Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/04 Trên đường Em-mau
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Trên đường Em-mau.
Thứ tư tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Lời Chúa: Lc 24, 13-35
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Em-mau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất.
Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trên đường Emmaus
Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Ðấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Ðấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: "Ðâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Ðâu là ý nghĩa của thân phận con người?"
Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Ðây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Ước gì sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Sao các bạn buồn
Cùng ngày hôm ấy hai môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc vừa mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc. 24, 13-16)
Hai môn đệ trở về Em-mau, con đường quê cũ, con đường đời thường đều đều. Nhưng hôm nay như đầy hố sâu, vắng lạnh, như kẻ đưa ma trở về, như gặp tai nạn, như cơn bệnh tái phát, lớp trẻ như thấy tương lai đen tối, như cảnh cô đơn hiu quạnh mất bạn chăn gối. “Các bạn có vẻ bi thảm, cái gì đã xảy ra vậy?”.
Đó chính là những cái chết tuyệt vọng. Người ta phải biết xây dựng lại cái đời sống chán đời và cái tương lai chôn chết đời mình để đừng sống trong những cái chết đó nữa.
Đó là điều không thể tha thứ được khi đánh mất hy vọng giải thoát như các môn đệ trên đường Em-mau: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu thoát Ít-ra-en”. Chúng ta cũng nói đúng như thế khi chúng ta gặp thất bại: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng kế hoạch đó sẽ thành công, thì chúng tôi sung sướng biết mấy, nhưng nay đầy những trắc trở”. Ai đánh mất hy vọng, không còn ước muốn gì nữa, thì đã biến mình thành con vật rồi. Thật khốn khổ!
Bao nhiêu Kitô hữu trong chúng ta đang đi trên đường Em-mau như vậy? Con đường dẫn tới hố tuyệt vọng. Họ đã không bao giờ sống hy vọng được giải thoát, được cứu độ, được vinh quang. Họ đã quay lưng đi, đi trong buồn thảm như hai môn đệ.
Chính lúc này, người khách bộ hành trở nên quan trọng, ông đến đồng hành với họ, nói với họ, đàm đạo với họ và giải thích lời Chúa cho họ.
Chính lúc này cần đón nhận họ, làm cho họ thấy những dấu chỉ của lòng thương yêu, của sự chia sẻ bánh thánh cùng với cộng đoàn trong ngày Chúa nhật để ánh sáng phục sinh soi sáng cho họ qua các dấu chỉ được nghe lời Chúa và được bẻ bánh.
Được đón tiếp vào nơi bình an như vậy, đức tin và đức cậy sẽ nẩy sinh trong họ, nếu họ biết mở lòng, mở con tim, xả hết nỗi buồn sầu u ám ra, cho niềm vui phục sinh tràn vào.
SUY NIỆM 3: Chúa Ðã Sống Lại
Trên đường về làng Emmau có hai kẻ song hành. Họ âm thầm bước đi bên nhau, mỗi người một suy nghĩ nhưng có cùng một mẫu số chung là tuyệt vọng. Và tuyệt vọng cũng là điều dễ hiểu vì Thầy họ, một người đầy uy quyền mà phải đầu hàng trước hội đường Do Thái, phải gục ngã trước uy quyền của thần chết.
Bởi thế, dù bước đi bên nhau mà tưởng chừng như độc hành. Cùng trên đoạn đường đi ấy, một người thứ ba xuất hiện đi cùng và đối thoại trao đổi cách thân tình. Vì thế, lòng họ ấm áp lại và rồi tâm hồn họ đã hồi sinh thực sự khi Ngài bẻ bánh trao cho họ. "Trao bánh" là ban một cử chỉ thông hiệp thân mật và là mối dây thông cảm thân tình giữa Thầy và Trò.
Thế giới hôm nay cũng không thiếu những tâm hồn cô độc tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, vì không thấy ý nghĩa cuộc đời. Tuyệt vọng vì chiến tranh bạo lực, vì những cấu xé tranh giành giữa con người cùng chung một dòng máu. Tuyệt vọng vì nghèo đói, bị khinh bỉ, bị đặt ra ngoài lề xã hội.
Giữa những cảnh tuyệt vọng ấy, bổn phận người Kitô hữu là gì nếu không phải là đốt lên ngọn lửa yêu thương để sưởi ấm tâm hồn. Bổn phận này không đòi hỏi phải có những tổ chức rộng lớn, nhưng phương tiện tân kỳ hoặc những khả năng phi thường, nhưng chỉ cần những đối thoại trao đổi đơn sơ nhưng đầy tình Chúa và tình người cũng mang lại những giá trị của nó: "Phải chăng trong lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong khi Ngài đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Một cử chỉ cầm tay và ngồi bên giường bệnh nhân hàng giờ của người nữ y tá chẳng là gì, nhưng nếu không có cử chỉ ấy thì giá trị của cuộc giải phẫu sẽ chẳng lường trước được.
Lạy Chúa, nếu cuộc sống đã làm cho con đau lòng tuyệt vọng thì xin Chúa cho con biết tìm về Lời Chúa và Mình Chúa để lấy lại sức mạnh cho tâm hồn. Vì Lời Chúa sẽ hâm nóng tâm hồn giá lạnh của con; và bàn tiệc Thánh Thể sẽ cho con được hồi sinh. Ðể như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã được hồi sinh, con sẽ đến với người anh em để nói cho họ về niềm tin vui Phục Sinh, về tình thương của Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: LỜI CHÚA ĐEM LẠI NIỀM VUI VÀ HY VỌNG (Lc 24,13-35)
Xem lại CN III Phục Sinh A
Có những dấu chỉ, biến cố, sự kiện, khi nhắc đến, người ta nghĩ ngay tới một người hay nhóm người liên hệ.
Cũng vậy, hôm nay, khi nói đến làng Emmaus, người ta nghĩ ngay đến sự kiện, biến cố liên quan trực tiếp đến Đức Giêsu phục sinh. Emmaus cách Giêrusalem khoảng 29 km. Đây là đoạn đường mà hai môn đệ đã đi sau cái chết của Đức Giêsu.
Con đường Emmaus mà hai môn đệ hồi hương lần này là con đường mang đậm tâm trạng buồn chán và côi cút của hai môn đệ khi các ông trở về trong nỗi thất vọng vì lý tưởng sụp đổ. Buồn vì người Thầy quý yêu đã bị người ta giết chết cách oan nghiệt, phũ phàng. Thất vọng vì Thầy mình đã bị ngã gục cách ê chề dưới bàn tay hung ác của con người. Vì thế, tương lai, lý tưởng, vận mạng của mình cũng sụp đổ tan tành.
Những bước đi thất thểu và lầm lũi khi trời đã về chiều, cộng thêm sự cực nhọc, đói khát đã làm cho tinh thần và thể xác, cả hai cùng uể oải.
Đang mang tâm trạng u ám như vậy, Đức Giêsu đã hiện ra với hai ông và bộ hành cùng họ. Ngài nhỏ to chuyện đời, chuyện đạo với các ông. Tuy nhiên, vì nỗi kinh hoàng của cuộc khổ nạn, và nhất là cái chết tức tưởi trên thập giá của Thầy mình, nên các ông không hề nghĩ rằng Đấng đã chết thì cũng là Đấng Phục Sinh đang hiện ra và trò chuyện với các ông.
Tuy nhiên, lòng họ chỉ bừng sáng lên khi Ngài kể chuyện Kinh Thánh, và nhất là niềm hy vọng được nhóm lên nhờ việc Ngài soi sáng để các ông hiểu được về sứ vụ của Đấng Cứu Thế qua những đoạn Thánh Kinh nói về Ngài. Nhưng lòng họ vẫn nặng trĩu u buồn, nên Đức Giêsu giờ này vẫn chỉ là một vị khách quý trong tâm tưởng của họ.
Chỉ khi trời đã tối và các ông mời Ngài ở lại với và dùng bữa với tư cách là khách mời, rồi cũng lúc này, Đức Giêsu làm những cử chỉ quen thuộc như lúc sinh thời, khi ấy họ mới nhận ra và lòng họ bừng cháy lên niềm tin tưởng, hân hoan vì những lời Kinh Thánh nói về Ngài đã thực sự ứng nghiệm.
Tâm trạng của hai môn đệ này được ví như thửa đất khô cằn nay được nước tưới..., nên lập tức, họ đã quay lại với cộng đoàn và không ngừng tuyên tín những điều đã thấy, đã nghe cho những anh em còn ở lại Giêrusalem.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay dạy cho ta những bài học sau:
Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi.
Thánh Thể là niềm hy vọng, an ủi, là chóp đỉnh của cuộc đời chúng ta.
Khi đã lãnh nhận được niềm vui của Lời Chúa và sức sống nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng hãy lên đường để làm chứng và loan báo về Chúa cho người khác như hai môn đệ trên đường Emmaus hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy đến và hiện diện trong cuộc đời chúng con, để cuộc đời chúng con có Chúa là niềm vui, bình an, hạnh phúc. Xin cũng cho chúng con biết sẵn sàng lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa đến với những người đang thất vọng và đau khổ. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Mời ông ở lại với chúng tôi
Suy niệm :
Dưới dáng dấp một người khách lạ,
Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ,
khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra...”
Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng...”
Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên chai lì,
họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề,
những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta.
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại được.
Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu nguyện :
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen. (Cha Piô)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
23/04 Niềm tin Phục Sinh
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Niềm tin Phục Sinh
Thứ ba tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Tôi đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy".
Lời Chúa: Ga 20, 11-18
Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?"
Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Niềm tin Phục Sinh
Trong một đêm tao ngộ do một nhóm thân hữu tổ chức tại Sydney, Australia, vào một tối Chúa Nhật cuối tháng 4/2001, nhạc sĩ Vũ Thành An, tác giả của những bài ca không tên bất hủ, đã xuất hiện không như một nhạc sĩ, mà như một nhà truyền đạo. Ở cao điểm của đêm tao ngộ, nhạc sĩ Vũ Thành An đã giới thiệu và trình bày những tác phẩm mà ông gọi là Những bài ca nhân bản và thánh ca. Như ông đã giải thích, những bài ca nhân bản đề cao tình người và những bài thánh ca ca tụng tình yêu Chúa này nói lên chính cuộc đổi đời của ông. Những dòng tâm sự và giọng hát của tác giả đã được khán thính giả đón nhận như một bài giảng thuyết về mầu nhiệm Phục Sinh.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay. Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Niềm tin Phục Sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta niềm tin ấy và xin Ngài củng cố niềm tin ấy cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Trong ta như trong Maria Mađalêna
Bà Ma-ri-a đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mồ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phái chân. (Ga. 20, 11-12)
Ngày nay, chúng ta gặp thấy một bà đáng tội nghiệp là bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, một bà đã theo Đức Giêsu tới chân thánh giá đầy đau khổ tang tóc. Trong bà chẳng thấy được một chứng cớ nào.
Trước hết, chúng ta gặp thấy bà đầy xao xuyến, lo âu, sợ hãi bên nấm mồ: “Tôi không biết người ta đã đặt Ngài ở đâu”. Dù bà đã ở đó lúc táng xác Người, tuy ở đó vẫn còn dấu vết Đức Kitô.
Chúng ta đã biết, theo Thánh kinh, Đức Kitô đang hiện diện trong Giáo hội, trong cộng đồng các tín hữu, trong mỗi người. Nhưng những ai đến gặp Người thì chỉ thấy những dấu vết như mộ trống. Họ vẫn chẳng thấy chắc chắn.
Chúng ta thấy có người giải thích cho Ma-ri-a Ma-đa-lê-na thì bà không biết tên mãi tới khi người ấy gọi tên bà, bà mới nhận ra Người.
Như vậy, chỉ có thể nhận ra Đức Giêsu khi người ta được gọi tên, được tiếp xúc với riêng mình. Có thể người ta trách những ai đã bỏ Giáo hội và cộng đoàn ngày Chúa nhật đã không có ai tiếp xúc cá nhân với họ, con người vô danh trong cộng đồng chúng ta đã giết chết sự nhận biết Đức Kitô. Vậy đừng bỏ rơi ai bị vô danh trong cộng đoàn tín hữu. Cần phải quan tâm đến từng người, lo cho từng người tiếp xúc với Đức Kitô, để mỗi người được Đức Kitô gọi tên họ.
Ma-ri-a muốn giữ Đức Giêsu lại cho mình. Cũng như chúng ta muốn giữ Người lại cho chúng ta vì chúng ta cần Người lấp đầy vào chỗ buồn sầu trong cuộc sống hiện tại để làm chỗ trú ẩn cho chúng ta trước những nghịch cảnh, những cơn hấp hối. Bao nhiêu người trong chúng ta đã giữ Đức Kitô lại cho mình, mà không chia sẻ, không bao giờ nói về Người, không bao giờ cất tiếng rao giảng về Người? Đâu là dấu chỉ chúng ta kính mến Đức Kitô? Trong giờ phụng vụ chúng ta chia sẻ lời Chúa với nhau hơn hay là thờ ơ lãnh đạm hơn?
Sau hết, khi đã hủy diệt được nỗi sợ hãi và ước vọng chiếm đoạt Đức Giêsu cho riêng mình, nhờ cú sốc được gọi tên riêng mình và được cảm nghiệm sâu xa Thầy đã sống lại, Ma-ri-a cũng được sống lại trong cởi mở và hiên ngang đi làm chứng về Thầy.
C.G
SUY NIỆM 3: Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục Sinh
Trong thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ Viler Maria thường có thói quen đi bách bộ vào mỗi buổi chiều. Dọc theo lối đi của thi sĩ có một bà già ngày ngày ngồi ăn xin. Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín, dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ một dấu hiệu biết ơn nào.
Ngày kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ, cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn xin mà chẳng cho bà chút gì. Ðọc được tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ không phải chỉ đưa bằng đôi tay".
Qua ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa hé nở trên tay. Dĩ nhiên cô gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng cô rộn lên với tư tưởng: "Ôi! Thi sĩ quá quan tâm đến mình biết bao". Nhưng không. Thi sĩ đã đến trao đóa hồng đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra là bà già bấy lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh. Bà vội vàng đứng dậy, bước tới cầm tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ. Rồi với cử chỉ nâng niu, bà ôm chặt lấy đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.
Suốt một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin hằng ngày cùng với vẻ câm nín và vô hồn như trước kia. Người bạn gái hỏi thi sĩ xem suốt tuần qua không xin ăn thì bà sống bằng gì. Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng".
Anh chị em thân mến!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật lại cho chúng ta câu truyện của một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng bỗng nhiên nhận được món quà trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường được, đó là niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh.
Ðọc lại đoạn Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt vọng của Maria Madalena lúc này đến mức nào. Theo Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc chắn bà đã nghe nói, đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã làm, từ việc chữa lành bệnh tật cho đến việc làm cho kẻ chết sống lại, từ việc khiến gió biển im lặng cho đến chuyện hóa bánh ra nhiều.
Thế nhưng, tất cả đều sụp đổ khi bà đếm từng vết máu và mồ hôi loang vãi trên đường tử nạn, khi theo dõi từng hơi thở thoi thóp của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hay khi xác Ngài được mai táng trong mồ, và hôm nay cả đến thân xác cũng bị đánh cắp mất, chẳng còn gì hy vọng nữa. Như vậy, tất cả chỉ là tuyệt vọng, Nhưng chính trong tận cùng của sự tuyệt vọng ấy, chính trong thử thách mịt mù ấy, bà đã được tặng ban một món quà không phải trên đôi tay, nhưng món quà ấy được trao tặng vào chính con tim của bà. Ðó là bà được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào.
"Gọi tên" đó là một dấu chỉ thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, giữa những người mục tử tốt lành và đoàn chiên. Người mục tử tốt lành nhận biết từng con chiên của mình, và Ngài gọi tên từng con chiên một và cho chúng vào hưởng niềm no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi. Không chỉ riêng Madalena, nhưng mỗi người Kitô hữu đều được tặng ban món quà này. Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là họ đã được gọi tên, được đổi mới, được nâng lên hàng con cái dấu yêu của Thiên Chúa, được thông phần vào sức sống Phục Sinh trong nhiệm thể Ðức Kitô.
Sư sống Phục Sinh này không phải chỉ là một đóa hồng tạm bợ, chỉ hồi sinh con người trong thời gian ngắn ngủi, nhưng là đóa hồng vĩnh cửu có thể cho con người sống đúng địa vị làm người, làm con Thiên Chúa đến muôn đời. Con người chỉ trở nên buồn thảm, câm nín là vô hồn khi họ không biết nâng niu, quí chuộng mà bỏ xa sự sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Lạy Chúa, nếu tội lỗi làm cho con vô cảm, u buồn, tuyệt vọng, thì xin cho con được luôn nhớ rằng: Chúa đang đứng bên con và đang gọi tên con. Con không nhận thấy, không nghe biết vì con không nhiệt tâm yêu mến, tìm kiếm như thánh nữ Maria Madalena. Biết kiếm tìm trong tinh thần yêu mến chắc chắn con sẽ không thất vọng vì Chúa đang ở bên con, đang đợi chờ con.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: YÊU ĐỂ TIN VÀ LÀM CHỨNG (Ga 20, 11-18)
Chuyện kể rằng: sau khi Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị bắt một thời gian, người ta không còn cách nào liên lạc được với ngài. Ngài đã đi vào cõi biệt vô âm tín. Vì thế, giáo dân nghĩ là ngài đã chết trong tù, nên nhiều người có lòng quý trọng, yêu mến và cảm phục ngài bởi nhân đức anh hùng, nhất là lòng đạo đức, nhân từ, hiền hậu và yêu thương, vì thế họ đã diễn tả lòng biết ơn và kính trọng của họ với ngài bằng cách: cầu nguyện và xin lễ cầu hồn cho ngài. Tuy nhiên, một thời gian sau, ngài được trả tự do và xuất hiện trước công chúng... Tin vui mừng này loan đi cách nhanh chóng, vì thế, chẳng mấy chốc, nhiều người đã biết được tin và họ không ngừng tạ ơn Chúa, trong số những người vui mừng nhất, có lẽ phải kể đến, đó chính là thân mẫu Đức Hồng Y.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy cảnh tang tóc, sầu thương, u buồn, tuyệt vọng đang bao phủ tâm trạng Maria Madalena! Bà buồn vì tình cảm mà bà dành cho Đấng đã yêu thương và cứu thoát bà khỏi chết, thoát ra khỏi con đường tội lỗi, ban những lời dạy tuyệt vời..., hơn nữa, sự hy vọng của bà vào Đấng đã chữa lành mọi bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều... sẽ đem lại cho bà một chỗ dựa vững chắc... Nhưng sau những trận đòn chí mạng, những mệt nhọc của chặng đường lên Gôngôtha, và cuối cùng là cái chết trên thập giá và được an táng trong mộ như bao nhiêu người khác... đã làm cho bà thất vọng. Sự tuyệt vọng ấy đi đến đỉnh điểm là ngay cả xác chết rồi mà cũng còn bị mất... Như thế, đặt mình vào tâm trạng của bà, chúng ta mới thấy được sự xót xa buồn tủi là dường nào!
Tuy nhiên, giữa cảnh sầu thương tang tóc ấy, đã bừng lên một niềm vui vô đối, không gì có thể sánh bằng, đó là Tin Mừng Phục Sinh. Phần thưởng của Đức Giêsu dành cho bà chính là cho bà thấy Ngài và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào: “Maria”.
Gọi tên là dấu chỉ thân mật của Thầy và trò, của cha mẹ với con cái, của người mục tử với đoàn chiên. Gọi tên là dấu nhận và biết cách cụ thể, là bảo vệ chở che.
Vì thế, khi vừa nghe thấy Thầy gọi tên mình, bà đã vội vàng thưa: “Rapbuni” (nghĩa là: lạy Thầy).
Nếu việc gọi tên là dấu chỉ, cách thức cho biết người được gọi thuộc về người gọi và người gọi phải có bổn phận với người mà họ đã gọi, thì khi người được gọi nghe thấy và thưa lại chính là sự xác minh cách cụ thể mối tương quan trên.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về Bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Khi lãnh nhận Bí tích này, chúng ta được đổi tên thành Kitô hữu và được gọi vào hàng con cái của Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Đức Kitô phục sinh.
Đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không ngừng tạ ơn Chúa và lo sống xứng đáng bổn phận của mình. Nhất là trở nên chứng nhân của Chúa phục sinh trong môi trường và xã hội hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban cho chúng con biết nhận ra tình thương của Chúa khi Chúa phục sinh chúng con từ đau khổ, tội lỗi thành bình an, hạnh phúc và niềm vui qua Bí tích Rửa Tội khi mỗi người chúng con được mang một tên mới và thuộc về Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Tôi đã thấy Chúa
Suy niệm :
Maria Mácđala là con người yêu mến.
Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ,
đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25).
Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ.
Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần.
Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11).
Ngôi mộ như có sức giữ chân bà.
Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm.
Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15).
Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà.
Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ,
và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20, 2).
Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự:
“Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu” (c. 13).
Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói:
“Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết
ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15).
Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy,
nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ.
Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó.
Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?”
Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala?
Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm?
Đức Giêsu phục sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn.
Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy.
“Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc.
Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni !”
Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện.
“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”.
Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều,
đó là chính Thầy đang sống.
Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều.
Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria.
Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài.
Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản:
“Tôi đã thấy Chúa !” và Chúa đã nói với tôi (c. 18).
Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này.
Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện.
Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm
và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
22/04 Phép lạ Phục Sinh
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Phép lạ Phục Sinh.
Thứ hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".
Lời Chúa: Mt 28, 8-15
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Phép lạ Phục Sinh
Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau:
Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:
- Thầy của anh đã làm được bao nhiêu phép lạ rồi?
Người đệ tử trả lời:
- Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.
Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng và hướng dẫn tâm tư hành động của chúng ta, để trong mọi sự, chúng ta sống theo thánh ý Ngài, và như vậy, cảm nhận được phép lạ của tình yêu Ngài trong từng phút giây của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kiểm duyệt tin tức
Và Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”
Các bà đang đi, thì kìa mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. (Mt. 28, 9-11)
Ngày nay, những phương tiện thông tin đầy quyền lực và phong phú đa dạng làm cho chúng ta không bao giờ biết được chính xác những sự kiện, những biến cố: báo chí tố cáo nhau giữa phe đảng đã kiểm duyệt tin tức để có lợi cho phe nhóm mình. Những tố cáo và cải chính xen lẫn nhau trên mặt báo hàng ngày. Không ai có thể thấy đâu là sự thật.
