Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
14/05 Ðược sai đi
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ðược sai đi.
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh – THÁNH MATTHIA, Tông Đồ. Lễ kính.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn hữu".
* Thánh Matthia là người “đã theo Chúa Giêsu, kể từ khi Người chịu phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người thăng thiên”.
Chính vì thế, thánh nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giuđa, để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai, như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại.
Lời Chúa: Ga 15, 9-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðược sai đi
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ thánh Mathia tông đồ. Tuy được gọi là tông đồ, nhưng thánh Mathia không thuộc nhóm Mười Hai Tông Ðồ nguyên thủy của Chúa Giêsu; ngài là người được chọn để thay thế cho kẻ phản bội là Giuđa Iscariốt.
Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.
Tông đồ theo nguyên ngữ có nghĩa là "được sai đi". Thánh Phêrô đã xác định "được sai đi để làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa Giêsu". Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chính là nền tảng của niềm tin, là chìa khóa mở ra chiếc cầu của ơn cứu độ giữa Thiên Chúa và con người, giữa thời gian vĩnh cửu. Chính nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh mà các tông đồ đã hoán cải các dân tộc, rửa tội cho kẻ tin và thực thi những phép lạ. Sau ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã làm chứng về sự phục sinh của Chúa khắp nơi, từ Palestina đến Hy Lạp, từ Rôma đến Ai Cập và Siri. Các ngài thiết lập các Giáo Hội, các cộng đoàn những kẻ tin Chúa Kitô Phục Sinh. Ðược cộng đoàn ủy thác cho sứ mệnh khi chọn làm tông đồ, thánh Mathia đã làm chứng cho sự phục sinh của Chúa đến cùng. Có nhiều truyền thuyết về nơi hoạt động và cách thế tử đạo của thánh Mathia. Tất cả đều hội tụ vào một điểm nổi bật là ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.
Ðức tin chúng ta đang có là đức tin được các thánh tông đồ truyền lại. Sợi dây chuyền nối kết chúng ta với các thánh tông đồ tuy vô hình nhưng vô cùng sống động. Với không biết bao nhiêu xương máu, niềm tin và sự phục sinh của Chúa Kitô mà các thánh tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng đã được truyền lại cho chúng ta. Ðây là gia sản quí giá nhất mà chúng ta đã được thụ hưởng, mà chúng ta cũng được mời gọi để chia sẻ với tất cả mọi người. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô gắn liền với cuộc tử nạn của Ngài. Có đi vào cõi chết, Chúa Giêsu mới sống lại. Tiến trình này đã trở thành qui luật cơ bản của niềm tin Kitô giáo. Các thánh tông đồ đã sống qua quy luật ấy cho đến cùng khi dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô. Các ngài xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tông đồ sau cùng: Matthia
Người ta cho con số 13 là số xui! Đức Ki-tô với 12 tông đồ làm thành số 13! Sau khi Chúa về trời, các ông đề cử chọn một tông đồ thay thế Giuđa cho đủ số 12 tông đồ. Trong nhóm 120 cầu nguyện chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chi có hai vị được chọn. Họ đã theo Đức Giê-su từ khi Chúa chịu phép rửa của Gioan tới khi Chúa lên trời. Thánh Matthia đã được chọn theo kiểu rút thăm của loài người, Ngài đã vinh dự là tông đồ sau cùng, để vào sổ chứng nhân của Đức Ki-tô.
Không phải anh em nhưng chính Thầy chọn anh em.
Sự chọn lựa này làm sáng tỏ Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trong suốt thời gian Chúa Giê-su còn trên đất Israel, Thánh Matthia đã thấy, đã nghe, đã biết giá trị cao cả của Đức Giê-su. Ngay từ giờ phút đầu Ngài đã có mặt ở đó, nhưng Đức Giê-su không chọn Ngài!.... Matthia đã chọn Đức Giê-su như mọi người, đã đáp lại lời kêu gọi của Đức Giê-su. Ngài đã yêu mến như 12 tông đồ; nhưng không được có địa vị gì. Ngài vẫn có sứ mệnh khá đặc biệt là thay thế Iscariốt, nhưng nhất là sứ mệnh tông đồ sau cùng!
Luôn luôn người ta thấy khó nhọc khi suy nghĩ về ơn kêu gọi: Giữ lời mời gọi của Chúa, khó lòng cự lại, dù ta được tự do trả lời. Đó là một mầu nhiệm. Thực ra Thiên Chúa đã biết rõ ta sẽ nói vâng hay không rồi! hai tình yêu đối diện với nhau rồi!
Vui mừng của tôi...
Thánh Matthia hình như là một trong những người tự hiến thân mà không đặt vấn đề, Ngài không xin gì, chỉ bằng lòng sống với nhau như là bạn thân là tốt rồi. Nhờ đó, Ngài thật sung sướng và vui mừng!
Một người đã yêu thì dù có thể bị khổ sở, cũng không sao. Họ yêu vì có tình yêu đang yêu. Họ cho mà như không cho gì, vì họ yêu trọn vẹn, vì họ tự hiến tất cả.
Thánh Matthia, vị tông đồ trung tín, tình nguyện tự hiến cho bạn thân! một thứ tình yêu quí hiếm luôn luôn, nhưng mãi mãi rất sống động.
J.M
SUY NIỆM 3: Chúa chọn ai
Suy niệm :
Cái chết của anh Giuđa chẳng những là một điều đáng tiếc,
mà còn để lại một khoảng trống trong nhóm Mười Hai.
Nhóm Mười Hai trở thành nhóm Mười Một (Mc 16, 14).
Giuđa đã được tham dự vào công việc phục vụ của nhóm.
Sự ra đi của anh khiến cho chức vụ này cần người bổ sung.
Trong cuộc gặp mặt giữa khoảng một trăm hai mươi anh em,
Phêrô, trưởng nhóm, đã muốn tìm người thay thế (cc. 15-20).
Theo Phêrô đâu là điều kiện để có thể được chọn vào nhóm Mười Hai?
Anh phải là người đã đồng hành với nhóm này
trong suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa họ.
Thời gian đi với nhóm được kể từ lúc ông Gioan làm phép rửa cho Chúa,
cho đến ngày Ngài được phục sinh và được đưa lên trời (c. 21).
Như thế để được nhập vào nhóm Mười Hai,
phải là người có kinh nghiệm sống đời sống của nhóm,
và kinh nghiệm sống với Thầy Giêsu trong suốt sứ vụ của Ngài.
Chỉ ai đã từng có kinh nghiệm đi với nhóm, đói no vất vả với nhóm,
người ấy mới được là thành viên mới của nhóm.
Chỉ ai đã đi sát với Thầy Giêsu, đã lắng nghe bao bài giảng của Thầy,
đã chứng kiến bao việc kỳ diệu Thầy thực hiện,
chỉ ai có kinh nghiệm về việc Thầy bị giết và được phục sinh,
người ấy mới có thể trở nên chứng nhân về sự phục sinh ấy
cùng với cả nhóm anh em (c. 22).
Có hai người được đề cử vì hội đủ điều kiện: Giôxếp và Mátthia.
Khi không biết chọn ai, thì cộng đoàn đã cầu nguyện.
Cầu nguyện cho thấy họ muốn được soi sáng để chọn ý Chúa.
“Xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để kế tục sứ vụ tông đồ” (c. 25).
Họ đã không chọn bằng cách bầu phiếu theo đa số,
nhưng bằng cách rút thăm để tìm người Thiên Chúa chọn.
Cách này là cách truyền thống để tìm ý Chúa trong Do thái giáo (Lv 16, 8).
Matthia đã trúng thăm và trở nên vị tông đồ thứ mười hai.
Khi mừng lễ thánh Matthia, chúng ta mừng lễ một vị tông đồ,
tuy không trực tiếp được Đức Giêsu gọi và chọn,
nhưng đã được chọn gián tiếp qua các tông đồ khác và cộng đoàn.
Thiên Chúa vẫn chọn qua lựa chọn của con người, mãi đến tận thế,
nên Giáo hội vẫn có người được gọi để phục vụ.
Xin cho mọi chọn lựa của chúng ta đều nhắm đến vinh danh Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 4: LỄ KÍNH THÁNH MATHIA TÔNG ĐỒ
(http://conggiao.info // Lm. Anthony Trung Thành)
Thánh Mathia là người con út trong số 12 Thánh Tông đồ. Ngài được chọn để thế chỗ cho Giuđa Iscariô, được 11 tông đồ và cộng đoàn sơ khai bầu chọn. Cuộc bầu chọn được sách công vụ ghi lại một cách cụ thể như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay (x. Cv 1,15-17.20-26).
1. Việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ
Cuộc bầu chọn có những bước quan trọng sau đây:
Bước thứ nhất, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói: "Vậy phải làm thế này : có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.
Bước thứ hai, cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.
Bước thứ ba, cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).
Bước thứ tư cũng là bước cuối cùng để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người. Chúng ta liên kết bước thứ tư với ba bước trên sẽ thấy rõ điều đó.
Bài học mà chúng ta rút ra hôm nay: Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).
2. Mọi người đều được Chúa mời gọi làm Tông Đồ
Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga 9,16). Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.
Để đón nhận, Giáo hội cũng đưa ra những điều kiện phù hợp với từng ơn gọi, nhất là ơn gọi làm linh mục và tu sĩ. Điều kiện chung của Giáo luật. Điều kiện riêng của các Giáo Phận hay của các dòng tu. Vì vậy, không phải ai cũng đủ điều kiện để làm tông đồ trong ơn gọi linh mục hay tu sĩ (con số này rất ít). Nhưng mọi người đều được mời gọi chu toàn bổn phận ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Đa số được mời gọi làm tông đồ trong ơn gọi hôn nhân: Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò ban hành giáo, giáo lý viên; Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò bác sỹ, nhà giáo, công nhân; Có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ ở gia đình, ở nhà thờ nhưng cũng có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ nơi chính mình là việc, nơi trường học, chợ búa…Trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, hãy luôn cố gắng toả sáng việc tông đồ để “sinh hoá trái” cho phù hợp với ơn gọi của mình: Hoa trái của đức công bằng; hoa trái của đức yêu thương, bác ái; hoa trái của sự tha thứ… Để làm việc được những việc đó, đồi hỏi người tông đồ phải hy sinh, thậm chí có khi phải chấp nhận hy sinh cả tính mạng của mình để làm chứng cho Chúa thì cũng phải sẵn sàng.
Sau khi được bầu chọn làm Tông đồ, Kinh Thánh không nói gì về Thánh Mathia. Nhưng chắc chắn Ngài đã hết lòng chu toàn bổn phận mà Giáo Hội trao phó, đó là bổn phận loan báo Tin Mừng và đặc biệt Ngài đã hy sinh tính mạng mình để làm chứng cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Xin Ngài luôn đồng hành và hướng dẫn công việc tông đồ của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, Thánh Mathia dầu được chọn sau hết nhưng Ngài đã chu toàn bổn phận như mười một Tông đồ khác, đó là hăng say loan báo Tin mừng và làm chứng cho Chúa bằng cái chết. Mọi người chúng con cũng được kêu gọi tiếp tục sứ điệp của Thánh Mathia. Xin cho chúng con, dù trong hoàn cảnh và địa vị nào cũng biết chu toàn bổn phận tông đồ để làm sáng danh Chúa. Amen.
SUY NIỆM 5: Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba”
(http://www.giaoducconggiaohdgm.org)
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại (Ga 15,16)
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba” được Chúa chọn để thay thế cho Giuđa Iscariốt. Theo sách Công vụ Tông Đồ, Thánh Matthia là môn đệ theo Chúa từ khi Người chịu phép rửa đến ngày Người lìa bỏ các Tông Đồ và được rước lên Trời (x. Cv 1, 21-22). Và sau khi các Tông Đồ cùng với cộng đoàn cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, Thánh Matthia được chọn vào nhóm Mười Hai. Thánh nhân trở thành vị Tông Đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo, sẵn sàng hy sinh làm chứng, chịu bách hại và tử đạo trong sứ vụ Loan Báo Tin Mừng.
Cuộc đời của Thánh Matthia Tông Đồ minh họa cho lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Chúa có một chương trình thật đặc biệt, một cách chọn gọi rất riêng để trao phó sứ mạng cao cả cho từng Tông Đồ và cho Thánh Matthia. Đáp lại, Thánh nhân đã dùng chính cuộc đời mình để đáp trả tiếng gọi yêu thương của Chúa. Mừng lễ thánh Mathia Tông Đồ, mỗi người được nhắc nhớ đến ơn gọi làm tông đồ và làm Kitô hữu của mình. Quả vậy, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Mỗi ngày, ta được Chúa mời gọi trở nên tông đồ của Người trong môi trường đang sống, trong vai trò và bậc sống của mình. Chúng ta chỉ có thể đáp trả ơn gọi của mình khi biết dùng Lời Chúa dệt nên cuộc đời mình mỗi ngày. Hãy sinh hoa kết trái trong bậc sống và hoàn cảnh của mình. Hãy làm sáng danh Chúa trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở, trên ruộng nương. Hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa gọi mỗi ngày. Và nhất là, xin Chúa giúp chúng con luôn sẵn sàng và vững vàng trở nên những chứng nhân của Chúa, như Thánh Matthia Tông Đồ, nhờ luôn kết hợp mật thiết với Chúa Kitô Phục Sinh. Amen
SUY NIỆM 6: NGƯỜI THỢ GIỜ THỨ MƯỜI MỘT
(hdmtggv.weebly.com)
+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống ai.
+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ ông là sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.
+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai nhưng ai cũng đặc biệt và duy nhất.
+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút.
BÀI HỌC:
+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong”.
+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của anh em làm với tôi thành sự lành”.
+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.
+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn gì trên cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?
Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho chúng con luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một. Amen.
SUY NIỆM 7: Thánh Matthia
(http://tinvui.org//Huệ Minh)
Cùng với Giáo Hội, hôm nay ta mừng kính Thánh Mathia tông đồ.
Sau khi Chúa về trời, các Tông Đồ đã tụ họp lại với nhau, cùng nhau cầu nguyện và đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Theo Tông Đồ Công Vụ (1, 15-26), các tông đồ đã đề nghị phải tìm một người để thay thế cho Giuđa. Đó phải là người đã theo Đức Kitô và làm môn đệ của Ngài.
Tuy Sách Thánh cho biết, người đưa ra ý kiến là thánh Phêrô, nhưng thánh nhân không đơn phương quyết định ai sẽ là người thay thế Giuđa. Thánh nhân đưa ý kiến, nhưng tông đồ đoàn và các môn đệ của Chúa cùng nhau tuyển chọn bằng cách đưa ra người xứng đáng để mọi người quyết định bằng rút thăm sau khi đã cầu nguyện. Trong phòng cầu nguyện lúc đó có tất cả là một trăm hai mươi người, và họ đã chọn ra hai vị có đủ điều kiện là Matthia và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết cả hai vị này đã từng ở với họ và theo Đức Kitô. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12 tông đồ của Chúa.
Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.
Khi nhìn lại lịch sử cũng như biến cố chọn Thánh Mathia làm tông đồ, ta thấy có những tiến trình như sau.
Ta thấy, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói: "Vậy phải làm thế này : có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.
Sau đó, ta thấy cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.
Và kế đến là việc cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).
Và sau cùng, ta thấy là tiến trình cuối để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người.
Với tất cả những điều nhìn lại ở trên, ta thấy ta học được bài học là :
Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).
Ắt hẳn, ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga 9,16).
Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.
Cùng với Giáo Hội, ta hân hoan đón nhận một vị Tông Đồ mới, ‘rón rén’ bước vào tông đồ đoàn với cả niềm khiêm tốn. Chúng ta không có thông tin nào khác về Ngài ngoại trừ thông tin về việc bầu chọn.
Trong khi chúng ta cầu nguyện với thánh Matthia và cùng Ngài hân hoan với sự chọn lựa của Thánh Thần, chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho các giám mục, linh mục, tu sĩ, cũng như Giuđa xưa, đã khước từ bổn phận mà Giáo Hội giao phó. Khiếm khuyết do bản tính con người…nhưng cũng do tính hời hợt trong việc phục vụ cộng đoàn kitô. Họ thiếu sự kết hiệp với Đức Giêsu mà hôm nay tin mừng Thánh Gioan nhắc đến.
Các thánh tông đồ xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.
Để sinh nhiều hoa trái, các tín hữu, cách đặc biệt những ai được Chúa tuyển chọn để làm người hướng đạo, cần phải mô phỏng cung cách sống của mình theo Đức Giêsu, Đấng đạt đến đỉnh cao tình yêu bằng cách chết cho người tội lỗi. Bổn phận của toàn thể Giáo Hội là cầu nguyện cho hàng linh mục, đặc biệt cho các linh mục của mình và giúp đỡ các ngài sống cuộc sống theo phong cách của những người tận hiến phục vụ, chứ không theo cách thức người đời. Đức Giêsu đă nhấn mạnh điều này: sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Người linh mục càng đầy tràn Thiên Chúa, càng sốt sắng cầu nguyện, kết hiệp với Chúa, thì càng có khả năng thông ban Đức Kitô cho anh em mình.
Mừng lễ thánh Mathia tông đồ hôm nay để nhắc nhớ cho mỗi người chúng ta về ơn gọi của mình. Chính Thiên Chúa đã yêu thương và ban cho chúng ta được làm con cái Ngài. Theo gương thánh nhân để lại, chúng ta hãy không ngừng cảm tạ ơn thánh Chúa ban, và hăng say làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
SUY NIỆM 8: Thánh Matthia
(http://nhathothaiha.net //Suy niệm Tin Mừng hằng ngày)
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 15,9-17)
Thánh Camilo Lellis (1550 -1614) đã lập một dòng để giúp các bệnh nhân. Dòng này có lời khấn buộc người tu sĩ phải hoàn toàn dấn thân cho việc cứu chữa các bệnh nhân, bất chấp bệnh truyền nhiễm, vì đó là tiếng gọi của lòng nhân lành Chúa.
Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời đó mời gọi chúng ta trở lại với nền tảng đích thực của tình yêu. Tình yêu chân thực không dừng lại ở chữ viết hay trên môi miệng, nhưng là một tình yêu năng động, có sức lan tỏa bằng hành động, như Đức Giêsu đã yêu. Đó là tình yêu hy sinh tự hiến cho con người (xc. Ga 15,13)
Thánh Mathia cũng được Chúa tuyển chọn và mời gọi vào trong nhóm mười một thay thế cho ông Giuđa để làm chứng cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã hăng say loan báo Tin Mừng. Ngài đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hiểu biết giá trị cao quý của đức ái, để con say mê thực hành, ngõ hầu được trở nên giống Chúa hơn. Amen.
SUY NIỆM 9: Thánh Matthias, Tông đồ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa nói: ”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả của anh em được lâu bền” (Ga 15, 16). Thánh Matthias là một trong trường hợp được chính cộng đoàn do Chúa Thánh Thần tác động, đã chọn Ngài thế chỗ Giuđa Iscariôt kẻ phản bội Chúa Giêsu.
CHÚA TUYỂN CHỌN MATTHIAS
Đọc công vụ tông đồ 1, 15-17. 20-26, ta sẽ nhận ra sự chọn lựa vô cùng quan trọng người thế chân Giuđa sau khi Chúa phục sinh về trời. Bài diễn từ của thánh Phêrô nêu lên những điểm nổi bật để tuyển chọn một người vào số 11 tông đồ. Sau khi giới thiệu hai người Giuse, tức Barsabba, biệt danh là công chính, và ông Matthias, Phêrô và mọi người có mặt cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó” (Cv 1, 25), và họ rút thăm, thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một tông đồ” (Cv 1, 26).
Nhóm 12 là con số đã được mạc khải. Dân Israen mới được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ. Xưa dân Israen được xây dựng trên 12 chi tộc của Giacóp. Thánh Matthias đã được tuyển chọn vào số 12 vì ông đủ tiêu chuẩn do Phêrô, thủ lãnh các tông đồ đề ra: đã theo Chúa Giêsu, từ khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giorđan đến khi Chúa về trời, để có thể làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu. Môn đệ phải sống với Chúa, nghe Chúa giảng dậy, chứng kiến các phép lạ của Chúa, sống thân tình với Chúa, và phải ăn uống với Chúa sau khi Chúa sống lại, nhờ đó, họ mới có thể mạnh dạn, can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh, dẫu có phải hy sinh cả tính mạng để minh chứng cho Thầy chí thánh. Thánh Matthias đã được tuyển chọn thế chân Giuđa, và Ngài đã hoàn thành xuất sắc nhất sứ mạng Chúa trao phó cho Ngài.
LỜI NGUYỆN CẦU
“Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Matthias để bổ sung nhóm mười hai tông đồ. Cúi xin Chúa nhận lời Người cầu thay nguyện giúp cho chúng con, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn”. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Matthias, tông đồ).
SUY NIỆM 10: Matthia, Tông đồ thứ 13
(http://gpbuichu.org// Nt. Scholastica Vũ Hiền, Nhóm Suy niệm BC)
Trong ngày lễ thánh Mat-thi-a Tông đồ chúng ta cùng suy chiêm về mầu nhiệm ơn gọi. Không ai trong chúng ta mới sinh ra đã biết trước sau này mình sẽ sống ơn gọi tu trì hay hôn nhân, nhưng Thiên Chúa thì biết và Ngài sẽ cắt đặt cũng như chọn gọi mỗi người theo ý Ngài muốn : “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15, 16). Ơn gọi của thánh Mat-thi-a là bằng chứng minh nhiên cho Lời nói trên.
Mat-thi-a đã đi theo Chúa Giêsu từ những ngày Người còn tại thế, nhưng ông lại không được Chúa gọi trực tiếp như các Tông đồ khác mà qua trung gian Giáo hội dưới quyền điều hành của thánh Phêrô. Tuy nhiên, thánh Phêrô không tự mình đưa ra quyết định tuyển chọn mà ký thác cho Thiên Chúa bằng hình thức bắt thăm. Sách Công vụ thuật lại sự kiện này như sau : “Họ đề cử hai người : ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mat-thi-a. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai” (Cv 1, 23-24). Sau khi cầu nguyện họ bốc thăm và Mat-thi-a đã trúng cử. Sự kiện này nói lên rằng, ơn gọi luôn là sự lựa chọn đến từ Thiên Chúa. Cộng đoàn hay Hội thánh chỉ là trung gian cầu nguyện để thánh ý Chúa được tỏ hiện : “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này”.
Các thánh Tông đồ và hôm nay là thánh Mat-thi-a không phải là những người đưa ra quyết định chọn Chúa Giêsu trước, nhưng các ông chỉ nghe và đáp lại sáng kiến của Người. Đức Giêsu đã tuyển chọn các ông, một số thì trực tiếp, số khác như Mat-thi-a gián tiếp qua việc bầu chọn mà Giáo Hội phó thác trong tay Chúa. Suy nghĩ về mầu nhiệm ơn gọi, thực sự không có lời giải đáp nào thỏa đáng cho thắc mắc, tại sao người này được tuyển chọn mà người kia thì không. Đơn giản chỉ vì Chúa gọi đến với Ngài những kẻ Người muốn. Vì thế, từ khi chúng ta bắt đầu xuất hiện trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người đã an bài cho chúng ta mọi ân huệ và điều kiện cần thiết để ta có thể nghe và có khả năng đáp lại lời mời gọi của Chúa qua Hội thánh trần gian.
Ơn gọi là một linh ân tuyệt vời của Đấng luôn khởi sự những điều thiện hảo cho con người. Và khi chọn gọi Ngài cũng nâng những kẻ được tuyển chọn lên hàng thân hữu chẳng vì lý do nào : “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Được trở nên bạn nghĩa thiết, được chia sẻ vinh quang cũng như kế hoạch nhiệm màu Chúa Giêsu đã nghe được từ nơi Chúa Cha. Đức Giêsu còn hứa sẽ yêu các môn đệ cũng bằng tình yêu Chúa Cha đã yêu thương Ngài, chỉ cần họ kiên trì ‘ở lại trong tình thương của Người’ và tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy (Ga 15, 9-11). Chỉ nơi Đức Giêsu các môn đệ mới tìm thấy tình thương thực sự. “Tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Lạy Chúa, giữa những giằng co phải lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để có thể kín múc sức mạnh từ Chúa và can đảm thực thi kế hoạch Ngài an bài cho chúng con. Nhờ lời thánh Mat-thi-a chuyển cầu, xin cho chúng con nên chứng nhân trung thành sẵn sàng làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
SUY NIỆM 11: Ngài đã chọn con
(Nhóm suy niệm BC)
“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Đó là niềm xác tín mà chúng ta đã nghe rất nhiều lần qua các bài hát trong các dịp lễ truyền chức hay khấn dòng, tưởng chừng chỉ áp dụng cho các tu sĩ, giáo sĩ mà thôi, nhưng quả thực câu Thánh Kinh này rất sâu sắc và sát với thực tế kinh nghiệm đời sống đức tin của mỗi người. Điều này càng đúng hơn nữa trong cuộc đời của thánh Mathia, người đã được chọn để thay thế chỗ khuyết của Giuđa, kẻ phản bội trong Nhóm Mười Hai.
“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Trước tiên, chúng ta cảm nhận được điều này khi chúng ta được thành hình trong dạ mẹ. Chúng ta chẳng có quyền được chọn lựa ai sẽ là bố mẹ của mình, nơi nào sẽ là sinh quán của mình và ngày nào sẽ là sinh nhật của mình. Tất cả điều đó Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta như một thụ tạo duy nhất, cá biệt của Ngài. Hơn nữa, Ngài còn đặt để chúng ta vào một gia đình, dòng họ, dân tộc với những truyền thống riêng biệt. Chính Ngài biết chúng ta trước. Rồi ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Ngài đặt để chúng ta trong môi trường của một gia đình có đức tin thuộc về một giáo xứ, một giáo phận, một Giáo Hội. Ngài đặt chúng ta vào môi trường đức tin, gieo vào tâm hồn chúng ta những hạt giống đức tin và chờ ngày nó được lớn lên. Chính Ngài đã chọn chúng ta trước.
Khi ta lớn lên biết phán đoán và biện phân, tự chúng ta nhận định, cảm nhận về tình thương của Ngài và đó là lúc chúng ta can đảm đáp lại tiếng Chúa kêu mời sống ơn gọi của mình trong bậc tu trì hay gia đình. Chúng ta có thái độ đáp trả cách này hay cách khác là bởi vì trước đó chúng ta đã cảm nhận được tình yêu của Ngài dành cho. Chính Ngài đã yêu chúng ta trước.
Khi ý thức rõ ràng chính Thiên Chúa đã yêu thương và chọn chúng ta trước khi chúng ta có thể nhận biết và yêu mến Ngài, chúng ta dám hoàn toàn tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa: Ngài đã chuẩn bị mọi thứ cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cả sau lẫn trước, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta cần, Ngài dẫn chúng ta đi qua những lối chúng ta không bao giờ nghĩ tới. Một nhạc sĩ nào đó đã diễn tả thật đẹp về đức tin của người theo Chúa trong bài hát Hãy Theo Thầy: “Đi theo Chúa chẳng cần biết ở đâu, chẳng cần biết làm gì. Dù ở đâu hay làm chi con vẫn đi trong đường Ngài”.
Xác tín đó cho chúng ta một thái độ khiêm tốn nhìn nhận những thành công mà chúng ta đạt được chẳng phải do sức riêng của chúng ta nhưng hoàn toàn là do ơn Chúa đó thôi. Tác giả Thánh Vịnh 127, 1 đã diễn tả thật sâu sắc: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Đồng thời, xác tín về tình yêu đi bước trước và ơn gọi luôn đến từ phía Thiên Chúa cũng cho ta thêm niềm hy vọng, lạc quan trong những đau khổ thất bại mà chúng ta gặp phải. Bởi vì, Thiên Chúa có thể biến những điều tưởng chừng như thất bại đó thành những điều hữu ích cho chúng ta. “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119, 71).
Lạy Chúa, con tin Ngài đã biết đến con, yêu thương con trước khi con được thành hình trong dạ mẹ, bàn tay Chúa vẫn luôn bao bọc chở che con trên mọi nẻo đường. Xin cho con luôn tín thác vào tình yêu thương Quan Phòng của Chúa, đồng thời cao rao và đáp lại tình yêu đi bước trước của Ngài trong suốt cuộc đời con. Amen.
SUY NIỆM 12: Thánh Matthias, Tông đồ
(Lm. Gioakim Dương Minh Thanh)
Hôm nay giáo Hội mừng lễ thánh Matthia tông đồ, có thể nói đây là vị tông đồ của giờ thứ 11, giờ mà mọi sự hầu như đã kết thúc đã hoàn tất thì Ngài được chọn làm tông đồ. Chúng ta cùng nhau nhìn qua chân dung của Ngài một chút để xem cuộc đời của vị tông đồ giờ thứ 11 nầy như thế nào? Có thể nói được rằng ngày mà Chúa Giêsu chịu phép rửa dưới sông Giodan thì Matthia đã có mặt, nhưng lúc bấy giờ ai chú ý đến ông. Dưới cặp mắt của thế gian và của Chúa Giêsu nữa hình như không có ai để ý tới ông vì ông không có gì nổi bật. Chỉ biết rằng từ ngày biết được Đức Giêsu thì ông đã là người đi theo Ngài một cách âm thầm, không đòi hỏi, không bon chen điều gì. Ngày Chúa Giêsu chọn 12 Tông đồ thì ông cũng không được chọn, nhưng ông không hề thất vọng. Ông là một người tín hữu như hàng triệu người tín hữu vô danh khác, chưa một lần hưởng được dấu hiệu tình yêu nơi Đức Giêsu như các Tông đồ khác. 3 năm ròng rã theo Chúa, không cầu xin một ân huệ nào chỉ biết đi theo và đi theo một cách kiên trì. Ngày Chúa chết một số môn đệ thất vọng bỏ về, nhưng ông vẫn kiên trì ở lại. Thế rồi khi Phêrô tuyên bố: Chúng tôi cần một người theo Chúa Giêsu từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa cho đến khi Chúa Giêsu vinh thăng để thay thế Giuđa Iscariot. Lúc bình bầu, người ta chú ý đến một người quan trọng tên là Giuse, ông là người nổi tiếng có biệt danh là người công chính, nhưng để cho có sự công bình, người ta cũng nhắc đến tên của một người khác tên là Matthia. Không ai biết gì về ông, ông là một người lu mờ, chỉ có điều người ta chú ý đến ông là ông đã kiên trì theo Chúa từ đầu. Và rồi giữa 2 người, Thiên Chúa đã chọn người có tên là Matthia tầm thường đó. Matthia là gì? Tục danh? Biệt hiệu? Con ai? Thân thế? Sự nghiệp? Không ai biết và cũng chẳng ai để ý, thế mà ông được Thiên Chúa chọn làm tông đồ. Ông chỉ nổi bật khi được chọn và rồi lại tiếp tục rơi vào quên lãng, người ta chỉ biết được Ngài là người thế vào con số 12 đã khuyết. Ngày Chúa Giêsu còn sống, Giuđa được thân mật, được an ủi, được chuyện trò với Chúa và khi cần một người để bị sỉ vả, bị bách hại, bị đánh đập, bị tù đày vì Đức ki tô thì đã có Thánh matthia thế vào. Matthia có lẽ là vị Tông đồ bạc bẽo nhất, một người âm thầm gần như vô tích sự, thế mà Thiên Chúa đã chọn Ngài, Thiên Chúa đã không chọn Yuse justo barsaba biệt danh là người công chính mà lại chọn Matthia. Vì thế mà Thánh Phao lô Tông đồ đã nói: Những gì thế gian cho là điên dại, là hèn kém thì Thiên Chúa đã chọn để biêu nhuốc hạng khôn ngoan.
Thiên Chúa đã chọn Matthia làm tông đồ, mặc dù Ngài không có gì đặc sắc và nổi bật lại là một niềm an ủi và là một sứ diệp mà Thiên Chúa nhắn gởi cho mỗi người chúng ta. Matthia không lừng danh nổi bật với nhiều chứng tích như Phêrô và Phaolô, nhưng Ngài chỉ có một điều là sống tin mừng với lòng kiên trung để hành trình theo Chúa suốt đời. Chúng ta được an ủi rất là nhiều vì qua vị Tông đồ thứ 11 nầy, vì Ngài xuất hiện hầu như mọi việc đã được hoàn tất. Chúa Giêsu nhập thể, chết, sống lại, siêu thăng và sau đó Ngài mới được chọn. Mặc dù muộn màng, là người đến sau nhưng lại được đặt ngang hàng với người đến trước, không phải đồng hàng trong cái hư danh là Tông đồ, nhưng đồng hàng dưới đôi mắt nhân lành của Thiên Chúa. Ngài được chọn làm tông đồ, chúng ta được an ủi vì được chọn trước, chọn sau không quan trọng nhưng quan trọng là có được chấp nhận vào làm vườn nho của Thiên Chúa không?.
Mừng kính Ngài hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi trở nên Tông đồ của Ngài ngay trong môi trường mình đang sống và trong khả năng hạn hẹp có thể của mình. Hãy trở thành những vị tông đồ âm thầm khiêm nhường như men lẫn trong bột để làm cho cuộc đời dậy men Đức Kitô. Mừng kính Ngài hôm nay, xin Ngài cầu bàu cùng Chúa nâng đỡ cho chúng ta đừng buồn tủi vì nhiều lúc đời mình như chiếc bóng âm thầm, như đi trong đêm đen, ngày nầy qua ngày khác không cảm thấy sự dịu ngọt của Thiên Chúa và còn có cảm giác là Thiên Chúa không để ý đến mình. Mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta có bằng chứng cụ thể để tin rằng, Thiên Chúa không xét đoán theo tài năng và công trạng của chúng ta, nhưng Ngài chỉ xét theo tình yêu của Ngài và quan trọng là lời đáp trả của mỗi người chúng ta. Xin cho mỗi người trong chúng ta biết hy vọng, tin tưởng và yêu thương trong ân tình của Thiên Chúa. Amen.
SUY NIỆM 13: Thánh Matthias, Tông đồ
Tài liệu duy nhất đáng kể về thánh Mathia là tường thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1,15-26). Theo điều kiện mà thánh Phêrô đưa ra để chọn người thế chân cho Giuđa trong nhóm 12. Chúng ta biết thánh Mathia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về trời” (c. 22)
Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ vâng lệnh Chúa trở về Giêrusalem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần đến. Họ gặp nhau lại khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự Giuda phản bội và kết luận:
- “Phải chọn lấy thêm một người để cùng chúng tôi làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa Giêsu”.
Cộng đoàn đã đề cử hai người xem ra xứng đáng nhất, với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt danh là Giustô và Matthia. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12.
Vị tân tông đồ, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại cho việc tông đồ, thánh Clementê, thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của thánh Matthia tập chú vào nhu cầu phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn lăng loàn. Đó là bài học quan trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra thực hành.
Nhiều sứ giả cho rằng thánh Matthia đi từ Giuđêa tới tận Ethiopie rao giảng và làm cho vô số người trở lại đạo. Sau ba mươi năm bị bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị chặt đầu dưới thời Nerô vào năm 63.
Theo dân Hy lạp, thánh Matthia đã mang Kitô giáo đến miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở Côlehis. Và xác Ngài được đưa về Giêrusalem. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả nơi thánh nhân đã làm nhiều phép lạ.
SUY NIỆM 14: CHÚA CHỌN NGƯỜI CHÚA MUỐN
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái…” (Ga 15,16)
Suy niệm: Thánh Mát-thi-a được chọn làm tông đồ muộn màng sau khi Đức Giê-su về trời, mà lại được chọn bằng cách rút thăm, nhưng dù vậy trong lời nguyện của “nghi lễ truyền chức” đó, cộng đoàn đã nài xin Thiên Chúa tuyển chọn người mà Ngài muốn: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ” (Cv 1,24-25). Quả vậy, không ai tự chọn cho mình làm tông đồ nếu như Chúa đã không chọn họ trước. Chúa chọn họ một cách hoàn toàn tự do và theo ý Ngài muốn (Mc 3,13). Điều Chúa mong muốn là những người Chúa chọn được sai đi và mang lại nhiều hoa trái và hoa trái đó tồn tại vững bền.
Mời Bạn: Ơn gọi của mỗi người, dù thuộc bậc giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều là ơn ban từ Đấng Khôn Ngoan và Quan Phòng. Chúa không gọi chúng ta vào một bậc sống nào đó để chúng ta sống một cách tầm thường vô nghĩa. Nếu chúng ta hài lòng đón nhận và nhiệt tâm phát triển ơn gọi mình, thì chúng ta đang làm cho ơn gọi của mình sinh hoa kết quả cho Chúa.
Chia sẻ: Bạn cảm nhận hạnh phúc thế nào về ơn gọi của bạn? Mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Ôn lại quá trình ơn gọi của mình và dâng lời tạ ơn Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ngài đi. Nay Chúa cũng chọn gọi chúng con và sai chúng con đi tiếp nối sứ mạng tông đồ. Xin ban cho chúng con niềm xác tín và lòng nhiệt thành để việc tông đồ chúng con sinh hoa kết quả cho Nước Chúa.
13/05 Chúa chiên lành
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa chiên lành.
Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là cửa chuồng chiên".
Lời Chúa: Ga 10, 1-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chúa chiên lành
Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
SUY NIỆM 2: Mục tử nhân lành
(TGM Ngô Quang Kiệt)
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
SUY NIỆM 3: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên
Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: “TA BIẾT CHÚNG VÀ CHÚNG THEO TA” (Ga 10, 1-10)
Chuyện kể rằng: một du khách đến Palestin, gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ.
Phóng tầm nhìn, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”.
Trong cuộc đời của Đức Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật... để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con được “biết” Chúa như chính Chúa đã “biết” chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Mục tử nhân lành
Suy niệm:
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestin.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Ðức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Ðức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Ðây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Ðức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Ðức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Ðiều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh biết bao đại chủng sinh,
các linh mục, và các tu sĩ nam nữ, các nhà thừa sai.
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 6: Tôi là cửa cho chiên
Suy niệm:
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới.
Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy,
Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.
Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa,
đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2).
Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh.
Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh.
Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra
và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên nghe tiếng của anh (c. 3).
nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8).
Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.
Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường,
chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn,
vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu.
Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói:
“Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa.
Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn.
Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.
Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9).
Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên,
biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc.
Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa nhận mình là Tấm Bánh,
vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho,
vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.
Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành,
vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa nhận mình là Cửa,
vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.
Chúa nhận mình là Con Đường,
vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa nhận mình là Ánh sáng,
vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa nhận mình là Sự Thật,
vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại,
vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình
đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con,
và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa.
Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga,
là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
12/05 Chủ Chăn Giêsu
- Viết bởi Ga 10, 27-30
Chủ Chăn Giêsu.
Chúa Nhật 4 PHỤC SINH năm C.
"Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".
Lời Chúa: Ga 10, 27-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.
Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH - Năm C 2019
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30
1. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”. Bài Tin Mừng mở đầu bằng câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật quan trọng. Để biết quan trọng như thế nào chúng ta thử nghe một câu truyện lịch sử thế giới sau đây:
Đại Văn Hào Lêon Tolstoi nổi tiếng nhất nước Nga đã viết một tác phẩm tựa đề: Chiến Tranh và Hòa Bình, ông mô tả lại những chiến công hiển hách của Đại Đế Napolêon, một thiên tài xưa nay chưa từng có (1769-1821). Hầu như ông đã làm bá chủ Châu Âu, quân của ông bách chiến bách thắng. Chỉ còn chiếm thủ đô nước Nga là xong. Ông kéo năm trăm nghìn quân hùng tướng mạnh, chỉ trong vòng một tháng đã đánh chiếm thủ đô Moscow. Thế là xong. Sĩ quan, binh sĩ của ông reo hò ăn mừng như chiếm được thiên đàng trần gian. Thế là quan quân tha hồ hôi của, vơ vét, thành đoàn quân cướp phá, ăn chơi, hãm hiếp, đánh lộn nhau, làm rối loạn thủ đô huy hoàng của Nga Xô. Napolêon đại đế trước kia ra lệnh như sấm sét, quan quân răm rắp nghe theo. Nay tại thủ đô chiến thắng này, ông ra lệnh không còn ai nghe nữa. Binh hùng tướng giỏi của ông trở thành những con ngựa bất kham, chỉ lo ăn chơi, cướp của, hãm hiếp. Cuối cùng, ông đành bó tay rút khỏi Moscow (Mascova), lật đật chạy trốn về Pháp với hơn ba mươi nghìn quân thân tàn ma dại, chết đói, đến nỗi ngựa cũng không còn để giết mà ăn.
Hơn nửa triệu con chiên hùng dũng tuân lệnh ông, đã bách chiến bách thắng khắp Châu Âu. Khi những con chiên đó lao đầu theo tiền của, ăn chơi, chúng không nghe lệnh ông nữa, chúng đã phải chết rữa xác rải rác trên đường chạy trốn. Nếu chúng biết nghe tiếng ông, thì vinh quang biết mấy!
Khi Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”, chắc hẳn Người đã nhìn thấy hàng triệu, hàng tỷ những con chiên của Người đã biết lắng nghe tiếng Người, như Bài đọc II đã kể: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Họ thuộc mọi nước, mọi dân mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ, mình mặc áo trắng, tay cầm lá thiên tuế… họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa”. Còn chúng ta có muốn được vào số những con chiên vinh phúc đó không? Nếu muốn thì phải “chiên tôi thì nghe tiếng tôi”
Thế nào là chiên biết nghe tiếng Chúa Giêsu? Chúng ta có nhiều lần được thấy những bầy chiên trên những cánh đồng cỏ xanh tươi qua màn ảnh nhỏ. Nhưng đoàn chiên của Chúa không phải là những bầy chiên thụ động như vậy. Nếu chúng ta nghĩ thế, thì thật sai lầm chua chát!
Hình ảnh trong Kinh thánh trái với ý nghĩa sai lầm đó. Ba hành động được Đức Giêsu đề cao ở đoạn Phúc âm này về con chiên là ba tư cách đầy nhân bản, đó là lắng nghe, biết chí tình và đi theo hết mình.
