tưởng vào tai bà Evà. Nhìn vào nét mặt sung sướng của bà Evà, bạn phải nói rằng bà rất thích những điều đang nghe. Bà đang bị mê hoặc bởi những tư tưởng đó. Bà không nhìn thấy con rắn, nhưng con rắn đang vươn tới quấn quít sau lưng bà, từ cành cây mang đầy hoa trái, nó cong mình cúi xuống thật thấp để khi bà Evà chấp nhận những tư tưởng này thì một trái táo đỏ chói rơi ngay vào bàn tay của bà đang mở ra đón nhận.
Mặc dù trong hình vẽ bà Evà chưa cắn trái táo, tuy nhiên qua nét mặt của bà, độc giả biết rằng bà đã vượt qua giới hạn cho phép. Sự kết hợp của những tư tưởng trong tâm trí bà và trái táo đỏ chói trong lòng bàn tay mở rộng quá quyến rũ đối với bà, vườn địa đàng đã bị mất. Sự cô đơn hiu hắt và mối ác cảm với Thiên Chúa đã bắt đầu. Một cách chính xác, người họa sĩ đã bắt gặp được giây phút của sự thật, đã nhận ra được chân lý qua điều được gọi là “cám dỗ” trong cuộc đời của bạn, và của tôi .
Phương thế chống cám dỗ.
Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô:”Phêrô ơi, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo ấy”(Lc 22,31). Những chước cám dỗ không phải là cách làm hại ta mà chỉ là cách thử thách ta xem ta có trung thành với Chúa không, nên Chúa để cho ma quỉ cám dỗ ta. Sức con người yếu đuối không thể thắng được các chước cám dỗ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Thánh Phaolô đã nói rất đúng “Omnia possum in eo qu me confortat”(Pl 4,13) : tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện:”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là “đừng cho phép chúng con bước vào” hay “đừng để chúng con ngã gục trước sự cám dỗ” (Giáo lý Công giáo số 2846). Đây là một lời cầu xin “trung thành” với Thiên Chúa và tuân giữ những điều răn của Ngài (2Tm 3,14; Mt 19,17; Ga 14, 23-24). Nó đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa và quyết định. Nó mang lại những giằng co nội tâm mà chính Đức Giêsu đã trải qua trong 40 đêm ngày bị thử thách (x. Lc 4,1-13).
Sau khi đã dựa vào ơn Chúa, để chiến thắng ma quỉ thời nay, không có cách nào khác là phải chiến đấu anh dũng và kiên cường, chống lại những dụ dỗ, phỉnh gạt lừa lọc của chúng. Chiến đấu bằng chính võ khí mà Đức Giêsu đã xử dụng : đó là tinh thần tuyệt đối vâng phục đường lối và thánh ý của Thiên Chúa ; đó là cách sống khiêm tốn, siêu thoát, coi rẻ của cải vật chất và danh vọng thế gian; đó còn là biết đánh giá cũng như hưởng thụ cuộc đời trong chừng mực mà Tạo hóa đã ấn định cho loài người : ăn chay là sống siêu thoát, từ bỏ, tiết độ; cầu nguyện là sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Về mục lục
.
THÁI ĐỘ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA KẺ TIN!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Phần đông giáo dân đều hiểu rằng Mùa Chay là khoảng thời gian ăn năn sám hối nên việc ăn chay, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức được mọi người đặc biệt quan tâm thực hiện. Hiểu như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu sâu xa và bao trùm hơn thì Mùa Chay chính là thời gian để các tín hữu thể hiện thái độ và hành động của mình với tư cách là kẻ tin.
Từ lời ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en (bài đọc 1) và lời của Thánh Phao-lô viết cho cộng đoàn tín hữu Ro-ma (bài đọc 2) đến lời nói và việc làm của Chúa Giê-su trong cuộc chiến đấu với Xa-tan (bài Phúc Âm) đều làm nổi bật thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Vậy chúng ta hãy đọc kỹ và suy niệm ba bài Sách Thánh để hiểu và có thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 26, 4-10): “Dân được chọn tuyên xưng đức tin”.
Ông Mô-sê nói cùng dân chúng rằng: “Thầy tư tế nhận của đầu mùa từ tay ngươi và đem đặt trước bàn thờ của Chúa là Thiên Chúa ngươi, và ngươi sẽ nói trước mặt Chúa là Thiên Chúa rằng: “Tổ phụ con là A-ra-mê-ô du mục đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như ngoại kiều với một ít người; và đã phát triển thành một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Các người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ và bắt chúng con làm việc nặng nhọc. Chúng con đã kêu cầu Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, và Chúa đã nghe lời chúng con, đã nhìn thấy cảnh thống khổ, cực nhọc và khốn cùng của chúng con. Chúa đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng, dùng những biến cố khủng khiếp và những dấu lạ phi thường mà dẫn chúng con ra khỏi Ai-cập. Chúa đưa chúng con đến đây, ban cho chúng con xứ này, một xứ chảy sữa và mật. Và vì thế, lạy Chúa, giờ đây con dâng tiến Chúa những của đầu mùa, hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho con”. Ngươi sẽ đem đặt nó trước mặt Chúa là Thiên Chúa ngươi và sấp mình trước tôn nhan Người.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 10, 8-13): “Kẻ tin tưởng tuyên xưng đức tin trong Chúa Ki-tô”.
Anh em thân mến, Thánh Kinh nói gì? Lời ở kề trong miệng và trong lòng ngươi. Đó là lời đức tin mà chúng tôi rao giảng. Vì nếu miệng ngươi tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai tin vào Người sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 4,1-13): “Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”
Khi ấy, Chúa Giê-su được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Gio-đan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giê-su đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giê-su đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giê-ru-sa-lem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giê-su đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 26,4-10) là những lời của ông Mô-sê giảng giải cho dân Ít-ra-en về cách họ phải đối xử với Thiên Chúa như thế nào cho tương xứng. Ông đã khéo léo nhắc lại cách vắn gọn lịch sử của dân và cách Thiên Chúa đã cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Đất Hứa. Nhờ có đất và sự quan phòng đầy thương yêu của Thiên Chúa mà dân mới có hoa mầu, lương thực, sữa và mật… Vì thế dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa của lễ đầu mùa là để tỏ lòng biết ơn và quy phục Vị Chúa Tể Vũ Trụ và Lịch Sử của mình.
Trong trích đoạn Đnl 26,4-10 trên, chúng ta khám phá ra nhiều nét đáng yêu trên dung mạo của Thiên Chúa: Trước hết Thiên Chúa là Đấng đã nghe thấy lời kêu than của những người bị áp bức. Kế đến Thiên Chúa là Đấng ra tay giải thoát họ. Sau cùng Thiên Chúa là Đấng đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình vào Đất Hứa. Trong biến cố Xuất Hành (cũng là Vượt Qua) của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa tự mạc khải vừa là Đấng yêu thương, vừa là Đấng quyền năng. Đó cũng chính là Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm, tôn thờ và sống cùng!
3.1.2 Bài đọc 2 (Rm 10,8-13) là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ nói về đối tượng của niềm tin của các Ki-tô hữu. Đối tượng đó là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. So với những người Do-thái thì các Ki-tô hữu chúng ta đã tiến thêm được một bước trên con đường tìm kiếm, gặp gỡ và hiểu biết Thiên Chúa. Hay đúng hơn là mạc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một giai đoạn mới: Thiên Chúa tự mạc khải trong/qua Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô. Để xứng đáng với hồng ân vĩ đại ấy của Thiên Chúa, các Ki-tô hữu vừa phải tin trong lòng vừa phải tuyên xưng ngoài miệng tức bằng lời nói và việc làm.
Trong trích đoạn Rm 10,8-13 trên, chúng ta nhận ra Lời Thiên Chúa rất gần chúng ta, ở ngay bên, thậm chí ở trong chúng ta. Hơn nữa Lời ấy đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta, làm bầu làm bạn và đồng hành với chúng ta, chuộc hết lỗi lầm của chúng ta để cho chúng ta được hòa giải và sống trong tình yêu của Cha. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng. Cách tuyên xưng thuyết phục nhất là sống theo giáo lý, mệnh lệnh, giới răn của Chúa.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 4, 1-13) là đoạn Phúc âm Lu-ca tường thuật cách sống động và tỷ mỷ về những cơn/đợt/chước cám dỗ mà Sa-tan đã bày ra với Chúa Giê-su trong hoang địa. Sa-tan tìm hết mọi cách để kéo Chúa Giê-su ra khỏi vòng thân mật và đường lối của Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su thì nhất định không nhượng bộ Sa-tan một ly một tý nào. Của cải, vinh hoa, phú quý, lạc thú, quyền lực…. đối với Người, chả là gì cả! Trước sau Chúa Giê-su chỉ nghe Lời của Cha, chỉ thực hiện chỉ thị của Cha, chỉ tìm kiếm những gì làm đẹp lòng Cha mà thôi!
Trong đoạn Phúc Âm Lc 4, 1-13 này, chúng ta thấy Chúa Giê-su quả là Con Chí Ái của Cha và là mẫu mực cho cách sống -từ suy nghĩ qua lời nói và đến hành động- quy phục Thiên Chúa với tất cả lòng yêu thương, trí sáng suốt và ý chí kiên cường. Chúng ta hãy học với Người để (a) không bị Sa-tan, thế gian và xác thịt lừa gạt hay gài bẫy và (b) để luôn được sống trong tình thân và sự quy phục Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là thề hiện thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã cứu thoát và hướng dẫn chúng ta từng giây từng phút. Chúng ta cứ nhìn vào Chúa Giê-su mà học theo: trong cơn cám dỗ của Sa-tan, Người đã kiên cường thể hiện thái độ và hành động của Người Con Chí Ái của Cha, Người Con mà Cha hết sức hài lòng.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng rất gần gũi và thân thương đã ra tay cứu thoát con dân Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Miến Đất Hứa.
Là Chúa Giê-su, Đấng đã chiến thắng thần dữ là xa-tan trong hoang địa để gắn bó với Đấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.
Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn thông hiệp với Chúa Cha và với Chúa Con (Chúa Giê-su) trong mọi công trình tạo dựng và cứu độ nhân loại.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Người
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem hàng ngày/tuần tôi sống với Thiên Chúa như thế nào:
* Tôi có cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng hết sức gần gũi, lắng nghe, ra tay cứu vớt và ban muôn vàn ơn cho tôi không?
* Tôi có thể hiện thái độ và hành động của kẻ tin vào Thiên Chúa hay tôi sống chẳng khác gì những người không biết, không tin Chúa?
* Tôi có chạy đến với Thiên Chúa và kêu cầu Người mỗi khi tôi bị áp bức, bóc lột, đau khổ không? Hay tôi chạy đến thày bói, tử vi, tướng số, cầu cơ, bùa ngải, người đời để cậy nhờ trong những lúc gặp khó khăn, bế tắc?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để giải thóat chúng tôi»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho loài người ngày hôm nay, nhất là cho những người bị áp bức, lầm than, cơ cực về vật chất cũng như tinh thần, để họ được Thiên Chúa đoái thương và giải thoát.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Khi anh (em) đến dâng của đầu mùa, tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Hội Thánh Công Giáo khắp năm châu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ và giáo dân để mọi Ki-tô hữu biết thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là Nguồn Mạch Mọi Ơn!
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn yêu mến việc đọc, học và suy niệm Lời Chúa để hàng ngày được Lời Chúa nuôi dưỡng một cách phong phú và bền lâu.
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang mòn mỏi chờ đợi được giải thoát khỏi cảnh bệnh tật, đói nghèo, bất công, áp bức, để họ cảm nghiệm được Lời Chúa là Lời hằng sống và linh nghiệm!
Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Về mục lục
.
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Bấy giờ Ðức Giêsu đáp lại:
“Ðã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi”(Lc 4,12).
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Cám dỗ xuất hiện cùng với sự có mặt của con người. Hẳn chúng ta không thể quên được chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỉ. Dân Do thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do, nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ muốn quay trở lại Ai cập để đươc no ấm.
A. Có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giê-su phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà con người thường gặp.
Cơn cám dỗ thứ nhất : thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giê-su ăn chay 40 đêm ngày, Chúa càm thấy đói. Đói là một hiện tượng sinh lý rất thường tình khi con người nhịn ăn nhịn uống lâu. Ma quỉ thấy vậy liền đề nghị Chúa biến đá thành bánh mà ăn.
Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình.
Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có rất nhiều và xem chừng có khuynh hướng ngày càng gia tăng và cũng vì thế mà cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỉ biết Đức Giê-su muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỉ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ và chịu chết. Chỉ cần quì xuống thờ lạy ma quỉ, vua quan, dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo.
Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực để thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
Cơn cám dỗ thứ ba : tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba-ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
B. Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỉ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỉ muốn xô đẩy con người vào chỗ làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh Chúa đã nâng cao phẩm giá con người lên.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỉ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỉ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà con người đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỉ và vì tham danh vọng mà đánh mất cả chính mình.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của ma quỉ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Chúa còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỉ đẩy con người vào sự nô lệ cho cuồng vọng, điên cuồng …đến chống lại cả Thiên Chúa, dùng Thiên chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. không còn đến với Thiên Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền nữa.
Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo là người luôn tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo là người luôn vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỉ hiểm độc vì nó tiến từng bước : Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xui giục con người nô lệ cho ma quỉ và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên chúa, không coi Thiên chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc hơn vì ma quỉ đã khéo léo bọc những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày xưa là như thế. Ngày nay cũng như vậy. Những cơn cám dỗ của ma quỉ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giê-su dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và nói “KHÔNG” ngay với những mời mọc ngọt ngào của ma quỉ dưới mọi hình thức.
Trong cuộc chiến một mất một còn này không có chỗ cho thái độ chần trừ, bàng quang, ngoại cuộc, thỏa hiệp ảo tưởng. Với sự tự do được ban cho, con người phải lựa chọn dứt khoát để nói lên thái độ của mình. Ở đây câu phúc âm “Không ai có thể làm tôi hai chủ” đòi hỏi một thái độ dứt khoát tuyệt đối trong nghĩa gốc cũng như trong nghĩa loại suy,
Trong kho chuyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này: Có một ông già kia vì thân phận cô thân cô thế nên quanh năm ngày tháng chỉ biết vui với hoa cỏ, không có ai để bày tỏ sự tình. Một hôm kia ông đi ra khỏi chốn quạnh hiu của mình, mong tìm được một ai đó cho có bạn.
Rất may ông gặp được một con gấu. Thân phận nó cũng cô đơn không kém gì ông. Thế là ông già bằng lòng rước nó về nhà cùng nhau sớm hôm sum vầy. Gấu hết lòng trung hậu, hằng ngày ra công giúp đỡ làm cho ông già đẹp dạ vui lòng.
Một hôm, ông già ngủ trưa. Gấu ta ngồi một bên đuổi ruồi đập muỗi. Có một con ruồi cứ bay đi bay lại rồi đậu trên mũi ông già. Gấu ta đuổi đi nhưng nó lại bay trở lại và đậu trên đó nữa. Gấu hết sức giận, thấy bên cạnh có một viên đá bèn bê nó lên rồi rình mà ném một cái để giết con ruồi chết đi. Thế nhưng đâu có dè là…Con ruồi đã không hề hấn gì vì nó đã vội bay đi trước và hòn đá kết thúc cuộc đời của ông già trước sự ngỡ ngàng của gấu!
Chơi dao có ngày đứt tay, đùa với lửa có ngày gây nên hỏa hoạn: Con người biết rất rõ đó là những bài học và đã có biết bao thí dụ “xương máu” để chứng minh, thế nhưng vẫn còn không ít người sạ lầy ngay trên bánh xe của người đi trước.
Lạy Chúa, trong khi báo trước cho chúng con rằng “Maquỉ muốn sàng sảy chúng con như người ta sàng gạo”, và “hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt vốn yếu đuối”, Chúa muốn chúng cơn ý thức rõ cuộc chiến dai dẳng và khó khăn đang chờ đợi chúng con. Đồng thời, Chúa cũng cho chúng con biết, trong cuộc chiến đấu này, chúng con không chiến đấu một mình.
Xin cho chúng con khi được củng cố bằng niềm tin mạnh mẽ để khi buớc vào cuộc chiến đấu với chính mình, một cuộc chiến gay go và nguy hiểm nhất trên đời này chúng con sẽ không phải hoảng sợ vì Chúa luôn đồng hành với chúng con để giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Về mục lục
.
CẠM BẪY
Trầm Thiên Thu
Có nhiều thứ cạm bẫy trong cuộc sống hằng ngày. Với nghĩa đen, đơn giản như xen cán đinh hoặc chính mình đạp vào đinh. Với nghĩa bóng là những thứ cám dỗ về mọi thứ: danh vọng, tiền tài, nhục dục, tự ái,… Cạm bẫy là chước cám dỗ – hữu hình và vô hình. Sự cám dỗ là lòng ham muốn nổi lên mạnh đến mức có thể làm cho chúng ta chịu thua, sa ngã. Cơn cám dỗ có thể do ma quỷ, do người khác (thế gian), do chính mình (xác thịt) – gọi là ba thù. Cơn cám dỗ tìm mọi cách quyến rũ người ta làm việc gì đó không hay, không tốt, lén lút, bất chính.
Mặc dù định nghĩa như thế nào thì vẫn cho thấy rằng sự cám dỗ có động lực xấu, trái với luân thường đạo lý, mang tính liên đới là gây hậu quả xấu cho chính mình và người khác. Cạm bẫy sập bất cứ lúc nào đối với bất cứ ai “va chạm” vào nó. Cám dỗ cũng không phân biệt ai – nam, phụ, lão ấu, dân thường hay người có chức vị.
Cám dỗ rất đa dạng và có nhiều mức độ, càng ngày càng tinh vi nên càng khó nhận ra, do đó càng cần cảnh giác cao độ hơn. Ngày xưa, khi suy nghĩ về những cơn cám dỗ của đời thường, cụ Tú Xương đã phải “gãi đầu”, vừa thở dài vừa thốt lên:
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà
Những thứ lăng nhăng mà lại có thể gây rối lằng nhằng, mấy thứ nho nhỏ mà lại không hề nhỏ chút nào. Cái bẫy không lớn mà làm đau điếng. Can đảm chống lại cơn cám dỗ là điều khó thực hiện, và chừa được tật xấu nào đó cũng thật là nhiêu khê, chẳng ai dám nói mạnh. Chỉ trong tích tắc cũng đủ người ta phải ân hận cả đời. Cũng vì thế mà chúng ta cần sự cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau. Đó cũng là một dạng “ăn chay” vậy.
Có nhiều thứ cần dâng tiến Chúa, đặc biệt vào dịp Mùa Chay. Đã đành là dâng nhiều thứ, nhưng có một thứ mà có lẽ ít người dâng, đó là tội lỗi của chúng ta. Dâng cho Chúa cái khốn nạn của mình để xin Ngài biến đổi chúng ta nên khí cụ tốt lành theo ý Ngài. Về sản phẩm đầu mùa, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh em và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Bấy giờ, anh em sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi” (Ðnl 26:4-6). Kẻ thù nào cũng đáng sợ, nhưng kẻ thù đáng sợ nhất không ai xa lạ, mà là chính mình – loại nội gián nguy hiểm nhất.
Kinh Thánh cho biết rằng lúc đó, họ đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ; và Ngài đã nghe tiếng kêu xin của họ, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức mà họ phải chịu. Vì thế, chính Ngài đã đích thân “dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng để đưa họ ra khỏi Ai-cập” (Ðnl 26:8). Chắc chắn Thiên Chúa không bỏ rơi ai bao giờ, chỉ tại người ta không cần đến Ngài mà thôi.
Thật vậy, họ không chỉ được Thiên Chúa cứu thoát, mà còn được ban cho những thứ ngoài sức tưởng tượng: “Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, ĐẤT TRÀN TRỀ SỮA VÀ MẬT. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Ðnl 26:9-10). Đó là động thái của lòng biết ơn, một động thái rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật, đối với cả Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa đại lượng và hào phóng hơn chúng ta tưởng, đôi khi chúng ta chưa mở lời cầu xin mà Ngài đã ban cho dư dật rồi. Vậy mà đôi khi chúng ta vẫn vô ơn thì quả là tệ thật!
Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2). Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10 :12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), ngay từ trong suy nghĩ, nhưng bổn phận chúng ta vẫn phải chân thành cầu nguyện. Nếu biết tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ có lợi nhiều: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91:10-12). Ai “sống khôn” như vậy thì chỉ có lợi mà thôi – và tất nhiên cũng… “chết thiêng” đấy.
Thật vậy, chúng ta không chỉ lợi ích về tinh thần mà còn lợi ích cả về thể lý: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:13). Đó là điều chắc chắn, vì chính Đức Chúa đã phán hứa: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Thật là trên cả tuyệt vời! Ngày nay vấn đề ngộ độc nhiều, rất dễ bị, nhưng chắc chắn Ngài sẽ ngăn chặn hoặc chữa lành đúng lúc, kịp thời.
Vừa đặt vấn đề vừa giải quyết vấn đề, Thánh Phaolô nói: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). Lời Chúa được Giáo Hội quý trọng như Thánh Thể, nhưng cả hai đều đòi hỏi người ta phải có đức tin minh bạch và mạnh mẽ – nếu không thì sẽ dễ lệch lạc. Thánh nhân giải thích: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10:9-10). Thật lạ, người Việt chúng ta cũng có kiểu nói tương tự: “Có đầy mới tràn”. Lòng có thế nào thì mới nói ra, sẽ chẳng giấu được nếu bụng dạ thế này mà lời nói thế kia. Chắc chắn không thể giấu giếm được!
Rạch ròi và mạnh mẽ, Kinh Thánh minh định: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng” (Rm 10:11). Vì thế, không có sự khác biệt giữa người này với người kia, dân tộc này hay dân tộc nọ, người lượm ve chai hay ông giám đốc, giáo sĩ hay giáo dân,… vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Ngài. Tắt một lời: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:13). Đó là lời hứa tuyệt đối. Thiên Chúa không bao giờ sai lời!
Là người rất cẩn thận tra cứu khi viết Tin Mừng, Thánh sử Luca kể: Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần DẪN ĐI TRONG HOANG ĐỊA và CHỊU QUỶ CÁM DỖ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, theo nhân tính, Ngài cũng cảm thấy đói. Bởi vì theo nhân tính, Chúa Giêsu hoàn toàn giống chúng ta – chỉ trừ tội lỗi.
Hẳn là ai cũng đã ít nhiều kinh nghiệm rằng vật chất là một trong những thứ cám dỗ mạnh nhất, đặc biệt là thực phẩm khi người ta đói ngấu. Thằng Bờm không cần gì khác ngoài nắm xôi vì nó đang đói lắm. Chẳng vậy mà người ta có thể liều mạng mà cướp giật thực phẩm của người khác và ăn ngấu nghiến, danh dự lúc này cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Điều đó cũng cho thấy bản năng sinh tồn của con người rất mạnh. Thế nhưng ở Việt Nam lại có một thực tế phũ phàng: Vì đói mà giật mấy ổ bánh mì thì bị kết án tù vài năm, còn những kẻ giàu có nhờ khéo cướp công khai thì cứ phè phỡn, ung dung. Thật là bất công và khốn nạn quá!
Ma quỷ rất tinh ranh, hôm đó nó nói với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Đúng là ngu mà chảnh, điếc không sợ súng, cùi không sợ lở. Nó tưởng bở, nhưng bị Đức Giêsu “phang” ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4). Trứng không thể khôn hơn vịt được!
Đúng là ma quỷ, rất ma mãnh và quỷ quyệt. Thua keo này, nó tìm cách bày keo khác. Nó đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó “dụ” Ngài: “Tôi sẽ cho ông TOÀN QUYỀN CAI TRỊ cùng với VINH HOA LỢI LỘC của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4:6-7). Nhưng Đức Giêsu nói thẳng ngay: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và PHẢI THỜ PHƯỢNG MỘT MÌNH NGÀI mà thôi” (Lc 4:8). Ma quỷ chỉ là thụ tạo, nhãi ranh mà đòi dạy khôn sao?
Chúng ta cũng thường xuyên gặp những “bả” liên quan vinh hoa và lợi lộc trong cuộc sống đời thường, thế nên kẻ nào “yếu bóng vía” liền dính líu vào vụ tham nhũng này, hối lộ kia, hoặc làm giấy tờ khống để lừa bịp và ăn chặn của người khác. Trong các đoàn thể cũng không phải không có “bả” này, vì thế mà người ta hay “lên mặt” vì có một chức danh nào đó, vì thế mà người ta muốn “ra lệnh” hoặc muốn chứng tỏ mình là người “hét ra lửa, mửa ra khói”. Ngay trong các giáo phận, giáo xứ, chủng viện và tu viện cũng không loại trừ! Nói chung, ai cũng muốn mình phải là “số dzách” (số một, number one). Nhưng liệu có thể làm gì ích lợi cho người khác, hay chỉ là “con số không” to lớn và rỗng tuếch?
Máu ác, gien độc nên ma quỷ luôn kiêu ngạo. Sau hai lần thua cuộc, hẳn là nó rất tức giân nên nó lại lập mưu khác. Nó đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi “khoe mẽ” và “nổ tung” tới chín tầng mây: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). Nhái bén mà to gan thật. Chỉ là nhãi ranh mà dám thách thức Thiên Chúa. Bẩn phải lau, sâu phải triệt, rác phải bỏ, cỏ phải nhổ, quỷ phải diệt. Đó là việc cần làm và phải làm ngay!
Cũng như hai lần trước, Đức Giêsu nghiêm nghị nói ngay lập tức: “Đã có lời rằng: Ngươi CHỚ THỬ THÁCH Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4:12). Vô phương. Thế là quỷ đành chịu“bó tay”, hết cách xoay xở hòng cám dỗ Ngài. Nó lủi thủi bỏ đi như chó cụp đuôi chạy vì sợ, nó “cay cú” lắm, nên nó vẫn rắp tâm mưu mô ranh mãnh là “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13). Nó không làm gì được Con Người Giêsu nên nó vẫn tìm mọi cách giăng bẫy để bắt các Kitô hữu, bẫy cơ bản nhất là thói kiêu ngạo, từ loại bẫy này sẽ sinh ra đủ thứ bẫy khác.
Ba kẻ đại thù là ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Cuộc đời không hết các loại cạm bẫy, cuộc sống cũng không lúc nào hết các dạng cám dỗ trên đường lữ hành trần gian này. Cám dỗ như những con sóng ngoài biển khơi, không sóng lớn thì sóng nhỏ, không sóng cồn thì sóng ngầm, chứ biển chẳng bao giờ hết sóng, ngay cả những lúc chúng ta thấy biển có vẻ êm ả nhất. Vì thế, luôn cần phải tỉnh thức và cầu nguyện: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14:38).
Ngày nay càng phải cầu nguyện nhiều hơn vì cạm bẫy tinh vi hơn nhiều, ẩn náu khéo hơn, cụ thể là internet và các trang mạng xã hội như twitter, facebook,… Chúng cũng gây nghiện, và mức độ nguy hiểm cũng chẳng khác so với ma túy. Có “ngáo đá” thì cũng có “ngáo net”. Sự an toàn bị đe dọa và khó thoát hơn, thế nên càng phải cẩn trọng và cảnh giác cao độ hơn trước!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con đủ sức mạnh để thoát khỏi mọi cạm bẫy cuộc đời, quyết tâm chống lại các chước cám dỗ – mọi nơi và mọi lúc. Xin đánh thức chúng con để không ngủ mê và sáng suốt hành động theo hướng dẫn của Thần Khí. Lạy Đại Sư Giêsu, Ngài đã chiến thắng mọi mưu mô xảo quyệt của ma quỷ để chúng con noi gương, xin giúp chúng con vững bước theo Ngài lên tới Can-vê. Chúng con cầu xin và cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Về mục lục
.
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài 40 ngày.
Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất Hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Người Việt Nam cũng thường nói “Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”. Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn tín thác vào Chúa Cha.
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.
– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là “Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ”, để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: ” Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b); ” Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Chuá Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.
Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa ơn ban của Thánh Thần và đã khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24); “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5); “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2Tm 1,7).
Chúa Giêsu đã dùng lời Thánh Kinh để thắng Satan. Muốn vượt thắng mọi cám dỗ, chúng ta phải yêu mến Lời Chúa, đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa. Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi: “Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu” (Số 3).
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.
Về mục lục
.
CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Lm. Phaolô Nguyễn Anh Quốc
Kính thưa cộng đoàn
Từ sau khi nguyên tổ loài người bị sa ngã chước cám dỗ thì tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Và có thể nói được rằng: cám dỗ đã trở nên một hệ quả tất yếu của con người khi chúng ta bước vào trần gian này. Dù muốn hay không chúng ta đều phải chịu những chước cám dỗ trong đời sống. Chỉ có khác chăng là chiến thắng hay gục ngã mà thôi. Ađam và Evà là nguyên tổ của loài người đã bị gục ngã chước cám dỗ. Còn Đức Giêsu được xem là Ađam mới, Ngài đã chiến thắng mọi chước cám dỗ. Vậy thì nguyên nhân do đâu mà nguyên tổ đã gục ngã chước cám dỗ? Còn Đức Giêsu Ngài đã dựa vào đâu để mà chiến thắng mọi cám dỗ?
Trước hết, dựa vào sách Sáng thế chúng ta biết được rằng sau khi tạo dựng nên muôn loài muôn vật và con người thì Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn địa đàng để cai quản, chăm sóc và hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Thế nhưng hạnh phúc ấy không được dài lâu khi mà nguyên tổ của loài người bị sa chước cám dỗ. Với sự tinh ranh của ma quỷ nó đánh vào bản năng của con người làm cho con người tỏ ra nghi ngờ và mất niềm tin vào Thiên Chúa. Bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, nguyên tổ sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị muốn ngang hàng với Thiên Chúa. Ađam và Evà đã bị trúng kế và gục ngã một cách thảm thương chước cám dỗ của ma quỷ khi làm theo sự xúi dục của nó mà quên đi lời căn dặn của Thiên Chúa, không sống theo lời Chúa dạy.
Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay giới thiệu Chúa Giêsu là Ađam mới, Đấng chiến thắng mọi chước cám dỗ. Tin Mừng thuật lại cho chúng ta biết là sau bốn mươi đêm ngày ăn chay trong sa mạc Chúa Giêsu cũng bị Satan cám dỗ. Các cơn cám dỗ Chúa Giêsu chịu cũng giống như Ađam và Evà. Ma quỷ cũng tấn công vào bản năng sinh tồn, vào việc gieo rắc sự nghi ngờ với Chúa Cha và bản năng thống trị quyền lực. Nhưng Chúa Giêsu đã không gục ngã mà Ngài đã chiến thắng. Tất cả là nhờ vào việc “lắng nghe và thực thi lời của Chúa Cha”. Thật vậy, Đức Giêsu sẽ không thể thắng được các cơn cám dỗ nếu Ngài chỉ qui hướng về mình. Ngài sẽ thua ma quỉ nếu Ngài tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh. Ngài sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Ngài sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỉ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, Ngài đã không làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Ngài, vũ khí sắc bén của Ngài chính là: “sống theo Thánh ý Cha”. Đức Giêsu đã cương quyết tuân phục thánh ý Chúa Cha nên đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ. Khác với Ađam và Evà, Đức Giêsu, Ađam mới, đã biết lựa chọn đúng và kết quả là đem lại ơn cứu rỗi và sự sống cho loài người.
Kính thưa cộng đoàn,
Cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, lôi cuốn và rất khó chống cự. Cám dỗ gắn liền với cuộc đời chúng ta mọi nơi mọi lúc. Điều quan trọng là chúng ta chiến thắng hay quỵ ngã. Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng muốn là người chiến thắng, muốn thành công, muốn đạt được kết quả mà mình mong đợi, nhưng bằng cách nào? Chính lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay qua mẫu gương của Chúa Giêsu gợi mở cho chúng ta điều đó. Chúa Giêsu đã chiến thắng chước cám dỗ của ma quỷ nhờ vào việc “sống theo Thánh ý Cha, sống theo lời Cha”. Vì thế, bước vào mùa chay thánh một lần nữa Chúa mời gọi chúng ta cần chiêm ngắm suy niệm Lời Chúa mỗi ngày trong nguyện cầu, để Lời Chúa chạm vào lòng mình, biến đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta sao cho phù hợp với nếp sống của Chúa Giêsu Kitô. Như vậy chúng ta mới có thể can trường vượt qua những thử thách của ma quỷ. Ước gì mỗi khi bị cám dỗ chúng ta luôn biết tìm đến với Chúa để nhờ ân sủng Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng được. Amen.
Về mục lục
.
QUỶ MANG HÌNH NGƯỜI
Lm. Alf Nguyễn Công Minh
Năm 1971, báo chí có đăng tải một câu chuyện là lạ có thật mà cũng khó tin như thế này: Ở Vineland bang New Jersey, một thanh niên 21 tuổi tên là Mike đã làm một nghi lễ tôn thờ Satan bằng cách bóp nát 2 con chuột cống trong 2 bàn tay của mình và lấy máu bôi lên áo rồi yêu cầu 2 người bạn của mình trói tay chân của anh ta lại rồi thảy xuống nước. Mike tha thiết thuyết phục 2 người bạn đẩy anh ta xuống hồ nước để nhìn xem anh ta vùng vẫy và chết như thế nào. Tại sao lại như vậy ?