Bản văn Tin mừng hôm nay đem ra ánh sáng cho thấy khó có một thông tin khách quan. Xét về sự kiện phục sinh thì có nhiều lối cắt nghĩa bất đồng ý kiến nhau. Có hai lý do đáng chúng ta lưu ý về những khó khăn này:
Trước hết, phía những chứng nhân, những người tiếp nhận tin tức, Đức Giêsu đã sống lại vì Người đã hiện ra với tôi. Thánh sử Tin mừng rất cẩn thận ghi lại nhiều chi tiết tỏ cho thấy sự hiện diện của một thân xác, không phải bóng ma: Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã ôm chân Người, chỗ khác cho thấy, Người sống lại ăn uống, đốt lửa nướng cá, cho sờ mó vào chân tay Người. Nhưng những chứng nhân này lại sợ hãi. Lúc ban đầu họ sợ hãi bị chế nhạo làm cho họ im lặng trước sự phục sinh của Đức Kitô. Vì thế sứ điệp giải phóng và phục sinh của Đức Kitô cũng đã bị bóp nghẹt trong chính con người chúng ta.
Những kẻ chứng kiến khác thì lại nói quanh co tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi mình, công việc mình hay bảo vệ cái tin bịa đặt của mình như các thượng tế và kỳ lão đút tiền cho lính canh mồ để họ loan tin các môn đệ ăn trộm xác Người. Thế lực chính trị thuê mướn thế lực tư pháp, quan tòa, luật sư để bảo vệ đảng của mình. Người ta âm mưu dựng nên những bằng chứng ma, hay mua chuộc những nhân chứng giữ im lặng.
Nhiều lần, chúng ta cũng vì sợ bị chế nhạo mà làm chứng quanh co hay để kẻ khác mua chuộc sự im lặng và lợi dụng đầu cơ những bằng chứng. Chúng ta phải giật mình hổ thẹn rằng Đức Giêsu đã bị tố cáo khiếm diện, Người bị loại trừ, bị tuyên bố là chết rồi.
Những nhân chứng mới của phục sinh không thoát khỏi sự an toàn giả tạo, nếu không quan tâm đặc biệt đến Tin mừng phục sinh, nếu không tuyên bố công khai những điều đã hiểu biết về đêm vượt qua.
SUY NIỆM 3: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta
Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.
Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".
Anh chị em thân mến!
Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.
Với sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.
Trước Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của Chúa Kitô. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: ĐỪNG GIỮ THẦY LẠI! (Mt 28, 8 -15)
Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ, anh chị em hay con cháu của chúng ta, thường chúng ta hay ra mộ để cắm nhang, đốt nến... rồi khóc lóc thảm thiết... Hành vi này là lẽ thường tình và nó cũng rất nhân văn! Qua nghĩa cử này, người ta vừa biểu lộ niềm tiếc thương, vừa diễn tả tâm tình biết ơn với người đã khuất.
Cũng trong tâm trạng ấy, nên hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc các phụ nữ đi ra mộ để khóc thương và xức thêm dầu thơm vào xác Chúa. Họ là những người đã từng lặn lội theo Đức Giêsu trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, vì thế, tình cảm Thầy và trò thật thắm thiết, keo sơn, nên chuyện đi ra mộ để làm những việc trên là chuyện đương nhiên nơi một người có lòng mến...
Tuy nhiên, những gì diễn ra trước mắt các bà khi các bà đi ra mộ và chứng kiến đã là điều bất thường và không khỏi ngỡ ngàng! Ngôi mộ thì trống; xác thì mất; lại xuất hiện các thiên thần kèm theo lời loan báo giật gân: Chúa đã sống lại! Sự hốt hoảng, hoang mang chen lẫn vui mừng đang mãnh liệt xâm chiếm tâm hồn các bà.
Khi các bà còn đang quá bối rối, thì Đức Giêsu đã hiện ra với các bà và cất lên tiếng nói thân thương hồi nào: "Chào chị em!". Khi nhận ra Chúa, các bà hết đỗi vui mừng và sụp lạy Ngài. Hành vi này cho thấy thái độ trân trọng, yêu mến và tôn thờ mà các bà dành cho Đức Giêsu. Thái độ này đi ngược hẳn với những động thái của nhóm Thượng tế và Kỳ mục! Họ là những người vốn đã có kế hoạch xóa sổ con người Giêsu cũng như những ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng và trong xã hội. Vì thế, họ lại tiếp tục đưa ra những kế sách mới, vu khống cho các môn đệ là đang đêm đến lấy xác Đức Giêsu và loan tin đồn là Ngài đã sống lại!
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, vì thế, Đức Giêsu đã hiện ra trực tiếp với các phụ nữ và trấn an các bà. Đồng thời ngay lập tức, Ngài muốn cho các bà vượt qua tâm lý, tình cảm tự nhiên, để đi đến một tình cảm trưởng thành và một tình yêu sứ vụ. Vì thế, Ngài nói: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó".
Sứ điệp của Đức Giêsu trao ban cho các phụ nữ cũng chính là sứ điệp cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: sống và loan truyền Chúa chịu chết, tuyên xưng Chúa sống lại cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết như mẫu gương của các phụ nữ hôm nay. Xin Chúa giúp cho chúng con khi đã yêu mến và tin tưởng vào Chúa, thì cũng can đảm ra đi chia sẻ niềm tin ấy cho người khác, để họ cũng gặp được niềm vui cứu độ như chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: “Chào chị em!”
Suy niệm:
Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.
Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.
Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ
về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),
các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.
Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,
vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu
Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,
nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.
Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ
Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.
Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.
Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,
các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.
Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,
các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.
Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.
Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).
Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.
Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.
Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại
cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.
Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”
Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.
Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ
Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh.
Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.
Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:
“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10).
Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.
Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.
Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh.
Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.
Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,
mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.
Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,
dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,
dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.
Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.
Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
21/04 Chúa Giêsu phục sinh
- Viết bởi Ga 20, 1-9
Chúa Giêsu phục sinh.
Chúa Nhật PHỤC SINH năm C.
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Bài Thương Khó: Ga 20, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".
Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.
Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Lc 24,1-12; Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
1. Chiến thắng
Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu sống lại hoặc tay cầm thánh giá nhỏ, hoặc lưng tựa vào cây thánh giá lớn. Đó là một sáng kiến gợi ý. Bởi vì sự phục sinh của Đức Kitô không thể tách rời khỏi thập giá. Hơn nữa, nhờ việc Đức Kitô sống lại, cây thánh giá không còn là biểu tượng của sự thất bại, mà đã trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng.
Thực vậy, khi các thượng tế và luật sĩ chủ mưu tiêu diệt Đức Kitô bằng bản án thập giá, họ ghét con người Đức Kitô thì ít, mà ghét chủ trương và đường lối của Người thì nhiều. Chủ trương của Người là bác ái. Đường lối của Người là cơi mở, bao dung, để phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, là tình yêu giàu lòng thương xót. Chủ trương ấy, đường lối ấy không phù hợp với họ. Hơn nữa, chủ trương ấy, đường lối ấy đã đụng chạm tới cái tôi ích kỷ, hẹp hòi và tự mãn của họ. Đó chính là những động lực thúc đẩy họ tiêu diệt Đức Kitô.
Thiết tưởng trong họ cũng có chúng ta. Vậy chúng ta đừng bao giờ chúng ta quên điều đó. Dù bị kết án oan và dù biết mình có sức thoát khỏi cuộc tử nạn, nhưng Đức Kitô, vì yêu thương, vẫn đễ cho các làn sóng hận thù, ghen ghét vùi dập Người cho đến chết. Kiêu căng và ích kỷ xem ra như đã thắng. Và thập giá bị coi như là dấu ấn thất bại được dành cho Đức Kitô.
Tuy nhiên, không phải là như thế, cái chết trên thập giá không phải là tiếng nói sau cùng. Bởi vì Đức Kitô đã sống lại vinh hiển. Khi sống lại rồi, Đức Kitô không oán thù ai, không phô trương gì cả, Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối và chủ trương của bác ái, của khiêm nhường, của bao dung, như những tháng năm về trước. Ngài vẫn dạy các môn đệ Ngài hãy sống như Ngài đã dạy và đã làm gương. Bởi vì chỉ tình thương mới có sức cứu độ, chỉ bác ái mới có sức phục sinh.
Như thế, nhờ sự sống lại của Đức Kitô, cây thập giá đã trở nên Tin Mừng, làm chứng cho một tình yêu chiến thắng. Chiến thắng bằng những phấn đấu gay go, dũng cảm và kiên trì chống lại những tội lỗi và những khuynh hướng xấu xa. Chiến thắng bằng những việc làm bác ái, cởi mở, bao dung, thăng tiến có kế hoạch và chấp nhận hy sinh.
Từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài, chúng ta đi đến một kết luận quan trọng, đó là kể từ nay, dù là ai, và dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng được Ngài lắng nghe, đón nhận và yêu thương, bởi vì Người là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Người đến để chúng ta có sự sống và được sống dồi dào. Người đã thắp lên trong cõi lòng chúng ta niềm vui mừng và hy vọng, bởi vì thập giá của Người là nguồn ơn cứu độ và cách sống của Ngài là con đường dẫn tới phục sinh. Hãy hân hoan bước theo Người và hãy vui mừng được thuộc về Người. Chính trong chiều hướng đó mà tôi xin cầu chúc cho mỗi người một lễ phục sinh đầy vui mừng và hy vọng với ơn lành và tình yêu thương của Đức Kitô.
2. Marathon.
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.
Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan. Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?
Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước, nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén, Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã tin.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy gồm những người như Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?
3. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
4. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần... đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
"Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". (Nguyễn Du).
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ". (Ga 11, 25).
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.
5. Niềm tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
6. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
7. Đức Giêsu vẫn sống
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
8. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
9. Rao truyền ơn Phục Sinh
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
10. Ánh sáng và bóng tối
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
11. Chúa đã sống lại thật rồi
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối" (Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!
12. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
NHẬP LỄ
Chúa nhật là Ngày Của Chúa. Ngày đó, Chúa làm chủ, vì Chúa đã chiến thắng sự chết và đã sống lại. Chúa Nhật cũng là Ngày Thứ Nhất trong tuần. Thời sáng tạo, ngày thứ nhất Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng. Phục sinh, ngày thứ nhất Chúa cũng đem lại ánh sáng và sức sống mới cho nhân loại.
- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là tinh thần hiệp nhất và sức sống liên kết (x.Cv 4,32). Xin Chúa thương xót chúng con.
- Lạy Chúa Ki-tô, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là lòng vâng phục và yêu mến Thiên Chúa (x.1Ga 5,1). Xin Chúa Ki-tô thương xót ...
- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là bình an của ơn tha tội và được sai đi để ban ơn tha thứ của Chúa (x.Ga 20,21). Xin Chúa thương xót ...
GIẢNG
Chúa Giê-su đã sống lại. Việc Chúa sống lại / không chỉ được chứng minh bằng ngôi mộ trống và các lần Chúa tỏ mình ra cho người này người khác, ở nơi này hay nơi kia. Đoạn Tin Mừng theo Thánh Gio-an mà chúng ta nghe hôm nay, còn cho chúng ta thấy những hiệu quả xác thực việc Chúa sống lại đó. Nhờ Chúa sống lại, mà đời sống của Giáo Hội có được sức sống mới.
Sức sống mới này được nhận thấy hiệu quả trước tiên là bình an và hoan lạc trong tâm hồn. Trước khi Chúa hiện diện, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20,19a). Nhưng khi Chúa đến, “đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” thì mọi người đều vui mừng (Ga 20,19b.20b). Sức sống mới là bình an và hoan lạc này, không ai có, mà có thể khư khư giữ lại cho riêng mình, nên niềm vui ấy đã được loan báo lại cho ông Tô-ma ~người không biết vì lý do gì vắng mặt chiều hôm ấy.
Sức sống mới ấy đã được đích thân Chúa Giê-su truyền lại cho các môn đệ. Người ban “bình an cho anh em” và Người thổi hơi, ban Chúa Thánh Thần xuống cho: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20,22). Thánh Thần của Chúa Giê-su chính là Thần Khí đã tạo nên sự sống thời nguyên thuỷ. Thánh Thần của Chúa là nguyên uỷ của sự sống. Nhờ Chúa sống lại và hiện diện, ban xuống Chúa Thánh Thần, nên sức sống trong Giáo Hội đã được đổi thay.
Đổi thay, là con người từ nay được tha tội và được Chúa Phục Sinh sai đi để thực thi quyền tha tội: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20,21b.23). Sức sống mới ấy, trước ngày Chúa sống lại, Giáo Hội làm gì đã có năng quyền và thẩm quyền?! Ngày nay, Giáo Hội thực thi thẩm quyền này, chính là một cách mạnh mẽ rao giảng và minh chứng quyền năng Chúa đã sống lại.
Sức sống mới ấy không chỉ ẩn sâu trong tâm hồn người tín hữu, nhưng nhờ Chúa sống lại mà “các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32). Sức sống từ Chúa Phục Sinh hiện diện, đã biến cải tâm hồn con người, tạo cho các tín hữu ~những người đã tin Chúa sống lại~ một sự sống mới. Sự sống mới ấy có nghĩa là từ nay không ai sống cho riêng mình, nhưng sống cho mọi người, bởi vì Chúa cũng đã chết và sống lại cho mọi người. Tình yêu đích thật của Chúa đã chan hoà nơi lòng mọi kẻ tin thờ Chúa. Thánh Gio-an viết: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng Sinh Thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Chúng ta đừng nghĩ rằng tất cả các tín hữu thời xưa đã có sự sống mới, nếp sống mới, đều là những người đã được thấy nhãn tiền Chúa Phục Sinh hiện diện. Cũng có rất nhiều người không được nhìn thấy Chúa như chúng ta ngày nay. Nhưng chúng ta nhớ Chúa đã nói với Thánh Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Các tín hữu ấy đã tin lời các Tông Đồ truyền lại. Họ đã thay đổi nếp suy tư và cách sống.
Lời rao giảng của các Tông Đồ vẫn còn được tiếp tục truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay. Cho nên, nếu chúng ta tin, chấp nhận Chúa đã sống lại, thì nếp sống của chúng ta cũng phải được thay đổi, phải được biến chuyển:
- Chúng ta đón nhận mọi hoàn cảnh sống trong niềm vui hoan lạc và bình an,
- Chúng ta đón nhận Chúa trong việc lãnh nhận bí tích Hoà Giải, tạo cho mình một nếp sống tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần ~nghĩa là sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh, ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần,
- Chúng ta quảng đại, bao dung đón nhận anh em, sẵn sàng chia sẻ, cộng tác với mọi người trong một nếp sống chung tương thân tương ái.
Như thế là chúng ta đã tin nhận, đồng thời cũng là rao giảng Chúa sống lại và chấp nhận mệnh lệnh Chúa sai đi, như các Tông Đồ và các giáo hữu thời xưa vậy.
13. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Một bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn Giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn Giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn Giáo ôn tồn bảo: Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình. Và ông giải thích: Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm, cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng kín, trên bờ biển Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời đã xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại, để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức Giêsu Phục Sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gẫy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Vì thế, Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
14. Tình yêu dẫn đến đức tin
(‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
15. Chúa đã sống lại
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
16. Sự nhầm lẫn
(‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc: "chúc mừng khai trương cơ sở mới". Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: "Thành thật chia buồn".
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trở về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: "Ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?". Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: "Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ". Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra - lớn lên - gia nua - rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam - Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi "không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa". Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: "Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
17. Sống lại trong lịch sử
(Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem” (Cv 10,39)
Khi đặt vấn đề Đức Giêsu lịch sử trong cái nhìn hiện đại, chúng ta ngay từ đầu sẽ vấp phải vấn nạn không dễ chấp nhận: đó là các Kitô hữu ban đầu đã xác tín rằng Đức Giêsu sau khi bị đóng đanh dẫn đến cái chết, đã sống lại. Thánh Phêrô đã tuyên bố “Họ đã treo Người trên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi, là những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, và là những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết”.
Lời chứng của các Kitô hữu về việc Chúa sống lại đặt căn bản trên những biến cố của lịch sử, nhưng làm sao để những lời chứng này am hợp với suy luận của lý trí con người ngày nay. Làm sao một con người với đầu óc lý luận thực tiễn có thể tin vào những lời chứng này? Bởi vì, theo suy luận mang tính duy nghiệm, người chết không thể sống lại được.
Tuy nhiên, Phêrô và nhiều tín hữu buổi sơ khai đã làm chứng rằng Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Họ xác quyết Ngài đã từng đồng hành với họ, trò chuyện với họ và ăn uống với họ. Có phải họ nói dối? Hay lầm lẫn? Hoặc hoang tưởng? Hay họ thêu dệt bịa đặt câu chuyện, chỉ vì hụt hẫng khi Thầy của họ đã mất mà còn cố gượng gạo muốn Thầy vẫn còn gắn bó với cuộc sống của mình? Tất cả những vấn nạn này do các học giả đưa ra khi nghiên cứu về Đức Giêsu lịch sử, thay vì dễ dàng chấp nhận những xác quyết của các Kitô hữu thuở sơ khai về việc Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, theo não trạng của những người thuộc thế giới cổ đại bấy giờ, cho dù nói chung họ thơ ngây và dễ tin, nhưng vẫn không phải dễ dàng và thông thường xác tín rằng người chết đã sống lại. Họ có nhiều kinh nghiệm cụ thể với thế giới người chết và tiếp cận với những người sắp chết hơn là những người Đông Phương hiện đại thời bây giờ. Họ hiểu thế nào là sự chết.
Với việc Đức Giêsu phục sinh, các môn đệ của Đức Giêsu thời sơ khai đã đồng lòng xác quyết một điều gì đó đã xảy ra, một điều rất lạ lùng, rất khác thường và tất cả đều trải nghiệm trực tiếp về điều lạ lùng và khác thường này. Ở đây chúng ta có thể đi đến kết luận, như cách nói của Ben Meyer “Mặc dù những người làm chứng cho một sự lạ đưa ra những lý chứng không mấy thuyết phục, hoặc có thể không trung thực hay tự đánh lừa chính mình, hoặc những lý chứng của họ không mấy tương hợp với sự xác tín hay với những tính chất đặc thù của sự kiện, nhưng như một định luật thiên nhiên không thể che đậy được, là họ đã thấy, họ đã tin và đã làm chứng như vậy. Tất cả mọi người: Phêrô, Maria Maddalêna, Salômê, Maria mẹ của Giacôbê, bà Gioanna, Giacôbê, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các Môn đệ khác… chẳng lẽ họ đều là những con người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình?
Các môn đệ Đức Giêsu đã không kỳ vọng vào việc sống lại. Cleopas trên đường đi Emmaus, đã nói giữa đám môn đệ về một cảm giác hụt hẫng “Chúng tôi kỳ vọng Ngài chính là người sẽ giải phóng Israel” (Lc 24,21). Maria Maddalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi mang đi khỏi ngôi mộ, và chúng tôi không biết họ đặt Người ở đâu”. Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ rằng Ngài sẽ phải chịu đau khổ, phải chết và sau ba ngày sẽ chỗi dậy, nhưng họ không hiểu điều Ngài nói cho tới khi trực diện tiếp cận với Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh. Điều đã làm thay đổi đầu óc nơi họ, chắc chắn không phải là một lời nói dối, một lời hứa hão huyền, hay một ảo giác của cả một tập thể, nhưng là một kinh nghiệm có thật về Đức Giêsu – Đấng đã sống lại và ở giữa họ.
Nhưng để có được trải nghiệm về Đức Giêsu Phục Sinh, một sự kiện gây chấn động, họ phải mở rộng tâm hồn đón nhận thực tại Thiên Chúa. Họ phải mở lòng để đón nhận Thiên Chúa – Đấng đang tác động trong lịch sử, một Thiên Chúa thể hiện chương trình cứu độ đếm với con người, thông qua thân xác mong manh của Đấng bị đóng đanh, nhưng đã sống lại để khai mở một kỷ nguyên mới, một cuộc sống mới bất diệt. Nếu ai đó không tin vào Thiên Chúa, sẽ khó mà tin được Thiên Chúa đã sai gửi người con của Ngài, và hiển nhiên Ngài đã có một người con yêu dấu để trao ban cho chúng ta. Hơn nữa, nếu có ai không tin Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, sẽ khó mà chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử bằng cách cho người con của Ngài sống lại để cứu chuộc con người.
Các Môn đệ đã tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Đấng sẽ chuộc lại dân Israel. Tuy nhiên, khi Ngài tiến nhận cái chết, họ đã phải tự thẩm định lại xem họ đã tin gì và Đấng mà họ đã đi theo là ai? Sự tái thẩm định niềm tin đó đã mau chóng xảy ra khi đối diện trước những biến cố làm chao đảo những kỳ vọng nơi họ, và cuối cùng họ đã cảm nhận được mầu nhiệm Chúa phục sinh, chỉ vì biết mở lòng để Thiên Chúa tác động trong lịch sử hầu thực hiện kế hoạch cứu chuộc loài người. Sự phục sinh khiến họ thay đổi tận sâu thẳm tâm hồn, nhưng họ đã tin bởi vì họ đã trải nghiệm được điều chân thực này. Tất cả những việc còn lại cần phải làm và có thể làm, là họ sẽ mang chở chứng tá cho một thực tại rất rõ ràng “Đức Giêsu đã sống lại và đã đến ở giữa họ”.
18. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24,4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24,5). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24,1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24,2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24,7).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
19. Người đã trỗi dậy rồi
(‘Manna’)
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
20. Nguồn hy vọng sống lại
(Lm Hồng Phúc)
Trong tuần vừa qua, một màn tang tóc đã bao trùm Giáo hội. Giáo hội mặc niệm cuộc Thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta đã chết để đền tội nhân loại.
Nhưng hôm nay, mùa tang đã hết. Giáo hội vui mừng hát lên lời Alleluia, vì Chúa đã toàn thắng sự chết và đã sống lại.