1- Lắng nghe: Là tư cách chăm chú quan tâm đến người nói, tôn trọng người nói, tỏ ra mình có một mối tương quan thân tình, thân hữu với người nói. Lắng nghe là thiết yếu trong tương giao sống động giữa người với người. Lắng nghe để thông hiểu, thông cảm và hiệp thông với nhau. Người ta nói: Người thông minh là người có tai thông, mắt sáng. Thiên Chúa dựng nên con người có hai tai, hai mắt, một miệng, như vậy là nói ít, nghe nhiều, nhìn cho kỹ. Trong thực tế, khi thảo luận, chúng ta lại “cãi nhau như mổ bò”; “ông nói gà, bà nói vịt”. Những tệ hại ấy xẩy ra từ thời xây tháp Babel đến giờ. Mỗi người nói một thứ tiếng, chẳng ai hiểu ai, họ chia rẽ nhau, chỉ vì kiêu ngạo đòi lên cao tới trời (St. 11). Cho nên các ngôn sứ không ngừng kêu gọi: “Hãy lắng nghe, hỡi Israel!” (Ds. 6, 4; Amos 3, 1; Giêrêmia 7, 2; Tv. 24, 3-9) và rất nhiều lần Đức Giêsu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Lời Chúa thật nhẹ nhàng êm ái nhắc bảo chúng ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Đức Chúa Cha cũng kêu gọi: “Đây là Con Ta rất yêu dấu. Hãy nghe lời Người” (Mt. 17, 5). Những lời đó đang rót vào tai chúng ta để chúng ta được đức tin như Thánh Phaolô nói: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm. 10, 17) hay: “Đức tin nhờ nghe: Fides ex auditu” (Ga. 3, 2)
2- Biết chí tình: “Chiên Tôi biết Tôi”. Biết về Đức Giêsu do học hỏi lời Chúa và giáo lý thì chưa đủ. Biết ở đây là biết bằng con tim, bằng tình yêu mến chí thiết bằng lòng ái mộ nồng nàn, bằng những cảm nhận trực giác sâu đậm, bằng những rung động bắt đúng tầng số của trái tim Chúa bốc lửa rực sáng vì yêu con chiên và chết đi vì con chiên. Trái tim con chiên cũng phải bốc lửa bừng bừng yêu mến Chúa chiên nhân lành như vậy, để cả hai nên một như “Tôi và Chúa Cha là một”. Sự biết chí tình chí thiết này thật sự đã được thể hiện với hai Thánh nữ Catarina và Têrêxa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, và trở thành Thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Têrêxa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài đồng, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong làm Tiến sĩ Hột Thánh tháng 08/1997 trong Đại Hội giới trẻ thế giới tại Paris.
3- Chúng theo Tôi: Theo Tôi như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy, như Mathêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa, như Madalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ tiến theo nếp sống mới, một cuộc tái sinh vào đời sống mới, “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi” … và chắc hơn nữa: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Như vậy, chúng ta được giữ gìn trong hai đôi tay: Một bên là Cha, một bên là mẹ: Được dẫn dắt trong bình an và bảo đảm tuyệt đối. Thật là một hình ảnh tuyệt vời!
Lạy Chúa, xin cho chúng con được sống trong lòng bàn tay Chúa, bàn tay đã giơ ra cứu chữa bao nhiêu bệnh nhân, bàn tay đã giơ ra cứu vớt Phêrô khỏi chìm trong lòng biển, bàn tay đã cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”, bàn tay đã giang ra cho quân dữ đóng đinh. Chính bàn tay đó đang gìn giữ chúng con thật chắc chắn và không ai cướp được chúng con ra khỏi tay Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa Giêsu và Chúa Cha muôn đời.
2. Chúa Chiên Lành
Quan đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đặc tính của người mục tử tốt lành là biết các con chiên của mình. Và theo ngôn từ của Kinh Thánh, biết đồng nghĩa với yêu. Khi thực sự yêu thì người mục tử sống trọn một đặc tính khác cũng được Chúa Giêsu nêu lên, đó là hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.
Trải qua dòng thời gian, có biết bao nhiêu người đã quảng đại đáp trả tiếng gọi của Chúa là làm cho hình ảnh và sứ mạng của người mục tử tốt lành được thực hiện qua chính cuộc sống dấn thân và phục vụ của họ.
Chẳng hạm một Vianney với thân hình còm cõi, đã dành trọn thời giờ để giao hoà các tội nhân với Chúa nơi toà giải tội. Một Maximilien Kolbe đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã thời đệ nhị thế chiến. Một cha Phêrô, người sáng lập ra cộng đoàn Emmau, nhằm hoạt động âm thầm nhưng hữu hiệu để xoa dịu những vết thương đau đớn của những kẻ nghèo túng.
Ngày nay tại một vài giáo phận miền Bắc, chỉ còn vài ba linh mục già nua. Vì tình trạng thiếu hụt linh mục trầm trọng, các ngài chưa thể và chưa đành đi nghỉ hưu. Và vì không còn đủ sức để đi đứng, nên phải nằm trên cáng cho giáo dân khiêng đi cử hành các bí tích và dâng thánh lễ từ làng này sang làng kia, cách nhau mấy chục cây số.
Ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn có hàng ngàn những mẫu gương của biết bao nhiêu người đã dâng hiến toàn thân để sống cho lý tưởng hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Chính vì thế trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện tha thiết cùng với những hy sinh hãm mình để xin Thiên Chúa ban thêm sức mạnh cho các linh mục và tu sĩ, để họ trở thành những vị mục tử tốt lành theo mẫu gương của Đức Kitô.
Đồng thời chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện để nhiều thanh niên nam nữ quảng đại đáp trả lời Chúa mời gọi để bước vào cuộc sống dâng hiến. Và riêng mỗi người chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa và bước theo Người, bằng cách thực thi những điều Người truyền dạy, để nhờ đó, chúng ta xứng đáng là những con chiên bước đi dưới sự dẫn dắt của vị mục tử tốt lành là chính Đức Kitô.
3. Chúa Chiên Lành.
Vào năm 1943, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý. Và thế là viên chỉ huy Đức Quốc Xã liền ra lệnh bắt 50 người thế giá nhất của thành phố đem đi xử bắn để dạy cho dân thành một bài học.
Đức Cha chánh và Đức Cha phó đã cố gắng can thiệp nhưng không hiệu quả gì. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Thế rồi giây phút đen tối nhất đã đến. Tiếng còi hụ vang lên báo hiệu nhắm súng. Đức Cha chánh xin viên chỉ huy một đặc ân cuối cùng là được ôm hôn từng người sắp bị hành quyết. Ngài tìm cơ hội cho các nạn nhân được xưng tội để giao hoà với Chúa. May mắn thay, lời thỉnh cầu này được chấp nhận.
Nhưng cũng thật lạ lùng, bởi vì sau đó hai vị giám mục đã không trở về chỗ cũ, trái lại các ngài đã đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Cha chánh đã lên tiếng nói với viên chỉ huy: Không phải chỉ có 50 người, nhưng tất cả là 52 người chúng tôi. Ông còn quyết định bắn chúng tôi, thì xin hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.
Vừa dứt lời, bỗng từ bầu khí nặng nề của chết chóc vang lên tiếng reo hò, bởi vì các khẩu súng đang nhắm bắn đều hạ xuống. Thế là cả chủ chăn lẫn đoàn chiên đều thoát khỏi những viên đạn của tự thần. Hôm đó từ pháp trường ra về, mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng hát lời thánh vịnh: Khi Chúa dẫn từ nhân Sion trở về, ta tưởng như giấc mơ...
Hình ảnh hai vị giám mục đứng giữa những người bị xử bắn làm cho chúng ta nhớ tới Đức Kitô, vị mục tử nhân lành của chúng ta. Thực vậy, Ngài là Đấng thánh thiện và quyền năng, Ngài đã xuống thế làm người để trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hơn htế nữa, Ngài còn đồng hoá mình với chúng ta, là những kẻ tội lỗi. Không những thế, Ngài còn hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi, như lời thánh Phaolô viết: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi. Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn chúng ta thì sao?
Là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta cần phải lắng nghe và bước theo sự dẫn dắt của vị mục tử như lời Ngài đã phán: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.
Hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta thực sự là những con chiên trong đoàn chiên của vị mục tử nhân lành là chính Đức Kitô.
4. Mục tử.
Thế giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta, những người già, dường như choáng váng, không theo nổi. Chúng ta thương tiếc cho một dĩ vãng vàng son, ở đó trật tự và tương lai được bảo đảm.
Thế nhưng, thương tiếc mà làm chi, vì cái dĩ vãng đâu còn nữa. Không có gì là bền vững vì cuộc sống không ngừng đổi thay. Cái hôm nay tồn tại, thì ngay mãi sẽ bị thay thế, từ những kiểu thời trang cho đến những hiệp ước, từ những loại xe cộ cho đến những thữ vữ khí, từ những lập trường cho đến những phương thuốc trị liệu… Thế giới như quay cuồng, đầy những phân rẽ và bất đồng trong dư luận, trong đảng phái, cũng như trong chính tâm hồn mình.
Con người như chao đảo, ngả bên này, nghiêng bên kia. Nghe truyền thanh, xem truyền hình, đọc báo chí, chúng ta cảm thấy như người đang nói với chúng ta là có lý. Nhưng cái có lý ấy chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì khi kẻ đối lập với ông ta lên tiếng, chúng ta lại cảm thấy phần có lý ấy lại chuyển sang phe đối lập. Vì thế, chúng ta khó có thể tìm thấy chân lý, khó có thể nhận ra sự thật.
Giữa những cái trái ngược nhau như vậy, lời Chúa hôm nay vang lên, như muốn xác định cho chúng ta một lập trường dứt khoát và chắc chắn: Ta là mục tử nhân lành. Lời xác quyết này thắp lên trong chúng ta một tia sáng hy vọng, đồng thời tỏ cho chúng ta thấy một góc cạnh mới về Thiên Chúa.
Ta biết các chiên Ta. Phải, Ngài biết chúng ta không như viên kỹ sư biết một chiếc máy. Ngài biết chúng ta không như thầy cô giáo biết những người học trò. Trái lại, Ngài biết chúng ta như một người bạn biết một người bạn, và sẵn sàng hy sinh cho nhau: Ta hiến mạng sống mình đàn chiên.
Hình ảnh người mục tử nhân lành phải là hình ảnh của một người chủ chăn luôn canh giữ chuồng chiên, để đoàn chiên được an toàn. Người mục tử ấy luôn sống giữa bày chiên và luôn chăm sóc đến các con chiên, sẵn sàng chiến đấu chống lại sói dữ, không quản ngại vất vả, để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc.
Trái tim của con người thời nay dường như đã trở nên chai đá và băng giá. Họ ít lưu tâm đến những người chung quanh. Trong vũ trụ bao la này, con người chỉ là một số không. Chẳng ai hỏi han đến chúng ta và khi chúng ta lên tiêng nói, thì cũng chẳng ai buồn nghe. Chỉ mình Đức Ki tô, vị mục tử nhân lành, luôn tồn tại giữa những đổi thay. Ngài biết chúng ta và hằng chăm sóc cho chúng ta.
Vào những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã trải qua những năm tháng dài bị bắt bớ và cấm cách. Các tín hữu luôn bị đe doạ và gặp phải muôn vàn khó khăn, thế nhưng dưới những hang toại đạo, hình ảnh được vẽ nhiều nhất trên những bức tường, đó là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chính hình ảnh này đã đem lại cho họ niềm ai ủi và khích lệ.
Con người thời nay đặt niềm tin tưởng của mình vào những bài diễn văn của các chính khách, nhưng rồi đến một lúc nào đó, họ nhận ra những trò bịp bợm trong lãnh vực chính trị và những mánh khoé trong phạm vi tuyên truyền, để mà bóp méo sự thật. Bấy giờ, họ cay đắng cảm thấy mình bị lừa gạt.
Còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung thành, không phải chỉ nói suông, không phải chỉ hứa cuội, mà Ngài còn thực hiện, còn hành động. Vì thế, trải qua hơn hai ngàn năm, hình ảnh người mục tử nhân lành vẫn còn là một hình ảnh sống động và thời sự, bời vì Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta và đã chết thay cho chúng ta trên thập giá.
Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, để rồi bản thân và cuộc đời chúng ta sẽ được bình an dưới sự dẫn dắt và chăm sóc của Ngài.
5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Mục tử nhân lành
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành: Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
II. Gợi ý sám hối
Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
Chúa Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
Chúa Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 13,14.43-52)
Việc truyền giáo của Phaolô và Barnaba tại Antiôkhia miền Pixiđia:
- Theo thói quen, Phaolô rao giảng Tin Mừng cho người Do Thái trước tiên.
- Nhưng vì họ từ chối, nên Phaolô quay sang rao giảng cho dân ngoại.
- Dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin Mừng và tôn vinh Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 99)
Câu quan trọng nhất trong Tv này, và cũng là câu được dùng làp câu đáp, là: "Chúng ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt".
3. Tin Mừng (Ga 10,27-30)
Chúa Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài là mục tử: "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất"
4. Bài đọc II (Kh 7,9.14-17)
Thị kiến của Gioan tông đồ về dân thánh Chúa:
- Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ
- Họ đứng trước ngai Con Chiên
- Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát (Ga 10,27-30)
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ vàø Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: "Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc". Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trát tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phao lô viết: "Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô" (Rm 10,17).
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Đức Ki tô đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha" (Ga 10,29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa!
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ để chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con mà thôi. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục
Trong một quyển chuyện đề tựa "Quyền lực và vinh quang", nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở Nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại thì cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần tới ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng... tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắn, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:
Thứ nhất: linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình Thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thôn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc " Này là Mình Ta" thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói "Ta tha tội cho con" thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân..
Hôm nay là ngày Giáo hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài". Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các em dự tư, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng Chúa đã nói "Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được rỗi".
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.
* 3. Bài giảng của Thánh Cyrillô thành Alexandria (+ 444)
Dấu hiệu phân biệt ai là con chiên của Đức Kitô, ấy là thái độ sẵn sàng lắng nghe và vâng phục, trong khi dấu hiệu cho biết những con chiên lạ là sự cứng đầu.
"Lắng nghe" là chấp nhận điều được nói. Những người "lắng nghe" như thế thì "được Thiên Chúa biết", nghĩa là kết hợp với Thiên Chúa.
Thực ra chẳng ai mà Thiên Chúa không biết. Vì thế khi Đức Kitô nói "Ta biết các chiên Ta" thì có nghĩa là "Ta sẽ đón nhận chúng và cho chúng kết hợp với Ta bằng một sự hợp nhất huyền nhiệm và trường tồn".
Đức Kitô còn nói: "Các chiên của Ta thì đi theo Ta". Thực vậy, nhờ ơn thánh, các tín hữu đi theo những bước chân của Đức Kitô. Họ không tuân giữ những quy định của Lề luật, vì thực ra đó chỉ là hình bóng. Đúng ra là họ đi theo những giới răn của Đức Kitô và nhờ đó vươn mình lên tới tầm cao của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô lên trời, họ cũng được lên theo.
"Ta ban cho chúng sự sống đời đời": đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu "sự sống" này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Ngài, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Ngài, như lời Ngài nói: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54)
* 4. Thuộc về đàn chiên của Chúa
Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao?
Thứ nhất là phải tin vào Ngài: chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.
Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta". Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.
Thứ ba là đi theo Ngài: "Chiên của Ta đi theo Ta". Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.
Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời: "Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong".
Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài. (FM)
* 5. "Ta biết chiên của Ta"
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói "Ta biết chiên của Ta". Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên; có khi biết như một người quen; có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn Do Thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: "Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không?"
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
"Biết" là điều rất quan trọng đối với những người-chăm-sóc (carers). Những người-chăm-sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái "biết" phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
Trong một cuộc họp, có hai người được mời đọc Thánh Vịnh 22 "Chúa là mục tử của tôi".
Người thứ nhất là một diễn viên nhà nghề nhưng không có đức tin. Anh phát âm rất chuẩn, giọng rõ ràng, ngắt câu hợp ý. Nghe anh đọc xong ai cũng vỗ tay.
Người thứ hai là một tín hữu xác tín về đức tin. Anh phát âm không chuẩn lắm, anh còn đọc hơi nhanh nữa. Nhưng giọng anh rất tình cảm. Ai nghe anh đọc cũng đều xúc động.
Khi hai người đọc xong, người diễn viên đến bắt tay người tín hữu và khen: "Xin chúc mừng. Anh đã đọc rất hay". Người tín hữu đáp: "Không, anh mới là người đọc hay, còn tôi thì tệ quá."
Người diễn viên phân tích: "Chắc chắn là anh đọc hay hơn tôi mà. Một điều rất hiển nhiên là: Tôi thì biết Thánh Vịnh 22, còn anh thì biết Người Mục Tử."
Chúng ta hãy để ý: Tác giả Thánh vịnh 22 không nói "Chúa là một mục tử", cũng không nói "Chúa là vị Mục tử", nhưng nói "Chúa là Mục Tử của tôi". Người tín hữu kia đã đọc Thánh vịnh 22 bằng cảm nghiệm sống của mình, cho nên anh đã làm cho người khác xúc động.
* 7. Ơn gọi yêu thương
Vết thương sâu nhất là vết thương lòng:
đó là cảm giác rằng mình không được yêu,
rằng mình chẳng quý giá gì đối với ai cả.
Ngày nay nhiều người bị thương trong lòng.
Mỗi người chúng ta đều có thể chữa lành vết thương cho họ.
Chúng ta có tay để làm
có trí để hiểu
và nhất là có tim để yêu thương.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày ơn gọi.
Mà mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta cùng chúc tụng Người và dâng lời cầu xin:
1. Chúa đã đón nhận niềm tin yêu của thánh Phêrô / và trao cho người nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Thánh Cha đương kim / cũng được niềm tin yêu như vậy.
2. Chúa Giêsu là Vị Mục tử nhân hậu / đã chết để cho đoàn chiên được sống dồi dào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / cũng sẵn lòng hy sinh tất cả cho đoàn chiên Chúa đã trao ban.
3. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho Giáo hội Việt nam có được nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ / để đoàn chiên Chúa không bao giờ thiếu người chăm sóc dưỡng nuôi.
4. Việc đào tạo linh mục tương lai cho các giáo phận / đòi hỏi phải đầu tư lâu dài và tốn kém / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này / bằng lời cầu nguyện và bằng việc quảng đại giúp đỡ Chủng Viện.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chết để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con cũng biết đền đáp phần nào tình thương của Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Kinh tiền tụng: nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.
- Trước kinh Lạy Cha: Hiện giờ chúng ta rất giống với một đoàn chiên đang quy tụ quanh chủ chiên là Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
VII. Giải tán
Anh chị em đã biết Chúa Giêsu là mục tử dẫn dắt đời mình, cho dù có khi xem ra Ngài đang dẫn chúng ta qua thung lũng tối tăm, nhưng điếm tới cuối cùng sẽ là đồng cỏ xanh tươi, suối ngọt và bóng mát. Vậy anh chị em hãy ra về trong niềm vui mừng phó thác trọn vẹn cho Chúa Giêsu dẫn dắt.
6. Chúa chiên lành
Sự ồn hối hả, ồn ào, náo nhiệt... của thế giới ngày nay đã làm cho con người khó nhận ra tiếng nói của nhau. Người Kitô hữu chúng ta sẽ không dễ nhận ra tiếng Chúa nếu chúng ta cứ mãi chìm sâu trong vòng xoáy của cuộc đời. Vậy làm thế nào để chúng ta nhận ra tiếng Chúa nói với ta trong đời sống hằng ngày?
Nội dung Chúa nhật hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ luôn biết mở rộng lòng mình để lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi sống đời dâng hiến. Đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các vị mục tử trong Giáo hội luôn sống thánh thiện và nhiệt thành với sứ vụ của mình.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...". Vâng! Chúng ta được gọi là Kitô hữu, là đoàn chiên của Chúa khi chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu thì chúng ta phải lắng nghe lời dạy dỗ của Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành. Chúng ta sẽ được nghe tiếng Chúa qua:
+ Thánh lễ: Trong Thánh lễ với các bài đọc Kinh Thánh và lời giảng huấn của linh mục, chúng ta sẽ dễ dàng được nghe lời Chúa dạy.
+ Tha nhân: Chúa kêu gọi chúng ta sống bác ái khi Chúa gởi những người nghèo đói, bệnh tật... đến với chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy tha thứ, hãy yêu thương những người thường chống đối, chỉ trích, ghen ghét chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy an ủi, mang niềm vui đến những người đang buồn chán, thất vọng...
+ Lương tâm: Chúa kêu gọi chúng ta hãy sống theo lương tâm ngay thẳng: đừng vì lợi lộc cá nhân mà gian dối trong mọi công việc mình đang làm để rồi nhiều người khác phảin chịu đau đớn do những việc xấu chúng ta đã gây ra.
* Câu chuyện về 2 thanh niên thôn quê và thành thị...
Kết luận
Tóm lại, qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa mời gọi mọi người chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn hướng về Chúa vì khi hướng về Chúa thì chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa được.
Đặc biệt, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho con em chúng ta và những người trẻ trong Giáo hội luôn biết mở rộng lòng mình đáp lại lời mời gọi của Chúa, làm môn đệ của Chúa trong đời sống tu trì.
Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho Cha sở chúng ta luôn được khỏe mạnh để chăm lo cho họ đạo ngày một thăng tiến hơn. Amen.
7. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
***
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô”.
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa để được những gì? Đức Kitô đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con mà thôi. Amen.
8. Đấng Chăn Chiên Lành – Cố Lm Hồng Phúc
Trong cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Gioan-Phaolô II dành cho Hội đường Do-thái tại Lamã, Đức Thánh Cha đã gọi các thành viên Do-thái giáo là “những anh em cổ xưa của chúng tôi”.
Thật vậy, Đạo thánh chúng ta xuất thân từ Do-thái giáo như trong Bài đọc I, Sách Công vụ Tông đồ kể lại. Tại Hội đường Antiochia, Phaolô và Banabê tuyên bố: “Chúng tôi phải giảng lời Thiên Chúa cho qúi vị trước tiên, nhưng vì qúi vị từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”. Phía dân ngoại là đạo mới, là Giáo hội, là chúng ta hết thảy. Đạo mới thoạt xuất từ đạo cũ, đạo Do-thái, “những anh em cỗ xưa của chúng ta”.
Để ám chỉ Đạo mới, Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh. Nào là hình ảnh chiếc lưới không rách. Nào là tòa nhà xây trên tảng đá kiên cố, mưa sa bão táp vẫn không lay chuyển. Nào là cánh đồng trong đó có lúa tốt mọc lên bên cạnh cỏ lùng (Mt 13, 24-30). Nào là một đoàn chiên dưới sự hướng dẫn của một chủ chiên (Gio 10, 1-10).
Đây là hình ảnh mà Chúa dùng rất nhiều lần.
Chúa phán: “Ta là Đấng chăn chiên nhân lành” (Gio 10, 11).
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta, Ta cho chúng sự sống đời đời”. Chúa khẳng định và nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm trên cả Dân Chúa. Ngài cầm trong tay vận mệnh của mọi người và đưa họ đến cùng đích. Từ đầu trong Giáo hội, hình ảnh Chúa Chiên lành là biểu tượng của Chúa được khắc ghi trên bờ tường hang Toại Đạo, được phổ biến trong kinh nguyện.
Chúa là Đấng Chăn Chiên thì chúng ta, đoàn chiên của Chúa phải làm gì? Bằng một câu vắn vỏi, Chúa mô tả bổn phận chính yếu.
Chúa phán: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta”. BIẾT, NGHE và THEO là ba động từ nói lên ba việc cần thiết để trở nên chiên của Chúa.
BIẾT là phải tiềm hiểu, học hỏi, suy niệm, vô tri bất mộ.
NGHE là lắng tai đón nhận lời Chúa qua Thánh Kinh, lời giảng dạy của Giáo hội, ơn soi sáng.
THEO là thực thi, là sống Đạo, là đem Đạo vào đời.
Tóm tắt, là phải có một cuộc “trở lại”.
Năm 496, tại Thành Reims, Thánh Giám mục Remi long trọng ban phép Thanh tẩy cho Vua Clovis. Thánh Giám mục tuyên bố: “Ngươi hãy cúi đầu xuống. Hãy thờ những gì xưa ngươi đã đốt và nay hãy đốt những gì ngươi đã thờ”, rồi ban phép Rửa tội cho nhà Vua, xức dầu theo hình Thánh Giá. 3000 binh sĩ của Clovis cũng được Thanh tẩy. Nước Pháp Công giáo đã khai sinh.
Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử, xin dẫn con lần theo chính lộ, con không sợ lạc hướng.
Có Chúa với con cùng tiến bước, đi giữa suối mát cỏ xanh, con không thiếu gì.
9. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta.
Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một ông nhà nghèo, một ông nhà giàu và người thứ ba là kẻ bất lương đều chết trong một giờ và sau đó phải ra tòa Chúa phán xét. Thiên Chúa hỏi ông nhà nghèo: - Vì lý do gì mà ngươi không lo tìm hiểu và tuân giữ Lời Chúa ghi trong sách Koran.
Anh nhà nghèo gãi tai và thưa: - Dạ! Lạy Chúa, vì con nghèo quá, nên phải đầu tắt mặt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn gì cả.
Chúa trả lời: - Ông Hellen đã nghèo hơn ngươi rất nhiều thế mà có được chút tiền là ông để dành một nửa để học luật Chúa và khi nào không có tiền trả lệ phí thì ông nhịn đói, đứng ngoài trường học nghe lóm Rabbi Eliaza giảng giải Lời Chúa.
Và Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu: - Còn ngươi. Tại sao con lại không tìm học hỏi và tuân giữ luật Chúa?
Ông nhà giàu thưa: - Dạ, tại vì con phải lo công việc quản trị của cải, tiền bạc và các dịch vụ làm ăn. Bận bịu tíu tít, còn giờ đâu mà học hỏi sự gì?
Thiên Chúa phán: - Ngươi đâu có giàu có bằng thầy Rabbi Eliaza, ông ấy có một trăm chiếc tàu buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa và rất bận rộn với công việc kinh doanh, nhưng Rabbi Eliaza vẫn tìm ra giờ để học hỏi luật Chúa.
Sau cùng, Chúa hỏi tên bất lương: - Còn ngươi, kẻ gian ác. Tại sao ngươi đã không học hỏi luật Chúa?
Tên bất lương tìm cách chữa lỗi: - Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá, nên không còn nghĩ đến gì khác nữa.
Thiên Chúa bảo hắn: - Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như Giuse khi sống bên Ai Cập xưa kia. Ngày đêm bị vợ quan tổng quản Putipha níu kéo, rủ rê cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng.
Thế là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên Chúa và chôn vùi trong nơi khổ ải của âm ty, âm phủ.
Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận học hỏi, lắng nghe và tuần giữ Lời Chúa. Đây là một bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng. Vì nó làm cho phần rỗi chúng ta được bảo đảm.
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không đề nghị với con người điều gì khác ngoài bổn phận lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Đây là chìa khóa thần học giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu Kitô, Người Mục Tử nhân lành như thánh Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên Chúa. Chương tình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin Mừng cứu độ. Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.
Hình ảnh người mục tử nhân lành diễn tả sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể giật mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài.
Trình thuật Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành gồm một số động từ diễn tả các bổn phận của chủ chăn và bổn phận của tín hữu. Nếu viết chúng thành hai cột song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả bổn phận của chủ chăn. Đó là nói, hiểu biết, hiến mạng sống và gìn giữ. Trong khi đó chỉ có hai động từ diễn tả bổn phận của tín hữu là lắng nghe và đi theo.
Bổn phận đầu tiên của vị chủ chăn là nói, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ, kêu mời, đề nghị, góp ý kiến. Đây là động từ bao gồm tất cả mọi sinh hoạt rao giảng của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức các khóa tĩnh tâm, huấn luyện, đào tạo mọi thành phần nhân lực mục vụ của cộng đoàn địa phương cho tới việc dùng các phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí, sách vở, tài liệu, phim ảnh, băng hình, truyền hình... để phổ biến, rao truyền Lời Chúa và phát triển lòng tin của tín hữu.
"Nói" chứ không phải là nóng nảy, bẳn gắt, la hét và mắng chửi tín hữu. Trong nghĩa này, "nói" là cả một nghệ thuật gồm nhiều tập luyện mỗi ngày, từ giọng điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ và hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, đầm ấm, và truyền cảm, hình ảnh được đơn sơ sáng sủa, rõ ràng, xúc tích và thích hợp hầu có thể truyền đạt Tin Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu, xác tín và sâu xa hơn. Làm thế nào để vị chủ chăn rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên trong tâm hồn lòng họ ngọn lửa tinh thần, nung nấu đốt cháy con tim họ và thúc đẩy họ tiến gần Thiên Chúa.
Bổn phận thứ hai của vị chủ chăn, tức là các Giám Mục, nam nữ Tu Sĩ và Giáo Dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu biết. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương quan hiệp thông với tha nhân. Hơn ai hết, vị chủ chăn phải là người có các liên hệ huynh đệ nhân bản với tín hữu, biết chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất máy móc một chiều, không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc, không lẫn lộn trật tự với cảnh rộn ràng vô hồn. Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần phải tiếp xúc và nhất là biết lắng nghe họ nói, biết cố gắng nhìn mọi người với con tim của mình, sẵn sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Các tín hữu có thể cho các vị chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ các đức tính xã hội, nhân bản cho đến các nhân đức Kitô, lòng tin, cậy, mến và sự thánh thiện.
Bổn phận thứ ba của chủ chăn là hiến mạng sống mình cho cộng đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ. Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo bình thường thì chủ chăn ít khi phải chết vì tín hữu. Những điều mà Thiên Chúa và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng đoàn, dành trọn khả năng, sức lực, thời giờ, của cải và toàn cuộc sống của mình cho tha nhân. Biết noi gương Chúa Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống sát với tín hữu.Chia sẻ mọi vui buồn âu lo của họ và trở thành anh em đại đồng của mọi người. Nghĩa là vị chủ chăn không sống cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.
Bổn phận thứ tư của chủ chăn là giữ gìn để tín hữu khỏi bị sói dữ cắn xé để họ không xa Chúa, rời bỏ Giáo Hội, và mất đức tin. Trong thế giới ngày nay, nhiều khi rất khó nhận diện ra sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng đoàn, vị chủ chăn phải để lợi ích thiêng liêng mà các linh hồn và hạnh phúc của tín hữu lên trên hết trong mọi sinh hoạt thường ngày chứ không phải các lợi lộc riêng tư, danh dự của mình hay thứ gì khác.
Về phần các tín hữu bổn phận thứ nhất là biết lắng nghe để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Chúa nói, thực hành mọi giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Thái độ vâng lời ấy phải thể hiện ra trong việc cộng tác, tham gia, đóng góp vào các sinh hoạt của cộng đoàn tùy các tài khéo và bằng khả năng vật chất cũng như tinh thần của mình làm sao để cải tiến cộng đoàn, để biến nó thành một môi trường sinh động tươi vui, tràn đầy yêu thương, bác ái tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng đoàn tham gia và đóng góp chứ không phải đứng ngoài chỉ trích, phê bình chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe Lời Chúa mà không hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân, gia đình cộng đoàn và xã hội tức là khước từ Chúa; từ chối Lời Ngài là chối bỏ lòng tin của mình.
Bổn phận thứ hai của tín hữu là đi theo, bước theo Chúa Kitô Phục Sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến về Đất Hứa. Do đó, hành trình của Kitô hữu phải là hành trình tươi vui, phấn khởi. Cuộc sống của Kitô hữu phải là cuộc sống sinh động, nhiều sáng kiến nhiều đóng góp. Khi đóng góp rõ ràng được mục đích của mình, Kitô hữu mới sẵn sàng hiến thân hy sinh và kiên trì trong những lúc gặp chướng ngại, thử thách, khó khăn và cám dỗ. Với ý thức đó, vâng lời có nghĩa là hiểu biết trách nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và các anh em khác trong cộng đoàn, thông cảm những khó khăn, những yếu đuối và khả năng hạn hẹp của họ và cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.
10. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Thiên Chúa yêu thương dân Người. Bài phúc âm hôm nay cho thấy điều đó. Tình thương của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu. Ngài yêu thương và chăm sóc từng con người như hình ảnh người chủ chiên chăm sóc từng con chiên. Để đón nhận tình thương của Ngài, chúng ta hãy biết nghe và bước theo Vị Mục Tử Giêsu.
Những trang đầu tiên trong Thánh kinh cho thấy Thiên Chúa vì yêu thương nên đã dựng nên con người. Vậy mà Con người đầu tiên đã phản bội lại tình thương ấy. Họ đã đi theo con đường mình, đã quay lại với tiếng gọi yêu thương. Con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình, phải chết đời đời. Là thụ tạo phát sinh từ bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với đôi bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy khi phạm tội, khước từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Ngài yêu thương đến cùng, Ngài sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và trao cho Đức Giêsu một sứ mạng, một chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống, lời giảng dạy, sự chăm sóc ân cần và cuối cùng của tình yêu là chịu chết trên thập giá "thí mạng sống" mình vì đàn chiên.
Vì thế, Chúa Giêsu chính là vị mục tử tốt lành, yêu thương và tận tuỵ chăm sóc đàn chiên. Chính Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời (Ga 10, 28) và không ai có thể đánh cắp, giựt mất đàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài. Do đó về phần mình, là những con chiên, là công dân của Chúa, chúng ta hãy "nghe tiếng Chúa" và "bước theo Chúa" vì "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta". Chiên con phải biết lắng nghe chủ chiên Giêsu. Nghe tiếng Giêsu là tin nhận Lời của Ngài và bước theo Ngài, can đảm dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động, sống gắn bó thiết thân với Chúa, để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Ngài muốn, thực hành giáo huấn của Chúa trong hoàn cảnh sống hằng ngày. Thái độ vâng nghe lời ấy được thể hiện trong sự cộng tác, đóng góp vào các sinh hoạt của họ đạo, làm cho họ đạo trở thành một môi trường đầy yêu thương bác ái, tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Như thế, tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ. Nó thúc bách chúng ta hăng hái, nhiệt tình, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mà cho lợi ích người khác.
Do đó, làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.
Tuy nhiên, theo Chúa đòi người chúng ta phải gắn bó và ràng buộc cuộc đời mình vào Chúa. Điều này đòi chúng ta phải từ bỏ chính mình, phải có một con tim yêu thương và một mối quan hệ mật thiết với Chúa để chúng ta đừng đi lạc xa khỏi đoàn chiên và vị chủ chăn tốt lành. Đôi khi cuộc sống xô bồ và những lời ngọt ngào của thế gian dễ làm chúng ta rời bỏ đàn chiên. Chúng ta muốn đi xa khỏi tầm nhìn của Chúa đến độ Người không nhìn ra chúng ta. Không còn muốn nghe lời của chủ chiên. Vì không còn thấy Chúa lắng nghe, không còn chăm sóc chúng ta nên chúng ta dễ cất bước theo tiếng gọi ngọt ngào của thế gian. Thế nhưng, Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành vẫn yêu thương và tìm kiếm cũng như tha thứ cho chúng ta. Ngài biết rõ từng tên, từng nhu cầu của mỗi người chúng ta. Không chỉ biết, người còn cảm thông với từng hoàn cảnh của chúng ta. Người biết tận đáy lòng chúng ta, nên Người có thể chăm sóc, ủi an từng người chúng ta.
Hơn thế nữa, Người còn cho chúng ta một món quà quí giá là sự sống đời đời, sự sống của chính bản thân Người. Người đã dùng chính sự sống mình mà chuộc lấy và bảo vệ đàn chiên là chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sẵn sàng để cho Người chăm sóc, lo lắng cho chúng ta.
Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho các giáo sĩ và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người hiến đời mình để phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên Chúa, Giáo Hội. Và nhất là cầu nguyện xin Chúa ban ơn khuyến khích những người trẻ, biết đáp lại một cách ngay lành và quảng đại ơn gọi của Chúa để phục vụ những anh chị em khác, giúp mọi người nghe và hiểu được lời mời gọi của vị chủ chăn duy nhất trên con đường tiến đến sự sống đời đời. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân... Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh, quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và họ đạo có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nảy nở và mới được đảm bảo. Trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: "Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài... Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của ngày nay và tôi nói với họ: Hãy dể cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rủ các bạn, và tôi lập lại lời ngôn sứ Giêrêmia (20,7): "Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa...Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi"..."Hãy để Đức Kitô quyến rủ các bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn...Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng...". Ngài còn nhấn mạnh: "Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời". Cuối cùng, Ngài giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: "Xin Vâng" đáp trả tiếng gọi của Chúa, như mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.
Còn phần chúng ta, mỗi người nhất là giáo dân chúng ta phải biết quảng đại, hy sinh phục vụ dân Chúa trong cộng đoàn họ đạo chúng ta bằng những lời xây dựng yêu thương, bằng những đóng góp kẻ công người của để phục vụ cộng đoàn của mình. Tóm lại, mỗi người phải luôn ý thức rằng mọi việc trong họ đạo không phải chỉ là việc của linh mục, mà là của tất cả mọi người. Chúng ta hãy lắng nghe và bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trong sự tươi vui phấn khởi, sẵn sàng dấn thân hy sinh và chia sẻ những khó khăn cho anh chị em đồng loại.
Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tối cao, cám ơn Chúa đã yêu thương, tận tình chăm sóc chu đáo cho chúng con là đàn chiên Chúa, tận tình đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình chết cho đàn chiên để chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho nhiều người can đảm bước theo Chúa để được nhận làm tông đồ truyền bá tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con biết lắng nghe và bước theo Chúa một cách dứt khoát để không phụ tình Chúa đã yêu thương mà cứu chuộc chúng con. Amen.
11. Vị Chủ Chăn Nhân Lành – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, tu sĩ nam nữ. Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ lại mối tương quan giữa Chúa Giêsu và mỗi tín hữu. Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên.
Cuốn phim về cuộc đời ông Bach Adams, trình bày cho chúng ta thấy một phần nhân cách phi thường, khác thường đến độ bị kẻ khác xét như một người điên. Đó là nhân cách của ông Bach Adams: ông khám phá ra chiều kích nhân bản tương quan giữa người với người trong việc chữa trị bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ bình phục mau chóng hơn khi mối tương quan giữa bác sĩ và đương sự được tốt đẹp. Thái độ của ông Bach Adams rất khác biệt với thái độ cứng nhắc, vô tâm, vô tình của bác sĩ tâm thần không màng nghe người bệnh. Thái độ của ông Bach Adams bị thử thách khi người mang ơn những trợ giúp nhân đạo của ông không những không biết ơn mà còn hành động tàn bạo giết chết người yêu của ông. Adams cảm thấy sự hy sinh của mình bị xúc phạm, bị lợi dụng và muốn bỏ cuộc. Tác giả cuốn phim cho chúng ta thấy rằng chỉ khi nào Adams chấp nhận hy sinh, cho đi tất cả, thực sự cho đi tất cả, thì ông mới trung thành được với sứ mạng. Đây có thể nói là một cách sống thí mạng cho kẻ khác, cách sống của vị chủ chăn chiên hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Lòng quảng đại suông không bị thử thách, không quảng đại hy sinh, không phải thí mạng cho kẻ khác thì chưa phải là lòng quảng đại của vị chăn chiên nhân lành. Ngày ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi theo Chúa, đây không phải là thứ lòng quảng đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện ra bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó sẽ không kiên trung kéo dài lâu, gặp khó khăn sẽ dễ dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng thành và vững mạnh.
Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Giêrônimô và hỏi: - Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô đáp: - Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.
Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, Ngài hỏi thêm: - Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời: - Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.
Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại hỏi lần thứ ba: - Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?
Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa cùng Chúa: - Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu mà con có thể dâng cho Chúa được.
Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy yêu thương và phán: - Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.
Thánh Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của mình.
Câu chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài biết rõ chúng ta như chủ chăn biết rõ từng con chiên. Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một câu hỏi: "Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?", ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả những tội lỗi của mình. Chúa yêu thương chúng ta, thật khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.
Hình ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng ta. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta". Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp, kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được nên tốt đẹp hơn.
12. Để khỏi bị diệt vong – Lm Ignatio Trần Ngà
Trong các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất và cũng yếu đuối nhất. Những loài mãnh thú như sư tử, hổ báo... là những con thú hung tợn, có nanh, có vuốt lại có sức mạnh và sự lanh lẹ phi thường nên có thể dễ dàng quật ngã những loài thú yếu đuối hơn và biến những con thú nầy thành mồi ngon cho chúng.
Có những loài thú khác tuy không mạnh mẽ, hùng dũng bằng sư tử, hổ báo... nhưng ít ra cũng có nanh, có vuốt, có sừng, có quai hàm mạnh mẽ... để săn bắt, vồ xé những con thú khác, hay ít ra cũng để tự bảo vệ mình, như con trâu có sừng để báng; con ngựa, con bò có chân để đá, con dê có đầu cứng như đá để húc, để tự bảo vệ mình khỏi bị địch thủ tấn công.
Chỉ riêng có loài cừu, loài chiên là hiền lành yếu đuối, chẳng có sừng để báng, chẳng có móng vuốt để tấn công, chẳng có răng nanh để cắn xé, chẳng có sức mạnh hay sự lanh lẹ để đối lại địch thù. Đã vậy, khi bị tấn công, nó cũng không có cánh để bay lên ngọn cây cao thoát thân như loài chim, không thể chui xuống hang ẩn trú như loài chuột, cũng chẳng có thể cao chạy xa bay lánh thoát địch thù như loài hươu nai...
Ngoài ra, nó cũng không thể cậy dựa vào những bạn cừu khác, vì những con cừu kia cũng yếu đuối, cũng hiền lành, cũng vô phương tự bảo vệ mình như nó. Cả hàng trăm con cừu không hơn một con chó sói! Thế là nó dành đứng chịu trận cho kẻ thù vồ xé, giết hại, tàn sát... Thật tội nghiệp, thật đáng thương! May ra chỉ có người chăn chiên mới là người duy nhất có thể bảo vệ và cứu nguy cho nó, giúp nó sống còn.
* * *
Xét về một số phương diện, con người chúng ta tuy cao cả nhưng cũng rất yếu đuối, lại phải thường xuyên đương đầu với thù trong giặc ngoài rất độc hại, chẳng khác gì con chiên hiền lành đối mặt với cả bầy ác thú.
Kẻ thù bên trong chúng ta chính là những xu hướng xấu nằm trong huyết mạch mỗi người. Đó là óc kiêu căng, là lòng tham vô đáy, là tính ích kỷ, là những ham muốn xấu xa, những khao khát tội lỗi... vẫn luôn nằm vùng, luôn ẩn trú trong ruột gan, trong tim óc con người và có thể chỗi dậy bất cứ lúc nào để xui khiến, thúc đẩy người ta làm điều xằng bậy, xô đẩy con người vào con đường gian ác tội lỗi. Mấy ai dám bảo rằng mình đủ sức chiến thắng những kẻ nội thù nầy. Napoléon là một vị tướng lừng danh trong lịch sử nhân loại, đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt vang dội châu Âu... vẫn phải thú nhận rằng: "chiến thắng cả châu Âu không khó bằng chiến thắng chính bản thân mình".