Thưa, Mike là một người thờ ma quỉ. Anh ta bị ám ảnh bởi tư tưởng quỉ quái này: là nếu anh bị sát hại, thì sẽ tái sinh thành vị tướng chỉ huy 40 đạo quân ma quỉ ? Chúng ta nghe chuyện, cho anh chàng Mike này là mát là hâm là chạm điện, khi không lại thờ ma quỉ với tư tưởng quỉ quái ! Nhưng chúng ta đừng quên tại Hoa Kỳ, một số người đang quay trở về thờ ma quỉ. Một khu phố ở San Francisco có ngôi đền thờ Satan, với hơn 10 ngàn người lui tới vái lạy…
Bộ mặt của ma quỉ: đen thui (đối với người da đen : quỉ màu trắng !), có sừng, có đuôi, gớm ghiếc mà vẫn có người thờ. Hành động thờ nó cũng ghê rợn, máu me, quái ác, vậy mà cũng có kẻ thực thi, đi theo. .. huống gì là ma quỉ khôn ngoan lắm, “ma nó quỉ lắm,” “quỉ nó ma lắm” (chỉ thua Đức Chúa Trời một chút !), nó không dại gì xuất đầu lộ diện nguyên hình xấu xí của nó, mà nó ẩn mình dưới nhiều bộ mặt đáng yêu, như thế thì sức mấy ta không tôn thờ. Trong Tây Du Ký, yêu quái xuất hiện như những nàng tiên cám dỗ Đường Tăng. Trong Thạch Sanh – Lý Thông: yêu quái xuất hiện như chàng thanh niên giỏi giang tuấn tú, để cướp cho được công chúa mỹ miều. Và còn muôn vàn bộ mặt đáng yêu đáng quý khác như vàng bạc lấp lánh, quyền thế oai linh, danh vọng tột đỉnh, mà quỉ ma núp bóng, ẩn mình, che mặt để ta phải sụp lạy.
Trong muôn vàn bộ mặt đó, hôm nay chỉ nhắc đến một bộ mặt : đó là bộ mặt “người” : vì Mùa Chay, mùa nhắc chúng ta đến Phép Rửa mà Công Đồng đã ra lệnh phải làm nổi bật trong 40 ngày này.
Ma quỉ ẩn hình dưới dạng con người để nhân loại phải thờ lạy. Khi người ta không thờ lạy Thiên Chúa, thì người ta phải tìm một cái gì khác để lạy lục. Satan đã khôn ngoan tìm giúp ta: con người. Con người có 3 mặt : con người nói chung (nhân loại) ; con người là một người nào đó; con người là chính mình.
1.- Quỉ dưới bộ mặt con người nói chung: chúng ta thấy rõ lắm. Càng khoa học, càng tối tân, con người càng nghĩ rằng chính con người sẽ trả lời tất cả mọi đòi hỏi, thắc mắc của con người: máy tính điện tử do con người sáng tạo, mạnh như Deep Blue của hãng IBM sẽ trả lời hết các câu hỏi, kể cả câu hỏi “có Chúa không, có đời sau không ?”
Điển hình cho việc thờ lạy loài người là bài xã luận sau lần đầu tiên con người phóng thành công vệ tinh Spoutnik lên không gian, đưa Gagarin vào quĩ đạo. Bài xã luận coi đây là ngày thứ 8 của công cuộc sáng tạo : “Chúng tôi đã hoàn tất công cuộc sáng tạo. Chúng tôi còn qua mặt công cuộc sáng tạo nữa. Vệ tinh chúng tôi phóng lên đang chạy vòng quanh trái đất, tuân theo ý muốn của con người. Từ nay không ai còn có thể nói được có một Thiên Chúa đã điều khiển vũ trụ trăng sao.”
Ta không bình luận bài xã luận đó. Nhưng nêu lên để cho ta thấy một điển hình muốn nâng con người lên hàng Thượng đế, có khi hơn cả Thượng Đế !
Các nhà khoa học ở Trường Đại học Tyne (Anh) tuyên bố họ đã sẵn sàng trong việc tạo tinh trùng từ tủy xương phụ nữ. Nghĩa là, trong tương lai gần, phụ nữ không cần tinh trùng của đàn ông để sinh con. Bước đột phá này sẽ mở đường cho những cặp “vợ chồng” đồng tính nữ có con một cách tự nhiên
Song song, các đôi “vợ chồng” đồng tính nam cũng hoàn toàn có hy vọng tạo con từ bản thân họ. Các nhà khoa học nói trên cũng đang nghiên cứu tạo trứng từ tủy xương của đàn ông. Trứng này sẽ được phối với tinh trùng của người bạn đời đồng tính rồi thuê tử cung của một phụ nữ để sinh con.
2.- Quỷ dưới dạng một con người nào đó: rõ ràng, cụ thể: người khác. Ta nói thờ lạy, chứ không chỉ tôn kính, coi trọng. Thờ lạy là coi người khác đó chính là thần tượng của mình. Thần tượng chỉ huy (viễn khiển: remote control) tất cả lời nói, hành động của ta và ta làm gì nói gì cũng qui về người đó, vì người đó. Hitler của đệ nhị thế chiến, nay nhiều bạn trẻ còn muốn làm sống lại. Ngày nay cũng có những kẻ thờ lãnh tụ. Có thời Lý Tiểu Long là thần tượng của võ thuật phim ảnh, Marađona của bóng đá, Madonna của ca hát một thời, Brigitte Bardot minh tinh cũng từng là thần tượng lắm kẻ theo. Ở Việt-Nam ta có các ca sĩ mà ta kết làm thần tượng, minh tinh tài tử Hàn Quốc mà ta không thấy mặt là chịu không được: thế là hớt tóc cho giống, nhuộm tóc cùng màu, quần áo y chang, nói đúng từng chữ. Hình ảnh thần tượng ta phóng to đặt lên bàn…thờ, dán trong buồng ngủ để trước khi nằm nhìn thấy mà gặp trong mơ. Đi đường mang theo trong ví, có hình thần tượng để ngắm mà lấy sức mạnh…
3.- Quỷ là chính ta. Đây đích thị là kiêu ngạo, ta thờ lạy ta, ta tự hào về mình. Một trong bảy mối tội đầu và cũng là tội nguyên thuỷ như Adong và Eva nguyên tổ loài người.
Adong và Evà muốn biết tất cả (thiện, ác) như Thiên Chúa, muốn làm chủ mình, một mình. Về mặt này, ma quỉ tinh vi lắm, đến độ mình thờ mình mà không biết.
Một người học giỏi cậy mình thông minh. Một người có tài cậy mình tháo vát. Một anh giàu cậy mình lắm của. Một cô duyên dáng cậy mình dễ thương, một cô đẹp đẽ ỷ mình là Tây Thi, một người quyền thế coi mình là tất cả. Ta thấy lặp đi lặp lại chữ “mình.” Mình là nhất, tìm cho ra được một cái nhất nào đó để thờ mình. Nếu không đẹp, thì có duyên nhất ; nếu không có duyên nhất, thì giàu nhất ; nếu không giàu nhất thì đạo đức nhất ; nếu không đạo đức nhất, thì ta đành đưa mình lên hàng khiêm nhường nhất. Mà mình là nhất thì Chúa phải nhì ! Nhất vợ thì trời phải nhì.
Có con quỉ kia cám dỗ nhà vua. Nó thấy nhà vua ngủ dậy trễ, nó đến cám dỗ bằng cách lay nhà vua dậy để đọc kinh. Tại sao vậy ? Bởi khi nhà vua dậy đúng giờ đọc kinh, thì tự hào tự cao, còn nhà vua dậy trễ, hối hận, xin tha, Chúa tha, là quỉ thua xa rồi. Chúa ghét kẻ kiêu ngạo, và yêu thương kẻ khiêm nhường. Mà nhiều khi ta nghĩ ta khiêm nhường nhất, lại chính lúc ta kiêu ngạo số một.
Quỉ cám dỗ để ta thờ ta mà ta không biết : nó núp bóng dưới một cái nhất nào đó của ta để ta dễ vênh vang…
Không biết Chúa Giêsu xưa được quỉ hiện ra dưới hình dạng nào để cám dỗ về của ăn, về giàu có, về quyền cao, chứ ngày nay, quỷ thường hiện hình dưới dạng con người để cám dỗ ta, dưới ba dạng người: người nói chung; một người cụ thể, và người đó chính là ta. Ta khó thoát đi đâu.
Tuy nhiên ta cũng có một vũ khí thắng quỉ : qui về Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, chứ không phải hình ảnh quỉ ma. Vì thế con người là nhất : đúng. Ngay từ đầu thuở sáng tạo, con người là nhất. Khi tổ tông phạm tội Chúa không bỏ mặc nhưng đã tái sáng tạo qua công trình cứu chuộc của Đức Giêsu. Sáng tạo đã kỳ diệu, tái tạo càng diệu kỳ hơn. Nếu sáng tạo con người là nhất thì tái tạo là nhất hơn nữa. Mà Chúa tái tạo, tái sinh ta qua Bí tích Thánh Tẩy (trong đêm vọng Phục sinh chúng ta long trọng cử hành hoặc nhớ lại). Vậy thì : Nếu quỉ cám dỗ tôi: Minh ơi, mày là nhất đó. thì tôi không ngần ngại gì mà không dĩ độc trị độc, tương kế tựu kế mà trả lời với quỉ rằng : “OK, sure, đúng thế, chính tao là nhất, là năm bơ oăn. Nhưng đó là do Chúa cho. Chúa làm người để người làm Chúa. Mà làm Chúa là nhất !”
Qua Phép Rửa tái sinh, ta được sinh lại làm con Chúa Cha, làm em Chúa Con, đồng thừa tự Nước Trời với Chúa Kitô (sunkleronomos).
Không phải chỉ hồn làm con Chúa, mà cả xác lẫn hồn đều được cứu, được làm con Chúa, được cùng đồng phục sinh với Chúa Kitô.
Ơn này lớn lao quá: Nếu vênh vang là công ta mà có, ta đã lọt bẫy quỷ ma. Nếu ta hướng về Chúa Cha mà cảm tạ, thì đó chính là vũ khí thắng ma quỷ. Chúa nhận ta làm con qua Phép Rửa tái sinh mà mùa chay là mùa nhắc ta nhớ lại vậy. Amen
Về mục lục
.
CHÚA GIÊSU BỊ MA QUỶ CÁM DỖ
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Bị cám dỗ là thân phận của con người.Ai cũng đã một lần hay nhiều lần bị cám dỗ trong cuộc đời.Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ.Người muốn chia sẻ kiếp sống con người, muốn nên đồng số phận với con người, với loài người. Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ để nêu gương cho con người noi gương bắt chước Người.
Trong Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu bị ma quỷ cám dỗ về cả ba nhu cầu cốt yếu, căn bản của con người, của mọi người.Cám dỗ thứ nhất là cái đói. Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã bị thử thách nặng nề về cơn đói, họ đã phàn nàn, than trách, Thiên Chúa đã ban Manna va Chim cút để nuôi sống họ. Cơn đói,cơn khát vẫn là những cám dỗ hằng ngày trong đời sống của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Hầu như con người hằng ngày luôn lao vào việc kiếm miếng cơm, manh áo, kiếm của ăn của để, nhiều người quên còn có lương thực quan trọng hơn, căn bản, cốt thiết hơn là Bánh trường sinh, lương thực nuôi sống con người. “ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “ ( Lc 4,4) Bánh ăn hằng ngày là nhu cầu thiết yếu, nhưng đó mới chỉ là mức độ sơ đẳng, điều cần hơn là Lời của Chúa và Nước Thiên Chúa mà chúng ta phải đặt ưu tiên số một cho cuộc đời.
Cám dỗ thứ hai: tôn thờ thần linh là nhu cầu tôn giáo. Dân Do Thái xưa bị cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng. Đó là cám dỗ đầy tham vọng của địa vị, quyền lực thế gian. Người Do Thái luôn muốn Đấng Cứu Thế phải là người đánh Đông dẹp Bắc, giải phóng dân tộc họ khỏi ách nô lệ của người La Mã. Họ suy nghĩ theo kiểu trần gian, Đức Giêsu đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên tôi tớ của Thiên Chúa ( Ga 13,1-20 ).Con người sống ở trần gian này luôn muốn thống trị, áp đặt ý muốn của mình trên kẻ khác. Đây là cơn cám dỗ mạnh mễ về quyền lực, địa vị, của cải, tài trí, danh vọng, sắc đẹp. Chúa Giêsu nhắc nhở mọi người, mọi Kitô hữu muôn thời, muôn thuở: ” Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người “ ( Lc 4, 8 ).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi chứng minh, đòi những dấu lạ, điềm thiêng, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ. Đây là cơn cám dỗ tự cất nhắc mình, tự kiêu, tự mãn để làm những phép lạ ngoạn mục để chứng tỏ ta đây có uy, có quyền, có địa vị vv…Đây cũng là cơn cám dỗ ngặt nghèo nhất, nặng nề nhất, cám dỗ muốn loại trừ cái chết: ” Lạy Cha, nếu có thể được thì xin tha cho con khỏi uống chén này “ ( Lc 22,42 ).
Vâng, Chúa Giêsu đã không tự dùng quyền năng của mình để chấp nhận chiều theo những cám dỗ mà Satan đã bầy ra để kéo Người vào vinh quang mau qua, chóng tàn ở thế gian này. Người đã vượt thắng mọi cám dỗ, mọi thử thách và quyết tâm, can đảm, quảng đại thuận theo thánh ý Thiên Chúa Cha, và để Thánh Thần hướng dẫn.
Đức Giêsu đã chiến thắng tất cả mọi cám dỗ, Người vượt thắng cả cái chết và trên Thập giá Người đuợc tôn vinh vì đã chiến thắng tử thần. Người Kitô hữu, qua Bí tích rửa tội và Bí tích Thêm sức, đã thuộc về Chúa, nhưng họ dê dàng sa ngã vì do hậu quả của tội nguyên tổ, tội riêng mình làm, con người dễ hành động theo bản tính tự nhiên,thích chạy theo những ham hố, những đam mê trần tục: của ăn,tiền tài, địa vị, danh vọng, sắc đẹp và nhiều bả phù hoa khác mà quên đi sự dẫn dắt của Thánh Thần và sự soi sáng,thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Mùa Chay lại về,đây là cơ hội thuận tiện, là dịp tốt để mỗi Kitô hữu đổi mới đời sống, hoán cải, canh tân, lắng nghe lời Chúa mời gọi và tuân theo, phục vụ theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Năm nay cũng là năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi chúng ta đồng hành với các gia đình gặp khó khăn. Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình đang gặp khó khăn luôn ý thức gia đình do Chúa thiết lập, luôn phải giữ sự trong sáng và bản chất của gia đình, đồng thời mọi gia đình luôn nhìn vào mẫu gương của gia đình Nazarét để sống sống đạo đức, thánh thiện hầu góp tay vào công cuộc cứu độ nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi chúng con để chúng con can đảm,quảng đại bước theo con đường của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Kể lại ba cám dỗ mà Satan đã bầy ra để giăng bẫy Chúa Giêsu?
2. Chúa Giêsu đã làm gì để vượt thắng những cám dỗ gặp phải?
3. Đối với các bạn, cám dỗ nào là nguy hiểm nhất ?
4. Muốn thắng những cám dỗ đang bủa vây chung quanh chúng ta. Chúng ta phải làm gì ?
5. Tại sao Chúa Thánh Thần lại quan trọng trong việc chống tả các cơn cám dỗ ?
Về mục lục
.
MÙA CHAY: THỜI GIAN ÂN SỦNG VÀ THỬ THÁCH
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay. Lời Chúa ngày hôm nay tập trung vào một chủ đề chính, đó là, tuyên xưng Thiên Chúa là Chúa duy nhất mà chúng ta tôn thờ. Trong bài đọc 1, dân chúng nói lên lời tuyên xưng của mình vào Đức Chúa, Đấng đã chọn họ làm dân riêng của Người, đã giải phóng họ khỏinô lệ Ai Cập và đưa họ vào đất mà Ngài đã hứa cho Ápraham và con cháu ông đến muôn đời. Vì vậy, để tỏ lòng biết ơn, họ dâng lên Đức Chúa những hoa màu ruộng đất họđã thu được: “Anh em sẽđặt lễ vật trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, rồi anh em phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em”(Đnl 26:10). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: Mỗi khi đến tôn thờ Đức Chúa, chúng ta không đến với đôi bàn tay trắng, nhưng với lễ vật. Vậy, chúng ta có gì để dâng cho Chúa trong thánh lễ hôm nay không?
Về phần mình, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 kêu gọi tín hữu Rôma đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.Tuy nhiên, điều quạn trọng mà Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh làsự gần gũi của lời Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). LờiChúa khơi dậy đức tin. Nhưng đây không phải là một đức tin chết, đức tin không cóviệc làm, nhưng là một đức tin sống động. Thánh nhân diễn tảđiều này qua mối tương quan không thể tách rời giữa “tin trong lòng” và “tuyên xưng ra ngoài miệng”: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽđược cứu độ.Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10:9-10).Đâychính là bối cảnh đểgiúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm nay. Cụ thể hơn, Thánh Phaolô đưa ra hai yếu tố quan trọng như lăng kính để chúng ta đọc và hiểu bài Tin Mừng hôm nay: tầm quan trọng của lời Chúa, vàcon người là thể thống nhất của hồn [tin ở trong lòng] và xác [tuyên xưng ra ngoài miệng].
Trước khi phân tích bài Tin Mừng hôm nay từ hai lăng kính trên, chúng ta cùng nhau trình bày ngắn gọn về ý nghĩa của Mùa Chay, để giúp chúng ta sống Mùa Chay trọn vẹnhơn. Theo lịch sử, Mùa Chay nguyên thủy là khoảng thời gian màtrong đó Bí Tích RửaTội được cửhành. Nói cách khác, Mùa Chaylà khoảng thời gian mà trong đónhững người “ngoại giáo” [tân tòng] trở thành Kitô Hữu. Giáo Hội xem khoảng thời gian này là hành trình của sự “biến đổi,” của sự “sám hối.” Tuy nhiên, theo thời gian, không chỉ những tân tòng mà cảnhững hối nhân và cuối cùng toàn thể Giáo Hội biến khoảng thời gian này thành “hành trình Mùa Chay” để nhắc nhở mọi người về hành trình của người Kitô hữu: đây không phải là hành trình mà họ chỉ “đimột lần” vào ngày rửa tội và sau đó sẽ chấm dứt. Không, đây là một hành trình mà họphải đi suốt đời, là hành trình mà trong đó họ phải luôn bắt đầu lại [metanoia–sám hối]. Như thế, mục đích chính của Mùa Chay là giúpchúng ta ý thức rằng: “là” Kitô hữu đồng nghĩa với việc “trở thành” Kitô hữu mỗi ngày. Nói cách khác, chúng ta phải sống trọn vẹn lời hứa mà chúng ta tuyên xưng trong ngày rửa tội là từbỏma quỷvà thuộc trọn vềThiên Chúa trong từng giây phút của ngày sống của chúng ta.
Ý nghĩa thứ hai của mùa chay đến từ con số 40. Trong ngôn ngữ phụng vụ của mình, Giáo Hội đặt tên Quadragesima, “thời gian 40 ngày,” cho Mùa Chay, mà chúng ta bắt đầu với ThứTưLễTro. Trong Mùa Chay, Giáo Hội sửdụng lối chú giải Kinh Thánh mang tính hình tượng đểđặt chúng ta vào trong sự liên tục và trong bối cảnh thiêng liêng tương xứng mà dân Israel xưa đã trải qua. Chúng ta tìm thấy con số 40 được lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh: Mưa 40 ngày đêm trong lụt Đại Hồng Thủy; Dân Israelđi trong sa mạc 40 năm; Môsê ở trên núi Sinai 40 ngày đêm đển hận Mười Điều Răn; Ngôn sứ Elia đi 40 ngày đêm để đến núi Horeb; Davidlàm vua 40 năm; Chúa Giêsu ăn chay trong sa mạc 40 ngày đêm. Chúng ta tựhỏi: Điểm chính yếu của chuỗi 40 này là gì? Để hiểu ý nghĩa của con số40, chúng ta cần trởlại vớilịch sửdân Israel, nhất là nhìn lại 40 năm mà họ bước đi trong sa mạc. Thời gian này được xem như làthời gian của“chuyện tình đầu tiên giữa Thiên Chúa và dân Israel”: Đâylà khoảng thời gian màThiên Chúa nó ichuyện diện đối diệnvới dân Ngài, là thời gian màThiên Chúa ở giữa dân Ngài: Ngài đi trước họ dưới hình đám mây và cột lửa, nuôi họ mỗi ngày với Manna, và ban cho họnước uống chảy ra từtảng đá. 40 năm trong sa mạc thật sự là khoảng thời gian của yêu thương và gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa.Tuy nhiên, bên cạnh đó, đây cũnglà khoảng thời gian nguy hiểm nhất của sự cám dỗ tôn thờ ngẫu tượng [con bò vàng], của kêu trách và chống lại Thiên Chúa. Nói các khác, thời gian 40 năm trong sa mạc là thời gian mà dân Israel đã tạo ra những “chúa khác” cho chính mình bởi vì Thiên Chúa, Đấng dường như giữ khoảng cách với họ, không làm cho họ được thoả mãn.
Thật vậy, thời gian trong sa mạc là khoảng thời gian vật lộn với cám dỗ. Ngay cả Chúa Giêsu cũng trải qua kinh nghiệm này. Đây chính là bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Sau khichịu phép rửa, Chúa Giêsu chấp nhận số phận của Người Tôi Tớ của Yahweh: số phận của một người từ bỏ chính mình và trở thành người đại diện cho mỗi người trong chúng ta để đối diện với cám dỗ và đau khổ. Ngài đi vào trong sa mạc và hiện diện cách trực tiếp với Chúa Cha, đểrồi trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, Ngài đối diện với sự tấn công của ma quỷ.Trong khoảng thời gian trong sa mạc, cám dỗ đè nặng trên Ngài: cám dỗ loại bỏ lời Chúa ra khỏi cuộc đời để chạy theo cơm bánh; cám dỗloại bỏ sự bất lực [không tự vệ để lệ thuộc vào Thiên Chúa] để chạy theo vinh quang của quyền lực chính trị; cám dỗloại bỏtình yêu để thử thách Thiên Chúa. Ba cám dỗ này dân Israel đã đối diện xưa kia trong sa mạc và họ đã vấp ngã. Ngày hôm nay, chúng ta cũng đối diện với ba cám dỗnày trong từng ngày sống. Chúng ta sẽnhư thếnào: chiến thắng hay thất bại? Giờ đây, chúng ta cùng nhau tập trung vào Chúa Giêsu, để học nơi Ngài cách thức đối diện và chiến thắng cám dỗ.
Cám dỗ thứ nhất–cám dỗ loại bỏ Thiên Chúa để tôn thờ của cải vật chất: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!”(Lc 4:3). Đây là cám dỗ về bánh ăn mà dân Israel đã đối diện trong sa mạc. Chúng ta thấy, ma quỷ luôn bắt đầu cám dỗ bằng việc tấn công vào một nhu cầu căn bản về sự sống còn của đời sống thể lý hay vật chất. Nhu cầunày là nhu cầu mà chúng ta đang rất cần. Chúng ta thấy rõ điều này qua việc ma quỷ biết Chúa Giêsu đã ăn chay 40 ngày đêm và Ngài rất đói và khát, nên tấn cống Ngài từđiểm yếu đó. Khi tấn công như thế, ma quỷgiảm nhân vịcon người xuống chỉ còn khía cạnh thể lý [thân xác] và chối bỏ linh hồn. Đối diện với cám dỗ này, Chúa Giêsu dùng chínhlời Chúatríchtừ sách Đệ NhịLuật 8:3 –“Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”(Lc 4:4).Trong câu trả lời này, Chúa Giêsu khẳng định nhân vị và tính thống nhất của con người là có hồn và xác: Như thân xác cần bánh ăn thì linh hồn cần được lời Chúa nuôi dưỡng. Một con người hoàn thiện là một con người sống quân bình trong đời sống thiêng liêng và thể lý. Trong cám dỗ này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Đừng giảm giá trị chính mình và người khác xuống còn khía cạnh thể lý. Vì vậy, đừng tôn thờ và chạy theo cái ăn cái mặc cho thân xác mà quên mất việc trau dồi nhân đức để trang điểm cho linh hồn.
Cám dỗ thứ hai–cám dỗ chạy theo vinh hoa phú quý và quyền lực thế gian dù đánh mất chính mình: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý.Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽthuộc về ông”(Lc 4:6-7). Đây là cám dỗ tôn thờ ngẫu tượng [con bò vàng] mà dân Israel đã vấp ngã trong sa mạc. Cám dỗ thứ hai này, có thể nói, tiếp nối cám dỗ thứ nhất. Đây là cám dỗ tôn thờ một chúa khác ngoài Thiên Chúa thật. Cám dỗ này đặt trước chúng ta một câu hỏi: Cái gì mang lại cho chúng ta quyền lực? Phải chăng tiền tài hay danh vọng? Phải chăng là những mối tương quan của con người? Lần thứ hai Chúa Giêsu dùng lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật [6:13] để trả lời: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”(Lc 4:8).Chúa Giêsu khẳng địnhlại vị trí tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc đời của Ngài và của mỗi người chúng ta. Chỉ nơi Thiên Chúa, chúng ta tìm thấy mọi sự chúng ta cần.
Cám dỗ thứ ba–cám dỗ thử thách quyền năng của Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). Đây là cám dỗ về việc thử thách Đức Chúa của dân Israel tại mạch nước Mêriba. Cám dỗ này đi ngược lại với cám dỗthứ nhất và có thể được gọi là “duy thiêng liêng.” Trong cám dỗ thứ nhất, ma quỷ giảm con người thành “duy vật chất” – chỉ có thân xác, còn trong cám dỗ này, ma quỷ giảm con người thành “duy thiêng liêng” –chỉ có linh hồn. Lại một lần nữa, Chúa Giêsu chống lại cám dỗ bằng trích dẫn lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật [6:16]:“Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Lc 4:12). Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu khẳng định về việc phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa dù phải chịu đau khổ và bị giết chết. Chúng ta không nên thử thách Thiên Chúa bằng cách làm theo ý của mình.
Câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay là lời khuyến cáo mạnh mẽ cho mỗi người chúng ta: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13).Quỷ không dễ dàng từ bỏ kế hoạch của chúng. Nó sẽ tìm cơ hội khác để tấn công chúng ta, nhất là khi chúng ta thiếu cảnh giác, thiếu kết hiệp mất thiết với Thiên Chúa.Có câu nói trong đời rằng: hãy khiêm nhường khi chiến thắng và hãy hy vọng và lạc quan khi thất bại vì cuộc đời chúng ta là một bản nhạc được viết lên bởi những nốt thăng trầm khác nhau.Để sống luôn tỉnh thức trước sự rình rập của ma quỷ, Giáo Hội độngviên chúng ta trong Mùa Chay phải học chấp nhận hoàn cảnh sống của mình trong sự kiên nhẫn và vớiđức tin vững mạnh hầu bước theo Thiên Chúa một cách không sợ hãi, dù nhiều khi chúng ta không thấy sựhiện diện của Ngài. Nếu chúng ta tiếp tục đi với đức tin kiên trì, thì một ngày mới sẽ ló rạng từ bóng đêm đen. Ước mong thời gian Mùa Chay là thời gian âm thầm hy sinh của chúng ta đểánh sángtình người, tình Chúa lan toả đến mọi nơi, mọi nhà và mọi tâm hồn.
Về mục lục
.
SỨC MẠNH LỜI THIÊN CHÚA
Bông hồng nhỏ
Trong thân phận con người, Đức Giêsu cũng chịu cám dỗ của quỷ. Quỷ luôn tìm cách để cám dỗ Người và luôn chờ đợi thời cơ vì nó hoàn toàn thất bại trước Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa xuống thế làm người cùng chia sẻ thân phận con người với những lo toan vất vả và cả những cuộc chiến chống lại sự dữ. Người hoàn toàn chiến thắng trên sự dữ và củng cố niềm tin cho người môn đệ: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Từ sông Gio-đan trở về, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần dẫn Người đi trong hoan địa và chịu quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-2). Tâm hồn Người đầy tràn Thánh Thần nhưng xác thịt Người lại yếu sức Vì Người đói. Cơn đói thường lấy đi sức khỏe của ta và làm ta kiệt quệ. Một ngày đói ta đã không chịu đựng nỗi huống chi là 40 ngày. Đức Giêsu đã không ăn gì cả trong bốn mươi ngày thì quả là một sự thử thách lớn lao, một khả năng chịu đựng phi thường. Tại sao Đức Giêsu có thể trải qua tình trạng phi thường ấy? Tại sao khi hết bốn mươi ngày ròng rã, Người mới cảm thấy đói? Khi gặp gỡ người yêu bao năm xa cách, người ta có thể quên ăn quên ngủ để tâm sự với người yêu, để chỉ được ở với người yêu. Khi dành bốn mươi ngày cầu nguyện cùng Chúa Cha, tình yêu đó được diễn tả qua sự lắng nghe, ở lại hoàn toàn. Đã bao giờ ta ở lại trọn vẹn với Chúa trong một giờ cầu nguyện hay hoàn toàn chú tâm để lắng nghe tác động của Thần Khí không? Tình yêu ta dành cho Chúa có vượt lên trên tất cả hay bị phân chia cho những gì ngoài Chúa?
Khi bị cám dỗ, không phải lúc nào ta cũng gọi tên được thứ quỷ đang cám dỗ ta. Chỉ khi biết được kẻ thù đang tấn công ta là kẻ nào, sức mạnh ra sao và chỉ khi ta biết rõ ta là ai, ta mới dứt khoát đuổi cổ tên cám dỗ ấy. Và hơn hết, nếu không cậy nhờ ơn Chúa giúp, ta sẽ chẳng bao giờ ta nhận ra bộ mặt và tiếng nói của tên quỷ để đánh đuổi nó. Hãy xem cách Đức Giêsu chống lại các cám dỗ của quỷ. Khi Người đói, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (x. Lc 4,3-4). Quỷ tiếp tục cho Người thấy sự hấp dẫn của quyền lực, của vinh hoa phú quý, chỉ cần Người bái lạy nó là tất cả sẽ thuộc về Người. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy một mình Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi” (x. Lc 4,5-8). Quỷ thấy Đức Giêsu hoàn toàn bám vào kinh Thánh để chống lại những cám dỗ mình đưa ra, nó liền dùng chính Kinh Thánh để cố gắng thuyết phục Đức Giêsu. Đức Giêsu biết rõ mình là Con Thiên Chúa và Ngài biết rõ Chúa Cha yêu thương mình. Ngài đáp lại: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4,12). Lòng kính sợ Thiên Chúa là sự tôn kính, yêu mến của người con đối với người cha nhân ái của mình, không phải sự chọn lựa điên rồ để thử thách tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã chấp nhận chịu thử thách, chịu cám dỗ để dạy con lòng kính sợ và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Xin Chúa giúp con mỗi ngày sống gần Chúa hơn để được ân sủng của Thánh Thần hướng dẫn và trợ lực chống lại các cám dỗ của quỷ. Xin cho con luôn ghi tạc vào lòng niềm xác tín này: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Rm 10, 8). Amen.
Về mục lục
.
CHỌN LỰA GIỮA PHÙ HOA
Anna Cỏ May
Đến hẹn lại lên, Mùa Chay lại về. Sống bao nhiêu năm trên cõi thế, chúng t alaji được đón bấy nhiêu Mùa Chay. Mùa Chay quá quen thuộc nên đôi khi chúng ta chẳng để Mùa Chay đi qua mà không ghi lại một dấu ấn nào, con người chúng ta vẫn hoàn cũ.
Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, chia sẻ thân phận kiếp người. Ngài cảm nhận được những khó khăn, yếu đuối, gian nan của kiếp nhân sinh. Ngài đã chiến đấu với ba cơn cám dỗ của quỷ trong lúc yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần.
Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn uống gì cả, và khi hết thời hạn, Ngài thấy đói. Lúc này, quỷ mới nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” (Lc 4,3). Đây là sự cám dỗ về nhu cầu tồn tại, là một cám dỗ rất thực tế liên quan đến sự sống của con người, đó là được ăn, được uống. Khi đói, ít khi chúng ta làm chủ được bản thân, thậm chí còn làm cả điều xấu để có miếng ăn. Lợi dụng điểm này, quỷ không ngừng cám dỗ chúng ta. Hình thức cám dỗ của quỷ là “truyền hòn đá thành bánh”, phép lạ chẳng hại ai nhưng làm cho con người bị lệ thuộc vào cơm bánh? Chúng ta học theo Chúa Giêsu là luôn tỉnh thức, dứt khoát với quỷ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Chúa Giêsu đặt tình yêu vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Có Thiên Chúa là có tất cả. Như Dân Do thái xưa, khi gặp cơn đói giữa sa mạc cằn khô, đã chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay để cho dân có Manna và chim cút dùng. Bởi vậy, chúng ta hãy trông chờ lòng lân tuất của Chúa. Đấng ban phát mọi sự.