Phúc Âm kể rằng sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, các môn đệ đã hạ xác, liệm vào khăn, đặt vào mồ, lấy hòn đá lớn che lại và ra về. Người Do-thái đã nghe nói đến lời tiên tri Chúa phán về việc ngài sẽ sống lại, nên đâm bối rối. Và để ăn chắc, đã lấy ấn niêm phong cửa mồ và cho bộ đội canh phòng cẩn mật, làm một việc xưa nay chưa từng làm là canh chừng một xác chết vì sợ xác chết ấy sống lại.
Sáng Chúa nhật hôm ấy như sáng Chúa nhật hôm nay, khi trời còn tờ mờ sáng, Maria Madalena đi ra phần mộ. Bà thấy hòn đá đã lăn ra, liền chạy vội về báo tin cho các môn đệ. Các ông cho rằng đây là chuyện đàn bà dễ tin. Nhưng rồi Pherô và Gioan cũng quyết định chạy ra mộ xem sao. Đến nơi, họ nhận thức cảnh mộ trống. Mộ còn đó mà người nằm trong mộ biến đâu mất. Vậy sự kiện lịch sử đầu tiên về việc Phục Sinh là cảnh ngôi mộ trống. Nhưng dữ kiện ấy thôi không đủ để gây niềm tin. Vì biết đâu rằng mộ trống vì có người ăn trộm xác, rồi dấu tiệt đâu mất, như luận điệu người Do-thái tung ra để ém nhẹm sự Chúa phục sinh, sống lại. Vậy, với sự kiện mộ trống, còn kèm theo một sự kiện lịch sử thứ hai là người nằm trong mộ đã hiện ra. Vậy trong ngày trọng đại hôm nay, Đấng nằm trong mộ, Đấng mà dân Do-thái đã huyên hoang cho rằng họ đã giết chết, đã chôn chặt trong lòng đất, Đấng ấy đã phục sinh, đã sống lại, và đã hiện ra nhiều lần cho nhiều người xem. Ngài đã hiện ra với Madalena, với Pherô, với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các môn đệ đang họp nhau trong nhà cửa đóng then cài, kín bưng kín bít vì sợ người Do-thái.
Thánh Gioan viết: “Chúng tôi thấy và chúng tôi tin: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI”. Lòng tin của các môn đệ dựa trên hai sự việc như vừa nói: ngôi mộ trống và người chết nằm trong mộ đã hiện ra. Pherô, trong bài đọc I, đã long trọng tuyên bố: “Đức Giêsu mà Davit đã tiên báo thân xác Ngài không phải thấy mục nát. Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại. Chúng tôi hết thảy xin làm chứng” (Cv 2, 32). Và niềm tin ấy là niềm tin của Hội Thánh, là niềm tin căn bản của chúng ta.
1) Chúng ta là người tín hữu. Người tín hữu là người tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát ta khỏi vòng tội lỗi.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17). Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đạo thánh chúng ta đã tan ra mây khói từ lâu rồi.
Nhưng sự Chúa Phục sinh sống lại bảo đảm cho lòng tin của chúng ta, lòng tin dựa trên một Đấng là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Đấng mà trong cuộc đời đã 3 lần đến gần sự chết và đã phán một lời thì sự chết rút lui, người chết sống lại. Đấng ấy hôm nay đã toàn thắng sự chết nơi chính mình, đã phục sinh sống lại. Vì Ngài không phải chỉ là một người mà là một vị Thiên Chúa làm người nhập thể. Sự chết và sống lại của Ngài là niềm tin và nguồn hy vọng của chúng ta.
Ngày xưa, khi Đức Khổng Phu Tử qua đời, các đồ đệ vì thương nhớ Thầy đã xây nhà xây cửa xung quanh phần mộ Thầy để được gần Thầy. Là một nhà hiền triết, nhưng cũng là một người như ai, Đức Khổng cũng chỉ để lại một nắm xương tàn và với thời gian đồ đệ cũng tản mát bốn phương. Chúa Kitô sau khi sống lại đã qui tụ đàn chiên đang tản mát, đã khai sinh Hội Thánh và là nguồn hy vọng sống lại của chúng ta.
2) Người tín hữu còn là người Phục Sinh. Chúng ta đã chịu phép Rửa tội, và phép Rửa tội, như Phụng vụ Vọng Phục sinh tối hôm qua đã nói lên, là một sự chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa, một cuộc vượt qua biển máu tội lỗi để vào cuộc sống Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội dạy chúng ta xưng tội chịu lễ mùa Phục sinh để sống lại với Chúa trong đời sống thiêng liêng. Và như Chúa sống lại, Ngài không chết nữa, thì mỗi người chúng ta cũng phải xa lánh tội lỗi để giữ đời sống thiêng liêng.
Xưa Thiên Thần đã nói với người phụ nữ ra mộ: NON EST HIC – Ngài không còn ở đây nữa, thì nay Thiên Thần cũng chỉ vào quá khứ tội lỗi ta và nói như vậy. Người ấy không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại, Alleluia.
21. Mặt trời hé mọc
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
22. Đức Giêsu đã Phục Sinh
(Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố bình thường, nhưng là biến cố “đức tin”. Những người không sẵn sàng mở rộng tâm hồn, những ký lục biệt phái và thượng tế không sẵn sàng đón nghe sự thật, không thể đón nhận thực tại “vô tiền khoáng hậu” này.
Tin Đức Giêsu phục sinh là điều rất khó
Đức Giêsu khi còn sống, Ngài đã cho một số người chết sống lại, như con gái ông Gairô (Lc.8, 40-56), con trai bà góa thành Naim (Lc.7, 14-15), Lazarô em của Matta và Maria (Ga.11, 43-44). Tuy dù Ngài đã báo trước ba lần rằng “Ngài sẽ chết và sống lại” (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33), nhưng khi Ngài sống lại không có tông đồ nào tin (Mc.16, 9-14) cho tới khi Ngài hiện ra cho các ông.
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Chúa phục sinh cho tới khi Ngài hiện ra cho ông vào tám ngày sau (Ga.20, 25-29), nhưng cả mười tông đồ khác cũng không tin cho tới khi họ được thấy Chúa vào buổi chiều (Ga.20, 19-24). Các tông đồ đã không tin vào lời các chị phụ nữ làm chứng đã thấy Chúa phục sinh!
Nếu chính các tông đồ, những người thân cận của Đức Giêsu, được báo trước Ngài sẽ sống lại, còn chưa dám tin Ngài sống lại, mãi cho đến khi được thấy Ngài, thì làm sao những ký lục biệt phái và các thượng tế có thể tin Đức Giêsu sống lại được?
Cũng không lạ, nếu con người ngày nay không tin Đức Giêsu sống lại. Đúng hơn không tin “người chết sống lại” mới là chuyện bình thường, còn “Đức Giêsu sống lại” mới là chuyện “bất thường”.
Tin Đức Giêsu sống lại, là một hồng ân vô cùng lớn
“Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29). Những người tin vào Đức Giêsu, là những người được chúc phúc. Họ là những người được một ơn lớn mà nhiều khi họ không ý thức. Làm sao tin người chết sống lại được, làm sao tin Đức Giêsu phục sinh được? Ấy thế mà các Kitô hữu tin.
Các Kitô hữu không chỉ gồm những người ít học, nhưng gồm cả những người có học, và hơn nữa có nhiều người thông thái. Họ không tin mù quáng. Họ biết điều họ tin là chuyện rất khó, nhưng họ đã được một ơn để tin. Tạ ơn Chúa vì hồng ân kỳ diệu này.
Thánh Phaolô nói: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần” (1Cor.12, 3). Là Kitô hữu là một hồng ân vô cùng lớn. Tạ ơn Chúa.
Được gì khi Đức Giêsu phục sinh
Nếu Đức Giêsu không sống lại, các tông đồ đã không đi rao giảng, và các ngài đã không phải “tử đạo”, và đã không có Kitô giáo như hôm nay, cũng không có nhiều “anh hùng tử đạo”, cũng không có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa, cũng không chắc “chúng ta như hiện tại”, có lẽ chúng ta không biết tha thứ và yêu thương!
Nếu Đức Giêsu không sống lại, những lời giảng dạy của Đức Giêsu về chính Ngài như Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), là những điều dối trá, và Ngài là kẻ bịp bợm thời danh.
Còn nếu Đức Giêsu sống lại, nghĩa là những điều Ngài nói là đúng sự thật, nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tha tội, Ngài có trước Abraham, Ngài là một với Thiên Chúa Cha, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha. Ngài là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người. Vì nếu Ngài nói dối, Ngài đâu phải là người của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài.
Và nếu Ngài là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là: Thiên Chúa yêu con người đến độ nhập thể làm người. Đức Giêsu phục sinh, bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày cho một người “ngoại” lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu sống lại?
2. Đâu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Bạn có thể làm gì để giúp một người tin Đức Giêsu phục sinh?
23. Các nhân chứng phục sinh
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.
Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này: phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp lại?
Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
24. Ngôi mộ trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
25. Ông đã thấy và đã tin.
(‘Manna’)
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
26. Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
27. Mầu nhiệm.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
28. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến thứ nhất, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
Mười hai ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ mười ba, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
29. Ánh Lửa Phục Sinh
(Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Ông cũng còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18:31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26:31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên khi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.
30. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
31. Thánh Giá viết trên Cây Nến
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại.
Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
- "Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
- Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)
- Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)
- Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
- Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
- Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
- Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
- Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:
- Vì năm vết thương
- Chí thánh và vinh hiển.
- Xin Chúa Kitô
- Gìn giữ
- Và bảo vệ chúng ta." (Sách Lễ Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: "Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ". Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới". Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: "Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo: "Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông". Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa.Bởi vì“Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Đêm Vọng Phục Sinh, cả nhà thờ lung linh ánh nến. Từ cây nến mẹ, nến Phục Sinh ánh sáng thắp lên các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh, thắp sáng cho nhau là một hình ảnh tuyệt đẹp. Đây là đêm rất đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người.
Ánh Sáng Phục Sinh đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người khi tất cả được nâng lên và được kéo về bình diện siêu nhiên qua Thánh Giá, trong tình yêu viên mãn của Đấng Cứu Độ. Chúa Kitô đã tỏa chiếu Ánh Sáng Tình Yêu qua toàn bộ hành vi yêu thương trên Thánh Giá.
Nếu như thập giá phô diễn bạo lực tội ác và đau thương thì Thánh Giá mạc khải Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong Tình Yêu ấy, Đức Kitô đã chỉ cho nhân loại con đường sống ngang qua cái chết. Trong Tình Yêu ấy, chúng ta ngắm nhìn, chiêm ngưỡng suy niệm để nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
32. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
(Achille Degeest)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn “Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy. Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên, phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
33. Xác nhận lòng tin
(McCarthy)
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16,14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người”.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
34. Phục Sinh.
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính cuộc chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay, vấn đề chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo lường được tình yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay đi với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân mật với nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh Thánh đã nói về việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ qua: Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự trong nhà chầu… là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn thờ Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin Chúa đang sống, Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu Phục sinh không chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn sống động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài mà thôi, nhưng chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện diện giữa chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên chúng ta không chỉ nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng hạn như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng nọ. Nhưng có một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người bình thường hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa Giêsu thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết Ngài và gặp gỡ Ngài một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta xác tín: Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài đang sống thật sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc: sống công bình và yêu thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là một lời ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
35. Phục Sinh
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
36. Niềm hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
37. Lòng tin
Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn với ông ta sao?”. Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
38. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị đã không chia gia tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm "eczema", và kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh ngứa."
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện. Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét: một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau, "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế, quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những người đang mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là "Ai" trong mùa Phục Sinh? Và chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi "Linh hồn của Ngài sống mãi", hoặc là "Tư tưởng của Ngài còn sống", hay là "Ngài sống qua những người môn đệ." Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này sẽ được mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu." Khi tiếng loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô" (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng ta bằng tình yêu.
39. Đức Kitô chiến thắng
Tại công trường thánh Phêrô ở Rôma, có một đài tưởng niệm hoàng đế Caligula. Đài tưởng niệm này là một phiến đá cẩm thạch cao 30 thước, được mang về từ Ai Cập. Đỉnh cao là một cây thánh giá. Trên phiến đá này, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây:
Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat. Có nghĩa là Đức Kitô chiến thắng, Đức Kitô thống trị, Đức Kitô hiển trị.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ý tưởng thứ nhất: Đức Kitô chiến thắng.
Phải, Đức Kitô Phục sinh đã chiến thắng tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đồng thời, Ngài cũng đã chiến thắng kẻ thù của Ngài.
Đúng thế, kẻ thù của Ngài đang reo mừng ngạo nghễ vì đã nhìn thấy Ngài trút hơi thở cuối cùng một cách tủi nhục ê chề trên thập giá. Từ nay, Ngài không còn giảng dạy và hoạt động nữa. Từ nay họ có thể yên tâm ngủ quên trên tội ác của họ. Đức Kitô đã bị mai táng trong mồ. Thế nhưng, cũng chính từ ngôi mộ này mà Ngài đã bước ra để khởi đầu cho một trang sử mới, một trang sử bất tận.
Kẻ thù của Ngài reo mừng vì nghĩ rằng: Ngài cùng với giáo lý của Ngài đã bị chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh.
Dioclétien đã phát hành một loại tiền và trên loại tiền này có ghi hàng chữ:
- Kỷ niệm ngày quét sạch danh hiệu Kitô.
Thế nhưng, sự thật thì trái ngược hẳn lại. Dioclétien cùng với đế quốc Lamã của ông đã bị quét sạch khỏi mặt đất này từ lâu. Ông tưởng rằng mình đã huỷ diệt được Kitô giáo, nhưng nếu giờ đây được sống lại, ông sẽ phải ngạc nhiên vì trải qua 20 thế kỷ, Kitô giáo vẫn không ngừng phát triển, vẫn không ngừng lớn lên.
Vào thế kỷ 18, Voltaire đã nói:
- Chỉ 20 năm nữa, Đức Kitô sẽ bị chìm vào quên lãng.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chính 20 năm sau, Voltaire đã chết trong kinh hoàng khiếp hãi và phải ra trước toà án tối cao của Đức Kitô.
Rồi trong cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789 một ông bộ trưởng đã nói:
- Đức Kitô chỉ còn là một thây ma cho chúng ta đẩy xuống hố.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chẳng bao lâu chính ông bộ trưởng này đã bị xử tử và thi thể của ông đã bị đẩy xuống hố. Chống lại Đức Kitô là giơ chân đạp mũi nhọn. Chỉ những kẻ ngu xuẩn mới dám làm cái hành động liều lĩnh và dại dột ấy mà thôi.
Còn Đức Kitô, Ngài vẫn sống, vẫn tươi mới như mỗi độ xuân về của một năm, hay như mỗi khoảng bình minh của một ngày. Những bạo vương, những hoàng đế, những kẻ bách hại Ngài ở đâu bây giờ? Có ai còn nhắc đến họ và van xin họ? Lòng đất đã chôn vùi sự nghiệp của họ và thời gian đã đẩy họ vào quên lãng, như Nguyễn Du tiên sinh đã phát biểu:
- Bất tri tam bách du niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Có nghĩa là:
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Đức Kitô của chúng ta thì khác hẳn. Cho đến bây giờ, Ngài vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Người ta không ngừng học hỏi và tìm hiểu về Ngài. Và giờ đây, trong giây phút này, hằng triệu cặp môi vẫn còn cầu khẩn và ca tụng Ngài.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như một trò chơi của con trẻ. Vì tức giận với biển cả, nên đã cầm một cục đá và ném xuống lòng biển. Hòn đá được ném đi chỉ đủ gây nên một vài vòng tròn dao động trong thoáng chốc trên sóng nước mà thôi, còn biển cả thì vẫn bao la và hùng vĩ.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như hành động của một tên điên khùng. Hắn bực bội với mặt trời vì mặt trời luôn chiếu sáng. Vì thế vào lúc giữa trưa nắng gắt, hắn ngửa mặt lên và phun nước miếng vào mặt trời. Thế nhưng những giọt nước miếng do hắn phun ra thay vì rớt vào mặt trời thì lại rơi vào chính khuôn mặt của hắn.
Đức Kitô đã chiến thắng và chỉ mình Ngài mới trường tồn, mới bất diệt như lời thánh Phaolô Tông đồ:
- Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một.
Chúng ta hãy mượn lời thánh vịnh 73 như một kết luận:
- Lạy Chúa, Ngài là vua chúng tôi từ muôn thuở, Đấng đã từng chiến thắng trên toàn cõi địa cầu.
40. Biến đổi trở thành con người mới
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
41. Hai cái nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
42. Ngôi mộ trống
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
43. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI
NHỮNG LẦN HIỆN RA
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hoá các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hoá toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
BÀ MARIA MACĐALA, ÔNG SIMON PHÊRÔ VÀ NGƯỜI MÔN ĐỆ KIA
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn vã ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
44. Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
45. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình "tiệm tiến gây ấn tượng".
- Trước tiên đó là những "di chuyển" rất nhiều và rất nhanh: động từ "chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
- Kế đó là những “dấu chỉ" ngày càng rõ nét (với những động từ "nhìn", "thấy"), và "lời giải thích" về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
- Maria Madalêna "thấy" phiến đá lập cửa mồ "được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã "bị lật đi". Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, "cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó".
- Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. "Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra". Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự "kinh ngạc" của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: "Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết".
- Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó "ông đã thấy và ông đã tin".
2. Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, "Môn đệ kia" được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; "Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến"; Người trong bữa Tiệc ly đã "tựa đầu vào lòng Đức Giêsu", với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: "Ông đã thấy và ông đã tin". Theo ông, chẳng có ai "lấy đi" thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người" (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan". Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã "thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: "tin dù không thấy" (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài:
(‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: "Tin dù không thấy" và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: "Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu". Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý "đã thấy và đã tin".
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
2. Tại ngôi mộ để ngỏ
(G. Boucher trong "Thiên đường tại thế")
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.
20/04 Người đã sống lại thật
- Viết bởi Mt 28, 1-10
Người đã sống lại thật.
Thứ bảy tuần thánh – Ðêm Thánh Vọng Chúa Phục Sinh.
"Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".
Lời Chúa: Mt 28, 1-10
Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay".
Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người đã sống lại thật
1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.
2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.
Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.
3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: “Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. “Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào” (Rm. 5, 12, 17-19).
4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 2: Niềm hy vọng Phục Sinh
Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lấy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.
Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khỏe; các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.
Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.
Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta được Phục Sinh với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa sau khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chúa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn.
Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡn tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giận hờn, ghen tương. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục Sinh.
Chúa đã chết cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Niềm Hy Vọng Phục Sinh
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II
trong Ðêm Vọng Phục Sinh năm 2002
1. "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).
Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.
Thánh Tông Ðồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).
Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).
2. Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.
"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Ðỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.
Ðây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.
Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Ðức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.
3. Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.
"Trong đêm cực thánh này", khi Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Ðây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh. 4. "Ðêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.
Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Ðấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Ðức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Ðấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.
"Ðêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).
5. Ðây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.
Lạy Ðức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Ðức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Ðàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Ðức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An)
SUY NIỆM 4: Chào chị em!
Suy niệm:
Thật lạ lùng khi vào thời Đức Giêsu,
thời người ta không coi lời chứng của phụ nữ là có giá trị pháp lý,
Mátthêu lại kể cho chúng ta chuyện hai phụ nữ làm chứng về Chúa phục sinh.
Nếu chuyện ấy không có thật,
chẳng ai bịa đặt ra một chuyện vô bổ như thế.
Hai bà Maria này đã chứng kiến cái chết của Thầy Giêsu (Mt 27, 56),
đã dự việc chôn cất Thầy và biết rõ vị trí ngôi mộ (27, 61).
Suốt ngày sabát, trong đau đớn và nhớ nhung,
hai bà như sống trong một cuộc canh thức dài.
Họ chỉ mong cho chóng sáng để ra viếng mộ.
Các bà là những người đến mộ đầu tiên,
nên được diễm phúc chứng kiến những điều kỳ diệu.
Đất rung chuyển dữ dội, một thiên thần chói ngời từ trời xuống,
lăn tảng đá che cửa mộ ra và ngồi lên trên.
Quyền năng uy nghi của Thiên Chúa đè bẹp sức mạnh của tử thần.
Tảng đá nặng nề chẳng cầm giữ được Đấng bị đóng đinh.
Các bà đi tìm Đấng đã chết nơi nấm mộ.
Nhưng Đấng ấy đâu có ở đây, vì Đấng ấy đã trỗi dậy rồi (v. 6).
Thiên thần mời các bà đến xem chỗ Người nằm để kiểm chứng.
Quả thực, chẳng còn thân xác Người ở đó, ngôi mộ trống trơn.
Nhưng sự trống trơn này lại thật là một tin mừng.
Vì nếu Người còn nằm đó thì ai dám nói Người đã sống lại.
Ngôi mộ trở nên trống là do bàn tay quyền năng của Thiên Chúa Cha.
Cha đã nâng con trỗi dậy và cho con được phục sinh.
Đấng bị đóng đinh đã chết và đã nằm xuống.
Đấng nằm xuống đã được nâng dậy và sẽ đi gặp môn đệ ở Galilê (c. 7).
Lòng vui như mở hội, các bà vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ.
Đang khi chạy về thì chính Đấng phục sinh hiện ra đón gặp họ.
Ngây ngất vì cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ,
các bà chỉ biết phủ phục dưới chân Người mà thờ lạy (c. 9).
Thầy Giêsu không dặn điều gì khác với vị thiên thần ngoài mộ.
Chỉ có điều Thầy vẫn gọi các môn đệ là anh em (c. 10),
dù họ đã bỏ rơi Thầy trong lúc Thầy cần đến họ nhất.
Rõ ràng Thầy Giêsu phục sinh muốn tha thứ và làm hòa với họ.
Các phụ nữ đã trở nên những chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh.
Họ đã thấy ngôi mộ trống, hơn nữa, họ còn được gặp Đấng sống lại.
Nhờ họ mà có cuộc gặp gỡ giữa Thầy Giêsu và các môn đệ ở Galilê.
Giáo Hội hôm nay cần những người có kinh nghiệm gặp Chúa,
để loan báo Tin Mừng và giúp người khác gặp Chúa.