Còn kẻ thù bên ngoài chúng ta thì không kể xiết. Có vô vàn cạm bẫy rải rác khắp nơi có thể làm cho con người sa đoạ bất cứ lúc nào. Vô số phim ảnh khiêu dâm và bạo lực đang xô đẩy thanh thiếu niên vào con đường sa đoạ. Đếm không xuể sách báo, văn hoá đồi truỵ dưới đủ mọi hình thức... đang huỷ diệt tâm hồn cao đẹp của con người. Các tụ điểm ăn chơi đồi bại mọc lên như nấm khắp mọi nơi. Rượu bia, ma tuý và rất nhiều hình thức kinh doanh xác thịt con người rộ lên khắp chốn... Đó là những chiêu thức rất hiểm độc được tung ra để huỷ diệt phẩm chất con người, nô dịch con người.
Đối mặt với thù trong giặc ngoài rất nguy hại như thế, chúng ta là những con người vốn mang xác thịt hư hèn yếu đuối, khác nào những chiên non... làm sao chống cự nổi?
Trong mặt trận nầy, chúng ta không thể hoàn toàn trông cậy người khác, vì họ cũng yếu đuối như chúng ta, họ cũng là chiên hiền như chúng ta. Cả trăm con chiên cũng không thắng được một con sói. Người duy nhất có thể bảo vệ chiên là người chăn chiên. Còn Đấng duy nhất có thể bảo vệ chúng ta chính là Đấng chăn chiên lành, là Chúa Giêsu.
Hạnh phúc cho chúng ta vì có Chủ Chiên nhân lành bảo vệ.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cam kết bảo vệ chúng ta là chiên của Ngài: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi."
Để được sống đời đời, để khỏi bị diệt vong, chúng ta phải tuân theo hai điều kiện do Ngài đưa ra:
Một là vâng nghe Chúa Giêsu: "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi".
Nghe tiếng Chúa Giêsu tức là để cho lời của Ngài soi dẫn, để khỏi sai đường lạc lối.
Hai là bước theo Chúa Giêsu: "Tôi biết chúng và chúng theo Tôi".
Bước theo Chúa Giêsu là đi theo con đường mà Ngài đã đi, chủ yếu là vâng theo thánh ý Chúa Cha như Ngài đã nêu gương.
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức thân phận chiên non yếu đuối của mình để chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông nơi Ngài, vâng nghe tiếng Ngài và bước theo vết chân Ngài để khỏi bị diệt vong ở đời nầy và được hưởng sự sống đời đời do Ngài tặng ban.
13. Người chết vì yêu! – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.
Và... cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện", Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:
- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!
Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.
Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc đời.
Có thể nói sự kiện người mẹ trẻ Cristina dám chết cho con được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: "Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong". Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thế giới sẽ cằn cỗi và hoang tàn nếu không còn những con người dám hy sinh đời mình để phục vụ anh em. Nhưng rất mừng, vì cuộc đời vẫn còn đó biết bao tấm lòng luôn quên mình phục vụ một cách quảng đại và vô vị lợi như mẹ Têrêsa thành Calcutta. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người biết tôn trọng sự sống của con cái mà quên đi tính mạng mình như người mẹ trẻ Cristina. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Vâng, có lẽ cuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
14. Khao khát sống đời đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Là người ai cũng khao khát được sống và sống đời đời. Không ai nghĩ rằng mình sinh ra – chết rồi hết một kiếp người. Con người dù có niềm tin hay không cũng đều khao khát được sống lâu và sống trường sinh.
Nhưng xem ra con người luôn bất lực trước cái chết. Con người phải nhắm mắt xuôi tay chiều theo số phận. Cho dù người có tiền, có quyền thế nhưng họ vẫn không bao giờ thỏa mãn nỗi khao khát sống trường sinh của mình. Nỗi khao khát đó được thể hiện qua nhiều thế hệ con người ra đi tìm một thứ gọi là linh dược trường sinh.
Có lẽ, ai trong chúng ta cũng từng biết đến Tần Thủy Hoàng nước Trung Hoa. Theo sử sách: vào Năm 221 trước công nguyên, Tần Doanh Chính diệt xong lục quốc, thống nhất toàn cõi Trung Hoa, xưng là Tần Thủy Hoàng đế, có ý muốn truyền ngôi đến vạn đời.
Tần Thủy Hoàng tin thần tiên, dùng bọn phương sĩ, muốn tìm thuốc trường sinh đặng sống lâu, vui hưởng hạnh phúc. Bấy giờ có một người nước Tề tên là Từ Phúc tâu rằng ở biển Đông có ba ngọn núi do thần tiên cai quản là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu, ở đấy có thuốc trường sinh bất tử. Thủy Hoàng mừng lắm, bèn cấp nhiều thuyền lớn, một ngàn đồng nam đồng nữ và lương thực tiền bạc dồi dào để Từ Phúc vượt biển tìm thuốc trường sinh.
Nhưng Từ Phúc đi đã lâu mà không thấy về, chẳng rõ đã chết chìm ngoài biển hay không tìm được thuốc nên không dám về. Ông và đoàn tùy tùng đã ra đi mang theo hoài bão khao khát trường sinh của Tần Thủy Hoàng và của con người qua mọi thời đại.
Thực ra, ước muốn trường sinh bất lão không phải là một ước muốn xấu xa. Con người khao khát được sống mãi để yêu, để làm việc, để giúp đỡ người khác, để sáng tạo... Đây là ước muốn thật bình thường của con người. Thế nên, con người qua mọi thời đại đã không ngừng theo đuổi những phương cách khác nhau để thoát khỏi vòng quay "sinh lão bệnh tử". Nhưng từ xưa đến nay, con người mới chỉ kéo dài sự sống thêm vài chục tuổi mà không ngăn được sự chết.
Thực ra, có một Đấng đã chiến thắng thần chết. Một Đấng đã trỗi dạy từ cõi chết. Ngài đã sống từ đời đời và cho đến muôn đời. Ngài chính là Đức Ky-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Ngài đã sinh ra trong thân phận con người. Ngài đã chia sẻ những thăng trầm của đời người. Ngài đã rao giảng về Nước Trời. Một vương quốc hằng sống. Ngài mời gọi con người tham gia vào vương quốc đó trong tư cách con dân của Nước Trời. Chỉ mình Ngài mới có thể làm thoả mãn khao khát sống trường sinh nơi con người mà thôi.
Cuộc sống trần gian là một hành trình tiến về Nước Trời. Hôm nay, Ngài mời gọi con người biết lắng nghe tiếng Người và đi theo Người như con chiên biết nghe tiếng chủ chiên. Khi con người biết nghe tiếng Ngài và bước đi theo Ngài, Ngài sẽ cho họ được tham dự sự sống đời đời với Ngài. Ngài sẽ dẫn con người đến bến bờ hạnh phúc nơi không con khổ đau, oan trái và hận thù, chết chóc. Nơi đó, con người được sống sung mãn trong hạnh phúc với Chúa là Đấng hằng sống.
Tiếng của Ngài luôn mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Tiếng của Ngài cũng mời gọi con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời. Có như thế, chúng ta mới được tham dự sống sống đời đời với Chúa.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết say mê nói Lời Thiên Chúa để dẫn dắt dân Chúa đi trong chân lý vẹn tuyền. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
15. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?
Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”.
Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.
Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
16. Một đàn chiên duy nhất
(Suy niệm của Lm. Trịnh Ngọc Danh)
Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đưc Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hang Salomon. Người Do thái vây quanh Đức Giêsu và nói: “ Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”. Chúa Giêsu đáp: “ Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc đàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30).
Chúa Giêsu tự xưng mình là “cửa cho chiên ra vào”; ai qua cửa ấy mà vào thì được cứu, sẽ gặp được đồng cỏ xanh tươi. Ngài cũng tự xưng mình là Mục Tử Nhân Lành“ hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên”; Vị Mục Tử Nhân lành ấy đến thế gian để chiên được sống và sống dồi dào: “ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30).
Ngài biết rõ từng con chiên một. Ngoài việc không để một con chiên nào thuộc đàn chiên của Ngài bị lạc mất, Ngài còn lo kiếm tìm những con chiên chưa thuộc về đàn chiên của mình để đưa chúng về thành một đàn chiên duy nhất: “ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” ( Ga. 10: 16)
Khác với người chăn chiên thuê phó mặc “ sống chết mặc bay” hay ba chân bốn cẳng vội vàng chạy trốn khi thấy sói rừng xuất hiện… người chăn chiên đích thực là một người mục tử nhân hậu, thương mến đàn chiên, tận tình chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, thỏa mãn mọi nhu cầu cần thiết, luôn sát cạnh với chúng hằng ngày, và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.
Là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu biết chiên của Ngài. Ngài biết thân phận con người yếu đuối, biết con người phải chịu tình trạng nô lệ tội lỗi và biết con người cần tình thương, cần sự cứu thoát khỏi sự huỷ diệt…Ngài biết chúng ta rõ ràng hơn chúng ta tưởng, vì Ngài là Đấng tạo dựng nên chúng ta.
Thiên Chúa biết rõ những khó khăn vất vả, những yếu đuối vấp ngã, những bệnh tật khổ đau, những ê chề thất vọng của chúng ta… Và Người luôn ở bên chúng ta để an ủi vỗ về, để nuôi dưỡng bổ sức.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan chủ- tớ, nhưng là tương quan giữa cha- con, giữa yêu thương và được yêu thương.
Chúa Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa nhân hậu, đầy tình thương, luôn sát cạnh, đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Người luôn quan phòng và yêu thương con cái của mình: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”.
“Tôi biết chúng.” Chuyện đó không thành vấn đề; bởi vì Ngài là Đấng tạo dựng nên chúng ta. Ngài biết rất rõ những tâm tư , nguyện vọng của chúng ta. Vấn đề là chiên biết người chăn của mình như thế nào để nghe tiếng người chăn chiên mà đi theo; đồng thời chính con chiên cũng phải tự biết đến thân phận của mình.
Nghe, thấy giúp con người nhận biết sự việc đúng hay sai. Từ nhận thức qua việc nghe và thấy, đưa đến niềm tin; và từ niềm tin dẫn đến việc chấp nhận đi theo.
Tất cả nhân loại là thuộc đàn chiên của Thiên Chúa; và những chiên thuộc đàn chiên của Thiên Chúa là những con chiên “nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”.
Có những người không thấy, không nghe, nên họ không biết không tin và không theo thì đã đành; nhưng có những người đã thấy, đã nghe, đã biết nhưng không phải biết bằng con mắt đức tin mà bằng lý luận nhân bản: làm sao một chàng thanh niên, con ông Giuse thợ mộc lại có thể tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô! Vì thế họ không tin và không đi theo.
Những người Do thái đã có một niềm tin vào một Đấng Tối Cao nào đó, nhưng họ lại không chấp nhận có một Đấng nào đó nhân danh Thiên Chúa đã đến với họ. Họ đã nghe, đã thấy những việc và những lời Chúa Giêsu giảng dạy đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo; nhưng họ vẵn bán tín bán nghi; họ không tin: “ Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”. Và Chúa Giêsu đã lên án họ:“ Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc đàn chiên của tôi.”
Hoặc cũng có những con chiên đã nghe, biết, theo, nhưng lại muốn giữ độc quyền cho mình việc hiểu biết, không muốn chia sẽ cho người chưa biết:“ Có nhiều người Do thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa”; nhưng nghe, biết mà không theo hay theo ý riêng mình, hẹp hòi trong nhận thức, ghen tức với người khác, độc quyền tôn giáo: “ Đến ngày Sabbát sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do thái thấy đám đông dân chúng thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “ Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại…..
Có những người chỉ nghe, nhưng biết người chăn chiên của mình bằng niềm tin và họ đã đi theo. Đó là những người được Chúa chúc phúc: “ Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành con chiên của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về một đàn chiên là Giáo Hội như Thánh Phêrô đã noi trong thư thứ 1 ( 1 Pr 2: 25): « Xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.» Lắng nghe, thực thi Lời Chúa, tuân giữ những điều Giáo Hội truyền dạy là chúng ta nghe biết tiếng của người chăn chiên, là đi theo sự hướng dẫn của đức tin, đức cậy và đức mến. Vì « Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, vì danh dự của Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điền an ủi lòng tôi.» ( Tv 22: 3-4)
Điểm tựa và niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta là lời Chúa đã xác quyết: Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30)
Sống theo đàn, nghe biết tiếng người chăn chiên, theo sau người chăn chiên, tránh xa tiếng kêu gọi của người lạ là sống trong lòng Giáo Hội, sống theo Tin Mừng, là chết đi cho con người tội lỗi để theo chân người chăn chiên đi vào Cửa Chuồng Chiên là Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại.
Nỗi trăn trở của Vi Mục tử Nhân lành là:“ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” ( Ga. 10: 16).
Người chăn chiên biết từng con chiên và ngược lại, từng con chiên biết người chăn chiên. Làm sao để biết chủ chăn của mình? Qua Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, chúng ta biết người chăn chiên ấy; và chúng ta sẽ biết rõ người chăn chiên ấy hơn khi chúng ta biết sống gần gủi và thân mật hơn với các chiên khác trong cùng đàn chiên.
“Tôi là Gioan đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên, họ mặc áo trắng dài, tay cầm là vạn tuế, Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ” ( Kh. 7:9,14-17)
Viễn cảnh mà thánh Gioan đã chứng kiến sẽ được thực hiện khi “ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”. Tất cả nên một!
Tin tưởng, phó thác vào tình thương của Chúa khiến chúng ta an lòng.
17. Mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh theo truyền thống được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành vì Tin Mừng Chúa nhật này mời gọi chúng ta suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Đức Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo Ngài, mà ngay cả những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Ngài mong ước các linh mục với Ơn Ngài trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên Ngài giao cho đến đồng cỏ Nước Trời. Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc biệt đối với các mục tử là những linh mục đặt mình vào vị trí của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ. Lời ca nhập lễ: Tình thương Chúa chan hòa mặt đất, Lời Chúa sáng tạo chín tầng trời. Allêluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 2, 14; 36-41: Phêrô kêu gọi dân Israel ăn năn sám hối
- Tv 23, 1: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì
- 1 Pr 2, 20-25: Đức Kitô là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta
- Ga 10, 1-10: Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là cửa chuồng chiên
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 4, 8-12: Ngoài Đức Kitô, không có Ơn Cứu Độ
- Tv 118, 1: Phiến đá bị thợ xây loại bỏ đã biến nên tảng đá góc tường
- 1 Ga 3, 1-2: Trong Tình Yêu của Người, Người làm cho chúng ta trở nên nghĩa tử của Người
- Ga 10, 11-18: Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 13, 14; 43-52: Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại
- Tv 100, 1: Ngài dẫn chúng ta đi trên đường ngay nẻo chính
- Kh 7, 9;14-17: Niềm vui muôn đời dành cho những kẻ được cứu chuộc
- Ga 10, 27-30: Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Cả một chương dài (Ga 10, 1-40) thánh sử Gioan trình bầy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và là Vị Mục Tử Nhân Lành. Phụng vụ năm- C chỉ lấy có 4 câu (Ga 10, 27-30), cũng đủ làm nổi bật Đức Giêsu là Mục Tử Tốt Lành, Ngài là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa(c.30), Ngài đến để thí mạng sống mình vì đàn chiền, cho chiên được sống dồi dào (c.28), qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất, Ngài cũng mời gọi chúng ta bắt chước Ngài.
Đức Giêsu là Mục Tử Tốt Lành, Ngài là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa (c.30).
Ngài tốt lành như Ngài nói: "Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào" (c. 10). Chúa Giêsu Kitô phân biệt hai loại mục tử, một loại người chăn chiên tốt là người can đảm lấy thân mình đương đầu chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên. Đây là điểm khác biệt với lính đánh thuê. Kẻ chăn thuê chỉ quan tâm chút ít cho con chiên của mình, vì lợi ích riêng cá nhân mà quên đi đàn chiên. Loại mục tử này gây hại cho đàn chiên, vì họ tìm cách ăn cắp các con chiên để làm thịt, không đánh mất chính mình, không từ chối kẻ trộm và không quan tâm đến đàn chiên được giao, vì họ là người chăn thuê. Khi người Do Thái tìm cách giết Đức Giêsu, Ngài đã không ngừng rao giảng, không bỏ rơi các môn đệ, nhưng Ngài bảo vệ họ cách tuyệt đối, chịu chết cho họ. Đây là lý do tại sao Ngài nói: ". Ta là mục tử tốt lành, Ta thí mạng sống Ta vì đàn chiên." Chúa Giêsu lặp đi lặp lại câu trên để chứng tỏ mình không phải là một kẻ mạo danh. Ngài phán:"Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi ". Những gì Đức Giêsu nói, "Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi." Các tông đồ cũng nói như vậy: "Thiên Chúa đã không từ bỏ dân của Ngài mà Ngài biết." (...) Môi-se nói: "Chúa biết những người của mình." (Ds 15, 5). Đức Giêsu biết từng con chiên một: "Như Cha biết Ta và Ta biết Cha " (c. 15).
Có những kiến thức, kỹ năng, Ngài và con chiên không bằng nhau. Cũng có thể có kiến thức bình đẳng chăng? Bởi vì Ngài nói: "Như Cha biết Ta, Ta biết Cha" (c. 15). Thực tế, Chúa Cứu Thế đã muốn chứng minh rằng: "Như Cha biết Ta và Ta biết Cha". Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói: "Không ai biết Con trừ ra Cha, và những người Con muốn mạc khải cho".
"Tôi nhận được lệnh này từ Cha của Tôi." Chúng ta tự hỏi: Lệnh gì? Lệnh chết cho thế giới. "Đây là lý do tại sao Cha yêu Tôi", điều này cho thấy một ý chí tự do, loại bỏ bất kỳ dấu hiệu của sự đối kháng, ngay cả khi Ngài nói rằng, Ngài đã nhận được lệnh của Cha Ngài, nghĩa là không có gì khác Ngài làm đẹp lòng Chúa Cha hơn. Nên khi người Do Thái thách thức: "Nó đã cứu những ai khác, chứ vô phương cứu lấy mình! Nó là Vua Isarel! Bây giờ hãy xuống khỏi thập giá, và ta sẽ tin vào nó! (Mt 27, 42). Nhưng chính vì Ngài là Con Thiên Chúa, nên Ngài đã không xuống.
Trở lại câu: "Tôi đã nhận được lệnh này từ Cha Tôi", có người nghĩ rằng công việc này không phải là tự nguyện, và rằng Chúa Giêsu đã bị buộc phải chết. Đức Giêsu nói trước đó: " Không ai cất mạng sống Ta được; nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta; Ta có quyền thí mạng sống Ta. Và cũng có quyền lấy lại; đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta". (c.18). Đức Giêsu chính là Thiên Chúa.
Ngài đến để thí mạng sống mình vì đàn chiên, cho chiên được sống dồi dào (c.28), Trước đó, Chúa Giêsu cũng nói: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm gặp được đồng cỏ " (Ga 10, 9). Người ấy sẽ vào từ đức tin và ra qua đức tin, và người ấy sẽ gặp được đồng cỏ xanh tươi dẫn đưa đến dự tiệc vui muôn đời.
Đàn chiên của người chăn hiền lành nên tìm được một đồng cỏ xanh tươi, vì tất cả đàn chiên đi theo người chăn với lòng duy nhất là được dẫn đến ăn cỏ trong đồng cỏ xanh tươi. Còn người chăn chiên với niềm vui thiên đàng sâu thẳm là gì, há chẳng phải là đến được đồng cỏ xanh không bao giờ tàn úa đó hay sao? Người chăn chiên chính là Thiên Chúa, Ngài luôn hiện diện: người ta chiêm ngắm Ngài, khiến tâm hồn thỏa thuê như khách vừa dự tiệc...
Vậy, chúng ta hãy tìm đến vị mục tử này, chúng ta sẽ thấy niềm vui thiên quốc được cử hành ở trên trời. Niềm vui ấy mời gọi ta... Hãy thức tỉnh tâm hồn! Ước gì đức tin của chúng ta sưởi ấm điều chúng ta tin, và ước muốn của chúng ta hun đúc những điều cao thượng. Yêu chính là lên đường. Không để lại bất cứ điều gì làm giảm đi niềm vui nội tâm. Đừng để mình rơi vào những quyến rũ bởi sự thành công tâng bốc. Ngu ngốc nhất là người du lịch, khi nhìn thấy những cảnh quan đẹp, quên ngay mục đích của chuyến đi của mình.
Ngài qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất
Đây là lý do tại sao Đấng Cứu Thế đến nói: "Ta còn những chiên khác nữa, không thuộc đàn này; các con chiên ấy, Ta cũng cần phải chăn dắt, và chúng sẽ nghe tiếng Ta; và sẽ thành một đàn chiên, một chủ chiên. (16) ". "Cũng phải" Chúa Giêsu Kitô sử dụng thuật ngữ này, không để đánh dấu một điều cần thiết, nhưng để chứng minh rằng điều Ngài nói sẽ xảy đến. Ngài được sai đến trước hết với nhà Israle. Nên theo lời Thánh Phaolô: "Cắt bì chẳng là gì cả, mà không cắt bì cũng chẳng là gì cả, (có là gì ấy là) giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa. " (I Cor VII., 19.) "Và Tôi cũng phải mang về đàn." Chúa Giêsu Kitô muốn nói rằng, tất cả Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do trộn lẫn với nhau. Sau đó Ngài tuyên bố họ là tất cả đều thống nhất, "Và sẽ thành một đàn chiên, một chủ chiên". Thánh Phaolô cũng nói: "ngõ hầu trong Ngài, Ngài tạo dựng hai loại người ấy nên một người mới; đem lại bình an" (Eph. II, 15.)
Hãy theo gương Chúa Kitô Mục Tử
Hướng đến ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi. Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: "Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người". Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ "hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu". Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại "Hãy đến! Hãy theo ta". Theo Chúa Giêsu "có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân".
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng,những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới.
18. Lắng nghe tiếng Chúa - Anmai
Mở lại sách Samuel chúng ta bắt gặp nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm ngôn sứ cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” (Sm 3, 3-10; 19).
Trải qua dòng chảy lịch sử cứu độ, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Mt 19,16…), Trong Gioan 1, 35-42 nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô. Hai ông đã lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Ngài.
Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người khác đến đồng bàn.
Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói, Chúng ta thấy vì sự vâng phục mau mắn và trọn vẹn mà Matthêu đã tức khắc từ bỏ tất cả tài sản thế gian để đi theo Chúa khi được kêu mời đúng lúc.
Ngày hôm nay, một lần nữa chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi hãy nghe tiếng Chúa và đi theo tiếng Chúa gọi: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một".
Chúng ta soi chiếu trang Tin Mừng hôm nay vào mạch văn trong chương 10 của Thánh Sử Gioan: Chúa Giêsu mạc khải chính mình là “mục tử nhân lành“ cho đàn chiên cũng như Đức Giavê xưa đối với Dân Ítrael. Chúa Giêsu lúc đó đang “đi đi lại lại“ trong Đền Thờ ở Giêrusalem, tại hành lang Salomôn, vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu và chất vấn Ngài: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu Ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết“. (Ga 10, 24).
Đáp lại, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi“ (Ga 10, 25-26). Quả thực, những người Do Thái là Dân Chúa đã tuyển chọn, chẳng những đã không tin, mà họ còn “lấy đá ném Ngài“ vì cho rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng: “Ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa“ (Ga 10, 33).
Như vậy, tâm tình cốt lõi của mạc khải của trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chính là việc Chúa Giêsu muốn mạc khải Chúa Cha và tuyên xưng mình là Con Thiên Chúa. Chúa Cha là Đấng trao ban đoàn chiên cho Chúa Con. Hình ảnh mục tử hướng dẫn đoàn chiên bắt rễ sâu trong kinh nghiệm “dân du mục Aram“ trong Cự#u Ước: mục tử vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành của đoàn chiên. Đức Chúa Giavê bảo vệ đoàn chiên với quyền phép và tình thương để không ai có thể cướp chiên ra khỏi tay Ngài. Đó là lịch sử cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng cho thấy mối liên hệ vô cùng mật thiết giữa Ngài và Chúa Cha: “Tôi và Chúa Cha là một“, hiệp nhất trong bản tính, trong uy quyền, trong hành động. Cũng vì lời mạc khải này mà Chúa Giêsu không những bị dân Do Thái ném đá, cho là “phạm thượng“, mà sau này còn đóng đinh Ngài trên thập giá.
Dần dần, qua mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa Cha chính là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tình yêu... và Đức Kitô chính là Đấng Messia. Đức Chúa Giavê trao phó cho các tôi tớ ngài là các Tổ Phụ, các Quan Án, các Ngôn Sứ, các Vua Chúa... thay quyền Chúa chăn dắt Dân Chúa. Nhưng những chủ chăn Ítrael đã tỏ ra bất tài, bất trung với sứ mệnh của họ, bỏ bê đàn chiên, chỉ lo danh lợi dục cho mình, phản loạn không tuân giữ Giao Ước với Thiên Chúa. Nên, vào thời của Tân Ước, Đức Chúa Giavê trao phó đoàn chiên cho Đấng Messia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi.
Nhiều lần trong Tin Mừng, Đức Kitô đã mạc khải Ngài là vị Chủ Chăn nhân lành, Đấng Trung Gian độc nhất, là “cửa cho chiên ra vào“ (Ga 10, 7) và “gặp được đồng cỏ“ (Ga 10, 9). Đức Kitô trao ban chính mình cho đoàn chiên với tư cách là “Chúa chiên nhân lành“: Ngài không những biết từng con chiên, dẫn chiên đi vào “đồng cỏ xanh tươi“, luôn đi đầu đàn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đoàn chiên khỏi nanh vuốt sói dữ, mà còn hy sinh mạng sống mình cho từng con chiên (Ga 10, 15. 17). Một cuộc sống mới và một mối liên hệ mới được vĩnh viễn thiết lập: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi“.
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: ‘Elegit nos ante mundi constitutionem’ – Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian, ‘ut essemus sancta, in conspectu eius!’ – để chúng ta nên thánh thiện trước mặt Người.
Thiên Chúa đã nói với chúng ta nhiều lần và bằng nhiều cách thế khác nhau. Ngài nói với chúng ta qua Kinh Thánh, Ngài cũng nói với chúng ta qua Giáo Hội, những lời giảng dạy của Đức Thánh Cha, các giám mục và linh mục, những người có bổn phận săn sóc và dạy dỗ chúng ta. Thiên Chúa cũng nói với chúng ta qua tha nhân và qua những dấu chỉ của thời đại cùng những sự vật và hiện tượng đang diễn tiến trong dòng lịch sử. Và Thiên Chúa cũng thực sự nói với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện. Sống trong tương quan thân tình với Ngài, đó là lý do chúng ta phải chuyên cần cầu nguyện trong hoàn cảnh, mọi nơi và mọi lúc để học biết được điều Thiên Chúa đã nói với mỗi người chúng ta
Chuyện quan trọng là chúng ta có lắng nghe tiếng Chúa gọi hay không mà thôi.
Lắng nghe trước hết là đón nhận được thánh ý Thiên Chúa, rồi thể hiện ra bằng cuộc sống thường nhật của chúng ta. Thánh ý Thiên Chúa khi đó sẽ điều khiển tư tưởng, ý nghĩ, tâm hồn, lời nói và hành động của chúng ta để chúng ta trở thành những người bạn tốt của anh chị em.
Lắng nghe tiếng Chúa là yêu thương. Tất cả những ai lắng nghe Chúa Giêsu đều là những người đã được đào luyện trong tình yêu. Lắng nghe là yêu thương. Tuy cũng đã cật vấn Chúa Giêsu khi Ngài thân thưa với Chúa Cha: "Làm sao con có thể cho đi chính mình con một cách quảng đại trong tình yêu nhờ đó ý Cha được hoàn trọn trong cuộc sống của con?"
Như thế, lắng nghe cũng là một dạng thức của tình yêu bác ái, tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu đó cũng chính là sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu. Yêu Chúa trọn vẹn và yêu như Chúa yêu, để trở nên món quà đáng yêu đối với Chúa và với mọi người. Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta một lý tưởng cao đẹp như thế nên tất cả những gì chúng ta phải làm là gì nếu không phải là tin tưởng vào Ngài, lắng nghe Ngài và tình yêu Ngài. Chúng ta cũng chẳng còn sợ điều chi bởi vì Chúa luôn yêu thương chúng ta. Chúng ta tin rằng chỉ có một con đường dẫn đến tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và với tạo vật là lắng nghe Thiên Chúa và mến yêu Ngài. Mong rằng lắng nghe tiếng Chúa là khát vọng nuôi dưỡng chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế.
19. Người Mục Tử – Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình, người của cõi thiêng mà đến.
Trong ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã từng trải bằng những kinh nghiệm của mình, người trực giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác. Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của minh. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên trong đàn.
Sứ vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm. Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối, anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về... Từ những hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.
Theo truyền thống Do Thái Cain đại diện cho người theo văn hoá du mục, Abel đại diện cho nền văn hoá định cư. Người định cư rất quý mến người du mục, và thường ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người định cư, người chăn chiên là người không thuộc về đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và cao quý.
Nền văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ tạo.
Người mục tử hôm nay là những nhà lãnh đạo, những nhà doanh nghiệp, những vị lãnh đạo công ty, xí nghiệp. Với đôi mắt tinh tường nhìn về phía trước, dự báo được những gì trong tương lai, chuẩn bị cho những con người dưới quyền đủ khả năng chống đỡ vượt qua thử thách. Những nhà lãnh đạo biết lo cho những người thuộc quyền cũng như cho dân được ấm no hạnh phúc. Bình an của đàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Nhà lãnh đạo không những chỉ sáng suốt mà còn là người chăm lo hạnh phúc cho đàn chiên, là người quy tụ chứ không phải để gây chia rẽ chống đối, là người vì đàn chiên của mình mà hy sinh hạnh phúc cá nhân chứ không phải là người chỉ biết xen lông, giết thịt những con chiên béo, thu lợi nhuận từ đàn chiên để làm giàu cho cá nhân người mục tử. Người mục tử có những đức tính cần thiết và cần có cả đời sống cầu nguyện, vì người mục tử là người nối trời với đất, người lãnh trách nhiệm tinh thần cho đàn chiên của mình, vừa thăng hoa đời sống bằng vật chất vừa làm no thoả đời sống tinh thần cho đoàn chiên, bảo đảm cho đoàn chiên một tương lai chắc chắn. Người mục tử nếu là người không tín ngưỡng, không niềm tin tôn giáo là nhưng nhà lãnh đạo thiếu sót trong bổn phận của mình và có thể làm thiệt hại cho đoàn chiên.
Người mục tử cũng là các gia trưởng trong gia đình, người quy tụ đoàn con của mình chứ không là người gây chia rẽ. Người đảm bảo cho mọi thành viên trong gia đình có những nhu cầu thiết yếu để ăn học và trưởng thành về các đức tính cũng như niềm tin. Nhiệm vụ người gia trưởng xem ra khá nặng nề, chính vì vậy, họ cũng cần có đời sống cấu nguyện để được thêm sức mạnh gánh vác việc đời và gia đình. Các thành viên trong gia đình là những gì Thiên Chúa trao cho để thi hành sứ mạng hướng dẫn của người mục tử.
Người mục tử là những người cai quản các cộng đoàn cần gắn bó với vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, bởi vì sứ vụ lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu. Cộng đoàn được trao phó để người mục tử hướng cộng đoàn đó thực thi ý định yêu thương của Thiên Chúa. Người mục tử này đóng vai trò quan trọng để xây dựng cộng đoàn mình lãnh nhận được hiệp nhất, nơi chia sẻ tình thương, sống trong bác ái và làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh.
Xin ban cho chúng con những người mục tử như Ý Chúa.
20. Hạnh phúc là đây
"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi".
Một em bé chín tuổi nhận định về bà ngoại của mình như sau:
Bà ngoại là bà cụ không có em bé nên bà thích chăm sóc những em bé nhà hàng xóm. Bà ngoại già nên không chơi "hết ga" được, bà chỉ loanh quanh con ngựa gỗ, nhưng bà có nhiều xu lẽ lắm.
Bà ngoại thường béo tròn, nhưng bà vẫn cột được giây giày cho trẻ con. Bà chẳng khôn lanh mấy...chỉ biết trả lời những câu hỏi như: Tại sao chó ghét mèo, hoặc tại sao khi Chúa đến thì không được làm đám cưới nữa. Bà ngoại nói rất sõi, không bị ngọng. Lúc đọc truyện cho tụi cháu, bà không bỏ chữ, và không đọc một câu truyện tới hai lần. Ai cũng nên cố gắng có một bà ngoại, nhất là những người không có TV. Bởi vì bà ngoại là người lớn duy nhất dành hết thời giờ cho con nít.
Bà ngoại... tuyệt vời như vậy thôi chứ con đòi gì nữa?
Chúa nhật IV phục sinh là Chúa nhật dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Phụng vụ lời Chúa trong ngày này thường trình bày một Đức Giêsu như mục tử tận tình chăm sóc đoàn chiên của mình. Ngài tìm cho chiên những đồng có tốt, những suối nước trong. Ngài bão vệ chiên khỏi những nguy hiểm của kẻ thù. Lũ chiên con Ngài ẩm trong lòng. Bầy chiên mẹ thì tận tình chăn dắt. Con nào bệnh thì ngài băng bó. Con nào lạc thì tìm kiếm đưa về. Chiên của Ngài thì an toàn và không phải lo lắng vì đã có Ngài nâng đỡ và chăm lo mọi sự.
Hình ảnh con chiên được chăm sóc nơi trần gian cho chúng ta một hy cọng về một đoàn chiên được hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng với chủ chăn của mình. Sách khải huyền đã minh xác nhận điều ấy. "Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì con Chiên ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,16 -17). Đó là hình ảnh của một đoàn người đã chiến thắng, đã vượt qua đau khổ, đã giặt áo mình trong máu con chiên.
Đức Giêsu không chỉ như mục tử trần gian chăm sóc phần thể xác nhưng còn là mộ Đức Chúa coi sóc cả phần linh hồn. Một Chủ Chăn hoàn hảo đến mức khi chiên của mình không may rơi vào chỗ khó khăn. Ngài đã ra tay cứu chữa và con hơn thế nữa Ngài đã hiến thân mình làm giá đền thay cho lỗi lầm của đoàn chiên, là chúng ta. Đức Giêsu còn là Con Chiên. Chính Ngài đã trở nên của ăn cho chính đàn chiên của mình. Ngài đã chết để chúng ta khỏi chết, Ngài đã phục sinh để chúng được sống. Và Ngài đã để lại vị trí chăn dắt đoàn chiên đó cho các tông đồ, các giám mục và linh mục.
Người lớn không cần bà ngoại. Chiên trưởng thành không cần chủ chăn. Thiếu người chăn dắt thì chiên vẫn sống, không có bà ngoại thì người lớn cũng lớn. Đúng rồi. Bà ngoại đâu có thể làm gì khác hơn là chơi với con nít, nhưng nếu một ngày không còn bà ngoại nữa thì không chỉ có con nít buồn. Một ngày không có chủ chăn thì chiên sẽ bơ vơ và đối mặt với nguy hiềm nhiều hơn. Bà ngoại vẫn ở đó, chủ chăn vẫn âm làm cái công việc chăm nom của mình, còn bạn có cần những người ấy không thì chỉ có bạn biết mà thôi.
Lạy Chúa, giữa thế sự nhiều tiến triển như hôm nay chúng con vẫn cần những chủ chăn tốt để được ngài cho nghỉ ngơi và bổ sức. Giữa cuộc trần đầy tội lỗi, khó khăn như hiện tại đây chúng con vẫn cần chững chủ chăn thánh thiện để làm chứng nhân cho tình yêu Chúa và để kéo trần gian trở lại hoà bình, yêu thương. Xin Chúa cho có thêm nhiều người trẻ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đoàn chiên Chúa bằng một tình yêu trong sáng, thánh thiện.
21. Hoà hợp tiền định - Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái vây quanh, và yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy, Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày chính là Đấng Mêsia. Có những người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Đức Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra;
1) Tại sao người Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức Kitô nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Đức Giêsu Kitô?
2) Ý nghĩa câu: không ai giật chúng khỏi tay Ta được là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ giúp của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa. Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.
22. Con chiên của Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến, chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em giáo dân cũng vẫn quen nhận mình là “con chiên”. Kiểu nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên, thay thế hết các người lãnh đạo dân từ trước đến nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình là mục tử và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ chăn thuê, những mục tử giả.
Tin Mừng hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về “con chiên” nhiều hơn là chủ chiên, tức là nói về “người giáo dân” hơn là hàng giáo sĩ. Người giáo dân là con chiên của Chúa Giêsu, là người biết “nghe tiếng Chúa”, dám “bước theo Chúa” để không bao giờ phải hư mất, nhưng “được sống đời đời”.
Trước đây, anh chị em có nghe nói mình là “con chiên của các cha” thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng ngày nay, hình ảnh con chiên dễ làm cho người ta hiểu lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo dân - người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân còn ấu trĩ và thụ động trong Giáo Hội.
Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo hỏi linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời: “Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về tòa giảng”. Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất một vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra”.
Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa”. Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ không phải Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả, nhưng có nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình, như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.
Sống đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ nhiên giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động. Chúng ta muốn làm những con người tín hữu đứng hàng đầu, những con người có tinh thần trách nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của mình cách chủ động. Với điều kiện đó, chúng ta mới “nghe tiếng Chúa” và “bước theo Chúa” cách đúng đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi tay Ta được”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của Chúa và bước theo Chúa là dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn bó thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô tức là bước vào cuộc sống bất diệt ngay từ đời nầy.
Tiếng Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay là tiếng kêu của đồng bào, của cả đất nước, của cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có cơm ăn áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ mời gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến chỗ dám liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên dám liều mạng sống vì đàn chiên.
Làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được Giáo Hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy đang vang đến tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể Giáo Hội hoàn cầu, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu…
Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nẩy nở và mới được bảo đảm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: “Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài… Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của thời nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rũ các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ Giêrêmia (20,7): “Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa… Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi”… “Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn… Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng…”. Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: “Xin Vâng” đáp trả tiếng gọi của Chúa, như Mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.
23. Bản sắc của một cộng đoàn Kitô giáo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Mỗi thời đại và mỗi sắc dân có những hình ảnh tượng trưng riêng. Mỗi nhà văn hay mỗi vị giảng thuyết là đứa con của thời đại và của dân tộc mình đang sống, vì thế trong văn chương và trong ngôn từ của họ, họ xử dụng chính hình ảnh đó. Do đó, để hiểu được ngôn từ và các bản văn của họ, chúng ta cần phải tìm hiểu các hình ảnh tượng trưng đó: Các hình ảnh đó muốn nói lên ý nghĩa gì? Những gì được dấu ẩn phía sau những hình ảnh đó?
Bởi vậy, nếu trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã nói đến hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, Người đã xử dụng chính những hình ảnh quen thuộc và thân thương đối với những khán thính giả của Người lúc bấy giờ ở các miền quê Pa-lét-ti-na, tương tự như cánh đồng lúa, con trâu hay chiếc cày đối với người Việt nam chúng ta. Ðây là những hình ảnh hoàn toàn tùy thuộc vào thời gian và không gian lúc bấy giờ. Nhưng nội dung các ý nghĩa mà Ðức Giêsu muốn trình bày qua các hình ảnh đó thì lại có giá trị vượt mọi biên giới của thời gian và không gian. Qua những hình ảnh đó thánh sử Gioan muốn nói lên bản sắc đích thực của cộng đoàn Kitô giao, tức sự hiệp nhất giữa Ðức Giêsu và cộng đoàn các tín hữu.
Thật vậy, trong khi đối chất với những người phê bình và những đối thủ của Người, Ðức Giêsu đã dùng tới hình ảnh người mục tử và đoàn vật, để nói lên tính chất gắn bó mật thiết giữa Người và các tín hữu, những “con chiên” thuộc về “đàn chiên” của Người và do Người chăn sóc. Một câu hỏi đã từng làm bận tâm vị thánh sử và cộng đoàn Kitô hữu là: Tại sao nhiều người Do-thái chối từ Ðức Giêsu và không tin nhận giáo lý của Người, mặc dù Người đã ngày đêm đi khắp mọi miền đất nước của họ để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ cho họ, thương yêu và chữa lành mọi bệnh tật cho họ, cũng như Người đã không ngần ngại làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ? Thánh sử Gioan chỉ tìm thấy một câu trả lời duy nhất, là: Bởi vì họ không muốn! Bởi vì họ không chịu thoát ra khỏi cái bóng đen của chính mình và không chịu tin vào lời rao giảng và các việc làm của Người, những việc làm đã mặc khải cho họ biết Người là Ðấng nào.
Ðối với những người Do-thái đã từ chối không muốn tin nhận Người, Ðức Giêsu đã trình bày cho họ thấy được thái độ của các con chiên của Người: Chúng luôn biết nghe và đón nhận tiếng Người, nghĩa là chúng tin vào Người. Dĩ nhiên đức tin chân chính và sâu xa không dừng lại nơi sự tuyên xưng bằng môi miệng suông mà thôi, nhưng nó được chứng mình qua thái độ sống cụ thể: Luôn sẵn sàng cùng Ðức Kitô đồng hành trên con đường của Người!
Nhưng đức tin đó không hề là con đường một chiều thuộc về phía người tin, nhưng nó kiến tạo một tương quan hoàn toàn mới mẻ giữa Ðức Giêsu và các tín hữu của Người: Người lo lắng chăm sóc họ, Người biết rõ họ, Người tin tưởng họ và gắn bó mật thiết với họ. Người ban cho họ cuộc sống hạnh phúc trên nơi vĩnh cửu. Và những gì Người ban, Người cũng che chở bảo vệ như thể một kho báu vậy!
Ở đây, Ðức Giêsu hoàn toàn phó thác mọi sự nơi Cha Người, Ðấng ở trên Trời. Người và Chúa Cha là một! Do đó, tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động, Người đều nói và hành động với uy quyền của Thiên Chúa Cha! Ðiều đó càng làm cho những lời rao giảng của Ðức Giêsu mang một giá trị tuyệt đối. Vì thế ai tin nhận Người, thì có thể chắc chắn được rằng mình cũng được chính Thiên Chúa công nhận và chấp nhận. Ngược lại, ai chối từ Ðức Giêsu, thì đương nhiên cũng “nói không” cùng chính Thiên Chúa. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là sự cứu rỗi hay sự bất hạnh, sự sống hay sự tiêu diệt. Ðó là quan điểm của thánh sử Gioan về cộng đoàn Kitô giáo.
Vậy, ngày nay dựa theo quan điểm đó chúng ta có nhận thấy mình là cộng đoàn Kitô hữu nữa hay không?