Không ngừng ở đó, quỷ tiếp tục đem Chúa Giêsu lên cao, và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,5-7). Chúa Giêsu bị cám dỗ về quyền bính và lợi lộc, nhưng Ngài không bị khuất phục. Ngài có quyền hơn quỷ, chính Ngài là chủ trái đất do Chúa Cha trao ban. Mặt khác, một khi Chúa Giêsu bái lạy quỷ để có được tất cả những thứ đó nhưng vẫn lệ thuộc nó vì đã bái lạy nó. Mà lệ thuộc thì không còn sự tự do. Bởi đó, Chúa Giêsu ý thức mình là ai nên đã nói: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy một mình Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình người mà thôi” (Lc 4,8). Bao lâu chúng ta gắn bó với danh lợi quyền lực thế gian là gắn bó với con đường của quỷ.
Quỷ lại tiếp tục chịu cám dỗ con người ta thử thách Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4,9-11). Quỷ trích đoạn Kinh Thánh không đầy đủ để thử thách Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Lc 4,12). Quỷ thất bại, nó bỏ đi, chờ đợi thời cơ. Thời cơ nay đã đến, nó quay sang cám dỗ các con của Ngài là chúng ta.
Ngày nay, quỷ vẫn lợi dụng cái nghèo, quyền lực, quyền bính, niềm tin sai trái để cám dỗ chúng ta. Nó len lỏi vào cuộc sống thường nhật, vào những cuộc chơi, vào những sáng kiến của con người. Nó vẫn luôn vang vọng những lời ngọt ngào nhẹ nhàng, khiến chúng ta không nhận ra. Nó len lỏi ngay cả trong việc thiện mà chúng ta tưởng là tốt. Do đó, chúng ta cần có một cái nhìn, một lối suy nghĩ rõ ràng và biết chọn lựa những gì hướng về Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ và đã chiến thắng cho chúng ta xác định một chọn lựa cho cuộc đời là tiền tài hay Lời Chúa làm chủ, danh lợi quyền bính hay chính Thiên Chúa, sử dụng quyền lực cho các nhân hay để phục vụ ích công. Chúng ta sẽ không tự mình chọn lựa, mà cần sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần đặt mình dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ giúp chúng ta biết chọn lựa, biết làm lành lánh dữ, biết tránh sa chước cám dỗ.
Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Giữa cảnh gian truân, xin cho chúng con biết kêu cầu Chúa và xin Chúa mau đáp lời và giải thoát chúng con để chúng con chiến thắng cám dỗ như Ngài đã chiến thắng. Amen.
Về mục lục
.
CÁM DỖ.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thánh Thần đưa bước vào đời,
Chúa vào hoang địa, dâng lời ngợi khen.
Tránh xa khỏi chốn bon chen,
Chuyên tâm cầu nguyện, muối men cho đời.
Quỷ ma săn đón gọi mời,
Thừa cơ cám dỗ, hứa hời phúc vinh.
Dụ rằng biến bánh kết tinh,
Thỏa cơn đói khát, an bình tâm can.
Chúa rằng cơm bánh mau tàn,
Sống bằng lời Chúa, chứa chan phúc lành.
Vinh quang trần thế cao danh,
Sấp mình thờ lạy, sẽ dành riêng cho.
Quyền hành nhận hão giở trò,
Phụng thờ Thiên Chúa, mở kho Nước Trời.
Gieo mình nhảy xuống dụ chơi,
Thiên thần gìn giữ, nhất thời có sao.
Ngươi đừng thử thách thiên cao,
Duy mình Đức Chúa, Cha trao phận người.
Nguyện cầu tỉnh thức trong đời,
Thắng cơn cám dỗ, cao vời biết bao.
Bắt đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với Chúa Giêsu để thanh luyện tâm hồn. Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào sa mạc bốn mươi ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và chịu thử thách. Trong hoang địa, Chúa Giêsu chịu ma qủi cám dỗ qua những hình thức khác nhau. Chúa đã trải nghiệm những cám dỗ giống như nguyên tổ Ađam và Evà xưa trong vườn địa đàng. Cùng những thử thách giống như dân Do Thái trải qua 40 năm lang thang trong hoang địa.
Nguyên tổ Ađam và Evà đã sa ngã, vì sự ham muốn và kiêu ngạo. Dân Do Thái đã thất tín, mất lòng tin nơi Thiên Chúa. Họ đã đúc thần bò vàng để thờ lạy. Chúa Giêsu trong hoang địa cũng đối diện với những cám dỗ về nhu cầu cần thiết trong cuộc sống như của ăn, quyền lực và danh vọng. Ma qủi khôn khéo lợi dụng đúng thời cơ để cám dỗ Chúa. Trong sự tỉnh thức và cầu nguyện, Chúa Giêsu đã vượt thắng tất cả các cơn cám dỗ.
Mánh khóe rất tinh ranh của ma qủi, nó đứa ra những dụ dỗ rất hấp dẫn để đánh lạc hướng. Như những đứa trẻ đang ham mê đồ chơi, làm sao chúng ta có thể lấy đi mà chúng không khóc. Cách tốt nhất là làm cho nó chú ý vào một cái gì khác. Khi chúng thích rồi, thì chúng ta có thể dễ dàng cất bỏ đồ chơi. Ma qủi cũng dùng cách thế đó để dụ dỗ chúng ta qua sự giầu sang, qua danh vọng và thú vui xác thịt. Ma qủi làm cho chúng ta lo ra không còn chú ý đến Chúa. Nó sẽ kéo dần chúng ta xa tình yêu và lòng tin tưởng nơi Chúa.
Truyện kể: Nơi vùng quê, người ta nuôi rất nhiều bò ngựa, chung quanh có làm hàng rào để canh giữ. Nhưng rồi lâu lâu có những con bò đi lạc. Hỏi tại sao? Ông chủ nói rằng: Các con bò đi ăn cỏ, ăn hết khu này, ngó sang khu khác còn có cỏ xanh và tiếp tục bước đi và cứ thế đi quá quên lối về.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng giống như thế. Chúng ta lo làm ăn, rồi việc này kéo qua việc kia, cứ tiếp tục mãi ngày này qua ngày khác, chúng ta đã xa cách nhà thờ và xa cách Chúa lúc nào không hay. Mùa Chay, chúng ta có cơ hội tìm về nguồn tình yêu Chúa. Dùng chút thời gian tĩnh lặng để suy nghĩ và sám hối trở về.
Có những người nói rằng: Cuộc sống vẫn như thế, chẳng có gì mới lạ và cũng chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn giữ đạo và sinh hoạt bình thường. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo cho có lệ hay giữ tối thiểu các điều luật dạy, thì lòng đạo cũng từ từ nhạt phai. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ.
Về mục lục
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_C
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Dân Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Chính Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh dẫn dắt họ ra khỏi Ai Cập và đưa họ vào đất hứa, nơi chảy sữa và mật. Chính nơi này, ông Môsê đã khuyên bảo dân Israel hãy tỏ lòng tôn kính tin thờ một mình Thiên Chúa và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân đã lãnh nhận trong tình yêu mến, bằng việc dâng lên Thiên Chúa những sản phẩm đầu mùa vì Thiên Chúa đã cứu họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, cho họ thành một dân được tuyển chọn và vùng đất phì nhiêu để canh tác. Đồng thời, nhắc nhủ họ phải luôn chiến đấu để chiến thắng cám dỗ.
Thưa anh chị em, khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã phải đối đầu với tên chúa trùm cám dỗ như Adam trong vườn địa đàng và dân Do thái suốt 40 năm trong sa mạc. Nhưng Adam đã sa ngã. Dân Do thái đã phải bất trung, còn Chúa Giêsu đã trung thành đứng hẳn về phía Thiên Chúa. Nhờ vậy, Người đã thắng Satan. Thánh Luca trong trang Tin Mừng hôm nay, tường thuật những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh; dùng quyền để cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước; và dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo. Đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu đương đầu với sự dữ, cuộc đời của Người còn gặp nhiều gian nan thử thách. Thử thách của các luật sĩ và biệt phái; thử thách của chính các môn đệ như Phêrô, Giuđa Iscariot; thử thách tại núi cây dầu và nhất là thử thách trên cây thập giá: “Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con”. Quả thật, Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người trừ tội: vui sướng, đau khổ, thử thách, tủi nhục và cả cái chết. Người đã nên giống con người. Tuy nhiên, trong những thử thách đó Người đã luôn chiến thắng vì Người đã luôn đứng về phía Thiên Chúa. Cuộc chiến thắng của Người là một kinh nghiệm sống cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng có thể chiến thắng những thử thách của cuộc sống, những cám dỗ của tiền tài danh vọng nếu biết đứng về phía Thiên Chúa, biết cây dựa vào sức mạnh của Ngài.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cám dỗ là những thử thách không thể tránh được trong kiếp sống con người. Chính nhờ thử thách mới có tiến bộ: lửa thử vàng gian nan thử đức. Muốn chiến thắng phải noi gương Chúa Giêsu: không tự mãn với những phương tiện thuần nhân loại, không sống theo bản năng đói ăn khát uống, nhưng biết tin tưởng vào Thiên Chúa và biết tự chủ. Đồng thời, phải đặt đời sống hằng ngày dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa. Như Chúa Giêsu, chúng ta biết dùng Lời Chúa để thắng cám dỗ. Vì, “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa là phương thức giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ. Thánh Phêrô cũng đã khuyên bảo chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Vì thế, chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu, nhờ tin vào Chúa Giêsu chúng ta được ơn cứu độ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta bước vào mùa chay thánh với một tâm hồn sám hối và đón nhận Tin Mừng. Hành động của sám hối là ăn chay, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó; hành động đón nhận Tin Mừng là chuyên chăm học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để chiến thắng ác thần, thờ phượng một mình Thiên Chúa hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Về mục lục
.
CÓ THIÊN CHÚA KHÔNG?
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, là lời mời gọi của Giáo hội trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay năm C. Với tất cả những trải nghiệm của cuộc đời xuyên qua mọi thời đại, người ta nhận thực: Thiên Chúa đã nâng đỡ con người. Niềm tin ấy không chỉ là một tư tưởng thầm kín bên trong nhưng còn là lời tuyên xưng dõng dạc bên ngoài. Nhưng những cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa để khẳng định mình vẫn luôn trực chờ mỗi người trong cuộc sống.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa
Người Việt ta mang trong mình cảm thức sâu đậm về Trời. Dường như tất cả những gì vượt khả năng, vượt sức tưởng tượng, vượt sức chịu đựng, hay khi buồn, khi vui, khi trống rỗng người ta đều hướng đến Trời với lời than, câu trách, tiếng khen, hay buông thõng một tiếng thở dài ‘ôi giời…’.
Giảng về ‘chân như’, cái uyên nguyên của ‘khổ’, Đức Phật cũng không chỉ ra rõ ràng, mà là: ‘sắc sắc không không’. Cái cảm nhận đã có nhưng giảng về nó thật khó. Giống như Lão Tử đã kinh nghiệm về “Đạo” và thuận theo “Đạo” để hành sự. Nhưng ông cũng phải thốt lên ‘Đạo khả đạo phi thường đạo – Đạo mà có thể nói ra được thì không còn là Đạo nữa’. Đức Khổng Tử đã chẳng bàn về Trời hay Thượng Đế, nhưng cũng như bao người, Trời là cảm nhận đương nhiên nên ông đã thốt lên: ‘chỉ có trời mới thấu hiểu ta’. Bao đời vua trong thiên hạ đã luôn lấy Trời làm căn cơ cho ngai vị của mình để ra sắc chỉ cho toàn dân mà rằng: ‘Phụng thiên thừa vận’.
Với người Do Thái thì cảm nghiệm về Trời cụ thể và sống động, như trong bài đọc thứ nhất miêu tả. Thiên Chúa, hay Đức Chúa Trời mà dân Do Thái tuyên xưng, là Đấng đồng hành với họ trong dòng lịch sử. Trải qua bao thăng trầm của mọi thời cuộc, dân luôn nhận được sự che chở nhãn tiền nơi Đức Chúa Trời. Câu chuyện về sự can thiệp của Trời qua mọi thời đại luôn được dân Do Thái nhắc lại cho con cháu từ đời này qua đời khác.
Cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa
Cảm nhận rõ nét về Thiên Chúa sẽ giúp cho con người dễ dàng xác tín vào Ngài. Nhưng cơn cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa luôn thường trực bên con người từ ngày nó được tạo dựng. Và nó sẽ dễ dàng gục ngã trước con cám dỗ ấy khi mang trong mình sự mù mờ về Thiên Chúa.
Thú vui thể xác, quyền lực thế gian và vinh hoa phú quý ở đời luôn là mồi nhử để kéo con người rời xa Thiên Chúa. Đức Giê-su trong thân phận con người cũng đã không thoát khỏi những bả độc ấy.
Trong bài Tin mừng, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ Đức Giê-su ba lần với những cung bậc khác nhau. “hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”, khi chấp nhận thực hiện điều phi thường ấy, con người thỏa mãn cái đói khát của xác thịt, nhưng đồng thời khẳng định mình ngang bằng với Thiên Chúa; “nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!”, chấp nhận những vinh hoa phú quý và quyền lực thế gian ấy cũng đồng nghĩa con người rời bỏ Thiên Chúa để đi theo ma quỷ; cuối cùng, ma quỷ đã bày tỏ ý định rõ ràng khi đánh trực diện “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống”, một lời khẳng quyết và thách đố niềm tin của con người: chẳng có Chúa đâu. Hay ít là nó gieo vào lòng người một sự nghi ngờ về Thiên Chúa. Trong tất cả những cám dỗ ấy, Chúa Giê-su luôn đưa ra sự hiện diện nhãn tiền đầy sinh động của Thiên Chúa và sự thần phục Thiên Chúa của mình để từ chối ma quỷ: “Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”, “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi”, “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!”.
Những thế kỷ thời hiện đại này nhân loại đôi lúc cảm thấy hãnh diện về sự bùng nổ của khoa học. Những tưởng ‘Thượng Đế đã chết rồi’ như triết gia Nietzsche đã thốt lên; Con người tưởng mình có thể làm tất cả và mơ về một hình tượng Siêu nhân mà Nietzsche đã mô tả. Bao hình ảnh của siêu nhân đã và đang xuất hiện hàng ngày trên màn ảnh truyền hình khắp thế giới. Đôi lúc đây đó khẩu hiệu được hô lên: ‘Có sức người sỏi đá cũng thành cơm’. Cơn cám dỗ rời xa Thiên Chúa và cậy dựa vào sức của mình đã làm bao người xa ngã, thậm chí kéo theo những lớp người đánh mất chính mình trong tương quan với Trời, với đất, và với đồng loại.
Xác tín vào Thiên Chúa tình thương
Thánh Phaolo là người cảm nhận rõ nét về tình trạng khác biệt giữa người tin vào Chúa Ki-tô và người không tin vào Chúa Ki-tô. Và một sự phân biệt rõ hơn nữa mà trong bài đọc thứ hai ngài nhắc đến: người chỉ tin trong lòng với người tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng.
Chỉ tin vào Đức Ki-tô mà không dám tuyên xưng ngoài miệng, ấy là đức tin còn mập mờ. Việc tuyên xưng đức tin ngoài miệng bộc lộ một tâm hồn xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Việc xác tín vào Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với việc sống đời sống tín thác nơi Ngài. Khi ấy, con người biết đặt mình vào đúng vị trí: trên có Trời dưới có đất xung quanh là anh em; biết sống thuận theo ý Trời và nỗ lực canh tác đất đai; biết hòa mình vào khung cảnh của đất trời là sống hài hòa với Trời, với người, và thiên nhiên vậy.
Mùa Chay là thời gian trải nghiệm về tình thương Thiên Chúa, là cơ hội tìm về chính mình để đặt mình vào đúng chỗ. Xác tín vào một Thiên Chúa tình thương là khởi điểm tốt đẹp cho một Mùa Chay thánh. Xác tín ấy sẽ đưa ta đến nguồn ban sự sống. Tĩnh tại để trở về giao hòa với Thiên – Địa – Nhân là lời mời gọi tới hết thảy mọi người. “Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ” (Rm 10,13).
Lạy Chúa, xin chỉ dẫn con theo lối bước của Ngài, xin giúp con được trở về bên Chúa để được sống với anh em con, được sống chan hòa giữa đất trời gieo vui!
Về mục lục
.
LỜI CHÚA CHO TA NGHỊ LỰC
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
Có một bài hát mà mỗi khi sinh hoạt tập thể, các bạn trẻ hay hát. Bài hát đó là: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Từ lời bài hát, suy nghĩ rộng ra đến cuộc sống, tôi thấy thật đúng.
Chẳng hạn, một lần đến Đà lạt, cả nhóm chúng tôi rủ nhau lên núi Langbiang. Đường lên núi gập ghềnh. Biết thế, nhưng chúng tôi vẫn đi. Tuy nhiên, đi chừng nửa núi, vài người bạn của tôi thấm mệt, rồi không thiết tha đi nữa, muốn bỏ cuộc. Bệnh nản chí là bệnh hay lây. Nó lây lang nhanh thật. Lúc đầu chỉ vài người, sau đó cả nhóm thua cuộc. Thế là bỏ nửa chứng, kéo nhau xuống núi.
Cho tới bây giờ, chúng tôi vẫn còn tiếc. Giá mà lúc đó, chúng tôi cố gắng hơn, nghị lực hơn, đừng vì núi cao mà sợ, thấy mỏi mệt mà mất can đảm, rất có thể chúng tôi đã chinh phục ngọn Langbiang.
Rất tiếc, chúng tôi đã không thành công. Rõ ràng, đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng chỉ khó do lòng người ngại núi e sông.
Trong cuộc sống, cũng có bao nhiêu sự chán nản, thua buồn, muốn bỏ cuộc như thế. Ví dụ, một người đang khỏe, ăn nên làm ra, bất ngờ bị tai nạn, mù mắt chẳng hạn. Từ đó mặc cảm, đau buồn, anh ta trở nên thối chí. Cuối cùng không thể vượt qua khó khăn, anh ta đã để chính số phận nghiệt ngã đè bẹp đời mình.
Nhưng với người khác, cũng hoàn cảnh bi đát như thế, lại có thể tự tạo cho mình một cuộc sống vui hơn, nhờ lấy lại bình tĩnh, quyết tâm vượt lên trên số phận, tìm cách chôn sâu nỗi buồn, làm việc gì đó có ích cho bản thân, cho cuộc đời…
Vài hình ảnh như thế, để thấy, ý chí của con người, nghị lực của lòng vượt khó, vượt khổ cần lắm. Ý chí, nghị lực giúp mỗi người thành công trong gian khổ, thành công trong đau buồn, ngay cả trong bi đát và bất hạnh nhất của cuộc đời…
Nhưng nghị lực và ý chí đâu chỉ cần trong đời thường. Nó còn tối cần cho đức tin. Nếu vượt lên khó khăn trong đời bằng nghị lực của bản thân, đã là một thành công đáng quý. Nhưng càng thành công hơn, đáng quý hơn, nếu ta biết quyết tâm, quyết chí với tất cả nghị lực, đoạn tuyệt lỗi lầm, trở về với Chúa.
Dù biết cắt đức thói hư tật xấu không dễ chút nào, không là chuyện một ngày, một bữa. Nhưng đường đi khó cách mấy, lòng không ngại khó, ngại khổ, thì hy vọng ở cuối đường ta đi sẽ sáng dần lên, rồi đến lúc ánh sáng sẽ tuyệt diệu.
Đường đi khó là trở lực, nhưng lòng thiếu ý chí, thiếu nghị lực, mới là trở lực đáng sợ. Hãy tin vào tình yêu của Chúa để trở về cùng Người, để lấy lại những gì đã đánh mất trong tội. Đó là ý chí, đó là nghị lực của bất cứ ai nhận biết mình tội lỗi và mong ước thống hối.
Hôm nay Hội Thánh mời ta suy niệm việc Chúa chịu cám dỗ khi Người ăn chay 40 ngày. Nhưng Chúa không chỉ chịu một, mà là ba cơn cám dỗ, tập trung vào ba điểm mấu chốt của đời người: Sự sống thân xác, quyền lực và danh vọng.
Cả ba cơn cám dỗ, Chúa đều chiến thắng tuyệt vời. Sức mạnh để có chiến thắng rực rỡ ấy chính là lời Kinh Thánh:
– Trong cơn cám dỗ về sự sống thân xác, Chúa Giêsu chống trả tên cám dỗ: “Người ta không chỉ sống bắng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa”.
– Đối với cơn cám dỗ về quyền lực, Chúa trả lời: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng thờ một mình Người mà thôi”.
– Trong cơn cám dỗ về danh vọng, Chúa Giêsu khẳng khái: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Lời Kinh Thánh là vũ khí hết sức sắc bén để Chúa Giêsu đối đầu cùng cám dỗ và đã chiến thắng lớn. Nghị lực của Chúa là ở chỗi đó. Ý chí chiến thắng cám dỗ của Người là ở chỗ đó. Với ý chí và nghị lực đã nắn đúc từ Lời Chúa, Chúa Giêsu đã chống trả cám dỗ và chống trả mãnh liệt để đi đến thành công.
Như vậy, qua cơn cám dỗ của mình, Chúa để lại cho ta tấm gương tuyên chiến với ma quỷ, quyết liệt chống trả cám dỗ. Người còn để lại bài học của một người biết sống Lời Chúa, biết đặt niềm tin vào Lời Chúa, lấy Lời Chúa làm nghị lực, làm sức mạnh vượt lên trên mọi cám dỗ.
Chiến thắng cám dỗ, Chúa Giêsu cho ta nghị lực, đồng thời là bài học giúp ta hiểu, ý chí và nghị lực để vượt qua mọi cám dỗ của bản thân, những cám dỗ nguy hại cho đức tin, chỉ có được khi biết sống Lời Chúa, để cho Lời Chúa thấm nhập vào đời mình. Lời của Chúa giúp ta phản ứng hữu hiệu khi đối đầu với mọi cám dỗ.
Cuộc đời có nhiều cám dỗ lôi kéo. Nếu chúng ta đã đủ ý chí để quyết tâm không phạm tội, và đã chiến thắng tội lỗi, đó là điều tốt.
Nhưng giã như vì yếu đuối, bạn và tôi không được như Chúa Giêsu. Ngược lại, nhiều lần đã gục ngã, đã sa chước cám dỗ, thì giờ đây, trong tâm tình thống hối của mùa Chay, hãy vùng đứng dậy, hãy vững ý chí, tập trung nghị lực, cùng sự cầu nguyện, xin ơn Chúa giúp, hy vọng ta vững tâm trở về với Chúa. Hãy xây dựng cho tâm hồn một quyết tâm sống mùa Chay của năm 2019 theo gương Chúa Giêsu.
Dẫu sao, nơi Chúa Giêsu, chúng ta có một tấm gương lớn để tự soi rọi lòng mình. Sa ngã và phạm tội dẫu là sự nguy hại không nhỏ, nhưng vẫn chưa phải là đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ở lỳ trong tội, là không đủ can đảm, không một chút ý chí, một chút nghị lực nào để vươn lên thoát tội. Chúng ta hãy để Lời Chúa tác động nơi mình, can đảm để Lời ấy thường xuyên tra vấn mình. Lúc đó, chính Lời Chúa sẽ là sức mạnh cho ta nghị lực khi đối đầu với cám dỗ.
Chúng ta cần ghi nhớ rằng, đường đi khó, không phải vì sông núi cho bằng lòng mình ngại khó. Cũng vậy, con đường từ bỏ thói hư tật xấu, trở về với Chúa sẽ lắm gian nan, nếu lòng ta thiếu nghị lực. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm nghị lực cho mình, đó chính là Lời Thiên Chúa.
Về mục lục
.
SỰ TINH RANH CỦA THẦN DỮ
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6,13). Lời cầu xin cuối trong kinh Lạy Cha mà Chúa Kitô dạy khẳng định hai sự thật mà chúng ta phải không ngừng cảnh giác đó là thần dữ và chước cám dỗ. Cám dỗ loài người có thể nói là việc chính yếu của thần dữ. Đã là Satan thì chước mưu cám dỗ không thể không tinh ranh, ma mãnh. Khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng tin mừng, Chúa Kitô đã phải đương đầu với các chước cám dỗ của Satan trong hoang địa mà cả ba tin mừng nhất lãm đều tường thuật dù có một vài tiểu dị nhưng đều đồng quy về nội dung.
Lấy điều xấu để cám dỗ thì rất dễ bị nhận diện. Vì thế ma quỷ thường lấy điều tốt để làm cái mồi nhữ để cám dỗ người ta. Nó cám dỗ người ta tìm cách thủ đắc điều tốt bằng những phương thế không chính đáng và trái với đường lối của Thiên Chúa. Một quy tắc luân lý mà Hội Thánh Công Giáo khẳng định và những ai có lương tri ngay thẳng thì đều đồng thuận đó là “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Không thể chấp nhận lối biện luận là hễ nhắm mục đích tốt thì có thể dùng mọi phương tiện, nhưng chỉ được phép dùng những phương tiện tốt, hoặc ít ra là không xấu. Xưa kia Satan đã lấy việc phân biệt sự lành sự dữ, vốn là một điều tốt để cám dỗ nguyên tổ loài người. Nhưng nó đã cám dỗ nguyên tổ phân định lành dữ, tốt xấu theo tiêu chí của mình chứ không phải theo thánh ý của Thiên Chúa. Đây là sự ma mãnh, tinh quái của thần dữ và nó đã thắng Ađam-Eva.
Với Chúa Kitô thì Satan vẫn dùng chước mưu ấy. Có thể khẳng định rằng nó thừa biết sứ vụ cứu độ của Đấng Thiên Sai. Ma quỷ không dại gì cám dỗ Người khước từ sứ vụ cứu độ nhân loại, nhưng nó chỉ cám dỗ Người chọn con đường cứu độ cách dễ dàng theo ý riêng Người chứ không theo thánh ý Chúa Cha. Xưa kia ma quỷ cám dỗ tiên tố loài người chủ yếu ở lãnh vực đức tin tức là nơi cái nhìn, ở sự nhận thức về tính chất tốt xấu, lành dữ của sự vật hiện tượng. Với Chúa Kitô thì ma quỷ tấn công cách toàn diện cả ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy và đức mến. Theo tường thuật chung của ba Tin mừng nhất lãm thì thứ tự như bị đảo ngược lại.
1.Đức mến: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá thành bánh đi”. Có thực mới vực được đạo chứ. Chu cấp lương thực, của cải vật chất cho người ta là một hành vi yêu thương cách thiết thực và cụ thể. Với quyền năng của mình, Chúa Kitô thừa sức thực hiện điều ấy. Sự tinh ranh của ma quỷ ở chỗ nó cám dỗ Chúa Kitô yêu thương con người cách phiếm diện, nói nôm na là chỉ lo cho người ta về phần xác. Con người không phải là linh hồn cũng không phải là thân xác mà là thực thể xác hồn duy nhất. Nếu chỉ yêu phần xác hay chỉ phần linh hồn mà thôi thì không phải yêu thương con người. “Người ta sống không nguyên nhờ bởi cơm bánh mà còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Chúa Kitô đã lật tẩy mưu mô của thần dữ khiến nó phải câm miệng.
2.Đức cậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy lên nóc Đền thờ Giêrusalem mà gieo mình xuống, chắc chắn Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đỡ chân ông”(x.Lc 4,9-10). Nếu Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và nếu Người là Cha nhân hậu thì Người phải lo lắng cho chúng ta mọi sự tất tần tật và không thể nào để chúng ta phải lâm cảnh bỉ cực, khốn khổ. Và như thế hạnh phúc vĩnh cửu đã nằm trong túi áo chúng ta cho dù chúng ta không xin và cũng chẳng tìm kiếm. Theo viễn kiến này thì con người đã nắm được Thiên Chúa trong tầm tay. Ỷ lại vào tình cha mà bắt cha làm theo ý mình thì người con đã hữu ý hay vô tình đặt mình lên trên người cha. Trật tự bị đảo ngược thì sinh ra hỗn độn. Loài người chúng ta dù đã được nhận làm con Thiên Chúa nhưng vẫn là loài thụ tạo. Chúng ta phải thực thi thánh ý Thiên Chúa chứ không thể buộc Thiên Chúa làm theo ý mình.
3.Đức tin: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Ma quỷ đã khôn khéo cám dỗ Chúa Giêsu thoả hiệp với nó để đạt thành công nhanh chóng. Quả thật sức mạnh của đồng tiền, của quyền lực vốn thật khó cưỡng. “Có tiền thì mua tiên cũng được. Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Những câu nói trên phần nào phản ảnh hiện thực ấy. Thoả hiệp với quyền lực trần gian để đạt mục tiêu tốt, chẳng hạn như để được dễ dàng sinh hoạt tôn giáo…là một trong những chước cám dỗ mà Giáo Hội chúng ta mọi thời phải đương đầu và lich sử minh chứng rằng đã không lần chúng ta sa chước cám dỗ để rồi phải ăn năn, xin lỗi.
Trong hoang mạc, Chúa Giêsu đã đánh bại ma quỷ nhưng nó vẫn chưa chịu bó tay. Tin mừng tường thuật rằng nó rút lui và chờ dịp khác. Ma quỷ tiếp tục tấn công Chúa Giêsu không chỉ suốt ba năm Người rao giảng tin mừng, mà cả đến những giờ khắc trong vườn cây dầu và phút giây Người hấp hối trên thập giá. Dĩ nhiên với Chúa Giêsu thì ma quỷ đã thất bại hoàn toàn nhưng còn với môn đệ của Người thì sao đây?
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Ước gì lời cầu xin này luôn nhắc nhớ chúng ta cẩn trọng với sự tinh ranh, ma mãnh của Satan để rồi biết tỉnh thức cầu nguyện luôn như lời Chúa Giêsu nói với ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu.
Về mục lục
.
NHỮNG CƠN CÁM DỖ CỦA CHÚA
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh bước vào Mùa Chay thánh. Mùa Chay là thời gian đặc biệt để chúng ta rèn luyện các nhân đức, chiến đấu chống lại các chước cám dỗ bằng cách riêng năng cầu nguyện, chay tịnh và bố thí, nhờ đó mỗi người chúng ta trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô.
Để giúp thực hiện tốt mục tiêu trên, Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Chay giới thiệu với chúng ta mẫu gương Chúa Giêsu trong việc chiến thắng ba cám dỗ ở sa mạc.
Thật vậy, với tư cách là con người, Đức Giêsu đã trải qua những cám dỗ. Điều này minh chứng rằng Người giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15). Người không xin Chúa Cha cất khỏi mình những cám dỗ nhưng Người can đảm đối diện và chiến thắng chúng một cách ngoạn mục.
Chúng ta tìm hiểu ba cám dỗ của Chúa, một đàng, để thấy sự lưu manh và nguy hiểm của ma quỷ; đàng khác, để học hỏi từ sự khôn ngoan và cách thức chiến thắng của Chúa Giêsu trong cuộc chiến thiêng liêng này.
1- Cám dỗ về vật chất
Cám dỗ thứ nhất mà Chúa Giêsu phải đối diện là cám dỗ về “cơm bánh,” hay tiền của. Thánh Luca tường thuật: “Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói” (Lc 4,1-2). Ma quỷ tìm kiếm thời điểm nguy hiểm là lúc Người đói để sập bẫy Chúa. Với tư cách là con người, Chúa Giêsu cũng có nhu cầu ăn uống, dưỡng sức. Ma quỷ xuất hiện rất đúng lúc và đề nghị: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Ngày xưa dân Do Thái cũng bị cám dỗ về miếng cơm manh áo, nên họ không muốn rời bỏ kiếp nô lệ. Thà nô lệ còn hơn là chết đói. Bởi vậy, họ đã kêu trách Môsê và không muốn tiến về đất hứa.
Cũng thế, ngày hôm nay, với chủ nghĩa hưởng thụ duy vật chất và kinh tế thị trường, chúng ta cũng bị cám dỗ về vật chất. Ở phương diện cá nhân, để có tiền của, nhiều người bị cám dỗ chấp nhận bán rẻ nhân phẩm và đạo đức. Ở phương diện quốc gia, nhiều người dám bán rẻ lợi ích dân tộc, đất đai, biển cả, môi trường vì lợi ích nhóm và cá nhân. Đồng tiền thao túng lòng người và san bằng mọi bậc thang giá trị đạo đức. Họ kiếm tiền bằng mọi giá, bằng sự vô luân, lừa lọc và gian lận người khác trong sản xuất, trao đổi hàng hóa và trong các mối tương quan xã hội. Hậu quả của lối sống này là những đổ vỡ và gây ra nhiều thảm họa cho xã hội hôm nay. Chúa Giêsu nhắc nhở rằng: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.” Con người sống vì những giá trị đạo đức, luân lý và tâm linh. Không vì vật chất mà đánh mất giá trị đạo đức, tâm linh và tương quan liên vị. Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống lời khuyên Phúc Âm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
2- Cám dỗ thờ ngẫu tượng
Cám dỗ thứ hai là danh vọng hay thờ ngẫu tượng. “Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người; ‘tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,5-7).