Lúc nào Giáo Hội cũng cần những Maria cháy bỏng một tình yêu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của ,,,
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/04 Thủ phạm giết Chúa
- Viết bởi Ga 18, 1 - 19, 42
Thủ phạm giết Chúa.
Thứ Sáu tuần thánh – Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa.
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Lời Chúa: Ga 18, 1 - 19, 42
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu".
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu". C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thủ phạm giết Chúa
Từ đầu Mùa Chay đến nay, cuốn phim “Cuộc Thương Khó Của Chúa Kitô” của đạo diễn Mel Gibson đã được công chiếu trên khắp nước Mỹ, rồi đến các nước ở Âu Châu và cả tại Trung Đông nữa. Cuốn phim đã ghi vào lịch sử điện ảnh là phim đắt khách nhất và đạt doanh thu kỷ lục, chỉ vì cuốn phim đã gây tranh cãi về tính cách “bài Do Thái”. Chính nhà đạo diễn Mel Gibson đã khẳng định rằng: “Bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và sự tha thứ. Đó là nội dung sứ điệp của bộ phim. Tôi không có tinh thần bài Do Thái, tinh thần bài Do Thái không phải là tinh thần Kitô, mà là một tội lỗi”. Trả lời cho câu hỏi: “Ai đã giết chết Chúa Giêsu?”, Mel Gibson nói: “Câu trả lời chính là tất cả chúng ta đã giết chết Chúa Giêsu. Tôi là kẻ đầu tiên có phần trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chịu đánh đòn “vì những tội lỗi của chúng ta”. Ngài chịu thương tích vì những lỗi phạm của chúng ta, nhưng những vết thương của Ngài đã chữa lành chúng ta”.
Đó là sứ điệp chính của bộ phim. Bộ phim không nhằm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết chết Chúa Giêsu”.
Nhà đạo diễn nhìn nhận rằng bộ phim của ông có những cảnh “quá bạo lực” và ông giải thích rằng ông có ý làm như vậy để nhằm gây phản ứng nơi khán thính giả, nhằm giúp họ hiểu được tầm mức hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. “Tôi muốn làm cho khán thính giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến mức tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. Tôi hy vọng bộ phim sẽ cổ võ suy tư, làm cho khán thính giả trở về với nội tâm, suy nghĩ về chính bản thân mình”.
Thưa anh chị em,
Khi cử hành cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu bị trên trên Thập giá, Giáo Hội không chỉ nhắc nhớ đến một biến cố lịch sử đã xảy ra hơn 2000 năm nay, nhưng còn nhắc nhở đến trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta về cái chết của Chúa Giêsu.
Thật vậy, dưới cái nhìn lịch sử, chúng ta lên án một Giuđa đã phản nộp Thầy, một Philatô nhát đảm, vì sợ mất chức quyền mà vội vàng kết án tử hình cho Chúa, một Phêrô hèn yếu đã chối bỏ Thầy, một đám đông vô ơn bạc nghĩa đã hò hét đòi đóng đinh Chúa, dầu biết rằng Chúa chẳng có tội gì để phải chịu một cái án quái gở đó…
Thế nhưng, cái chết của Chúa không chỉ là một biến cố lịch sử, nhưng đó còn là một Mầu nhiệm Cứu Độ, trải dài hết từ thế hệ này đến thế hệ khác. Và nó mang một chiều kích phổ quát, có giá trị cứu rỗi cho hết mọi người tin và Danh Chúa Kitô. Do đó, nó được hiện tại hoá trong mọi thời gian. Và vì thế cái chết trên Thập giá của Chúa Kitô có trách nhiệm của chúng ta.
Chúng ta đã tuyên xưng rằng: “Ngài đã chịu vì chúng ta và để cứu chuộc chúng ta”, nghĩa là vì tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải chịu treo lên. Tội lỗi của chúng ta chính là những tiếng reo hò đòi đóng đinh, là những sự xỉ vả, là lời phản bội, là lời tuyên án Chúa.
Do đó, khi tưởng niệm cái chết của Chúa hôm nay, Giáo Hội cũng thiết tha kêu gọi các tín hữu hãy đấm ngực ăn năn, nhận phần trách nhiệm của mình, để rồi, như một Phêrô “ra ngoài ăn năn khóc lóc” có nghĩa là chúng ta phải tháo gỡ cái án tử hình của Chúa, bằng cách thay đổi nếp sống cũ, trở về với Chúa. Xa tránh những lối sống thấp hèn, trở về lối sống con cái của Chúa, và thân thưa với Chúa như anh trộm sám hối bên Thập giá của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, khi vào Nước Chúa, xin nhớ đến con.” Amen.
SUY NIỆM 2: Thập Giá Đức Kitô.
Trong tập hồi ký, một người Do Thái từng ở trại tập trung thời Đức Quốc xã bên Ba Lan có kể lại câu chuyện sau: Những người lính Đức Quốc xã treo cổ hai người Do Thái và một thiếu niên trước sự chứng kiến của tất cả trại viên. Hai người đàn ông chết tức khắc vì kiệt sức, nhưng cơn hấp hối của cậu thiếu niên kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, một trại viên đứng sau tôi đã thốt lên: “Thiên Chúa đang ở đâu?”. Khi người thiếu niên đang cố gắng vùng vẫy trong vòng giây thắt cổ, tôi lại nghe một người khác thốt lên: “Bây giờ Chúa ở đâu?”. Và, tôi nghe từ tận đáy tâm hồn tôi: “Ngài đang ở đây, Ngài đang bị treo cổ kia”.
“Bây giờ Thiên Chúa đang ở đâu?”. Mỗi lần bóng tối của Thập giá làm dấy lên trong chúng ta câu hỏi như thế, chúng ta nghe vọng lên từ nỗi đớn đau của chúng ta câu trả lời duy nhất là: “Ngài đang có mặt đó”. Ngài đang có mặt đó, bởi vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể đi đến tận cùng của khoan dung và tha thứ. Thập giá vẫn mãi mãi là tột đỉnh của sự độc ác dã man của con người, sự độc ác dã man đó càng bộc lộ, thì tình yêu Thiên Chúa càng bày tỏ.
Lý luận thông thường không thể hiểu cạn được tại sao một Thiên Chúa lại có thể chịu treo trên Thập giá. Nhưng đó lại là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, bởi vì đó là sức mạnh và sự khôn ngoan của tình yêu. Dù tội lỗi con người có ngập tràn, dù sự độc ác của con người có chất ngất, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ.
Thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi con người, mà còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Ngài không sai Con Ngài đến để luận phạt thế gian, những để thế gian nhờ Con Một Ngài mà được cứu thoát”. Đó phải là xác tín của chúng ta khi ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta khước từ. Không có tình yêu nào cao cả hơn.
Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên Thập giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào Thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của Thập giá. Thập giá là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chính trong những nơi cơ cực, nghèo hèn, bỉ ổi và đớn đau nhất mà sự hiện diện của Thiên Chúa lại càng mãnh liệt hơn. Chính từ Thập giá mà tiếng gọi yêu thương của Ngài càng thắm thiết hơn.
Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu ôm trọn từng nỗi khổ đau của con người. Nhìn ngắm Thập giá của Ngài, đôi mắt chúng ta càng phải mở rộng ra để nhận thấy bao nỗi thống khổ cơ cực của những người chung quanh. Lúc đó, Thập giá không còn vắng bóng Thiên Chúa mà trái lại là điểm xuất phát của những nghĩa cử yêu thương, từ đó tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ bừng dậy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Bài Suy Niệm của ÐTC Gioan Phaolô II trong Buổi Ði Ðàng Thánh Giá
Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2002 (Ga 18,1-19,42)
1. Crucem tuam adoramus, Domine! - Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng về Thánh Giá. Chúng ta suy niệm trong đức tin mầu nhiệm cứu độ được mạc khải cho chúng ta. Khi chết đi, Ðức Giêsu vén lên bức màn trước mắt chúng ta, và giờ đây Thánh Giá đứng thẳng trên thế giới trong tất cả sự huy hoàng của nó. Sự yên lặng đem lại an bình của Ðấng mà sự dữ thế gian đã treo lên Cây này đang hé lộ ra hòa bình và yêu thương. Trên Thánh Giá, Con Người đã chết, mang theo với Ngài gánh nặng của mọi khổ đau và bất công nhân thế. Trên đồi Golgotha, Ðấng, mà qua cái chết của Ngài đã cứu rỗi thế giới, chết vì chúng ta.
2. "Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua" (Ga 19,37).
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chứng kiến những lời các tiên tri được nên trọn, những lời mà Thánh Sử Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã thấy được sự chính xác khi suy niệm trong lòng, Thiên Chúa làm người, Ðấng vì yêu thương đã chấp nhận hình phạt nhục nhã nhất mà bao nhiêu chủng tộc và các nền văn hóa ngày nay đang chứng kiến. Khi tia nhìn của họ được dẫn dắt bởi cảm nhận sâu sắc của đức tin, họ nhận ra trong Ðấng Bị Ðóng Ðinh một "chứng nhân" vô địch của yêu thương.
Từ Thánh Giá, Ðức Giêsu gom lại thành một dân tộc, Dân Do Thái và Dân Ngoại, hiển thị ý chí của Cha Ngài trên trời muốn tạo ra một gia đình duy nhất cho nhân loại được tụ họp dưới Danh Ngài.
Trong nỗi đau tê tái của Người Ðầy Tớ Thống Khổ, chúng ta đã nghe tiếng kêu khải hoàn của Thiên Chúa Trỗi Dậy. Ðức Kitô trên cây Thánh Giá là nhân loại mới đã được chuộc khỏi gánh nặng của tội lỗi và sự chết. Bất chấp những bóp méo và ngộ nhận của lịch sử, có thể có, chúng ta biết rằng nếu bước theo chân của Người Nazarét bị đóng đinh này, chúng ta sẽ đạt được mục đích. Giữa những xung đột của một thế giới thống trị bởi ích kỷ và thù hận, chúng ta, như những tín hữu, được kêu gọi để công bố vinh quang của Yêu Thương. Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta làm chứng cho vinh quang của Ðức Kitô bị đóng đinh.
3. Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Vâng, chúng con thờ lạy Ngài, Lạy Chúa, Ðấng đã bị treo lên Thánh Giá giữa trời và đất, Ðấng Trung Gian duy nhất của ơn cứu độ chúng con. Thánh Giá Ngài là bích chương của vinh quang chúng con!
Chúng con thờ lạy Ngài, Con của Ðức Trinh Nữ Rất Thánh, đang đứng bất khuất bên cạnh Thánh Giá, can đảm chia sẻ trong lễ hy sinh cứu chuộc của Ngài.
Qua Gỗ Thánh Giá trên đó Ngài bị đóng đinh, niềm vui đã đến với toàn thế giới - propter Lignum venit gaudium in universo mundo. Hôm nay chúng con tất cả nhận thức hơn về điều này khi tia nhìn của chúng con được nâng về phía sự kỳ diệu khôn tả của sự Phục Sinh của Chúa. "Chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Chúa, chúng con tán tụng và thờ lạy sự Phục Sinh thánh thiện của Ngài!".
Với những tình cảm này, anh chị em thân mến, tôi gỡi đến anh chị em lời chúc Phục Sinh với phép lành Tòa Thánh.
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B Ðặng Minh An)
SUY NIỆM 4: NGHỊCH LÝ CỦA THÁNH GIÁ
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo. “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá. Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.
1.- Nghịch lý của Thánh Giá
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và trai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo. Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.
Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bửu và khinh thường. Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm… Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “sách động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng”. Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!
Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để sử tử tội nhân mà thôi.
Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người. Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33). Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.
Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.
Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại. Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.
Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước Cây Trái Cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.
Như vậy, từ Cây Trái Cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và Trái Cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do Nguyên Tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.
Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […] Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).
Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
2. Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi
Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? “ (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).
Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta. Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.
Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.
Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu. Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.
Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: “ Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).
Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con. Amen.
SUY NIỆM 5: Thế là đã hoàn tất
Suy niệm :
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9).
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11).
Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xêda” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do thái” (19, 19).
Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 6: SỐNG CAO ĐẸP CHẾT KHÔNG CÙNG
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đời người, ai cũng chết, nghĩa là ai cũng sẽ một lần nhắm mắt xuôi tay. Từ giã bạn bè, người thân ra đi biền biệt. Cái chết là phận số của con người. Không ai mà không chết. Điều quan yếu là chết cách nào? Chết để người đời thương nhớ, lưu danh hay chết là niềm vui của xã hội vì đã loại được một người ăn bám xã hội và hại người.
Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận nhưng xem ra vẫn chưa tận. Vì sau cái chết vẫn còn những lời xì xầm bình loạn của thế gian. Lắm khi cái ác mà người chết gây ra quá lớn thì dẫu chết cũng chưa tận, trong nỗi đau đã khoét sâu trong lòng người sống, khiến số đông không cam lòng. Và, chỉ có thể là “tận nghĩa” giữa cuộc tiễn đưa vắng bóng người, thậm chí không có nước mắt tiếc thương.
Có lẽ nhiều người cũng sợ cái chết của mình chưa tận với miệng lưỡi thế gian, nên trang mạng Facebook đang lan truyền ứng dụng Sát Thủ- chết bất hủ. Sát thủ – chết bất hủ là một ứng dụng dự đoán vui về kết thúc cuối đời của người tham gia. Những lý do chết mà ứng dụng tiên đoán đều khiến người xem bật cười ngay lần đọc đầu tiên. Kiểu như Chết cháy vì táy máy vào ổ điện, Ngủm vì ngửi phải mùi thum thủm, Chết vì nghĩa tình đã hết, Ra đi vì vợ nghi cặp bồ, Thăng vì rụng hết răng không ăn được, Nghẻo vì trèo cây cao, Thăng vì quá lăng nhăng. . .
Thực ra chết cách nào không quan trọng mà là sống thế nào để khi chết vẫn còn có người thương nhớ. Người chết không “tận” nơi người sống mà họ vẫn ở lại trong trái tim người sống về những hình ảnh yêu thương phục vụ của người ra đi. Họ đã sống đẹp cho đời thì hình ảnh đẹp ấy vẫn được người đời muôn đời ca tụng.
Con người và cuộc đời Chúa Giê-su dường như không kết thúc. Ngài vẫn sống trong lòng nhân loại dầu Ngài đã hiến tế cuộc đời trên đồi Golgotha cách đây hơn 2000 năm. Ngài vẫn ở lại trong trái tim từng người vì Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì loài người chúng ta.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su chúng ta chỉ thấy hai chữ hy sinh. Ngài hy sinh nên nhập thể làm người. Ngài hy sinh nên dong ruổi suốt dọc dài đất nước Palestine để thi ân, để cúi xuống phục vụ mọi mảnh đời khổ đau. Sự hy sinh của Ngài nên tới đỉnh điểm là chết cho người mình yêu. Ngài có thể tháo lui trước nhục hình. Ngài có thể từ chối uống chén đắng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã dùng cái chết để mở ra cho nhân loại một con đường về với trời cao. Ngài chết để minh chứng về Chúa Cha, và vì vâng phục Chúa Cha mà Ngài bằng lòng chịu chết. Sự chết của Ngài đã giao hòa con người với Thiên Chúa Cha, để từ nay nhờ hiến tế của Con Thiên Chúa mà con người được trở về nhà Cha.
Hôm nay chúng ta suy tôn thánh giá Chúa. Suy tôn tình yêu tự hiến hy sinh của Chúa. Nhờ hiến tế trên đồi Calve mà con người được sống trong ân nghĩa cùng Chúa Cha. Trong Phúc âm ghi lại: “Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua” (Ga 19,37). Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy tình yêu hiến dâng đến quên cả tính mạng cho người mình yêu. Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy mình cũng có trách nhiệm trong cuộc thương khó của Chúa, trong nỗi đau của anh chị em mình. Ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu để biết sống bù đắp những lỗi lầm của mình đã và đang gây đau khổ cho anh chị em mình.
Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh giúp chúng con mỗi lần ngắm nhìn Chúa biết giục lòng ăn năn thống hối và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho cuộc đời chúng ta sẽ mãi không “tận” trong lòng anh em, mà sống mãi trong mọi người nhờ những hy sinh đóng góp của chúng ta. Amen.
SUY NIỆM 7: NHÌN NGẮM THÁNH GIÁ KHÁM PHÁ TÌNH YÊU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03.2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết“.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu“.
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
SUY NIỆM 8: TIẾNG NÓI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nếu như người ta vẫn nói trái tim có lý lẽ của nó, thì chúng ta cũng có thể nói : Tình yêu cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Ngôn ngữ của tình yêu không chỉ là những lời lẽ ngọt ngào, mà còn là những ngôn ngữ không lời, những dấu chỉ không thành tiếng. Ngôn ngữ của tình yêu, không chỉ được nghe bằng tai, mà còn bằng sự cảm nhận của trái tim, ngắm nhìn bằng con mắt và tiếp xúc bằng các giác quan.
Có thể nói bầu khí phụng vụ của ngày Thứ sáu Tuần thánh mang những màu sắc và cung điệu trầm buồn, nhưng trong sự trầm lắng này, chúng ta như có thể nghe được tiếng nói và đụng chạm được đến tình yêu của Thiên Chúa qua cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu.
Có những người cho rằng, phải chăng cái ác và sự bất công luôn thắng thế ? Phải chăng Thiên Chúa cũng chịu thua trước sức mạnh của ma quỷ và sự dữ ? Tại sao một Thiên Chúa vô tội lại phải chịu một bản án bất công như vậy ? Chúng ta sẽ không thể trả lời được bằng những lý lẽ thông thường, mà chỉ có thể trả lời rằng : Thiên Chúa có cách riêng của Ngài để bày tỏ tình yêu thương đối với con người.
Tiên tri Isai đã thấy trước và đã nói về Chúa Giêsu trong hình ảnh của một người tôi tớ chịu đau khổ. Người tôi tớ này một mực trung thành với Thiên Chúa. Nhìn dáng vẻ bề ngoài, người ta chỉ có thể thấy một gương mặt tan nát, một thân xác tả tơi vì bị hành hạ. Ngài hoàn toàn im lặng đón nhận tất cả sự xỉ nhục, hành hạ của kẻ dữ mà không buông một lời oán trách. Ngài đón nhận tất cả tội vạ của muôn dân, gánh chịu muôn nhục hình do tội nhân loại. Bị ngược đãi, Ngài không mở miệng phản kháng, giống như chiên cừu khi bị xén lông. Tiên tri Isai cho thấy, Người Tôi tớ của Thiên Chúa chịu tất cả những hành hạ ấy, chỉ vì một lòng hiếu trung với Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa được vinh danh và để đem lại sự sống và ơn tha thứ cho nhân loại.
Hình ảnh Người Tôi Trung đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu và được thánh Gioan thuật lại trong bài thương khó hôm nay. Có người đặt vấn đề : Chúa Giêsu có thể tránh cuộc khổ nạn và dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại không ? Chắc chắn Chúa có thể dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa đã không tìm cách tránh né. Ngài đối diện và đón nhận thập giá với lòng yêu mến, vâng phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn dành cho con người, là những kẻ được Chúa yêu thương.
Trong cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đau khổ thể xác bởi sự hành hạ dã man của những tên lính, thánh Gioan còn cho thấy, Chúa Giêsu vô cùng đau khổ trong tâm hồn bởi những người Ngài thương yêu đã gây tổn thương cho Ngài. Ngay từ bữa tiệc ly tối hôm qua, Chúa đã thể hiện tình yêu đến cùng dành cho các môn đệ, qua việc trao ban chính con người và mạng sống để làm của ăn của uống cho nhân loại. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để thể hiện tình yêu thương và dạy các ông bài học phục vụ. Trong lúc đó, các tông đồ dường như không quan tâm, họ tỏ ra dửng dưng trước hành động của Chúa Giêsu và quay sang bàn với nhau về chuyện khác.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đau đớn với tâm trạng bị phản bội bởi kẻ Ngài yêu thương là Giuđa. Ngài đã tin tưởng anh, đã yêu thương anh như những môn đệ khác, vậy mà giờ đây, chính anh lại đưa các thượng tế và quân lính đến bắt Thầy mình. Anh đã trở thành kẻ chỉ điểm để người ta bắt Thầy, anh đã lấy cái hôn làm dấu chỉ để phản bội Thầy. Người ta chỉ hôn nhau khi thể hiện tình yêu thương, nhưng Giuđa lại dùng cái hôn để làm dấu chỉ phản bội. Cái hôn ấy chẳng khác gì cái tát vào mặt Chúa Giêsu.
Không chỉ sự phản bội của Giuđa gây đau khổ trong tâm hồn Chúa Giêsu, các tông đồ khác cũng không khá hơn. Các ông trước đây có người từng thề sống thề chết với Thầy, thì giờ đây, chỉ một chút sợ hãi, các ông đã bỏ trốn hết. Simon Phêrô là người được Chúa tin tưởng đặt làm đầu trong anh em, ông chỉ dám đi theo Chúa xa xa vì sợ liên lụy. Khi thử thách đến, Phêrô đã không ngại ngần từ chối mối liên hệ của mình với Thầy Giêsu, Đấng đã yêu thương ông.
Một đau khổ khác mà Chúa Giêsu phải chịu, đó là sự vô ơn và vô cảm của đám đông. Trong những người la hét đòi đóng đinh Chúa, không thiếu những kẻ mới mấy ngày trước họ hoan hô, vỗ tay reo mừng khi Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là con vua Đavít. Thế mà trước dinh Philatô, họ đã trở mặt và tuyên bố : Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesare.
Trong lúc chịu đau khổ cùng cực trong tâm hồn và thể xác, chúng ta nhận thấy lòng thương xót của Chúa Giêsu vẫn tuôn trào qua hành động đón nhận tất cả những cực hình và qua ánh mắt yêu thương, tha thứ của Chúa. Trong lúc quân dữ đang hùng hổ tìm bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức ôn tồn, bình tĩnh bước ra gặp chúng và hỏi : Các anh tìm ai ? Nó đáp : Tìm Giêsu Nazareth. Ngài đáp : Chính tôi đây. Một lời nói với đầy sức mạnh và uy quyền đã khiến chúng bật ngã ra đàng sau. Lúc chúng ra tay bắt Chúa, Đức Giêsu đã không nghĩ đến mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với chúng : Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để những người này đi.