Ðức tin không phải là con đường một chiều. Ðức tin tạo nên sự thông hiệp với Ðức Kitô và với nhau. Phải chăng điều đó cũng là một thực tại trong cộng đoàn Ðức Kitô nơi chúng ta đang sống? Phải chăng trong giáo xứ chúng ta thường đã mong đợi quá nhiều nơi những người khác, như nơi: Cha Quản Xứ, ban hành giáo xứ, các hội đoàn, các giáo lý viên, v.v..., nói tắt: nơi “những người có trách nhiệm”? Còn đâu là sự đóng góp và sự dấn thân của mỗi người trong chúng ta cho cộng đoàn? Chúng ta có sống đức tin của mình một cách đầy xác tín, hầu có thể trở nên nhân chứng cho Ðức Kitô giữa lòng đời hay không? Chúng ta có sống đức tin của mình sao cho người khác phải lưu ý và tìm hiểu tại sao chúng ta tin và chúng ta tin ai không?
Qua Phép Rửa và nhờ đức tin tất cả chúng ta thuộc về một đại gia đình, gia đình Ðức Kitô. Nhưng gia đình này chỉ có thể tồn tại được nhờ vào sự cùng đồng trách nhiệm, sự tha thứ và lòng yêu thương trọn vẹn. Vì như Chúa đã phán: “qua đó thế gian sẽ nhận biết rằng, các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35). Amen.
24. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề chính là mục tử và đoàn chiên. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc một cách đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chúa dùng hai hình ảnh: người chăn chiên mướn và người chăn chiên tốt lành, để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là một mục tử tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: đó là người mục tử biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ hai yếu tố đó. Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Biết từng con một, biết ngày sinh tháng đẻ, biết con nào tới đợt xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để chữa trị: con nào hay bị lạnh, con nào làm biếng ăn, con nào hay đi tách ra khỏi bầy, con nào khó tính,... hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, còn ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng để coi con nào lên ký, con nào xuống ký. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố: " Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10, 27). Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những con người, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, tình trạng ra sao. Ngài biết chúng ta còn hơn chúng ta biết mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết. Để rồi từ đó, Chúa Giêsu trở nên một chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, Ngài ân cần săn sóc cho chúng ta, Ngài hằng ở bên để săn sóc từng người chúng ta nữa, và Ngài còn basự sống đời đời cho chúng ta nữa.
Chúa Giêsu nói mình là Mục Tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng đáng với tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Một con vật như con chiên không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, chúng ta có linh tính, thì chúng ta càng phải đền đáp sao cho xứng với tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì? Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, trong việc làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài, như con cái tín nhiệm cha mẹ, như bạn bè tin tưởng nhau, như người công nhân tín nhiệm vào nơi chổ mình lao động, thì chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa nhiều hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết lắng nghe Lời Chúa và sống theo Lời Chúa, đó là điều chắc chắn vị Chủ chiên sẽ hài lòng, bởi vì ai mà chẳng vui khi thấy người thuộc quyền mình biết vâng nghe theo lời của mình.
Tất cả những điều trên đây chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem ra thực hành thì thực là uổng công vô ích. Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta không chối Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta hay quên Ngài. Giữ đạo Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta quá lo lắng đến tiền bạc, đến vật chất, đến nỗi chúng ta xao lãng các bổn phận thiêng liêng: không đi lễ, làm biếng rước lễ, không chịu đọc kinh hôm kinh mai cầu nguyện với Chúa; rồi cũng bao lần trong đời sống, do cách ăn ở, do cách cư xử của chúng ta thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu yêu thương, không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh.... Chúng ta xin Chúa cho chúng ta can đảm sửa chữa những khuyết điểm, đó là cốt yếu của Lời Chúa dạy hôm nay, là sống tốt trong đoàn chiên của Chúa, cầu xin Chúa cho chúng ta cũng trở nên những con chiên ngoan, biết lắng nghe, vâng phục và cộng tác với Hội Thánh mà cụ thể là những vị chủ chăn của mình một cách tích cực, đầy tình thân ái trong Chúa Kitô.
Mặt khác, năm nay là Năm Thánh cầu nguyện cho các linh mục, là con chiên, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị Mục Tử của Chúa, sống hết mình vì đoàn chiên, chu toàn trách nhiệm trong tình yêu và lòng thành tín của Chúa Giêsu; Ngoài ra, hôm nay cũng là ngày Hội Thánh dành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ. Ngày nay, có nhiều tâm hồn trẻ muốn dâng mình cho Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời mời gọi bước theo Chúa, dâng mình cho Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ dân thánh Chúa. Là Cha mẹ trong gia đình, chúng ta hãy quảng đại dâng con cho Chúa, khuyên bảo và nhắc nhở cho con cháu mạnh dạn đi tu để làm Tông Đồ, làm sáng danh Chúa... Xin Chúa cho chúng con có những vị Mục Tử như lòng Chúa mong muốn.
Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở nên những con chiên ngoan tốt lành của Chúa. Amen.
25. Chúa Chiên Lành - McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố Turin ở Ý. Chẳng bao lâu, các thanh niên nhận ra rằng nơi ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng, họ đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số người còn muốn được thay thế vào chỗ của ngài, bằng cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Sau sự kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối tương quan này không thể tồn tại được, trừ phi có sự gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và được nhận biết.
Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành nói “Tôi biết các chiên của tôi”. Người biết các chiên của Người một cách chính xác, bởi vì Người là Chúa Chiên Lành. Có nhiều mức độ nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người chỉ qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những người khác, chúng ta chỉ mới quen biết sơ giao mà thôi. Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn bè.
Có một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con người. Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn bó với cha của ông, người đã bị chết tại Aushwitz vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:
“Tôi chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con người mà tôi yêu thương nhất trên đời, một con người mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác có cùng một vấn đề giống như tôi không. Liệu họ có nhận biết cha họ như là một con người nào khác với một khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi tối, để nuôi sống cả gia đình chăng?”.
Tôi e rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con cái. Để nhận biết về nhau, cần phải dành ra thì giờ và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ đại. Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc sống trôi qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách nghèo nàn. Bạn không thể yêu thương một người nào đó mà bạn không hề quen biết.
Sự nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người mà họ săn sóc. Biết tên của những người đó là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự biết về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của họ. Những người được săn sóc sẽ không hơn gì những chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn sóc biết được một số điều về thế giới mà từ đó người được săn sóc xuất phát.
Lối nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có thì giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết này được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao. Bất chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào, nhưng một khi đã biết về lịch sử cuộc đời của người đó, thì thái độ của chúng ta đối với họ sẽ mềm mỏng hơn.
Tuy nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai đường lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những con chiên của Người một cách thiết thân. Nhưng họ cũng biết Người: “Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi”. Đức Giêsu không ngại ngùng trong việc để cho mình được nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại có cảm giác đó. Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời của mình. Sẽ không có ai biết được những cảm giác, nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực sự của chúng ta là gì.
Có lẽ nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút mình lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết được con người bất toàn của mình, thì họ sẽ khước từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về chúng ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về mình, hơn là đúng với con người của chúng ta. Sẽ thật là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi, mà chưa bao giờ được người khác biết đến một cách sâu xa, chưa bao giờ được kể ra câu chuyện cuộc đời mình.
Làm sao chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối với họ, do đó, chúng ta đã ngăn cản không để cho họ nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối với chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng ta, thì liệu chúng ta có trách cứ họ không?
Đức Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có sự sống đời đời sau này. Nhưng đây phải là một công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe tiếng nói của chủ chiên và đi theo họ. Chúng ta phải nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.
Suy Niệm 2. TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN.
Đức Giêsu nói “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với Người, đàn chiên quý giá đến thế nào. Nếu có Người giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu xa nào có thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.
Khi kẻ làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát người thân của mình mà thôi. Người chủ tốt lành của đàn chiên thì không như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Thật không may, chúng ta đang sống trong một thế giới mà đàn chiên, đặc biệt là những con cừu, thường bị vồ chụp và vật cho chết. Nhưng đây chính là một thế giới mà trong đó, hơn bao giờ hết, người ta càng cần đến người chủ chiên tốt lành. Ngày nay, tất cả mọi sự đều có khuynh hướng to lớn ra và được tập trung hoá, làm cho việc nhận biết và săn sóc trở nên không dễ dàng gì, bởi vì tất cả mọi sự đều mất đi tính chất con người. Trong hệ thống này, con người được thuê mướn và củng cố vì hiệu quả công việc, chứ không vì tình yêu và sự quan tâm săn sóc, mà họ có khả năng bày tỏ ra.
Ngày nay, người chủ chiên tốt lành không chắc hẳn phải đương đầu với một đàn chó sói. Nhưng họ có thể phải đương đầu với một điều gì đó còn tệ hại hơn – một bè lũ tội phạm. Philip Lawrence là một hiệu trưởng tại trường Công Giáo Thánh George ở Luân Đôn. Vào một ngày trong tháng 12 năm 1995, ông đã bị đâm nay bên ngoài trường học của ông, trong khi đang cố gắng bảo vệ một trong số các học sinh đang bị một tên côn đồ tấn công, và ông đã chết vì những vết thương quá nặng. Ông đã được các thính giả cảu chương trình Thời Đại Ngày Nay ở đài phát thanh BBC bình bầu là Nhân Vật Ấn Tượng nhất trong Năm. Ông nhận được 23.130 phiếu bầu, trên cả ông John Major, người sau này làm Thủ tướng (18.260 phiếu).
Vợ ông đã nói rằng chồng bà “chắc chắn sẽ cực kỳ bối rối về tất cả điều này. Ông ấy rất khiêm tốn tới mức độ không tán thành chính bản thân mình”. Thật là một điều hay, khi biết rằng người ta vẫn còn nhận ra sự vĩ đại nơi một hành động giống như vậy. Và thật là một điều hay, khi biết rằng có người nào đó có thể làm được một hành động như vậy, và nhìn vào hành động này như là một điều gì đó bình thường và tự nhiên.
Philip Lawrence là một người chủ chiên nhân hậu đối với các học sinh của ông. Ông đã cố gắng tạo ra được một môi trường an toàn trong đó các học sinh có thể được học hỏi và phát triển, để có thể tự hào về bản thân mình. Đối với ông, ông không thể chấp nhận nổi sự việc cứ để mặc cho một trong số các học sinh của ông bị một tên côn đồ đánh, mà không ra tay ngăn cản.
Philip Lawrence nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng tình yêu đích thực có nghĩa là gì, và tình yêu đó có thể mang giá trị gì. Nếu chỉ yêu thương giới trẻ mà thôi thì chưa đủ, mà chúng con phải được biết rằng chúng được yêu thương. Điều này không chỉ áp dụng nơi học đường mà còn trong gia đình nữa.
Lawrence đã lấy được sức mạnh và tinh thần nơi đức tin Kitô hữu của ông. Ông đang mô phỏng theo tình yêu của Đức Giêsu, Chúa chiên lành, Đấng đã hiến mạng sống cho đàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh của Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đàn chiên, để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời.
Mỗi Kitô hữu được gọi là người mang tình yêu thương và sự chăm sóc. Chúa Nhật hôm nay là lễ của những người biết quan tâm đến kẻ khác. Lễ này khuyến khích và nâng đỡ những ai đang cố gắng noi guơng Chúa Chiên Lành, và khêu gợi lương tâm của kẻ chăn thuê.
Những người bước theo đường tình yêu thì tự mở ra khả năng sẽ hạnh phúc hơn những người khác, và cũng đau khổ hơn. Nhưng, như Carlo Carretto nói: “Không có gì là khủng khiếp trên trái đất này nếu điều đó dạy cho chúng ta biết yêu thương”.
26. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Nếu có dịp quan sát những trẻ nhỏ, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Những trẻ của thời đại, dường như càng ngày chúng càng thông minh hơn những thế hệ trước. Từ việc học hành, cách ứng xử, và khả năng biến báo. Đó là những trẻ mà khả năng trí tuệ đã được phát triển. Còn những trẻ rất nhỏ thì sao?
Chúng ta sẽ càng ngạc nhiên hơn khi quang sát. Chúng chưa biết gì, chưa nhìn thấy được nhiều, cũng chưa phân biệt được rõ ràng về bất cứ điều gì. Thế mà khi chúng khó chịu và dùng vũ khí tối hậu của mình là tiếng khóc, thì không ai có thể ngăng được. Chỉ có người mẹ của chúng, khi bà xuất hiện, cho dù không lên tiếng, bà chỉ cần chạm đến, đứa bé sẽ có phản ứng khác ngay, cái phản ứng mà không ai có thể tạo ra cho nó được.
Đứa bé luôn nhận ra người mẹ của mình. Nó cảm nhận rằng: đây là nơi nó được an toàn, được thương yêu, được sống và được bảo vệ. Nó vui mừng khi được ở trong vòng tay của người mẹ. Nó vui mừng khi nhận ra mẹ. Nó cũng có phản ứng khi phải rời xa mẹ, nhất là khi xa vắng người mẹ lâu giờ, nó càng có phản ứng mạnh hơn. Đó là một tâm tình thiêng liêng không ai có thể giải thích được, cái tâm tình gắn liền với con người không thể tách rời được.
"Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng theo Tôi."
Chúa Giêsu dùng hình ảnh Chủ Chăn và đàn chiên để diển tả tâm tình của Ngài với con người. Ngài yêu thương và bảo vệ cho đàn chiên. Ngài chăm sóc, gìn giữ cho đàn chiên được an toàn. Ngài lo cho đàn chiên được sống, không những bằng của ăn mà còn cả tình yêu thương bao la. Ngài dùng cả mạng sống mình để bảo vệ cho đàn chiên. Ngài không ngần ngại bất cứ một việc gì khi thấy đàn chiên có lợi. Tình yêu thương của Ngài đối với đàn chiên không thể hiểu được. Ngài muốn những con chiên trong đàn nghe tiếng Ngài gọi để được sống. Ngài muốn những con chiên ở trong sự bảo vệ của Ngài để được an toàn.
Đàn chiên của ngài có những con chiên ngoan, luôn biết lắng nghe để được bảo vệ, thương yêu chăm sóc và có cuộc sống tốt đẹp. Nhưng cũng có những con chiên, đang ở trong đàn, đang được bảo vệ bằng tình yêu thương, đang được nuôi sống, nhưng nó không còn khả năng lắng nghe. Những con chiên đó đang muốn tìm một cuộc sống đặt biệt hơn những con chiên khác. Nó cũng đang lắng nghe, nhưng không phải tiếng của chủ mà tiếng nói tự nơi đâu. Nó đang sống trong đàn mà dường như không thể hòa hợp với đàn.
Nó gây phiền phức, chèn ép và đè bẹp những con chiên bên cạnh mà vẫn nghĩ rằng mình đang giúp đỡ. Vì nó không còn khả năng lắng nghe, nó chỉ biết làm, không phải theo ý chủ, nhưng theo một tiếng nói nào đó. Nó không còn vui mừng khi nhận ra chủ nữa, vì nó không còn nhận ra được tình yêu thương của chủ, nên nó không còn thấy được an toàn trong tay chủ. Nó tìm sự an toàn nơi một người nào khác, nơi một tiếng nói nào khác, ở ngoài người chủ đã từng thương yêu chăm sóc nó.
Mỗi người trong chúng ta là một con chiên trong đàn của Chúa. Chúng ta có là một con chiên ngoan, như đứa trẻ vui mừng khi nhận ra mẹ. Chúng ta có nhận ra và lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta trong từng trường hợp của cuộc sống? Chúng ta có cảm thấy được an toàn trong lòng bàn tay Chúa? Hay giờ đây chúng ta đang đi tìm sự an toàn ở một nơi nào đó? Mỗi người để ra một phút suy tư để xem chúng ta đang là chiên ngoan biết lắng nghe, hay là chúng ta không còn khả năng lắng nghe tiếng Chúa mà chỉ lắng nghe một tiếng nói nào đó.
Trong đời sống hằng ngày, nếu có Chúa bên cạnh, chúng ta có dám nói những lời mà mình đã từng nói hay không? Chúng ta có dám làm những việc mà mình đã từng làm hay không? Chúng ta đang sống theo tiếng của Vị Chủ Chăn hay đang theo tiếng nói nào, tiếng nói của riêng mình hay của một ai khác? Trả lời được những câu trên chúng ta sẽ biết được mình là một con chiên như thế nào.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người luôn là một chiên ngoan trong đàn, để chúng ta xứng đáng là một người con được ấp ủ trong tay mẹ hiền.
27. Chúng theo Tôi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa, các thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng, những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của Chúa"
Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp, thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó chút hương thơm của Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc, Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa: cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng, cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những trái tim không san sẻ, dám yêu hết mình, dám sống hết tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người, đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả nước ta có gần 2.000 linh mục và khoảng 7.000 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân. Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu, chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn và hãy giúp cho họ nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu, nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ, và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu, một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường để theo sát Ngài hết sức có thể, một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.
Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu. Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát. Nhờ sống nghèo, họ được giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt. Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng. Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng. Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi, bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn dâng mình cho Chúa. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời kinh tế thị trường có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?
Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống đời thánh hiến? Bạn có quen nhiều nhà Dòng không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức, cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương, thấy được những mất mát của bao người đau khổ, và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, sống như Ngài đã sống và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con, thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội, để tất cả trở thành những môi trường tốt giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
28. Bắt đầu từ tình yêu
"Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta" (Ga 21, 17)
Một buổi sáng đẹp trời, người ta bỗng thấy một đàn cừu đang ăn cỏ phía công viên; rồi chúng tiến lại phía trại lính. Từ xa mấy trăm mét, anh lính gác đã phát hiện...Lát sau, Chỉ còn mấy chục mét nữa là tới bờ rào, bên trong là bãi mìn, nơi cấm xâm nhập. Anh quát lên lớn tiếng. Không ăn thua gì! Đàn cừu cứ ung dung tiến tới. Anh lấy đất đá chọi tới; không được...lại không thấy ai là người chăn đàn cừu cả. Anh đánh kẻng báo động. Sĩ quan trực lập tức chạy ra. Anh hỏi: có nên nổ súng để đe dọa? Ông này cũng phân vân, cuối cùng không đồng ý: vì sẽ có hại nhiều hơn... Làm sao đây? Mấy chục binh lính đã thành hàng phía trước đàn cừu. Chúng vẫn ung dung tiến tới, băng qua họ, đi theo con đầu đàn...15 phút, rồi 20 phút trôi qua! Bất thần có tiếng sáo nổi lên. Tự dưng con đầu đàn ngẩng lên nghe tiếng sáo và đi ngược về phía đó. Cả bầy cừu lập tức đổi hướng đi theo con đầu đàn, theo tiếng sáo... Thì ra chú bé chăn cừu vì mê chơi đã để bầy cừu đi lạc. Chỉ cần nghe tiếng sáo quen thuộc của chú, cả bầy đi theo ngay...Bầy cừu đã nghe tiếng chủ nó...
a. * chiên: còn gọi là cừu, trừu, là loại gia súc hiền lành nhất và có lợi cho người nuôi nhất. Người ta nuôi chiên để xén lông, làm len dệt vải, lấy sữa, mỡ và thịt. Người Do thái không ngạc nhiên khi thấy Chúa dùng hình ảnh này, vì nghề chăn chiên là nghề chính, rất quen thuộc với họ.
* động từ biết: không chỉ đơn thuần là biết, phân biệt với người, với vật khác. Biết còn là tin, đặt niềm tin nơi người đó. Chiên biết chủ chăn, vì chiên tin nơi chủ của mình.
b. Dựa vào kinh nghiệm của mục tử ở Trung Đông, người ta thấy Chúa muốn trình bày mối tương quan đặc biệt giữa mục tử và đàn chiên như sau:
- Chiên luôn đi theo chủ chăn: Người chăn chiên luôn đi trước đàn chiên, vì chúng muốn được hướng dẫn và che chở. Việc chăn bò, hay con vật khác, người chăn đi đàng sau để lùa chúng đi tới.... Chúa Giêsu dùng hình ảnh: "mục tử chăn chiên" để chỉ về mình. Chúa là mục tử, là chủ chăn tốt lành, sẵn sàng hi sinh mạng sống mình để lo cho đàn chiên.
- Chiên nghe tiếng chủ chăn: Ngày hôm nay bên nước Do thái, người ta vẫn còn thấy hình ảnh đàn chiên như Chúa diễn tả. Vào lúc chiều xuống, khi đàn chiên chuẩn bị về chuồng, các chủ chăn đưa chiên đến uống nước ở một dòng suối nào đó. Nhiều bầy chiên khác nhau của nhiều chủ chăn, có thể trà trộn nhau tại nơi uống nước. Chủ chiên không sợ chiên lạc. Khi ra về, chỉ cần một hồi còi, một tiếng sáo...con chiên tự động biết đàn của mình mà tách ra theo đàn mình để về chuồng: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. (Gn 10, 27)
Chiên rất thân thiện với chủ chăn: người ta nói rằng khi chiên đang nằm ngủ trong đàn, chủ chăn có thể đi lại hoặc bước qua mình con chiên, chúng vẫn không thức giấc. Ngược lại một người lạ mặt mà làm như thế, con chiên sẽ hốt hoảng và gây kinh hoàng cho chúng. Điều này muốn nói, chủ chăn và đàn chiên phải rất gần gủi, thân thiện với nhau. Chủ chăn và đàn chiên của mình thân thiện đến mức có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên: vui mừng hoặc đau thương. Chủ chăn còn biết tên gọi và tính tình từng con chiên: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời... (Gn 10, 27-28)
c. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, là con chiên của Chúa Kitô, dĩ nhiên Thiên Chúa Người Mục Tử Nhân Lành biết chúng ta rất rõ. Còn chúng ta là con chiên thì chúng ta đã biết được Chủ Chăn mình như thế nào và đến mức độ nào? Hay là ta chưa biết gì cả?
29. Chúa Chiên Lành - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10:27).
Bao biến cố quan trọng đã liên tiếp diễn ra trong lòng Giáo hội suốt cả Năm Đại Thánh 2000. Từ việc phong chân phước cho Thầy giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam, đến phong hiển thánh cho 120 anh hùng tử đạo Trung hoa; từ sự kiện Đức Thánh Cha công khai sám hối những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ đến việc hành hương thánh địa Palestine; từ đại hội Giới trẻ, qui tụ trên 2 triệu thanh niên thiếu nữ từ khắp nơi đổ về Rôma, đến việc tiết lộ bí mật thứ ba Fatima… Nhưng biến cố đáng ghi nhận hơn hết phải là việc Đức Thánh Cha chuẩn y bản tuyên ngôn Dominus Iesus (Chúa Giêsu) vào ngày 16.06.2000, và sau đó được Toà Thánh công bố ngày 05.09.2000.
Bản Tuyên ngôn Dominus Iesus là lời xác tín “Không có ơn cứu độ ngoài Chúa Giêsu”. Đây cũng là lời khẳng định tầm mức quan trọng của Giáo hội Công giáo trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Bản tuyên ngôn cảnh giác người tín hữu trước những tư tưởng muốn tương đối hoá các tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau, đều chứa đựng một số yếu tố cứu độ nào đó dù không tôn giáo nào mạc khải trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa cho con người.
Bản tuyên ngôn phủ nhận có sự đối kháng giữa “não trạng thiên về luận lý của phương tây” và “não trạng thiên về biểu tượng của phương đông”. Bởi vì hệ luận tất yếu của nó là sự khước từ Công giáo như con đường cứu độ tốt nhất cho dân tộc châu Á.
Đang khi đó, Giáo hội tự khẳng định là “cần thiết cho ơn cứu rỗi của nhân loại.” Điều này không có hàm ý “người không có đạo sẽ không được cứu độ”. Đúng hơn, ơn cứu độ của Chúa Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã liên kết cách nhiệm mầu những người ngoài Công giáo với Giáo hội của Ngài.
Sau khi bản Tuyên ngôn được chính thức công bố, một số phản ứng tiêu cực đã xuất hiện. Có người cho rằng lời lẽ của Dominus Iesus quá trịch thượng với câu “Chỉ nơi Đức Giêsu mới có ơn cứu độ”. Có người nhận xét: bản Tuyên ngôn như thế sẽ làm cản trở con đường đại kết. Thậm chí, có người dám nghĩ Đức Thánh Cha đã không sáng suốt nhận định tình hình trước khi công bố Dominus Iesus. Đây chẳng khác chi thái độ của một số người Do thái sau khi Chúa Giêsu nói về vai trò chủ chiên của mình. Họ tuyên bố: “Hắn bị quỉ ám, và ra điên sảng. Tại sao các ngươi cứ nghe hắn?” (Gn 10:20)
Nhưng rồi, trong ngày tôn phong hiển thánh các anh hùng tử đạo Trung Hoa, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định tính chất độc nhất và ơn cứu độ phổ quát của Chúa Giêsu và Giáo hội qua bài giảng như sau:
“Bằng việc công bố Tuyên ngôn “Chúa Giêsu” mà Ta đã đặc biệt chuẩn y vào thời cao điểm của Năm Thánh, Ta muốn mời gọi tất cả các Kitô hữu hãy cùng canh tân sự tín trung của mình vào Chúa Giêsu trong niềm hân hoan của lòng tin, đồng thời cùng nhau làm nhân chứng cho Đấng, hôm nay cũng như hôm qua, ‘là đường, là sự thật, và là sự sống’ (Ga 14:6).”
“Lời tuyên xưng Đức Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ cho chúng ta thấy nhan Cha (x. Gn 14:8) không phải là một sự trịch thượng đối với các tôn giáo khác, nhưng là niềm cảm mến tri ân vì Đức Kitô đã tỏ mình cho chúng ta, dù không phải vì công trạng của chúng ta. Nhưng đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta tiếp tục trao tặng những gì đã nhận lãnh và thông truyền cho người khác những gì được tặng ban. Trong ý nghĩa đó, Chân Lý và Tình Yêu chính là Thiên Chúa đã được ban tặng cho mọi người và thuộc về mọi người.”
“Cùng với Thánh Tông đồ Phêrô, chúng ta tuyên xưng “Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác” (Cv 4:12). Bản Tuyên ngôn Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Công đồng Vaticanô II, nhận định rằng sự tuyên xưng này không có ý loại trừ ơn cứu độ khỏi những ai không phải Kitô hữu, nhưng là chỉ ra cội nguồn ơn ấy nơi Đức Kitô, trong Ngài, con người và Thiên Chúa được hiệp nhất. Thiên Chúa soi sáng cho người ta theo cách thế phù hợp với tình trạng tâm linh và thể chất của họ, giải cứu họ bằng những đường lối mà chỉ có Ngài biết.”
“Bản tuyên ngôn phân định rõ ràng những điểm quan yếu của Kitô giáo. Điều này không cản trở sự đối thoại [đại kết] nhưng chỉ ra nền tảng của nó. Bởi vì đối thoại mà không có nền tảng căn bản thì sẽ thoái hoá thành những ngôn từ trống rỗng…”
“Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng mà Chúa Giêsu trên Thánh giá đã ký thác làm Mẹ nhân loại, trở giúp chúng ta cùng nhau lớn lên trong niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, trong niềm hy vọng tất cả sẽ nhận được ơn cứu độ nơi Ngài, và trong tình yêu thương như dấu chỉ của con cái Thiên Chúa.”
Hôm nay xem lại một vài văn kiện và những biến cố sảy ra trong Năm Thánh, tôi cảm thấy thấm thía lời nói của Đức Giêsu: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Và Ta ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10:27-28).
Có những con chiên không quen nghe tiếng chủ mình. Không tha thiết tìm hiểu, học hỏi và suy tư. Nó khó chịu khi phải theo chủ. Thích phóng khoáng và tương đối hoá mọi sự. Cứ tưởng không cần theo Chúa, chỉ “ăn ngay ở lành” là tự giải thoát mình. Nhưng có ăn ngay ở lành nào mà không do tình yêu và lẽ phải tác động. Thế nên, nói cho cùng thì cũng chính nhờ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu và Chân Lý soi chiếu, mà người ta tìm thấy được “sự sống đời đời.”
Hiệp cùng với Đức Thánh Cha, vị mục tử đại diện Chúa Giêsu ở trần gian, xin dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin tha thiết cho bao con chiên đang lầm đường lạc lối, không biết lắng nghe và không chịu bước theo tiếng nói của Giáo hội. Xin cầu cho bao con chiên khác chưa thuộc cùng một ràn, được nên chung một đàn, với một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô (Ga 10:16). Xin cho Tin mừng Tình yêu Cứu độ của Ngài được mọi dân nước tin nhận. Để nhờ đó hoa quả hạnh phúc thiên đàng sẽ nở tươi ngay trên trần gian.
30. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hùng)
Tại Ấn Độ người ta bắt khỉ bằng cách làm một hộp gỗ chắc chắn, cắt một lỗ nhỏ vừa đủ cho con khỉ thò tay vào, nhưng nếu nó nắm trong tay hột "nut" đựng trong hộp, nó không thể lấy tay ra được. Do đó con khỉ có thể chọn một trong hai việc: nó có thể buông hạt "nut" ra và ra đi tự do, hoặc chịu bị bắt. Nhưng con khỉ thường nắm chặt lấy hạt "nut". Khả năng lựa chọn nói lên quyền tự do, tuy nhiên con khỉ không có trí khôn nên không hiểu biết và quí trọng tự do.
Trong tình yêu thương Thiên Chúa đã lựa chọn con người để cho họ được chia sẻ sự sống đời đời. Bối cảnh của đoạn Phúc âm ngắn hôm nay là Chúa đang nói chuyện với người Do Thái trong khi đi dạo tại đền thờ Giêrusalem. Họ trách Chúa Giêsu sao lại để họ nghi nan, thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp cho họ, nhưng nói rằng: "Chiên của ta thì nghe tiếng ta" ta biết chúng và chúng theo ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời" không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay ta. Cha ta, Đấng đã ban chúng cho ta, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Ta và Chúa Cha là một."
Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết đức tin vào Ngài là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn, là chiên của Ngài. Đức tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để bước theo. Loài chiên có đôi mắt rất kém, cận thị nặng, nếu có kính chắc phải dày hơn đế chai. Vì thế nó phải theo nhau thành đoàn, và lắng nghe tiếng người chăn chiên mà theo, không theo tiếng người lạ. Ngày nay đức tin nơi nhiều người Kitô hữu đang bị phai nhạt, giảm sút. Sống trong xã hội hưởng thụ vật chất, ưa tìm an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để thoải mái chạy theo những ước muốn bất chính tự nhiên của con người. Người ta dùng nhiều lý do để bào chữa cho tội lỗi mình, để khỏi phải thống hối và dứt bỏ cảm giác thoải mái do cuộc sống bất chính đem lại. Con người đang dùng tự do của mình để chối bỏ Thiên Chúa, không muốn lắng nghe tiếng Ngài là Đấng Chăn Chiên tốt lành.
Hậu quả của việc chối bỏ Thiên Chúa dẫn đưa con người đến đâu? Nhìn vào xã hội ngày nay, con người ai cũng tham sống, muốn sống lâu, sống bảo đảm về vật chất, về tinh thần. Thế nhưng cái chết vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai, từ em bé sơ sinh, nàng thiếu nữ, chàng thanh niên tuổi xuân phơi phới, cho đến cụ già râu tóc bạc phơ. Biết bao nhiêu thay đổi biến chuyển trong cuộc đời khiến con người điên đảo, hụt hẫng, thất vọng đến lao đầu vào cái chết" chỉ trong một lúc, người giầu có với vợ đẹp con khôn có thể mất đi tất cả những điều đó. Khi chối bỏ Thiên Chúa con người chỉ đi đến chỗ diệt vong, vì chỉ một mình Ngài có đủ bản lãnh ban cho chúng ta cuộc sống đời đời, cuộc sống bảo đảm không bị ai cướp đi mất.
Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã đem lại cho con người. Sự sống đó chỉ dành cho những ai lựa chọn nghe theo tiếng Chúa, sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô chịu tử giá và phục sinh. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống gian dối, lừa đảo để được mối lợi vật chất, bỏ đi mối tình ngang trái, vụng trộm chỉ đưa đến bất hạnh, tan nát gia đình, bỏ đi gói thuốc, chai rượu, những đêm thâu bên canh bạc, bỏ đi hận thù, ganh ghét, nói xấu, chửi bới, đánh đập nhau... và còn biết bao điều bất hạnh khác mà chúng ta có thể đang mắc phải. Bỏ đi được những điều đó chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm thấy cuộc sống đời đời và bảo đảm không bị mất.
31. Tôi có thuộc đoàn chiên Chúa không?
(Suy niệm của Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh)
Chúa đưa ra tiêu chuẩn: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi (xem Gioan 10,27-30).
Những người sống nghề chăn nuôi và ruộng vườn như dân Do thái, họ hiểu ngay lời Chúa vừa nói. Người chăn bầy chiên mấy trăm con, chỉ cần lên tiếng kêu, các con chiên đang ăn cỏ lẫn lộn với bao nhiêu con khác thuộc nhiều bầy khác liền ngoan ngoãn chạy tới người chăn. Ai nuôi chó giữ nhà cũng có kinh nghiệm này: chủ lên tiếng kêu, chó nhảy tới hoặc đang sủa, chủ đe, chó im ngay.
Chiên nghe tiếng chủ vì chiên phân biệt được tiếng của chủ với tiếng người khác, vì chiên quen tiếng chủ, vì chiên thuộc về chủ. Nếu không phải chiên của chủ thì không nghe tiếng chủ. Người thuộc về Chúa thì nghe tiếng Chúa, không thuộc về Chúa thì không nghe tiếng Chúa.
Người Do Thái hỏi Chúa: Mãi đến bây giờ chúng tôi còn phân vân về ông, ông là ai xin nói ngay cho chúng tôi biết. Hỏi như vậy tỏ ra họ chưa thuộc đoàn chiên Chúa vì “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”, nhận ra Chúa ngay, đâu cần phải hỏi. Hỏi như vậy, h? tỏ ra là kẻ xa lạ, người xa lạ đến để tìm hiểu. Nhiều lần, người Do thái hỏi Chúa là ai và Chúa dd? ngh? họ cứ nhìn vào việc làm, lời nói của Chúa mà biết. Lần này, Chúa trả lời mạnh hơn: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tức là nghe tôi nói, thấy việc tôi làm thì nhận ra tôi rồi, không phải để tôi nói tôi là ai.
Trong đời sống, có lúc gặp nguy nan, ta kêu cầu Chúa mà không được, thấy Chúa cứ yên lặng, ta đâm ra nghi ngờ Chúa, hỏi Chúa là ai? Một câu hỏi tố cáo ta, hình như ta muốn bước khỏi đàn chiên, hình như Chúa không phải là chủ chăn của ta.
Theo Chúa vì đời sống sung túc, vì gặp nhiều may mắn xem như là ơn của Chúa ban riêng cho mình thật chẳng có gì bảo đảm, vì Chúa chỉ bảo đảm: Tôi cho chúng được sống đời đời và không ai có thể cướp chúng khỏi tay tôi. Hai bảo đảm săn sóc và ban sự sống đời đời thuộc lãnh vực tâm linh, còn những điều ta lo lắng, băn khoăn trong đời sống trần gian, Cha v?n gip nhung ta phải tự giải quyết lấy. Lời Chúa soi sáng hướng dẫn, ơn Chúa phù giúp ta để ta giải quyết, lo lấy, làm sao cho phù hợp Thánh ý Chúa. Chúa phù trợ mà ta không cảm thấy nhưng chắc chắn là Chúa luôn nhìn thấy ta, theo dõi ta từng bước.
Để đảm bảo cho lời nói “ban cho đàn chiên sự sống đời đời”, cũng phải hiểu phải có đời sống trần gian chứ, Chúa Kitô nại tới Chúa Cha: đoàn chiên của Chúa Cha và Chúa Cha trao cho Chúa Kitô. Chắc chắn không có một quyền nào lấy đoàn chiên khỏi tay Chúa Cha, nhưng khi đoàn chiên trao cho Chúa Kitô, đoàn chiên có thể mất không? – Không thế mất vì Chúa Kitô có quyền như Chúa Cha, vì thế Chúa Kitô tuyên bố: Tôi và Cha tôi là một.
Chúng ta cảm tạ Chúa khi nghe bài Phúc âm này vì chúng ta thuộc đoàn chiên Chúa, tức là chúng ta đã nghe tiếng Chúa và nhận ra Chúa là chủ chăn của chúng ta. Bao lâu còn nghe tiếng Chúa thì chúng ta còn là chiên của Chúa. Nếu không nghe tiếng Chúa từc là không sống theo lời Chúa nữa, thì lúc đó chúng ta tự ý tách mình khỏi đoàn chiên của Chúa, ta sẽ “đánh mất sự sống đời đời” và cả ý nghĩa đời sống trần gian nữa. Bài Phúc âm vừa làm ta vui vừa bắt ta phải sống theo tiếng Chúa dạy.
32. Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.
Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đã bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2. Có lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
3. Bạn cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?
33. Chúa Nhật 4 Phục Sinh - JKN
1. Người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên
Đọc bài Tin Mừng, ta thấy ngay sự quan hệ tốt đẹp, đầy yêu thương, và gắn bó đến mức sống chết với nhau giữa mục tử và đàn chiên. Quan hệ ấy quả là gương mẫu tuyệt vời cho mọi quan hệ ở trần gian này giữa các vị mục tử và những giáo hữu mà các ngài có trách nhiệm chăm sóc. Quan hệ giữa mục tử và giáo hữu có tốt đẹp hay không tùy thuộc vào cả hai phía, nhưng bình thường thì chủ yếu và tiên khởi vẫn thuộc về phía mục tử.
Đức Giêsu nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Tại sao chiên lại nghe và theo người mục tử, mà không nghe và theo người lạ hay kẻ trộm? Chính vì đàn chiên đã cảm nhận được tình yêu thương đậm đà mà người mục tử dành cho chúng. Để là mục tử đúng nghĩa, điều quan trọng là phải có tình yêu đối với những người mà Thiên Chúa trao trách nhiệm cho mình chăm sóc. Điều này đòi hỏi người mục tử phải yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu thật sự và nồng nàn.
Chắc chắn không phải là không có ý nghĩa việc Đức Giêsu, trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Ngài, đã phải hỏi ông tới ba lần: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?”. Thật vậy, có yêu Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu, có yêu Đức Giêsu nồng nàn thì mới có đủ tình yêu cần thiết để hy sinh cho đàn chiên như nhu cầu thực tế của đàn chiên đòi buộc. Người mục tử có thật sự yêu thương đàn chiên, thì đàn chiên mới cảm nhận được tình yêu người mục tử dành cho họ, để dựa vào đó họ tin tưởng và nghe theo người mục tử. Người mục tử sẽ chẳng làm được gì ích lợi cho đàn chiên nếu đàn chiên không tin tưởng và không vâng nghe lời người mục tử.
Tóm lại, muốn đàn chiên tin tưởng và nghe theo mình, người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên.
2. Tình yêu của người mục tử phải được biểu lộ bằng hành động.
Làm sao bổn đạo có thể cảm nhận được tình yêu của mục tử đối với mình, nếu người mục tử không có những hành động cụ thể biểu lộ tình yêu ấy? Đức Giêsu đã đưa ra những hành động cụ thể của Ngài, với tư cách là Mục Tử tốt lành như sau:
- Trước hết là “tôi biết chúng” (Ga 10,27), và có thể “gọi tên từng con” (10,3). Nếu người mục tử yêu thương chiên của mình thật sự, thì sẽ phải chú ý đến nhu cầu của từng con chiên một, để chăm sóc chúng, để đáp ứng đúng nhu cầu của từng con. Tôi biết có những linh mục thường xuyên đi thăm các gia đình trong họ đạo, và biết rõ tên của từng người trong từng gia đình, cùng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình một. Người bổn đạo sẽ cảm nhận được tình thương của người mục tử ngay khi thấy ông gọi trúng tên mình, biết rõ hoàn cảnh của mình, và đáp ứng kịp thời đúng nhu cầu của mình.
- “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (10,10), “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (10,28). Người mục tử tốt lành luôn quan tâm đến sự sống, hạnh phúc và sự an nguy của đàn chiên, nhất là đời sống tâm linh. Nhưng ông không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến cả đời sống thực tế của đàn chiên. Đức Giêsu luôn luôn quan tâm đến nhu cầu vật chất của dân chúng: chẳng hạn trong phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5), hay sau khi làm cho đứa con gái ông Gia-ia (trưởng hội đường) chết sống lại, thì Ngài “bảo họ cho con bé ăn” (Mc 5,43).
- “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Không người mục tử nào ngu dại đến nỗi coi sự sống của đàn chiên quí hơn mạng sống mình, trừ trường hợp đàn chiên ở đây không phải là thú vật, mà là những con người, là hình ảnh Thiên Chúa hay con cái Thiên Chúa, hay nói cách khác là hiện thân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đã yêu thương con người đến nỗi đã sẵn sàng hy sinh Con Độc Nhất của mình cho con người (x. Ga 3,16). Người bổn đạo đối với người mục tử không phải chỉ là những con chiên mà là những linh hồn hết sức quí giá, đáng cho người mục tử hy sinh mạng sống mình vì họ. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người làm thuê, hay mục tử giải được biểu lộ bằng hành động hiệu, là “khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy (...) không thiết gì đến chiên” (Ga 10,12-13).
3. Những mục tử xấu, giả hiệu
Thánh Kinh không chỉ nói đến những mục tử tốt lành, nhưng còn nói đến những mục tử giả hiệu - mà Đức Giêsu ví như bọn chăn chiên thuê - chỉ biết nghĩ đến mình, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của mình, chỉ biết rút ra những lợi lộc từ đàn chiên, mà không nghĩ gì đến quyền lợi hay hạnh phúc của đàn chiên. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (...) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng” (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en viết: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (...) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6). Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en để nguyền rủa loại mục tử này: “Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (...) để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8b-10).
Thời nào cũng có những mục tử nhân lành, vị tha, nhưng chẳng có thời nào lại vắng bóng những mục tử xấu, ích kỷ. Điều đáng tiếc là trong một số giáo hội địa phương, đời sống thoải mái với vật chất đầy đủ và mặc nhiên được trọng vọng của các linh mục, giáo sĩ đã khiến cho khá nhiều người phấn đấu để trở nên linh mục, giáo sĩ vì những động cơ thấp kém. Vì thế, trong những giáo hội ấy, những mục tử nhân lành dám sống chết vì đàn chiên, dám hy sinh cho đàn chiên không nhiều như trong những giáo hội mà người ta được thúc đẩy làm linh mục và giáo sĩ vì những động cơ siêu nhiên hơn. Do đó, những linh mục và giáo sĩ tương lai cần phải luôn luôn quan tâm thanh lọc động cơ thúc đẩy mình theo đuổi đời sống tu trì. Động cơ tốt nhất phải là tình yêu đích thực và nồng nàn đối với Thiên Chúa và tha nhân, muốn cho tất cả mọi người đều được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên. Nhưng chắc chắn cũng có những mục tử chưa yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi. Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cải thế giới và xã hội thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa tình người hơn. Amen.