Đây là cám dỗ xuất hiện thường xuyên trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cám dỗ về “quyền lực theo kiểu Mêsia trần thế,” lôi kéo Người đi vào con đường Mêsia theo kiểu “làm vua chính trị” để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang (Ga 6,15). Chúa Giêsu từ chối kiểu Mêsia này, khi chấp nhận trở thành “người nghèo” và “người Tôi Tớ” đau khổ để cứu độ nhân loại.
Xưa dân Do Thái cũng bị cám dỗ này. Trong khó khăn, họ phàn nàn Thiên Chúa, và khi Môsê vắng mặt, họ đã đúc bò vàng và tôn thờ nó như là Thiên Chúa của họ. Họ muốn một Thiên Chúa theo nhu cầu và thị hiếu của mình.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng sản xuất ra nhiều ngẫu tượng và tôn thờ chúng như đối tượng lớn nhất của đời mình: đó là tôn thờ của cải, danh vọng, quyền lực, tiền bạc, hưởng lạc…
Khi bị cám dỗ về danh vọng và quyền lực, Chúa Giêsu không coi những thứ đó như là đối tượng lớn nhất để tôn thờ. Người không sa bẫy của ma quỷ là muốn Chúa tôn thờ ngẫu tượng quyền lực và chạy theo chủ nghĩa “cứu thế” theo kiểu thế gian. Người trả lời với tên cám dỗ: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Lc 4,8).
Quả là bài học cho mỗi người chúng ta: Chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng đáng được chúng ta tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự. Những thứ còn lại chỉ là thứ yếu và là phương tiện cho cuộc sống chúng ta.
3- Cám dỗ thách thức Thiên Chúa
Thua keo này bày keo khác, cuối cùng ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu bằng việc thử thách Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi” (Lc 4,9-10).
Đây là cám dỗ yêu cầu Thiên Chúa thực hiện những điềm thiêng dấu lạ nhằm thỏa mãn ước vọng cá nhân. Xưa dân Do Thái đã làm như thế khi thấy khát trong sa mạc, tại Massa (nghĩa là cám dỗ) và Meriba (nghĩa là kêu trách) họ thách thức Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho dân khỏi khát bằng cách truyền cho Môsê đập gậy trên tảng đá Ôrép, từ đó một mạch nước chảy ra dồi dào.
Ngày hôm nay, chúng ta thường bị cám dỗ muốn kéo Thiên Chúa theo nhu cầu và những sở thích của mình, muốn Thiên Chúa làm những việc lạ kỳ, ngoạn mục và ngoại thường. Chúa Giêsu không sa vào cám dỗ của chủ nghĩa “chiến thắng” và lối đạo đức chạy theo phép lạ. Bởi vì, như có lời đã chép: “Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4,12). Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ này bằng thái độ vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, chúng ta hãy vâng phục thánh ý Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Hội Thánh, chúng ta không rơi vào cám dỗ này.
Như thế, ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc là ba cám dỗ đặc trưng và truyền kiếp mà mỗi người phải đối diện khi sống trong thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tỉnh thức trước mưu ma chước quỷ, bằng việc sống kết hợp với Chúa và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để chiến thắng các chước cám dỗ. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Amen!
Về mục lục
.
SỐNG TIN YÊU
Lm. Jos. DĐH.
Người xưa có câu: vô duyên ghét kẻ có duyên, không tiền ghét kẻ cầm tiền ở tay. Vô duyên, có duyên, không tiền, có tiền, ít nhiều vẫn đang ảnh hưởng đến phong cách sống của nhiều tầng lớp: linh mục, tu sĩ, gia trưởng, hiền mẫu, người trẻ, vì tất cả đều cần đủ duyên, đủ tài, đủ tình yêu thương để tồn tại. Đường lên núi cao phải đối diện với dốc đá trơn trượt, vượt biển cả lẽ nào không có sóng gió nguy nan ? Sinh ra làm người ai chẳng giống ai, đi tu sợ bất thành, lập gia đình cũng đầy gian nan. Có chăng, sức mạnh, tính gan dạ anh hùng là bậc thang đi lên tận cùng của mơ ước ? Không, tình yêu chính là trọng tâm nhằm giúp người ta sống, tình yêu là thước đo của khôn ngoan thật, tình yêu mới minh chứng được lời nhắn gởi của tiền nhân: nhà nghèo mới biết con có hiếu, nước có biến loạn mới hay ai là kẻ trung thành với tổ quốc.
Thánh Thần đưa dẫn Đức Giêsu vào hoang địa để làm gì, hẳn không phải để thử thách Đức Giêsu “vô duyên hay hữu duyên”, đúng hơn là nhằm giúp Đức Giêsu nhận ra tình yêu và sứ mạng của Chúa Cha mời gọi Ngài thực thi. Vượt qua 40 đêm ngày samạc, nhân loại được chứng kiến Một Đức Giêsu đã sống tinh thần: cầu nguyện, chay tịnh, và biết ứng xử trước mọi nguy khó trong đời, tạm gọi là phá tan mọi âm mưu của “tên cám dỗ”. Con người vẫn suy gẫm mạnh mẽ là gì ? và tự trả lời: người mạnh mẽ không phải là người không có nước mắt, nhưng là người biết kìm hãm để nước mắt không rơi một cách vô trật tự. Tên cám dỗ năm xưa phải bỏ chạy để tìm dịp “quấy phá” Đức Giêsu, không phải vì Đức Giêsu mình đồng da sắt hay có trái tim bằng đá, mà đúng hơn, Ngài đã sử dụng tình yêu thương trong phận người và sức mạnh của tình hiệp thông trong Thiên Chúa là Cha.
Tiền nhân chúng ta nhắc nhớ con cháu hãy cẩn thận, không nên chủ quan trước nhiều lối rẽ cuộc đời: làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu. Tại hoang địa năm xưa, Đức Giêsu không dùng quyền phép để biến hoá của ăn nuôi thân xác, Ngài từ chối vương quốc trần gian, và khẳng định không ai được thử thách Chúa là Thiên Chúa yêu thương. Đức Giêsu không nhầm lẫn giữa đói cơm bánh và đói tình yêu thương, không mê muội giữa bổng lộc thế trần với thập giá vinh quang, Ngài tự bỏ mình để sống vâng phục thánh ý Cha trọn vẹn. Tính hấp dẫn của vinh hoa phú quý hôm nay, vẫn là những nấc thang đầy nguy hiểm, chúng đi từ nhu cầu thực tế đến nhiều lý lẽ tinh vi, nhằm hạ gục những tâm hồn thiếu cảnh giác, sống “lờ vờ”, sống dễ dãi với giáo huấn của Chúa.
Cha ông chúng ta cho con cháu một kinh nghiệm để đời: lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai. Đau khổ, đói khát tình thương, thời nào cũng có, được thêm bạn là bớt thù, ai cũng biết, nhưng hiểu bạn, tin bạn, và giúp nhau cùng đạt tới hạnh phúc, luôn là vấn đề không dễ. Xưa hay nay gì cũng vậy, khi sống thánh ý Chúa không phải là ta không gặp khó khăn đau khổ, không phải cứ hy sinh hãm mình, cứ sống chay tịnh ta mới bị cám dỗ, cũng chẳng phải những ai vào samạc 40 đêm ngày mới bị ma trêu quỷ gầm gừ ! Sống thánh ý Chúa hay sống tin yêu Chúa, chắc không phải là lời khuyên hay là một phát hiện mới, thực ra, giáo huấn của Chúa, con đường theo Chúa, không hề có đường ngang lối tắt, mà hệ tại mỗi người biết khôn ngoan sống tình hiệp thông.
Tục ngữ có câu: không vào hang cọp, làm sao bắt được hổ ? Không đối diện với đau khổ, gian nan, lấy gì để minh chứng: lửa thử vàng, gian nan thử đức, tôi sẽ chiến thắng cái tôi ích kỷ của tôi ? Đói khát hôm nay vẫn là đề tài vừa rộng vừa dài, sống đúng, sống đẹp, vẫn mãi là thao thức cần thiết. Khoẻ dùng sức, yếu dùng mưu, luôn là phương thế hữu hiệu, kitô giáo vẫn chủ trương tình yêu, sức mạnh của ơn Chúa, mới đủ khả năng vượt gian khó, và đạt đến hạnh phúc trọn vẹn. Đói cơm bánh, khát quyền lực, mơ ước được thành công, cần được no thoả an vui, bao giờ cũng là chính đáng dối với vương quốc trần gian. Đức Giêsu đã nói lên một chân lý vô cùng chắc chắn: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Nhân loại chỉ khuất phục được những ham hố ở đời này, khi người ta biết sống tin yêu, hiệp thông cầu nguyện và thực thi công bằng với Chúa và đức ái với tha nhân.
Vì nhu cầu đói ăn khát uống, tên cám dỗ yêu cầu Đức Giêsu lấy quyền năng biến hoá sỏi đá thành bánh đáp ứng điều cơ bản để sống. Vì quan niệm không chuẩn xác như thế nào là sống tin yêu, do đó mà không ít kẻ đã nhầm khi nói: có thực mới vực được đạo. Tính hợp lý mà Đức Giêsu hôm nay cho thấy: đừng bao giờ cùng một lúc vừa ăn vừa uống vừa cầu nguyện, cũng chẳng đúng ý Chúa khi ngày này tháng nọ, cứ chắp tay cầu xin Chúa linh thiêng làm phép lạ ban của ăn thức uống cho thần dân ! Người kitô hữu tin Chúa, theo Chúa, chọn Chúa, nhưng sống tin yêu trước hết là phải từ bỏ mình, bỏ ý riêng của mình, cũng là dịp để xa tránh sự xấu ; tiếp đến mỗi người đều phải có sức mạnh cậy trông, sức mạnh của thông hiệp trong tình yêu Ba Ngôi. Amen.
Về mục lục
.
LÀM SAO THẮNG ĐƯỢC CÁM DỖ
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Chúng ta hay nói đến từ “cám dỗ”. Vậy cám dỗ là gì? Hiểu một cách đơn giản cám dỗ tức là nó khêu gợi lòng ham muốn củachúng ta và dẫnchúngta sa ngãchiều theo nó.Có một bạn trẻ nói với tôi rằng: “Con không có ý định xem phimảnhkhiêu dâm nhưng khi đang lướt mạng thì một quảng cáo bất ngờ xuất hiện. Như một phản xạ, con cứ thế mở ra, riết rồi nghiền lúc nào không hay”. Và người khác thì tâm sự rằng:
“Một nữ đồng nghiệp xinh đẹp bắt đầu tán tỉnh tôi. Một ngày nọ, cô ấy rủ tôi đi khách sạn để ‘vui vẻ với nhau’. Tôi biết rõ cô ấy muốn gì”, nhưng tôi đã thắng vượt cám dỗ. Tôi đã không đến điểm hẹn.
Cám dỗ là sự thật luôn xen vào cuộc sống con người. Dù ít dù nhiều thì đã là người luôn phải đứng trước cám dỗ. Điều đáng buồn là cám dỗ đãchiến thắng rất nhiều người chiều theo nó để được thỏa mãn ham muốn cá nhân.
Gần đây nhất là vụ cô gái giao gà chiều 30 tết bị 5 người đàn ông đã bắt giữ 3 ngày để hiếp dâm và giết chết. Họ là những người đã không chiến thắng được sắc dục để rồi chỉ tìm thoả mãn thú tính mà làm những chuyện không còn là một con người.
Đúng như người xưa vẫn nói:Người chết vì tiền, chim chết vì mồi!. Tất cảđều là vì lòng tham gây họa, vì dục vọng mà làmnhững chuyện đê hèn còn thua loài súc sanh.
Con người hơn loài vật là biết thiện và ác và nhất là có đủ lý trí để suy xét và ý chí để chế ngự bản thân. Nếu con người không chiến thắng được chính mình mà chỉ để sống theo bản năng thì đâu hơn loài vật tầm thường. Thế nên, làm người phải thắng được chính mình là thắng được cám dỗ. Đừng vì nuông chiều xác thịt mà làm những chuyện thất đức hại người. Hãy biết kìm chế bản thân thì sẽ thắng được cám dỗ.
Hôm nay, Chúa Giê-su cho ta phương thế thắng được cám dỗ chính là đặt Chúa và lề luật làm trung tâm đời sống chúng ta. Phúc âm kể rằng ma quỷ đã đến cám dỗ Chúa Giê-su.Nó cám dỗ Chúa Giê-su vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biếnthành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng để con ngườiphải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có mộtmình Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người cúimình tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.
Cuộc sống chúng ta luôn đối diện với cám dỗ. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắng ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận yếu hèn củamình màtrông cậy vào ơn Chúa đểvượt thắng cám dỗ. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thờphượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú trầngian. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài.
Về mục lục
.
ĐÓI KHÁT
Lm Vũđình Tường
Đức Kitô vừa là Con Thiên Chúa và là con Đức Trinh Nữ Maria. Ma quỷ không dám cám dỗ Đức Kitô là Con Thiên Chúa; chúng cám dỗ Đức Kitô là con Đức Trinh Nữ Maria. Chính chúng có lần khóc than ông Kitô đến tiêu diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết ông là ai? Lc 4,34.
Đức Kitô chịu cám dỗ xác nhận Ngài là một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính ma quỉ xác nhận điều này khi chúng bắt đầu bằng câu: Nếu ông là Con Thiên Chúa. Bởi không xác tín Đức Kitô là Con Thiên Chúa nên chúng đặt giả thuyết nếu.
Thứ hai, là Thiên Chúa Ngài luôn có Thánh Thần ở cùng. Bởi Ngài xuống thế làm người nên được Thánh Thần Chúa dẫn vào trong hoang địa.
Thứ ba, Ngài cảm thấy đói cho biết Ngài có cảm xúc đói, no, khát, đau khổ, mệt mỏi như chúng ta.
Ma quỉ cám dỗ Ngài ba lần và cả ba lần chúng đều thất bại, bỏ đi. Phúc âm thuật chúng đầu hàng, bỏ đi, chờ cơ hội khác. Điều này có nghĩa chúng sẽ trở lại trong hoàn cảnh khác, cám dỗ dưới dạng khác.
Cám dỗ đầu tiên là tìm cách thoả mãn í riêng mình. Cám dỗ thứ hai liên quan đến việc thu tóm vật chất, dùng thế lực của cải sai khiến người khác. Ma quỉ khoe khoang, chúng biết Đức Kitô (lc 4,34), thật ra chúng không biết Đức Kitô như điều chúng phét lác. Ma quỉ hứa cho Đức Kitô toàn thế gian nếu Ngài thờ lậy chúng. Đáp lại Đức Kitô dậy ‘Được cả thế gian mà đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì có lợi gì? Lc 9,25. Cám dỗ thứ ba liên quan đến bản tính kiêu ngạo. Đây chính là bản tính của ma quỉ.
Cuộc đời rao giảng công khai của Đức Kitô cho thấy Ngài hoàn toàn làm ngược lại điều ma quỉ cám dỗ. Thứ nhất, Ngài không biến đá thành bánh ăn nhưng làm phép lạ biến hai con cá và năm tấm bánh nuôi năm ngàn người ăn, còn dư mười hai thúng đầy Lc 9,10tt. Thứ hai, dân chúng trông đợi Ngài lãnh đạo họ lật đổ chế độ cai trị khắc nghiệt của đế quốc Roma. Ngài đã không làm điều đám đông mong muốn, nhưng giải thoát họ khỏi xiềng xích tội, tha cho kẻ bị ma quỉ giam cầm và giải phóng kẻ ma quỉ ràng buộc, ban cho họ sự sống trường sinh. Điều này chính Ngài công bố trong hội trường khi đọc đoan tiên tri Isaiah loan báo sứ mạng của Đấng Cứu Thế Lc 4,18-19. Thứ ba, Ngài không nhảy từ trên nóc đền thờ xuống như ma quỉ thách đố nhưng tự chọn treo trên cây thập tự để lôi kéo mọi người lên cùng Đức Kitô. Một trong những câu xám hối đầu lễ cộng đoàn tuyên xưng ơn Cứu Chuộc do linh mục đại diện cộng đoàn tuyên xưng: Đức Kitô được treo lên để kéo mọi người lên theo. Sau đó là câu chính Ngài vác thập giá, gánh tội gian trần. Cộng đoàn đáp: Xin Đức Kitô thương xót chúng con.
Cả Đức Kitô lẫn ma quỉ đều trích dẫn Cựu Ước trong đối đáp, tuy nhiên có sự khác biệt rất lớn. Ma quỉ biết Cựu Ước nhưng chúng không có lòng yêu mến Kinh Thánh. Đức Kitô không những đã kính trọng mà còn yêu mến Kinh Thánh với tất cả tấm lòng. Hiện nay ta vẫn nghe trong các tiệc tùng hay ngay cả chính trị gia dùng Kinh Thánh biện luận cho í kiến của họ. Chúng ta cầu xin cho bọ biết yêu mến và chân thành kính trọng Kinh Thánh.
Qua cuộc thử thách của ma quỉ với Đức Kitô, chúng ta học được nhiều bài học quan trọng.
Thứ nhất, đừng bao giờ chống lại các cơn cám dỗ bằng sức riêng, hay khôn ngoan riêng nhưng luôn trông cậy vào sức mạnh Lời Chúa. Chính Đức Kitô làm điều đó.
Thứ hai, cơn cám dỗ tự nó chưa phải là tội, sẽ trở thành tội khi ta cộng tác với ma quỉ thực hành điều chúng cám dỗ. Từ chối lắng nghe lời dụ ngon ngọt của chúng, chúng không thể cưỡng bách hay ám hại ta khi ta từ chối cộng tác với chúng.
Thứ ba, Thánh Thần Chúa hướng dẫn Đức Kitô và Ngài nghe lời Thánh Thần, cũng Thánh Thần đó Chúa ban cho ta khi lãnh nhận phép Thanh Tẩy, nên ta xin ơn biết nghe hướng dẫn của Thánh Thần. Từ chối nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần là cám dỗ thông dụng nhất và nguy hiểm nhất bởi như thế là mở toang cửa đón ma quỉ vào nhà.
Thứ tư, đừng vội mừng khi thấy ma quỉ bỏ đi, chúng bỏ đi rồi sẽ tìm cơ hội trở lại vì thế luôn cảnh giác, cầu nguyện luôn. Ma quỉ đói khát trong việc cám dỗ các linh hồn; trái lại, Đức Kitô khao khát cứu vớt các linh hồn.
Về mục lục
.
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_C
Lm. Bosco Dương Trung Tín
Sống giản dị thì nên công chính.
Ăn ở khiêm nhường thì được cứu độ.
“Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính.
Có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10).
Mùa Chay là mùa ăn năn sám hối. Mùa Chay đã về và Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình ăn năn sám hối. Thế nhưng ăn năn sám hối là gì? Theo Giáo Lý Công Giáo thì: “Ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm; dốc lòng chừa, từ nay không phạm tội nữa” (x.GLCG, số 1451). Có hai cách ăn năn tội. Cách trọn và cách chẳng trọn.
Khi chúng ta ăn năn vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì gọi là ăn năn cách trọn. Việc ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu chúng ta quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt(x. GLCG, số 1452).
Còn cách ăn năn chẳng trọn là nó xuất phát từ việc thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc sợ hình phạt trầm luân đời đời, cũng như hình khổ khác mà kẻ tội lỗi phải chịu. Việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích thống hối.(x. GLCG, số 1453).
Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã nói: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (x. Mc1,15).
Theo tôi, Sám hối và tin vào Tin Mừng chỉ là hai mặt của một đồng tiền; hay nói theo thời nay, đó là “2 trong 1”. Nghĩa là Sám Hối là tin vào Tin Mừng và Tin vào Tin Mừng là Sám Hối. Làm sao ta ăn năn sám hối nếu ta không tin vào Tin Mừng, không tin vào Lời Chúa; không tin vào lòng thương xót của Chúa ? Và làm sao nói được là ta tin vào Tin Mừng mà chẳng thấy nên tốt lành và thánh thiện gì? Chẳng lẽ ta chỉ tin ngoài môi miệng thôi sao?
Thánh Phao-lô nói thật là chí lý: “Có tin thật trong lòng mới được nên công chính. Có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ”. Có thể nói:
Có tin vào Tin Mừng ta mới được nên công chính.
Có ăn năn sám hối ta mới được cứu độ.
Để được cứu độ ta phải có lòng ăn năn sám hối. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu, Giám Mục, thì có đến 5 con đường để ăn năn sám hối: một là lên án tội lỗi mình; hai là tha thứ lỗi lầm cho người thân cận; ba là cầu nguyện; bốn là bố thí và năm là ăn ở khiêm nhường. (Trích Bài đọc 2 Kinh Sách Thứ ba, tuần 21 Thường niên, trang 105).
Năm chủ đề này, tôi sẽ khai triển trong các Chúa Nhật Mùa Chay, từ Chúa Nhật thứ I đến Chúa Nhật thứ 5.
Trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay này, tôi sẽ khai triển chủ đề thứ năm, đó là Sống giản dị và ăn ở khiêm nhường. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu, “Cách sám hối này tiêu diệt tội lỗi tận căn. Người thu thuế đã làm chứng điều đó. Anh ta không kể ra được những việc lành, nhưng thay vào đó, anh đã dâng lên lòng khiêm tốn của mình và trút được gánh nặng tội lỗi”. Nói cách khác, mọi tội lỗi đều do lòng kiêu ngạo mà ra. Nên, nếu mà ta sống giản dị và ăn ở khiêm nhường thì ta sẽ tiêu diệt được tội lỗi trong ta. Có thể nói:
Sống giản dị thì nên công chính.
Ăn ở khiêm nhường thì được cứu độ.
Lần dở lại dụ ngôn người Pha-ri-siêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, ta sẽ thấy được cách sám hối này (x. Lc 18 9-14).
“Người Pha-ri-siêu, đứng thẳng và cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn chúa vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần; con dâng cho Chúa một phần mười hoa lợi của con” (câu 11-12).
“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (câu 13). Hết sức ngắn gọn và chính xác.
Và Chúa kết luận: Tôi nói cho các ông biết, người thu thế này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Pha-ri-siêu kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (câu 14).
Quả thực, hạ mình xuống và sống khiêm tốn không phải dễ, có mấy ai sống được như vậy. Có tập cả đời không biết trên trần gian này có được mấy người. Hạ mình là coi người khác hơn mình và khiêm tốn là yêu thích âm thầm; yêu thích những gì hèn mọn, những việc nặng nhọc, dơ bẩn, khó khăn,….; không chơi trội, không kể công, không khinh khi người khác,….
Ta hãy học gương hạ mình và khiêm nhường của Đức Giê-su trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 4,1-13). Đức Giê-su là Chúa, thế mà Ngài lại để cho ma quỉ cám dỗ. Dầu vậy, Ngài đã hạ mình và khiêm cung dùng Lời Chúa để đối phó với sự ma mãnh của ma quỉ.
Khi Chúa bị ma quỉ cám dỗ nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh đi”(Lc 4,3). Một lời khích bác !!!!
Nhưng Đức Giê-su bình tĩnh trả lời: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Có nghĩa là không cần phải làm chuyện đó. Người ta sống còn nhờ vào những điều khác nữa, như rau củ, trái cây, mì gói, bún bò, bún mắm, bún riêu, vv….. Và cũng chẳng cần phải truyền làm chi, cứ bỏ công bỏ sức ra làm việc; rồi có tiền; rồi lấy tiền đó mà mua cơm hộp, mua bánh bì mà ăn. Đâu có gì khó! Đừng sống vì một lời khích bác; những lời khích bác đầy ác ý.
Khi ma quỉ cám dỗ mà nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền ấy đã được ban cho tôi và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,6-7). Thật là láo cá !!!!!!
Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Đã có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”(Lc 4,8). Nghĩa là ngươi đừng láu cá, hãy biết thân biết phận của mình.
Và khi ma quỉ cám dỗ mà nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, mà đứng đây gieo mình xuống đi. Vì đã có lời chép rằng: Thiên Sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4,9-10). Thật là ranh ma !!!!! Ma quỉ lại dùng Lời Chúa để cám dỗ nữa chứ. Câu đó, ma quỉ trích trong Thánh vịnh 90, 12. Đức Giê-su, đâu có khùng; Ngài sống Lời Chúa, chứ đâu có hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen mà gieo mình từ trên cao xuống. Gieo mình xuống kiểu đó thì tan xương nát thịt; chết không kịp ngáp. Ai cũng biết mà, đừng bắt Chúa phải làm phép lạ. Và Chúa chỉ vào mặt ma quỉ mà nói: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Lc 4, 12).
Cuối cùng thì ma quỉ phải đầu hàng và chịu thua. Đức Giê-su đã dùng sự hạ mình và khiêm tốn để chiến thắng được ma quỉ đấy. Bởi đó, ta cũng hãy noi gương bắt chước mà sống hạ mình và khiêm tốn như Chúa. Ta cũng sẽ chiến thắng hết mọi cơn cám dỗ ở thế gian này.
Ai hạ mình sẽ được nên công chính.
Ai sống khiêm tốn sẽ được cứu độ.
Còn kẻ tự cao sẽ thất bại và kẻ kiêu ngạo có ngày sẽ sụp đổ.
Vậy ta hãy Sống giản dị và ăn ở khiêm nhường. Vì ai ăn ở khiêm nhường đương nhiên sẽ sống giản dị. Khiêm nhường mới là cái chính; còn giản dị thì đi theo sau. Đó là cách sám hối thiết thực và có lợi cho ta trong Mùa Chay này.
Về mục lục
.
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_C.
Về mục lục
.
CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Con người sống trên đời luôn bị quay cuồng bởi nhiều cám dỗ. Nhà thơ Trần Tế Xương đã gọi mặt đặt tên những cám dỗ ấy thành “ba thứ lăng nhăng nó quấy ta”, đó là trà, rượu và đàn bà. Người ta vẫy vùng muốn thoát khỏi những cám dỗ, nhưng không dễ dàng, vì cám dỗ như chiếc lưới bủa vây ràng buộc, càng vùng vẫy càng mắc sâu hơn.
Với cuộc sống tiện nghi của thời đại hôm nay, cám dỗ không dừng lại ở “ba cái lăng nhăng” như thời Cụ Tú Xương, nhưng đa dạng và nguy hiểm hơn nhiều. Một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất lôi kéo chúng ta, đó là chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình có thể thay thế Ngài trong đời sống hằng ngày.
Thực ra, đây không phải là một cơn cám dỗ mới. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị ma quỷ cám dỗ. Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta lại được chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc. Nơi đây, Người đã chiến đấu với ma quỷ đang dụ dỗ Người từ bỏ sứ mạng thiên sai mà Chúa Cha trao phó. Ma quỷ còn hứa cho Chúa tất cả vinh hoa phú quý ở đời, miễn là sấp mình thờ lạy nó. Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ.
Cám dỗ phủ nhận Thiên Chúa và muốn thay thế Ngài, đó cũng là cám dỗ của ông bà Nguyên tổ ở khởi đầu của lịch sử. Ông Ađam và bà Evà đã nghe con rắn dụ dỗ, muốn được thông minh và quyền năng như Thiên Chúa. Ông bà đã muốn đổi ngôi, từ thân phận thụ tạo thành vị trí “đấng sáng tạo”. Cơn cám dỗ ở đầu lịch sử vẫn luôn hoành hành và gặm nhấm mỗi người chúng ta, nhất là trong xã hội hiện đại hôm nay, khi con người cậy dựa vào những phát minh của khoa học và tự cho rằng kỹ nghệ sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Nhiều phong trào xã hội mượn danh “dân chủ”, “văn minh” đã muốn loại bỏ Thiên Chúa và giáo huấn của Ngài và thay thế vào đó là những ý thức hệ vô thần, hoặc nền văn hoá sự chết. Có những cơn cám dỗ mang khuôn mặt khả ái, những chức danh mỹ miều hoặc nhân danh lòng đạo đức, nhưng thực ra nó chứa nọc độc, nhằm lôi kéo con người xa Chúa. Khi chối bỏ Thiên Chúa, nhiều người muốn tôn thờ vinh hoa phú quý như một thứ thần linh. Họ coi của cải, giàu có là mục đích tối thượng của cuộc đời. Họ quên rằng, tiền bạc không phải bao giờ cũng đem lại cho con người hạnh phúc. Một khi vắng bóng Thiên Chúa, cuộc đời này sẽ thiếu vắng tình yêu và tràn lan những hận thù.
Trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2016 này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về tình trạng sự mù loà của con người thời nay trước nỗi khổ của tha nhân, và do đó, họ ảo tưởng trong những quan điểm về cuộc sống. Ngài viết: “Lời ma quỷ nói với Bà Evà: Bà sẽ nên giống Thiên Chúa” (St 3, 5), là gốc rễ của mọi tội lỗi. Ảo tưởng này có thể mang những hình thức xã hội và chính trị, được biểu lộ nơi hệ thống độc tài toàn trị của thế kỷ XX, và trong thời đại của chúng ta, nơi những ý thức hệ độc quyền về tư tưởng và khoa học công nghệ, loại trừ Thiên Chúa và giảm thiểu con người thành thứ vật chất đơn thuần để khai thác bóc lột. Ảo tưởng này cũng có thể được thấy trong những cơ cấu tội lỗi liên quan đến mô hình phát triển sai lầm đặt nền trên việc tôn thờ tiền tài, dẫn đến việc thiếu quan tâm về thân phận người nghèo nơi một số cá nhân và xã hội giàu có hơn; họ đóng chặt cửa mà chẳng thèm đếm xỉa đến người nghèo”.
Mùa Chay giúp chúng ta nhìn nhận thân phận mình, với biết bao yếu đuối và lỗi lầm, rất cần được Chúa tha thứ và đỡ nâng. Ông Môi-sen đã chỉ dẫn cho người Do Thái, khi đến dâng của lễ, hãy thưa với Chúa về nguồn gốc du mục của mình và nhớ lại những điều tốt lành Ngài đã làm với tổ phụ họ (Bài đọc I), nhờ đó, họ dâng của lễ với lòng tri ân chân thành và đáng được Chúa chấp nhận. Nhìn nhận thân phận mình sẽ giúp chúng ta khiêm tốn và sám hối sửa mình, và nhờ đó, chúng ta được đón nhận lòng Chúa xót thương.
“Đã có lời chép: ‘Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Chúa Giêsu đã tuyên bố với tên cám dỗ như vậy. Đây cũng là lời giáo huấn dành cho chúng ta, là những tín hữu. Như Chúa Giêsu đã trung thành với sứ mạng, dù phải chấp nhận thập giá, mỗi chúng ta được kêu mời kiên vững trong Đức tin, dù phải trải qua phong ba bão táp của cuộc đời.
Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những cám dỗ chúng ta gặp trong đời là thước đo sự trưởng thành của chúng ta trong Đức tin và sự tín thác vào Chúa. Thánh Phaolô nói với chúng ta về một Đức tin đích thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Bài đọc II). Lời cầu nguyện của Phụng vụ khi bước vào Mùa Chay: “Hôm nay, chúng con bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng…” đã nói lên mục đích của mùa Phụng vụ này. Xin cho Mùa Chay thánh này giúp chúng ta tìm được sức mạnh, sự bình an và niềm vui thánh thiện. Amen.
Về mục lục
.
CÁM DỖ
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?
Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?
Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?
Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?
Về mục lục
.
ƠN LÀM CON CHÚA
Lm. Jos. DĐH
Người xưa nhắc nhớ con cháu với những vần điệu hết sức ý vị : con ơi muốn nên thân người, lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha. Thầy cô mong trò giỏi, cha mẹ muốn con hay; người đời cũng quan niệm : cha chính là người thầy đầu tiên của đứa trẻ; nếu mẹ ngoảnh mặt đi, con dại, mẹ ngoảnh lại, con khôn. Ai đang làm thầy, hẳn đã có kinh nghiệm về tháng ngày làm thợ. Ai đang làm cha mẹ, cũng đã qua năm tháng làm con, nên hiểu thế nào là được chăm sóc giáo dục. Những ai đã là người trưởng thành, nhất định sẽ không thể quên, biết bao ký ức tuổi thơ của mình. Niềm vui chung của đại gia đình nhân loại, vẫn luôn gợi lên nhiều tâm tình đáng yêu : con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ.
Hành trình của Đức Giêsu nơi hoang địa, không phải là tìm vẻ vang cho gia đình, cũng không phải để suy tư về ý nghĩa thế nào là tài giỏi. Nói “văn hoa” hơn, nơi hoang địa Đức Giêsu tìm gặp được “chức vị làm Con” đối với Cha trên trời. Nếu không có niềm tin, mọi người chỉ biết đến cha mẹ theo huyết thống, nếu thiếu tình yêu, gia đình chỉ có công bằng theo lý lẽ : ăn đồng chia đủ. Tin-mừng chúng ta vừa nghe cho biết Thánh Thần đã dẫn Ngài đến hoang địa, tại nơi thanh vắng ấy, Đức Giêsu phải đối diện với nhiều khó khăn, gọi chung là cám dỗ.