Lúc dân chúng tố cáo Chúa Giêsu trước mặt các Thượng tế về các bài giảng của Ngài, Chúa Giêsu đã không lên tiếng biện hộ cho mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với những kẻ tra hỏi Người : Tôi giảng dạy công khai trong đền thờ, tôi không nói gì lén lút cả, xin các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi, chính họ biết tôi đã nói gì. Thánh Gioan đã tinh tế cho thấy : Trong khi trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn hết lòng tin tưởng và yêu mến những kẻ Ngài đã tuyển chọn, thì bên ngoài, Phêrô, kẻ được Ngài tuyển chọn, lại công khai từ chối Chúa tới ba lần trước mặt một đứa đầy tớ gái. Lúc này, tình yêu thương của Thiên Chúa đã thể hiện qua cái nhìn của Chúa Giêsu. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã gặp được ánh mắt sợ hãi, phản bội của Phêrô, khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận suốt đời trước một tình yêu quá lớn lao.
Trước dinh Philatô, Chúa Giêsu cảm nhận sâu xa và đau đớn vô cùng bởi sự bội bạc, vô ơn của đám dân chúng. Họ đã chọn đứng về phía sự ác và sự dữ khi đòi tha Baraba và giết Giêsu. Họ công khai từ chối thẩm quyền của Thiên Chúa để quy phục quyền bính của một ông vua đang đô hộ họ. Những người Do Thái đã rắp tâm loại trừ Chúa Giêsu và họ đã tìm mọi cách gây áp lực để đạt được ý đồ gian ác của họ. Khi Chúa Giêsu phải vác thập giá trên vai, bước đi những bước nhọc nhằn, thì quân lính và dân chúng hả hê, thỏa mãn vì đã đạt được mưu đồ của họ là vùi dập một con người cho đến chết. Cái ác dường như thắng thế, công lý dường như bất lực, Thiên Chúa dường như cũng im lặng trước khổ đau của Chúa Giêsu. Nhưng trong khung cảnh tối tăm của sự ác ấy, ánh sáng của tình yêu vẫn không hề bị dập tắt.
Thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu, đã cảm nhận được sự đau khổ và tình yêu của Chúa qua hành trình thập giá. Mỗi bước đi, mỗi chặng dừng, từ dinh Thượng tế Anna đến Caipha, từ dinh Philatô đến dinh Herode và từ dinh Philatô đến cái chết thảm thương trên thập giá đồi Calvariô, là một chặng đường dài của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu chỉ nghe hoặc xem lại cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy một cuộc hành hình bất công, đầy hung ác, tàn bạo và máu me. Nhưng nếu chúng ta nghe bài thương khó này bằng trái tim và bằng sự cảm nhận của tâm hồn, chúng ta sẽ được đụng chạm đến tình thương của Thiên Chúa. Và, nếu chúng ta lắng nghe cuộc thương khó của Chúa trong thinh lặng, để cho trái tim mở ra, chúng ta sẽ nhận ra hình ảnh và trách nhiệm của mình có liên quan trong cuộc hành hình này.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta suy niệm chiều nay là cách thức Thiên Chúa nói với con người về một tình yêu bao la, về lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Với tiếng nói tình yêu này, chúng ta không chỉ nghe bằng tai, nhưng xin cho trái tim của chúng ta cũng biết lắng nghe, biết mở ra để cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trong chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ dửng dưng vô tình trước tình yêu của Chúa và cũng đừng bao giờ đóng cửa trái tim trước nỗi khổ đau của anh chị em. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Lm. Giuse Trực
Con là ai trong hành trình thương khó của Chúa?
Con có phải là những Thượng tế, những biệt phái và Pharisêu muốn tiêu diệt Chúa để đừng làm phiền, đừng ai nhắc nhở những sai trái của con không?
Con có phải là dân chúng bàng quang, hoặc có tâm lý hùa theo đám đông mà không dám nói lên chính kiến của mình, để sẵn sàng làm ngơ hoặc hùa theo để kết án người khác?
Con có phải là những tên lính đã đánh đòn, đóng đinh, hành hạ Chúa cho hả cơn giận của con, mặc dù con biết Chúa không có tội gì. Có những bực bội, bức bối gì, về nhà con đổ trên đầu những người thân mà con có vẻ “trên cơ” họ?
Con có phải là những người phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương chỉ vì tội nghiệp Chúa chứ chưa biết phải làm sao để cho Chúa hết đau?
Con có phải là tên trộm oán trách cuộc đời và thách thức Chúa: “Ông là con Thiên Chúa thì tự cứu mình và cứu chúng tôi với”?
…
Hay con là Simon sẵn sàng vác lấy thánh giá Chúa bằng cách san sẻ nỗi đau với người khác?
Hay con là Đức Mẹ, mạnh dạn, can trường bước theo con đường đau khổ của Chúa, không một vẻ yếu nhược, không một lời than thở, không một chút kêu than?
Hay con là Gioan đón lấy sứ mạng của Chúa để sẵn sàng hiến thân mình cho những chương trình, hoạch định của Chúa?
…
Có lẽ, lạy Chúa, xin cho con giống như viên đại đội trưởng: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 23, 47). Đã biết bao lần con ngước nhìn lên Chúa bị đóng đinh, nhưng con đã xác tín niềm tin vào Chúa chưa? Câu hỏi này tiếp tục vang vọng trong tâm hồn con. Vang mãi, vang mãi cho đến chết.
SUY NIỆM 10: GIỜ THƯƠNG XÓT
Trầm Thiên Thu
Bửu Huyết Giêsu tươi màu Cứu Độ
Oan khiên thế giới hóa sắc trong ngần
Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại – nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!
Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và đãm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như thăm thẳm! Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.
Chúa Giêsu có hai bản tính: Thần Tính và Nhân Tính (1). Về nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay, và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ, tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!
CON CHIÊN HÀM OAN
Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).
Chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh Thánh cũng đã nói:“Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại hoàn toàn là sự thật!
Ngôn sứ Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!
Bảng đối chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bịnghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, Ngàiđã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy chịu đủ thứ khổ hình vì các tội nhân là chúng ta, chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy hoàn toàn vô tội.
Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”(Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng ta!
Thánh Vịnh đã nói lời cuối của Người Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).
Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18). Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.
Thánh Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vìNgài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi còn sống kiếp phàm nhân, và theo nhân tính, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào! Nhưng chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang.
ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ
Phúc Âm hôm nay là bài trường ca đau khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu biết bao!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong mười hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga 12:1-8; x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bê-ta-ni-a.
Người ta đã tìm mọi cách gài bẫy, lục soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực”, thế nên họ làm mọi cách hạ nhục Ngài đủ mưu đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói “chính tôi đây”, họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là người đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài – tức là bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu nổi!
Họ lồm cồm bò dậy. Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu Nadarét”. Họ vẫn không hề tởn chút nào. Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôiđây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén màChúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!
Mặc dù Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì, không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan nào!
Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi?Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!
Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đãchẳng đem nộp cho quan” (Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không nhận và nói:“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên hỏi:“Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô “dốt đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).
Theo tục lệ của người Do Thái, vào mỗi dịp Lễ Vượt Qua, họ thường phóng thích cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ la to:“Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương mến và yêu quý hơn là Chúa Giêsu. Lạy Chúa tôi!
Thế là tổng trấn Philatô truyền đem Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài đã bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tướcđoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).
Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người đó quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói ngả, nói nghiêng, nói xuôi, nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô cũng đành cho thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập Giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp (2). Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế, Giáo hội không cử hành thánh lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá và rước lễ.
Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”, nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).
Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”. Ui da! Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!
Giờ Thương Xót đã điểm. Người được lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas, tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ởvới tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Diễm phúc biết bao!
Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội cầu nguyện cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm thực hành lời Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa Giêsu thương xót, chúng ta không thể không thương xót người khác!
Ơn Cứu Độ thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta nên trắng ngần. Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác màcứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của chúng con. Amen.
SUY NIỆM 11: BUỔI CHIỀU THINH LẶNG THÁNH
(Is 52, 13-53, 12; Dt 4, 14-16; 5, 7-9; Ga 18, 1 - 19, 42)
(Ngọc Biển, S.S.P.)
“Hỡi không gian rủ sương mù ngàn mây hỡi hãy che khắp trời cao. Ánh kim ô vụt lu mờ. Vì thương Chúa gánh muôn nỗi khổ đau” (Giờ tử nạn, Lm. Hoài Đức).
Với những lời hát rất sâu lắng ấy, tác giả đã dẫn đưa chúng ta đi vào tâm tình của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong thinh lặng.
Thinh lặng để thấy, hiểu, để cảm nghiệm và để thay đổi lối sống cho phù hợp với những gì tốt lành mà mình đã thấy, hiểu và cảm nghiệm.
Thinh lặng còn làm cho chúng ta đi vào tâm tư của người khác để cùng họ sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Thinh lặng để thấy
Cũng vậy, trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta rất cần sự thinh lặng để sống những tâm tình vừa nêu ở trên!
Trước tiên, thinh lặng để thấy: thấy Đức Giêsu là Đấng rất thương những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, người ốm đau bệnh tật. Từ đó, Ngài không thể lặng im khi những điều đó xảy ra với con người dưới những chiêu bài “đánh lận con đen” khi nhân danh tôn giáo, đạo đức, người nghèo để làm khổ nhau.
Ngài không chỉ lên tiếng gián tiếp, nhưng Ngài đã “chỉ mặt đặt tên” nơi những con người có tâm đen tối. Ngài không chỉ nói mà còn hành động. Ngài không sợ chết mà ngược lại, sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo vệ những người bị ngược đãi để đổi lấy sự công bằng.
Chính vì thái độ và lựa chọn của Đức Giêsu như vậy, nên chúng ta thấy Ngài đã bị những người Pharisêu, Kinh Sư, Thượng Tế ghét bỏ và tìm mọi cách để hạ sát. Với họ, Đức Giêsu chính là cái gai trong mắt, cái đó ngáng đường. Họ luôn coi Ngài là thành phần nguy hiểm, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng chống lại Đức Giêsu của những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ rất gắt gao do những nguyên nhân như: ghen tương, thù hận, gian dối, kiêu ngạo.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhìn thấy thái độ hoang tưởng và vụ lợi của Giuđa; sợ hãi của Phêrô cũng như các môn đệ khác; sự thay trắng đổi đen của dân chúng; sự hèn nhát, nhập nhằng của Philatô….
Trên đây là những điều chúng ta thấy được qua cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Thinh lặng để hiểu
Khi đã thấy được nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đấng Cứu Thế, giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng để hiểu về cuộc thương khó này dưới cái nhìn cứu độ.
Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy có hai tên trộm: một người được gọi là thánh trộm lành; một người phải gọi là kẻ trộm dữ. Tại sao vậy? Thưa, đơn giản là người trộm lành đã biết lắng nghe và hiểu được Đức Giêsu là ai! Đặc biệt, trong thinh lặng, anh ta còn nhận ra tội lỗi của mình để xin Chúa tha thứ. Còn tên trộm dữ đã không biết lắng nghe, ngược lại, hắn không ngớt chửi rủa và trách móc Đức Giêsu cũng như những kẻ đóng đinh hắn. Hắn không hiểu được ý nghĩa của cái chết nơi Đức Giêsu, vì thế, hắn đã tự mình đánh mất “phao cứu sinh” cuối cùng của cuộc đời đầy tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hắn đã phải chết như một kẻ xa lạ với ơn cứu chuộc mà Đức Giêsu mang lại qua cái chết của Ngài.
Cũng như người trộm lành, qua cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta hiểu được rằng: tình yêu của Thiên Chúa là vô hạn. Tình yêu ấy đã đi bước trước để đến với nhân loại qua việc trao ban chính Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì được sống và sống dồi dào.
Đến lượt Đức Giêsu, tình yêu ấy được nở hoa cứu độ ngay trên thập giá, bởi vì: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Như vậy, chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể nhận ra và cảm nghiệm sâu xa về cái chết của Đức Giêsu là vì tình yêu, đồng thời, qua đó, chúng ta sẽ nhìn thấu tội lỗi của chính mình và của nhân loại, ngõ hầu ăn năn, sám hối, để được đón nhận ơn tha thứ từ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.
Thinh lặng để đổi thay
Từ những gì đã thấy, đã hiểu, đã cảm nghiệm, có lẽ mỗi người chúng ta đều có với nhau một mẫu số chung, đó là: bất bình, lên án những người đương thời với Đức Giêsu vì sự ác tâm, thất đức của họ, khiến Đức Giêsu phải chết một cách đau thương tức tưởi như vậy!
Tuy nhiên, trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta cũng nên làm một cuộc cật vấn lương tâm tận đáy lòng mình, để xem thử mình có liên quan gì đến cuộc thương khó của Đức Giêsu không?
Xét về mặt khách quan bên ngoài như địa lý, thời gian và đối tượng, có lẽ chẳng thể nào tìm ra được một ai có những hành động trực tiếp với Đức Giêsu như những người Pharisêu, Kinh Sư và Thượng Tế khi xưa. Nhưng, xét về sự liên đới tâm linh, chắc chắn chúng ta không thể vô can nếu không muốn nói là tàn ác chẳng thua kém những kẻ gây nên cái chết của Đức Giêsu, thậm chí còn nặng hơn nữa!
Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống thực dụng, ham tiền, hám lợi và chuộng danh vọng, những lúc như vậy, chúng ta đâu khác gì các môn đệ của Đức Giêsu khi các ông tranh giành chỗ nhất - nhì trong vương quốc mà họ tưởng chừng Đức Giêsu sẽ lập chốn trần gian!
Lại nữa, sự phản bội, vô ơn và sống hai mặt, nhiều khi lại là lựa chọn chủ đạo của chúng ta trong đời sống. Khi lựa chọn những thứ đó làm nền tảng cho đời sống của mình, chúng ta đâu khác gì Giuđa!
Rồi có lúc vì sợ mất chức, mất quyền, hay nhát đảm, nên đã không dám tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa, nhiều khi chúng ta cũng từ chối thuộc về Chúa khi không dám đứng về phía sự thật để làm chứng cho chân lý. Những lúc như thế, hình ảnh, thái độ và lựa chọn của Philatô và Phêrô lại hiện lên thật rõ nét trong từng hành vi và lời nói của chúng ta!
Cuối cùng, đám đông dân chúng khi xưa do thiếu hiểu biết, nên đã bị giới lãnh đạo tôn giáo “giật dây”, vì thế, họ đã phản bội Đức Giêsu. Mới ngày nào họ muốn tôn Ngài làm Vua. Sự kiện đó chỉ cách hôm nay có mấy ngày, họ đã long trọng đón Vị Vua ấy vào thành với tư cách là Đấng Thiên Sai, là Vua Israel. Miệng họ cũng đã từng tung hô vang trời lở đất để đón Chúa vào thành. Tuy nhiên, ngày hôm nay, họ đã thay đổi hoàn toàn!
Nhiều khi chúng ta cũng vì cái bụng mà sẵn sàng gian lận, đổi trắng thay đen, hay đã có những lần ta tìm mọi cách kéo Chúa về với phe ta, mặc dù biết những việc ta làm là sai trái…. Hoặc nhiều khi chúng ta cũng sống theo kiểu a dua với đám đông: “Ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi cũng làm theo!”.
Đôi khi chúng ta cũng nhân danh Chúa để làm những điều khuất tất, hoặc lấy Chúa làm bình phong cho những trái khuấy của mình! Lúc không được như ý muốn, chúng ta cũng phản bội Chúa bằng việc quay lưng lại với Ngài khi sẵn sàng tôn thờ một ngẫu tượng nào đó thay cho Chúa. Không còn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, ngược lại, chúng ta đã lấy lời của những thày bói, thày mo và cô đồng….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương trung thành, yêu mến và can đảm của Đức Mẹ; người “môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; những phụ nữ Giêrusalem; bà Verônica; ông Simong và những người đạo đức khác…. Đồng thời, khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta hãy học bài học vâng phục và yêu mến của Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự. Từ đó, mỗi người sẽ tiếp bước trên con đường tình yêu ấy cách trung thành để đến với tha nhân như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khai trí mở lòng, để chúng con hiểu thấu được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con qua mầu nhiệm thập giá. Xin cho chúng con dám cam đảm nói lên lời: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì?” Từ đó, chúng con biết trung thành, can đảm để thuộc trọn về Chúa và sẵn sàng làm chứng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Amen.
18/04 Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
- Viết bởi Ga 13, 1-15
Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
Thứ Năm tuần thánh. Thánh lễ Tiệc Ly.
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Lời Chúa: Ga 13, 1-15
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.
Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
Mẹ Têrêsa thành Calcutta có lần kể lại câu chuyện nầy:
Một hôm có một thiếu nữ tìm đến xin gia nhập Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ. Theo luật dòng, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống trong dòng, cũng đều được mời sang nhà hấp hối – tức là nhà tiếp đón những người sắp chết. Vì thế, cô thiếu nữ nầy được mời sang nhà hấp hối. Mẹ Têrêsa nói với cô ấy:
“Con đã nhìn thấy linh mục dâng Thánh lễ chứ? Con đã thấy ngài sờ đến Thánh Thể với biết bao chăm chú và yêu thương. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà hấp hối, bởi vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu trong thân thể những người anh em khốn khổ đó”.
Cô thiếu nữ ra đi… Một thời gian sau, cô trở lại với một nụ cười rạng rỡ có lẽ chưa bao giờ trông thấy. Cô vui vẻ thốt lên với Mẹ Têrêsa: “Thưa Mẹ, con đã sờ được thân thể Chúa trong suốt ba tiếng đồng hồ”.
Mẹ Têrêsa mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào? Cô ta đáp? “Thưa Mẹ, con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang đến một người vừa ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương và bùn đất hôi thối… Con đã đến và con đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến thân thể của Đức Kitô”.
Thưa anh chị em, Thánh lễ là trung tâm của cuộc sống và cuộc sống hằng ngày là một Thánh lễ nối dài. Đức Kitô không chỉ muốn chúng ta gặp gỡ nhau trong Thánh lễ mà còn muốn chúng ta gặp gỡ Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người nghèo hèn nhất, phải là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Ngay trong bữa tối Thứ Năm Thánh nầy, trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Việc nầy làm nổi bật một ý nghĩa lớn của Bí tích Thánh Thể, đó là Thánh Thể là bí tích phục vụ. Thánh Thể là phương thế Chúa Giêsu chọn để thể hiện ý muốn phục vụ của Ngài. Để phục vụ, Ngài phải trả một giá rất đắt. Để phục vụ, Ngài đã tự hiến làm lễ vật giao hoà, làm Chiên Vượt Qua chịu sát tế vì sự sống của thế giới. Để phục vụ, Ngài chấp nhận trở nên lương thực cho loài người sử dụng. Thiên Chúa đã trở nên phương thế phục vụ sự sống của con người. Vì “Ngài yêu thương chúng ta đến tận cùng”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phục vụ như Ngài. Bởi vì, một khi đã đồng hoá mình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng ta phải sống như Ngài. Nếu không sẵn lòng phục vụ thì đó là dấu chứng chúng ta không thực lòng tham dự Thánh Thể. Không phục vụ là chưa gặp được Chúa Giêsu thật, chưa đón nhận Ngài, chưa thật sự nên một với Ngài. Trái lại, phục vụ là dấu sự sống của Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực sự biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta nên một con người mới.
Để làm gương mẫu phục vụ cụ thể, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và mời gọi chúng ta hãy rửa chân cho nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà con rửa chân cho anh em, thì anh em phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Trong xã hội Do Thái, chỉ có đầy tớ, nô lệ rửa chân cho chủ. Ở đây, Thầy lại rửa chân cho trò. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa đi rửa chân cho con người, mà lại là con người tội lỗi. Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho Phêrô, kẻ chối Thầy; rửa chân cho tất cả những người còn lại là “những kẻ sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết”.
Ngài làm như vậy để được gì? Không được gì cả! Chỉ để minh chứng một Thiên Chúa là như thế đó: một Thiên Chúa “đến để phục vụ con người và hiến mạng sống để cứu chuộc con người”. Một Thiên Chúa thay vì tiêu diệt bọn tội lỗi, lại quỳ xuống trước mặt họ, hôn chân họ. Một Thiên Chúa thay vì trả thù, lại đã đổ máu để minh chứng sự tha thứ yêu thương. Một Thiên Chúa thật lạ lùng! Một đạo lý ngược đời, một con đường khó bước theo. Thế nhưng, Ngài đã làm và kêu gọi chúng ta cũng làm y như vậy: “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Ai muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ mọi người”.
Ở đời, người ta dễ dàng quỳ xuống trước người quyền quý, sang trọng, vì người ta còn hy vọng ở một sự ban bố lợi lộc. Người ta dễ dàng quỳ xuống trước một người đẹp để xin bố thí một chút tình yêu. Và quỳ xuống trước một người thánh thiện để cầu mong một ân huệ. Tất cả những cái quỳ xuống đó là để van xin cho mình, để có lợi cho mình. Nhưng mấy ai quỳ xuống trước kẻ thù, quỳ xuống trước người ốm đau, bệnh tật, quỳ xuống rửa chân lở loét của những người phong cùi!
Còn Chúa Giêsu, Ngài quỳ xuống trước tội nhân. Ngài muốn cái gì đây? Là Thiên Chúa, có khi Ngài còn thiếu thốn gì chăng? Là kẻ ban phát tình yêu, không lẽ Ngài lại thiếu thốn để độ phải van xin? Không, Ngài không van xin gì cả. Quỳ xuống trước mặt con người chỉ vì Ngài quý trọng con người. Ngài yêu thương con người. Ngài muốn cho con người được sống và sống thật hạnh phúc. Khi con người biết sống cho người khác được hạnh phúc là họ đã theo gương rửa chân của Chúa. đây là bài học sống cho người Kitô hữu. Nơi Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng tội lỗi của con người, đã vượt lên trên tội lỗi, để phục vụ đến độ hy sinh mạng sống mình cho chính tội nhân.
Anh chị em thân mến, muốn phục vụ như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hiến thân như Ngài. Đây là điều khó, điều thường làm chúng ta hoảng sợ, chùn chân không dám đi tới cùng. Nhất là hiến thân vì anh em, rửa chân cho anh em. Tuy nhiên, dù chưa dám làm hoặc chưa làm được, ít nhất chúng ta cũng phải thừa nhận ra rằng; phục vụ và hiến thân là những đòi hỏi không thể thiếu của Bí tích Thánh Thể.