34. Mục tử nhân lành
Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay Ga10, 27-30 cùng với việc hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành làm cho tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Chiên Lành được các nhà tạc tượng dựng nên ở đây đó. Đó là một hình ảnh Đức Kitô mục tử, tay cầm gậy, tay nâng đỡ con chiên được Ngài vác trên vai. Một hình ảnh mục tử thật đẹp. Tay cầm gậy để bảo vệ đàn chiên khỏi lang sói, khỏi bị thú dữ tấn công cũng như có thể đưa đàn chiên của mình đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đến những dòng nước mát trong lành cho dù xa xôi. Tay còn lại nâng đỡ con chiên, nâng đỡ chứ không kiềm chặt, đã đặt chiên trên vai lại còn nâng đỡ ưu ái yêu thương chiên của mình "Ta là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên" (Ga10, 11). Có thể con chiên được vác trên vai là con chiên lạc. Đáng lý theo thường tình thì con chiên lạc sẽ bị rượt đuổi, thúc ép để mau trở về đàn. Nhưng với mục tử Giêsu thì tìm gặp con chiên lạc thì ân cần vác chiên trên vai, nâng đỡ đưa về đàn. Không ép buộc nhưng nâng đỡ để chiên tự do cảm nhận được tình yêu mà trở về đàn.
Trở lại đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ trong một câu Chúa Giêsu đã làm nổi bật quan hệ của Ngài với chiên của Ngài "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chúa Giêsu chính là vị mục tử thật và chiên của Ngài chính là mỗi người chúng ta. Trong câu nói của Chúa Giêsu có ba động từ được đưa ra làm nổi bật mối liên hệ giữa mục tử và đàn chiên
Biết: theo Kinh Thánh chữ biết có ý nghĩa sâu xa rộng lớn. Biết có nghĩa là yêu mến, là thuộc trọn về đối tượng, là gắn bó nên một với đối tượng. Chúa Giêsu biết chiên của mình nghĩa là Ngài yêu thương, nên một với mọi Kitô hữu. Ngài trao hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho đoàn chiên.
Phía đoàn chiên thì nghe và đi theo. Nghe là biết chấp nhận, tin tưởng hoàn toàn và thật lòng yêu mến.
Đi theo: Là thái độ dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa, dứt khoát là chiên của mục tử Giêsu, dứt khoát sống theo lời người. Mối tương quan của Chúa Giêsu mục tử và đoàn chiên hệ tại duy nhất trong tình yêu. Một tình yêu xuất phát từ chính Thiên Chúa. Nghe và đi theo là đòi hỏi của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn là chiên của Ngài. Cái "biết?" của Chúa Giêsu đối với mỗi người chúng ta là cái biết cá vị, không phải biết cách chung chung hay biết như những con số, nhưng là một cái biết từng người một trong mối liên hệ với Ngài.
Ở Châu Phi, có một bộ lạc khá kỳ lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có một người hỏi người dân bản địa có bao nhiêu con cừu. Anh đáp không biết. Vậy nếu lỡ mất một hai con thì làm sao anh biết được? Câu trả lời rất ý nhị "Không phải tôi mất một con số mà là tôi mất một bộ mặt..." phải có tình yêu thương nồng nàn gắn bó lắm với đoàn chiên mới cảm nhận được từng khuôn mặt của từng con một. Chúa Giêsu mục tử Ngài không xem chúng ta như những con số nhưng là từng con người một.
Hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy cầu xin cho các vị mục tử là những người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử biết nêu gương Thầy mình là vị Mục Tử Nhân Lành hy sinh cho đoàn chiên. Xin Chúa cho các ngài luôn để tâm học hỏi, suy niệm để luôn gắn bó, để múc được nguồn sống nơi Chúa Giêsu mục tử mà trao lại sự sống ấy cho đoàn chiên mà các ngài có nhiệm vụ dẫn dắt. Xin cho các Ngài cũng biết yêu thương đoàn chiên mà các ngài được trao phó để thể hiện được khuôn mặt Đức Giêsu mục tử nơi đoàn chiên mình.
Còn mọi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để trở nên con chiên của Chúa. Chúng ta cũng phải biết nghe và đi theo Ngài. Nghe và đi theo với một lòng tin tưởng sâu xa. Tin rằng Chúa luôn yêu thương và dẫn dắt chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi mang lại sự sống đời đời. Hơn nữa mỗi người Kitô hữu chúng ta còn có nhiệm vụ cầu nguyện để cho có nhiều người dám chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh để trở nên người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử đích thực.
Hãy gắn bó với Chúa Giêsu mục tử qua Giáo hội của Ngài để mỗi ngày chúng ta càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.
35. Mục Tử Nhân lành - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Người cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”(Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
36. Mục tử tốt lành
Hình ảnh vị mục tử nhân lành được tiên tri Edêkiel mô tả trong Thánh Kinh như sau: "Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta và sẽ chăm nom đến chúng. Ta sẽ tìm kiếm con chiên lạc mất; băng bó vết thương cuả con chiên bị thương tích, săn sóc những con chiên đau yếu... Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất. Đó là Đavít tôi tớ Ta. Chính Ngài sẽ chăn dắt chúng, sẽ là mục tử của chúng" (Ed 34, 2-23).
Những điều Edêkiel mô tả trên đây được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử tối cao. Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, người xuất hiện để đem lại bình an hạnh phúc cho nhân loại, trong ngày Người sinh ra các thiên thần đã ca hát "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương"; khi sống lại và hiện ra với các môn đệ Chuá luôn ban "bình an" cho các ông. Trong những năm giảng dạy, Chúa Giêsu giới thiệu: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta".
Quả thực, Chúa không chỉ giảng dạy, kêu gọi người Do thái "công chính" mà còn đến với dân ngoại, đến với người tội lỗi. Chúa đến với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4, 7-30) để hướng chị đến Nước Hằng Sống, uống vào sẽ không còn khát nữa. Người Do thái tỏ thái độ khinh bỉ và thù nghịch đối với người Samari, coi họ là một dân hỗn tạp về chủng tộc, rối đạo và ly giáo, còn Chúa Giêsu thì đến với họ để quy tụ họ lại trong đàn chiên của Chúa.
Chúa đến nhà dùng bữa và kêu gọi Matthêu (Mt 9, 10-13) và Giakêu (Lc 19, 1-10), người Do thái không tiếp xúc với người thu thuế tội lỗi như Matthêu và Giakêu, vì sợ mắc ô uế và bị giới lãnh đạo khiển trách. Chúa Giêsu đến với họ, vì Ngài đến để "tìm kiếm và cứu những gì đã mất". (Lc 19, 10)
Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh và cứu sống những người Do thái mà còn cho người ngoại nữa. Chúa Giêsu đã từng chữa bệnh và cứu sống người đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng người Rôma (Lc 7, 1-10), Chúa Giêsu còn chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của người đàn bà ngoại giáo người Canaan (Mt 15, 21-28).
Là Mục Tử tốt lành Chúa Giêsu đã rảo qua mọi nẻo đường, để tìm kiếm con chiên đã mất, để băng bó và chữa lành những con chiên bị thương, đau yếu như lời mô tả của tiên tri Edêkiel. Tương quan giữa mục tử và con chiên là tương quan vô cùng thân thiết Ta biết chúng và chúng nghe tiếng Ta; tiếng nói, âm giọng của mỗi người mỗi khác, nhưng đối với những người thân quen, ta chỉ nghe tiếng nói thôi, không cần thấy ngươì, thì ta đã biết là ai rồi. Các bạn trẻ và những người yêu nhạc, chỉ cần nghe tiếng hát thôi, không cần thấy người, thì đã biết là ca sĩ nào hát rồi. Đó là do mối thân quen, hay một sự quan tâm đặc biệt, hoặc tiếp xúc thường xuyên mà ta có được, để dễ dàng nhận ra tiếng nói của họ.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, không những có một tương quan vô cùng thân thiết với con chiên mà còn "thí mạng sống vì đoàn chiên", để bảo vệ đoàn chiên khỏi nguy hiểm. Mạng sống của người mục tử thì cao quý hơn mạng sống của con chiên, vậy mà người mục tử phải thí mạng sống quý giá của mình để đoàn chiên được an lành; chỉ có một tình yêu mạnh mẽ mới có thể làm được như thế, chỉ có một lòng yêu mến chân thành mới có thể làm được như thế! Lòng thương xót của Chúa quá bao la, Ngài không để hư mất những gì Ngài đã làm nên, cho dù nó nhỏ nhoi bé mọn thế nào. Điều đó được diễn tả trong câu chuyện mà Chúa Giêsu nói với người Do thái: "người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia lại ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rở vác chiên lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó" (Lc 15, 4-6). Hoặc "người đàn bà nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã mất". (Lc 15, 8-9)
Thật vô lý đối với chúng ta phải không? bỏ chín mươi chín để tìm một, vất vả tìm được một đồng, sau đó lại tổ chức tiệc mừng, (chắc cũng phải mất mấy đồng!) Đúng là chẳng biết tính toán gì cả? Nhưng nỗi lòng của Chúa là thế đó: Ngài luôn động lòng trắc ẩn, tiếc xót, Ngài không đành lòng để trượt mất một linh hồn nào cả, không hề tính toán thiệt hơn, miễn sao tìm lại được vì "giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15, 10). Nỗi của Chúa là thế đó, Mục tử nhân lành là thế đó!
Chúa Giêsu là vị mục tử tối cao, Ngài cũng cho xuất hiện trong Hội Thánh nhiều vị mục tử để chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục, các Linh mục được gọi là các mục tử có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên được giao phó cho mình. Nhìn rộng hơn một chút những ai được trao phó cho một nhiệm vụ nào đó, để chăm sóc cho một nhóm người nào đó cũng được coi là mục tử. Như vậy mọi người chúng ta đều được tham gia vào sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Người cha, người mẹ trong gia đình, những thầy cô giáo cũng có nhiệm vụ chăm sóc, dạy dỗ và trở nên mục tử cho những người mình có nhiệm vụ phục vụ.
Chúa Giêsu là Mục tử duy nhất tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá, giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Những ai đã được trao nhiệm vụ hãy tận tâm, tận lực chu toàn theo gương vị mục tử tối cao, dám thí mạng sống để đoàn chiên được an lành và tăng trưởng mọi mặt. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần các bạn trẻ dấn thân để trở thành mục tử chăm sóc đoàn chiên trong Hội Thánh.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử trong Hội Thánh và cho tất cả những người làm cha mẹ trong gia đình, cho các thầy cô giáo, để mọi người chu toàn tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin Chúa cho có thêm nhiều vị mục tử tốt lành, biết tận tụy chăm lo cho đoàn chiên của Chúa cách vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành. Amen.
37. Người mục tử.
Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái và đã được Kinh Thánh sử dụng nhiều lần.
Thực vậy, tiên tri Egiêkien đã mô tả Đấng Thiên Sai với vóc dáng của một người mục tử. Còn Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông đi theo, Ngài đã thực sự xúc động và nói:
- Ta thương đám dân này, vì họ bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không người chăn dắt.
Nhất là qua đoạn tin mừng hôm nay, Ngài đã nhấn mạnh chính Ngài là người mục tử nhân lành.
Theo thói quen lúc bấy giờ, thì khi chiều xuống, những người mục tử lùa đàn chiên của mình tới một nơi chung để nghỉ qua đêm. Nơi này thường có hàng rào bao bọc và một cửa ra vào, để người ta có thể kiểm soát một cách dễ dàng.
Ban đêm, người ta thay phiên nhau canh giữ đàn chiên. Ban sáng, các mục tử đến tìm đàn chiên của mình. Họ đứng ở cửa và lên tiếng kêu. Đàn chiên nghe tiếng họ và bước theo họ. Các mục tử khác cũng lần lượt làm như vậy và dẫn đàn chiên tới đồng cỏ.
Hình ảnh so sánh thật rõ ràng và trong sáng. Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Ngài vừa đi đầu, vừa chỉ đường, để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh, cũng như tới nguồn suối mát.
Là người tín hữu, chúng ta phải bước theo Ngài, cũng như phải noi gương bắt chước Ngài. Ngài nhận biết mỗi người chúng ta, nhưng đồng thời mỗi người chúng ta cũng phải nhận biết Ngài. Đây không phải chỉ là một sự nhận biết xuất phát từ trí khôn, mà còn phải xuất phát từ trái tim, từ cõi lòng, hay nói cách khác từ tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương Ngài.
Tuy nhiên, trong sự so sánh này có một vài điểm khác thường, được Chúa Giêsu sử dụng để làm nổi bật tình thương của Ngài đối với chúng ta.
Điểm thứ nhất, đó là người mục tử sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Nhưng chết để bảo vệ đàn chiên thì quả thật là hơi hiếm. Người mục tử trong phúc âm không phải chỉ bảo vệ sự sống của đàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính nhờ sự hiến mạng sống này, mà chúng ta có được kho tàng ơn cứu độ.
Điểm thứ hai đó là người mục tử gọi tên từng con chiên. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái và để hoa trái các con tồn tại muôn đời.
Là người tín hữu, chúng ta phải ý thức về ơn gọi của mình. Thực vậy, Chúa Giêsu luôn nói với mỗi người chúng ta:
- Hãy theo Ta.
Nhưng đồng thời, Ngài cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người. Nếu ngày xưa, Ngài đã mời gọi người phụ nữ Samaria, cũng như đã mời gọi ông Giakêu ra khỏi quãng đời tăm tối và tội lỗi, thì hôm nay, Ngài cũng vẫn âm thầm mời gọi chúng ta sám hối và hoán cải cuộc đời.
Thế nhưng, không phải chúng ta chỉ trả lời Ngài một lần thay cho tất cả. Lời mời gọi của Ngài không ngừng vang vọng suốt dọc cuộc đời chúng ta. Bởi đó, cuộc đời chính là một cuộc đối thoại liên tục, chính là một sự đáp trả không ngừng trước lời mời gọi ân tình của Chúa.
Điểm thứ ba, đó là người mục tử đi trước và đàn chiên theo sau. Người mục tử không đẩy đàn chiên đi trước, nhưng chính ngài là người đi trước để chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên.
Với chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng của người Kitô hữu là bước theo Chúa. Mặc dù hôm nay chúng ta không nhìn thấy Chúa nhãn tiền, nhưng tin mừng phúc âm của Ngài chính là những chỉ dẫn cần thiết và bí tích Thánh thể chính là lương thực bổ sức cho chúng ta suốt cuộc hành trình trần gian.
Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Còn chúng ta, chúng ta có thực sự là những con chiên trong đàn chiên đang sống dưới sự chăn dắt của Ngài hay không?
38. Chúa là mục tử
1. Đức Giêsu dùng hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái thời đó - chủ chiên và đàn chiên - để nói lên mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu đối với dân Người. Chủ chiên đích thực luôn yêu thương, lo lắng cho chiên, nhưng từng con chiên cũng như đàn chiên muốn phát triển tốt thì phải lắng nghe và đáp lại sự hướng dẫn của chủ. Chiên cho dù có khôn như thế nào đi nữa, nhưng cũng chỉ là một loài vật, vậy mà còn biết nghe theo tiếng chủ, còn chúng ta là con chiên, đàn chiên của Chúa thì sao?
2. Thiên Chúa vì yêu thương nên Ngài không những tạo dựng mà còn luôn yêu thương chăm sóc các loài mà Ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người.
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tổ phụ, các ngôn sứ để dạy bảo, dẫn dắt dân của Ngài. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ hình ảnh Môsê, như một tiên biểu, thay Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập tiến về Đất Hứa. Hình ảnh của Môsê như một chủ chiên hướng dẫn một đàn chiên đi một quảng đường khá dài đến nơi an toàn. Thiên Chúa luôn đáp ứng nhu cầu chính đáng của dân Do thái, khi họ đói Ngài ban cho có manna, khát có nước uống... Vì thế Thánh Vịnh 23 thật là hữu lý khi cất lên
"Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu tốn gì, Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ..." (TV 23, 1-2)
Thời Tân Ước, Đức Giêsu quả thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa mọi bệnh tật xác-hồn. Cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Xưa, Môsê lãnh đạo dân riêng của Thiên Chúa tiến về Đất Hứa, nhưng đất nầy vẫn còn thuộc phương diện trần thế, còn Đức Giêsu, Môsê mới, dẫn đưa dân mới, là Hội Thánh, qua Hội Thánh, muôn dân nước được mời gọi tiến về quê hương đích thực là Nước Trời.
Vì Đức Giêsu biết mình phải trở về cùng Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng của mình cho các tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài. Để việc chăn đắt đàn chiên Chúa được tiếp tục thực hiện cho đến tận thế (Lc 22,19). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn rất cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
3. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chiên muốn được an toàn, được phát triển tốt thì không những phải lắng nghe tiếng chủ mà còn phải thực hiện theo sự hướng dẫn của chủ. Lời Chúa dạy là lời chân thật dẫn đưa từng người trong chúng ta, chiên của Chúa, đến hạnh phúc thật:"Phúc cho ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11,28). Thế nhưng có khi chúng ta nghe nhưng không giữ lời Chúa, có khi nghe cách thụ động, có khi không muốn nghe... mà Chúa đã dùng "Dụ ngôn Người Gieo Giống" (x. Mt 13, 1-23 và song song) để nói lên điều đó. Chủ chiên đích thực nào cũng thương từng con chiên, cũng vậy Chúa không bao giờ muốn tách chúng ta ra khỏi tình thương của Người, thế nhưng khi chúng ta không lắng nghe và thực thi lời Chúa, tức là chúng ta tự tách mình ra khỏi đàn chiên của Người.
Có những kẻ xấu, giả điệu bộ, giọng nói rất khéo giống như chủ chiên để lôi kéo chiên đi theo không phải để chăm sóc mà hại chiên. Điều nầy làm cho chúng ta suy nghĩ đến những cạm bẫy mà người Kitô hữu dễ mắc phải trước những bã vinh hoa phú quý tạm bợ làm cho chúng ta mất sự sống đời đời. Rất có thể chính ta đang bước theo chủ chiên giả đó mà chúng ta không hay, đó là quyến rủ của thế gian, ma quỷ, xác thịt.
4. Làm sao biết được ý của chủ chiên thật là Thiên Chúa, Đức Giêsu để thực thi và tránh được những lời ngọt ngào, nhưng đem lại chết chóc, của những chủ chiên giả hiệu? Mặc dù chúng ta không được nghe cách trực tiếp tiếng nói của Thiên Chúa, của Đức Giêsu như dân Do thái hay các tông đồ, các môn đệ xưa. Nhưng vị Mục Tử nhân lành, vẫn không ngừng hướng dẫn để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Tiếng Chúa vẫn được nói với chúng ta qua tiếng lương tâm ngay lành, qua Muời Điều Răn, qua Lời Chúa trong Tin Mừng, qua những vị có trách nhiệm trong Hội Thánh, qua lời nhắc nhở của anh chị em...
Mỗi người chúng ta không chỉ nghe tiếng Chúa suông, mà hãy quyết tâm tuân giữ, thực thi để trở thành con chiên ngoan của Chúa; gia đình chúng ta, tập thể chúng ta cố gắng là đàn chiên tốt của Chúa; có như vậy đàn chiên rộng lớn hơn của Chúa là Họ Đạo, là Giáo Hội mới có thể tốt được.
Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện ngày càng có nhiều linh mục, tu sĩ theo gương Đức Giêsu vị Mục Tử nhân lành, để góp phần phục vụ đàn chiên của Chúa. Amen.
39. Nghe Ta
Tất cả các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, hay còn gọi là Chúa nhật lễ “Chúa Chiên Lành” giới thiệu với chúng ta ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Ơn cứu rỗi và Tin Mừng giải phóng mà Thiên Chúa cống hiến cho con người qua Chúa Kitô là ơn cứu rỗi toàn vẹn, nó có sức mạnh cứu rỗi con người cả hồn lẫn xác, nghĩa là chữa lành mọi bệnh tật hay khổ đau. Các bệnh tật của con người không chỉ là các sự dữ mà chúng phải xuất trên bình diện sâu thẳm hơn, đó là sự không thỏa mãn được những khát vọng sâu thẳm của con người.
Ơn cứu rỗi Thiên Chúa ban cho con người không phải là thứ giải phóng giả tạo hời hợt bên ngoài. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Chúa gieo vào trong nhân loại một mầm sống sự sống mới, một hình ảnh mới về sự sống con người. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu cho thấy ơn gọi về phẩm giá vô cùng cao quí của con người với những quyền bất khả xâm phạm, như quyền tự do và quyền được kính trọng.
Khi mặc lấy hình hài của con người, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng, mỗi một người dù có nhỏ bé yếu đuối, dù có bệnh hoạn tàn tật, dù có già nua tuổi tác đến đâu đi nữa cũng đều có giá trị cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo thành giống hình ảnh của Ngài và mang trong mình hơi thở sự sống Thần linh của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã khai sinh một thế giới có giá trị, trong đó tình yêu thương, sự quí trọng đối với mọi tạo vật, và tình yêu thương quí trọng đối với mỗi người là tạo vật cao vời nhất kéo theo những hậu quả vô cùng quan trọng và cụ thể trong cuộc sống xã hội như trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hóa. Chính vì thế nên cảnh con người quen thói bóc lột con người là một thực tại phản nghịch tinh thần yêu thương của Chúa Kitô.
Tin vào Chúa Kitô Phục sinh là con người lãnh nhận được toàn bộ và trọn vẹn ơn cứu độ qua biến đổi cuộc sống trong tâm hồn cũng như trên thể xác. Bởi vì cuộc sống mới mà Chúa Kitô ban cho con người tinh thần toàn vẹn là cuộc sống làm con cái Thiên Chúa.
Thánh Gioan khẳng định rõ sự thật này, tin nhận Cháu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Ngài là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, được giống Ngài và bước vào cuộc sống hiệp thông với Ngài. Phẩm giá làm con cái Thiên Chúa ấy đã được Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta qua Bí tích Thánh tẩy, mầm sống mới thần thiêng ấy đã được săn sóc vun xới lớn mãi trong tâm hồn và giữa cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Ơn gọi Kitô như thế là trở thành giống Chúa mỗi ngày một hơn cho tới khi chúng ta sẽ được biến đổi và hoàn toàn giống Ngài trong cuộc sống hạnh phúc mai sau bên Chúa, trong cuộc sống của những người được ơn cứu chuộc.
40. Tiếng kêu đứt đoạn
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Đức Kitô vừa là Đấng tạo dựng vũ trụ vừa là Chúa Chiên Lành. Đấng tạo dựng có quyền trên tạo vật và quyền ban sự sống. Mục tử nhân lành lắng nghe, chăm sóc, yêu mến đàn chiên và sẵn sàng bảo vệ chiên. Không con nào bị ngược đãi hay bị hại.
Lắng nghe
Chúa Chiên Lành luôn lắng nghe tiếng chiên kêu cầu. Biết chúng bằng cách nhận biết tiếng chiên kêu. Nhờ lắng nghe mà rõ nhu cầu từng của chiên. Không phải một lần mà nghe đi nghe lại cho đến khi nhớ được giọng từng con. Chính Chúa Chiên Lành xác định với các tông đồ như thế.
Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi;
Tôi biết chúng và chúng theo Tôi.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời,
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi. Gioan 10,27
Chúa Chiên lắng nghe tiếng chiên qua lời cầu của cộng đoàn dân Chúa, nghe rõ tiếng kêu cầu của từng chiên con. Nhận biết nhu cầu từng cá nhân. Chiên con dâng Chủ chiên lời tạ ơn lúc vui mạnh, thành công cũng như khi tràn trề hy vọng.
Chiên con phát tiếng kêu cứu nghẹn ngào. Dâng lời van nài đứt đoạn, nức nở nói không nên lời. Tiếng uất nghẹn, rên xiết khi đương đầu với hoạn nạn, buồn tủi, cô đơn. Lúc ngồi lặng câm mắt nhìn thập tự, hồi tưởng đau khổ Chúa chịu, liên tưởng đau khổ, bệnh tật đời mình, phó thác nỗi lòng, tâm sự, niềm đau người thân quen. Lời cầu dâng lên Chúa liên lỉ ngày đêm, hết ngày này đến tháng nọ, đời này qua thế hệ kia, liên tục. Chúa Nhân Lành là Đấng đêm ngày lắng nghe đoàn con kêu cứu, nài van.
Chúa chăn nuôi tôi
Chúng ta nghe tiếng Chúa nhiều ít, bao nhiêu, tự mình mình biết. Tự mình mình hay. Điều chắc chắn là tiếng chiên con gọi Chúa Chiên lắng nghe, đáp lại theo nhu cầu từng con. Chúa Chiên nghe biết, nhận ra tiếng kêu cứu. Không mệt mỏi nghe tiếng chiên kêu cầu và còn dậy cách cầu xin.
Khi cầu nguyện các con đừng nhiều lời Mat 6,5
Thần khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính thần khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả Roma 8,26.
Tiếng nấc
Gần đây màng lưới truyền thông khắp nơi lên tiếng dùm tiếng nấc nghẹn ngào của chiên con. Nạn nhân của chủ chiên chọn thái độ im lặng.
Kêu, chủ chiên không cứu.
Than, chủ chiên không nghe.
Gọi, chủ chiên không đáp.
Kêu oan, bảo ráng nhịn.
Nỉ non khóc than, bảo ích chi
Nhờ dóng tiếng, ngoảnh mặt làm ngơ.
Chủ chiên chọn thái độ im lặng mong yên thân.
Lầm tưởng
Vô số mục tử địa phương học từ Chúa Chiên trở thành những kẻ lắng nghe tuyệt vời, tận tình giúp đỡ, chăm sóc chiên con ốm đau, bệnh hoạn, vỗ về con cô đơn, cảm thông chiên sầu khổ. Các vị này noi gương các thánh tông đồ xưa, vui mừng được chịu đau khổ, tù đầy vì Đức Kitô Phục Sinh. Các ông nói với thủ lãnh Do Thái
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Cv 5,29.
Mục tử lặng thinh, chọn thái độ im lặng được truyền thông ca tụng. Đừng quên truyền thông sống nhờ quần chúng. Hôm nay im lặng là khôn ngoan. Khi được tự do ăn nói, truyền thông sẵn sàng miệt thị thái độ câm nín. Không phải họ thay đổi lập trường. Nhiệm vụ chính của truyền thông là đưa tin. Quần chúng nguyền rủa im lặng. Báo đưa tin. Đa số chỉ trích, khích bác im lặng. TV loan tin. Đừng lầm tưởng chọn im lặng hưởng an bình. Đúng, hưởng bình an trong chốc lát. Tương lai về đâu chưa xác quyết. Cứ nhìn Giáo Hội hoàn vũ đủ biết. Thập niên 60 chọn im lặng. Thập niên 90 bắt đầu chống đỡ, tiếng sấm vang làm sống lại sự việc 30 năm trước. Vuốt mặt không kịp. Chủ chiên im lặng hôm nay, hãy chuẩn bị nhận hậu quả phê bình, chỉ trích, vác chiếu hầu toà trong tương lai. Người ta sẵn sàng kiện từ mồ mả kiện lên.
Nạn nhân
Hỡi những nạn nhân thống khổ vì tiếng kêu cứu bị lãng quên. Nên nhớ Chúa Chiên Lành không bao giờ quên ai. Ngài có quyền ban sự sống trường sinh. Ngài không nhẹ tay hay tha thứ cho kẻ làm hại, gây đau khổ hay ngược đãi chiên con. Chiên con van nài chủ chiên lên tiếng. Họ chọn thái độ lặng câm. Xin đừng quên cầu nguyện cho họ. Xin cho họ ơn can đảm, kiên trì vì Danh Chúa như các tông đồ xưa.
Lòng hân hoan bởi được coi là là xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Đức Giêsu. Cv. 5,41
Phaolô nhiều phen ra tù, vào khám, đòn vọt, đói khát, bị ném đá, đắm tầu, bị cướp, dân ngoại vu cáo và kẻ giả danh làm khốn. 2 cor 11,25
Đức Kitô Phục Sinh chiến thắng khải hoàn. Một ngày nào đó những câm nín hôm nay sẽ bùng phát.
Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ. Không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng Mt. 10,26-27
41. Đàn chiên
Mục tử và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật rõ ràng, thật đậm màu những đặc tính chủ yếu của đề tài đó. Đặc biệt trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nêu rõ đặc tính tốt lành của vị mục tử và đàn chiên của Ngài thì “biết nghe tiếng Chúa” dám “bước theo Ngài" để không bao giờ bị diệt vong nhưng được sống đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta được nghe biết bao tiếng ồn ào được phát xuất từ gia đình, từ quán xá và từ những người xung quanh. Những làn sóng này có lúc nghe thật êm dịu, nhưng không thiếu những lúc chúng ta có thể điên lên được; một khi hàng xóm mỗi lúc một “tăng volume” gây náo nhiệt cả hàng xóm. Nếu chúng ta cũng như họ, nếu chúng ta không bằng lòng với họ, tôi hỏi thử chuyện gì sẽ xảy ra? Nhưng một khi chúng ta nghe tiếng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy” thì cách giải quyết của ta sẽ trở nên tốt hơn. Như vậy, giữa những âm thanh cao độ của thế gian, vẫn còn có tiếng thì thầm của Đấng tràn đầy tình thương đã và đang lan tỏa trong suốt cuộc sống của chúng ta.
Tiếng của Chúa chính là tình yêu. Ngài yêu thương ta không phải ta đáng được yêu, nhưng Ngài yêu vì chúng ta cần được yêu. Sống giữa xã hội còn phân biệt sang hèn, tiếng của Chúa được vang lên từ những trái tim của những người nghèo khổ, bị áp bức. Tiếng Chúa hôm nay còn là tiếng kêu của đồng bào, của xã hội loài người đang cần đến nhau để sống, để có cơm ăn, áo mặc, để tạo được hạnh phúc cho nhau. Và tiếng Chúa vẫn còn vang dội từng ngày từng giờ thúc bách mỗi người chúng ta dấn thân theo Chúa trên khắp nẻo đường, yêu thương và phục vụ; yêu thương phục vụ và hy sinh đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình. Hơn nữa, dám liều mình vì anh em, như mục tử dám liều mình vì đàn chiên.
Giờ đây, nếu chúng ta nghe tiếng Chúa mời gọi, chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi làm sao?
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận lời của Ngài, bước theo Ngài là dấn thân sống lời Chúa một cách tự do và chủ động. Bước theo Ngài không phải là phó thác hoàn toàn cho Chúa, không phải là trao hết trách nhiệm cho Chúa, và cũng không phải bám víu vào một mớ giáo lý; nhưng là phải thực hành những điều ta lĩnh hội, là thực hành như Ngài đã sống. Sống thực hành là đem lại tình yêu thương dẫn dắt ta trong mọi quan hệ với tha nhân, là mở rộng tâm hồn để tiếp nhận sự thật đến từ Thiên Chúa.
Trước mọi trào lưu tư tưởng mới, và trước mọi cám dỗ tấn công, chúng ta hãy đứng vững vì chúng ta đã được nếm thử cùng nghiệm được rằng Đức Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Như thế, chúng ta sẽ cảm thấy thực sự mình là người người tín hữu Kitô dám bước theo Ngài và có khả năng làm chứng cho Ngài trước thế gian. Lúc đó, hình ảnh mục tử và đàn chiên đạt đến mối tương quan sống động và thân thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và những kẻ theo Ngài. Chiên tốt lại gặp được mục tử lòng lành tốt bụng thì thật là tuyệt vời và còn tuyệt vời hơn khi mục tử hứa cho đoàn chiên “được sự sống đời đời”.
Chiên tôi…. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất. Với hình ảnh đó, lời dạy đó, chúng ta quen gọi Đức Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Ngài hướng dẫn đoàn chiên của Ngài, Ngài để tâm chăm sóc từng con chiên trong đàn, Ngài không chỉ dẫn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh nước mát, mà còn dẫn chúng đến đích điểm là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Ngay ở trần gian, Ngài là Đấng chăn chiên lành dám thí mạng vì đàn chiên, Ngài dám chịu mục nát đi như hạt giống gieo vào lòng đất. Như thế, sự sống đời đời Ngài ban cho ta ngay tại thế này chính là cuộc sống yêu thương vô điều kiện. Và từ biến cố Phục sinh, con người đã nên mới so với con người cũ, con người sống sót không còn bị đóng khung sau quyền lợi và giá trị riêng tư của mình, nhưng là một cuộc sống đầy yêu thương và luôn mở rộng ra với mọi người.
Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống để cùng đưa nhau về nơi sự sống vĩnh cửu mà mục tử Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta.
Hôm nay, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ, chúng ta cũng được mời gọi sống trọn ơn gọi (tiên tri – tư tế – vương đế) của mình bằng cách lắng nghe và bước theo Thầy Chí Thánh để trở nên những mục tử tốt cho nhau. Nhất là chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều mục tử biết sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, trung thành với ơn gọi của mình để diễn tả đúng khuôn mặt của Đức Kitô, bằng việc nỗ lực thi hành từng ngày từng phút sống phù hợp với tiếng của Ngài không ngừng vang vọng trong thâm tâm ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
42. ''Không ai có thể cướp...''
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge, là một trong số đông lính cứu hỏa đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ ngày 11.9.2001, lúc tòa nhà tháp đôi Trung tâm Thương mại New York bị những chiếc máy bay của những kẻ khủng bố tấn công.
Là tu sĩ dòng Phanxicô, kể từ sau khi chịu chức linh mục ngày 25.2.1961 lúc 28 tuổi, linh mục Mike Judge đã được mời gọi trong nhiều trọng trách khác nhau ở New York. Dù trọng trách nào, dù khó khăn cách mấy, cha đều ra sức chu toàn nhiệm vụ cách hoàn hảo. Người ta thấy cha thường xuyên giúp đỡ những người khốn khó, những người thiếu nơi ăn chốn ở, những di dân, những người bệnh tật, những người gặp nạn… Cả những người nghiện ngập cũng được cha yêu thương đón nhận…
Tuy phải bận bịu với bao việc bác ái hằng ngày, cha vẫn không quên cầu nguyện, hăng say thực hành tất cả các nghĩa vụ thiêng liêng của một linh mục để thánh hóa bản thân. Cha gắn bó với Chúa bằng một tấm lòng tận tụy, chu đáo tuân giữ luật dòng, và tận hiến mình hoàn toàn trong sự vâng phục Bề trên. Những ai đã từng tiếp xúc, chuyện trò với cha, đều cảm nhận cha là người khiêm tốn, dễ gần gũi. Người ta cũng nhận thấy, nơi cha toát ra một sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa mà không phải ai cũng có thể có…
Năm 1992, cha được chỉ định làm tuyên úy cho lính cứu hỏa New York. Cha đã dành nhiều thời giờ đến với từng người lính cứu hỏa và gia đình họ, không phải chỉ như một vị tuyên úy; nhưng còn như người bạn và ân nhân của họ; giúp đỡ họ bất cứ lúc nào khi họ cần đến cha với tất cả tình yêu thương.
Sáng ngày 11.9.2001, ngay khi những chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Đôi, cha đã cùng hàng trăm lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân, để giải tội, để ban bí tích xức dầu và các nghi thức cuối cùng cho lính cứu hỏa và những người Công Giáo đang hấp hối. Nhưng khi cha đang thi hành trách vụ, thì tòa nhà sụp đổ, gạch đá đập xuống đầu cha. Cha đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ Thánh Chức của mình.
Dù biết rằng, việc xông vào tòa nhà đang bị cháy là nguy hiểm vô cùng, nhưng vì trên ba ngàn con người còn kẹt lại trong tòa nhà, đã khiến cha và nhiều lính cứu hỏa bất chấp mạng sống mình, đặt nhiệm vụ cứu người bị nạn lên hàng ưu tiên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và linh mục Judge vẫn anh dũng lao vào bên trong toà Tháp Đôi…
Như Chúa Giêsu khẳng định: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Và để bảo vệ đàn chiên mà Chúa Cha trao cho mình, Chúa Giêsu quyết bảo vệ đến cùng. Người đã chọn lựa: thà hy sinh chính mình, hy sinh cả mạng sống, miễn sao đàn chiên không bao giờ hư mất, không bao giờ rời khỏi tay mình. Tình yêu tuyệt đối dành cho trần thế, đã đưa Chúa Giêsu đi đến hiến dâng cuộc đời, hiến dâng mạng sống. Chính trong sự hiến dâng như của lễ đền tội thay cho cả trần thế, hiến lễ của Chúa Giêsu đã được Chúa Cha đón nhận. Chúa Cha đã làm cho cuộc hiến dâng của Chúa Giêsu nên hiệu lực cứu độ, mang lại kết quả cứu độ mãnh liệt, đời đời, cho từng con người trong trần thế không trừ ai. Hiệu lực cứu độ ấy đã được Chúa Cha làm cho dồi dào và trào tràn đến nỗi không có bất cứ điều gì có thể sánh bằng. Nhờ hiệu lực cứu độ này, Chúa Cha đã tha thứ và luôn ban ơn để bảo vệ và gìn giữ tất cả chúng ta là đoàn chiên mà Chúa Giêsu luôn yêu quý. Cũng chính trong hiệu lực cứu độ do chính mình gây nên và được Chúa Cha đón nhận, Chúa Giêsu hoàn tất và hiện thực hóa điều mà Người đã từng tuyên bố, đó là bảo vệ chúng ta trọn vẹn đến nỗi: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.
Tình yêu mà Chúa Kitô yêu con người luôn hiện hữu trong cha Mike Judge. “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Dù chủ nghĩa khủng bố và tội ác khủng bố, dù ngọn lửa hiễm độc, dù tòa nhà cao ngất kia có thể nhẫn tâm chôn vùi hàng ngàn con người, nhưng cha quyết không để người bị nạn trong căn nhà kia chết mà thiếu vắng ơn Chúa, thiếu vắng hình bóng của linh mục. Vì thế, giữa những đớn đau tàn khốc, cha quyết xông vào để cứu sống linh hồn con người. Cha đã thực hiện chính hành động cứu sống ơn cứu độ của con người như Chúa Giêsu, để dù các nạn nhân có chết thân xác, linh hồn họ vẫn lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ. Chính cha, trong giờ phút lâm nguy, đã noi gương Chúa Kitô, quyết không để bất cứ thế lực nào “có thể cướp được” linh hồn con người…
Tình yêu dành cho Chúa Giêsu và tình yêu đối với con người biến cha trở thành người hành động. Tình yêu ấy lôi cuốn cha đến nỗi cha không còn nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ đến những con người mắc nạn và những con người đang thi hành nhiệm vụ trong tòa nhà ngùn ngụt lửa. Tình yêu ấy dẫn cha đến trước vực thẳm nguy hiểm nhưng vẫn băng mình cho sứ vụ tròn đầy. Tình yêu ấy chính là sức mạnh giúp cha hiểu rằng Chúa Giêsu đang chờ đợi cha nơi những con người đau khổ đang trên bờ sự chết. Tình yêu ấy thúc bách cha xả thân cứu người như chính Chúa Giêsu hy sinh cho trần thế.
Cái chết trong nhiệm vụ và cho Thánh Chức của cha đã nói cho chúng ta: Linh mục Mike Judge là mục tử tốt lành. Tấm gương bình an đón nhận hiểm nguy và sự chết của cha đáng để các mục tử noi theo. Cha chết, nhưng gương hy sinh ấy sống mãi trong lòng dân Mỹ và nhiều người thiện chí trên khắp thế giới…
Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai sống đời ơn gọi nói chung, và cầu nguyện cho các linh mục nói riêng, phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ, biết thương cảm, biết hy sinh quên mình, nhất là biết lao mình trong mọi nơi, mọi lúc, bất chấp bản thân để hy sinh vì ơn cứu độ của mọi người.
Chúng ta cũng luôn cầu xin cho các mục tử hết lòng thao thức và sống chết cho sứ mạng, để nếu có ai kém cõi trong đức tin, ngài biết nâng đỡ, nhũ khuyên; ai khổ đau gặp được nơi ngài sự cảm thông chia sớt; ai đau bệnh, yếu đuối, ngài ân cần hỏi han; ai lạc lối, hay xa rời đức tin, ngài tìm cách đưa về sống hiệp thông cùng Hội Thánh; ai lỗi lầm, ngài bao dung tha thứ; ai đã chuyên chăm trong đời sống đạo đức, ngài tiếp tục nâng đỡ để đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn…
Qua tất cả những nhiệm vụ vừa cao trọng, vừa vất vả bên trên mà người mục tử không bao giờ được phép lơ là, nhưng luôn nỗ lực thực hiện, người mục tử sẽ xứng đáng là biểu tượng của sự bình an cho đoàn chiên mà Chúa trao cho mình.
Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ của đoàn chiên. Bình an của đoàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Vì thế, trên hết mọi sự, chúng ta cầu nguyện cho các mục tử chẳng những luôn biết cầu nguyện, mà họ còn biết đặt trọn tâm đời mình trên đời sống gắn bó với Chúa Giêsu. Có như thế, người mục tử mới có thể vui hy sinh, vui chấp nhận nghịch cảnh, vui bền đổ phục vụ, vui xả thân, nhất là vui xả thân trong mọi hoàn cảnh, dù có thể bị mất mạng sống mình…
Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử, nhờ gắn kết với Chúa Giêsu, xứng đáng trở thành người nối trời với đất, nối thiên đàng với trần thế, nối Thiên Chúa với lòng con người… Có như thế, các mục tử mới có thể và thực sự là mục tử mang hình ảnh và là họa ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử…
Tấm gương tốt lành của linh mục Mike Judge, hay của nhiều linh mục tương tự như thế, phải là bài học nằm lòng cho các mục tử của Chúa. Chúng ta cầu nguyện nhiều hơn nữa, để nhờ ơn Chúa, các linh mục không tìm an thân cho bản thân, nhưng luôn vì uy danh Chúa Giêsu, vì lợi ích của Hội Thánh, vì lợi ích của linh hồn con người, vì lợi ích chung của toàn xã hội mà hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ con người.
Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn kiên tâm, để họ có thể tuyên bố bằng chính lời của Chúa Giêsu: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.