Vì mang bản tính loài người, Đức Giêsu cũng cần Thánh Thần hướng dẫn, để biết cầu nguyện, biết mình là ai, để nhận ra đâu là thánh ý Chúa Cha. Hành trình đời người Kitô hữu, đau khổ, khó khăn, còn gọi là cám dỗ triền miên, nhưng trước hết, ai cũng phải ý thức mình là con Thiên Chúa, được Đức Giêsu yêu thương, để rồi ta biết sống đúng thánh ý Chúa. Tại hoang địa, Đức Giêsu chia sẻ, cảm thông với chúng ta về “chức vị làm Con” Thiên Chúa của Ngài, dù cầu nguyện và có Thánh Thần, nhưng Ngài vẫn phải đối diện với cám dỗ. Khi chiến thắng cám dỗ, Đức Giêsu đã thực hành ơn ban rõ ràng hơn, đâu là ý Chúa, là tình yêu, là con đường cứu độ.
Ngày hôm nay, người Kitô hữu chúng ta vẫn quan niệm, bị cám dỗ là điều chẳng hay ho gì, nếu có bị cám dỗ làm điều xấu thì nên im lặng, dại gì mà chia sẻ. Cám dỗ nặng nề hơn cả mà mỗi hôm nay cần phải nhận ra, đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta là con cái trong đại gia đình của Đức Kitô. Có Thánh Thần dẫn Đức Giêsu vào hoang địa, hẳn không phải là Thiên Chúa nghi ngờ sự trung thành của Chúa Con. Có cám dỗ xảy ra ở hoang địa, không phải là Chúa Cha không yêu thương Chúa Ngôi Hai. Đúng hơn, Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu để học bài học cầu nguyện và nhận ra tình yêu và sứ mạng của Chúa trao cho mỗi chúng ta.
Những ai thức đêm, sẽ cảm nhận được thế nào là đêm dài, những ai được khôn ngoan đức độ, hẳn phải thấu hiểu tất cả những gì họ có đều do họ biết cầu nguyện, biết khám phá ra họ được Thiên Chúa yêu thương. Mang thân phận bất toàn, đã từng vượt qua những khó khăn, tất nhiên ta sẽ hiểu giá trị của tình yêu tùy thuộc vào việc thắng mình, thắng con người tội lỗi của mình. Sự xấu có thể làm mờ đi hình ảnh Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu. Sự xấu có thể làm con người nghi ngờ Thiên Chúa đang ruồng bỏ, ghét bỏ ta, ta không được Chúa yêu thương.
Nhờ đời sống kết hiệp cầu nguyện, Đức Giêsu khuất phục được khó khăn cám dỗ, Ngài đã mạnh mẽ công bố : “người ta sống không nguyên bởi bánh. Ngươi phải bái mình thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và thờ lạy mình Ngài mà thôi. Ngươi không được thử thách Thiên Chúa là Chúa người”. Đồng ý rằng, nhu cầu ăn uống không phải là vô lý, nhưng nếu để “cơm áo gạo tiền” chi phối, người ta không thể thờ phượng, hiểu và thực hành Lời Chúa cách xứng hợp được.
Cám dỗ ở giai đoạn nào, hoàn cảnh nào, cũng luôn tạo ra cho ta cảm giác “hợp lý, được phép”, khi đưa ta tới suy nghĩ tiêu cực : vì ta nghèo, vì xác thịt ta yếu đuối, vì ta đông con rồi, vì Chúa nhân từ, Ngài sẽ không oán phạt ta…. Ơn gọi làm con Chúa nơi ta sẽ không bao giờ mất đi, khi ta thật lòng khiêm tốn để Thánh Thần hướng dẫn cầu nguyện, hiểu biết ý Chúa, và thực hành Lời Chúa. Đi vào sa-mạc 40 đêm ngày như Chúa Giêsu có thể khó đối với chúng ta, nhưng “vâng nghe Thánh thần”, cầu nguyện trong tín thác như Chúa Giêsu, nhờ ơn Chúa chúng ta sẽ thực hiện được.
Chúa Giêsu rất cần chúng ta khiêm tốn cảm nhận tình yêu thương của Đấng bậc sinh thành : cha là núi, mẹ là sông; để rồi ta biết kính trọng các ngài, biết ơn dưỡng dục, và biết sống yêu thương các ngài. Đặc biệt, đó cũng kết quả chúng ta nhận ra ơn gọi làm con Chúa và Hội Thánh, chúng ta biết sống yêu thương, biết hiệp thông cầu nguyện, và nhanh chóng thực thi thánh ý Chúa mỗi ngày. Amen.
Về mục lục
.
THÍCH KHOE CỦA
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Mùa chay chúng ta thường nói đến ba việc đạo đức không thể thiếu là ăn chay, cầu nguyện, và làm việc bác ái. Ba việc này giúp con người yếu đuối có dịp đền bù tội lỗi bằng hy sinh hãm mình trong chay tịnh để diệt trừ tính hưởng thụ, nuông chiều tính xác thịt, cùng cầu nguyện để trông cậy ơn Chúa giúp sửa bỏ lỗi lầm, nhất là biết làm việc bác ái để đền bù những lỗi công bằng bác ái với tha nhân.
Đây là việc tốt, việc nên làm, nhưng đáng tiếc nhiều người lại làm nhưng thiếu lòng sám hối chân thành. Dường như họ chỉ làm để phô trương việc danh thế nhiều hơn là vì muốn thăng tiến bản thân.
Đây là căn bệnh thành tích mà ngày nay người ta nói nhiều hay nói đến. Thích hoành tráng mà không cần cốt lõi. Thích khoe khoang bản thân mà sẵn sàng phung phí tiền của bừa bãi. Họ là loại người mà dân gian gọi là người thích phô trương.
Có thứ phô trương do sĩ diện, do tâm lý “con gà tức nhau tiếng gáy” và để thích “oai”, thích “oách” hơn người. Nhưng cũng có thứ phô trương nhằm mục đích trục lợi được ẩn hiện dưới nhiều hình thức hết sức kín đáo ngay cả trong việc bác ái, từ thiện . . .
Thói phô trương, huênh hoang đã trở thành một nhu cầu, một thói quen trong cuộc sống của họ đến mức không khoe những việc mình làm thì không thể nào chịu được. Việc nhỏ họ cũng khoe. Việc lớn càng khiến họ đánh bóng tên tuổi mình. Dường như khoe khoang phô trương là cách họ thỏa mãn tính tự cao tự đại của họ.
Có anh chàng tính hay khoe khoang. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua để người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.
Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to:
– Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra, bảo:
– Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!
Đây là truyện cười “Lợn cưới áo mới” trong kho tàng văn học Việt Nam. Cha ông ta muốn mượn tình huống hài hước, khoe khoang của hai người đàn ông để phản ánh và chế giễu những người có lối sống khoe của một cách quá trớn, khoe không có điểm dừng và không khéo léo. Hai anh khoe của chạm trán nhau, họ rất tự nhiên bộc lộ bản tính của mình nhưng dẫu thế nào cũng không giấu được thói khoe của, khoác lác đến nực cười, đến lố bịch. Câu chuyện là một bài học đầy ý nghĩa cho chúng ta trong cuộc sống.
Khởi đầu Mùa Chay Chúa Giê-su cũng nhắc chúng ta cần phải có tâm tình khiêm nhường trong các hành vi đạo đức. Làm việc đạo đức không phải để khoe khoang mình sốt sắng hơn người khác. Việc đạo đức của mình không phải để dạy người khác hay để đánh bóng tên tuổi mình. Việc đạo đức chúng ta làm là vì mến Chúa và mong muốn hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.
Thế nên, sự sám hối chân thành là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để đề ra phương thế canh tân đời sống qua 3 việc cụ thể là: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Đây là việc đại đức để mình đẹp lòng Chúa hơn chứ không phải để mình được người khác khen thưởng tán dương.
Xin cho mùa chay thánh được sinh hoa kết trái tốt trong đời sống của chúng ta nhờ những việc lành phúc đức mà chúng ta làm vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn qua việc hy sinh chay tịnh, cầu nguyện và bác ái. Amen.
Về mục lục
.
CƠN CÁM DỖ ĐỜI NGƯỜI
Lm. GB Văn Hào
Một triết gia đã nói: “Sống là tranh đấu”. Trong kiếp sống làm người, chúng ta phải đấu tranh liên lỉ để chọn lựa giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hạnh phúc và đau khổ, đặc biệt lựa chọn giữa sự sống và sự chết. Đây là quy luật muôn đời của cuộc sống nhân sinh.
Bước vào mùa chay, chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu. Khi mang thân phận con người, Ngài cũng phải chiến đấu, vượt qua những thử thách và cám dỗ để thực hiện sự lựa chọn căn bản. Đó là lựa chọn con đường Thập giá hầu thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã trao phó.
Ý nghĩa của thử thách và những cơn cám dỗ
Ngạn ngữ pháp có câu: “Người ta dùng lửa để thử vàng, dùng vàng để thử đàn bà, dùng đàn bà để thử đàn ông”. Tình, tiền, tài luôn là những miếng mồi nhử hấp dẫn, và sự cám dỗ về những tham sân si vẫn luôn xảy đến trong kiếp người. Một nhà tu đức đã nói: “Tiền bạc có thể giúp ta xây được một căn nhà sang trọng nhưng chưa chắc đã là mái ấm gia đình. Tiền bạc có thể khiến ta có được những cô gái xinh xắn nhưng chưa chắc đã là một người vợ hiền thục. Tiền bạc giúp ta quen biết được nhiều người, nhưng chưa chắc họ là những bạn bè tốt”. Bởi vì, tiền bạc chỉ là phương tiện giúp ta kiến tạo hạnh phúc, nhưng lúc nào nó cũng giống như con dao hai lưỡi. Khi ma quỷ tấn công Chúa Giêsu, nó cũng dùng bả sang giàu phú quý như một miếng mồi nhử. Nơi chúng ta cũng vậy, tiền bạc vẫn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất luôn tấn công để gặm nhấm nhân cách con người. Nó lúc nào cũng trở nên như một ‘con bò vàng’ của thời đại hôm nay khiến chúng ta dễ cúi đầu bái lạy giống dân Do Thái trong sa mạc năm xưa.
Tương tự như thế, những nhu cầu của thân xác như việc ăn uống nghỉ ngơi là những nhu cầu chính đáng để con người duy trì sự sống. Nhưng từ nhu cầu để sinh tồn chuyển sang lối sống hưởng thụ chỉ cách một bước. Sống tiện nghi an nhàn để thụ hưởng là một hình thái duy vật mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã từng cảnh báo. Kiểu sống như thế sẽ dần gậm nhấm đức tin, làm xói mòn tình yêu của chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa.
Những vinh quang trần thế mà ma quỷ đưa ra nhằm chiêu dụ Đức Giêsu cũng là một cái bẫy rất nguy hiểm đối với chúng ta, vì thói ưa thích thượng tôn cái tôi ích kỷ nơi mỗi người. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói hơi cường điệu rằng khi chúng ta chết đi, 15 phút sau cái tôi của chúng ta mới chết hẳn. Cái tôi đó vẫn đeo bám dai dẳng, và đi sâu vào phận người.
Đây là những cám dỗ căn bản vẫn luôn xảy ra trong cuộc sống. Chúa Giêsu cũng từng trải qua những cơn cám dỗ như thế trong hoang mạc năm xưa. Ngài đói, ma quỷ đến xúi Ngài biến đá thành bánh để ăn. Ngài nhìn thấy những sang giàu trần thế khi đứng trên núi cao, ma quỷ chỉ vào những của cải đó như một miếng mồi nhử. Ngài là con Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng, ma quỷ xúi bẩy Ngài gieo mình xuống đất. Đó là những mưu chước rất thâm độc. Nhưng cuối cùng, Chúa Giêsu đã chiến thắng và không bao giờ đầu hàng trước mưu chước của quỷ dữ.
Trong cơn đói cồn cào, Chúa Giêsu đã không chọn bánh để ăn nhưng luôn tìm thánh ý Chúa Cha làm lương thực nuôi sống mình. Đứng trước sự giàu sang phú quý, Đức Giêsu đã chọn cho mình một lối sống khó nghèo tận căn để hiến trao tất cả, ngay đến cả mạng sống. Đặc biệt đứng trước mồi nhử vinh quang, Đức Giêsu đã không nghe lời ma quỷ gieo mình xuống đất, nhưng đã chọn treo mình lên cao, lên đỉnh cao của Thập giá để khai mở chân trời cứu độ cho con người.
Vì thế, những thử thách đến trong cuộc đời mỗi người hôm nay luôn hàm ngậm ý nghĩa sâu xa. Đó là quà tặng Thiên Chúa gửi trao để tôi luyện đức tin chúng ta. Vàng thử lửa, gian nan thử anh hùng. Mẫu gương Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay là bài học chúng ta phải học mãi, học cho đến suốt đời.
Thử thách để tôi luyện đức tin
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng đọc cuốn sách ‘Thép đã tôi thế đấy’. Tác giả nêu ra mẫu gương của anh chàng Paven, một con người đầy nghị lực đã vượt qua bao thử thách để luôn trung thành với lý tưởng cách mạng. Nhưng đây chỉ là một câu chuyện hư cấu mang tính phóng đại và huyền thoại. Còn đối với các Kitô hữu, chúng ta có một mẫu gương có thật và rất sống động là chính Đức Giêsu. ‘Thép’ trong trái tim Ngài đã được ‘tôi’ rất kỹ, và cao điểm của quá trình tôi luyện là Ngài đã bị phân thây trên Thánh giá cách nhục nhã như một tên cướp. Ngài là hình mẫu, là lý tưởng và là đối tượng duy nhất của niềm tin chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: “Trong khi người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá”. Cũng vậy trong bài đọc hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nhắc lại niềm tin này và mời gọi chúng ta nhìn vào Thập giá Đức Kitô để kiện cường đức tin mỗi ngày. Thánh Tông đồ viết: “Lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 8-9). Niềm tin vào Đức Kitô phải được tôi luyện qua những gian nan và thử thách. Có như thế chúng ta mới đạt đến đức tin kiên định và luôn bám chặt vào Thập giá Đức Kitô. Nhà văn Nikos Kazanzakis viết một câu chuyện giả tưởng với tựa đề “The last temptation of Christ” (Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa). Cho dù đó chỉ là một câu chuyện hư cấu, nhưng nhà văn cũng muốn nói lên rằng những thử thách và cám dỗ trong cuộc đời con người chúng ta luôn có liên hệ mật thiết với Thập giá Chúa Giêsu.
Kết luận
Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Antôn tu rừng ngày xưa. Một bữa nọ trong khi Thánh nhân cầu nguyện, ma quỷ hiện lên và nói với Ngài : “ Tại sao các ông chiến đấu và tấn công tôi dữ dằn như vậy?”. Thánh nhân hỏi ngược lại: “Tại sao ma quỷ chúng mày cứ hay cám dỗ chúng tao?”. Ma quỷ trả lời: “Chúng tôi đâu có cám dỗ các ông. Sự ác đã bén rễ nơi tâm hồn mỗi người giống như một cục than hồng đặt sẵn ở đó. Bổn phận của chúng tôi chỉ là đứng bên ngoài để quạt cho cục than cháy đỏ lên mà thôi”.
Chúng ta đã bắt đầu bước vào mùa chay, mùa chiến đấu và tập luyện thiêng liêng. Xin Chúa Thánh Thần ở bên chúng ta mọi ngày. Ngày xưa Thần Khí đã đưa Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ tấn công. Xin Chúa Thánh Thần cũng ở cận kề chúng ta trong cuộc sống sa mạc trần gian hôm nay giữa bao thử thách.
Về mục lục
.
ĐỨC GIÊSU BỊ CÁM DỖ
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.
Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45;18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).
Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.
Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi. Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.
Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt.4, 15; 2, 17). Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.
Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng”. Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Theo bạn, làm sao để dễ vượt thắng cám dỗ?
Bạn có nghĩ Đức Giêsu bị cám dỗ thật không? Tại sao bạn có quan điểm như vậy?
Về mục lục
.
TÍN HỮU BỊ CÁM DỖ CÁCH RIÊNG VỀ ĐIỀU GÌ?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô hữu, dầu là các linh mục – tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.
Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Kitô hữu?
Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ – bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.
Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:
– Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?
– Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?
– Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?
Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!
Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu Kitô, cho dầu là…” A-men.
Về mục lục
.
CẨN TRỌNG TRƯỚC CÁC CƠN CÁM DỖ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong hành trình tin và theo Chúa, hẳn mỗi người đều có kinh nghiệm về cám dỗ và thử thách. Có những cám dỗ không đáng kể, nhưng cũng có những thử thách chẳng đơn giản chút nào! Trước những thử thách và cám dỗ, có người coi là bình thường, lại có người cho là cam go, có người đứng vững, có người lung lay và có người ngã gục.
Tại sao lại có nhiều tâm trạng và thái độ cũng như kết cục như vậy? Thưa! Rất đơn giản, đó là khi thử thách và cám dỗ xảy đến, ta nhìn nó dưới khía cạnh nào, nhất là ta chiến đấu với ai và chiến đấu như thế nào?
Để hiểu rõ hơn về các hình thức cám dỗ cũng như cách chiến đấu trước thử thách, chúng ta sẽ lần lượt đi từ cám dỗ của dân Israel đến Đức Giêsu và sau cùng là chúng ta. Qua đó rút ra cho mình bài học để sống trong Mùa Chay Thánh này.
Cám dỗ của dân Israel
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn dân Israel làm dân riêng, và đã yêu thương, bao bọc, trở che, nhất là đã dẫn họ ra khỏi Aicập, đưa vào Đất Hứa. Tuy nhiên, trên hành trình đó, họ đã gặp phải không ít khó khăn, thử thách, khiến dân không còn trung thành với Giao Ước đã ký kết với Thiên Chúa nữa.
Vì thế, họ đã vấp phải những cám dỗ:
Thứ nhất, cám dỗ về nhu cầu thân xác. Thiên Chúa đã yêu thương, nuôi dân bằng Manna và chim cút, thế nhưng, họ đã không cảm nghiệm được tình thương, ngược lại, đã tiếc nuối “củ hành, củ tỏi” bên Aicập, để rồi phàn nàn trách móc Thiên Chúa.
Thứ hai, khi Môsê lên núi để gặp Chúa lâu giờ, dân sốt ruột, nóng lòng, nên ở dưới, họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa bằng việc đề nghị Aharon cho đúc bò vàng để tôn thờ thay Thiên Chúa. Đây là cơn cám dỗ thờ ngẫu tượng.
Thứ ba, trải qua hành trình sa mạc, dân phàn nàn, trách móc, thách thức Thiên Chúa và đòi Người phải thi hành theo ý họ. Đây là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Tất cả những cám dỗ đó, dân Israel đều ngã ngục vì lý do: không nhớ đến tình thương của Thiên Chúa và không biết phó thác nơi Người.
Cám dỗ của Đức Giêsu
Nếu dân Israel cũ đã ngã gục trước cả ba loại hình cám dỗ, thì Đức Giêsu, vị thủ lãnh của dân Israel mới, Ngài cũng từng trải qua ba cơn cám dỗ tương tự, tuy nhiên, Ngài đã chiến thắng hoàn toàn.
Kinh Thánh kể lại: sau khi Đức Giêsu đã trải qua hành trình dài 40 đêm ngày chay tịnh trong sa mạc, ma quỷ đã lợi dụng đúng lúc cao điểm này để tấn công Đức Giêsu.
Cơn cám dỗ thứ nhất: khi chúng phát hiện thấy Đức Giêsu đói, nó đã tiến lại và lên tiếng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi” (Lc 4,3).
Khi cám dỗ Đức Giêsu thỏa mãn cơn đói như vậy, ma quỷ muốn đánh vào các đam mê lạc thú để thỏa mãn nhu cầu thân xác. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chiến thắng bằng việc tuyên bố: “Đã có lời chép rằng: ‘người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh’” (Lc 4,4).
Sang cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đánh vào tâm lý ham hố danh vọng, nhất là nó khơi gợi quyền lực, háo thắng. Vì thế, chúng đã nói với Đức Giêsu: “Nếu ông bái lạy tôi thì tất cả các nước thiên hạ sẽ thuộc về ông” (x. Lc 4, 7).
Tuy nhiên, như lần đầu, Đức Giêsu cũng đã chiến thắng và khẳng định rằng: Ngài chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa (x. Lc 1,32b), vì thế, không có lý do gì khác khiến Ngài tôn thờ chúng (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).
Cơn cám dỗ sau cùng, ma quỷ khơi gợi sự kiêu ngạo bằng việc thách thức Đức Giêsu thi thố quyền năng để gieo mình từ nóc đền thờ xuống (x. Lc 4,10). Qua cơn cám dỗ này, chúng muốn Đức Giêsu đi vào vết xe đổ của hắn, của Tổ tông và của dân Israel xưa kia!
Tuy nhiên, lần cuối cùng này, chúng cũng thất bại trước phản ứng của Đức Giêsu: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4, 12; x. Đnl 6,16).
Lý do Đức Giêsu chiến thắng cả ba cơn cám dỗ trên, ấy là vì Ngài đã đặt trọng tâm Thiên Chúa vào trong cuộc sống của Ngài. Vì thế, sự chiến thắng của Ngài là chiến thắng trong và nhờ Thiên Chúa.
Cám dỗ của chúng ta
Những cơn cám dỗ của dân Israel, rồi đến Đức Giêsu sẽ mãi mãi là chiêu thức ma quỷ đặt ra cho chúng ta.
Trước tiên, về nhu cầu thân xác: khi hắn thấy việc ăn uống của con người là điều kiện không thể thiếu nếu muốn tồn tại. Vì thế, chúng luôn tấn công ta bằng thái độ: “Sống để ăn chứ không phải ăn để sống!” Nó cũng thường xuyên cám dỗ ta về nhu cầu xác thịt, ăn chơi đàn điếm để thỏa mãn bản năng…. Nhiều người đã mắc phải cạm bẫy này, nên: “Cực lạc sinh bi ai”.
Thứ đến, đó là cơn cám dỗ về lợi lộc: là con người, ai lại chẳng thích được sung túc, lợi lộc, danh vọng, quyền lực… Hiểu được tâm lý đó, nên chúng luôn tìm cách đánh vào huyệt trọng yếu của ta. Trước cám dỗ này, nhiều người đã nhắm mắt, bán linh hồn và trở thành nô lệ cho chúng, vì thế, không lạ gì khi có quá nhiều người chỉ vì một chút lợi lộc thức thời, mau qua, chóng hết mà đã chấp nhận bán rẻ lương tâm, trà đạp người khác, sống trên mồ hôi, xương máu của anh chị em mình.
Cơn cám dỗ cuối cùng, ma quỷ đánh vào tính kiêu ngạo của chúng ta. Thật thế, lòng tham sân si, háo danh, muốn hơn người là cái đích mà nhiều người nhắm tới. Vì thế, ta thấy có nhiều người chấp nhận ăn mày tiếng khen. Biết được tâm lý đó, nên ma quỷ thường xuyên tung ngón đòn thâm hiểm, độc địa này để dụ dỗ chúng ta, bởi vì kiêu ngạo, háo danh là con đẻ của chúng.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Như những gì đã tìm hiểu ở trên, chúng ta thấy: con người là đối tượng để ma quỷ cám dỗ. Vì thế, lời tiên báo của Đức Giêsu cho Phêrô đáng để chúng ta cảnh giác: “Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Rồi từ chính kinh nghiệm cá nhân, thánh nhân nhắc nhở: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Như vậy, cám dỗ là nghề của ma quỷ, vì thế, mọi cơn cám dỗ dù lớn hay nhỏ, dù lâu hay mau, nó đều đi đến mục đích cuối cùng là làm sao cho con người phạm tội.
Đứng trước các cơn cám dỗ, chúng ta không được phép coi nhẹ hay giám khinh! Nhưng như Đức Giêsu, chúng ta hãy lấy đức khiêm nhường làm nền tảng, lấy sự hy sinh làm sức sống và lấy Lời Chúa làm võ khí. Như thế, ta mới hy vọng chiến thắng (x. Pl 4,13).
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa đã chiến đấu và đã chiến thắng cạm bẫy của Xatan. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa để đối trọi với những cám dỗ trong đời sống thường ngày của mình. Amen.
Về mục lục
.
NOI GƯƠNG CHÚA GIÊSU ĐỂ CHIẾN ĐẤU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro, với nghi thức truyền thống bỏ Tro lên đầu, khai mạc Mùa Chay Thánh. Ba việc phải làm là : ăn chay, cầu nguyện và bố thí, vì nó diễn tả ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để sống tốt Mùa Chay Năm Thánh, và đặc biệt cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta chuyên chăm lắng nghe Lời Chúa, dành “24 giờ cho Chúa”. Đức Thánh Cha muốn xóa bỏ sự thờ ơ trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này khi viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).
Lễ Tro vừa qua, ngài nhắc nhớ các tín hữu : “Mùa chay là thời điểm thuận tiện để cắt tỉa sự giả dối, tinh thần trần tục và dửng dưng ; cần thanh tẩy tâm hồn và cuộc sống để tìm lại căn tính Kitô, nghĩa là tình yêu thương phục vụ, không phải tính ích kỷ lạm dụng” (Bài giảng Lễ Tro 2016).
Thật thế, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để thay đổi hướng đi, lấy lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn thách thức chúng ta. Đây là thời gian hoán cải trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân, canh tân cá nhân và cộng đoàn, sống thái độ sự nhưng không và lòng thương xót của Chúa.
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố “Chúa Giêsu…được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2). Theo Luca thì chính Chúa Thánh Thần là Ðấng dẫn đưa Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-13). Đời sống người Kitô hữu chúng ta được hướng dẫn bởi cùng một Chúa Thánh Thần, đã được lãnh nhận trong Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, được mời gọi đương đầu với cuộc chiến đấu hằng ngày của đức tin, nhờ ân sủng của Chúa Kitô nâng đỡ. Chúng ta cùng xem Chúa Giêsu bị cám dỗ thế nào và Người đã chiến thắng tên cám dỗ ra làm sao.
Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Thực ra, để kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường thập giá, quỷ đã bày ra trước mắt Chúa Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Ðấng Messia : sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan. Các chiêu ma quỷ dùng để cám dỗ Ađam và Evà (x. St 3,1-7), nó cũng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu và chúng ta ngày hôm nay nữa.
Cám dỗ thứ nhất: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho đá này biến thành bánh” (Lc 4,3) Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Từ « nếu » của Satan gợi lên sự không tin như khi cám dỗ Ađam và Evà ( x. St 3,1-7). Chúa Giêsu có thể hoàn tất các phép lạ là lẽ đương nhiên. Nhưng, cuộc đối đầu với Satan ở đây là rơi vào bẫy chết nó đề nghị Chúa Giêsu làm một phép lạ theo ý mình. Cám dỗ nằm ở chỗ : dùng sức mạnh của mình để làm phép lạ, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không làm thế, Người trích dẫn sách Đệ Nhị Luật “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa” (Đnl 8,3).
Quyền lực là để phụng sự Thiên Chúa Cha và phục vụ anh em. Cách nào đó, tất cả chúng ta đều bị cám dỗ tương tự. Chúng ta có ơn huệ, nhưng sống ích kỷ, không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Điều quan trọng đối với chúng ta không phải là của ăn vật chất, ý riêng mình, nhưng là vâng theo ý Chúa tình yêu và tìm kiếm thánh ý Người …
Cám dỗ thứ hai: liên quan đến sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ma quỷ cung cấp cho Người một phương thế đơn giản để hoàn thành Nước Chúa. Nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian cũng như vinh quang của nước ấy và nói: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông! ” (Lc 4). Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu phán : “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi” (Đnl 6,16).
Cám dỗ thứ ba: Nó vừa nghe Chúa Giêsu trích dẫn Kinh Thánh, nó cũng làm như vậy : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá ” (Tv 91,11). Tất nhiên, chúng ta có thể tự hỏi, cám dỗ ở đâu khi mà Satan khơi lên niềm tin vào Thiên Chúa và trích dẫn Kinh Thánh?
Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu thấy ngay lập tức và chiến đấu với nó bằng đoạn khác của Kinh Thánh: “Ngươi đừng thử thách Chúa, là Thiên Chúa ngươi” (Đnl 6,16). Trong thực tế, những điều ma quỷ yêu cầu Chúa, không gì khác hơn ngoài việc nhằm cám dỗ Chúa, buộc Chúa Cha phải làm một phép lạ. Điều này có nghĩa là bắt Thiên Chúa phải phục vụ chúng ta khi mà chúng ta là kẻ phục vụ!
Rõ ràng, mục đích không biện minh cho phương tiện ! Mục đích của Chúa Giêsu là mang đến cho chúng ta Triều đại Nước Thiên Chúa, nhưng không theo kiểu thế gian, Nước Chúa không thuộc về thế gian. Cám dỗ này liên quan đến điểm trên, vì để đi đến cùng đích của chúng ta là tốt, nhưng đôi khi dùng những phương tiện, có thể chôn vùi hay cắt đứt sự sống… thế giới hôm nay, có quá nhiều tà thần chiếm vị trí trung tâm, khiến Thiên Chúa bị đẩy ra ngoài… cần biết các tà thần trong ta để chiến đấu, cần có Chúa Thánh Thần. Với ơn Chúa giúp, có Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta bước vào trận chiến thiêng liêng này, cuộc chiến mới hòng chiến thắng.
Lạy Mẹ Maria, xin trợ giúp chúng con. Amen.
Về mục lục
.
CƠ HỘI
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng ta lại có cơ hội trở về với chính mình để sám hối ăn năn. Mỗi người sẽ rất vui khi chứng kiến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và mọi người thân cận trong gia đình dành nhiều thời giờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Những giọt nước mắt ăn năn sám hối và trở về là niềm vui lớn cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn và cả các thiên thần trên thiên đàng cũng vui mừng. Mùa chay như là trạm dừng để giúp cho chúng ta tìm lại được hướng đi, sửa lại những lỗi lầm và trau dồi thêm các nhân đức. Mầu tím mùa chay giúp chúng ta gợi nhớ thân phận tro bụi bọt bèo như mây trôi và gió thoảng. Bản chất của thân xác của chúng ta bởi tro bụi và một ngày nào đó cũng sẽ trở về bụi tro. Mùa Chay không chỉ là mùa của sự than van khóc lóc lỗi lầm, nhưng là cơ hội để chúng ta phấn đấu thắng vượt chính bản thân mình qua việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện.
Tác giả Sách Đệ Nhị Luật đã nhắc nhở cho toàn dân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân Người. Ngài đã bao bọc chở che qua mọi giai đọan thăng trầm của lịch sử. Ngài đưa Dân vào miền đất Ai-cập sinh sống để trở thành một dân tộc vĩ đại. Khi bị người Ai-cập ngược đãi hành khổ, Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt và dẫn đưa về miền Đất Hứa: Thiên Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập (Đnl 26, 8). Cảm nghiệm được tình thương yêu, ấp ủ và đùm bọc của Thiên Chúa, dân chúng đã có những nghi lễ dâng hoa qủa đầu mùa để cảm tạ tri ân: Và bây giờ, lạy Thiên Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con (Đnl 26, 10). Tâm tình biết ơn của cha ông đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lòng tri ân là tinh hoa của cuộc sống con người.
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội để học hỏi, suy gẫm và thực hành sống đạo. Trong bài Phúc âm, thánh Luca đã diễn tả sự kiện Chúa Giêsu vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Các cơn cám dỗ xem ra rất thực tế có thể đáp ứng các nhu cầu đang cần thiếu. Qua nhiều ngày ăn chay nhịn đói, ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu: Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! (Lc 4, 3). Dễ thôi! Chúa có dư đủ uy quyền để biến đổi đá thành bánh cũng như nước thành rượu. Việc biến đổi trong tầm tay nhưng Chúa đã không chiều theo ý của ma quỉ. Chúa Giêsu đã dùng lời trong Kinh Thánh để hướng tới một loại bánh khác cao trọng hơn, đó là bánh lời Chúa.
Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ tìm cách độc hại hơn để cám dỗ: Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” (Lc 4, 6-7). Thật dễ dàng, chỉ việc bái lạy ma quỉ thì được sở hữu tất cả vinh hoa lợi lộc. Chúa Giêsu nhận diện sự ma quái và ranh mãnh của cơn cám dỗ. Chúa dứt khoát dùng lời Chúa đế đáp trả rằng ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ma quỉ tước đoạt quyền cai trị và tự làm sở hữu chủ. Đây là cạm bẫy khá hấp dẫn. Đã có biết bao nhiêu người đời rơi vào những danh vọng hão huyền này. Các hoàng đế, vua chúa, nhà cầm quyền và các chế độ bạo quyền tham lam dành dật vinh hoa phú quí trần gian, tất cả cũng đã qua đi như cánh hoa phù du sáng nở tối tàn.
Ma quỉ không bao giờ chịu thua. Những nhu cầu vật chất không thuyết phục được, chúng lại giở quẻ mới để thách thức: Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!(Lc 4, 9). Đặt điều kiện, nếu…thì… rất thuyết phục. Khêu gợi sự tò mò và đánh vào lòng kiêu ngạo như xưa thần Lucifer muốn nên bằng Thiên Chúa. Ngày xưa tổ tiên Adong và Evà cũng đã bị sa chước cám dỗ vì những câu hỏi tò mò và gợi lòng tham sân si. Chúng ta lưỡng lự đôi đường chỉ vì luyến tiếc các dịp thỏa mãn bản năng đòi hỏi mà thôi. Chọn lựa thái độ dứt khoát với dịp tội luôn là cửa ngõ dẫn vào sự bình an thanh thản.