Do đó, trong cuộc sống mỗi ngày, nhất là những khi dự Tiệc Thánh Thể, chúng ta hãy để cho những đòi hỏi đó day dứt trong lòng chúng ta, day dứt như một vết thương không bao giờ lành, khiến cho chúng ta không bao giờ dám an tâm trong hững hờ vị kỷ với mọi người anh em.
SUY NIỆM 2: Bí tích Thánh Thể
Tại một ngôi làng nhỏ bên Tây Đức, trước năm 1940 là nơi gặp gỡ của các danh họa Âu Châu, nhưng kể từ thế chiến thứ hai, nó trở thành nhà tù giam giữ những phạm nhân của Đức Quốc xã, có mặt một Phó tế được phong chức linh mục tại đây. Sau khi chết, ngài để lại chúc thư “Tình yêu và đền bù”. Thế rồi 15 năm sau, nhà tù đó biến thành Dòng kín Carmel, các nữ tu đến đó để sống cho lý tưởng tình yêu và đền bù.
Tình yêu chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. Trong Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã quỳ gối rửa chân cho các Tông đồ và cũng trong Bữa tiệc ly Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể cũng như loan báo về cái chết của Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ đã có lý khi khước từ Chúa Giêsu rửa chân cho ông vì đây là công việc của tôi tớ trong nhà. Theo tục lệ người Do Thái, trước khi vào bàn ăn tôi tớ trong nhà phải đi rửa chân cho khách. Chúa Giêsu đã muốn thực hiện cử chỉ ấy để thực thi chính điều Ngài đã nói: Con Người không đến để được hầu hạ, những để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhiều người.
Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương. Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu: “Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng”, nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán. Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua bí tích Thánh Thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài; ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.
Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu muốn truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. “Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta”. Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà còn chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài. Không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.
Tưởng nhở việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và truyền chức linh mục trong ngày thứ năm tuần thánh, chúng ta nhớ đến cách đặc biệt các linh mục. Xin Chúa ban cho các ngài luôn trung thành với sứ mệnh phục vụ. Xin cho tình yêu Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cũng sống yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Bí Tích Thánh Thể.
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Tiệc Ly (Thứ năm Tuần Thánh năm 2002)
1. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).
Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Ðức Kitô cảm nhận "trong đêm bị phản bội" (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.
Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Ðức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.
Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Ðấng "là Thầy và là Chúa" để "giang cánh tay chúng ta ra" và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.
2. "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (1Cor 11,24-25)
Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Ðức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.
Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ" (Phil 2,7).
Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
3. "Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1Cor 11,29).
Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.
Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.
Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Ðức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.
Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.
4. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1)
Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Ðức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.
Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Ðức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ "đến cùng". Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Ðầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Ðầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
SUY NIỆM 4: PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.
Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.
Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.
LỜI NGUYỆN
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.
SUY NIỆM 5: ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.
1. Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”.
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.
2. Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.
3. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng”.
Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
4. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ… Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm. Amen..
SUY NIỆM 6: ĐÔI TAY BIỂU TƯỢNG TÌNH YÊU
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau hướng lên trời. Nhiều người chỉ biết rằng đây là biểu tượng của cầu nguyện. Thực ra, đôi bàn tay này do một người em đã vẽ bàn tay người anh. Một bàn tay vất vả hy sinh lao động để nuôi em ăn học.
Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.
Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:
– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:
– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…
Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện”.
Xem ra đôi bàn tay còn có ý nghĩa là trao ban, là hy sinh cho người mình yêu. Đôi bàn tay ấy đã nâng ước mơ cho người em thành tài trong cuộc đời.
Hôm nay thứ năm tuần thánh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngắm một tình yêu tự hiến qua hình ảnh tấm bánh bẻ ra để trao ban. Chúa Giê-su đã lưu dấu mãi tình yêu tự hiến cho người mình yêu. Ngài muốn chúng ta mỗi khi ăn tấm bánh ấy phải loan truyền tình yêu tự hiến của Ngài đến muôn đời. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu hiến dâng quên đi cả tính mạng của mình. Một tình yêu chịu nghiền nát thành của ăn cho người mình yêu.
Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa đã chọn tấm bánh như một biểu trưng, một dấu chỉ cho cả cuộc đời mình. Tấm bánh được làm nên là vì sự sống, vì niềm vui của người khác mà không bao giờ là cho chính bản thân mình. Có thể đó là tấm bánh đơn sơ, dân dã đem lại niềm vui cho trẻ thơ mỗi khi mẹ đi chợ về. Có thể đó là tấm bánh nhỏ bé nhưng vô cùng cần thiết, đem lại sức sống cho người đang đói lả. Bánh có thể được đặt trang trọng trên những bàn tiệc thịnh soạn. Bánh có thể được nâng niu trên đôi tay gầy gò, run rẩy của người hành khất bên vỉa hè. Như thế, Bánh không kén chọn người ăn, và dù là cao cấp hay bình dân, bánh được làm ra là để cho đi chính mình, trao tặng chính mình, để trở nên niềm vui và sức sống cho người khác. Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh thật vừa với tầm tay của tất cả hạng người.
Thật đơn sơ nhưng cũng vô cùng sâu xa, vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến. Khi xưng mình là bánh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu nhỏ đi để con người được lớn lên. Chúa chịu hủy hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa chịu chết cho ta được sống.
Hơn ba mươi năm đi khắp nẻo đường đời và trên đỉnh cao thập tự giá, Ngài đã sống như một tấm bánh. Tấm Bánh được bẻ ra và trao tặng như một cử chỉ yêu thương. Ngài trở nên Tấm Bánh như một lời mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”. Ngài trở nên tấm bánh để từ đây, Thiên Chúa có thể ở lại mãi với con người.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Thánh Thể. Bí tích của tình yêu tự hiến. Qua tấm bánh đơn sơ nhưng nói lên tình yêu hiến dâng của Thầy Chí Thánh Giê-su chấp nhận tan biến cho người mình yêu.
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa để sống ngàn đời tri ân. Xin cho cuộc đời chúng ta cũng biết tự hủy chính mình như tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Amen.
SUY NIỆM 7: LÒNG THƯƠNG XÓT TỎA SÁNG
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.
Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.
Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.
Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.
Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông : Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.
Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền : Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.
Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại : Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.
Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận : Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói : Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.
Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làmkhông chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.
Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.
Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen.
SUY NIỆM 8: SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Lm. Giuse Trực
Chiều hôm nay có thể gọi một cách văn hoa là “chiều ly biệt”. Nhưng tôi thích gọi là “buổi chiều xé nát con tim”. Quả thật buổi chiều hôm nay làm cho con tim của Chúa phải nhiều lần chết nghẹt vì xúc động. Tất cả chỉ vì Ngài quá yêu thương: “Đức Giêsu biết giờ của người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thượng họ đến cùng” (Ga 12, 1).
Trước tiên là sự kiện Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Đây là sáng kiến độc nhất vô nhị trong toàn thể vũ trụ này. Chỉ một mình Thiên Chúa với tình yêu thương mới có thể nghĩ ra cách thức để được ở lại với con người. Đây là một tình yêu hiến mình.
Kế đến là việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền chức thánh để thông ban chức linh mục cho một số người Chúa tuyển chọn, với mục đích có người là hình ảnh của Chúa ở trần gian này, và thực hiện hành động ban phát lương thực là chính Mình Máu Ngài để nuôi sống những con người yêu thương, muốn sống gắn bó với Ngài. Đây là một tình yêu trao ban.
Cuối cùng là hành động quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ phục vụ cho chủ mình. Chúa muốn để lại cho các môn đệ và mỗi người chúng ta bài học về tình yêu phục vụ.
Lạy Chúa, đứng trước tình yê hiến mình, tình yêu trao ban và tình yêu phục vụ, con được mời gọi đáp trả lại tình yêu của Chúa để trở nên giống Chúa trong việc hy sinh hiến mình, trong việc trao ban tình yêu và phục vụ tha nhân. Con hy sinh cho gia đình con. Con trao ban hết tình yêu của con cho những người mà con gặp gỡ, nhất là những người thân trong gia đình. Con phục vụ hết thảy mọi người trong môi trường con đang sống. Lạy Chúa xin cho con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Cũng xin cho con biết lấy tình yêu xóa bỏ hận thù và khơi thông tình thương mến.
SUY NIỆM 9: KỶ VẬT TÌNH YÊU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.
Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).
“Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?
“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống,chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.
Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm :Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.
Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).
Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.
Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.
SUY NIỆM 10: DẠ TIỆC ÂN TÌNH
Trầm Thiên Thu
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (Anh ngữ là Passover) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng Ba, tháng Tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc Chiên Vượt Qua theo gia đình hay theo nhóm, rồi lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà.
Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng (Xh 12:14), ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỉ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái: [1] Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập; [2] Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng; [3] Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi; [4] Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Cuối bữa tiệc này, mọi người cùng hát Thánh Vịnh.
Bữa Tiệc Ly là Dạ Tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa với các môn đệ. Trong bữa tiệc này, Ngài làm hai điều quan trọng và kỳ lạ: thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Ngài đích thân rửa chân cho các môn đệ. Cả hai hành động đó là dấu chỉ của yêu thương, của lòng thương xót.
Vậy yêu thương là thế nào? Yêu thương là CHO hay NHẬN? Có ai cân-đo-đong-đếm được tình yêu đâu mà sao biết kẻ yêu ít, người yêu nhiều?
Xưa nay, từ cổ chí kim, chưa có một định nghĩa nào về tình yêu trọn vẹn nhất khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau. Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính, thế nên người ta mới nói “yêu là chết trong lòng”. Yêu là khổ, không khổ không là yêu, khổ đến “chết” mới là yêu! Không chỉ “chết trong lòng” mà chết thật, vì có những người đã dám liều chết vì quá yêu!
Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp nhưng cũng đầy chất bi thương!
Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, nên người ta cương quyết “thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Những người đó “ngon” thật và can đảm thật! Người ta còn gọi đó là “thú đau thương”. Đau thương mà lại “thú vị”, yêu như điên, đó mới là yêu thật lòng, vị tha chứ không vị kỷ. Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc:“Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi thánh nhân nói thêm: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: giới hạn của yêu thương là yêu-không-giới-hạn!
Yêu thương liên quan hai động thái cần thiết: Vâng Phục và Phục Vụ.
VÂNG PHỤC VÌ YÊU THƯƠNG
Trình thuật Xh 12:1-8, 11-14 cho biết các chi tiết: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”. Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng “thực tế” hơn ngày nay, nhưng đó là thể hiện sự vâng lời – vâng lời Chúa nghĩa là yêu mến Chúa.
Học ăn, học nói, học gói, học mở. Đầu tiên là phải học ăn. Cách ăn cũng có luật: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là “phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không, luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa”, kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc vẫn có cách mừng thu hoạch như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch,…
Vết máu bôi trên nhà là dấu hiệu vâng phục, tức là “giữ luật”, và là “dấu hiệu tình yêu”. Những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng hoạ trên đất Ai Cập. Ngày đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Đó là luật quy định cho đến muôn đời. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU nhiều nên CHO nhiều, còn chúng ta NHẬN quá nhiều mà yêu chẳng bao nhiêu, thế nên:
Lấy chi đáp đền Chúa đây
Vì bao ân huệ chính Ngài đã ban? (Tv 116:12)
Dù thật lòng muốn đền đáp ơn Chúa nhưng chẳng có gì để dâng, nếu có thì cũng chẳng có gì xứng đáng. Thân phận bụi tro mọn hèn cả dám thân thưa:
Con nâng chén hồng ân cứu độ
Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi (Tv 116:13)
Thời quân chủ, thần dân không được ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội khi quân và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp mà chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, thế mà lại được diễm phúc thì phải ghi lòng tạc dạ thâm ân này: “Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17), đồng thời phải chân thành tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).
PHỤC VỤ VÌ YÊU THƯƠNG
Biết thì phải chia sẻ cho người khác, trừ khi người ta không muốn được chia sẻ. Chia sẻ là một dạng yêu thương: cho, tặng, biếu. Chính Thánh Phaolô đã xác nhận:“Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23). Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói:“Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:24-25). Thánh Phaolô giải thích: “Từnay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.
Ngay trước Lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, đó là giờ Ngài phải bỏ thế gian mà về với Thiên Chúa Cha. Ngài yêu thương mọi người đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng, Ngài không muốn xa chúng ta, nhưng Ngài phải tuân phục Thánh Ý của Chúa Cha.
Đức Giêsu biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu. Thế nhưng, có người lập luận rằng “quỷ sứ không được cứu độ”. Giuđa bị gọi là quỷ sứ, Phêrô bị gọi là satan, mà quỷ sứ và satan có khác nhau? Sao satan được cứu độ mà quỷ sứ lại không được? Có gì lấn cấn? Thật ra chẳng ai dám phán xét, cũng chằng ai xứng đáng mà có quyền kết án ông Giuđa. Đừng chỉ “săm soi” một vài khía cạnh nào đó rồi quyết đoán. Tại sao Tội Nguyên Tổ lại được Giáo hội gọi là Tội Hồng Phúc? Thật là mầu nhiệm, vì Lòng Chúa Thương Xót lớn hơn mọi tội lỗi của cả nhân loại kia mà!
Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp phải trở về cùng Thiên Chúa. Do đó, trong một bữa ăn, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư phụ hành động “kỳ cục nhất thế gian”.
Thế nên, khi Ngài đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6). Không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7). Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b). Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, chẳng khác như bị tạt nước lạnh. Rõ ràng Ý CHÚA HOÀN TOÀN KHÁC HẲN Ý LOÀI NGƯỜI. Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu, vì ông nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, cứ như trời trồng hết thảy. Thấy thế, Chúa Giêsu nói luôn: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).
Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử, chủ mà rửa chân cho đầy tớ, thế thì chắc chắn đệ tử hoặc đầy tớ cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử. Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng mà KHÔNG DỄ thực hiện, lời giản dị mà thâm thúy. Và đó cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ, nhất là trong Tam Nhật Thánh này, vì chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo.
Chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá (tự ái là yêu mình thái quá, là ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần thiết –> thiết tha –> tha thứ. Đó là quy-trình-yêu-thương, là vòng-tròn-thương-xót. Và một hệ lụy khác lại phát sinh: YÊU thì phải KÍNH, KÍNH thì phải NỂ, NỂ thì phải TRỌNG, TRỌNG thì phải VỌNG (mong), MONG thì thấy NHỚ, NHỚ nghĩa là YÊU. Đó là vòng-tròn-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ NGÀI thì PHẢI THI HÀNH THÁNH Ý NGÀI. Hoàn toàn hợp lý!
Cũng như khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng danh từ kép “hiếu đễ”. Và thật kỳ lạ với chuỗi hợp lý này: HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm”, tạo nên hạnh phúc gia đình. Xã hội cũng vậy. Cộng đoàn cũng thế. Nói chung, tất cả chỉ cần tóm gọn trong một chữ YÊU. Biết yêu thì biết thương, biết thương thì biết xót, đó chính là biết sống lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Thầy Giêsu chí thánh, nhân từ và giàu lòng thương xót, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa để càng ngày càng thêm nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó mà chúng con có thể vừa yêu mến Ngài vừa yêu thương tha nhân, đồng thời dám sống và hành động như Ngài trong mọi hoàn cảnh. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 11: VÌ YÊU, NÊN CHẤP NHẬN TẤT CẢ
(Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26; Ga 13, 1-15)
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Chiều hôm nay, chiều mà Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly. Trong thánh lễ này, chúng ta thấy toát lên vẻ trầm buồn bởi cảnh ly biệt của người đi và kẻ ở!
Đức Giêsu sẽ ra đi để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Các môn đệ sẽ ở lại để rồi mai đây sẽ tiếp bước trên con đường mà Thầy Giêsu đã đi.
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cảnh sầu ly chia ngả, nhưng nó còn đi xa hơn nữa để thấy được tình yêu của người ra đi và sự phản bội, bất trung của nhiều kẻ ở lại! Từ đó, chúng ta nhận ra lòng thương xót của Đấng là Chúa và là Thầy thì lớn lao vô bờ, trong khi đó, sự vô ơn, nhát đảm dẫn đến sự phản bội của người môn sinh lại cứ dần leo thang!
Điều tốt và xấu luôn tồn tại
Trong cuộc sống của con người, sự bất trung, vô ơn, phản bội, có lẽ luôn tồn tại song song với thời gian. Những thái độ, hành vi và lựa chọn tiêu cực ấy lại được diễn ra đây đó giữa cha mẹ với con cái; giữa vợ với chồng; giữa bạn bè, đồng nghiệp với nhau; giữa thầy với trò…, và, nhất là giữa con người với Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương ta.
Họ bội ước quên thề và phản bội với nhau có thể do động lực tiền bạc, tình cảm và chức quyền gây nên. Những sự vô ơn và phản bội như thế, dân gian người ta gọi những hạng người đó là kẻ: “Ăn cháo đá bát”; “lừa thầy phản bạn”; “qua cầu lướt ván…”.
Với Đức Giêsu, từ khi đón nhận bản tính nhân loại nơi mình, Ngài cũng là con người giống như bao người, vì thế, Đức Giêsu cũng đã từng nếm trải những chuyện như: vô ơn, phản phúc, đổi trắng thay đen, nói không thành có… đến từ những người mà Ngài làm ơn làm phúc; những người mà Ngài đã cứu sống, và, nhất là đến từ các môn đệ là những người được chính Ngài tuyển lựa để ngày đêm ở với Ngài và được Ngài dạy dỗ nhiều điều!
Sự thật cay đắng này diễn ra trong bữa Tiệc ly buổi chiều năm xưa, mà hôn nay chúng ta đang tưởng niệm.
Điều này được thấy qua những nghi thức phụng vụ, nhất là Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay.
Kinh Thánh diễn tả buổi chiều hôm nay là một buổi chiều ly biệt giữa Thầy và trò.
Khung cảnh trầm buồn ấy cộng thêm những nét chấm phá hết sức ấn tượng diễn tả sâu sắc tình yêu thương của Thầy dành cho trò. Tuy nhiên, mặt trái của bức tranh tình yêu đó lại bị những vết đen phản bội, vô ơn và bất trung xen lấn, làm cho họa tiết lộ rõ sự hỗn độn, khiến cho người thưởng thức không khỏi khó chịu và xót xa!
Tất cả vì tình yêu
Câu chuyện diễn tả bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, được khởi đi từ việc Đức Giêsu muốn ăn bữa tiệc vượt qua sau cùng với các môn đệ trước khi lên đường hy sinh mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đây là một bữa tiệc mang nhiều ý nghĩa thâm sâu.
Đỉnh điểm của buổi họp mặt hôm nay giữa thầy và trò, đó là việc Đức Giêsu loan báo: Một người trong anh em sẽ phản bội. Một trong anh em sẽ chối Thầy, và, đêm nay anh em sẽ vấp phạm vì Thầy.
Từ lời loan báo trên, Đức Giêsu đã nói rất rõ ràng cho các môn đệ biết về sự vô ơn, hèn nhát và thiếu trung thành của các ông đối với Ngài.
Nhưng ngay lúc này, các ông rất hoang mang và nhiều người không thể ngờ được là: tại sao trong nhóm của mình lại có những kẻ “được cá bẻ đăng”, rồi hèn nhát và thiếu trung thành đến vậy…!
Chính vì thế, mà họ bắt đầu nhao nhao hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, có phải con không?”. Đức Giêsu không nói rõ ai sẽ là người phản bội mình, Ngài chỉ đưa ra hành động ám chỉ: Thầy chấm miếng bánh trao cho ai, thì đó là người ấy. Rồi Giuđa là kẻ đã lĩnh miếng bánh trước mặt anh em. Sau khi đã nhận miếng bánh ân tình, ma quỷ đã nhập vào y và y đã quyết định rời khỏi nơi chốn tình yêu, không gian ánh sáng để tiến về vùng tối tăm của sự ác!
Đọc tiếp trang Tin Mừng, chúng ta còn thấy sự bất trung của các môn đệ khác được tìm thấy trong biến cố tại Vườn Cây Dầu. Các môn đệ đang ở với Đức Giêsu, khi thấy toán lính đến bắt Thầy mình, thế là họ đã bỏ chạy hết. Rồi sự hèn nhát của Phêrô, vị Tông đồ trưởng được diễn ra trong dinh Thượng tế, ông đã trối Thầy trước sự đe loi của đám lính.
Tuy nhiên, dù tội lỗi của các ông có lớn thế nào đi chăng nữa, thì ngay tại phòng tiệc ly, Đức Giêsu làm một loạt những hành vi và lời nói nhằm diễn tả tình yêu của vị Thầy khả kính dành cho môn sinh, qua đó giúp cho các ông tin và đi vào mối tương quan tình yêu với Ngài.
Chính vì yêu và yêu họ đến cùng, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại, trao ban, hiến tặng tất cả, ngay cả mạng sống của mình cho con người. Điều này được thể hiện qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể. Không dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn muốn ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, nên liền ngay sau đó, Ngài đã thiết lập thiên chức linh mục.
Để tình yêu thương được cụ thể, nên vào cuối bữa ăn, Đức Giêsu đã làm một hành động ngược đời đến kỳ quặc, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là hành động của nô lệ rửa chân cho ông chủ, trò rửa chân cho thầy. Khi làm ngược lẽ tự nhiên như vậy, Đức Giêsu muốn dạy các ông bằng hành động chứ không chỉ lời nói. Điều này đã gây nên sự ngỡ ngàng tột độ, khiến Phêrô đã phải thốt lên: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?”; “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”.
Tuy nhiên, Đức Giêsu nói với ông: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”.
Sau đó Ngài đã dạy các ông: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”.
Như vậy, việc Đức Giêsu rửa chân cho các ông, Ngài muốn làm một cử chỉ sâu xa để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa với nhân loại.
Bên cạnh đó, Ngài muốn gột rửa tâm hồn các ông thực sự.
Bởi vì nơi các ông vẫn còn nhiều vấn vương bụi đời.
Nào là tranh dành quyền lực; thích được phục vụ; ăn trên ngồi trước.
Nào là chia rẽ nội bộ; nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, hám lợi và phản bội….