43. Chúa chiên lành - Mùa Xuân Hội Thánh
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Đã thành thông lệ từ nhiều năm, mỗi dịp mùa Chay đến, Ban Mục vụ Giới trẻ giáo phận chúng tôi bao gồm một số linh mục đang coi xứ và linh mục dòng, và nhiều tu sĩ nam nữ, dành tất cả các ngày thứ bảy và Chúa nhật trong mùa Chay, lên đường đến các giáo hạt trong giáo phận quy tụ các bạn trẻ, giúp các bạn tĩnh tâm, học hỏi Sứ điệp mùa Chay…
Còn nhớ năm 2010, Ban Mục vụ còn giúp các bạn tìm hiểu năm Thánh 2010. Ngoài ra, nhằm định hướng cho các bạn về đời sống luân lý theo ý Hội Thánh, nhiều đề tài “thời sự” được trình bày như: “Có được phép sống thử?”, “Sống thử: Lợi hay hại?”, “Tình dục: quà tặng hay nguy cơ?”…
Nhìn các linh mục bộn bề công tác, nhất là bao nhiêu việc phải sắp xếp, phải chu toàn trong những ngày Đầu tuần (theo Thánh Kinh, Chúa nhật là ngày Đầu tuần), các ngài phải làm sao hoàn thành bổn phận với giáo dân trong giáo xứ, nhưng cũng không bỏ cơ hội giúp các bạn trẻ tĩnh tâm để dọn tâm hồn mừng mầu nhiệm Vượt qua. Đa số các bạn trẻ phải đi làm suốt ngày, các buổi tĩnh tâm đều phải diễn ra từ xế chiều đến đêm. Vì thế, có hôm kết thúc buổi tĩnh tâm, vì địa bàn giáo phận quá rộng, các linh mục chia tay các bạn trẻ, về đến nhà, đồng hồ đã điểm một, hai giờ đêm…
Có lần đến nơi quy định để tổ chức tĩnh tâm, nhìn qua nhìn lại chỉ thấy có 25 bạn trẻ của cả giáo hạt đi dự tĩnh tâm (số những người trong ban tổ chức đông hơn số người tham dự tĩnh tâm), chúng tôi cứ ngỡ thất bại, cứ ngỡ các linh mục sẽ chán nản, bỏ cuộc. Nhưng không, ai đó đã lên tiếng động viên: “Dù chỉ có hai người đi tĩnh tâm, cũng sẽ giảng như giảng cho 200 người. Dù chỉ có 200 người, cũng sẽ giảng như giảng cho 2.000 người”. Thế rồi tất cả lại bắt tay vào việc với 25 người dự tĩnh tâm cũng bằng ấy “quy mô” y như… đang có 2.500 người vậy… Đúng thôi, một tâm hồn tội lỗi trở về với Chúa còn quý, huống hồ 25 con người đang khao khát yêu mến Chúa!
Theo chân Ban Mục vụ Giới trẻ trong nhiều năm, tôi càng thấy yêu các bạn trẻ, càng kính phục sự hy sinh tận tụy của các linh mục trong Ban. Để đánh thức đức tin, đánh thức niềm yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh, và để kêu gọi lòng ăn năn tội, để gọi về tâm hồn thánh thiện nhằm chuẩn bị lễ Vượt qua của Chúa, Ban Mục vụ Giới trẻ Phú Cường đã không kêu gọi suông, nhưng đã hành động thiết thực.
Không dám coi những việc làm bên trên là tất cả nghĩa cử của người mục tử, bởi làm mục tử thật sự như Chúa muốn còn khác hơn nhiều, còn được đòi hỏi lớn hơn nhiều. Nhưng ít ra, đó cũng là một phấn đấu đẹp gợi hứng cho mỗi chúng ta có thể ý thức, có thể tự nhủ mình phải phấn đấu, cố gắng vươn lên từng ngày, từng ngày một.
Hôm nay, lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, chúng ta cùng nhìn lại hình ảnh đẹp của Ban Mục vụ Giới trẻ mà hun đúc cho bản thân tinh thần cầu nguyện: Xin cho Hội Thánh Chúa ngày càng có nhiều người ham thích dấn thân cho ơn gọi tu trì không phải để hưởng thụ, nhưng là biết xả thân vì cơ đồ của Chúa Kitô và vì mọi con người trần thế.
Hơn hết, chúng ta nguyện xin cho các linh mục, biết thăng tiến và làm đẹp ơn gọi quý báu mà Chúa ban cho mình bằng tất cả mọi nỗ lực dù phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận thử thách.
Bởi tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, một khi mang trong mình chính tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, và ấp ủ trong đời mục tử của mình hình ảnh Chúa Giêsu, người linh mục cũng phải biết yêu, phải biết hy sinh như Chúa, để không chỉ khắc họa lại hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử trong đời hiến dâng của mình, mà chính qua sự hiến dâng, linh mục còn cho thấy, linh mục chính là hiện thân của Chúa Giêsu nơi trần thế.
Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục luôn có một tình yêu tận hiến đến cùng cho Thiên Chúa và cho con người. Một tình yêu tận hiến đến cùng sẽ giúp linh mục không còn gì hối tiếc vì đã không hết mình cho sứ vụ. Tình yêu tận hiến đến cùng phải là nhân đức hàng đầu của người linh mục. Bởi nếu không có tình yêu tận hiến ấy, mỗi ngày trong đời sống của linh mục trôi qua sẽ nặng nề, buồn tẻ, mệt mỏi… Nhất là khi phải đối diện với những thách đố, nếu không sẵn sàng tận hiến đến cùng bằng một tình yêu trong sứ vụ, vì sứ vụ, người linh mục dễ chán nản, buông xuôi. Nếu đời sống của linh mục mà không còn ham thích chiến đấu, không còn vươn lên cho lý tưởng, không còn tha thiết với sứ mệnh Chúa trao, đồng nghĩa với việc, linh mục sẽ là gánh nặng cho giáo dân, gây thiện hại cho Hội Thánh Chúa, và xúc phạm đến chính hồng ân mà Chúa trao ban cho người linh mục.
Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài chỉ biết tìm niềm vui trong sự hiến dâng, trong mọi công tác thánh hóa các linh hồn, trong sự say mê phục vụ người nghèo, phục vụ người bất hạnh. Bởi nếu các linh mục mà không tìm niềm vui trong sứ mạng của mình, không thấy mình hạnh phúc trong vai trò phục vụ, thì không còn gì nguy hiểm bằng. Bởi như sự bù trừ, nếu một người không tìm thấy hạnh phúc ở chỗ này, anh ta sẽ tìm hạnh phúc ở chỗ khác. Nếu linh mục không nhận ra sứ vụ của mình là chân lý để đạt tới hạnh phúc thật, cám dỗ về một lý tưởng khác, một đam mê khác, một hình ảnh khác, một con đường khác… sẽ có cơ hội len lỏi vào đời sống các linh mục. Như thế, sự đổ vỡ tấn công các ngài chỉ còn là yếu tố thời gian. Như vậy, đời linh mục sẽ không còn đau đớn nào bằng, Hội Thánh sẽ không còn nỗi buồn nào bằng, cộng đoàn nơi linh mục đang sống sẽ không còn ê chề nào bằng… Vì thế, chúng ta nguyện xin Chúa giúp các linh mục chỉ yêu Chúa và yêu hình ảnh của Chúa nơi con người mà Chúa ban cho họ trong một trái tim không bao giờ san sẻ…
Cách riêng với giáo phận của tôi, tôi thấy các linh mục trong Ban Mục vụ Giới trẻ, tuy chưa nhiều, tuy chưa lớn, nhưng việc làm của các ngài phục vụ đời sống tâm linh của các bạn trẻ, cách nào đó, đã có thể có tiếng vang. Ước mong các ngài sẽ kiên trì tiếp tục công việc của mình không ngại khó, không ngại khổ, ngày càng phát huy hơn, tiến triển hơn, sáng tạo hơn để lôi kéo các bạn trẻ về với Chúa, yêu mến Chúa. Biết đâu nhờ tấm gương hy sinh của các ngài, nhiều bạn trẻ sẽ can đảm dấn thân cho Chúa, sống đời ơn gọi.
Ngắm nhìn từng linh mục trong linh mục đoàn của giáo phận tôi, với mọi hăng say, mọi lao tác mà các ngài thể hiện, tôi tin rằng, ơn Chúa đang tuôn đổ dồi dào cho giáo phận. Bởi đó, tôi cũng tin rằng, nhờ từng anh em linh mục chúng tôi nỗ lực sống từng ngày trong thánh chức mộc cách thiết thực, và luôn không bằng lòng, không thỏa mãn với sự dâng hiến mà mình đã trao đi để xây dựng Nước Chúa tại giáo phận nhà, sự phát triển về đời sống thánh thiện sẽ còn tiến xa hơn, tiến mạnh hơn cho chính bản thân người linh mục, và cho tất cả mọi anh chị em mà linh mục có trách nhiệm phục vụ...
Tôi vẫn thấy, mùa xuân, hoa vẫn nở rực rở, khoe đủ màu, đủ loại trong cánh rừng, trong những vườn ươm trồng, trong từng ngỏ, trong từng nhà… trên quê hương tôi. Tôi vẫn thầm so sánh, hy vọng và ước mong: ơn Chúa qua tay anh em linh mục chúng tôi, thực sự nở rực trên khắp cùng mọi nơi trong Hội Thánh nói chung và trong chính giáo phận này. Tôi vẫn tin, với ơn Chúa thắm tươi đậm đà trên khắp Hội Thánh, mùa xuân Hội Thánh mãi mãi không bao giờ tàn phai, dẫu tiết trời có thể sang đông, sang hạ!...
Để mùa xuân nở rộ trong Hội Thánh, không thể thiếu vắng hồng ân linh mục. Vì thế, linh mục không nỗ lực cộng tác để hồng ân của Chúa lớn lên từng ngày, đồng nghĩa với việc linh mục giết chết mùa xuân Hội Thánh…!
44. Theo Chúa
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy.
Đâu là bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình? Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và chúng ta ghi nhận được hai bổn phận chính yếu, đó là lắng nghe và bước theo.
Lắng nghe: mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng con chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không những phải biết nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.
Chúng ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng nghe tiếng Chúa. Chúa đã nói: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. NHư vậy, dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con chiên tốt lành của Chúa là nghe tiếng Ngài.
Mặc dù hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường như ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ. Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta. Phải, Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì lương tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ thẳm sâu cõi lòng, thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua Tin Mừng, bởi vì với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống, cũng như những cách thức giúp chúng ta giải quyết những tình huống gặp phải.
Bước theo: lắng nghe tiếng Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều quan trọng là phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã từng được nghe chúa giảng dạy và họ cũng đã từng cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng bao giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng chống lại Chúa. Họ giống như những người ngồi xem xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây thì họ lại không dám. Cũng như chàng thanh niên giàu có, cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường trọn lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: “Con hãy về, bán hết của cải và chia sẻ cho người nghèo, rồi đến theo Ta”, thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không có đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc, chàng không dám liều, không dám dấn thân để bước theo Chúa.
Như vậy, “nghe tiếng” Chúa không phải là chỉ nhận ra tiếng nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc biệt là giữ các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức là điều răn yêu thương: “Cứ dấu này người ta biết các con là môn đệ Thầy”, là các con thương yêu nhau. Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là những con chiên tốt lành của Chúa.
Nói rõ hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc biệt là thực thi giới luật yêu thương, bởi vì giới luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày kia, có một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu gọi mọi người đóng góp cho việc từ thiện. Rất nhiều người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên, khoảng 30 tuổi, tiến đến và quì dưới chân vị linh mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh nói: “Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin cha tha tội cho con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha. Nhưng lời Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc động và con đã từ bỏ hành vi ám muội của con”.
Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo Hội, là Đức Giáo Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo Hội.
Sau hết, hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính Chúa đã dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Nếu muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu, chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chúng ta luôn cầu xin Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ biết nghe tiếng Chúa và các linh hồn kêu gọi họ dấn thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu. Những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa, Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, như Chúa đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin nơi ấy được.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu thương nhau để tất cả trở nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.
45. Nhân loại vẫn cần…
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp đàn anh, nhưng được phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ túc chương trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để tặng cả lớp.
Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi trong suốt dọc dài con đường phục vụ, tôi đã nhiều lần hát đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho thầy, cho anh em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho cả những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm việc hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã không ít hao mòn.
Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó gợi lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi hiên ngang nhìn về phía trước mà thực hiện chính sứ mạng của Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình... Cứ thế, mà tôi hát: “Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của Chúa. Nhân loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân loại vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời... Nhân loại vẫn cần người đi tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người dám sống cuộc sống Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm trong đời ngôn sứ, chỉ truyền rao những lời của Chúa để trần gian sống trong sự thật... Nên Chúa đã sai từng người chúng con, những linh mục bước đến cùng thế giới. để đáp ứng những khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ con người. Nghe tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường loan Tin Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”
Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ Chúa Chiên lành, ngày Hội Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi càng ý thức hơn vai trò và trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi thánh lễ sáng xong, tôi đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung điệu Nhân loại vẫn cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức mình hãy nên mục tử nhân lành.
Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài Tin Mừng theo thánh Gioan để nguyện gẫm: “Chúa Giêsu nói với người Dothái rằng: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 27-30). Ước mong một điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành chức vụ mục tử, và Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho tôi sứ mạng mục tử, ngày ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến với thế gian, với tội lỗi và với mọi cơn cám dỗ trong đời một cách không mệt mỏi để làm cho từng con chiên của Chúa Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô. Nhờ đó họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống đời đời mà Chúa Kitô ban cho họ.
Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh mục tử mà mãi mãi nhân loại vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn hoài hy vọng, tôi nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất sắc của Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.
1. Cùng anh chị em, linh mục là thành phần của đoàn chiên Chúa
Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Biết mình là chiên, cũng mang thân phận con người đầy khiếm khuyết, có khi đã nhiều lần, do chủ quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng dữ, đã để xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản thân.
Biết mình là chiên như mọi con chiên trong đoàn chiên của Chúa, người linh mục luôn luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục Tử Giêsu. Cùng là người như mọi anh chị em của mình, người linh mục không bao giờ được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn lên trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa giải…
Người linh mục càng phải ra sức cộng tác với ơn Chúa để sống một đời sống gương mẫu, mực thước, tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa hoa, không tìm danh lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho bản thân… nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh đổi ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.
Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục sẽ không ít lần bắt gặp những mẫu gương rất tốt nơi anh chị em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn, nhiều anh chị em quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi, dù rất nghèo. Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin vẫn lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài, nhiệt tâm y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho chính bản thân của họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng làm cho người linh mục khám phá ra một chân lý rất bình thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là mục tử, người linh mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận ra mình cũng là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao giờ dám coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi thứ cho cá nhân mình…
Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình ảnh “chiên” nơi mình càng đẹp, càng sáng, thì khi làm mục tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử tốt lành mang lấy và phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.
2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa
Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng, thánh chức linh mục mà Chúa ban cho mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh dự, là sự điểm tô lộng lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan trọng hơn, nó chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người. Chức linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những nét tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi không có ai khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị em mà Hội Thánh trao cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục vụ, để hiến thân.
Chính linh mục mới là người biết rõ, biết nhiều về tâm tư con người. Cả trong tòa giải tội, lẫn ngoài đời thường, không biết bao nhiêu lần người linh mục chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật rất thật về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị em gặp phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật. Anh chị em đến với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì thế họ cũng sẽ nhận được từ người linh mục một trái tim rung cảm thật, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng, tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá của cả một đời đầy dông bão.
Vì trót cả cuộc đời của những người mang lấy đức tin, là cả cuộc đời mang dấu ấn của thánh chức linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là chính bàn tay linh mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người từ thưở bé thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù trong anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không thể chối từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời mình. Chỉ nhờ linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ kho tàng bí tích mà Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh chị em muốn tìm lại bình an nội tâm sau những lần ngã quỵ vì cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh mục nhân danh Chúa ban ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến tuổi trưởng thành, cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người chính thức bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói, trong bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của mình, từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã cậy nhờ thánh chức linh mục, và chính bản thân người linh mục mà lãnh nhận hết hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế thánh lễ này đến hy tế thánh lễ khác, hết lời giảng dạy này đến lời giảng dạy khác… Và giây phút quan trọng nhất, nhưng cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời người là giây phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của linh mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại niềm an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau đớn không thể tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối cùng, cũng chính bàn tay linh mục đưa lên ban phép lành lần cuối thay lời từ biệt trao gởi anh chị em về với Đấng Hằng Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh sự sống của không biết bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.
Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm chiên cùng với đoàn chiên của Chúa. Làm con chiên như anh chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều hơn, sẽ dễ thông cảm hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh chị em. Là chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị em của mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi dào…
Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần những mục tử của Chúa, những mục tử thay thế Chúa săng sóc đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần những con người dám hiến thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông và biến động. Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người, cần lắm những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua đi nỗi buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con người. Nhân loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những con người của ơn hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng, những hiện thân của hạnh phúc trường cửu, mà chính người mục tử ghi dấu, để mỗi anh chị em luôn cảm nhận tình yêu, luôn tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn thấy mình được an ủi vỗ về khi đau đớn…
Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh mục thánh thiện, những linh mục nhân lành. Bởi họ chính là những mục tử như lòng mong ước…
46. Các mục tử hãy nên giống Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Chúng ta, những người dấn thân trong ơn gọi tu trì của Hội Thánh Chúa Kitô. Vì thế, tất cả chúng ta hãy luôn để lòng mình thấm thía lời Chúa Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Nhất là những ai đang mang trọng trách lãnh đạo đoàn chiên của Chúa trong vai trò của một mục tử, chúng ta càng phải cầu nguyện để các chính mình luôn luôn ý thức như Chúa Giêsu đã ý thức: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”.
Đó chính là những lời tâm sự của Chúa Giêsu. Một khi các mục tử nơi trần thế, được Chúa Giêsu ủy quyền để lãnh đạo đoàn chiên của Người, các mục tử phải là những người trước tiên cưu mang, uống lấy, luôn tâm niệm, luôn say trong lời của Chúa Giêsu. Nhờ đó, khi các ngài hành động trong vai trò một người lãnh đạo nơi đoàn chiên của Chúa, các ngài sẽ thực sự hành động trong tư thế của Chúa Giêsu. Để chính khi thừa lệnh Chúa, theo ý Hội Thánh, cử hành bí tích, cử hành thánh lễ, cử hành quyền giảng dạy, các mục tử cử hành cách hết sức sốt sắng, đầy tinh thần trách nhiệm, nhằm mang lại nhiều hiệu quả nhất cho đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất, linh hồn cũng như thể xác của tất cả nhưng ai mà các ngài dấn thân phục vụ.
Chúng ta luôn ý thức và xin Chúa cho mình được trở thành những nhà lãnh đạo kiên trung trong đức tin, bền bỉ trong đức cậy, mạnh mẽ trong đức mến. Nêu cao tấm gương tận tụy hy sinh, phục vụ quên mình, sống thánh thiện, thực hành đức bác ái mục tử…
Các mục tử của Chúa hãy là những người rập khuôn cuộc đời Chúa Giêsu. Các ngài hoàn toàn đi theo dấu chân Chúa Giêsu không bao giờ ngơi nghỉ. Các ngài ý thức từng giây phút rằng, chính các ngài chứ không phải ai khác, là họa ảnh của Chúa Giêsu hôm nay, nơi trần thế này, để làm sao, mọi người khi nhìn thấy mục tử của họ là chính lúc họ an tâm rằng, Chúa Giêsu đang hiện diện nơi vị mục tử ấy. Tắt một lời, các mục tử hãy sống suốt đời của mình như Chúa Giêsu đã sống.
Phải sống như Chúa Giêsu, các mục tử của Chúa mới có thể tự hào mà nói rằng, đàn chiên Chúa trao cho tôi đã lắng nghe tiếng tôi, đã theo tôi.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử mới có thể biết chiên của mình, biết từng nỗi ưu tư, khắc khoải của họ; biết họ đang là người bị loại trừ hay đón nhận mà nâng đỡ họ; biết họ lâm cơn thử thách hay bình an mà trao cho họ lời động viên khích lệ; biết từng cách sống nguội lạnh hay sốt sắng mà hướng dẫn họ…
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử là người đưa tay chỉ đường về trời cho đàn chiên không lạc lối. Khi đó, các mục tử mới thật sự là những người ban cho đàn chiên sự sống đời đời.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử ra sức bảo vệ đàn chiên và bảo vệ tới cùng, để đàn chiên không bao giờ phải diệt vong, để không ai, không quyền lực tội lỗi, quyền lực sự xấu nào có thể cướp được đàn chiên khỏi tay mình.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ phải ghi khắc không bao giờ quên rằng, tôi có làm gì, có lãnh đạo như thế nào, thì sự thật vẫn là: đàn chiên không phải của riêng tôi. Tôi không sở hữu theo ý mình để rồi muốn làm gì thì làm, nhưng là “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi”. Người “lớn hơn tất cả”. Tôi chỉ là đầy tớ của Người, chỉ làm theo ý Người mà thôi. “Cha tôi” mới là Đấng có quyền. Người thi hành quyền của Người trong tình yêu tuyệt đối.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ hết sức khiêm nhường phó thác trọng trách của mình, phó thác đàn chiên Chúa trao cho mình trong sự cầu nguyện chìm đắm không bao giờ được phép quên sót. Các mục tử phải luôn luôn thi hành quyền mục tử trong niềm tin tưởng lớn lao rằng, đàn chiên ấy là của “Cha tôi”. Các ngài phải thi hành quyền làm mục tử đến cùng, dù có phải mỏi mòn, bạc nhược, bị hiểu lầm, đuối sức… Phải thi hành đến lúc không còn có thể thi hành được nữa mới thôi. Các mục tử hãy biết rằng, mình chỉ là con người. “Cha tôi” mới là Đấng làm nên tất cả, điều khiển tất cả. Các mục tử hãy tin vững vàng rằng, “Cha tôi” sẽ ban ơn cho tôi, sẽ ban ơn cho đàn chiên mà tôi nhận trách nhiệm coi sóc để không bao giờ có ai có thể cướp được đàn chiên khỏi tay Cha tôi.
Ngoài tâm tình cầu nguyện dành cho các mục tử đang đại diện Chúa nơi trần thế, ta không quên cầu nguyện cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, nhất là có đủ can đảm để theo tiếng gọi đó bằng một đời dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, phụ vụ người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu… Chúng ta cầu nguyện cho các bạn trẻ khắc ghi lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà nung đốt lòng mình niềm mơ ước sống đời tận hiến: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời” (Sứ điệp ngày Quốc tế Ơn gọi năm 2000).
Lạy Chúa, xin gìn giữ các linh mục, các tu sĩ là những người Chúa đã gọi và tuyển chọn, để họ luôn yêu mến Chúa và yêu mến con người, nhờ đó hành động, suy nghĩ, đời sống của họ ngày càng nên giống Chúa Giêsu Con Chúa, là Mục Tử Nhân Lành của chúng con.
Xin Chúa sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ, để các bạn quản đại đáp lại tiếng gọi của Chúa, yêu mến đời sống của Chúa Giêsu và hiến thân như Người. Nhờ đó, họ có thể tiếp tục làm tất cả những gì Người đã làm nơi trần gian. Amen.
47. Linh mục
Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần đến ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người lớn là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng… tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắt, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa bàn tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:
Thứ nhất: Linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thốn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong câu chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc “Này là Mình ta” thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực sự là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân.
Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta cũng chắc ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn.
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
48. Đàn chiên
Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao?
- Thứ nhất là phải tin vào Ngài: Chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.
- Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.
- Thứ ba là đi theo Ngài: “Chiên của Ta đi theo Ta”. Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.
Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong”.
Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài.
49. Ơn gọi - Hồng ân và Chọn lựa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
Chúa Nhật Cầu Cho Ơn Thiên Triệu
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe nói nhiều về ơn gọi. Nhiều lúc chúng ta thắc mắc vì không hiểu được tại sao có người đi tu; tại sao Chúa lại chọn những con người này. Vì ơn gọi rất huyền nhiệm, nên nhiều bạn trẻ muốn đi tu hay tìm hiểu ơn gọi nhưng không chắc chắn rằng mình có ơn gọi hay được Chúa gọi không? Nhân dịp Ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu, chúng ta tìm hiểu về chủ đề này.
1. Ơn thiên triệu là gì?
Trước hết chúng ta thử hỏi: ơn thiên triệu hay ơn gọi là gì?
Thông thường khi nói tới ơn thiên triệu, ta nghĩ ngay tới ơn Chúa gọi ai đó đi tu làm linh mục, thầy dòng, hoặc nữ tu, còn giáo dân không đi tu, họ ở giữa thế gian, nên không có ơn thiên triệu. Chúng ta cần phải xét lại các hiểu đó.
Từ ngữ “Thiên Triệu” dịch từ tiếng Vocatio trong tiếng Latinh do động từ vocare có nghĩa là kêu gọi, mời gọi.
Khi dùng trong lãnh vực tôn giáo, vocatio thường dùng để chỉ lời kêu gọi của Thiên Chúa gọi người này, kẻ kia làm việc gì theo ý Ngài, nên ta dịch từ ngữ Vocatio là ơn thiên triệu.
Jacque Guillet định nghĩa: “Ơn gọi là tiếng Thiên Chúa mời gọi kẻ Ngài đã chọn ủy thác làm một công việc đặc biệt trong kế hoạch cứu rỗi loài người và trong vận mệnh của dân Ngài” (trong Vocabulaire de theologie biblique, 1970). Định nghĩa này thu hẹp “lời Thiên Chúa kêu gọi” trong những trường hợp riêng biệt để đảm nhận công việc đặc biệt trong dân Chúa.
Công Đồng Vaticano II hiểu ơn thiên triệu theo nghĩa rộng: Có nghĩa là tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi, đều có ơn thiên triệu: làm người và làm Con Chúa, tất cả đều được mời gọi nên thánh. Công Đồng xác định đây là ơn gọi phổ quát, một ơn gọi mà tất cả mọi kitô hữu đều được mời gọi hướng tới. Trong văn kiện Lumen Gentium số 40 Công Đồng nói rằng: “Tất cả mọi người tín hữu dù ở cấp bậc đều được mời gọi đạt tới sự thánh thiện”. Chính vì vậy, không chỉ có giám mục, linh mục và tu sỹ, cả giáo dân, tất cả đều được mời gọi đạt tới sự hoàn thiện (LG 39). Cũng theo Công Đồng này, trong Giáo Hội có nhiều hình thức của đời sống: ơn gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân. Đây là những hình thức đời sống để nên thánh hay để đạt tới sự hoàn thiện kitô giáo.
Nhưng hiểu theo nghĩa nào, cuối cùng ta phải nhìn nhận: Ơn thiên triệu luôn có hai phía hay hai yếu tố đi liền với nhau: Thiên Chúa gọi và con người đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Theo cái nhìn đó, ơn gọi là sáng kiến của Thiên Chúa: Thiên Chúa dự định, Thiên Chúa chuẩn bị, Thiên Chúa ban ơn, Thiên Chúa thúc đẩy. Con người đáp trả cách tự do, chọn lựa, từ bỏ và bước theo Chúa, sống cho Chúa, hiến thân cho Chúa.
2. Ơn gọi vừa là hồng ân vừa là chọn lựa dứt khoát
Ơn gọi hay đi tu là một hồng ân mầu nhiệm của Thiên Chúa, vừa là một sự chọn lựa riêng của mỗi người. Chúng ta tìm hiểu những câu chuyện ơn gọi nỗi bật trong Cựu Ước và Tân Ước.
Câu chuyện ơn gọi của Abraham là một điển hình. Chúa gọi Abraham để ông trở thành tổ phụ của một Dân riêng và “Cha của những kẻ tin”. Thiên Chúa chọn Abraham trong dòng dõi Sem, người ‘sinh ra từ Ur’ (St 11,10-31) và dẫn đưa ông bằng những con đường đến vùng đất mà ông không hề biết (Dt 11,8). Ông đã ra đi theo tiếng gọi đó, dù không biết đi về đâu, nhưng ông biết chắc một điều là có Chúa dẫn đường. Ông đã phó thác cho Chúa hướng dẫn.
Ơn gọi của Giêrêmia cũng rất huyền nhiệm: Chúa nói: “Trước khi ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”. Giêrêmia đáp lại: A, a, a lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa, tôi đâu có biết ăn nói, vì tôi còn là con nít”. Chúa lại phán: ngươi đừng nói ngươi là con nít... ngươi đừng sợ họ, vì ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi” (x. Gr 1,4-10).
Tin Mừng tường thuật về việc Chúa chọn các tông đồ cách lạ lùng:
Chúa Giêsu chọn và mời gọi các môn đệ đầu tiên như Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Hãy theo Ta. Ta sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 3,20). Họ từ bỏ và mau mắn đáp trả theo Chúa. Họ là ai? Họ là những người đánh cá, bình dân, quê mùa, không có học vấn cao, bằng cấp, có địa vị… nhưng họ đã đáp trả lời mời gọi đó một cách hăng hái và từ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã được Chúa biến đổi và làm cho trở thành những “kẻ lưới người như lưới cá”.
Trường hợp ơn gọi của Matthêu cũng gây nhiều ngạc nhiên: ông là một người thu thuế, nhưng khi nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo ta! Ông trả lời tức thì và quảng đại, bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo Người (Lc 5,28). Tất cả đều được Chúa mời gọi và tất cả đã đáp trả và từ bỏ để theo Chúa.
Như thế, ơn gọi vừa rất huyền nhiệm vì Thiên Chúa gọi ai Ngài muốn, gọi vào thời điểm nào và ở nơi nào đều tùy ý Ngài (x. Mc 3,13). Nhưng ơn gọi cũng là một chọn lựa liên lĩ, đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ của những ai mà Thiên Chúa muốn gọi. Vì thế, nếu nhìn ơn gọi như là một hồng ân của Thiên Chúa, việc đi tu hay theo Chúa không phải hệ tại nơi khả năng và tài cán của con người, nhưng hệ tại nơi lòng muốn và ân sủng của Thiên Chúa. Nếu nhìn ơn gọi như là chọn lựa, đi tu bao gồm sự hy sinh, từ bỏ để dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
3. Những dấu chỉ của ơn gọi
Rất khó trả lời một cách chắc chắn rằng bạn có ơn gọi tu trì hay không. Nhưng dựa trên những dấu chỉ mà mình có để phân định ơn gọi và để vững tin tiến bước.
Nếu Thiên Chúa đang kêu mời bạn đi tu, chắc chắn ngài sẽ ban cho bạn những phẩm chất cần thiết để trở thành linh mục hoặc tu sỹ.
Có hai dấu hiệu cho thấy một người có ơn gọi tiến tới đời sống linh mục: đó là có ý hướng ngay lành và những phẩm chất sự phù hợp.
Ý hướng ngay lành:
Ý hướng ngay lành liên quan tới ơn gọi linh mục hoặc thánh hiến bao gồm những nội dung sau đây: Khát khao phụng sự Chúa Kitô vì tình yêu mến chính Ngài và có lòng yêu mến Giáo Hội, yêu mến giáo huấn Giáo Hội, yêu mến đời sống đạo đức, có tinh thần hy sinh chịu khó; khát khao đi tu để phục vụ người khác và muốn dẫn đưa các linh hồn về cho Chúa. Đó là dấu hiệu cho thấy ý hướng ngay lành. Trái với ý hướng ngay là ý hướng lệch lạc: đi tu vì những động cơ nhân loại như để mưu cầu danh dự, tìm đặc ân đặc quyền, thích được trọng vọng và để thoát đời…
Những phẩm chất phù hợp:
Dấu hiệu thứ hai của ơn gọi tu trì là có những phẩm chất phù hợp đó là phẩm chất đạo đức, trí thức, thể lý, tâm sinh lý và hoàn cảnh gia đình.
Trước hết là khả năng về đạo đức: ai muốn đi tu trước hết phải là người có khả năng sống đời sống nội tâm hay tâm linh. Phẩm chất này bao hàm không chỉ khả năng sống khiết tịnh suốt đời mà còn bao hàm các nhân đức khác nữa như khiêm tốn, vâng phục, tự chủ, nhân hậu, quảng đại, vị tha, cẩn trọng, yêu mến sự thật, thẳng thắn, có lòng đạo hạnh, có đời sống luân lý tốt… Tóm lại: là người có lòng yêu mến Chúa và tha nhân.
Khả năng tri thức: đi tu phải có những phẩm chất trí năng cần thiết để thi hành sứ vụ tông đồ.
Phẩm chất về thể lý và tâm sinh lý: đi tu phải là người khỏe mạnh và bình thường về thể lý và tâm lý. Đây là phẩm chất cần thiết để hoàn thành các bổn phận của người theo Chúa. Ứng sinh phải không bị vướng mắc những bệnh nan ý, rối loạn thần kinh và rối loạn chức năng vốn là biểu hiện của một tình trạng “lệch lạc” hoặc bệnh hoạn về tâm lý trong phán đoán, thái độ và hành động.
Sự phù hợp về gia đình – Ứng viên phải xuất phát từ một gia đình có cha mẹ đàng hoàng, có tiếng tốt. Khi xem xét để trao tác vụ linh mục, yếu tố danh thơm tiếng tốt của ứng viên trong cộng đồng cần phải được cân nhắc như giáo luật đòi hỏi. Một ứng viên xuất thân từ một hoàn cảnh gia đình phù hợp thì sẽ là sự thuận lời cho đời sống và sứ vụ linh mục sau này.
Vì thế, trong quá trình tìm hiểu ơn gọi, ứng sinh cần phân định kỹ lưỡng về ơn gọi và những khả năng của mình để chọn lựa và sống ơn gọi tu trì. Cùng với cầu nguyện, biện phân ơn gọi là một công việc quan trọng trong quá trình tìm hiểu và đào tạo.
4. Những đòi hỏi của Giáo Hội đối với ứng sinh linh mục
Mọi ơn gọi Kitô hữu đều đến từ Thiên Chúa, đó là ơn huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi ấy không bao giờ được ban bên ngoài và tách biệt khỏi Giáo Hội, nhưng luôn luôn ở trong Giáo Hội và qua Giáo Hội. Giáo Hội được Chúa giao phó cho nhiệm vụ tuyển chọn và đào tạo ơn gọi.
Giáo Hội - “người sinh ra và giáo dục các ơn gọi” - có nhiệm vụ phân định ơn gọi và sự phù hợp của các ứng sinh vào tác vụ linh mục. Thật vậy, tiếng gọi bên trong của Thánh Thần cần được Giám mục giáo phận và những người có trách nhiệm nhìn nhận xem có phải là tiếng gọi chân thực không.
Chính vì vậy, Giáo Luật 1983 đòi hỏi: Điều 241,1: “Giám mục giáo phận chỉ nên thâu nhận vào Đại Chủng Viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến trọn đời cho các tác vụ thánh”.
Ngoài ra, Giáo luật còn yêu cầu cả những đức tính nhân bản, thể lý tâm lý phù hợp với đòi hỏi của thiên chức linh mục:
Điều 1029: “Dựa theo sự phán đoán khôn ngoan của Giám mục riêng hoặc Bề Trên cao cấp có thẩm quyền và sau mọi cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ nên cho tiến chức những người có đức tin tinh tuyền, chí hướng ngay thẳng, kiến thức đầy đủ, danh thơm tiếng tốt, tác phong đoan chính, nhân đức đã được thử luyện và những đức tính khác về thể lý và tâm lý tương ứng với chức thánh sẽ lãnh nhận”.
Kết luận:
Giáo Hội hoàn vũ đang đối diện với cơn khủng khoảng về ơn gọi tu trì. Nếu nhìn ơn gọi tu trì là quà tặng của Thiên Chúa, thì mỗi người kitô hữu cần phải cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi như lời Chúa Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” (Lc 10,2).
Nếu hiểu ơn gọi đồng thời là sự đáp trả của con người, thì mỗi người chúng ta cần có ý thức và cộng tác để vun trồng các mầm ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Mỗi người cần biết cổ võ ơn gọi và nâng đỡ các chương trình mục vụ ơn gọi trong Giáo Hội để càng ngày Giáo Hội có nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
50. Nghe và bước theo Mục Tử Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử Giêsu. Đồng thời cũng đề cập những bổn phận căn bản của we là đàn chiên của Người.
Chúa GiêSu ví mình là chủ chiên, Người là Mục Tử nhân lành - không những biết từng tên, mà còn biết từng nhu cầu của con chiên. Người thấu hiểu, cảm thông với từng hoàn cảnh vất vả, đau khổ của con người nên Người giúp đỡ kịp thời, ủi an, chăm sóc bằng tất cả con tim yêu thương, chan chứa tình người của người Mục Tử nhân lành. Người yêu thương mỗi và từng người bởi vì mỗi người we đều có 1 vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Do đó, là chiên của Chúa thì chúng ta có bổn phận nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
Chúa Giêsu nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi".
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong lương tâm mình.
Biết Chúa ko chỉ là học hỏi, suy niệm bằng trí mà còn là hiểu biết sâu xa, yêu mến tận tình bằng tim, tâm. Chính Tình yêu mới làm cho we nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và gắn bó cuộc đời mình vào Mục Tử GiêSu. Theo Chúa đòi hỏi chúng ta từ bỏ - con người cũ, nếp sống cũ, để sống con người mới, đi theo, làm theo ý Người.
Quả vậy, ngày nay, cuộc sống chúng ta quá nhiều tiếng ồn ào, đầy dẫy hấp dẫn lôi cuốn nhưng người Kitô hữu phải phân biệt đâu là tiếng Chúa để bước theo và làm theo ý Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống là một điều không dễ! không dễ vì Lời Chúa thì nhẹ nhàng và êm ái, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi theo Chúa, vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, chông gai thập giá, của lời mời gọi Phục vụ và hy sinh....nhưng con đường này dẫn đến sự sống vì có Mục Tử GiêSu dẫn đường, nuôi dưỡng, bảo vệ.
Ngược lại, lời của trần gian, của ma quỉ thì ồn òa, náo nhiệt, hấp dẫn lôi cuốn lấn át lời nhẹ nhàng của Chúa và hơn thế nữa lời của trần gian, của ma quỉ còn mở ra một đại lộ thênh thang của tham vọng, hưởng thụ, ích kỷ, địa vị, vinh hoa phú quý,...
Tiền tài, danh vọng, lạc thú thế gian là những mục tử giả sẽ dẫn chúng ta đến những cánh đồng hoang có nhiều thú dữ đó là cuộc sống buông thả, hưởng thụ, tội lỗi và cuối cùng dẫn đến chỗ chết.
Người Kitô hữu nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Chúa GiêSu đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì được tới đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Chúng ta theo Mục Tử GiêSu được bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng để lớn lên bằng Lời Chúa, ân sủng và các bí tích của Người. Mục Tử GiêSu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Người, ban cho chúng ta sự sống đời đời, Người bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho những ai một lòng theo Người. Giám mục, Linh mục là những người được tham dự vào chức vụ chăm sóc đàn chiên của Chúa.
Phần chúng ta, ai trong chúng ta cũng muốn vị chủ chăn của mình thánh thiện đạo đức, biết quan tâm yêu thương chăm sóc từng người trong họ đạo của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn cha sở của mình biết từng hoàn cảnh từng con chiên trong họ đạo để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ; dốc hết sức lực để toàn tâm lo những nhu cầu tinh thần, bí tích cho cộng đoàn của mình...Vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn biết noi gương bắt chước Mục Tử GiêSu nhân lành, khôn ngoan, thánh thiện, cần mẫn và sẵn sàng hy sinh, phục vụ cho đàn chiên, họ đạo chúng ta...
Chúa nhật hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu lm, tu sĩ. Theo thống kê năm 2010 cả nước có gần 4.000 linh mục và khoảng 12.500 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước trên 80 triệu. Không cần nói nhiều, chúng ta ý thức nhu cầu cấp bách là Giáo Hội đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến đồng lúa".
Chúng ta xin cho có nhiều người trẻ, trong đó những thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa, đi tu làm linh mục, tu sĩ, thầy, dì phước,... để Phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn. Còn quý Phụ huynh thuộc họ đạo Bình Minh quý mến! xin quý Cha mẹ, hãy quảng đại dâng con cho Chúa để nó đi tu giúp Chúa, giúp đời, giúp phần rỗi các linh hồn. Nếu thấy con mình muốn đi tu, xin quý Phụ huynh hãy bảo vệ ơn gọi đi tu, rồi dẫn nó đến gặp cha sở để cha tìm cách giúp nó đi tu. Chúng ta xác tín một điều: "Chúa không chịu thua lòng quảng đại của Phụ huynh hy sinh dâng con cho Chúa đâu."
Để kết luận, là con chiên của Mục Tử Giêsu, chúng ta biết Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, hãy cảm tạ Chúa, nghe tiếng, bước theo và gắn bó cuộc đời của mình với Mục Tử GiêSu, để được Chúa chăm sóc, dưỡng nuôi & bảo vệ. Đồng thời, cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều Mục Tử giống Mục Tử Giêsu.
51. Chiên Ta
Khoảng giữa thế kỷ 19, thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quí ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, thánh Gioan Boscô đã khỏe lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói “Ta biết chiên của Ta”. Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên; có khi biết như một người quen; có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn Do thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: “Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết qúa ít về người mà tôi yêu quí nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không?”
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
“Biết” là điều rất quan trọng đối với những người chăm sóc (carers). Những người chăm sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái “biết” phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài.
52. Mục tử nhân lành
Ông bà, cô bác, anh chị em và toàn thể các bạn trẻ rất thân mến! Hôm nay là Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh cũng gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành. Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta Chúa Giêsu là vị mục tử, vị chủ chăn tốt lành, vì Ngài luôn tận tình, tận tụy chăm sóc đoàn chiên Chúa.Chúa Giêsu luôn yêu thương, nâng đỡ mọi người đặc biệt là những người nghèo đói, bệnh tật,đau yếu,tội lỗi.
Nhân đây con xin nói vài chi tiết về nghề mục tử, nghề chủ chăn trong bối cảnh nước Do Thái thời đó. Đa phần người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Nghề chăn nuôi phải di chuyển theo đàn gia súc đến những đồng cỏ, những suối nước. Người chủ chăn tốt lành bảo vệnhững con chiên, con dê của mình trên các sườn đồi, sườn núi.Vì nhiều người chăn nuôi như vậy, nên các chủ chăn thường có một âm thanh đặc biệt, một tiếng gọi riêng để tựu tập chiên dê của mình. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng hình ảnh của người chăn vịt ở quê hương chúng ta. Vì lẽ này,Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cụ thể để cho mọi người dễ hiểu: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chúng ta cũng biết đó, trong cảnh hoang sơ của núi rừng, người mục tử chăn giữ đàn chiên thường phải chống đuổi những thú dữ để bảo vệ đàn chiên của mình.Người mục tử nhân lành rất yêu thương đàn chiên, dám chịu cực khổ, tận tụy hy sinh vì đàn chiên, bảo vệ cho đàn chiên được vẹn toàn.
Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, Ngài quả là vị chủ chăn, vị mục tử tốt lành, Ngài quả thật là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu vốn dĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa, mà đã yêu thương con người. Ngài xuống trần gian để thông phần sự đau khổ của con người, chuộc tội cho con người, chịu chết để cứu chuộc con người. Nhìn vào sự tận tụy, sự hy sinh của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được Ngài đúng là vị Mục Tử Nhân Lành, dám hy sinh, dám chết cho đoàn chiên là con người tội lỗi của chúng ta.
Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Người còn muốn cho con người được thông phần với sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa trên nước thiên đàng. Chúng ta rất vui mừng và hạnh phúc vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương ta như vậy. Chúng ta hãy là những con chiên ngoan hiền,bằng đời sống đức tin vững vàng, bằng đời sống tốt lành của chúng ta với những người trong gia đình, trong hàng xóm của chúng ta.
Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức vai trò và sứ vụ của người mục tử,người môn đệ của Chúa Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhận ra hình ảnh của vị mục tử đang dõi bước theo thầy Chí Thánh Giêsu qua các vị linh mục, vị tu sĩ hiền lành, đạo đức và biết tận tụy yêu thương và chăm sóc về tinh thần và vật chất cho mọi người chúng ta. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh luôn có nhiều vị mục tử tốt lành để tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thiên Chúa luôn kêu mời những bậc ông bà, cha mẹ biết hy sinh dâng con cháu của mình, nếu nhận ra chúng có ơn thiên triệu, để làm tu sĩ, làm linh mục cho Chúa. Các bạn trẻ cũng hãy cầu nguyện với Chúa, xem Chúa có gọi mình trong ơn gọi tu trì hay không? Bởi vì đời sống con người chỉ trọn hảo khi thực thi đúng thánh ý Chúa.Cụ thể hơn, nếu bạn nào sau khi cầu nguyện với Chúa, mà cảm nhận được tiếng gọi của Chúa thì hãy trình với quý Cha, quý Dì hướng dẫn ơn gọi mình để các bạn có thể bước theo Chúa Giêsu trong đời sống tận hiến,hầu thông phần với Chúa Giêsu là vị Mục Tử Nhân Lành. Amen.
53. Bài giảng của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
Giáo Hội đã được Chúa Kitô thiết lập như một nhiệm thể. Người là Đầu, còn tín hữu là thân mình. Nhiệm thể Giáo Hội Chúa cũng cần sống động và phát triển, để sứ vụ cứu thế của Chúa Kitô được hoàn tất ngày cánh chung. Cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ là một hoạt động cần thiết để Giáo Hội có những cán bộ nhiệt tâm, tiếp tay Chúa hoàn thành sứ vụ.
-- Lạy Chúa, Chúa đã truyền dạy các Tông Đồ phải công bố Lời Chúa và trở thành ánh sáng, đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. (Xin Chúa thương xót chúng con).
-- Lạy Chúa, nhờ Máu Thánh Chúa đổ ra, đã cứu chúng con khỏi cơn thử thách lớn lao và đã giặt sạch chúng con trong chính Máu Thánh của Chúa. (Xin Chúa Kitô thương xót chúng con).
-- Lạy Chúa, Chúa hiểu biết chúng con và sẵn sàng ban cho chúng con sự sống đời đời. (Xin Chúa thương xót chúng con).
* Xin Thiên Chúa toàn năng...
GIẢNG
Ở đời, chúng ta ủng hộ thuận theo hay phản kháng bỏ rơi ai, là do tâm tình chúng ta thiện cảm hay ác cảm với người đó. Bởi vậy, có những khi cùng sự việc, nhưng người thì chống đối, người thì thuận theo. Hai Thánh Phaolô và Banaba tập hợp dân chúng, giảng dạy Lời Chúa, khuyên bảo họ kiên trì bền vững trong ơn nghĩa Chúa, thì được nhiều người mộ mến, nhưng cũng không thiếu những người Do thái ganh tỵ phản kháng, xách động người khác chống đối.
Tại sao người thuận theo, người phản kháng khi cùng được nghe Lời Chúa? Phải chăng những người thuận theo là những người cảm nhận Lời Chúa mà các Tông Đồ rao giảng phù hợp lòng mình; còn những người chống đối là vì khó chấp nhận những điều các Tông Đồ đã nói? Vậy những điều các Tông Đồ rao giảng có phù hợp chân lý hay không? Sách Công Vụ Tông Đồ đã ghi lại lời hai Thánh Phaolô và Banaba nói với những người chống đối: "Chúa đã truyền dạy cho chúng tôi thế này: Ta đặt ngươi làm ánh sáng nuôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất" (Cv 13,47). Như thế các lời hai Thánh Tông Đồ rao giảng là có mục đích hướng dẫn người ta đến sự thật và ơn nghĩa của Thiên Chúa. Các ngài đã được Chúa đặt để làm Tông Đồ, làm cán bộ cộng tác với Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho người khác. Những người chưa từng nhận biết Thiên Chúa, nay được nghe và hiểu biết về Tình Thương của Người thì lòng tràn đầy niềm vui, hân hoan đón nhận -nghĩa là những con người biết để hoặc khiêm tốn nhận biết lòng mình trống rỗng, hân hoan đón nhận món quà tặng của Thiên Chúa qua các Tông Đồ. Còn những ai tự phụ mình đã nắm vững chân lý của Thiên Chúa, thì cảm thấy lòng mình đã no đầy, không muốn đón nhận thêm; họ cảm thấy dị ứng với ơn của Thiên Chúa và họ đã không ngần ngại từ chối Người.
Qua bí tích truyền chức, qua lời mời gọi sống tinh thần Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn kêu gọi những người sẵn sàng dấn thân phục vụ, cộng tác với Người trao ban Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa cho những người khác. Họ không hoạt động một mình vì có Chúa hằng ở cùng họ, như lời Chúa đã hứa: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20b). Hơn thế nữa, Người còn đồng hoá Người với những người hoạt động cho Người: "Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (10,40). Bởi vậy nghe các Tông Đồ, nghe những người hoạt động cho Chúa, là nghe chính Chúa: "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi; Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Ga 10,27). Theo Chúa thì Chúa cho hưởng "sự sống đời đời", "không bao giờ phải diệt vong" (10,28).
Như Chúa Giêsu, như các Tông Đồ ngày xưa đã từng bị bắt bớ, giết chết, thì ngày nay, bất kỳ thời đại nào và ở đâu, những người hoạt động cho Chúa cũng dễ gặp những chống đối, nghi kỵ và ngược đãi. Nhiều người sợ hãi không dám dấn thân theo Chúa, hoặc đang theo Chúa, nhưng gặp chống đối, ngược đãi, đã vội ẩn mình hay muốn rút lui. Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều người cảm nhận sâu xa Tình Thương của Chúa và cảm thấy ơn cứu độ của Chúa thật quý giá, để dù cho có bị ngược đãi, họ vẫn nhận được "tràn đầy hoan lạc và ơn Chúa Thánh Thần" (Cv 13,52), hầu can đảm tiếp tục dấn thân phục vụ cho Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa; đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho nhiều người sớm biết để lòng mình trống rỗng hầu dễ dàng đón nhận Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa đổ xuống cho.
54. Hãy là mục tử cho nhau
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Nguyên)
Hằng năm, cứ vào Chúa nhật 4 Mùa Phục sinh, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử chăn dắt đoàn chiên. Hôm nay, hình ảnh Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng và chăm sóc cho từng con chiên được khắc hoạ rõ nét qua chính lời Chúa nói trong tin mừng chúng ta vừa nghe: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi”. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”.
Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, yêu thương chiên đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống. Bởi mỗi người chúng ta qua bí tích rửa tội, đều lãnh nhận sứ mạng mục tử của Chúa trong nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình.
Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Là cha mẹ, chúng ta hãy quyết tâm trở nên mục tử Giêsu cho con cái. Hãy biết đến con cái bằng trái tim để cảm thông và yêu thương. Chúng ta sẵn sàng đổ bao mồ hôi nước mắt để nuôi con lớn lên trong thân xác, trong tri thức, nhưng mấy cha mẹ thực sự dám hiến cả đời sống để con cái lớn lên trong tình mến Chúa yêu người. Chúng ta hãy nhớ điều này: Đức tin và tình mến Chúa yêu người không thể đến với con cái chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống của cha mẹ từng ngày dám sống theo Lời Chúa, dám hiến mình vì hạnh phúc của gia đình, dám đặt nỗi khao khát tìm Chúa trên mọi giá trị khác như tiền bạc, thú vui thì cha mẹ mới có thể làm cho con cái thấm nhuần lòng tin yêu Chúa và tình mến tha nhân. Cách sống ấy không chỉ làm nên cái đẹp của đời những đứa con mà còn làm rạng ngời cuộc đời của chính cha mẹ và còn có khả năng khơi dậy ơn gọi dâng hiến nơi tâm hồn con cái. Đó là lúc cha mẹ đang dành cho con cái tình yêu của Mục tử Giêsu.
Là thầy cô, chúng ta hãy trở nên những mục tử của học trò khi biết yêu thương và hết lòng truyền đạt cho học trò không chỉ những tri thức, mà còn giúp các em sống thực như những con người lương thiện, tử tế, nhân ái bằng chính gương quên mình phục vụ, yêu thương chăm sóc từng học trò trong tình yêu của mục tử Giêsu. Có lẽ thật lý tưởng. Nhưng nếu chúng ta không nuôi một lý tưởng cao đẹp như thế trong tâm hồn thì làm sao chúng ta có được một cuộc sống đẹp trong đời thường. Nếu chúng ta không nuôi một ước mơ lớn trong con tim của mình, làm sao chúng ta có được một tấm lòng vàng. Ước gì có nhiều thầy cô Công giáo, quên đi cái bệnh thành tích của xã hội hôm nay, để ôm ấp khát vọng dẫn dắt các em đi vào con đường lương thiện, xả kỷ và yêu thương.
Là các bạn trẻ, đặc biệt các công nhân, chúng ta hãy nâng đỡ bạn mình trong công việc, trong khó khăn, trong đơn côi vì xa gia đình. Hãy thúc đẩy nhau sống đức tin, dẫn nhau đến với Chúa ngày Chúa nhật, tham gia những sinh hoạt của giáo xứ. Trong tình yêu, với nạn sống thử trước hôn nhân, hãy can đảm gìn giữ nhau trong sáng theo luân lý Kitô, hãy giúp nhau vun đắp những đức tính cần thiết cho gia đình tương lai của mình. Đó là cách chúng ta trở thành những mục tử Giêsu của nhau.
Ước gì qua thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta biết noi gương bắt chước Chúa để trở nên mục tử nhân lành trong gia đình, trong xứ đạo, trong khu xóm, trong môi trường mà chúng ta đang làm việc và sinh sống, để cuối cùng tất cả được sống trong cùng một đàn chiên duy nhất của mục tử Giêsu.
Chúa nhật hôm nay cũng được Giáo hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Hiệp ý với toàn thể Giáo hội, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo hội có nhiều mục tử nhân lành hết lòng dấn thân phục vụ vì đoàn chiên. Chúng ta hướng đến các bạn trẻ và cầu nguyện cho họ quảng đại đáp lại lời mời mọi của Chúa để dấn thân và phục vụ Chúa trên con đường dâng hiến. Xin cho các bậc cha mẹ ý thức và biết xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn cầu nguyện và yêu thương, để trở thành vườn ươm ơn gọi cho thế giới hôm nay. Amen.
55. Chúa chiên lành.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng sự sống đời đời.
(Lấy từ dụ ngôn: mỗi sáng người mục tử cất tiếng gọi, chiên nghe tiếng, biết tiếng chủ chăn mình và đi theo để được dẩn tới đồng cỏ xanh và suối nước mát, được ăn uống no nê và được sự sống dồi dào).
Còn Chúa Giêsu thì không có chiên cũng không hề chăn chiên. Người được Chúa Cha sai làm Đấng cứu độ của cả loài người như là chăm sóc đoàn chiên (theo hình ảnh văn hoá do thái). Người đã phục vụ và hiến mạng sống để có ơn cứu dộ cho nhiều người. Người đã chịu chết để làm chứng cho sự thật, không thỏa hiệp với thế gian. Người đã nêu gương can trường không lui bước trước bất cứ đe dọa nào.
Chúa Giêsu là Mục Tử tốt. Cũng phải có đoàn chiên tốt. Và đây là một trong những giới hạn của ơn cứu độ phổ quát mà theo nhiều người là 'phổ quát' thì phải cứu được hết không một ai bị loại trừ. Chiên tôi thì:
1/ Nghe tiếng tôi: Biết và vâng theo. Phải học Lời Chúa mới biết tiếng Chúa Giêsu và biết chính Chúa Giêsu và còn phải vâng theo nữa. Có người có học biết giỏi lắm, có bằng tiếng sỉ Kinh Thánh mà không vâng theo giống như người do thái xưa.
2/ Tôi biết chúng: ám chỉ người do thái xưa. Chúa Giêsu biết họ không có thiện ý, không tin, đeo theo xin dấu lạ. Chúa Giêsu biết rỏ ai là tín hữu ai không. Không phải cứ xưng nầy nọ là được.
3/ Theo tôi: điều kiện rỏ ràng, theo hay không theo. Theo thì được bảo vệ (không ai cướp chúng khỏi tay tôi vì tôi và Cha tôi là một mà Cha là lớn hơn hết.
4/ Theo thì 'tôi ban cho chúng sự sống đời đời' cũng có nghĩa là không theo thì không ban, không có, không được cứu độ.
Giáo Hội kêu gọi: dùng ngày hôm nay để đặt biệt quan tâm tới giáo sĩ và tu sĩ.
1/ Cầu nguyện: Trước hết cậy nhờ vào ơn Chúa. Nhưng có một số việc tích cực đang chờ đợi chúng ta để công việc của Chúa Chiên Lành được kết quả.
2/ Hợp tác với các Mục tử đang công tác nhất là với các vị gặp nhiều khó khăn trong công tác mục vụ của mình, đừng để các ngài bị cô đơn, giúp đở khi các ngài cần giúp đở, nếu chúng ta muốn có nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.
3/ Các cha mẹ biết hướng dẩn con mình và dám hy sinh cho con dù là con một dâng mình theo ơn Chúa gọi làm linh mục hay tu sỉ. Không phải Chúa ban ít ơn gọi mà là ít người chịu sẳn sàng hy sinh đáp lại ơn Chúa gọi và sự chờ mong của Chúa.
4/ Điều tích cực hơn hết là mọi người hãy ý thức mà ham học Lời Chúa vì đây là chìa khoá vạn năng giải quyết tất cả mọi vấn đề vì muốn biết tiếng Chúa để nghe và theo thì phải học. Không học thì không biết làm sao nghe và theo được.
Trào lưu thế tục hoá làm cho con người hiện tại chạy theo hưởng thụ những cái mà thế giới văn minh cung cắp cho họ, không còn nhiều người thích đi tu nữa, có đi tu thì cũng muốn đem tinh thần thế tục hưởng thụ vật chất vào nhà tu. Khủng hoảng cả về số và luợng tu sỉ và linh mục ngày càng trầm trọng. Chúng ta cầu nguyện nhưng cũng đừng quên tích cực góp phần của mỗi người chúng ta tùy thiện chí và khả năng của mỗi người thì mới hy vọng có thêm nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử NHÂN DŨNG.
56. Mục tử 3D
Chúa Giêsu khẳng định: "Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên". Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Ngài quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài (Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt (Ga 10,9.16).
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ 50 viết: "Các ơn gọi linh mục và tu sĩ được phát sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, và nhờ vào cuộc trao đổi chân thành riêng tư với Ngài, người ta đi đến chỗ đón nhận ý muốn của Ngài. Do đó, cần phải lớn lên trong kinh nghiệm đức tin, nghĩa là tăng trưởng sâu xa mối liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu, bằng cách lắng nghe tiếng nói của Ngài được vọng lên trong nơi sâu thẳm của lòng mình. Tiến trình này giúp chúng ta đón nhận lời mời gọi của Chúa, có thể phát sinh nơi cộng đoàn Kitô hữu biết sống đức tin cách mãnh liệt, quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nhiệt thành truyền giáo đến độ quên mình vì Nước Thiên Chúa, siêng năng nhận lãnh các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và chuyên chăm cầu nguyện".
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh địa Lavang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuân thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già... nhưng sau này người ta cảm nghiệm được sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tĩnh tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để "sống với Chúa, và để Ngài sai đi"(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả:
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: "Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" (Is 40, 11).
- Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: "Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc" (Mt 18, 12-13).
- Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: "Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ" (Ed 34, 14).
- Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: "Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì" (Tv 23, 1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: "Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" (23, 4).
- Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: "Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng" (Ed 34, 16).
- Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: "Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên" (Dc 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa để góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá và thông truyền đức tin Kitô giáo trong thời đại hôm nay Amen.
57. Chủ chăn đượm mùi chiên
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Sau năm 1954, noi theo gương vị Mục Tử Nhân Lành, cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc (1902–1995) đã thốt lên: “Vì yêu giáo dân mà tôi ở lại miền Bắc.” Sau hiệp định Genève, các linh mục ở lại miền Bắc lúc đó, phải chấp nhận cảnh đấu tố, giam cầm. Cha bị giam mấy tháng ở chuồng trâu của một người lương dân xóm Hồng Sơn, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Rồi bị đấu tố ở Chiêu Ứng, sau đó còn bị điệu đi Đồng Xa, Đại An, Trù Mật để cho chính những người đã được cha già cưu mang, vu oan cáo vạ! Thế nhưng sau vụ đấu tố đó, những giáo dân này vẫn được cha già yêu thương, tin dùng và nâng đỡ. Có người hỏi: “Sao cha vẫn dùng họ?” Ngài trả lời: “Họ nhẹ dạ, họ mắc mưu, chấp làm gì!”
Một số cha trẻ di cư vào Nam, một số cha già được Chúa gọi về dần, các chủng viện bị đóng cửa, các giáo xứ dần dần vắng bóng chủ chăn. Cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc là cha xứ Chiêu Ứng, nhưng đồng thời phải coi sóc giáo dân tận Lào Cai, Sapa, cách xa ba bốn trăm cây số, trong khi phương tiện đi lại chỉ là một chiếc xe đạp Super Globe. Vào những năm cuối đời, dù đã tám chín mươi tuổi, cha Phêrô vẫn còn phải coi sóc thêm những giáo xứ như Phi Đình, Trù Mật, Vân Thê,… trên mười ngàn giáo dân.
Coi sóc nhiều như vậy, cha già không những đến dâng lễ, ban các bí tích, mà còn lo xây dựng đức tin và cơ sở vật chất nữa. Tất cả những nơi cha già coi sóc đều được chính ngài đứng lớp, ôn thi kinh bổn, giáo lý, mỗi năm hai kỳ vào dịp Lễ Phục sinh và Lễ Các Thánh.
Các hội đoàn như Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, Hội Mân Côi, Hội Thánh Phêrô, Hội Thánh Antôn,... do ngài thành lập vẫn sinh hoạt đều đặn. Riêng nơi cha già trông coi, các cuộc rước hoa, rước Thánh Thể vẫn tổ chức rất long trọng. Các nơi thờ tự trong địa bàn cha già coi sóc vẫn được sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới, trong khi tại các xứ khác bị phá hủy, hoặc không được tu sửa.
Với tinh thần quảng đại, tha thứ và yêu thương phục vụ, cha già Phêrô còn tích cực hỗ trợ nhiều nơi xây dựng trường sở rộng rãi cho con em học văn hóa, như trường phổ thông cơ sở Sơn Cương, trường Ninh Dân thuộc huyện Thanh Ba, trường Văn Lung thuộc thị xã Phú Thọ. Những gia đình nghèo khổ luôn được cha quan tâm: cha giúp họ tiền đong gạo, cha không nhận bổng lễ khi họ đến xin lễ. Suốt đời cha không sắm cho mình một vật gì sang trọng; cha thường nói: “Chúa Giêsu sống nghèo, tôi cũng sống nghèo; Chúa Giêsu bênh vực người nghèo, tôi cũng đi với người nghèo.”
Nói đến tinh thần kỷ luật của cha già là phải nói đến việc giữ giờ giấc: giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc trí óc, giờ lao động chân tay, giờ dâng lễ, giờ cầu nguyện; sáng, trưa, tối, mùa hè oi bức cũng như mùa đông giá lạnh, không khi nào cha sai giờ. Điều đáng khâm phục là khi ngài báo giờ lễ ở một nơi nào, dù xa xôi (như Đồng Xa, Trù Mật) mà không thể đi xe được vì thời tiết quá xấu, ngài quàng áo mưa, chống gậy đi bộ cho kịp giờ đã định. Và cũng có thể nói, trừ những tháng bị giam giữ năm 1954, ngài đã không bỏ một thánh lễ nào. Sáng ngày 28 tháng 11 năm 1995, ngài dâng thánh lễ cuối cùng, sau đó thấy mệt, tuy được các y bác sĩ điều trị, nhưng tối hôm đó ngài đã an nghỉ trong Chúa. (Gp Hưng Hoá)
Linh mục Phêrô Doãn Quang Ngọc thấm nhuần thiên chức, đã can đảm sống cho, sống vì và sống với đoàn chiên, để tận tuỵ chăn dắt và chăm lo các bổn đạo. Chúng ta thành tâm biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng một chủ chăn tốt lành. Đồng thời ca ngợi, tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, đã ưu ái dân Người.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh hôm nay, Chúa Chiên Lành tha thiết mời gọi tất cả con chiên khắp nơi trung kiên đi theo. Người biết rõ từng khuôn mặt, tên tuổi, cũng như tính tốt lẫn thói hư tật xấu của từng con chiên. Dầu bạc nhược, bệnh hoạn, yếu đuối, tất cả cũng đều được Người ân cần an ủi, băng bó, vỗ về, phục hồi và ban sự sống, nếu biết nghe và theo Người.
Chiên nghe và theo
"Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.” Nghe Lời Chúa là môt diễm phúc, một ơn phước, không phải ai cũng được hân hạnh được lãnh nhận, dẫu quyền cao chức trọng mấy đi nữa cũng chẳng được biệt đãi, như thói đời. “Vì chưng Ta bảo các ngươi, nhiều tiên tri và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều các ngươi thấy, nghe điều các ngươi nghe, mà đã không được nghe." (Lc 10, 24)
Hơn nữa, nghe lời Chúa còn là một đặc ân cứu rỗi.“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5, 24) Bởi vì Lời Đức Giêsu bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Cha. “Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói." (Ga 8, 26)
Nghe Lời Chúa và theo Chúa chính là thực hành những điều Người dạy, mới thuộc về Thiên Chúa, về đàn chiên Người chăn dắt và chăm sóc. “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa." (Ga 8, 47) Đức Giêsu còn tái khẳng định một vĩnh phúc, một niềm hy vọng vĩ đại cho con người. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết." (Ga 8, 51)
Chủ Chăn nói và biết
“Chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Lời Chúa luôn mời gọi từng người, từng ngày, từng phút giây trong đời. Phúc thay cho ai luôn biết tỉnh thức, lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Không bao giờ cạnh tranh, chen lấn, đua đòi, kèn cựa, trong cơn bão truyền thông hiện đại, Lời Chúa thường chỉ âm thầm, lặng lẽ văng vẳng trong thinh lặng, trong cõi cô tịch hiu quạnh, trong hoang mạc vắng vẻ, trong đêm thâu trầm lắng canh thức. Như thầm thì qua lương tâm, khuyên nhủ qua những vị chủ chăn nhân lành, nhắc bảo qua các đấng sinh thành đạo đức, tâm tình chia sẻ qua những thân bằng quyến thuộc khôn ngoan theo Chúa. Nhưng công khai, tỏ tường và trường cửu hơn cả, Lời Chúa rất minh bạch, rõ ràng, rạng ngời, sáng chói trong Kinh Thánh, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh. Lời Chúa vốn là sự thật, là chân lý bất biến, bất diệt, mãi hợp lý, hợp thời mọi lúc mọi nơi.“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi!" (Mc 13, 31)
Qua suốt ba mươi ba năm nhập thể, Đức Giêsu đã trải qua hầu hết gian nan, khốn khổ, cực nhọc của kiếp người. Nhất là qua cuộc khổ nạn và chịu chết tức tưởi trên thập giá, Người đã cảm thông, thấu hiểu được tất cả nỗi khổ đau của nhân loại, nỗi cùng cực của người công chính, đạo đức, nhân ái, tử tế. Người chẳng còn lạ gì thói giả hình, thói điêu ngoa, ngậm máu phun người, thói kiêu căng, hãnh tiến, háo danh, hống hách, thói tráo trở, háo lợi, bất nghĩa, bất tín, bất trung, vì chính Người từng là nạn nhân. Nên Người luôn mời gọi những tâm hồn gian khổ, đày đoạ, hãy đến với người an ủi, che chở và cứu rỗi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gồng gánh nặng nề. Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các con sẽ được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.”(Mt 11, 28-30)
Hơn nữa, Chủ Chăn Nhân Lành còn quan tâm, chăm sóc, còn hiểu thấu đáo đến từng con chiên. Dù lạc mất một con chiên, Người cũng đành bỏ lại chín mươi chín con ngoài đồng hoang, mà ráo riết, vội vã, đi tìm về cho bằng được. Tìm được rồi, Chủ Chăn hoan hỷ, mừng rỡ mời láng giềng đến chung vui.“Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn!"(Lc 15, 5-7)
Chủ Chăn bảo vệ và ban sự sống
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” Chủ Chăn còn là cửa chính, nẻo ngay, đường duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. Con chiên vâng lời, nghe theo sẽ no thoả trong đồng cỏ xanh tươi. Người luôn chăm sóc, bảo vệ khỏi mãnh thú hung ác, bạo tàn, vì “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.” Người đã thực hiện đúng như lời đã hứa: Chịu khổ nạn và chịu chết để chuộc tội nhân loại, cho con người khỏi bị án phạt, mà được sống viên mãn.
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.” Những người chăn thuê, mạo danh chủ chiên, hay sói đội lốt chiên, lòng dạ ác độc, chẳng khác kẻ trộm cướp, chỉ vì lợi danh, đến lạm dụng, xén lông, làm thịt, chia rẽ, nghi kỵ, phân hoá, làm tan tác cả đàn chiên. “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên.”
“Lãnh đạo phải trở nên mọi sự cho mọi người, trong bất cứ trường hợp nào, chấp nhận mọi thứ công việc, nhọc mệt, chống đối và khi cần phải hy sinh cả mạng sống con để mưu ích cho đoàn thể, nhưng đừng bao giờ làm giảm sút sự lo lắng cho chính linh hồn con.” (Đường Hy Vọng, số 881)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Chủ Chăn Nhân Lành, xin luôn mãi gọi tên chúng con, luôn thức tỉnh chúng con khỏi sa chước cám dỗ hoang đàng, khỏi những phù phiếm lợi danh thế gian, khỏi thói vị kỷ, chiều chuộng, dễ dãi, o bế thân xác yếu đuối. Xin dẫn dắt, giúp đỡ, khích lệ chúng con dấn thân, vác thập giá hằng ngày, kiên trung theo Chúa trên đường hy vọng đầy chông gai thách thức.
Xin Mẹ Maria rất thánh thương ban cho chúng con những vị Chủ Chăn Nhân Lành, đến yêu thương dạy dỗ, hướng dẫn, chăm sóc, che chở chúng con được bình an và được sống viên mãn. Amen.
58. Chiên nghe theo chủ chăn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Theo một tư liệu mới được tìm thấy, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng Gustav Holst (1874-1934) thường chơi kèn trombone, khi từ London trở về nhà ở Cheltenham. Lúc đó Holst đang là sinh viên của Trường Âm nhạc Hoàng gia Anh và do quá nghèo, không có tiền mua vé tàu hỏa, nên phải đi bộ về nhà. Ông thường tập kèn mỗi khi đi qua cánh đồng, vì nghĩ rằng nơi đó vắng vẻ, không làm phiền tới ai.
Có lần Holst mải mê “biểu diễn” trên một quả đồi ở Cotswold trong vài tiếng và bị một nông dân tìm tới mắng mỏ, rằng tiếng kèn “như còi tàu hỏa” đã làm con cừu của ông ta đẻ non. (Internet)
Cừu, hay chiên (Ovis aries) là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu là loại dễ tính, có thể ăn các loại cỏ khô cằn, ưa khí hậu khô, không chịu ẩm ướt.
Bài Tin Mừng thánh Gioan hôm nay chỉ gói gọn trong ba câu thật ngắn ngủi, súc tích, sâu sắc và thấm thía. Chúa Giêsu là Mục tử chăm sóc đàn chiên dân Chúa.
Vốn hiền lành, dịu dàng, nên chiên hay bị thú dữ đe dọa, nhất là chó sói hung bạo. Vì vậy, thính giác loài chiên rất phát triển để củng cố bản năng sinh tồn. Do đó, con chiên có thể nghe được nhiều cách khác nhau.
Con chiên nghe mùi
Hương vị đặc trưng của đoàn chiên giúp con chiên dễ nhận ra nhau. Đồng thời cũng dễ dàng nhận ra chủ chăn thân thương, gần gũi qua mùi cố hữu đó. Dĩ nhiên chủ chăn phải thực sự sống cùng, sống với và sống cho đoàn chiên, thì mới nồng nàn đượm mùi chiên. Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các linh mục tại Đền Thờ Thánh Phêrô, hôm Lễ Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh 28/3/2013, cũng nhấn mạnh: “Cha mời gọi các con điều này: Các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên!”
Mùi chiên của người mục tử nhân lành tỏa ra từ thái độ, lời nói, hành động chan chứa tình cảm trìu mến. Phong cách, suy tưởng, tình cảm và quan điểm của chủ chăn đều bộc lộ trực tiếp, hay gián tiếp mỗi khi gần gũi đàn chiên. Nếu là kẻ chăn thuê thì chỉ tanh tưởi mùi bạc, ngầy ngậy bơ sữa bổng lộc chức tước. Nếu là kẻ chăn giả mạo thì nồng nặc tà khí man trá, lạnh lẽo, lưu manh. Con chiên tuy hiền lành, nhưng rất bén nhạy đánh hơi xem mùi thân thuộc, hay lạ, dễ dàng tìm ra chủ chăn chính đáng nhân lành hay kẻ chăn thuê, hoặc giả mạo.
Chúa Giêsu còn ân cần nhắc nhở, cảnh báo: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.” (Ga 10, 12-13)
Con chiên nghe thấy
Không chỉ nghe mùi, con chiên còn nghe thấy chủ chănâu yếm gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng đã nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10, 3-5) Như thế, con chiên còn nhận biết chủ chăn qua nếp ứng xử, qua sự chăm sóc tận tụy, vì chủ chăn biết rõ tên tuổi, cá tính, sức khỏe, nhu cầu và tâm trạng từng con chiên.
Chứng kiến sự tận tâm, hy sinh, con chiên mới gắn bó, yêu thương chủ chăn. Mà không nỡ đi theo người lạ, kẻ gian hay người làm thuê. Nếu con chiên lỡ ham vui, đi hoang lạc bầy, thì chủ chăn nhân lành cũng vẫn bỏ 99 con chiên ở lại, để đi tìm cho bằng được một con chiên bị lạc.
Vì thuộc về chủ chăn nhân lành, con chiên cảm nhận được sự ưu ái cụ thể, như xua đuổi sói dữ, băng bó, chữa lành thương tích, ôm ấp vác lên vai, dẫn dắt về tận chuồng trại nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Con chiên nghe tiếng
Không chỉ ban ngày, mà ngay đêm khuya thanh vắng, con chiên vẫn văng vẳng nghe tiếng chủ chăn tâm tình, dỗ dành, vuốt ve, an ủi, căn dặn, dạy dỗ. Thậm chí còn hy sinh vì đoàn chiên.” Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (Ga 10, 14-15)
Đắm mình trong suy tư, cầu nguyện, con chiên có thể nghe tiếng Chủ Chăn nhân lành qua Lời Chúa, qua Thánh Kinh, và các dấu chỉ chung quanh. Đây chính là động thái tích cực của con chiên để hiểu và nghe theo Chủ Chăn. Một sự hợp tác cần thiết phải có, để con chiên nghe được tiếng chủ chăn bảo vệ, hướng dẫn đến dồng cỏ xanh non, suối mát dịu ngọt.
Con chiên luôn cần tỉnh thức đế lắng nghe Chủ Chăn gọi. Như xưa kia ngôn sứ Samuen đang ngủ, nghe tiếng gọi của Thiên Chúa ba lần, nhưng đã không nhận ra, cho đến khi được thầy tư tế Êli hướng dẫn. (I Sm 3:1-10).
Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tời dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính,
vì danh dự của Người. Lạy Chúa,
dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.(Tv 23)
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các vị lãnh đạo của Giáo Hội Chúa. Xin giúp chúng con bỏ qua những lỗi lầm của họ để nhận ra con người thực của họ: là các dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Chúa giữa chúng con. (Lm. Mark Link, SJ)
Lạy Mẹ Maria, xin cho con luôn nhớ Mục Tử Nhân Lành đã hy sinh chịu chết vì đoàn chiên. Xin Mẹ cho con nhận ra tình thương cao cả và nhắc nhủ con luôn sống xứng đáng với tư cách con chiên của Người.
59. Cha mẹ trong vai trò mục tử
Thánh Gioan đã trình bày cho chúng ta thấy hình ảnh người mục tử, một người mục tử biết từng con chiên của mình, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và làm cho chiên không bao giờ phải diệt vong nhưng được sống dồi dào.
Khi dùng hình ảnh người mục tử sẵn sàng hy sinh đời mình cho đoàn chiên, Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta biết chính Ngài là mục tử nhân lành, hiến trọn đời mình cho chúng ta là đoàn chiên của Ngài. Thông thường khi nghe nói tới hai chữ mục tử, chúng ta thường nghĩ đến nhiệm vụ của các Giám Mục và các Linh Mục. Nhưng hôm nay, tôi muốn nói cho moi người biết thêm một thành phần khác cũng được chia sẻ sứ vụ mục tử nữa, đó là những người chúng ta, là những bậc làm cha làm mẹ trong gia đình, phải là mục tử nhân lành, hết tình thương yêu lo lắng chăm sóc cho đoàn chiên là những đứa con của mình.
Ở Việt Nam và nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long hình ảnh người mục tử chăn chiên rất là xa lạ với chúng ta, nhưng có lẽ hình ảnh người chăn vịt lại gần gũi và quen thuộc với chúng ta hơn. Người chăn vịt thì lúc nào cũng tìm những nơi có mồi như là cá, tép, ốc, cua.... để đưa vịt tới đó. Chưa hết đâu, người chăn vịt còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt bị cáo chồn hay kẻ trộm bắt, rồi còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt đi phá lúa hay là phá những ao của người ta. Khi có con vịt nào lạc bầy thì phải đi tìm, khi con nào phạm mồi, ăn phải mồi độc thì phải biết cứu chữa, làm thuốc để giã chất độc mà cứu con vịt đó.
Người chăn vịt là thế, còn chúng ta là những người được Chúa trao phó cho một đàn chiên, hay là một bầy vịt, đó là những đứa con của chúng ta, chúng ta phải chăn giữ chúng như thế nào để chúng có được một cuộc sống tốt đẹp? Hay chúng ta cho chúng ăn những gì để chúng có được một cuộc sống có ý nghĩa?
Bây giờ câu "Trời sinh voi sinh cỏ" không còn thích hợp nữa mà người ta đã nhận ra rằng: sinh con thì dễ, nuôi con thì khó, và dạy con nên người lại càng khó hơn.
Khi sinh con ra, chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn cho con mình được ăn no mặc ấm, ai trong chúng ta lại không thao thức và lo lắng khi con mình bệnh hoạn, rồi khi chúng tới tuổi khôn, ai lại không muốn cho con mình đi học. Chính vì thế, khi sinh ra một đứa con, tôi tin chắc rằng mỗi người đã ý thức việc nuôi dưỡng chúng về phần xác, nhưng còn việc giáo dục thì sao? Trong tinh thần đó, tôi xin nêu lên hai điều cần thiết trong việc giáo dục con cái, và đó như là hai món ăn không thể thiếu trong việc chăn giữ đoàn chiên mà Chúa trao phó cho các bậc cha mẹ.
Món ăn thứ nhất là món ăn nhân bản: là những bậc Cha Mẹ, chúng ta phải giáo dục cho con mình có một số nhân đức căn bản của đạo làm người như: công bằng, trung thực, lịch sự, biết tôn trọng người lớn...
Ca Dao nói rằng: "dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới ve"à. Vì tâm trí của những đứa trẻ giống như một tờ giấy trắng, nếu chúng ta vẽ vào đó hình ảnh nào thì hình ảnh đó sẽ tồn tại mãi trong cuộc đời của chúng, vì thế, nếu vẽ vào đó những đường thẳng, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những đường cong, nếu chúng ta không vẽ vào đó những hình ảnh tốt đẹp, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những hình ảnh xấu xa ghê sợ. Nếu không vẽ vào đó những đức tính của đạo làm người như lịch sự, công bằng, yêu thương, thành thực... thì xã hội và bạn bè sẽ vẽ vào đó những ích kỷ, những thói hư tật xấu. Vì thế, ngay lúc con mình còn nhỏ mà lưu ý dạy cho chúng những điều này, thì khi chúng lớn lên, chúng sẽ trở thành một con người thực sự, một con người biết yêu thương, biết tôn trọng người khác.
Nhưng làm sao giáo dục con mình có những đức tính nhân bản này, trong khi chúng ta lại không có, làm sao dạy chúng yêu thương người khác khi cha mẹ cứ cự cãi nhau hoài, làm sao dạy chúng trung thực khi cha mẹ lại là kẻ gian lận, làm sao dạy chúng đừng chơi cờ bạc khi cha mẹ lại cờ bạc... cho nên việc giáo dục con mình, đòi hỏi cha mẹ phải có một cuộc sống tốt để làm gương cho chúng.
Và món ăn thứ hai là món ăn đức tin: Khi nhìn thấy những cây kiểng với đủ dáng đủ kiểu, có cây cong bên này, có cây quẹo bên kia rất đẹp. Những cây đó không phải tự nhiên được như vậy, nó phải được cắt tỉa và uốn ngay lúc còn nhỏ. Khi mới đâm tược thì phải lấy dây chì uốn những tược đó theo những kiễu mà mình muốn, cho tới khi cái tược đó già đi thì mới mở dây chì ra, và lúc đó cái cây sẽ giữ nguyên cái dáng kiễu mà mình uốn nó.
Cũng vậy, khi sinh con ra, chúng ta phải định dạng cho chúng một cái dáng về đức tin, nghĩa là cha mẹ phải quyết định cho chúng ngã về bên nào, ngã về đức tin công giáo hay ngã theo chủ nghĩa vô thần, ngã theo đạo công giáo hay những đạo khác. Là những người cha người mẹ công giáo, chúng ta phải cho con mình ngã về đức tin công giáo, chứ không thể ngã theo chủ nghĩa vô thần hay một niềm tin nào khác được. Chính vì thế, khi sinh con ra, cha mẹ phải liệu làm sao cho con mình được rửa tội gia nhập vào đạo công giáo, để chúng có được một đức tin công giáo càng sớm càng tốt.
Như vậy, mỗi người chúng ta chính là người mục tử có bổn phận lo cho đoàn chiên là con cái mình. Có muốn cho những đứa con của mình trở thành những người tốt hay không? Chúng ta là những bậc cha mẹ hãy nhớ lại những lời hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đứng trước mặt Chúa và hội thánh, chúng ta đã hứa, là sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và hội thánh, nhưng chúng ta có thực hiện lời hứa đó không? Thực hiện tới mức độ nào?
Ước gì tất cả chúng ta là những bậc làm cha mẹ, chúng ta biết ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình đối với con cái, để từ đó giáo dục con em mình trở nên một người tốt và trở nên một kitô hữu tốt, nhờ đó, chúng được hạnh phúc ngay ở đời này và ngày sau được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Amen.
60. Chúa Giêsu – Vị Mục Tử Nhân Lành
(Suy niệm của Antôn Lương Văn Liêm)
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27)
Nhận được tin báo Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị và dân chúng trong vùng, người chỉ huy đội vệ binh tức tốc triệu tập thuộc cấp chuẩn bị nghênh đón. Một trong những việc chuẩn bị là dọn đường và mở đường.
Thật không may cho đội vệ binh, khi xe của Thống soái gần tới, bỗng dưng một đàn cừu (chiên) độ khoảng vài trăm con đổ xô lên đường. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu (chiên) chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:
- Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu (chiên) rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!
Xe của Thống soái ngày càng tiến gần, người chỉ huy đội vệ binh càng hối thúc thuộc cấp của mình, nhưng dường như đàn cừu không màng chi tới những lo lắng của người chỉ huy và đội vệ binh, chúng vẫn nhởn nhơ vui đùa! Xe của Thống soái dừng lại trước đàn cừu. Người đội trưởng đội vệ binh lúng túng chưa biết xử sự ra sao.
Bỗng từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng cất lên. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu (chiên) hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Đội trưởng đội vệ binh và thuộc cấp thở phào nhẹ nhõm, họ ngỡ ngàng, thán phục người mục đồng. Vị Thống soái mỉm cười và đoàn xe của ông ta từ từ tiến.
Qua câu chuyện trên, khi người mục đồng cất tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên về quanh mình đã làm cho những người trong đội vệ binh thán phục và ngỡ ngàng. Có thể nói, cho dẫu người mục đồng ấy có tài quy tụ đàn chiên bằng ngôn ngữ của sáo, nhưng chắc chắn một điều, người mục đống không thể nào giúp cho đàn chiên thoát khỏi cái chết bởi cái giới hạn của chúng, hoặc bảo vệ đàn chiên an toàn gặp phải hổ dữ hay kẻ trộm mạnh sức hơn mình. Giờ đây dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần ta chiêm ngắ, và noi gương Người Mục Đồng là chính Đức Giêsu Kitô Phục Sinh qua Kinh Thánh.
Như ta đã biết, chiên và nghề chăn chiên là hình ảnh thực tế và gần gũi đối với người Do Thái. Vào thời Cựu Ước, chiên là con vật được dùng vào nghi lễ tạ ơn, hiến tế dâng lên cho Đức Chúa, chiên cũng là thú nuôi đem lại lợi ích cho con người, lông chiên được dùng để kiến tạo nên những tấm khăn, cái áo… Người chăn chiên thường được gọi là mục đồng. Họ là những người chăm sóc đàn chiên, họ thường ở với chiên dẫn đàn chiên đến đồng cỏ, suối nước và bảo vệ đàn chiên khỏi những sói dữ và kẻ trộm. Nghề chăn chiên rất cực và đôi khi phải va chạm với những hiểm nguy để bảo vệ đàn chiên. Vì thế, Kinh Thánh dùng hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người nhân loại.