Khi một ngày mới mở ra, mỗi người đều có cơ hội làm việc thiện hay việc ác, làm sự lành hay sự dữ, vui hay buồn và có thể thành công hay thất bại. Tất cả tùy theo sự chọn lựa thái độ sống của chúng ta. Việc thiện, điều lành, niềm vui là những dấu hiệu tốt và tích cực. Thành công hay thất bại thì còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chung quanh, nhưng chúng ta vẫn có thể có thái độ lạc quan, vì thất bại là mẹ thành công. Sự quyết định chọn lựa đúng sẽ giúp chúng ta sống an vui và thư thái. Bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cơ hội: Cơ hội có thể tốt hoặc xấu và cũng như có dịp tốt hay dịp tội. Thái độ chọn lựa sẽ dẫn chúng ta đi vào những lối khác nhau có khi nghịch chiều. Có những cơ hội xấu dẫn ta đến cùng đường lạc lối. Khi gặp cơ hội tốt và dịp thuận lợi, việc làm của chúng ta sẽ sinh hoa trái tốt lành.
Người ta thường nói về dịp tội hay cơn cám dỗ, nếu chúng ta không tỉnh thức, ắt sẽ bị rơi vào bẫy sập của ma quỉ. Dịp tội là những cánh cửa đón mời chúng ta tò mò bước vào thế giới ảo. Cơ hội đến với mỗi người qua rất nhiều cách thế khác nhau. Cám dỗ đi vào lầm lạc có rất nhiều lối ngõ. Có những cơ hội lúc đầu xem ra rất đơn gian, nhưng kết cục đưa đến những hậu qủa khó lường. Kinh nghiệm cuộc đời cho chúng ta thấy có nhiều người đã hủy hoại cuộc đời, nên phóng lao đành phải theo lao. Cái xấu này níu kéo cái xấu kia. Cởi nút này lại thắt nút nọ. Đôi khi có người nghĩ rằng đã lỡ, cho lỡ luôn hay đời đã dang dở lỡ bước và dù bước lùi hay bước tới cũng vẫn dở dang. Khi bước vào cạm bẫy thì khó có thể rút chân ra. Trải qua thời gian, có biết bao cơ hội mà chúng ta đã sinh lợi trong gian dối. Nhiều khi chúng ta cũng đang say mê trong lầm lạc, nhưng không muốn nhìn nhận sai lầm. Vì ham danh lợi về của cải vật chất mà chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và đức công bằng. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm!
Sau ba lần cám dỗ thất bại, ma quỉ chờ dịp khác: Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4, 13). Cuộc đời của chúng ta cũng thế, cạm bẫy của sự dữ giăng giăng khắp nơi. Danh, lợi và thú là ba đầu mối của các cơn cám dỗ trong đời sống con người. Cạm bẫy về lợi lộc vật chất, ma túy và say mê trong đời sống thường ngày như: Bài bạc, hút sách, trai gái, nghiện ngập rượu chè, cá độ, tham nhũng, lừa đảo, bất công và các thứ trò chơi bạo lực hại mình và hại người. Cơ hội ban đầu của tất cả các dịp tội cũng chỉ là thử đỏ đen, thử thời vận và thử tìm cảm giác lạ, nói rằng thử thôi mà, không sao đâu! Các cơn cám dỗ lúc nào cũng nhẹ nhàng mời mọc, hấp dẫn, dịu ngọt và có thể đáp ứng ngay những nhu cầu đòi hỏi của ước muốn bản năng. Thời cơ xấu tạo nên dịp tội xấu. Nếu không đủ bản lãnh, chúng ta không nên thách thức, dây dưa và đối đầu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ và dịp tội giống như cái lờ bắt cá có hom. Nguyên tắc của các bẫy sập là sự hấp dẫn của mồi nhử. Sập bẫy chui vào rọ rồi thì khó lòng tìm lối thoát ra.
Trong thơ của thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Rôma, Ngài viết: Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin (Rm 10, 8). Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Tin, tuyên xưng và thực hành lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ: Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ (Rm 10, 10).
Lạy Chúa, chúng con không thể tránh mọi cơn cám dỗ đang bủa vây chung quanh. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.
Về mục lục
.
CÁM DỖ NGỌT NGÀO
Trần Bình An
Một căn phòng bé nhỏ, khiêm tốn nằm ở phía tây nam Rome là nơi thật khá bình dị đã diễn ra một cuộc chiến ác liệt giữa cái thiện và cái ác. Tuy thế, chính ở nơi đây, Cha Gabriele Amorth đã thực hiện gần 70.000 công thức trừ quỷ của mình trong suốt 26 năm qua.
Vị Linh Mục 86 tuổi người Ý thuộc Tu Hội Thánh Paul và là chuyên gia trừ quỷ chính thức của Giáo Phận Roma giải thích sự khác biệt: “Cái gọi là sức mạnh thông thường là những điều có hấp lực lôi cuốn con người xa rời Thiên Chúa và rồi đưa con người vào hỏa ngục. Thế lực này nhắm đến tất cả mọi người, không phân biệt là nam hay nữ, dù ở bất cứ vùng miền nào, theo hay không theo một tôn giáo nào trên thế giới.” Ngài phân loại các biểu hiện sức mạnh bất thường của Satan thành bốn loại: (1) ma quỷ ám; (2) ma quỷ quậy phá, giống như trường hợp cha Thánh Padre Pio bị ma quỷ đánh đập; (3); ma quỷ ám ảnh, có thể dẫn một người bị quỷ ám đến tình trạnh tuyệt vọng và nguy hiểm; (4) và có khi ma quỷ hiện ra ở một nơi, thành con vật hay thậm chí thành một vật gì đó.”
Ngài đặc biệt lo lắng bởi vì số lượng người trẻ bị ảnh hưởng bởi Satan thông qua các giáo phái, những buổi gọi hồn, cầu cơ lên đồng, và việc dùng ma túy cùng với những chất gây nghiện khác ngày càng tăng. Tuy thế, cha không bao giờ thất đảm, tuyệt vọng. Cha nói: “Với Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria, Thiên Chúa đã hứa với chúng ta rằng Người sẽ không bao giờ cho phép những cám dỗ vượt quá sức của chúng ta.” Do đó, ngài đưa ra một hướng dẫn rất thực tế mà mọi người đều có thể sử dụng trong cuộc chiến chống lại Satan. “Trước hết, (1) những sự cám dỗ của ma quỷ sẽ bị đánh bại bằng cách tránh xa các dịp hay hoàn cảnh đưa đến cơn cám dỗ (đào vi thượng sách, hay tránh xa dịp tội), bởi vì ma quỷ luôn luôn tìm ra những điểm yếu nhất của chúng ta, và kế đến (2), bằng lời cầu nguyện.” Thật không ngạc nhiên chút nào, “Chúa Giêsu Kitô” là tên cha Amorth luôn luôn kêu cầu để trừ tà. Tuy nhiên, cha cũng tìm đến những người thánh thiện để xin các vị đó hỗ trợ cho cha những lời cầu nguyện, hy sinh. Cha nói rằng, trong những năm gần đây, một người – Chân Phước Giáo hoàng John Paul II – là vị đã can thiệp cách đặc biệt mạnh mẽ cho cha trong việc trừ quỷ. Và sự can thiệp mạnh mẽ nhất? Cha Amorth nói tiếp, “Tất nhiên, khi các bạn cầu bầu, thì Đức Mẹ Maria là Đấng can thiệp hiệu quả nhất!” ” Vì sao vậy? Ma quỷ trả lời: “Bởi vì ta càng lấy làm nhục khi bị một tạo vật loài người (Đức Maria) đánh bại hơn là bị Người (Đức Giêsu Kitô) đánh bại ta.”
Ngài nhắc nhở mọi người rằng việc trừ tà chính là việc cầu nguyện, và, như vậy, các Kitô hữu có thể cầu nguyện để giải thoát một linh hồn hay thoát khỏi tay ma quỷ. Tuy nhiên, ba điều cần thiết: “Chúa Giê-su đã cho các Tông Đồ một câu trả lời và câu trả lời này rất quan trọng đối với chúng ta, những người có thể trừ quỷ được: Người nói rằng để trừ được quỷ, các con cần phải: (1) có đức tin, (2) cầu nguyện và, (3) ăn chay nhiều hơn.” (Philip Tran chuyển ngữ, dmhcg.org)
Để trừ khử được quỷ ám, Cha Gabriele Amorth đã sống đời tu trì thật nghiêm nhặt, luôn luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, đúng như lời răn dạy của Đức Giêsu:“Loại (quỷ) đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay” (Mc 9, 28)
Tin Mừng thánh Luca trong Chúa Nhật I Mùa Chay tường thuật Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ. Sau 40 ngày chay tịnh, Người cảm thấy đói, liền bị quỷ dụ dỗ Người hoá đá nên bánh mà ăn, cùng những cám dỗ rất ngọt ngào, quyền lực và danh vọng.
Cám dỗ nhục dục
Đáp lại cơn cám dỗ thân xác đói lả, Đức Giêsu chỉ vắn gọn trả lời: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa”(Đnl 8,3). Bởi vì như Người tiết lộ sau này:“Lương thực của Ta là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Ta, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34) Không bao giờ chịu làm nô lệ cho xác thịt, bản năng và những ham muốn nhục dục, Đức Giêsu hoàn toàn luôn vâng phục Đức Chúa Cha, cùng chu toàn Thánh Ý. Mặc dù, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, bản năng sinh tồn vùng lên mãnh liệt, khiến Người phải khẩn thiết cầu cứu Chúa Cha: “Lạy Cha nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha.” (Lc 22, 42)
Cám dỗ nhục dục, không chỉ mưu cầu ăn uống no nê, áo quần tươm tất, nhưng còn đòi hỏi ăn ngon, mặc đẹp, hợp thời trang. Cũng như cám dỗ vật chất phù phiếm mưu tìm của cải thừa mứa, nhà cao cửa rộng, tiện nghi, xe cộ sang trọng… khiến con người vô tình trở nên nô lệ nhu cầu bất tận, lặng lẽ biến thành nô lệ cho cải phù vân chóng hư hao, mất mát. Trong khi Đức Giêsu chỉ đơn giản lội bộ đi rao giảng khắp chốn, cũng chẳng có một mái nhà trú chân.“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu.”(Mt 8, 20).
Người đến thế gian để giải thoát con người khỏi mù quáng lệ thuộc vào phương tiện mưu sinh, khỏi bén rễ vào cõi tạm, mà quên đi cùng đích cuộc đời chính là Quê Trời. “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy (được chắc chắn) nhờ nơi của cải.” (Lc 12, 15)
Cám dỗ quyền lực
Hầu như ở đời ai cũng khó cưỡng nổi đam mê quyền lực và vinh quang thế gian, dù ở bất cứ thân phận sang hèn nào, chứ không riêng gì người quyền cao chức trọng. Người nông dân hay công nhân cũng có thể bắt chẹt người tiêu dùng hay người thuê khoán, để phát huy quyền lực mặc dù rất hạn hẹp và giới hạn. Lý do chính là hầu như ai cũng đều âm thầm tự kiêu, tự mãn, cho mình vượt trội tài năng, giỏi hơn người, muốn tiến thân, khuất phục, chà đạp, hay coi rẻ tha nhân chỉ là bậc thang củng cố quyền lực.
Do đó, khi con người tự cao, tự đại, tự tôn, chính là thần thánh hoá chính mình, vô tình trở nên nô lệ chính mình. Nói cách khác, người ta vô tình trở nên nô lệ cho quyền lực, khi dốc toàn sức, toàn năng lực, để chiếm đoạt hay thâu tóm quyền hành nào đó. Trong khi chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, mà thụ tạo con người phải biết ơn, cảm tạ, ca ngợi, tôn kính, bái thờ mà thôi. Như Đức Giêsu đã phán dạy:“Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi.”(Đnl 6, 13)
Cám dỗ danh vọng
Lời cám dỗ quá sức ngọt ngào, êm ái: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá.“ Lại còn rất hợp tình, hợp lý, lô gích hết sức, vì quỷ dữ còn viện đến Thánh Vịnh 91, câu 11-12. Nhưng Đức Giêsu vô cùng tỉnh táo, hoàn toàn cảnh giác, đề phòng, không dễ dàng sập bẫy quỷ dữ, cũng đáp lại bằng Kính Thánh, sách Đệ Nhị Luật, chương 6, câu 16: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!”
Chúa muốn nêu tấm gương khiêm hạ, không ham chuộng hư danh, đừng dại dột thách thức Thiên Chúa, cũng đừng lợi dụng lòng nhân ái của Người để vụ lợi. Vì cái bả danh vọng mà người đồng hương Nazareth đã thất vọng ê chề, khi Đức Giêsu từ chối làm phép lạ. Họ cay cú, phẫn nộ, vì Người vạch trần cái thói háo danh rất phổ biến mọi thời, mọi nơi.
Thường tình, ai cũng mặc nhiên ít nhiều nhiễm thói háo danh, mong được thiên hạ ca tụng, khen ngợi, nịnh hót, tâng bốc. Cái bả danh vọng thường làm cho con người sinh ra kiêu căng, tự cao, tự đại, vĩ cuồng, coi thường, khinh rẻ người khác. Thánh Phaolô từng khuyên nhủ tín hữu miền Galát: “Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị nhau.“ (Gl 5, 26) Hay trong Thư gửi thư tín hữu ở Philipphê, thánh Phaolô còn khẩn khoản: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.” (Pl 2, 3-4)
“Kiêu ngạo là ăn cướp ơn Chúa, vinh danh Chúa, để làm của riêng con, công nghiệp con.” (Đường Hy Vọng, số 511)
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót cho chúng con thấm nhuần gương chiến đấu của Chúa, chống lại những cám dỗ ngọt ngào của nhục dục, quyền lực và danh vọng. Xin giúp chúng con bước vào Mùa Chay Thánh, biết thành tâm chay tịnh và sốt sắng cầu nguyện, hầu tiết chế những ham muốn xác thịt, những khuynh hướng tà tâm, bất chính, những thói háo danh, háo lợi, kiêu căng vị kỷ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, dẫn dắt chúng con vào Mùa Chay Thánh, ăn năn, sám hối, chay tịnh, can đảm chế ngự bản năng, từ bỏ những ảo ảnh thế gian phù phiếm, để hướng tâm hồn trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên, thêm sức chống trả thành công mưu chước ma quỷ, cùng làm việc phúc đức với tha nhân. Amen.
Về mục lục
.
MA QUỶ CÁM DỖ
Lm Trầm Phúc
Mùa chay đến. Chúa Giêsu xưa kia, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu ma quỉ cám dỗ. Chúng ta cũng phải chịu cám dỗ. Thánh Luca và các thánh sử đều nói đến biến cố nầy. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc chiến chống lại ma quỉ, tiêu diệt nó và cứu chúng ta khỏi ách nô lệ của nó. Hôm nay, chúng ta cùng với Ngài bước vào giai đoạn thử thách cam go, chống lại thần dữ. Hãy nhìn Ngài chiến đấu để chúng ta cũng theo Ngài chiến đấu. Đây là giai đoạn khởi đầu và sẽ được tiếp tục đến đỉnh đồi Can vê.
Những cơn cám dỗ nầy chứng tỏ Chúa Giêsu là người thật và là Thiên Chúa. Là người, Ngài mang lấy sự yếu đuối của con người, chịu cám dỗ như mọi người. Là Thiên Chúa, Ngài chứng tỏ uy quyền của Ngài khi chiến thắng ma quỉ.
“ Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Đây là một lời khiêu khích tự ái của con người. Nếu ông là Con Thiên Chúa, sao ông lại để cho mình đói như thế nầy ? Nếu ông là Con Thiên Chúa sao không chứng tỏ uy quyền của mình ? Evà trong vườn địa đàng đã bị kích thích như thế : Sao bà không ăn lấy trái nầy ? Bà sẽ được như Thiên Chúa.
Evà đã thất bại khi nghe lời khiêu khích đó. Ma quỉ là thần linh, chúng ta là xác thịt. Thánh Phaolô cũng cảnh báo giáo dân xưa kia : Anh em chiến đấu không phải với người phàm mà với thần linh”. Nó tinh vi hơn chúng ta, nhanh nhẹn hơn chúng ta.Vua Đavít xưa kia cũng đã bị cám dỗ vì sắc đẹp của một phụ nữ, và đã sa ngã. Trong sách Đệ nhị Luật, Môsê đã nói : “ Chúa thử thách các ngươi để xem các ngươi có yêu mến Chúa không”. Ông Giób bị cám dỗ năng nề, nhưng ông một lòng trung thành với Chúa.
Chúa Giêsu chịu cám dỗ để cho chúng ta thấy, phải tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, vâng giữ lời Người chứ không nghe lời ngon ngọt của ai cả. Tôn thờ là nhìn nhận quyền tuyệt đối của Chúa trên chúng ta, vì thế trung thành với Chúa là điều hợp lý. Và Chúa luôn bênh đỡ những kẻ kính sợ Người. Chúa không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Thánh Phaolô đã rên siết trong những cơn quẩn bách của Ngài, nhưng Chúa đã nói với ngài “ ơn Ta đủ cho ngươi”.
Tại sao chúng ta sa ngã ? Có rất nhiều lý do. Vì chúng ta không nương tựa vào Chúa, chúng ta chỉ chiến đấu với sức mọn hèn của chúng ta, chúng ta liều mình vào dịp tội và chỉ thích làm theo ý mình.
Chúng ta thích an nhàn thư thái, chúng ta tưởng cuộc sống là một chuỗi ngày êm đềm. Không thể có sự an nhàn khi không chiến đấu cam go. Tất cả đều phải trả giá. Trong đời sống thường ngày, có mối lợi nào mà tự nhiên có sẵn ? Một học sinh, muốn thành công trong việc học hành, phải trả giá bằng những năm học miệt mài. Một nông dân muốn có được mùa phải canh tác suốt bao nhiêu tháng dài. Chúng ta muốn hạnh phúc với Chúa cũng phải trả giá bằng hy sinh bỏ mình, chống lại những cơn cám dỗ, bằng sự trung thành không sứt mẻ. Chúng ta chịu ảnh hưởng của tội nguyên tổ. Kinh thánh cũng cho chúng ta biết thân phận tội lỗi của chúng ta : “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”. Muốn cứu chúng ta, Chúa phải đến trong thân phận con người và chấp nhận mọi khốn khổ và cả cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài đã trả giá. Chúng ta đòi được hạnh phúc mà không cần chịu cực sao ?
Chúng ta muốn chiến thắng trong cuộc chiến cam go nầy không ? Hãy làm như Chúa Giêsu : hãy sử dụng Lời Chúa. Trong những cơn cám dỗ, Chúa Giêsu chỉ sử dụng lời Chúa thôi. Đó là một loại khi giới hữu hiệu nhất, vì Lời Chúa là sức mạnh sáng tạo, là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi…” Lời Chúa sẽ làm ma quỉ câm miệng, giúp cho chúng ta khôn ngoan để có thể phân biệt điều gì đẹp lòng Chúa. Nhờ đó chúng ta kiên trì chiến đấu chống lại sự dữ. Vã lại, chúng ta chiến đấu chưa đến nỗi đổ máu. Hãy năng đọc và suy gẫm lời Chúa.
Để chống trả những cơn cám dỗ, chúng ta có một thứ khí giới khác, đó là cầu nguyện. Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày không ăn uống gì cả, Thân xác Ngài yếu mệt, nhưng tâm hồn cường tráng. Ma quỉ chạm vào đã phải choáng váng. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ : “ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Ngài cũng dạy chúng ta cầu nguyện : “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Cám dỗ là chuyện thường ngày, vì ma quỉ không bao giờ buông tha chúng ta. Nó là tạo vật của Chúa nhưng nó đã trở thành kẻ thù của Người và như thế, nó là kẻ thù của chúng ta, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, thánh Phêrô đã cảnh báo chúng ta như thế.
Cầu nguyện không chỉ là đọc kinh mà là sống thân mật với Chúa, trò chuyện với Chúa, tâm sự với Ngài. Ngài thích nói chuyện với chúng ta nhưng đa số chúng ta không nói chuyện với Ngài, chúng ta tưởng Chúa không nghe hay Chúa xa xôi quá, đang lúc Ngài ở trong ta, gần hơn bất cứ ai. Tâm sự với Chúa là một sự êm đềm không tưởng được, nhưng nhiều người không biết điều đó. Thật là một điều đáng tiếc. Hãy nói chuyện với Chúa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mọi mưu chước của ma quỉ.
Khi chịu phép rửa tội, người tân tòng phải thế hứa từ bỏ ma quỉ và mọi việc của ma quỉ. Khi rước lễ trọng thể, Giáo Hội cũng cho chúng ta nhắc lại lời hứa đó một cách long trọng để chúng ta nhớ mãi và thực hiện lời hứa đó trong suốt cuộc đời chúng ta. Giữ lờ hứa nầy không là một chuyện dễ dàng vì ma quỉ lợi dụng tất cả mọi sự để cám dỗ chúng ta, nó khai thác tất cả những nhu cầu ước muốn của chúng ta và xúi giục chúng ta sử dụng mọi sự theo sở thích riêng của chúng ta mà không cần đến Chúa. Đó là cám dỗ thờ bụt thần mà nhiều người đã nghe theo. Bụt thần có thể là tiền bạc, danh vọng, sự thỏa mãn những dục vọng của chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta bỏ mình, vác thập giá theo Ngài là để giúp chúng ta chiến thắng ma quỉ.
Nhìn vào những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đúng như thế. Ma quỉ lái chúng ta đi trệch đường Thiên Chúa muốn ta đi. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta tỉnh thức. Tỉnh thức là luôn điều chỉnh lại hướng đi của chúng ta mỗi ngày đúng theo ý Chúa.
Một điều kiện khác là một trợ lực hữu hiệu: hiến dâng. Thánh Phaolô bảo chúng ta : “ Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa”. Hiến dâng mỗi ngày và sống sự hiến dâng đó chứ không chỉ hiến dâng rồi quên đi. Nhất là khi chúng ta tự hiến với Chúa Giêsu nơi bàn thờ hiến tế. Chúng ta là một với Chúa Giêsu trong hiến tế trên bàn thờ và như thế, chúng ta thành của lễ và cả cuộc sống chúng ta chính là tấm bánh tạ ơn Chúa Cha hằng ngày. Hơn nữa, chúng ta ăn lấy Chúa Giêsu để sống với Ngài mật thiết hơn. Nhờ Ngài, chúng ta luôn sống theo ý Chúa Cha và ma quỉ sẽ không có chỗ chen chân. Chúng ta sẽ hạnh phúc khi chúng ta không còn sống cô đơn một mình mà luôn gắn bó với Chúa Giêsu, người bạn trên mọi nẻo đường, là thuẫn đỡ khiên che, là tình yêu trọn vẹn.
Về mục lục
.
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_C
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Mùa chay đã khởi đầu vào Thứ Tư Lễ Tro vừa qua, và hàng năm vào Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giê-su, trước khi thi hành sứ vụ công khai giao giảng Nước Trời và cứu độ nhân loại, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện 40 đêm ngày, sau đó, Người bị ma quỉ cám dỗ. Lý do Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện này, là muốn nhắc nhở chúng ta bước vào một chiến đấu thiêng liêng chống lại những cám dỗ để hình thành một con người mới nơi chúng ta. Qua bài Tin mừng này, Giáo hội cho chúng ta biết chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ nào và phải làm gì để đối phó và để vượt qua. Một điều quan trọng chúng ta phải chú ý là sự cám dỗ này của ma quỉ không chỉ nhắm vào đời sống cá nhân, mà còn nhắm và tạo ảnh hưởng vào viễn tượng hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su, vì sự cám dỗ này xảy ra ngay vào thời điểm khởi đầu công cuộc cứu độ, giải thoát nhân loại của Ngài. Do đó bài Tin mừng hôm nay không những giúp chúng ta ý thức cuộc sống cá nhân hôm nay, trong mùa chay thánh này, mà còn giúp giải thoát chúng ta ngày mai và trong tương lai, cũng như giúp chúng ta đạt được ơn cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô.
Bài Tin mừng cho chúng ta biết, sau khi đã cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày, cho nên Chúa đói, ma quỉ đã nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi.” Câu này hàm ý nói rằng “Nếu có tiền thì làm gì cũng được, muốn có gì cũng được.” Đây cũng là sự cám dỗ về tiền bạc của ma quỉ trong thời đại của chúng ta hôm nay. Có tiền là có mọi sự, thật sự chúng ta cần có tiền để có những nhu cầu căn bản. Phải có tiền mới có thể xây nhà thờ mới được, cho nên tôi phải kêu gọi mọi người đóng tiền. Tiền rất cần và quan trọng cho cuộc sống. Không có tiền không thể sống và xây nhà thờ được. Nhưng đó chỉ là một nửa sự thật. Có bao nhiêu người sau khi đã vất vả, khó nhọc để làm ra nhiều tiền, sức khỏe tiêu tán, vợ chồng bất hòa, mất hạnh phúc, gia đình tan nát, con cái hư hỏng.
Cám dỗ thứ hai, ma quỉ nói với Chúa Giê-su: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Chúng ta biết sự thật là quyền lực rất cần thiết để làm việc, điều hành, cai trị, và hoàn tất công việc. Muốn xây dựng một thế giới, xã hội mới phải có quyền lực. Không có quyền lực sẽ không thành công. Nhưng chúng ta cũng biết đây chỉ là nửa sự thật thôi, vì đã có bao nhiêu nhà độc tài, kể cả quân khủng bố đã dùng quyền lực để gieo rắc đau khổ, tiêu diệt tự do và sự sống của hàng ngàn, hàng triệu con người.
Sau đó ma quỉ cám dỗ Chúa Giê-su, nói rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Đây là một cám dỗ nữa của ma quỉ cho thời đại kỹ thuật của chúng ta, vì chúng ta nghĩ rằng kỹ thuật như điện thoại cầm tay, e-mail và internet, sẽ giải quyết được hết mọi sự cuộc sống. Nhờ kỹ thuật và khoa học nâng cao đời sống con người, cung cấp tiện nghi, thoải mái, bảo đảm và an toàn hơn. Sự thật chỉ đúng một nửa thôi, vì kỹ thuật đang làm tiêu tán và giết chết bao nhiêu sự liên hệ giữa con người, không giải quyết hết mọi vấn đề, không đưa đến sự gần gũi thân mật với nhau hơn, và nhất là không đưa đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Ông bà anh chị em thân mến. Một điều quan trọng mà chúng ta phải lưu ý là nếu Chúa Giêsu còn bị ma quỉ cám dỗ, thì chắc chắn tất cả chúng ta cũng đã, đang và sẽ bị cám dỗ. Chúng ta phải nhận biết rõ điểm đích cám dỗ của ma quỉ là con người chúng ta, già trẻ, nam nữ, giáo dân, tu sĩ, vì vậy, chúng tìm mọi phương cách đến gần, và nhất là ở trong con người chúng ta. Ngày nay, ma quỉ rất khôn ngoan tinh quái, không hiện nguyên hình dữ tợn và kinh khủng để cám dỗ, vì như vậy, chúng ta sẽ tránh và chạy xa chúng, tất cả chúng ta sẽ trở thành thánh hết. Muốn cám dỗ chúng ta, ma quỉ ngày nay bày ra những hình ảnh tốt đẹp, những phương tiện thoải mái, dùng những lời dụ dỗ ngon ngọt, dùng những lý do hấp dẫn, để thúc dục và lôi cuốn chúng ta làm những việc chúng ta ước muốn, ưa thích, tạo nên những sự thoải mái hay lợi lộc, để chúng ta xa vào cạm bẫy của chúng. Ma quỉ còn kích thích chúng ta bằng những thái độ tự cao, tự mãn, khôn ngoan và đạo đức hơn người khác, để lôi kéo chúng ta sống cuộc sống ích kỷ, lầm lạc và tội lỗi. Chúng ta phải lưu ý là chẳng bao giờ ma quỉ cám dỗ chúng ta phạm tội nặng ngay đâu, nhưng ban đầu nó xúi chúng ta phạm tội nhẹ trước, sau khi chúng ta đã quen rồi, và không còn ý thức tội lỗi nữa, thì nó sẽ cám dỗ chúng ta phạm tội nặng và nặng hơn.
Ma quỉ có nhiều cách cám dỗ, nhưng tất cả đều quy về ba mối chính: danh, lợi, thú. Chúng ta biết ham danh vọng, ham lợi lộc và ham thú vui như cờ bạc, rượu chè và dục vọng nằm sẵn trong bản tính của con người. Ai cũng muốn được trọng vọng, ai cũng muốn được giàu có, nhiều tiền của, và ai cũng ham muốn vui thú, sung sướng và thoải mái. Và đó cũng là những cạm bẫy của ma quỉ và đích điểm là con người chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta phải chú ý khía cạnh quan trọng: ma quỉ biết Kinh thánh và dùng Lời Chúa để thử thách, cám dỗ chính Chúa Giê-su. Sự thực ma quỉ đã nói với Chúa Giê-su: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá.” Chúng ta có bao giờ nghĩ về khía cạnh này không? Nếu ma quỉ đã dùng Kinh thánh, Lời Chúa để cám dỗ Chúa Giê-su, thì ma quỉ cũng sẽ dùng Lời Chúa, lời chân lý để dụ dỗ và đánh lừa chúng ta. Ma quỉ sẽ dùng chiến thuật này để nói sự thật, nhưng chỉ cho chúng ta biết một nửa sự thật thôi, vì sau đó dẫn đến đau khổ, tội lỗi, lầm lạc và sự chết, vì chúng ta không tỉnh thức đủ, cảnh giác đủ.
Vì vậy, ông bà anh chị em thân mến, Giáo hội cho chúng ta có dịp trong mùa chay để lắng nghe câu chuyện Chúa Giê-su bị cám dỗ, giúp chúng ta nhận ra những cám dỗ và cạm bẫy của ma quỉ, để chúng ta biết chống trả và chiến thắng. Xin Lời Chúa giúp chúng ta biết cảnh tỉnh, tỉnh thức vì “Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa.” Và hướng tâm hồn chúng ta trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên, cũng như thêm sức chống trả thành công mưu chước ma quỷ, cùng hy sinh làm việc phúc đức, bác ái với tha nhân.
Về mục lục
.
SỐNG ĐẸP LÒNG CHÚA
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Đọc lại câu chuyện Sáng Thế (St 3,1- 7) : Cám dỗ và sa ngã.
Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).
Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:
– Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
– Không được ăn cây nào cả.
Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.
Người nữ phản kháng : Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán : các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.
Con rắn ngọt ngào dụ dỗ : Chẳng chết chóc gì đâu ! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.
Người đàn bà đã nhìn : quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan – cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa.
Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định.
Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.
Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.
Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn ( 3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa : chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi.
Người nữ đổ tội cho rắn : Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.
Ý nghĩa “con rắn” và “trái cấm”
Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?
a). Con rắn
Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.
Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà , người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.
Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).
b). Trái cấm
Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.
Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.
Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.
Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.
Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẽ, số 52, tháng 12, năm 2006, trang 79-82).
Chiến thắng cám dỗ theo gương Chúa Giêsu
Trong hành trình về đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết : “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Con người “già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng Lời Chúa và đời sống chay tịnh cầu nguyện, luôn tín thác vào Chúa Cha.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỉ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
-Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
-Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
-Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
Dường như suốt cả cuộc đời, Chúa Giêsu luôn bị Satan tấn công : “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ ”. (Lc 4,13). Nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với khổ nạn và cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi mồ hôi đổ ra như máu. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ”. (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ”. (Mt 26, 42b).
Chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của mình với Chúa. Dựa vào sức mình, vào khả năng của mình… mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì chúng ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét mình, để sám hối canh tân bản thân, nhờ đó mà sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày.
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: “Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: “Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?” Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: “Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu” – “Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!” – “Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?”. Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: “Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?” – “Dạ vui chớ!” – “Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!” – “Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa” – “Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?” – “Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!” – “Thế thôi à?” – “Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!”.
Về mục lục
.
TRỐNG TRẢ CÁM DỖ
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày xưa, khi nói đến ma quỷ và cám dỗ, chúng ta thường liên tưởng đến hình ảnh một con quỷ mình người đầu dê, có cái đuôi dài và trên tay cầm một cái chĩa thật lớn, một dáng vẻ trông thật ghê sợ. Nhưng có lẽ ma quỷ không xấu xí, ghê sợ đến như thế. Ngày nay, ma quỷ ẩn hiện dưới nhiều hình thức đẹp hơn, thoải mái, dễ chịu hơn và cám dỗ của nó cũng ngọt ngào hơn. Vì thế, con người dễ mất cảnh giác và chiều theo cám dỗ của nó hơn.