Sứ điệp Lời Chúa
Ngày nay, vẫn còn đó những con người chẳng khác gì các môn đệ là bao. Họ vẫn mang trong mình những sự kiêu ngạo, ích kỷ, chia rẽ và thiếu trung thành, phản bội và vô ơn…!
Vẫn còn đó những kẻ chỉ vì miếng cơm manh áo mà bán đứng anh em của mình cho sự ác.
Lại có kẻ miệng thì nói tin Chúa, sống chết với đức tin, đạo giáo. Nhưng khi có lợi đến, hay bị thử thách, họ sẵn sàng từ chối thuộc về Chúa để được yên thân.
Và, cũng không thiếu những kẻ “khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Họ tin và theo Chúa chẳng khác gì trẻ con. Họ rất giống những người thiếu lập trường và bị hiệu ứng đám đông điều khiển!
Sứ điệp Lời Chúa và phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Luôn sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa ngang qua sự kiên trì và trung thành với đức tin của mình.
Cuối cùng, hãy sống bản chất của Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái; đồng thời luôn biết yêu thương nhau thật lòng như Chúa đã yêu, đó là một tình yêu bằng hành động, hướng tha, hy sinh và phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa đã thể hiện tình yêu trọn vẹn của Chúa dành cho nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu ấy và ra sức thi hành trong cuộc sống qua các mối tương quan với Chúa và tha nhân. Amen.
17/04 Dung mạo kẻ phản bội
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dung mạo kẻ phản bội.
Thứ Tư tuần thánh.
"Con Người ra đi như đã được ghi chép sẵn từ trước, nhưng khốn thay cho kẻ sẽ làm cho Ngài bị phản nộp".
Lời Chúa: Mt 26, 14-25
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Ðúng như con nói".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Dung mạo kẻ phản bội
Trong hai ngày qua, thứ Hai và thứ Ba Tuần Thánh, và hôm nay nữa, thứ Tư Tuần Thánh, chúng ta được nghe nhắc đến dung mạo của một người đồ đệ phản bội Chúa là Giuđa Iscariốt. Sự phản bội này không phải là một điều bất ngờ, và lại càng không phải là điều bất ngờ đối với Chúa Giêsu, Ðấng đã biết trước mọi sự sẽ xảy ra cho Ngài như thế nào. Giuđa đã đi đến việc phản bội Chúa, có lẽ vì ông ta đã để cho sự quan tâm về lợi lộc vật chất dần dần chiếm hết chỗ trong tâm hồn và đã để cho sự hăng say theo Chúa lúc ban đầu bị phai lạt đi. Chúa Giêsu không còn là Thầy, là Chúa và là tất cả của cuộc đời ông nữa, nhưng là một món hàng mà Giuđa đem bán cho những kẻ muốn giết Ngài với giá tiền ba mươi đồng, mức giá trị của một người nô lệ đáng khinh.
Giuđa đã âm mưu nộp Chúa cho các thượng tế và đã thành công giấu ý định này không cho các môn đệ khác biết, nhưng Giuđa đã không thể nào giấu điều đó với Chúa Giêsu được. Chúa biết hết nhưng Ngài vẫn đối xử tốt với Giuđa cho đến cùng. Chúa không bỏ qua những dịp may để giúp Giuđa hồi tâm. Trước hết là bữa tiệc vượt qua giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Dĩ nhiên, là người thủ quĩ, Giuđa thản nhiên tham dự vào bữa tiệc, mặc dù đoạn Phúc Âm không nói ra. Tinh thần hiệp thông của bữa tiệc không thức tỉnh Giuđa nổi. Rồi những lời của Chúa: "Một người trong các con sẽ nộp Thầy", và Giuđa chắc chắn được nghe rõ nhưng không làm cho Giuđa giật mình tỉnh ngộ. Rồi sự buồn phiền của các môn đệ khác trong bữa tiệc cũng không có tác dụng gì trên ý định của Giuđa muốn nộp Chúa Giêsu. Thấy các môn đệ lần lượt hỏi Chúa xem có phải là họ hay không, thì Giuđa cũng làm theo như vậy. Tệ hơn nữa, Giuđa dùng từ ngữ không còn ý nghĩa kính trọng đối với Chúa Giêsu trong câu hỏi đặt ra cho Chúa, vì trong khi các môn đệ khác gọi Thầy là Chúa với lòng kính trọng, thì Giuđa dùng một từ ngữ chỉ dành riêng cho một người tầm thường là Rabbi (thưa thầy). Kể từ khi chấp nhận mức giá trị đặt Chúa ngang hàng như một người tôi tớ chỉ đáng giá ba mươi đồng bạc, Giuđa xem như đã mất đi niềm tin vào Chúa như là Ðấng Cứu Rỗi. Giuđa không còn muốn trở lui, không còn muốn rút lại âm mưu nộp Chúa cho đến khi quá trễ. Khi Chúa bị kết án tử hình, thì Giuđa hối hận đi tự tử, như được kể lại nơi đầu chương 27 Phúc Âm thánh Mátthêu.
Phần Chúa Giêsu, Ðấng đã so sánh mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm con chiên lạc, Ngài vẫn kính trọng thể diện của Giuđa, không nói thẳng thừng, không vạch mặt nêu tên Giuđa cho mọi người biết, nhưng âm thầm tạo dịp để thức tỉnh lương tâm Giuđa. Và lời cảnh tỉnh mạnh mẽ nhất là khi Chúa Giêsu tuyên bố: "Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người, thà rằng người đó đừng sinh ra thì hơn". Chúng ta không nên hiểu lời cảnh tỉnh này như một lời kết án Giuđa phải hư mất mãi mãi. Không phải như vậy, lời cảnh tỉnh mạnh mẽ của Chúa nhằm làm nổi bật sự khốn cùng của người phản bội Chúa, một sự khốn cùng mà người phản bội tự ý đi vào vì ngoan cố không chịu quay trở về. Sống mà phản bội Chúa, chối bỏ ơn cứu rỗi của Chúa một cách có ý thức và ngoan cố, thì tệ hơn là không sống, không sinh ra trên trần gian này. Không phải tất cả mọi người đều biết khám phá và đáp trả tình yêu của Chúa đối với họ, thời nào cũng vậy, cũng có những người không nhìn nhận tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để con sống trong tự phụ mù quáng. Xin đừng để con bị những lợi lộc vật chất làm cho con trở nên ngoan cố chống lại Chúa. Xin cho con biết noi gương thánh Phaolô tông đồ quay về với Chúa và dùng phần cuộc đời còn lại cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, đến độ có thể nói như Ngài: "Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn Chúa đã không trở nên vô ích nơi tôi. Ước được như vậy".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Giuđa mưu phản.
“Cả người thân con hằng tin cậy,
Đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
Mà nay cũng giơ gót đạp con”.
Thánh vịnh 40 là một trong những lý do mà các kitô hữu tiên khởi đưa ra trong cố gắng tìm hiểu về biến cố Giuđa phản bội: “Khi ấy một trong nhóm mười hai tên là Giuđa Iscariot đi gặp các Thượng tế mà nói: “các ngài cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ nộp ông ấy cho các ngài”.
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Lễ Vượt Qua cuối cùng Chúa Giêsu cử hành với các môn đệ. Mỗi năm người Do Thái thời Chúa Giêsu long trọng mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm biến cố Thiên thần Chúa vượt qua cửa nhà người Do Thái có bôi máu chiên để không giết con đầu lòng của họ, khởi đầu cho cuộc giải phóng họ khỏi ách nô lệ và khai mào cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa. Chúa Giêsu đã có ý định dùng môi trường và ý nghĩa của lễ Vượt Qua này để thiết lập Thánh Thể, nói lên ý nghĩa Ngài là Con Chiên mới sẽ hiến thân chịu chết và đổ máu trên Thập giá để giải phóng và cứu rỗi không những dân Do Thái, mà cả nhân loại. Nhưng soạn giả Matthêu không che dấu một biến cố khác xẩy ra cùng lúc với ngày trọng đại này đó là Giuđa, một trong nhóm mười hai mưu phản Thày. Đấy là biến cố gây chấn động dữ dội nơi cộng đoàn kitô tiên khởi chính vì cố đưa ra để tìm hiểu những bí ẩn bên trong dẫn đến ý định bán nộp Thày cho Giuđa. Ngoài lý do tìm thấy trong câu Tv 40 mang ý nghĩa tôn giáo, người ta cũng phân tách con người Giuđa được các soạn giả bốn sách Tin Mừng nhận xét, là con người tham lam, biển lận, ăn cắp của chung. Có người còn cho rằng Giuđa thuộc một đảng chính trị quá khích chủ trương dùng bạo lực để chống lại ách đô hộ của người Rôma; y theo Chúa Giêsu vì thấy Ngài có quyền năng làm nhiều phép lạ hy vọng Ngài sẽ dùng quyền năng đó để đánh đuổi ngoại xâm. Giuđa thất vọng khi thấy Ngài chọn con đường dẫn tới cái chết Thập giá để kết thúc sự nghiệp giải phóng và cứu rỗi của Ngài. Chính sự thất vọng ấy đưa đến bất mãn, và quyết định nộp Thày. Có người chủ trương rằng Giuđa không có ý định giết chết Chúa Giêsu, nhưng qua việc giải nộp Ngài trong tay quân Rôma, Giuđa hy vọng dồn Ngài vào chân tường, buộc Ngài phải chống cự để tự vệ và do đó đánh đuổi quân Rôm ra khỏi bờ cõi. Nếu như thế ngoài tội nộp Thày phản bạn, Giuđa còn vấp phải một lầm lỗi khác là muốn cưỡng bách Chúa Giêsu hành động theo ý riêng mình.
Để hiểu trọn ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không thể dừng lại ở những lỗi lầm của Giuđa, nhưng cần phải hội tụ chú ý vào vai chính là Chúa Giêsu. Trước tiên ngài cố gắng đến cùng để cảnh tỉnh và giải thoát Giuđa khỏi những ý nghĩ mù quáng và đen tối: vì thế Ngài đã cảnh cáo ý bằng một lời mạnh mẽ: “Con Người ra đi như đã viết về Ngài, nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp. Thà rằng người ấy đừng sinh ra thì hơn”. Rồi Chúa Giêsu cũng gọi đích danh Giuđa là người sẽ nộp Ngài. Nhưng lời cảnh cáo và sự vạch mặt chỉ tên đó cũng không làm cho Giuđa tỉnh thức và cũng không ngăn cản y tự nhảy xuống vực thẳm tội lỗi. Tuy nhiên, mặc cho hành động phản bội của Giuđa, Chúa Giêsu vẫn tiến hành việc lập Bí tích Thánh Thể, dấu chỉ của lòng yêu thương đến cùng. Tình yêu đáp lại tình yêu là chuyện thường tình, nhưng tình yêu đáp lại hận thù mới là hành động của một vĩ nhân.
Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng ta, để chúng ta tiến vào ba ngày thánh tưởng niệm việc lập Bí tích Thánh Thể, cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá của Chúa, để Mùa chay này thực sự biến đổi con tim và cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Giuđa phản bội.
Bấy giờ một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Quí vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quí vị.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ đó hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu. (Mt. 26, 14-16)
Có nhiều sứ điệp Tin mừng thật nặng nhọc khi phải đọc, tuy không nhiều, sứ điệp mà chúng ta đọc lại hôm nay là một trong những nố đó. Không thể không nặng nề khó chịu khi đọc đến đoạn phản bội của Giu-đa. Người ta tưởng tượng ra sự độc ác và không hiểu tại sao con người đó có thể sa đọa đến thế. Cách cư xử của hắn quá đồi tệ, ti tiện, không còn một chút phẩm giá con người.
Tuy nhiên, xin đừng coi đó là gương mù quá lẹ như vậy, vì gương mù đó xảy ra quá dễ dàng. Dù xấu đến đâu, lịch sử về Giu-đa vẫn mang tính chất nhân loại, nó vẫn có trong con người. Cần phải đọc lại nó để xem xét chính con tim của chúng ta cũng như con tim của mọi người không phải là không thấm nhiễm sự xấu và tội lỗi đâu. Ta thấy cái cảnh phản bội nặng nề khó đọc đó chính là vì ta thấy diễn tả nó trong bản văn. Nếu Giu-đa thiệt tình chơi cái trò này cho ngay thẳng, nghĩa là chống đối Chúa Giêsu ra mặt, khai chiến với Người rõ ràng, thì người ta cảm thấy dễ chịu hơn, ít nặng nề hơn. Nhưng không, Giu-đa diễn cái trò vòng vo quanh co. Hắn thực là kẻ phản bội. Chính đó là cái nặng nề khi phải thấy nó xảy ra.
Về phần Đức Giêsu, cách cư xử của Người có gì làm chúng ta ngạc nhiên không? Người biết rõ môn đệ nào và hắn âm mưu gì.
Nếu chúng ta ở địa vị Người, chúng ta có lẽ đã nổi giận tái mặt đi và tống cổ Giu-đa ra khỏi nhà ngay lập tức. Đức Giêsu đã hành động hoàn toàn khác. Người đã cho kẻ phản bội một cơ hội cuối cùng. Một lần nữa, Người chia sẻ bánh ăn với hắn. Không phải Đức Giêsu đã đẩy Giu-đa ra cửa. Chính Giu-đa đã quyết định ra đi phản bội và đi tự tử treo cổ chết.
Sẽ hoàn toàn khác, nếu Giu-đa thời đó đã ăn năn trở lại, thì Giu-đa sẽ không còn bị gọi là Giu-đa phản bội nữa, mà ngày nay còn được gọi là thánh Giu-đa. Hắn đã không ăn năn. Hắn từ chối tình bạn thân thiết với Thầy mình. Chính vì lý do đó mà đã để lại một lịch sử buồn sầu đen tối.
J.Y.G
SUY NIỆM 4: “THƯA THẦY CÓ PHẢI CON KHÔNG?” (Mt 26, 14-25)
Trong cuộc sống, không ai thoát được đau khổ. Tuy nhiên, có nhiều loại đau khổ. Đau khổ nhất vẫn là sự phản bội của chính người mà chúng ta đã từng ra tay nâng đỡ...!
Hôm nay, thánh sử Mátthêu cũng gợi lại cho chúng ta tấm thảm kịch bi thương khi họa lại khung cảnh của một bữa tiệc cuối cùng của Thầy Giêsu với các môn sinh của mình, để rồi chính trong bữa ăn thân tình và huynh đệ này lại diễn ra một sự phản bội trắng trợn của ngay học trò Giuđa, kẻ đã được tin tưởng trao cho trách vụ quản lý. Tệ hơn nữa, âm mưu này lại bị hắn che lấp bằng câu hỏi: "Rápbi, (thưa Thầy) chẳng lẽ con sao?" Ngay sau lời loan báo về sự phản bội của Đức Giêsu: “Thầy nói thật với các con, có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.
Nếu các môn đệ khác khi hỏi cùng câu hỏi như Giuđa, thì trong tâm hồn của các ông là lo lắng, buồn rầu và đau đớn, còn Giuđa thì không, bởi hắn đã dùng hình thức này nhằm đánh lạc hướng để mọi người không còn nghi ngờ về hành vi bỉ ổi của hắn và để hắn dễ bề hành động. Chính vì thế mà làm cho Đức Giêsu trong tư cách là người thi ân giáng phúc, là thầy, là Thiên Chúa càng thêm đau khổ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta những bài học sau:
Trước tiên, chúng ta hãy xác định rõ mục đích của cuộc đời mình, đó là đi tìm hạnh phúc chứ không phải danh, lợi, thú, để rồi vỡ mộng như Giuđa khi xưa mà dẫn đến thất vọng và lựa chọn hành vi phản thầy.
Thứ hai, tin và theo Chúa không có nghĩa là thoát khỏi đau khổ, nhưng điều quan trọng là thấy được ý nghĩa, giá trị của khổ đau.
Thứ ba, khi chọn Chúa là gia nghiệp, lý tưởng, chúng ta chỉ thấy được hạnh phúc sau khi đã hoàn thành hành trình theo Ngài trên dương thế mà thôi. Họa hiếm mới có được ân phúc này khi còn bình sinh.
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được căn tính và mục đích của cuộc đời, từ đó biết hiệu chỉnh lương tâm và những lựa chọn sao cho phù hợp với vai trò môn đệ của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết mặc lấy tâm tình của mười một môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, đừng như Giuđa, mà làm cho Chúa phải đau buồn. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Chẳng lẽ con sao?
Suy niệm :
Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.
Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.
Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.
Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào
đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.
Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa,
sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).
Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.
Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…
Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.
Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).
Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận,
Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất,
được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.
Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.
Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?
Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?
Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.
Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột
khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng,
chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?
Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế,
anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?
Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.
Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.
Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa
vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.
Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói:
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).
Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.
Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.
“Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).
Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.
Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”
Có phải con là người đang phản bội Thầy không?
Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.
Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ,
chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
16/04 Bóng đêm tội lỗi – Sự thật về Giuđa và Phêrô
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Bóng đêm tội lỗi – Sự thật về Giuđa và Phêrô.
Thứ Ba tuần thánh.
"Một người trong các con sẽ nộp Thầy... Trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần".
Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38
Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy".
Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó". Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?"
Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó". Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi". Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.
Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được", nay Thầy cũng nói với các con như vậy".
Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy".
Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy". Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bóng đêm tội lỗi.
Bóng đêm đồng lõa với tội ác: Bao nhiêu cuộc hội họp để toan tính những hành vi hắc ám thường được tổ chức về đêm: nương theo đêm tối, những tên hành nghề trộm cướp mới mạnh tay hành động; những cuộc vui chơi trác táng, những mối tình vụng trộm cũng thường xẩy ra vào đêm. Bóng đêm cũng đã chứng kiến một cuộc bán Thày phản bạn được Tin Mừng thuật lại: Khi ấy, Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ, tâm hồn Ngài xao xuyến… Giuđa nhận chiếc bánh từ tay Chúa Giêsu trao, ăn xong, y đứng dậy ra đi, bấy giờ là đêm tối.
Dưới ngòi bút của Gioan, ánh sáng và bóng tối mang một ý nghĩa thật đặc biệt. Nhưng ở đây bóng tối được sử dụng để diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Giuđa trong âm mưu đen tối của y nơi đoạn Tin Mừng hôm nay. Bóng đêm luôn ngự trị khi con người chủ ý quay lưng lại với Chúa Giêsu, bóng đêm luôn xâm chiếm tâm hồn khi con người nghe theo sự xúi giục của sự dữ hơn là lời mời gọi của Thiên Chúa. Bóng đêm luôn giữ phần thắng khi hận thù, gian tham bóp chết sức mạnh của tình yêu. Bóng đêm xâm chiếm cõi lòng khi con người khước từ tình yêu Thiên Chúa như trường hợp của Giuđa. Trước khi Giuđa đứng dậy bỏ bàn tiệc thân hữu để đi vào bóng đêm, Chúa Giêsu đã dùng mọi phương thế để cảnh tỉnh Giuđa: trước tiên là lời tiên báo công khai: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: một trong các ngươi sẽ nộp Ta”, nhưng Giuđa giả điếc làm ngơ không nghe lời cảnh tỉnh ấy. Tiếp đến, Chúa Giêsu chấm bánh trao cho Giuđa, đó là một cử chỉ thân tình, nhưng Giuđa đã ăn miếng bánh ấy không chút rung động, đến độ thánh Gioan diễn tả hậu quả trái ngược: “Ăn miếng bánh rồi, Satan đã nhập vào y”. Sau cùng, Chúa Giêsu dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng qua câu nói: “Ngươi tính làm gì, thì làm mau đi”, câu này ngụ ý rằng âm mưu của ngươi, Ta đã biết, làm sao một môn đệ lại có thể âm mưu phản Thày”. Tuy nhiên, những lời nói và cử chỉ thân tình ấy đã không cầm chân được Giuđa khỏi tiến vào bóng đêm tội lỗi.
Ngày thứ ba tuần thánh, khi đưa ra một Giuđa cứng lòng bướng bỉnh, tiến vào bóng đêm của phản bội, của tội lỗi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để chấp nhận lời cảnh tỉnh và nhất là đón nhận những cử chỉ thân tình yêu thương của Chúa Giêsu, để bừng sống dậy nhập đoàn những người đã và đang thực hiện một cuộc cách mạng tình thương mà Ngài đã khởi xướng khi tuyên bố: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì bạn hữu”, “Ta ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con”.
Ước gì sự hiến thân chết vì tình yêu trên Thập giá của Chúa dẫn chúng ta từng bước thoát khỏi bóng đêm của tội lỗi để tiến vào ánh sáng của Chúa Nhật Phục Sinh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Sự vấp ngã của Giuđa và Phêrô
Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tư Chúa trong giây phút quan trọng này, có hai đặc điểm quan trọng được nêu bật ở đây: Ngài là một vị Thiên Chúa nhập thể làm người như chúng ta; là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa trước cuộc Thương Khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các đồ đệ, của Giuđa phản bội và của Phêrô tự phụ chối Chúa. Là một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho mình và gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ tôn vinh, Thiên Chúa được tôn vinh, chính Chúa được tôn vinh và con người được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời.
Nơi chương 17 sau đó, Chúa Giêsu nói rõ ra nội dung chính của việc tôn vinh này như sau: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Ðấng Cha sai đến là Giêsu Kitô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm". Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về chương trình Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa muốn thực hiện điều đó cách hoàn hảo, nhưng đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều sa vào. Giuđa sắp phản bội, Phêrô sắp chối bỏ Ngài, nên Chúa xao xuyến sâu xa.
Nhưng tội lỗi của con người không thể làm hư chương trình của Thiên Chúa. Cho đến tận cùng, Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi. Chúa hành xử với mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm, âm thầm với Giuđa và công khai với Phêrô. Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn, đón nhận Satan, từ bỏ ánh sáng, tự ý bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến mức tuyệt vọng, vì trong tâm hồn ông không còn chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại, bắt gặp cái nhìn của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con trở về cùng Chúa, đừng bao giờ thất vọng về những lỗi lầm đã phạm, nhưng biết học lấy bài học của sự sa ngã để tiến lên mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Khổ đau của Đức Giêsu
Đức Giêsu nói thế rồi, tâm thần Người xao xuyến. Người tuyên bố:
“Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. (Ga. 13, 21)
Đức Giêsu chịu nhiều đau khổ, nhưng người ta tự hỏi, đau khổ lớn nhất có phải là đòn đánh, mạo gai, cơn hấp hối hay bị đóng đinh trên thập giá? vì còn nhiều thứ đau khổ khác nữa.