Tin Mừng Chúa nhật thứ I Mùa Chay luôn thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu đã từng bị ma quỷ tấn công, cám dỗ. Mục đích của ma quỷ muốn Chúa Giêsu đi vào một con đường khác thay vì đi theo con đường của Chúa Cha đã muốn. Nó muốn Chúa Giêsu chọn lựa theo sở thích cá nhân hơn là theo ý Thiên Chúa, chọn lựa con đường cứu chuộc nhân loại bằng những phép lạ ngoạn mục hơn là con đường vâng phục khổ giá. Đức Giêsu với thân phận con người, Ngài cũng đã có những lúc phải trải qua những cơn cám dỗ kinh khủng như thế, nhưng Ngài đã dùng sức mạnh quyền năng của Lời Chúa để chống trả với những cơn cám dỗ đó.
Theo Thánh Luca, ba cơn cám dỗ Chúa Giêsu đương đầu hôm nay rất gần và rất thực tế trong cuộc sống của mỗi chúng ta, đó là cám dỗ về của cải vật chất, quyền lực và danh vọng.
Con người chúng ta luôn bị cám dỗ tìm kiếm của cải vật chất để thoả mãn cho nhu cầu cá nhân. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Sau những ngày chay tịnh, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Lợi dụng lúc này, ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu : Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành bánh đi, tức là nó cám dỗ Chúa dùng quyền năng của Thiên Chúa nơi Ngài để tìm kiếm vật chất, phục vụ cho nhu cầu của bản thân và biến Thiên Chúa thành người phục vụ cho nhu cầu vật chất của mình, hoặc là lo tìm kiếm vật chất hơn là tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Đáp lại cám dỗ này, Chúa Giêsu cho thấy ưu tiên trước hết của Ngài không phải là cơm bánh, sứ mạng của Ngài không phải để đáp ứng nhu cầu vật chất của con người, nhưng là đem đến cho con người một thứ lương thực khác, một sức sống khác, đó là sức sống từ Thiên Chúa và Lời của Thiên Chúa. Có lời chép rằng : Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.
Ma quỷ đem Chúa Giêsu lên cao, chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và nói : Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa, lợi lộc của các nước này… nếu ông bái lậy tôi, thì tất cả thuộc về ông. Với cám dỗ này, ma quỷ nhắm vào sự ham mê quyền lực nơi con người. Câu chuyện cho thấy, ma quỷ tự nhận tất cả thế gian này là của nó, mà thực sự chỉ Thiên Chúa là Đấng nắm giữ mọi quyền lực trên trời dưới đất. Như vậy, lời hứa của nó bộc lộ sự giả dối, nó cám dỗ và hứa cho người khác cái không thuộc về nó. Việc ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên nơi cao, chỉ cho xem thấy các nước thiên hạ là một cám dỗ rất thâm độc. Con người chúng ta luôn bị cám dỗ đứng trên người khác, muốn giành về cho mình vinh quang và quyền lực, muốn người khác phải tuân lệnh hầu hạ mình. Vì thế, họ có thể làm bất cứ điều gì để có thể đạt được quyền lực đó, kể cả việc gian dối, lật lọng và cúi xuống bái lậy ma quỷ.
Đáp lại cám dỗ này, Chúa Giêsu quả quyết rằng : “Đã có lời chép : Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. Bái lậy Đức Chúa là nhìn nhận và tuân phục quyền của một mình Thiên Chúa. Ngài chính là Đấng tạo thành và điều khiển muôn vật muôn loài. Cám dỗ này cũng cho thấy bộ mặt thật của Satan là kẻ luôn ghen tị, luôn muốn tìm mọi cách để kéo mọi người xa Chúa và muốn mọi người bái phục nó.
Cám dỗ thứ ba được mặc dưới hình thức mang tính đạo đức hơn, đó là dựa vào Thiên Chúa để tìm kiếm danh vọng. Ma quỉ đưa Chúa Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc đền thờ với lời thách thức : Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi. Ma quỷ cũng trích lời Kinh Thánh để thúc giục Chúa Giêsu : Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ gìn giữ bạn, các vị ấy sẽ nâng đỡ để cho chân bạn khỏi vấp vào đá. Cám dỗ này là cám dỗ thử thách Thiên Chúa, ỷ nại vào Thiên Chúa, đưa mình vào tình trạng nguy hiểm để bắt ép Thiên Chúa phải làm phép lạ chiều theo ý mình. Không những thế, nó còn trích Kinh Thánh để đánh vào tính tự ái nơi những người cho mình là đạo đức. Hậu quả của cám dỗ này là nếu được như yêu cầu thì sẽ lên mặt vênh vang với người khác, trái lại, không được như ý muốn thì sẽ rơi vào chán nản, thất vọng và quay lại chống đối Thiên Chúa.
Đưa ra cám dỗ này, ma quỉ muốn Chúa tìm kiếm danh tiếng cho riêng mình bằng những phép lạ thu hút người khác, bằng những việc ngoạn mục bên ngoài mà không thay đổi bên trong con người. Hơn nữa, nếu tập trung sự chú ý của dân chúng về bản thân mình, thì người ta sẽ không còn nhớ đến Thiên Chúa nữa. Chúa Giêsu đã kiên quyết chống trả cám dỗ này khi Ngài khẳng định : “Có lời chép rằng : Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Vì, tin theo Chúa là chấp nhận hoàn toàn cho sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, là đặt ý mình theo ý Thiên Chúa chứ không thể bắt Chúa phải theo ý mình.
Thưa quý OBACE, cám dỗ tôn thờ vật chất, tìm kiếm quyền lực và danh vọng vẫn đang là cám dỗ triền miên trong cuộc đời mỗi người, trong bất cứ địa vị nào. Mang thân phận con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng đã phải trải qua những cơn cám dỗ như thế và Ngài đã chiến thắng, nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Lời Thiên Chúa. Ngày nay, dưới nhiều hình thức tinh vi, ma quỷ cũng đang cám dỗ chúng ta tìm thoả mãn những nhu cầu vật chất, có nhiều người buông theo nó, quay cuồng lao vào vật chất và đã gục ngã ; nhiều người khác đã không tìm kiếm lương thực tinh thần, lương thực Lời Chúa, họ lấy lý do công việc làm ăn bận rộn để bỏ qua những bổn phận đối với Thiên Chúa, bổn phận với gia đình, cuộc sống chỉ còn cơm áo, gạo tiền mà thôi. Cũng vậy, cám dỗ về quyền lực, danh vọng cứ âm ỉ trong con người chúng ta, nó thể hiện qua việc muốn thắng kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên người khác, muốn dìm người khác xuống để mình được nổi lên, muốn lôi kéo sự chú ý về mình, cho mình là người tài giỏi, từ đó coi thường người khác.
Các cám dỗ ngày nay tinh vi hơn nhiều, ma quỷ không cám dỗ chúng ta bỏ Chúa, nó không cám dỗ chúng ta lao vào ăn chơi trác tác ngay, mà nó cám dỗ chúng ta từ những cái nhỏ đi đến cái lớn. Ma quỷ đang cám dỗ chúng ta qua lời thách thức, rủ rê của bạn bè, qua những cách sống buông thả, dễ dãi. Chiến thuật của cám dỗ hôm nay là làm cho chúng ta không còn phân biệt một cách sáng suốt, nó làm cho chúng ta lầm lẫn thật thì coi là giả, giả lại coi là thật ; cái không thì cho là có, còn cái có thì lại coi là không ; tốt coi là xấu, xấu lại được coi là tốt. Ma quỷ đủ khôn khéo để đưa ra trước mắt chúng ta những khía cạnh tưởng như thật tốt, thật có lợi, tích cực, nhưng thực ra đó lại là cái vỏ che đậy sự xấu xa phía sau để lừa gạt, làm loá mắt chúng ta, để từ cái tưởng như tốt ở bên ngoài ấy lại đưa chúng ta bước sang cái xấu lúc nào mà chúng ta không biết .
Ngày hôm nay, ma quỷ không hiện hình dữ tợn để cám dỗ chúng ta, nhưng nó cám dỗ chúng ta bởi những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Với các bạn trẻ, nó cám dỗ các bạn bởi những lời thách thức của bạn bè, nó đánh vào máu anh hùng tự ái của tuổi trẻ, nó thách thức các bạn theo kiểu : Không thử sao biết ? Cứ thử đi, ăn thua gì, một lần cho biết, thanh niên mà ! Hãy cảnh giác với những lời ngọt ngào chết người ấy. Hãy cậy dựa vào Lời của Chúa và lề luật của Ngài để chống lại cám dỗ.
Chắc chắn với sức riêng mình, chúng ta không thể chiến thắng được ma quỷ, nhưng chúng ta có Chúa và Lời của Ngài là sức mạnh. Xin cho chúng ta luôn khiêm nhường cậy dựa vào Chúa, xin Chúa gìn giữ chúng ta mỗi khi chúng ta bị cám dỗ và lỡ có lần nào vấp té, xin cho chúng ta can đảm chỗi dậy làm lại cuộc đời. Amen.
Về mục lục
.
ĐẤU TRÍ
Trầm Thiên Thu
Đấu trí cũng là một dạng đấu lý, dùng các lý lẽ để đối đáp với nhau, lý luận lẫn nhau. Người lý luận cần nhanh trí, lý luận sâu sắc và rạch ròi. Tuy nhiên, phải biết người biết ta, chứ đừng dại mà lấy trứng chọi với đá, và thật khốn cho ai dám giơ chân đá lại mũi nhọn (x. Cv 26:14).
Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Thế nhưng lĩnh vực nào cũng vẫn cần lý trí. Ngay cả tâm linh cũng vẫn cần có lý trí, nếu tin mà không cân nhắc thì có thể bị mù quáng, tin lệch lạc, hóa thành mê tín dị đoan, thậm chí có thể có nguy cơ phản đức tin. Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Ngược lại, nếu có đức tin đúng đắn, người đó thật hạnh phúc, vì “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự” (Thánh Don Bosco). Đó là tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Ngài quan phòng theo sự tiền định của Ngài, và đó cũng chính là cách tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Kinh Thánh cho biết rằng sau khi tư tế nhận của lễ đầu mùa do dân Chúa tiến dâng và đem đặt trước bàn thờ Thiên Chúa, dân chúng liền thân thưa: “Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Đnl 26:6-10).
Dân chúng đã có những lúc bất tín và nổi loạn, nhưng khi họ biết mình sai lầm và thành tâm sám hối, Thiên Chúa lại sẵn sàng tha thứ. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho những điều tốt lành rất bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng luôn giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, dù chúng ta bất xứng (x. Ge 2:13; Ep 2:4).
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần cảm thấy thất vọng – thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc muốn buông xuôi. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là đừng bao giờ tuyệt vọng (x. 2 Cr 4:8). Bởi vì Kinh Thánh đã xác định: “Dù cha mẹ có bỏ con thì vẫn còn Thiên Chúa đón nhận” (Tv 26:10). Chắc chắn như vậy. Vả lại, đối với Thiên Chúa, tất cả đều là “chuyện nhỏ” (x. Mt 19:26; Lc 1:37; Mc 10:27), Ngài chỉ muốn chúng ta hợp tác với Ngài bằng cách thật lòng ăn năn: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Gương các thánh cho chúng ta thấy rằng nhiều tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ biết sám hối. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót vô cùng lớn lao và kỳ diệu!
Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2).
Sẽ chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nơi nào an toàn vĩnh viễn ngoài Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:10-13). Vấn đề quan trọng hơn đó là chính Thiên Chúa đã xác nhận: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại; lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Đặc biệt là Ngài còn ban cho chúng ta có nhiều thứ khác nữa.
Không bao giờ chúng ta có thể diễn tả hết ý về Thiên Chúa, về lòng thương xót của Ngài. Còn Kinh Thánh nói gì? Thánh Phaolô cho biết: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10:8-9).
Có đầy mới tràn, trong lòng thế nào thì thể hiện như vậy, không thể che giấu mãi. Thời gian sẽ chứng tỏ lòng ai thế nào. Tốt hay xấu sẽ như cây kim trong bọc, nó sẽ có ngày lòi ra – “lòi” ra ngay trong cách nói chuyện. Chúng ta giấu giếm với nhau mà còn khó khăn lắm, chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Thánh Phaolô minh định: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ. Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:10-13). Niềm tin đó phải là niềm tin thật lòng, không thể giả vờ để “che mắt thiên hạ”. Niềm tín đó cũng luôn được tôi luyện qua cuộc sống thường nhật, mọi nơi và mọi lúc. Thật vậy, “đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1:3), và “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).
Đó là triết lý sống, là cuộc đấu trí giữa chúng ta với cuộc sống trên hành trình lữ thứ trần gian này. Cuộc đấu trí đó có thật chứ không mơ hồ hoặc giả tạo. Đấu trí với ai? Với ba “người quen”, mệnh danh là ba thù: Ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Có lẽ cuộc đấu trí gay go nhất là đấu trí với xác thịt, người quen nhất – tức là đấu trí với chính mình. Thật vậy, “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon).
Trình thuật Lc 4:1-13 nói về “cuộc đấu trí” giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Đó là chước cám dỗ, là cái bẫy mà ma quỷ “gài” để Ngài vào sập bẫy. Nhưng thụ tạo không thể đối đầu với Tạo Hóa, cái ác không thể tiêu diệt cái thiện.
Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, rồi Ngài từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, Ngài thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói đặt vấn đề với Ngài rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì biến hòn đá thành bánh. Nhãi ranh mà chảnh, đừng thấy dụ được ông bà Nguyên Tổ ăn táo thơm rồi tưởng mình “ngon” nha! Đức Giêsu nói ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Thua keo này nó bày keo khác. Sau đó, nó đem Đức Giêsu lên cao, rồi nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói nó sẽ cho Ngài toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho nó, và nó muốn cho ai tuỳ ý. Nó dụ Ngài bái lạy nó rồi nó cho Ngài tất cả. Đúng là “cóc muốn bằng bò” mà. Đức Giêsu thản nhiên nói: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Quỷ vẫn chưa tâm phục, khẩu phục. Nó lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi vênh vang tự đắc nói rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì đứng trên cao đó mà gieo mình xuống. Nó lý luận là có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ Ngài, Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng Ngài khỏi vấp chân vào đá. Đúng là… ma quỷ. Ranh mãnh hết sức! Thế nhưng Đức Giêsu lại nói ngay: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Ba – Không. Thua trắng. Hết cách xoay xở, hết bí kíp cám dỗ Chúa Giêsu. Nó đành lủi thủi bỏ đi vì không thể đấy trí với Chúa Giêsu, thế nhưng nó vẫn mưu tính để tìm thời cơ khác. Ma quỷ thật!
Cuộc sống có nhiều chước cám dỗ, tập trung vào ba điểm: Vật chất, danh vọng, cái tôi. Vật chất liên quan tiền bạc và tài sản – một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp, nhưng miếng ăn có thể là vinh hay nhục, thế mà chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì người ta tranh giành miếng ăn. Danh vọng liên quan chức tước, địa vị, quyền hành – có danh tiếng để phục vụ chứ không phải để kiêu ngạo, ảo tưởng, nhưng người ta được voi rồi đòi tiên, thích “hành” người khác mà thôi. Cái tôi liên quan tự ái, cho mình là nhất, thích được khen, ghét bị chê. Cái tôi thật đáng ghét! – Danh nhân Pascal nhận xét tinh tế lắm.
Ba thứ đó như những gọng kìm, chúng kẹp chặt chúng ta, làm cho chúng ta không thóat ra được. Từ bỏ chính mình thật là khó, nhưng phải làm đúng như vậy thì chúng ta mới khả dĩ nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5:48) và nhân từ như Chúa Cha (Lc 6:36), nhờ đó mà được cứu độ!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con để không ảo tưởng, không kiêu ngạo, không mưu mô. Xin ban cho con sự sống thật nhờ Thánh Thể, nhờ Lời Chúa, biết tránh xa bả phù vân, biết tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi, và luôn tín thác vào lòng thương xót của Ngài trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Về mục lục
.
HOANG MẠC
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Hoang mạc là nơi khô cằn, không có sự sống, biểu trưng cho nơi quỷ dữ cư ngụ. Hoang mạc còn là nơi tiềm ẩn sự sống, nơi tôi luyện để chiến thắng ma quỷ.
Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa, chúng ta cùng xem xét ý nghĩa.
Hoang mạc nơi thử thách:
Là nơi ở của quỷ dữ, khô cằn, không sức sống. Vào hoang mạc để đối đầu trực diện với tất cả khó khăn đó. Ma quỷ cư ngụ ở hoang mạc, tượng trưng cho tất cả sức mạnh gây rối loạn, làm suy yếu, mờ tối lương tri, làm suy thoái giá trị tinh thần, nó đại diện cho kẻ ác. Nó có thể mang những bộ đồ sang trọng hoặc bộ mặt nhăn nhúm. Trên đầu nó mang sừng, bàn chân xẻ đôi, trên mình đầy lông lá, hoặc cả khi nó cải trang như một thiếu nữ duyên dáng trong bộ quần áo trắng muốt. Những hình ảnh đó, cho thấy nó có thể khoác vào mình các thứ phục trang, đội lốt bề ngoài, nhưng bản chất vẫn luôn là kẻ lừa đảo, cám dỗ, và đao phủ. Ma quỷ, chính vì thế gắn liền với hoang mạc, cho thấy bản chất của nó tương trưng cho sự sa đọa tinh thần, đổ vỡ nhân cách. Con người để ma quỷ chiếm hữu, có nhiều đặc điểm giống như thế.
Xem xét theo bề ngoài, trực diện, dường như ma quỷ thắng thế ở trong hoang mạc, bởi vì thấy nó cư ngụ trong đó. Thực chất, ma quỷ thống trị các thứ hoang tàn, không sự sống, tất cả những cái nó sở hữu chỉ là ảo tưởng, giống như cái ảo giác của một người trong sa mạc khi thiếu nước. Chính cái ảo giác này mới có thể đánh lừa được con người khi bám đuổi theo: Của cải, danh vọng, địa vị. Cuối cùng bị ma quỷ chiếm hữu.
Khi lòng người như hoang mạc, nhân ái cũng cằn khô, nhân tâm cằn cỗi, con người với nhau như là ác quỷ. Bởi thế hoang mạc cũng là nơi của thú dữ hoành hành, con người phải sống chung với thú dữ, loài thú không có lương tri, chỉ biết cắn xé, điên dại trong cái tham lam, cuồng dại trong những đam mê, con người công chính luôn chịu thử thách.
Thắng được ma quỷ.
Nơi hoang mạc, được Chúa Thánh Thần dẫn vào, điều này cho thấy hình ảnh của Hosê nói xưa: “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hose 2, 16). Nơi hang vắng để sống đời cầu nguyện, các ẩn sĩ xưa kia vào hoang mạc để sống ẩn tu, các ngài cũng ý thức tự thẳm sâu của tâm hồn: Chỉ trông cậy vào ân sủng của Thiên Chúa để đương đầu với tội lỗi trong chính mình và cũng nhờ ân sủng của Thiên chúa mà chiến thắng được tội lỗi.
Ngày nay, những hoang mạc để rút vào đó sống đời cầu nguyện không còn nữa, nhưng những cuộc thao dượt chiến đấu thiêng liêng, cũng dẫn dắt những người ước muốn vào nơi thanh vắng để cầu nguyện và thao luyện trong các tu viện hay đan viện.
Vượt qua những cám dỗ, là để sống có trách nhiệm với nhau, dứt bỏ được cái tôi để sống với người khác. Cuộc chiến vì thế, không chỉ cho mình, nhưng để cuộc sống nhân ái hơn, những chước ma quỷ không dùng chống lại con người nữa. Hoang mạc sẽ nở hoa, những dòng sông lại chảy và sự sống được khôi phục.
Không có Chúa con người không thể chiến thắng, mọi nguồn sống đều do Thiên chúa khai mở và ban cho. Người vào trong hoang mạc, để ý thức về chính mình thuộc về Thiên Chúa.
Hoang mạc, cuộc sống vẫn có những hoang mạc của lòng người ích kỷ, chỉ biết tìm khoái lạc, thụ hưởng cho mình. Vẫn còn là hoang mạc nơi con người chịu thử thách và nhờ ơn Chúa mới thực sự sống cho nên người và nên thánh.
Về mục lục
.
QUYẾT TÂM VƯỢT QUA THỬ THÁCH
TRONG CUỘC SỐNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Lc 4,1-13
(1) Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (2) bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. (3) Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”. (4) Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. (5) Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. (6) Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. (7) Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông. (8) Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (9) Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi! (10) Vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn”. (11) Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. (12) Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. (13) Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ.
Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊSU CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ
Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giêsu vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày, sau đó Người đã dùng Lời Thánh Kinh chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ như sau:
– Một là cán dỗ về thú vui nhục dục.
– Hai là cám dỗ về quyền lực lợi lộc.
– Ba là cám dỗ về danh vọng thế gian.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Luca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giêsu (x. Lc 1,35 ; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.
– C 3-4: + “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giêsu chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22). + Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giêsu là bị đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh để thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú xác thịt. + “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giêsu dùng câu nói của Môsê dạy dỗ dân Ít-ra-en ngày xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).
– C 5-8: + Quỷ đem Đức Giêsu lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái. + Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giêsu. + Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giêsu thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa. Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Gioan 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giêsu (x. Lc 10,22). + Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5 ; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giêsu nhắc lại điều luật Môsê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).
– C 9-13: + Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem: Luca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại Giêrusalem. + Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giêrusalem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44). + “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giêsu lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình. + Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giêsu tại Giêrusalem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
CÂU HỎI:
1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tội chưa?
2) Đức Giêsu đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ?
3) Tội “thử thách Thiên Chúa” có đồng nghĩa với tội “trông cậy quá lẽ” không? Hãy nêu một vài ví dụ cụ thể để minh họa về tội “trông cậy quá lẽ” hay tội “thử thách Thiên Chúa”.
.
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1b).
CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn cư xử hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải quá xấu! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã thành nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm nặng đến cha mẹ, và bất nghĩa giết chết người vợ thân yêu của mình.
THẢO LUẬN:
1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giêsu là bụng đói sau khi đã nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì?
2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giêsu như trong Tin Mừng hôm nay?
SUY NIỆM:
1) Con người “nhân vô thập toàn” và dễ sa ngã phạm tội:
Đây là hậu quả của tội tổ tông truyền, như thánh Phaolô đã phải thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ Ađam Evà và con cháu ông No-e phạm nhiều thứ tội đáng bị trừng phạt. Nó cũng cám dỗ con cháu Gia-cóp vừa được ơn Chúa cứu thoát khỏi ách nô lệ cho người Ai cập, đã nói những lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ ra vô ơn đối với ông Môsê.
2) Các cơn cám dỗ xưa và nay:
Sau khi được Thánh Thần xức dầu thiêng liêng phong làm Đấng Thiên Sai, Thánh Thần đã dẫn đưa Đức Giêsu vào trong sa mạc ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi ngày và trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ về ba phương diện như sau:
* Về THÚ VUI XÁC THỊT: Xưa ma quỷ đã xúi giục Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay ma quỷ cũng cám dỗ chúng ta ước muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê”…. như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Ma quỷ xúi chúng ta ăn uống no say thừa mứa, vui hưởng lạc thú xác thịt bên cạnh những người đói khát bệnh tật và đau khổ.
* Về LỢI LỘC VẬT CHẤT: Xưa ma quỷ đã hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Người tôn thờ nó. Nay ma quỷ cũng cám dỗ nhiều người bán linh hồn cho nó, tình nguyện làm tay sai cho nó để được hưởng lợi như buôn bán sì ke ma túy, kinh doanh hàng gian hàng giả, buôn bán thân xác phụ nữ và trẻ em…
* Về DANH VỌNG TRẦN GIAN: Xưa ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu nhảy từ nóc Đền thờ xuống, để tìm hư danh, vì tin chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi bị té ngã (x. Lc 4,10-11). Trong cuộc tử nạn, ma quỷ cũng xúi giục thách thức Đức Giêsu qua các đầu mục dân Do Thái : “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” (Mc 15,29-32). Cả tên trộm cũng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” (Lc 23,39). Nay ma quỷ cũng cám dỗ chúng ta thử thách Thiên Chúa khi tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đó chính là tội “trông cậy quá lẽ” dễ đi đến chỗ mất đức tin. Đành rằng Thiên Chúa quyền năng có thể làm được mọi sự (x. Lc 1,37), nhưng Người chỉ làm phép lạ khi nào Người muốn và nếu điều đó thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta. Còn những ai muốn thử thách Người như dân làng Nadarét không tin nên đòi Đức Giêsu làm phép lạ để chứng minh thân phận Cứu Thế của Người (x. Mc 6,1-6), hoặc vua Hêrôđê muốn Đức Giêsu làm phép lạ cho ông ta xem thì Người giú thái độ im lặng
Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ về thú vui, về lợi lộc và danh vọng bằng nhừng lời như sau: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, mà Người còn khẳng định thêm: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi lộc tiền tài vật chất mà bỏ bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, rồi phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay bà mẹ và không bao giờ nghi ngờ đòi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.
Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Người, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Maria: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).
Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giêsu, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giêsu giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để gia tăng nội lực thiêng liêng. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và được ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta chắc chắn sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.
– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân như Chúa. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu mến Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết lập tức trỗi dậy để cậy trông vào lòng thương xót bao dung của Chúa và trở về làm hòa với Chúa qua bí tích giải tội.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬN LỜI CHÚNG CON.
Về mục lục
.
KHÔNG CHỈ NHỜ CƠM BÁNH
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ.
Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Ðối,
vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì,
nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co,
chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã.
Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài.
Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi.
Chỉ khi tôi vượt quá tôi, tôi mới thật là mình.
Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa.
Hãy cùng với Ðức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay,
để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc.
Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn,
vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu.
Những cám dỗ của Ðức Giêsu cũng là của tôi hôm nay.
Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài.
Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói.
Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn.
Ðiều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh.
Ðức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này.
Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất,
nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.
Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng,
nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo…
Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta.
Người ta dễ hiểu sai câu: “Có thực mới vực được đạo.”
Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng.
chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể,
nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá.
Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn:
bái lạy ma qủy để được quyền lực và vinh quang.
Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này.
Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử.
Ðức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha.
Chỉ Cha mới là Ðấng duy nhất để Ngài thờ phụng.
Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức,
kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin.
Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.
Nhảy xuống từ nóc Ðền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục!
Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta.
Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả,
như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do,
quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật:
tất cả những giá trị trên đều đáng quý.
Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Ðối viết hoa,
và thờ chúng như một ngẫu tượng,
thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược.
Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày,
để tôi càng lúc càng tự do đến gần Ðấng Tuyệt Ðối.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
bị cám dỗ là thân phận của con người,
nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống hôm nay
cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào,
làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu.
Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào cũng hứa
cho chúng con ít nhiều hoan lạc,
nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn
vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ.
Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ
nhờ tỉnh thức và cầu nguyện,
nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.
Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian,
để đi vào con đường hẹp của Chúa,
con đường nghèo khó khiêm nhu,
con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa,
sau những lần chiến đấu vất vả cam go.
Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa,
xin cho chúng con can đảm đứng lên,
vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ. Amen.
Về mục lục
.
NƯƠNG TỰA VÀO THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Trực
Một trong những việc truyền thống của Giáo hội khi bước vào mùa chay là ăn chay hãm mình. Ngày xưa người ta ăn chay rất nhiệm nhặt, có người mỗi ngày thứ sáu chứ không phải chỉ có Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Người ta hạn chế những cuộc vui chơi giải trí. Hình thức đó vẫn còn một số nhà dòng giữ cho đến ngày hôm nay, mùa chay họ không được xem Tivi chẳng hạn. Tuy nhiên, nói chung hình thức giữ chay nhiệm nhặt như ngày xưa đã giảm bớt. Phải chăng Giáo Hội ngày càng quá dễ dãi trong những việc thực hành đạo đức? Thực ra căn bản của vấn đề là sự ý thức. Nếu không biết ý nghĩa của việc ăn chay thì dù có nằm gai nếm mật, tuân thủ những hình thức nhiệm nhặt bên ngoài cũng vô ích. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết mùa chay là thời gian bước vào sa mạc của tâm hồn để cầu nguyện, để chiến đấu chống lại những khuynh hướng xấu, những thói quen xấu, những cám dỗ của ma quỷ… Nói cách khác, để chúng ta biết nương tựa vào Thiên Chúa một cách vững vàng, mạnh mẽ hơn.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Đnl 26, 4-10:
Môsê ôn lại bài học đức tin cho dân Do Thái. Họ là những người tứ cố vô thân, sống phiêu bạt nơi đất khách quê người. Chúa đã thương giải thoát họ và đưa họ vào vùng đất chảy sữa và mật, nhờ đó họ mới có một đời sống mới. Vì vậy hằng năm họ phải trích một phần hoa lợi của mình để dâng lên Thiên Chúa, không phải vì Thiên Chúa ham lễ vật, không phải vì Thiên Chúa đòi hỏi họ, nhưng để thể hiện lòng biết ơn, sự nương tựa vào Thiên Chúa của họ.
Đáp Ca: Tv 90:
Đây là bài ca đáp lại tư tưởng của bài đọc thứ nhất: những ai biết nương tựa vào Thiên Chúa thì sẽ được Ngài che chở trong mọi hoàn cảnh.
Bài đọc II: Rm 10, 8-13:
Thánh Phaolô lặp lại nội dung của Thánh Vịnh 90: những ai tin tưởng vào Đức Giêsu Kitô thì sẽ được cứu độ: “mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng”.
Tin Mừng: Lc 4, 1-13:
Khi ở trong sa mạc, dân Israel bị cám dỗ trở về Ai Cập để thà làm nô lệ mà có bánh ăn, được ngửi mùi thịt kho, củ hành củ tỏi; họ bị cám dỗ để bái lạy con bò vàng dù họ đã có Thiên Chúa; họ bị cám dỗ để thử thách Thiên Chúa… Khi bị cám dỗ, dân Israel đã sa ngã, vì họ không biết tin tưởng, cậy dựa vào Thiên Chúa.
Còn CG, Ngài là một Israel mới. Ngài cũng được Thánh Thần thúc đẩy vào trong sa mạc. Ở đây Ngài cũng gặp cám dỗ, những cám dỗ giống hệt dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng nhờ biết cậy dựa vào Thiên Chúa.
II. CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU
Bận tâm đến giá trị phàm tục (Cơm áo gạo tiền)
Khi CG ở trong sa mạc 40 đêm ngày, chắc chắn Ngài cảm thấy đói. Quỷ nhắm đến nhu cầu thiết yếu đầu tiên của con người để cám dỗ CG. Nó kêu Ngài hóa đá thành bánh ăn. Chúa nói cho nó biết: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Điều đó cho chúng ta thấy những giá trị ở đời này không làm cho chúng ta thỏa mãn… Không phải tất cả những người giàu có đều hạnh phúc, cũng như không phải tất cả những người nghèo đều đau khổ; nhưng đau khổ và hạnh phúc là tùy thuộc chúng ta có được bình an trong tâm hồn do Thiên Chúa ban hay không mà thôi.
Nick Vujicic là một người không tay không chân, nhưng anh thật vui tươi, hạnh phúc.
Khi người ta báo cho Mẹ Têrêxa Calcutta biết đã hết thức ăn cho mấy trăm người ở một trung tâm dành cho người nghèo, Mẹ vẫn tỉnh bơ và trấn an người ta: “Không sao đâu, có Chúa lo mà!” Và quả thật, có người chở đến cả xe bánh mì.
Vấn đề quan trọng nhất là làm sao để chúng ta được bình an trong tâm hồn. Bình an chỉ có khi người ta biết sống theo những giá trị siêu nhiên chứ không phải theo những giá trị phàm tục.
Ham vinh hoa, địa vị
Khi ma quỷ thấy cám dỗ Chúa về cơm áo, gạo tiền không được, nó chuyển qua bận tâm thứ hai của con người là vinh hoa địa vị. Nó chỉ cho Chúa thấy tất cả các nước thiên hạ, nó nói tất cả là của nó, kêu Chúa bái lạy nó đi, rồi nó sẽ cho Chúa hết. Nó đúng là quỷ, vì nó nói dóc. Nó làm gì có vinh hoa, địa vị? Tất cả mọi vinh hoa, địa vị ở thế gian này đều là của Chúa. CG đã nói: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”. Vinh hoa địa vị không làm nên tất cả. Ví dụ có người kêu mình quỳ xuống hôn chân, họ sẽ cho minh 1 chỉ vàng, chắc có người chịu, người không. Người chịu hôn chân người khác để được một chỉ vàng là người xem nhẹ phẩm giá của mình, ham sự giàu sang, phú quý. Người không chịu là người biết quý trọng nhân phẩm của mình, xem thường những vinh hoa, phú quý.
ĐGH Benedicto XVI đã làm cho cả thế giới kinh ngạc khi Ngài tuyên bố từ chức vào ngày 28/02/ 2013. Có một điều làm cho tôi suy nghĩ từ biến cố này là ĐGH không để cho chức tước, địa vị chi phối mình. Ngài sẵn sàng lui vào hậu trường để nhường sân khấu lại cho người khác. Đây là điều hiếm hoi trong lịch sử Giáo Hội. Ngược lại có những người tham quyền cố vị, đấu đá nhau để bằng mọi giá giữ được “cái ghế” của mình.
Thử thách Thiên Chúa.
Cuối cùng, ma quỷ đưa CG lên nóc cao đền thờ và kêu CG nhảy xuống đi vì sẽ có thiên thần nâng đỡ Ngài. Không cần thiên thần nâng đỡ, nếu muốn Ngài nhảy xuống cũng không có gì xảy ra. Nhưng ma quỷ cám dỗ Chúa làm điều đó để xem CG có thử thách Chúa Cha không. Biết đâu CG nghi ngờ tình yêu của Chúa Cha dành cho mình thì sao? Nhưng CG đã nói với ma quỷ: “Người đừng thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”. Trong cuộc sống cũng có những lúc chúng ta thử thách Thiên Chúa. Cầu nguyện mà Chúa không nhậm lời là bỏ đạo. Hỏi sao lâu quá không đi lễ? Người ta trả lời tại làm ăn thất bại quá… rõ ràng chúng ta đang thử thách Thiên Chúa. Nếu Chúa không đáp ứng thì chúng ta bỏ Chúa. Đức tin dạy cho chúng ta biết dù hoàn cảnh như thế nào thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và hiện diện trong cuộc đời chúng ta . Vì vậy chúng ta giữ đạo không phải vì điều này điều nọ, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Khi không cám dỗ được Chúa, không phải ma quỷ bỏ đi luôn, nhưng nó “chờ dịp khác”. Để chúng ta thấy ma quỷ là một thế lực mạnh mẽ luôn đeo bám để cám dỗ chúng ta. Vì vậy chỉ những ai gắn bó cuộc đời mình với Chúa mới có thể chống trả lại những cơn cám dỗ của ma quỷ mà thôi. Nếu CG không nương tựa vào Chúa Cha thì chắc chắn Ngài sẽ bị ma quỷ cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian mời gọi chúng ta biết bám víu vào Chúa một cách quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Không để cho những giá trị chóng qua của cơm áo gạo tiền, thú vui xác thịt, địa vị chức tước chi phối chúng ta.
Hãy tận dụng mùa Chay trong Năm Thánh này để chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa qua cầu nguyện, nhất là các giờ kinh gia đình, siêng năng xưng tội, hành hương lãnh ơn toàn xá; thực thi Lòng Thương Xót qua việc giúp đỡ tha nhân. Đồng thời sửa đổi những tính hư tật xấu. Mỗi người hãy quyết tâm chừa bỏ một tật xấu nào đó dù là nhỏ bé, ít ỏi thôi. Ví dụ không nói xấu người khác, không lười biếng, không đọc kinh một cách qua loa, máy móc…
Xin ơn Chúa giúp qua lời bầu cử của Mẹ Maria, giúp mọi người chúng con ý thức hơn về nguồn cội của cuộc đời mình là chính Chúa, để chúng con biết nương tựa vào Chúa và kêu xin với Ngài: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Về mục lục
.
KẾT HỢP VỚI THÁNH THẦN ĐỂ THẮNG CÁM DỖ
Huệ Minh
Ngày hôm nay ta bắt gặp hình ảnh Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (4,1-13).
Việc đầu tiên Chúa Giêsu làm trước khi thực thi Sứ Mạng Cứu Thế đó là Chúa Gêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày và chịu cuộc thử thách, đó là chịu ma quỷ hiện đến cám dỗ đủ cách. Chắc có người tự hỏi: Có lẽ nào Satan lại dám cả gan đến cám dỗ Chúa như thế! Xin thưa: Thứ nhất: Lúc đó quỷ chưa biết rõ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, vì Ngài giống hệt như mọi người khác, thứ đến, suốt 30 năm Ngài không làm phép lạ, cũng không tỏ lộ quyền phép đặc biệt nào, nên Satan không hiểu được một Vị Thiên Chúa lại có thể sống ẩn dật với hình hài giống hệt như bất cứ phàm nhân nào khác, nên nó mới dám đến cám dỗ Người như thế!
Qua trình thuật khỏi đầu sứ vụ Cứu Thế này, thánh Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa khai mở một cuộc xuất hành mới để giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ. Từ chối các chước cám dỗ của chúng ta và cái chết như là hậu quả đắng cay của vòng xích oan nghiệt ấy.
So sánh với trình thuật Tin Mừng theo thánh Matthêu, ta thấy trình thuật của thánh Luca có 3 đặc điểm sau đây:
Trước tiên là vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu.
Ắt hẳn ta còn nhớ tất cả mọi thời điểm quan trọng trong thời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bằng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Dù làm gì, dù ăn dù ngủ, Chúa Giêsu luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần.
Với thánh sử, trong kinh nghiệm Phục sinh và lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là một sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước mà là một bản vị, là Ðấng hướng dẫn cuộc đời chúng ta vào hành động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách.
Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường chông gai Thiên Chúa đã vạch ra để đi theo một số con đường khác hấp dẫn ngoạn mục hơn và dễ dãi hơn. Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, biến đá sỏi thành bánh mà ăn chứ không cần phải lao nhọc vất vả, hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm việc, hay là dùng các phép lạ lôi kéo các tín đồ cho nó mau và khỏe chứ tội gì mà phải khó nhọc rao giảng, gieo vãi hạt giống nơi tâm lòng con người. Và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì? Hoặc là dùng bạo lực và các thế lực vật chất, tinh thần để lôi kéo môn đệ và tín đồ v.v…
Có quá nhiều cám dỗ đặt ra trước mặt Chúa Giêsu, nhưng rồi ta thấy Chúa Giêsu đã chọn con đường khổ đau.
Với thánh Luca, chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời, báo cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi bị chết treo trên thập giá.
Ðặc biệt thứ hai là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một hành trình tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công cuộc cứu độ trần gian, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Vì vậy, thánh Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không chướng ngại nào kể cả ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.
Sau cùng của cám dỗ đó là hình ảnh sa mạc. Trong sa mạc của cuộc xuất hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã quỵ trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Ðấng giải phóng mình. Lẩm bẩm là từ ngữ Kinh Thánh dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài, muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải làm thế nào để giải phóng mình trong sa mạc. Chúa đã không nhượng bộ mà nghe lời ma quỉ cám dỗ và theo cách thế nó đề nghị để thực hiện công trình cứu thế. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn kiên vững và tin vào tình yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa. Ngài không yêu sách, dù không trông thấy các dấu chỉ của tình yêu thương quan phòng và ấp ủ đó diễn tả bằng giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.
”Nếu ông là Con Thiên Chúa”: đó là câu nói vừa thăm dò vừa khiêu khích. Ma quỷ đang mò mẫm tìm xem điều mình nghi ngờ có đúng không.
Thật vậy, ma quỷ muốn biết chính xác: Con Người khác thường đã ăn chay 40 ngày đêm trong hoang địa này có phải là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người không? Và để kiểm chứng, Ma Quỷ dùng mưu thuật. ”Suy bụng ta ra bụng người”, tục ngữ Việt Nam nói thế và sự thật cũng đúng như vậy, ít ra trong trường hợp của tên Quỷ đang tìm cách cám dỗ Đức Chúa Giêsu đây.
Vốn đầy tràn kiêu căng, không muốn tuân phục, nhưng ưa thích khoe khoang, Ma Quỷ nghĩ rằng có lẽ ”Vị Khác Thường” này cũng giống như hắn. Tên Quỷ tự nhủ: ”Nếu Ông ta là Con Thiên Chúa” hẳn Ông ta sẽ vỗ ngực nhận ngay tức khắc và sẽ vung tay làm phép lạ ra oai, vừa có bánh để ăn vừa để minh chứng ta đây là Con Thiên Chúa ! Nào ngờ, tên Quỷ bị đánh bại liền. Đức Chúa Giêsu đáp: ”Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”
Ma quỷ là loài xảo trá, là con rắn độc. Rắn thuộc loài bò sát không chân. Do đó, rắn không gây tiếng động, nên dễ dàng chộp bắt con mồi. Ma quỷ cũng thế. Để cám dỗ loài người đi theo đường tà vạy, Ma quỷ thường nhẹ nhàng êm ái lẻn vào lòng, vuốt ve phần hạ cấp nhất của con người. “Có thực mới vực được đạo”, người ta nói thế và Ma quỷ có lẽ cũng đồng ý như vậy. Ma quỷ luôn luôn bắt đầu tấn công nơi cái điểm yếu nhất của con người.
“Khi quỷ đã thử thách Chúa đủ cách, nó rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4:13) . Sau khi Satan bị thua trong mọi cơn cám dỗ, nó xấu hổ, bẽ bàng rút êm để chờ dịp khác! Nó thua keo này, nhưng nó sẽ chờ keo khác, chỉ khi nào chúng ta thở hơi cuối cùng thì chúng mới ngưng hẳn cám dỗ chúng ta !
Tin Mừng nói rõ Satan là cha sự dối trá, gian manh, quỷ quyệt, là đầu “quyền lực bóng tối” (Lc 22:53), là hoàng tử của thế giới huỷdiệt và chắc chắn “Chúng sẽ trở lại” (Jo 14:30). Vì thế, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu cẩn thận đề phòng và quyết liệt chống trả mọi mưu chước thâm hiểm của chúng bằng Lời Kinh Thánh, bằng chuyên tâm cầu nguyện, sống thân thiết với Thiên Chúa, để múc lấy Thần Lực để có thể chiến thắng thần dữ.
Và để chống lại mọi mưu thâm chước độc của tà thần, chúng ta có mẫu gương chiến thắng của Đức Chúa Giêsu Kitô trong trình thuật Tin Mừng hôm nay
Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, với tất cả sự khiêm tốn và đặc biệt là niềm tin để rồi có Chúa Thánh Thần cùng đồng hành, Ngài đã vượt qua cám dỗ. Ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần đồng hành với ta trên mọi nẻo đường đời để ta thấy cuộc đời của ta ngày mỗi ngày kết hiệp mật thiết với Chúa hơn và không có cám dỗ nào có thể khuất phục ta được.
Về mục lục
.
BƯỚC VÀO MÙA CHAY VỚI THÁNH THẦN TÌNH YÊU
Dã Quỳ
Chúa Nhật hôm nay, người ta mừng lễ Tình Yêu (St.Valentin). Rất nhiều cửa hàng bày bán quà, hoa, Chocolat cho những đôi tình nhân và những người mừng lễ. Thế nhưng chúng ta, những Kitô hữu lại cử hành Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, là mùa để sám hối cách rõ nét qua ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Vậy lễ Tình yêu và Mùa Chay có đối lập với nhau không?
Thánh sử Luca đã kể lại cho chúng ta hành trình vào sa mạc của Chúa Giêsu:”Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.”(Lc 4,1). Với những chi tiết này, chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu được hướng dẫn bởi Tình Yêu của Thiên Chúa suốt dọc dài từng bước của Người trong sa mạc. Thế mà sau bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện ấy:”Người chịu ma quỉ cám dỗ.”(Lc 4,2) Những cơn cám dỗ này cũng rất phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Ma quỉ tinh khôn lợi dụng thời điểm và lời Kinh Thánh để cám dỗ Chúa. Thế nhưng, Chúa đã chiến thắng những cám dỗ của ma quỉ cũng với trích dẫn Kinh Thánh. Chắc chắn Người chiến thắng cách mạnh mẽ vì Người là Con Thiên Chúa và tràn đầy Thánh Thần.
Khuynh hướng tìm kiếm của ăn, tiền bạc, danh vọng, quyền lực cũng là những thử thách mà chính chúng ta, những chi thể của Chúa cũng luôn phải đương đầu trong cuộc sống! Khi để cho Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy qua Lời Thiên Chúa để có thể chiến thắng được tên cám dỗ, Chúa Giêsu dạy chúng ta là những con cái của Người biết chọn lựa như thế nào trong cuộc sống hằng ngày mà xung quanh ta tràn ngập những cám dỗ.
Cuộc sống của ta không thể tránh được những thử thách từ cám dỗ. Vì chúng ta không thể mạnh mẽ và lớn lên mà không trải qua những thử thách. Cũng không thể có chiến thắng, có vương miện mà không có chiến đấu và đối diện với kẻ thù. Đức tin có trải qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn và xác tín vững mạnh. Thánh Phêrô cũng đã thấy trước và từng trải qua những cám dỗ, ngài khuyên chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế.”(1Pr 5,8-9)
Vậy chúng ta hãy theo Chúa Giêsu vào sa mạc tâm hồn của mình và ở đó với Chúa. Hãy nhìn vào những ngổn ngang bừa bãi đang chiếm ngự cuộc sống chúng ta và kiên trì sắp xếp lại tất cả. Hãy đem theo ước muốn chay tịnh và cầu nguyện, ăn năn và sám hối từ cõi lòng mình. Chúng ta cũng hãy mang theo mình những cám dỗ đã làm cho ta đau đớn ngày này sang ngày khác, và khuynh hướng đi tìm của cải, quyền lực, danh vọng, uy thế và sự thỏa mãn. Hãy suy niệm Lời Chúa và cậy dựa vào sức mạnh của Chúa để có thể chiến đấu như thánh Phaolô dạy “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ….Hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.”(Ep 6,10.17)
Chúng ta hãy bước vào Mùa Chay năm nay với lòng tin tưởng. Bốn mươi ngày trước lễ Phục Sinh được trao tặng để chúng ta chỉnh đốn và thắt chặt lại mối tương quan tình yêu của ta với Thiên Chúa là Cha chúng ta trong cầu nguyện, qua ăn chay, sám hối, thay đổi lối sống và thực thi đức ái với tha nhân. Bước theo Chúa Giêsu Kitô sát kề hơn vì Người đã đi trước chúng ta trên hành trình làm người. Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy đặt mình dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần-Đấng là Tình Yêu và sự Thánh Thiện để rồi trong Chúa Giêsu và cùng với Thánh Thần, ta cũng vượt qua được những cơn cám dỗ và chiến thắng ma quỉ cách vững vàng.
Lạy Thiên Chúa-Cha chúng con, xin ban Chúa Thánh Thần để Người dẫn chúng con vào trong sa mạc Mùa Chay Thánh này. Xin lắng nghe những lời cầu nguyện chúng con dâng lên Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời…xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
09/03 Tin mừng của lòng thương xót
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin mừng của lòng thương xót.
Thứ Bảy sau lễ Tro.
“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Lời Chúa: Lc 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.
Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tin mừng của lòng thương xót
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.
Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.
Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.
Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
SUY NIỆM 3: TỪ BỎ... VÀ ĐI THEO ĐỂ LÀM LẠI CUỘC ĐỜI (Lc 5, 27-32)
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình...
Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: "Anh hãy theo tôi !", đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.
Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.
Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Kêu gọi người tội lỗi sám hối
Suy niệm:
Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong số khách mời có cả các môn đệ.
Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước khi làm cho người khác hoán cải,
chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/03 Ý nghĩa của việc ăn chay
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ý nghĩa của việc ăn chay.
Thứ Sáu sau lễ Tro.
“Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Lời Chúa: Mt 9, 14-15
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”
Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ý nghĩa của việc ăn chay
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thái độ dứt khoát.
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Tại sao phải ăn chay?
Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)
Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.
Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.
Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.
Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.
J.Y.G
SUY NIỆM 4: GIỮ CHAY ĐÚNG NGHĨA (Mt, 9, 14 –15)
Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.
Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.
Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa...
Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.
Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?", nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.
Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!
Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo..., nhất là tin vào Tin Mừng.
Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Chàng rể bị đem đi
Suy niệm :
Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.
Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.
Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,
ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).
Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)
các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).
Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,
không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,
nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).
Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):
“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”
Dĩ nhiên là không rồi!
Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm
là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.
Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.
Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.
Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),
Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).
Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.
Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.
Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).
“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).
Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,
nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.
Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).
Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”
Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.
Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.
Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).
Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)
Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).
Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.
Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.
Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
07/03 Theo Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Theo Chúa Giêsu.
Thứ Năm sau lễ Tro.
“Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.
Lời Chúa: Lc 9, 22-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Theo Chúa Giêsu
Trong lịch sử Giáo hội, từ hơn hai ngàn năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.
Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn gọi trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời Kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.
Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Vác thập giá
Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. (Lc. 9, 22-23)
Để bước theo Đức Kitô, phải vác thập giá mình, người ta biết ít về sứ điệp này và coi đó không đơn giản. Nếu người ta chịu vác thập giá của người khác thì sẽ thấy không quá khó. Còn thập giá của mình có vẻ nặng hơn nhiều của người khác. Nhưng không phải thế, chúng ta ai cũng phải vác thập giá mình. Thập giá mình là thập giá chúng ta không được chọn, không hề muốn, không có chút hấp dẫn nào, thật kinh khủng cho chúng ta.
Thập giá chúng ta phải vác quả thực mang lại khổ cực cho chúng ta vì nó đả thương chúng ta dù không muốn bị thương. Chúng ta hãy dừng ít phút để nghĩ tới cái đả thương chúng ta nhất trên đời mà chúng ta không thể chống lại được, đó là thập giá của chúng ta. Chúng ta phải vác lấy mỗi ngày. Thập giá đó chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta chấp nhận vác thập giá, đời chúng ta sẽ không bị uổng công đâu vì tin rằng chúng ta có thể sống sung mãn khi biết vác thập giá. Thập giá bảo đảm không tiêu diệt chúng ta nhưng lại là nguồn sống của chúng ta.
Đức Giêsu đã quả quyết như vậy bằng gương mẫu của chính Người. Người đã vác thập giá mình. Thập giá đã đưa Người đến cái chết. Và qua cái chết Người đã tới sự sống vinh quang. Con đường thánh giá của Người đã là con đường sống. Nếu chúng ta tin điều đó chúng ta có thể đón nhận thập giá của chúng ta. Nếu không tin thì không thể còn cách nào khác để được sống đời đời.
Không ai trên trái đất này thoát khỏi thập giá, vì thập giá là thành phần xây dựng sự sống. Ai không biết rằng phải vác thập giá mới tới sự sống thì thật thảm hại.
J.Y.G
SUY NIỆM 3: XÂY DỰNG LẠI CÁC MỐI TƯƠNG QUAN (Lc 9, 22 -25)
Mỗi khi Mùa Chay về, hay nghe nói tới Mùa Chay, chúng ta hiểu ngay: đây là “mùa trở về”.
Trở về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.
Trở về với Chúa để cảm nghiệm được tình thương của Người trên cuộc đời chúng ta.
Trở về với tha nhân để nhận thấy bổn phận yêu thương, liên đới và chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Trở về với chính mình để nhận ra mình tội lỗi và cần được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ.
Như vậy, cả ba mối tương quan, chúng ta thấy có một mẫu số chung là: nhận thấy mình bất toàn, ích kỷ, kiêu ngạo, nên cần phải trở về với Thiên Chúa, tha nhân và ngay cả với chính mình để được trở nên hoàn thiện.
Muốn hàn gắn và xây dựng lại những mối tương quan ấy, chúng ta hãy để ý đến lời mời gọi của Đức Giêsu: phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá mình.
Khi nói đến từ bỏ chính mình, Đức Giêsu muốn chúng ta phải ý thức tận căn, bởi vì nếu từ bỏ nhiều thứ, dốc quyết nhiều chuyện, mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả, và nếu có bỏ đi chăng nữa, thì sẽ tìm dịp và tìm cách thuận lợi để lấy lại!
Bỏ mình còn có nghĩa là coi mình ra không để hướng về Chúa và anh chị em, là quên mình để yêu thương, tha thứ và sống cho người khác.
Bỏ mình luôn đi đôi với việc vác thập giá của chính mình hằng ngày. Thập giá của mỗi người chính là ốm đau, bệnh tật, những chiến đấu chống lại cám dỗ, những trái ý, hiểu lầm, vu vạ, cáo gian...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, đón nhận thánh giá trong đời và trung thành vác lấy cách yêu mến. Xin cũng ban cho chúng con ơn trở về trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Vác thập giá mình hằng ngày
Khi nhìn các bạn đi dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Úc năm 2008
giành nhau chung vai vác cây thánh giá bằng gỗ, thật dài và nặng,
với vẻ mặt hớn hở vui tươi,
chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng vác thánh giá đâu có gì khó.
Nhưng khi phải đối diện với những thánh giá không bằng gỗ,
những thánh giá vô hình mà ta phải vác một mình,
chúng ta thấy khó hơn nhiều.
Không thể nói đến Đức Giêsu mà không nói đến thánh giá.
Thánh giá là cái giá Ngài trả cho cả một đời dám sống cho Cha
và cho con người, đặc biệt những người yếu thế.
Thánh giá nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,
nhưng thánh giá cũng là kết quả của lựa chọn căn bản của Đức Giêsu.
Ngài đã chết như thế vì Ngài đã dám sống như thế.
Đức Giêsu dần dần ý thức rằng
nếu Ngài cứ tiếp tục làm chướng mắt giới lãnh đạo Do thái giáo,
gồm các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư (c. 22),
thì cái chết như Gioan Tẩy giả là điều Ngài sẽ không tránh khỏi.
Đức Giêsu có thừa cách để tránh cái chết.
Nếu Ngài đừng giảng dạy, đừng hành xử như đã quen làm.
Nếu Ngài đừng nhất quyết lên Giêrusalem, nơi nguy hiểm (Lc 9, 51)…
Nếu Ngài chiều sự tò mò của Hêrôđê bằng cách làm vài phép lạ (Lc 23, 8)…
Nhưng Đức Giêsu đã không sợ hãi lùi bước.
Ngài bình thản đón lấy định mệnh bi đát của mình khi nói với môn đệ:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết…”
Ngài đón lấy chữ phải từ tay Cha, và tin mọi sự đều không ngoài ý Cha.
Đức Giêsu xác tín Cha sẽ không bỏ rơi mình,
Ngài tin vào kết thúc có hậu của đời mình:
“và ngày thứ ba Con Người phải được nâng dậy” (c. 22).
Chính Cha sẽ nâng ngài dậy từ cõi chết.
Định mệnh của Thầy Giêsu cũng là định mệnh của chính chúng ta.
Kitô hữu là người đi theo Thầy, đi cùng con đường với Thầy.
Vác thánh giá là chuyện bình thường hằng ngày của Kitô hữu
nếu chúng ta muốn sống yêu thương, phục vụ, trong trắng, thành thật…
Chỉ khi từ bỏ chính mình (c. 23), ta mới không đánh mất chính mình (c.25).
Dựa vào sự phục sinh của Đức Giêsu, ta mới dám sống kinh nghiệm đó.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
06/03 Hoán cải nội tâm
- Viết bởi Mt 6, 1-6. 16-18
Hoán cải nội tâm.
Thứ Tư LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.
“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động
(Lm Tạ duy Tuyền)
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động" cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA? (Mt 6,1-6.16-18)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo" (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa ... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện" (x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Cha hiện diện nơi kín ẩn
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO - Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO - Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI - Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
SUY NIỆM 11: HÃY XÉ LÒNG - TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ - ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
SUY NIỆM 14: BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY - Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
05/03 Sẽ được gấp trăm
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sẽ được gấp trăm.
Thứ Ba tuần 8 thường niên.
"Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu".
Lời Chúa: Mc 10, 28-31
Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phần thưởng gấp trăm
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp liền những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ về sự nguy hiểm của tiền của. Sau khi người thanh niên rời lìa Chúa, vì anh ta không thể từ bỏ của cải, Chúa Giêsu đã nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng kiểu nói khuyếch đại như người Ðông phương thường dùng để kích thích sự chú ý. Hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình cho thấy sự say mê dính bén tiền của là một ngăn trở không cho con người trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Trước sự sửng sốt của các môn đệ: "Thế thì ai có thể được cứu?", Chúa Giêsu xác quyết rằng ơn cứu độ hoàn toàn vượt quá những khả năng của loài người; đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa, vì chỉ mình Ngài mới có thể cứu độ con người. Nhưng quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô. Nhân danh Nhóm Mười Hai, ông thắc mắc muốn biết sự dấn thân của các ông có được thưởng gì không? Chẳng lẽ lòng quảng đại của các ông lại vô ích sao? Nếu những người giàu có, mặc dù nhiều của cải không thể vào Nước Thiên Chúa đã đành, còn những người đã từ bỏ những của cải hợp pháp nhất, liệu họ không có cơ may được vào đó được sao?
Trả lời cho câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu hứa ban gấp trăm ngay ở đời này và đời sau được hưởng sự sống đời đời. Kiểu nói "gấp trăm ở đời này" cần được hiểu theo nghĩa phẩm chất hơn là theo nghĩa số lượng: từ bỏ cha mẹ không có nghĩa là để được một trăm cha mẹ ngay ở đời này, nhưng là để được điều quý giá hơn cha mẹ, đó là cộng đoàn anh em sống hiệp nhất với nhau trong đức tin. Trong câu trả lời của Chúa, cần lưu ý một chi tiết, đó là ngoài những gì nhận được bây giờ, còn có sự bách hại nữa. Bị bách hại, bị ngược đãi là vận mệnh của người môn đệ; bước theo Chúa là chấp nhận phiêu lưu với Ngài trên con đường sống đức tin với những đau khổ, thử thách không thể tránh được.
Nguyện xin Chúa ban sức mạnh tình yêu để chúng ta sống trọn ơn gọi và chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phần thưởng gấp trăm
Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau.” (Mc. 10, 28-30)
Ai mà đã không có lần mơ tưởng đến phần thưởng gấp trăm ấy được hứa cho những ai từ bỏ tất cả: ly kỳ nữa là được cả một lô mẹ, anh em, chị em, nhà cửa… nhưng, ôi thôi!, lại cùng với sự ngược đãi nữa chứ? Giống như việc mua bán ở chợ, còn gì hấp dẫn cho bằng “bán chạy như tôm tươi”. Mơ ước hình như chưa bao giờ thực hiện được, ít ra là đối với những ai đã chơi bài. Sẽ được thực hiện ở thế giới bên kia không? Chẳng ai đã khẳng định điều đó bao giờ. Chẳng có gì ngạc nhiên, khi họa hoằn mới có những người dám đánh cuộc, một cái nắm trong tay còn hơn một trăm cái chưa có là vậy.
Hãy mở rộng nhãn giới của ta
Lời hứa như thế cho Phêrô và những người giống như ông là một lời hứa có tính tiên tri liên quan tới tương lai của cộng đồng các Kitô hữu sẽ sống những gía trị mà Chúa Giêsu đã loan báo. Không phải là loan báo thưởng gấp trăm lần hơn những gì người ta sẽ từ bỏ, nhưng là sự mô tả trước về những cộng đoàn sẽ sinh ra từ những ai sẽ mở rộng tâm hồn của họ tới chiều kích toàn cầu, những ai mà tình huynh đệ và yêu thương của họ sẽ không đóng khung trong gia đình, quê hương hay cục bộ, nhưng vươn tới hết mọi người bất kỳ họ là ai và ở nơi nào. Ở đây, chúng ta có được bài miêu tả có tính tiên tri về Giáo hội, và đại gia đình nhân loại, nơi đây tình huynh đệ và quyền sở hữu của cải sẽ không bị một quyền độc đoán nào khác giới hạn.
Giáo hội, gia đình của các con cái Thiên Chúa sẽ chỉ đạt được sự hoàn thiện tròn đầy, trọn vẹn ngày mà chúng ta sẽ chỉ là một trong Chúa Kitô, ngày mà người ta gọi là ngày sau hết, ngày thế mạt. Giáo hội ấy, cộng đồng không biên giới ấy, đã được thể hiện hôm nay trong những cơn bách hại, trong đau khổ của thập giá, nhưng cũng đang được hân hoan khi đi theo con đường Chúa đã đi và sống theo đường lối Đức Kitô đã muốn.
Giáo hội ấy, cộng đồng của những người anh em thuộc mọi chủng tộc, với những mái nhà đủ kiểu, với những môi trường văn hóa muôn vẻ thật đúng là phần thưởng gấp trăm đầy phấn khich cho những người biết sông yêu thương.
Giáo hội ấy có bành trướng không phải là để loại trừ những cộng đồng địa phương; mà sự bành trướng có chiều kích toàn cầu ấy còn bị những tâm hồn hẹp hòi ích kỷ tranh giành và bách hại vì nghĩ rằng họ sẽ bị tổn thương.
Suy Niệm 3: THEO CHÚA TA ĐƯỢC GÌ? (Mc 10,28 –31)
Sự nguy hiểm của tiền bạc đã làm cho người thanh niên có tiếng là đạo đức lầm lũi ra đi, vì tiền của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!
Thật là một sự xót xa cho số phận chàng thanh niên giàu có này! Thấy được sự nguy hiểm như vậy, nên tiếp theo đó, Đức Giêsu đã thốt lên với các môn đệ: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”; “Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
Nghe đến đây, các môn đệ hiểu được sự nguy hiểm của tiền của, tuy nhiên, nó đã làm cho các ông hoang mang, bởi vì khó như thế thì có lẽ không ai vào được! Vì vậy, Phêrô đã đứng lên thay lời anh em và thưa với Đức Giêsu rằng: “Thế thì ai có thể được cứu?”; “Và chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy thì được gì?”. Để giải thoát cho các ông về sự lo lắng này, Đức Giêsu đã mặc khải cho các ông biết: đối với loài người thì không thể làm được, nhưng đối với Thiên Chúa thì hoàn toàn có thể. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải đến từ cố gắng hay phấn đấu thuần túy của con người. Nhân đây, Đức Giêsu cũng nói rõ để các môn đệ nhận ra những ân huệ mà Chúa ban cho những ai trung thành với Ngài, đó là sự sống đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết trung thành đi trên con đường Chúa đã đi, để chúng con gặp được Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc ở cuối con đường cuộc đời trần gian. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Bỏ mọi sự vì Thầy
Suy niệm :
Bình thường con người làm gì cũng ít nhiều nghĩ đến cái lợi cho mình.
Không lợi vật chất thì cũng lợi tinh thần.
Không lợi đời này thì cũng lợi đời sau.
Không lợi cho cá nhân mình
thì cũng lợi cho gia đình mình, tôn giáo của mình, quê hương của mình.
Con người dám hy sinh bỏ cái này để được cái kia lớn hơn.
Nếu biết giữ cho đúng mực, khuynh hướng này không phải là xấu.
Anh thanh niên giàu có đã không dám bán và cho tất cả tài sản
để nhẹ nhàng thanh thản bước theo Thầy Giêsu.
Đối với anh, cái mất ở đời này lớn quá so với cái được ở tương lai.
Ngược lại, các môn đệ đã bỏ gia đình và nghề nghiệp ổn định
để đi theo một vị Thầy không chỗ tựa đầu,
sống cuộc sống bấp bênh, vất vả, thiếu thốn.
Khi nghĩ về cuộc sống hiện tại của cả nhóm đang theo Thầy,
Phêrô đại diện anh em đặt câu hỏi:
“Phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (c. 28).
Vậy chúng con sẽ được gì? (x. Mt 19, 27).
Thầy Giêsu không coi thường hay gạt bỏ câu hỏi này của Phêrô.
Thầy còn muốn long trọng trả lời câu hỏi này
cho cả những người ở thế hệ kế tiếp.
Bất cứ ai vì Thầy và vì Tin Mừng
mà bỏ những điều được coi là thiết yếu đối với cuộc sống
như tương quan máu mủ: cha mẹ, anh chị em, con cái,
như phương tiện để sống và sống còn: nhà cửa, ruộng đất (c. 29),
những người ấy, ngay bây giờ, ở đời này,
sẽ được gấp trăm về những điều đã mất.
Hơn nữa, họ còn được sự sống vĩnh cửu ở đời sau (c. 30),
điều mà anh thanh niên giàu có mơ ước.
Nhưng Thầy cũng không giấu những bách hại đang chờ đợi họ.
Hẳn các môn đệ sau khi theo Chúa đã chẳng có thêm nhà đất, vợ con.
Nhưng họ đã thuộc về một cộng đoàn rộng lớn hơn gia đình xưa của họ.
Nơi cộng đoàn Kitô này, gia đình nào cũng là nhà của họ,
mảnh đất nào cũng là nơi họ gắn bó thân quen như của mình.
Và rõ ràng họ có nhiều anh chị em và con cái hơn xưa.
Hạnh phúc đến ngay từ đời này khi con tim và vòng tay rộng mở.
Hạnh phúc này chỉ là hưởng trước chút hạnh phúc đời sau.
Người kitô hữu hôm nay sống ở thế kỷ hai mươi mốt
cũng có lúc nghĩ về cái mất, cái được của việc một đời theo Giêsu.
Chúa Giêsu đòi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài và sau Ngài.
Điều đó kéo theo những từ bỏ đớn đau, những thập giá thầm lặng.
Theo Giêsu, chúng ta thấy mình phải bỏ thế gian với bao quyến rũ.
Theo Giêsu, chúng ta thấy mình không thể chiều theo cái tự nhiên.
Nhưng theo Giêsu, chúng ta được điều lớn hơn cả.
Đó là chính Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. Amen. (Graham Kings)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 04/03 Điều kiện theo Chúa
- 03/03 Cây tốt sinh trái tốt
- 02/03 Điều kiện vào Nước Thiên Chúa
- 01/03 Bất khả phân ly
- 28/02 Quyết liệt theo Chúa
- 27/02 Cộng tác trong thiện chí
- 26/02 Điều kiện làm người lớn nhất
- 25/02 Điều kiện trừ quỷ
- 24/02 Nhân từ như Cha là Ðấng nhân từ
- 23/02 Chúa biến hình trên núi cao