Thứ đau khổ con tim và linh hồn mới thực sự cực khổ hơn bất cứ đau khổ thể xác nào. Người ta đau khổ thể xác mà trái tim vẫn có thể hạnh phúc, như các thánh tử đạo, bị cực hình thân xác, nhưng tâm hồn vẫn hân hoan. Khi bị đau khổ tâm hồn và tâm tư, thì không còn cách nào được sung sướng.
Đức Giêsu đã bị một ông tông đồ bán: đó là Giu-đa. Người cũng bị tông đồ cả là Phê-rô chối bỏ. Người còn bị tất cả các môn đệ bỏ trốn. Đó không phải là những lúc đau khổ lớn nhất sao?
Đau khổ cực dữ nhất không phải là thứ đau khổ làm cho kêu la lớn nhất. Đau khổ thấm thía sâu sắc không phải là thứ đau khổ kêu gào trên mái nhà. Đau khổ lớn nhất cũng như niềm vui to nhất thường là câm lặng.
Đức Giêsu biết một bạn thân nộp Người. Người đã không vạch mặt chỉ tên. Trái lại, Người đã rất kín đáo bảo Giu-đa đi làm công việc như thường để không một môn đệ nào biết. Những đau khổ đó càng dằn vặt dữ tợn khi người ta muốn đối diện với chúng một mình.
Bị Giu-đa bán nộp, tiếp theo đó Đức Giêsu còn phải đối diện với sự phản bội của Phê-rô. Người biết rõ thế. Phê-rô lại chẳng biết gì, ông không thể tưởng tượng mình sa ngã xuống hố sâu đến thế. Đức Giêsu không phiền trách ông chút nào. Người sẵn sàng chịu đau khổ do những bạn nghĩa thiết của Người và tất cả mọi người, dù họ đầy những yếu đuối. Còn chúng ta có noi gương Người không?
Khi người ta chịu đau khổ vì những người thân yêu, thì chính là dấu người ta yêu chân thật.
J.Y.G
SUY NIỆM 4: HÌNH ẢNH TỘI LỖI QUA BÓNG ĐÊM (Ga 13,21-33. 36-38)
Khi mặt trời lặn, bóng đêm bao phủ không gian, thì cũng là dịp thuận tiện để cái ác lộ hiện hay những hành vi tội lỗi như trộm cướp, ăn chơi xuất hiện... Bóng đêm là “biểu tượng” của những âm mưu xấu xa. Bóng đêm còn “ám chỉ sự dữ”, bởi bóng đêm quay lưng lại với “ánh sáng” và bóng đêm “bóp chết tình yêu”.
Cuối Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan có nhắc đến thời điểm đêm tối và kẻ bán Thầy bắt đầu ra đi. Hành vi Giuđa rời bàn ăn, tiến vào đêm tối gợi cho chúng ta cảm tưởng tội lỗi đã đối đầu với Ánh Sáng và tràn ngập nhân gian.
Bóng đêm chia cắt tình Thầy – trò; bóng đêm cũng làm cho tình huynh đệ bị rạn nứt; bóng đêm còn làm cho cái ác ngự trị thay cho tình yêu. Sự ra đi của Giuđa vào lúc trời tối cho thấy rõ bản chất của sự việc.
Thứ ba Tuần Thánh, Giáo Hội cho đọc lại Bài Tin Mừng hôm nay nói về âm mưu phản bội của Giuđa khi trời đã tối, Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng:
Chúng ta thuộc về “Ánh Sáng” chứ không thuộc về “đêm”, vì thế, mỗi người hãy tránh xa “đêm tối”, vì đêm tối dẫn đến diệt vong.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được ơn trung thành với Chúa đến cùng. Đừng vì nông nổi, tham tiền, hám danh mà bán rẻ lương tâm cho ma quỷ qua những lựa chọn trái ngược với Tin Mừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Trời đã tối
Suy niệm :
Làm người ở đời ai chẳng có lúc xao xuyến.
Đức Giêsu hai lần nhắc các môn đệ đừng xao xuyến
trước sự ra đi được báo trước của Thầy (Ga 14, 1.27).
Nhưng Ngài đã xao xuyến khi thấy người ta khóc thương Ladarô (Ga 11, 33).
Ngài cũng đã xao xuyến khi giờ đã đến và cái chết gần kề (Ga 12, 27).
Trong bữa tối này, Đức Giêsu không tránh khỏi xao xuyến
khi nói đến sự phản bội sắp đến của một người môn đệ (c. 21).
Vậy vấn đề không phải là cố tránh xao xuyến, mà là đừng để nó làm chủ mình.
Trong bốn sách Tin Mừng, Thầy Giêsu không bao giờ nói rõ Giuđa là kẻ phản bội.
Thầy muốn giữ thể diện thậm chí cho kẻ sắp phản bội mình.
Vì thế nói chung các môn đệ không rõ ai là kẻ sẽ nộp Thầy (c. 22).
Ông Phêrô có lẽ nằm trên giường tiệc xa với Thầy,
nên đã làm hiệu cho anh môn đệ được Thầy thương, để nhờ anh hỏi xem là ai.
Thầy Giêsu đã không nói tên kẻ phản bội.
Ngài chỉ tế nhị dùng một dấu hiệu để cho anh môn đệ mình thương nhận ra.
Dấu hiệu đó là chấm một miếng bánh trao cho Giuđa.
Đây là một cử chỉ quý mến của chủ tiệc dành cho một vị khách đặc biệt.
Việc trao miếng bánh cho Giuđa cho thấy anh nằm gần với chủ tiệc là Thầy,
như thế Giuđa, người thủ quỹ kiêm quản lý, có một chỗ khá cao trong bữa tiệc.
Giuđa đã nhận miếng bánh ân tình của Thầy và anh có thể chọn lại.
Anh có dám từ bỏ kế hoạch phản bội của anh không?
Tiếc là không, cử chỉ ưu ái của Thầy chẳng làm anh thay đổi.
“Khi anh vừa ăn xong miếng bánh, thì Satan nhập vào anh” (c. 27).
Chúng ta ngạc nhiên khi Thầy Giêsu không hề phân biệt đối xử với Giuđa.
Thầy đã rửa chân cho anh và còn cho anh tham dự bí tích Thánh Thể (Mt 26, 27).
Khi biết lòng anh chai đá, Thầy lại hối thúc: “Anh làm gì thì làm mau đi” (c. 27).
Giuđa ra đi lúc trời đã tối.
Cũng trong bữa tiệc này, Thầy Giêsu nói về việc Phêrô sẽ chối Thầy ba lần.
Thầy chỉ nói sau khi Phêrô tuyên bố mình sẽ thí mạng để cứu Thầy (c. 37).
Phêrô tỏ ra quá tự tin vào tình yêu và sức mạnh của mình.
Anh coi thường cuộc chiến đấu ác liệt sắp tới nên đã dễ dàng ngã quỵ.
“Thầy đi đâu?”, tiếng Latinh là “Quo vadis?” (c. 36).
Ta lại thấy câu hỏi này của Phêrô trong một sách ngụy thư ở cuối thế kỷ thứ hai.
Lúc Phêrô chạy trốn khỏi sự bách hại ở Rôma,
anh lại gặp Thầy Giêsu và hỏi Thầy: “Thầy đi đâu vậy?”
Thầy trả lời Thầy đang vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa.
Phêrô hiểu ra nên trở lại Rôma để chết tử đạo ở đó.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
15/04 Yêu là cho đi
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Yêu là cho đi.
Thứ Hai tuần thánh.
"Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta".
Lời Chúa: Ga 12, 1-11
Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.
Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?" Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu".
Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại.
Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Yêu là cho đi.
Một đôi vợ chồng nghèo nhưng yêu thương nhau tha thiết. Mỗi người sở hữu một vật quý giá: Della có mái tóc đen huyền dài và đẹp, nàng rất quý nó và hãnh diện về nó. Còn Jim chỉ có chiệc đồng hồ vàng, đó là kỷ vật duy nhất của cha anh trối lại.
Một ngày lễ Giáng sinh, Della quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Jim sợi dây đồng hồ thật đẹp. Hôm ấy về đến nhà, Jim ngỡ ngàng nhìn Della khi thấy nàng tóc ngắn, vì không biết phải làm gì với món quà là bộ lược bằng xà cừ rất đẹp mà anh đã bán chiếc đồng hồ để mua tặng nàng. Della và Jim đã cho nhau tất cả những gì mình có, họ đã hy sinh tất cả cho nhau.
Vào đầu tuần thánh, Giáo Hội cũng nhắc đến hai người bạn của Chúa Giêsu, cũng như Della và Jim, họ đã cho Chúa Giêsu tất cả những gì mình có. “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania… Ở đố người ta thiết tiệc Ngài. Có Marta phục dịch, Lazarô là một trong những người đồng bàn với Ngài. Maria lấy bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm xức lên chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau chân Ngài”.
Một lần nữa, Tin Mừng cho chúng ta gặp lại Marta và Maria. Tuy lần ghé trước Marta đã nghe Chúa Giêsu nói chỉ có một việc cần đó là lắng nghe lời Chúa. Nhưng lần này, Marta cũng chẳng đừng được, đã biết cuộc hội ngộ với Chúa Giêsu thành một yến tiệc, bởi lẽ theo chị, nấu những món ăn thiết đãi Chúa và các môn đệ là để tỏ lòng hiếu khách, nhất là tỏ lòng biết ơn Chúa đã cải tử hoàn sinh cho Lazarô. Phần Maria còn đi xa hơn: chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau. Qua cử chỉ ấy chúng ta thấy rõ chiều sâu mối tình của chị đối với Chúa Giêsu. Một tình không tính toán khiến chị sử dụng dầu thơm quý giá mà theo ước tính của Giuđa có thể lên tới 300 đồng bạc tức 300 ngày công. Mối tình khiêm nhu, vì theo tục lệ thời đó, chủ nhà hay bất cứ phần tử nào trong gia đình thường xức thuốc thơm trên đầu người khách để tỏ lòng quí mến, nhưng Maria khiêm tốn nghĩ mình chỉ đáng xức dầu thơm vào chân Thày thôi. Mối tình tự hạ, thể hiện qua việc lấy tóc mình để lau chân Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận cử chỉ nói lên lòng kính trọng, yêu thương của Maria, cũng như vui lòng ngồi vào bàn tiệc do Marta khoản đãi.
Với mẫu gương yêu mến của Marta và Maria đối với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn để ôn lại, để chấp nhận và để đáp lại mối tình bao la của Thiên Chúa đã thí ban người Con Một vì phần rỗi nhân loại, cũng như để đáp lại mối tình của Chúa Giêsu đã sẵn lòng đón nhận cái chết ô nhục vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu
Ðoạn Tin Mừng trên gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn luôn là một dấu gây mâu thuẫn. Nhiều người tin Chúa, mến Chúa, thương Chúa, mà cũng có nhiều người khác dèm pha, chống đối và muốn loại trừ. Những kẻ thuộc nhóm ủng hộ Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay là những người dọn tiệc đãi Chúa ở Bêtania là Lazarô, là Maria - người lấy dầu thơm xức chân Chúa. Những kẻ chống đối Chúa hay sắp đi vào con đường chống đối Ngài là các thượng tế ganh tị, là Giuđa Iscariốt - người thủ quĩ của nhóm môn đệ chung quanh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan sát thêm thái độ của những kẻ chống đối Ngài, các thượng tế, những người lãnh đạo của dân Do Thái và là những kẻ được dân chúng kính nể như những trí thức và đạo đức. Nhưng phải chăng đây là cái vẻ bên ngoài, vì bên trong tâm hồn xem ra như chứa đầy những chuyện xấu xa, mưu mô, ganh tị, tham quyền, sợ dân bỏ họ mà theo Chúa Giêsu? Vì thế, họ có ý định giết luôn cả Lazarô, xóa bỏ luôn cả dấu chỉ hiển nhiên của Thiên Chúa quyền năng hiện diện giữa con người.
Quyền năng Thiên Chúa được thể hiện nơi dấu lạ cho Lazarô đã chết được sống lại. Ghét Chúa, những thượng tế kia muốn xóa bỏ cả những dấu chỉ, những chứng tá về Chúa để lương tâm họ được yên, không còn bị quấy rầy nữa. Chúng ta có hành xử giống như những vị thượng tế Do Thái này hay không, hay chúng ta hành xử giống như Giuđa Iscariốt. Giuđa chưa phản bội Chúa, nhưng đang trên đường phản bội Chúa với những hành động xấu được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ham mê tiền của, lấy của công để lo cho tư lợi riêng, lạm dụng danh nghĩa người nghèo, miệng nói lo cho người nghèo nhưng hành động ngược lại. Ðây là tội mà ngày nay có thể gọi là kinh doanh trên sự nghèo cùng của anh chị em.
Hơn nữa, khi phê bình hành động tốt lành của cô Maria, xức dầu thơm nơi chân Chúa như là một việc làm phí của, thì Giuđa cho thấy tâm địa hẹp hòi của mình, Giuđa xem đồng tiền lợi lộc vật chất trọng hơn chính Chúa Giêsu và mối tương quan thân thiện với Ngài. Thường tình, nếu là bạn tốt với nhau, thì khi một người sắp ra đi, kẻ ở lại phải làm vừa ý người ra đi, để nói lên lòng quí mến của mình, nhưng Giuđa đã không hành xử như vậy với Chúa Giêsu. Là một trong mười hai tông đồ sống bên cạnh Chúa, chắc chắn Giuđa đã nghe nói đến sự ra đi đầy đau thương của Ngài tại Giêrusalem, nhưng Giuđa xem ra lãnh đạm vô tâm, vô tình với biến cố, vả lại Giuđa đã công kích hành động tốt của Maria, cho đó là một việc làm phung phí, vô ích. Giuđa đã mất đi ý thức bén nhạy để phán đoán điều gì tốt, điều gì không. Giuđa xét đoán không theo sự việc khách quan mà theo tâm tình hèn hạ của mình. Tâm hồn Giuđa thì xấu, nên xét việc tốt cũng thành xấu. Chúng ta có hành xử đúng như vậy hay không.
Lạy Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu giúp chúng con xét mình. Xin cho con khiêm tốn đến cùng Chúa để Chúa giúp con từ bỏ tinh thần của con hiện tại và quyết chí canh tân. Xin cho con biết đặt Chúa vào chỗ đứng mà Chúa đáng được như vậy trong đời sống con. Xin Chúa giúp con hiểu và thực hành đời sống con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Dấu thân ái
Ở đó người ta dọn bữa ăn tối thiết đãi Đức Giêsu; Cô Mac-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quí giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà sực mùi thơm. (Ga. 12, 2-3)
Giu-đa đã chướng tai gai mắt về Ma-ri-a đổ bao nhiêu dầu thơm xức chân Đức Giêsu. Có lẽ chúng ta cũng thấy chướng mắt như vậy. Lọ dầu giá ba trăm đồng gần bằng tiền lương công nhân cả năm, ai trong chúng ta sẵn lòng cho người khác như vậy? Ai đã làm được thế? Chỉ có một cách duy nhất giải thích cử chỉ đó: Cô yêu mến Đức Giêsu.
Khi yêu, người ta có thể cho tất cả. Yêu chân thật thì làm tất cả. Người ta cho thứ tốt nhất và không tính toán giá trị bao nhiêu. Tình yêu chân thật không hẹp hòi, không tính toán, yêu là tất cả.
Chúng ta quả quyết hoàn toàn tự nguyện yêu mến Thiên Chúa và chúng ta có cảm tình nhiều với tất cả mọi người sống với chúng ta. Cần phải chứng thực điều đó qua mấy câu hỏi sau đây: Chúng ta cho những người ta yêu cái gì? Chúng ta đã cống hiến bao nhiêu thời gian cho họ? Chúng ta có sẵn sàng chịu sạch bách hết trọi để đem lại hạnh phúc cho họ không?
Đức Giêsu đã yêu mến chúng ta đến hiến cả mạng sống cho chúng ta, có thể nói yêu đến điên cuồng. Nhưng người ta có thể yêu mà không điên cuồng một chút nào ư? Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút đối với những người chúng ta nói yêu họ, thì chỉ là yêu nửa vời. Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút để biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa, nếu thỉnh thoảng chúng ta không làm những cử chỉ khác thường, thì chúng ta chỉ yêu nửa vời.
Nếu phải vạch trần con tim của chúng ta xem, nếu họ bao bọc chúng ta làm cho chúng ta được hạnh phúc cho riêng mình, khi đó chúng ta mới tỏ lòng yêu họ và yêu Chúa, thì như thế là thứ tình yêu như Giu-đa.
J.Y.G
SUY NIỆM 4: TÌNH YÊU VƯỢT LÊN TẤT CẢ (Ga 12,1-11)
Thời xưa và thời nay, nước hoa vẫn là một loại thảo dược được nhiều người con gái tuổi thanh xuân hay đang yêu sử dụng nhiều, bởi nó là biểu tượng của tình yêu. Vì thế, người ta muốn bày tỏ hay minh chứng tình yêu, thì thường tặng cho nhau những lọ nước hoa đắt tiền.
Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã không tiếc xót khi hiến dâng cho Đức Giêsu một bình dầu thơm hảo hạng có giá tới 300 đồng bạc, tương ứng với khoảng 300 ngày công lao động thời bấy giờ.
Hành động của Maria không phải là một hành động mang tính phung phí như Giuđa nghĩ, mà là dấu hiệu, biểu lộ của tình yêu. Cô đã kính phục Đức Giêsu nhiều chuyện, nhất là hôm cô được ngồi dưới chân Ngài mà nghe giảng. Hơn nữa, người em của cô là Lazarô đã được Đức Giêsu cải tử hoàn sinh, nên lòng kính mến lại dâng lên gấp bội. Vì thế, cô đã không hề tiếc xót khi phải cho đi thứ quý giá của cô. Có lẽ nếu có tiếc thì cô tiếc là không có nhiều hơn để dâng hiến vì cô yêu mến Đức Giêsu tha thiết.
Khi cơ hội ngàn năm có một, nên cô đã tiến lại và đập vỡ bình dầu ra, đổ lên chân Đức Giêsu rồi lấy tóc mình mà lau.
Khởi đầu Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng hành vi của cô Maria để noi theo!
Noi theo đây không phải là chúng ta phải bỏ ra những thứ đắt tiền như Maria để tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa, mà là noi theo gương khiêm nhường, sám hối, canh tân và yêu mến như Maria.
Một trong những việc cụ thể để tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là chúng ta từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Chúa và hoán cải cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng ta bước vào Tuần Thánh với tâm tình sám hối thực sự để chúng ta được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Ngày mai táng Thầy
Suy niệm:
Việc Đức Giêsu làm cho anh Ladarô hoàn sinh đưa đến hai thái độ.
Thượng Hội Đồng họp nhau lại và quyết định về cái chết của Đức Giêsu.
Còn chị Maria, trong bài Tin Mừng này, lại như muốn chuẩn bị cho cái chết ấy.
Trong bữa tiệc tại nhà của chị em Mácta, Maria, Ladarô, tại Bêtania,
Đức Giêsu được mời như một vị khách, có cả môn đệ của Ngài nữa.
Bữa ăn tối này là một cử chỉ diễn tả lòng kính trọng, yêu mến, và biết ơn
của cả gia đình đang vui sướng trước sự trở lại từ nấm mồ của người thân yêu.
Ladarô hẳn sẽ được ngồi gần Thầy Giêsu, Đấng thương mến anh (Ga 11,3),
Đấng trả lại cho anh sự sống.
Chính trong bữa ăn do chị Mácta phục vụ này,
cô Maria đã làm một điều đặc biệt và rất bất ngờ.
Cô đã xức lên chân Thầy Giêsu một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng,
khiến cả nhà sực nức mùi hương.
Chúng ta không hiểu tại sao cô xức chân Thầy thay vì đổ dầu thơm trên đầu.
Người ta không xức dầu thơm lên chân một người còn sống,
nhưng người ta có thể xức lên chân một người đã qua đời
để chuẩn bị cho việc mai táng người ấy.
Cô Maria không ngờ mình đã làm một hành vi có tính tiên tri về cái chết của Thầy,
như trước đây thượng tế Caipha đã vô tình nói tiên tri về cái chết ấy (Ga 11, 51).
Cô không ngờ việc xức dầu tối nay của mình là cử chỉ tượng trưng
cho việc liệm xác Thầy Giêsu sau này của ông Nicôđêmô
với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương (Ga 19, 39).
Nhìn cô Maria xức dầu, ta thấy cử chỉ trân trọng của cô đối với vị Thầy khả kính.
Cô chấp nhận sự phí phạm này, vì tình yêu của cô đối với Thầy,
hay đúng hơn, vì tình yêu quá lớn của Thầy đối với gia đình cô.
Cô xức dầu mà không so đo tính toán.
Lượng dầu quý giá được đổ ra chẳng là gì so với ân nghĩa của Thầy.
Nhưng có người thấy khó chịu, đó là Giuđa Ítcariốt, một môn đệ của Thầy.
Anh thấy tiếc vì lượng dầu thơm ấy thật đắt tiền,
có giá bằng lương gần một năm của một công nhân.
“Tại sao lại không bán dầu thơm ấy mà cho người nghèo?”
Thầy Giêsu bênh vực cho cô Maria khi nói lên ý nghĩa việc làm của cô.
Hành vi chuẩn bị mai táng phải được đặt trên hành vi bố thí giúp người nghèo.
Hơn nữa, “người nghèo thì lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”
Đức Giêsu ám chỉ cái chết sắp đến của mình.
Giuđa có vẻ không hiểu được thế nào là tình yêu.
Anh là người giữ tiền của cả nhóm, nhưng lại thường ăn cắp để dùng riêng. (c. 6).
Có thể đồng tiền đối với anh là quá lớn, lớn hơn cả tình yêu.
Anh phản bội Thầy mình cũng vì đồng tiền (Mt 26, 15).
Mong chúng ta biết dùng tiền bạc để diễn tả tình yêu như cô Maria.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