Trước Chúa Giêsu sinh ra trên dưới 800 năm, Ngôn sứ Êdêkien đã tiên báo: “Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình… Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng… Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt đàn chiên…” (Ed 34,11-23)
Trong thư gửi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giêsu, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu…” (Dt 13,20)
Trình thuật sách Khải Huyền giới thiệu Đức Giêsu là Con Chiên và cũng là thủ lãnh của đàn chiên (x. Kh 7,9-17). Tin Mừng theo Thánh sử Gioan đã trình thuật lời minh định của Đức Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong…” (Ga 10,27)
Vâng! Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành. Nhiệm vụ chính yếu Ngài: Chăn dắt, chăm sóc và vỗ về đàn chiên bằng lời nói, hành động; Ngài thân hành đi tìm những con chiên lạc, băng bó và chữa lành những con chiên bị ốm đau và thương tích. Không những thế, Ngài còn chấp nhận hy sinh, chấp nhận chết đi để cho đàn chiên được cứu và được sống muôn đời. Trước khi bước vào cuộc Tử Nạn Phục Sinh và về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến chính mình làm thần lương, thần dược nuôi sống và chữa lành đàn chiên, qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể vào chiều Thứ Năm trước Lễ Vượt Qua.
Hướng về Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, trước tiên, ta cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đón nhận ta vào đàn chiên của Ngài, ta cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài ban tặng cho ta Vị Mục Tử Nhân Lành luôn hướng dẫn, dưỡng nuôi ta trong từng phút giây của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài hằng bảo vệ ta thoát khỏi nanh vuốt của sói dữ tham mồi, dẫn ta tới đồng cỏ xanh non; đưa ta tới dòng suối mát trong. Không những thế, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu ấy còn chấp nhận sống khó nghèo, chấp gian khó, khổ đau và cả cái chết để chuộc những lỗi lầm của ta khi vì dại khờ mà ta rời bỏ đàn chiên đi tìm những đồng cỏ lạ, đồng cỏ đưa ta tới sự hủy diệt cả thân xác lẫn linh hồn. Qua cái chết, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu đã Phục Sinh khải hoàn. Nhờ sự Phục sinh của Ngài mà ta được thông phần vào đời sống bất diệt của Thiên Chúa.
Trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta được Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cầu nguyện cho hàng linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất thiết thực và rất có ý nghĩa. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang thiếu hụt trầm trọng ơn gọi trở thành linh mục, tu sĩ… nhiều nơi đang rất cần sự hiện diện của mục tử và tu sĩ để rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, những buôn sóc anh em dân tộc thiểu số… Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, ta hiệp lời cùng với Giáo Hội cầu xin Chúa ban tặng nhiều thợ gặt lành nghề như lời mời gọi của Đức Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, anh em hãy xin Cha sai thợ gặt ra gặt lúa đem về.” (Mt 9,37-38)
Hoà cùng với Giáo Hội trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta đồng cất cao lời cảm tạ Thiên Chúa, trong tâm tình tạ ơn ấy, ta cũng được mời gọi hướng lòng về các vị mục tử, tu sĩ nam nữ và những tâm hồn thiện nguyện với tấm lòng trân quý và cám ơn vì các ngài đã và đang chăm sóc ta trong đời sống đức tin, đời sống cầu nguyện như lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em.” (1 Tx 5,12)
Khi nói về hình ảnh và vai trò của người mục tử, ta thường liên tưởng và coi đó là nhiệm vụ của hàng linh mục xa hơn nữa là của tu sĩ nam nữ. Theo ngôn ngữ của Thánh Phêrô, vai trò, nhiệm vụ mục tử được Chúa ân ban cho hết tất cả những ai thuộc dân thánh như lời ngài viết cho các giáo đoàn thời Giáo Hội sơ khai: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi an hem ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sánh diệu huyền…” (1 Pr 2,9)
Có thể nói, qua Cuộc Tử nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, ta được thông phần vào đời sống, công việc của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Giêsu là Mục Tử, Ngài cũng trao ban cho ta chức vụ mục tử sau khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ta được dìm vào ân sủng của Chúa Thánh Thần. Qua ân sủng và chức vụ mục tử ấy, ta có bổn phận, trách nhiệm chăn dắt, chăm sóc và bảo vệ đàn chiên là gia đình, cộng đoàn… Không chỉ là chu toàn bổn phận, trách nhiệm của người mục tử, nhưng qua nhiệm vụ ta được mời gọi trở thành ánh sáng dọi chiếu Tin Mừng cho thế gian theo lệnh truyền Đức Giêsu: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 13,47)
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng Nhân Ái, nhưng cũng rất công minh. Vì thế, khi có ân thưởng thì cũng có luận phạt, còn đó lời cảnh báo, lời hạch tội của Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái trao ban cho ta chức vụ mục tử, qua miệng Ngôn sứ Êdêkien: “Đức Chúa là Chúa thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiến đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của ta tán loạn và biến thành mồi cho mọi dã thú. Vì thế hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên của Ta. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta…” (Ed 34,1-10)
Để giúp ta trở thành người mục tử như lòng Chúa ước mong, người mục tử luôn biết quảng đại, hy sinh và hiến thân mình cho đàn chiên, thiết tưởng, không có con đường nào khác ngoài con đường ta chạy đến với Đức Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao, vì Ngài đã phán: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến đây Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho các con. Các con hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11,28)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành! Con cảm tạ Chúa đã chăm sóc con và gia đình con, ngay cả khi con rời bỏ Chúa để đi tìm những đồng cỏ nơi thế gian, thế mà Chúa vẫn yêu thương đưa dẫn con trở về và trao ban cho con chức vụ mục tử.
Xin Chúa dạy và giúp con chu toàn bổn phận mục tử mà Chúa đã trao ban. Xin giúp đời con biến thành những tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên mà Chúa trao cho con là người dẫn dắt. Amen.
61. Sống tốt ơn gọi được lãnh nhận
Cùng với Giáo hội hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 4 Phục sinh của năm Phụng vụ 2010. Như chúng ta đã biết, vào mỗi Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hằng năm Giáo hội tôn vinh Chúa Giêsu với tên gọi: mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã tự xưng mình là mục tử nhân lành - mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10, 27 - 28a).
Chúa Giêsu đến trần gian này để hoàn tất chương trình cứu độ con người. Ðó là ơn gọi đặc biệt mà Chúa Giêsu được đón nhận từ Thiên Chúa Cha. Và Người đã hoàn tất ơn gọi ấy thật tuyệt vời.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày mà cả Giáo hội cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ dám đáp lại ơn kêu gọi của Chúa để sống đời sống tu trì. Sống ơn gọi tu trì hầu tận hiến trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình.
Nói đến ơn gọi tu trì thì dường như ngày nay nhiều bạn trẻ Công giáo cảm thấy sợ. Có lẽ họ sợ là vì họ chưa dám sống tích cực ơn gọi chung. Ơn gọi chung ấy chính là ơn gọi làm người và ơn gọi làm người con Thiên Chúa. Khi ý thức để sống trọn vẹn được 2 ơn gọi căn bản này, các bạn trẻ sẽ dễ dàng đón nhận ơn gọi sống đời tu trì. Chính môi trường gia đình là những người đầu tiên gieo mầm sống ơn gọi này.
Ðời sống chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Ðây là chủ đề của Sứ điệp ơn gọi năm nay của Ðức Thánh Cha Bênêđictô. Trong sứ điệp này ngài đề cập đến ba việc cần làm để trở thành chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì.
Ðời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên. Ðó là một gia đình thường xuyên nhắc nhở nhau đi dâng Thánh lễ nhất là Thánh lễ Chúa nhật. Cũng vậy, trong gia đình ấy mỗi người nhắc nhở nhau đọc kinh hôm kinh mai chung.
Một đời sống tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa là khía cạnh thứ hai trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Với tất cả biến cố vui buồn trong cuộc sống luôn biết tìm ra và đón nhận thánh ý Thiên Chúa một cách vui vẻ.
Khía cạnh thứ ba không kém phần quan trọng là biết sống hiệp thông với mọi người. Tự bản chất con người được dựng nên để sống chung, sống cùng, sống với và sống cho người khác. Cho nên, người nào muốn trở thành người thật sự cần sống tốt những điều này.
Mặc dầu, trên đây là những điều căn bản trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì nhưng thiết nghĩ đây cũng là điều hết sức cần thiết cho mỗi người tín hữu. Bởi vì, cho dù có đi tu hay không mỗi người chúng ta đều được kêu mời sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa.
62. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời
“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.
Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.
Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.
Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.
Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.
Dụng cụ ban ơn cứu độ
Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.
Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.
Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
2. Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
3. Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
63. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta - Lm. Thu Băng
Bên Ấn Độ, người ta bắt khỉ bằng cách làm một cái hộp gỗ, có một cái lỗ nhỏ vùa đủ để khỉ thọc tạy vào. Nhưng nếu nó nắm một hạt dẻ đựng trong hộp thì nó không thể lấy tay ra được. Do đó khỉ có thể chọn một trong hai việc: Buông hạt dẻ để có thể chạy thoát, hoặc nắm lấy hạt dẻ để bị bắt. Nhưng khỉ thường nắm chắc hạt dẻ, vì nó không thể hiểu được mánh lới người ta gài bẫy để bắt nó.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra một cuộc lựa chọn cho người Do Thái. Họ trách Chúa để họ nghi nan, để họ thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp nhưng dùng thí dụ: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta và chiên Ta là một".
Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết rằng Đức Tin là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn. Đức Tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để mà bước theo. Chiên có đôi mắt nhìn kém, nhìn xa không rõ, nên nó phải đi theo nhau thành đàn và lắng nghe tiếng chủ chăn mà đi, không theo tiếng người lạ.
Ngày nay đức tin nơi con người bị giảm sút, sống trong một xã hội hưởng thụ vật chất, thích hào nhoáng, ưa an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa, cũng như con khỉ muốn thủ lợi, bám chặt lấy hạt dẻ mà không muốn buông ra để khỏi bị lụy vào thân. Cái mồi vinh hoa phú quý vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai (từ trẻ thơ cho tới người râu tóc bạc phơ), lao mình vào cái chết.
Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, đón mừng người biết nhắm mắt nghe theo tiếng Chúa, biết lựa chọn, biết sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô tử giá. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống hào nhoáng, tham vọng, bỏ đi lối sống ngang trái, vụng trộm, lừa lọc..... và nhiều lối sống khác chúng ta đang có thể mắc phải. Bỏ đi được chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm lại được sự sống đời đời và bảo đảm không mất.
Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã dựng nên chúng con và ban cho ơn sự sống, ơn đức tin, để chúng con tìm hiểu và suy tư về ơn Chúa mà suy phục, mà nghe theo tiếng Chúa. Vậy xin Cha giúp chúng con biết lắng nghe tiếng Ngài. Xin giúp chúng con biết chu toàn kế hoạch mà Cha đã định, để chúng con được sống hạnh phúc bên Cha mãi mãi.
64. Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công giáo từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu.
Hình ảnh này là kim chỉ nam cùng là mẫu gương cho đời sống Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian từ xưa nay.
Hình ảnh này không chỉ là một hình ảnh đẹp thơ mộng, đầy văn chương thi vị, nhưng là hình ảnh sống động chứa chan tình yêu thương trong tương quan liên đới người chăn chiên lo cho đàn chiên.
Đức giáo hoàng Benedictô 16. trong tác phẩm "Giêsu thành Nadarét", mà ngài vừa mới viết xong, và cho xuất bản dịp mừng sinh nhật thứ tám mươi ngày 16.04.2007 vừa qua, đã diễn tả hình ảnh này vừa theo lối văn chương suy tư thần học, vừa tâm tình đức tin và vừa theo phương pháp phân tích khoa học.
“Chúng ta trở lại chương 10. Phúc âm Thánh Gioan nói về người Chăn chiên: “Thầy là người chăn chiên nhân lành". Bài tường thuật lịch sử này vẽ lên rõ nét hình ảnh người chăn chiên, cùng ẩn chứa bốn động lực căn bản.
- Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành hứa ban: sự sống đầy đủ dồi dào. Sự sống đầy đủ dồi dào như mỗi người mong đợi. Nhưng điều đó là gì vậy? Đâu là nội dung của sự sống đó? Nơi nào ta có thể tìm kiếm được sự sống đó? Khi nào và như thế nào chúng ta có “sự sống đầy đủ dồi dào"? Nếu chúng ta cứ sống như người con hoang đàng, chúng ta có bỏ lỡ món qùa tặng của Thiên Chúa không? Nếu chúng ta sống như kẻ ăn trộm, như kẻ cướp - tất cả chỉ cho mình, thì sao?
Chúa Giêsu hứa, Ngài sẽ chỉ dẫn lối cho các con chiên tìm tới “đồng cỏ", nơi đó có thức ăn, có nguồn nước cho đời sống. Thánh Vịnh 23 nói với chúng ta: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành...Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc...
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời," (Tv 23, 2.5f)
Tiên tri Edêkien cũng diễn tả: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en" (Ez 34,14)
Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Chúng ta biết, những con chiên sống bằng gì; con người sống bằng gì?
Các Tổ phụ cha ông ngày xưa đã dùng hình ảnh trong vùng cao nguyên núi đồi bên đất nước Israel có những cánh đồng cỏ ở nơi cao, nơi đó có bóng râm che rợp, có nước, làm hình ảnh của Lời Thiên Chúa cho sự sống trong Kinh Thánh. Và nếu hình ảnh đó không hợp với ý nghĩa lịch sử, như trong bài diễn tả, các ngài cũng đã nhìn đúng, nhất là Chúa Giêsu đã tự hiểu về mình đúng như thế. Con người sống bằng sự chân thật, bằng được yêu thương, bằng được yêu thương trong sự chân thật. Con người cần một Thiên Chúa gần gũi bên cạnh họ, một Thiên Chúa cho ý nghĩa đời sống, một Thiên Chúa hướng dẫn đường đời sống.
Tất nhiên, con người cần cơm bánh, cần của ăn thức uống cho thân xác. Nhưng họ cần điều gì thâm sâu hơn, nhất là Lời, tình yêu và chính Thiên Chúa. Ai trao cho người nào điều đó, người đó trao tặng “sự sống dồi dào". Như thế mang đến sức mạnh, qua đó người làm cho đời sống trên mặt đất đầy đủ ý nghĩa.
- Động lực thứ hai của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành thể hiện qua biến chuyển mới: Người chăn chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên" (10,11). Thánh gía chiếm trung tâm điểm của đời sống người chăn chiên nhân lành không phải như hành động của sức mạnh ép buộc, nhưng là sự tự hy sinh hiến thân: “Ta hiến mạng sống mình để lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính ta tự ý hy sinh mạng sống."(10,17)
Trong Bí tich Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến đổi hành động sức mạnh ép buộc bị đóng đinh trên thánh gía thành cử chỉ tự hiến thân hy sinh cho người khác.
- Động lực thứ ba của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự biết nhau giữa người chăn chiên và đàn chiên: “... người chăn chiên gọi các con chiên của mình, anh ta biết tên từng con chiên và dẫn chúng ra ngoài. Các con chiên theo anh ta, chúng quen biết tiếng của người chăn dắt chúng. (10,3).
Người chăn chiên biết các chiên mình thuộc về mình, và các con chiên biết mình thuộc về người chăn chiên. Người chăn chiên sở hữu các con chiên không phải như bất cứ đồ vật cần dùng nào. Chúng thuộc về anh ta vì anh ta biết chúng. Điều này biểu hiện mối liên quan mật thiết sâu thẳm hơn là sở hữu một món đồ vật.
Con cái không là vật sở hữu của cha mẹ; vợ chồng không là sở hữu của một người khác. Nhưng họ thuộc về nhau theo chiều tâm linh sâu thẳm hơn là sở hữu làm chủ một khúc gỗ, một miếng đất. Con cái thuộc về cha mẹ, nhưng dẫu vậy chúng vẫn là thụ tạo tự do của Thiên Chúa tạo dựng. Đời sống mỗi người con có một sứ mệnh riêng, có một điều mới riêng, có một bản vị riêng trước mặt Thiên Chúa.
Con cái cha mẹ thuộc về nhau không phải như vật sở hữu, nhưng có trách nhiệm với nhau. Họ thuộc về nhau trong tự do và trong tình yêu thương cho nhau.
- Động lực thứ tư của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự hiệp nhất nên một "Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này. Ta cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử. (10,16).
Chúa Giêsu, sau khi sống lại, sai các Tông đồ đi rao giảng không chỉ nghĩ đến những con chiên lạc đàn ở Israel, nhưng đến tất cả mọi người: “Anh em là nhân chứng cho Thầy ở Giêrusalem, toàn miền Giudea, Samaria và tới tận cùng biên cương trái đất" (Cv 1,8)
Lý do sâu thẳm của sứ mạng sai đi rao giảng tập trung ở điểm: Chỉ có một đàn chiên.. Ngôi Lời (Logos) đã thành người qua Chúa Giêsu, là người chăn chiên của hết mọi người. Tất cả mọi người được tạo thành do Lời của Thiên Chúa. Cho dù họ có tản mát khắp nơi, nhưng vẫn là một phát xuất từ nơi Thiên Chúa và rồi lại quy tụ về nơi Ngài. Trong Ngôi Lời (Logos) loài người có thể quy tụ trở nên một, đấng là người chăn chiên đích thực, đấng đã làm người hy sinh hiến mạng sống, và đã trao tặng sự sống dồi dào.
Hình ảnh người chăn chiên từ thời xa xưa, vào thế kỷ thứ 3 đã ăn sâu đậm nét vào đời sống Kitô giáo. Hình ảnh này thân thương quen thuộc trong đời sống ở thành thị lẫn thôn quê. Kitô giáo đã tìm thấy hình ảnh này nơi Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử. Nơi Ngài tôi không còn thiếu gì. Người dẫn tôi ra đồng cỏ xanh tươi. Người dẫn tôi đi qua thung lũng tối tăm hiểm nguy...".
Nơi Chúa Giêsu Kitô họ nhận ra hình ảnh người chăn chiên nhân lành, người trong đời sống đã trải qua những thung lũng tối tăm. Người chăn chiên đó đã trải qua đêm đen tối sự chết, người chăn chiên biết đường đi qua đêm tối sự chết, không bỏ ai một mình đơn cô, nhưng dẫn đưa đến đồng cỏ sự sống xanh tươi, nơi có ánh sáng bình an..
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng không quên dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, anh ta vác bế nó trên vai đưa trở về nhà. Với các Giáo phụ hai hình ảnh này đan bện vào nhau: người chăn chiên lên đường đi tìm con chiên lạc đàn là chính Ngôi Lời, và con chiên lạc bồng bế trên vai đưa về nhà là loài người, mà Ngài đón nhận.
Qua nhập thể làm người và qua cái chết trên thánh gía, Chúa Giêsu đã bồng ẵm con chiên lạc - là loài người, trở về nhà. Ngôi Lời đã thành người. Ngài là người chăn chiên và bồng bế con chiên, cùng là người theo sát cuộc sống con người trần gian qua mạo gai và sa mạc đời sống. Nhờ được Ngài chấp nhận bồng ẵm chúng ta trở về nhà. Ngài đã hy sinh mạng sống cho chúng ta. Ngài chính là sự sống." (Joseph Ratzinger- Benedickt XVI., Jesus von Nazareth, I., 2007 Verlag Herder, Freiburg im Bresgau, 8. Kapitel - Der Hirte, S. 317 - 331)
65. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ với các em thôi. Và để các em nhớ và thuộc câu này, thầy mời gọi các em cùng đọc với thầy: "Con chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".
1. Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, thánh Gioan có nhắc đến tên một con vật, con đó là con gì? TL: Chiên. Các em biết, hôm nay là Chúa Nhật IV Phục sinh, còn có tên gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa dùng hình ảnh quen thuộc của người Do Thái là con chiên và người chăn chiên để nói lên Chúa luôn yêu thương và quan tâm chăm sóc các em trong cuộc sống hằng ngày. Chúa thì thương lo cho mình, còn mình là thiếu nhi phải đáp lại thế nào đây?
Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, Chúa dạy mình đáp lại bằng cách nghe và theo Chúa, theo thầy, cụ thể qua việc đến nhà thờ học giáo lý mỗi Chúa Nhật.
2. Ở đây, các em học giáo lý lúc mấy giờ, thứ mấy? Học giáo lý chính là theo Chúa và nghe Chúa. Thế nhưng, đang lúc các em học giáo lý, có những bạn khác không nghe theo tiếng gọi của Chúa mà theo những tiếng khác để đi chơi game, đi đá banh, đi đám cưới với bố mẹ, đi siêu thị với người thân... Còn cũng có những em tốt hơn chút, cũng đi học giáo lý, nhưng lúc dì hay giáo lý viên cắt nghĩa giáo lý, em đánh cờ carô với bạn, em thọt léc bạn bên cạnh, em ngồi ngủ, hoặc lo ra nghĩ chuyện đâu đâu đó. Đó là những hành động cho thấy em hỏng muốn nghe tiếng Chúa.
Các em thân mến! Lý do các em không muốn đi học giáo lý và chơi giỡn trong giờ giáo lý vì mình chưa thấy sự quan trọng của việc học giáo lý. Thầy nói cho em biết học giáo lý quan trọng thế nào qua bài cám ơn của một em rước lễ lần đầu ở họ đạo thầy: " Sau khi rước lễ lần đầu xong, một em thiếu nhi đứng giữa nhà thờ đọc bài cám ơn, rất đông người trong nhà thờ đang lắng nghe, sau khi cám ơn Cha sở, các giáo lý viên, em bắt đầu cám ơn cha mẹ em: Kính thưa cha mẹ, cha mẹ thương con nhiều, con không biết cha thương con đến mức nào nhưng con hiểu được tình thương bao la của mẹ qua những lần trời mưa to,mẹ vẫn mặc áo mưa, chạy xe đạp chở con đến nhà thờ để học giáo lý. Trong những bước đi đầu đời của con đến với Chúa, mẹ đã ân cần quan tâm đưa đón, thì con tin rằng mẹ sẽ là chỗ dựa đức tin vững chắc cho cuộc đời của con sau này". Và khi em đọc đến đó, người ta thấy nhiều giọt nước mắt đang lăn dài trên má của các bà mẹ tham dự lễ ngày hôm đó.
Các em thiếu nhi thân mến, không cần nói nhiều, trời mưa mà mẹ vẫn chở em đi học giáo lý cho thấy việc học giáo lý cần hơn, quan trọng hơn việc chơi game, đi đá banh, đi siêu thị, đi học thêm. Vì học giáo lý làø nghe tiếng Chúa, là đi theo Chúa mà.
Kính thưa OBACE! Trời mưa, một bà mẹ nhà quê chở con đi học giáo lý, OBACE thấy có dại dột quá không? Dại hay không thì chưa biết nhưng bà hiểu được đúng đắn rằng dù con là do mình sinh ra nhưng thực sự nó là con cái Thiên Chúa, nó phải cần được học giáo lý để biết cha nó là ai và học giáo lý để biết sống làm sao mai này về hưởng phước với cha nó. Đến giờ con học giáo lý, nó đòi đi học thêm, mình là cha là mẹ chiều nó, sợ nó học thua các bạn. Sau này, nó có thể thành tài đó, nhưng nó không biết cách làm con Chúa, không biết cách sống đạo cho tử tế, mất phần rỗi linh hồn, trách nhiệm nó, bậc làm cha làm mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa. Còn ngược lại, nếu mình biết quan tâm cho con cái đi học giáo lý đàng hoàng, nó học biết mến Chúa yêu người, nó biết hiếu thảo với cha mẹ, người được hưởng nhờ đầu tiên là OBACE. Do vậy, để đáp lại Lời Chúa hôm nay giúp trẻ nghe và theo Chúa, Xin OBACE dù bận việc đến đâu cũng phải cố gắng sắp xếp đưa con mình đến nhà thờ học giáo lý. Rồi quan tâm xem nó có đi học hay trốn học đi chơi. Nó đi học về, hỏi xem nó học được những gì. Dặn nó học bài, kêu nó trả bài cho mình nghe. OBACE tưởng đâu chuyện mình lo cho con đầy đủ cái ăn, cái mặc, chuyện học ở trường là làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, chưa đâu, đó chỉ là làm cái chuyện phụ. Lo cho con cái học giáo lý biết Chúa, để nó sau này sống tốt mới là bổn phận chính yếu Chúa muốn các bậc cha mẹ cộng tác với Ngài.
Kính thưa OBACE! Hôm nay là ngày Giáo Hội dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. OBACE mong ước cho con mình trở thành linh mục, tu sĩ thì xin từ bây giờ, lúc con còn nhỏ, hãy cầu nguyện cho nó. Và hãy cố ý dâng cho Chúa mơ ước này ngay lúc OBACE chở nó đi học giáo lý đó. Đang lúc chúng ta chở con đi học giáo lý cũng là lúc chúng ta đang ươm mầm ơn gọi cho con đó thưa OBACE. Amen.
66. Đức Giêsu, Vị Mục Tử sự sống
(Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Minh Chánh)
Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian, trong tư cách là Mục Tử. Vâng Chúa ở cùng chúng ta không gì khác hơn là ban cho chúng ta sự sống đời đời (x. Ga10,3-28).
Sự sống là lý do duy nhất để Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành đến với con người. Đọc xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng, chúng ta rất dễ cảm nhận về vai trò Mục Tử của Đức Giêsu tại trần gian:
1/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử phục vụ sự sống:
Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, nên dù cuộc sống có lầm than vất vả, Chúa luôn nâng đỡ và chạnh lòng thương chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta. Hai phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều đó là bằng chứng nói lên tình thương của Đức Giêsu Mục Tử đối với đoàn chiên của Ngài:
Lần thứ nhất, khi nhìn thấy đoàn người đông đảo theo mình, Đức Giêsu chạnh lòng thương họ. Và với năm cái bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con ăn no nê và dư thừa mười hai giỏ đầy (x, Mt14,13-21).
Lần thứ hai, lại một đám đông người theo Chúa không có gì ăn. Chúa đã chạnh lòng thương, vì đã ba ngày họ sống trong cảnh đói khát cũng vì theo Chúa. Rồi từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã hoá ra nhiều để cung cấp cho khoảng bốn ngàn người ăn no nê và con dư thừa được bảy giỏ (x, Mc 8,1-10).
Như vậy, với hai phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì đó cũng là lý do rất chính đáng để chúng ta cảm phục con tim yêu thương của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ngài đến để yêu thương chăm sóc từng con chiên, để phục vụ sự sống cho đoàn chiên. Nhờ vậy đoàn chiên của Chúa sẽ được sống và tăng trưởng. Thế nhưng Đức Giêsu còn là Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên của mình
2/ Đức Giêsu Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên:
Trong đoàn chiên của Chúa không phải ai cũng khoẻ mạnh, không phải ai cũng dồi dào sức sống. Ngược lại có những chiên đau yếu bệnh tật, Đức Giêsu Mục Tử rất cảm thông, nâng đỡ và quan tâm đối với những hoàn cảnh riêng biệt này, nhờ đó sự sống của những chiên này sẽ được phục hồi nguyên vẹn.
Trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, thì cũng là thời gian Chúa Giêsu cứu chữa để phục hồi những chiên đau yếu: Ai câm điếc thì Chúa chữa cho nói và nghe được, ai mù loà thì Ngài cho sáng mắt, ai què quặt thì Chúa chữa để có những bước đi vững mạnh. Và bất cứ chứng bệnh gì, nếu ai gặp được Chúa với tất cả lòng tin, Ngài sẽ đặt tay chữa lành ngay tức khắc (x, Lc 4,40-41).
Đức Giêsu, Vị Mục Tử không những Ngài phục hồi sự sống nơi thân xác của từng con chiên, nhưng Ngài còn phục hồi sự sống tâm linh cho các chiên của mình: Đức Giêsu đã từng trục xuất ma quỷ ra khỏi những ai mà chúng đã ám hại. Ngài rất nhiều lần tha thứ tội lỗi cho những người mà cuộc sống quá khứ của họ đã bóp nghẹt sự tăng trưởng đời sống tâm linh, nhờ đó mà họ sẽ có đời sống mới trong Ngài. Kinh nghiệm từ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu Mục Tử của Matthêu, Giakêu, hay người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa khi Ngài dùng bữa tại nhà một người thuộc nhóm Pharisêu..., thì đó cũng là thời gian in đậm dấu ấn lòng nhân từ của Đức Giêsu nơi những con người này. Dấu ấn nhân từ ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống quá khứ của họ, từ đây họ sẽ vươn lên một cuộc sống tương lai theo thánh ý Chúa, sau khi đã được Chúa phục hồi sự sống bằng ơn tha thứ.
Khởi đầu từ hình ảnh Vị Mục Tử phục vụ sự sống, rồi Vị Mục Tử ấy còn là người phục hồi sự sống cho đoàn chiên. Bao nhiêu việc làm ấy, người Mục Tử mang tên là Giêsu vẫn chưa hài lòng với sứ vụ yêu thương phục vụ trong thế gian. Vì đỉnh cao sứ vụ Mục Tử của Đức Giêsu là khi Ngài tự trao ban sự sống của mình cho đoàn chiên.
3/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử trao ban sự sống:
Đức Giêsu đã nói: "Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga10,11). Như vậy, Đức Giêsu đến trần gian không phải tìm sự sống cho mình, nhưng Ngài tìm sự sống cho đoàn chiên. Sự sống Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên không phải là sự sống tầm thường hay tạm bợ, cũng không phải là sự sống giả tạo hay thiếu phẩm chất. Sự sống mà Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên đó là sự sống muôn đời. Đó chính là lý do mà Chúa đến với chúng ta.
Vì thế trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, Đức Giêsu Mục Tử đã trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, dưới hình bánh và hình rượu. Khi Chúa cầm tấm bành và cầm chén rượu nho trên tay và nói: Này là mình Thầy... Này là chén máu Thầy..., thì đó chính là giây phút Ngài trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, Ngài đặt sự sống của chúng ta trên bản thân Ngài, Ngài đã trở nên người tôi tớ để phục vụ sự sống cho chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ được sống dồi dào. Sống dồi dào đó là cuộc sống phải được nuôi dưỡng bằng chính Máu Thịt của chính Đức Giêsu Mục Tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Vì Chúa đã nói: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống laị vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống" (Ga 6,54-55).
Chiêm ngưỡng hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử, thì đó cũng là mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình như Ngài.
4/ Sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu:
Chúa Giêsu Mục Tử luôn đứng về sự sống, luôn bênh vực sự sống, luôn bảo vệ sự sống. Ngài mời gọi chúng ta là những người có Tôn giáo, những người có Đức tin cũng theo Ngài trên mọi nẻo đường để bênh vực sự sống. Vì Chúa không hề muốn đau khổ và sự chết, Chúa không bao giờ muốn gieo cái chết ở khắp mọi nơi: Như những ai lấy danh Thiên Chúa, danh Tôn giáo để khủng bố nổ bom tự sát làm chết 180 người vô tội, như tại Iraq vào trung tuần tháng tư vừa qua. Chúa cũng không bao giờ muốn vì sự kỳ thị Tôn giáo mà một số người Hồi giáo đã cắt cổ ba người làm việc ở một nhà in Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/4/2007. hay tại Pakistan,hay quân Hồi giáo Hizbul đã chặt đầu anh Manzoor Ahmad Chad 33 tuổi, sau đó chúng đã để đầu anh trong một Đền thờ Hồi giáo vào ngày 14/4/2007 vừa qua...
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa luôn mong ước con người hãy lấy tình yêu mà đối sử với nhau. Chúa luôn mong ước con người hãy noi gương Chúa gieo nền văn minh sự sống trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Chúa luôn mong ước con người hãy sống sứ vụ mục tử của Ngài là bảo vệ sự sống cho nhau.
Như vậy, khi chúng ta biết hy sinh chính mình để chạnh lòng thương nâng đỡ những người đói khát, những người đau yếu, biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Thì đó chính là lúc chúng ta đang sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu.
Và khi chúng ta biết bảo vệ và bênh vực Giáo Huấn về sự sống của Giáo Hội, biết thực hành nghiêm túc và tránh xa những gì làm tổn thương và nguy hại đến Giáo Huấn ấy, thì đó cũng là lúc chúng ta đang trở thành chứng nhân biết bảo vệ sự sống cho nhau. Vì sự sống con người là do Chúa ban, chính Chúa làm chủ sự sống ấy. Con người không được phép dùng sự tự do của mình để huỷ diệt sự sống, để gieo rắc nền văn minh sự chết trong môi trường mình đang sống.
Lạy Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin cho đời sống chúng con luôn chiếu toả hình ảnh Người Mục Tử của Chúa, luôn biết xây dựng và gieo rắc nền văn minh sự sống khởi sự từ chính cá nhân, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại chúng con. Amen.
67. Nghe tiếng chủ chăn - Sr. Nguyễn
Một đàn chiên ngày ngày được chủ chăn dẫn đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi, uống nước trong lành, nằm nghỉ bên bờ suối mát... Chúng thật no đầy, vui thú và bình an... nhờ có chủ chăn khôn ngoan và dũng mạnh. Người vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành. Người bênh đỡ đàn chiên chống lại ác thú. Người biết đặc tính, lối sống của từng con chiên. Người thích nghi với hoàn cảnh của chúng, tận tụy yêu thương chúng... Chúng tin tưởng, phó thác cho sự hướng dẫn của người. Chúng nghe tiếng còi người thổi, nhận ra tiếng bước chân người đi, nghe giọng nói của người từ xa, biết ý định và đường lối của người và đi theo người...
Đây là hình ảnh lý tưởng về người mục tử nhân lành mà dân du mục Aram, tổ phụ của Irael, có trong tâm trí về Thiên Chúa. Chúa đã dẫn dắt dân Ngài như vậy. Ngài đã đặt các tiên tri, tổ phụ, thẩm phán, các vua để chăm sóc dân Ngài trong thời Cựu Ước. Sau đó, chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người để trực tiếp hướng dẫn dân Ngài. Ngài yêu thương chăm sóc tất cả mọi người. Một cuộc sống mới được xây dựng trên "sự hiểu biết lẫn nhau giữa Chủ chăn và đàn chiên.'' Ngài ban cho người Lời Hằng Sống để ''Ai nghe và tuân giữ Lời Ngài thì được sự sống đời đời.'' Ngài đem về những tâm hồn lạc lối. Ngài đã thí mạng sống vì đàn chiên. Chính tình yêu tuyệt đối Ngài chữa lành vết thương của họ và duy trì, bảo đảm cho họ sự sống đời đời.
Trước khi tận hiến mạng sống mình trên thập giá, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô để trao lại chức vụ chủ chăn trong Giáo hội; và Ngài hứa sẽ ở cùng và hoạt động trong Giáo hội cho đến tận thế. Nhất là Ngài gìn giữ Phêrô và các Đức Giáo hoàng kế vị khỏi quyền lực ma quỷ, và thay mặt Ngài dạy dỗ những giáo huấn về đức tin và luân lý.
Các vị chủ chăn là những người trước tiên được Chúa gọi và chọn, và họ tự nguyện đáp lời làm môn đệ Chúa Kitô. Tất cả đều nung nấu trong lòng một đức tin vững mạnh và một tình yêu quyết liệt. Họ từ bỏ thú vui hưởng hạnh phúc gia đình để theo một lý tưởng, một tiếng gọi. Họ luôn lắng nghe Chúa và nối kết tâm hồn, sự sống, và tình yêu của mình với Đức Giêsu, Đấng là thủ lãnh tối cao của các chủ chăn; để sức sống, tình yêu và ý Chúa được chảy tràn trong tim, trong não của họ; để qua họ, Chúa đến với dân Ngài, tiếp tục hướng dẫn họ về nguồn nước trường sinh.
Chúng ta muốn thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu nơi Giáo hội trần thế, để một ngày kia được đưa vào đàn chiên Thiên quốc, nơi thành thánh Giêrusalem trên Trời, chúng ta hãy lắng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Chúa và các vị chủ chăn trong Giáo hội. Chúa nói với ta qua Giáo hội, qua Lời Ngài trong Kinh thánh, và trong chính tâm hồn mỗi cá nhân.
Chúng ta hãy biết lắng nghe Chúa nói trong cầu nguyện. Như con chiên nhận biết tiếng chủ chăn thế nào thì khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi nhận biết tiếng Chúa Giêsu. Cầu nguyện là bước vào mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó ta nghe được rõ và chính xác những gì Ngài nói. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng và các vị chủ chăn dưới quyền ngài, để các ngài luôn được đầy tràn ơn Chúa mà dẫn dắt chúng ta; hãy giữ mối liên lạc khắng khít yêu thương giữa chủ chăn và đàn chiên. Ta yêu kính Chúa như thế nào, cũng hãy kính yêu và vâng phục các ngài như vậy vì các ngài là đại diện Thiên Chúa; đừng nhìn các ngài bằng con mắt trần tục, nhưng hãy nhìn thấy tình yêu và quyền năng cứu độ của Chúa trong các ngài. Ta hãy xin Chúa ban cho thế giới thêm nhiều chủ chăn, nhiều ơn gọi làm linh mục, tu sĩ... và hãy cộng tác tích cực với sứ mạng của các ngài, để mọi người nghe được tiếng Chúa; giúp các chiên trong đàn đi trong đường lối Chúa, và giúp các chủ chăn đưa những chiên lạc về đàn... Chúa sẽ ch¨²c phúc cho những tâm hồn thiện chí và đầy yêu thương, luôn sống trong Lời Ngài.
68. Mục tử nhân từ - Lm. Minh Vận
Trong các hang Toại Đạo tại Roma, ngày nay du khách còn thấy nhiều bức tranh vẽ trên tường vách về Chúa Kitô và các hình ảnh trong Sách Thánh; nhưng có một hình ảnh thời danh và hấp dẫn nhất, đó là hình ảnh Chúa Kitô, vị mục tử hiền lành, âu yếm khoác con chiên trên vai, với dung mạo nhân từ khả ái.
I. CHÚNG TA LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA
Trong Cựu Ước, Đức Giavê tự xưng là Mục Tử chăn dắt đoàn chiên Israel; trong Tân Ước, Chúa Kitô cũng tự xưng Ngài là Chúa Chiên Lành với dụ ngôn con chiên lạc. Ngài đã tỏ tình thương yêu đoàn chiên đến hiến mạng sống vì đoàn chiên. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa còn tự xưng mình là cửa chuồng chiên.
Chúng ta là đoàn chiên Chúa, chính Thánh Phêrô Tông Đồ đã khuyên: "Xưa kia anh chị em như những con chiên lạc, giờ đây anh chị em đã trở về cùng vị Mục Tử và Đấng canh giữ linh hồn anh chị em. Chúa Kitô là cửa chuồng chiên, cửa duy nhất và cần thiết". Còn chúng ta là đoàn chiên Chúa. Chúng ta muốn được cứu rỗi, chúng ta phải qua cửa là Chúa Kitô. Chuồng chiên chính là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô đã thiết lập. Công Đồng Vaticanô II đã dạy: "Giáo Hội là chuồng chiên, mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết. Giáo Hội là Đoàn Chiên mà Chúa Kitô là Mục Tử. Tuy được các mục tử loài người chăn dắt, các chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Từ và Thủ Lãnh các mục tử dẫn dắt và nuôi dưỡng, Ngài đã phó mình vì Đoàn Chiên" (G. H. # 5).
II. CHÚA KITÔ, GƯƠNG MẪU ĐOÀN CHIÊN
Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: "Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta, lưu lại cho chúng ta tấm gương để chúng ta theo vết chân Người". Ngài còn nhấn mạnh hơn: "Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại. Bị hành hạ, Người không ngăm đe. Chính người đã gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta. Để khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta được sống cho sự công chính".
Chúa Kitô là Thủ Lãnh, không như các biệt phái và thầy thông giáo xưa, cũng không như các vị lãnh tụ xã hội ngày nay, họ nói mà không làm; chồng chất những gánh nặng và lề luật khắt khe trên người khác mà chính họ lại không tuân giữ, không thèm động tay vào. Trái lại, Chúa truyền dạy và Chúa đã làm, tự đặt mình như mẫu gương cho chúng ta noi theo bắt chước khi kêu gọi chúng ta: "Thầy đã làm gương để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm". Chúa Kitô, Mục Tử duy nhất của chúng ta muốn chúng ta tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Ngài, như chính Ngài đã tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa Cha. Chúa Kitô với tấm lòng người con thảo hiếu, Ngài đã thưa lên với Chúa Cha khi đến trần gian: "Lạy Cha, này Con xin đến để thực thi thánh ý Cha" (Heb 10:7).
III. ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CHỦ CHĂN
Chúng ta là những con chiên trong Đoàn Chiên của Chúa Kitô, Chúa là Mục Tử, nhưng chúng ta đã biết lắng nghe và thực thi theo thánh ý Chúa, đúng với tư cách là những con chiên ngoan thảo nhận biết và vâng theo tiếng vị Mục Tử chưa? Vì, đã là những con chiên ngoan thảo luôn biết sẵn sàng lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Chủ Chăn, như Chúa đã dạy: "Ta nhận biết các chiên của Ta và các chiên của Ta nhận biết Ta".
Chiên phải nghe theo tiếng Chủ Chăn, không nghe theo tiếng người lạ. Nhưng trong thực tế, nhiều người trong chúng ta đã rất khó nghe tiếng Chúa; trái lại, thích nghe theo những luận điệu đường mật của kẻ khác, vì nó hợp với bản tính tự nhiên, mặc dầu trái với lương tâm chân chính của chúng ta, trái với luật Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Có những người còn phàn nàn kêu trách: "Thời buổi văn minh mà, Giáo Hội sao mà khắc khe quá!"
Chiên phải bước theo vết chân và đường lối Chủ Chăn, không đi theo người lạ; trái lại, còn phải trốn tránh chúng nữa. Nếu chúng ta không trốn tránh những người luôn tỏ ra những luận điệu đả kích, những lý thuyết chống đối trái nghịch với các giáo huấn và đường lối của Giáo Hội, bọn họ thường hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, một ngày kia chúng ta cũng sẽ bị bọn họ quyến rũ và sẽ mắc mưu của họ. Chúng ta sẽ bị gục ngã theo họ, sẽ mất dần ý thức tội lỗi, để rồi cũng sẽ vùi dập lương tâm, theo con đường trụy lạc như bọn họ.
Kết Luận
Là con cái của Chúa trong Đoàn Chiên Chúa Kitô, chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Chúng ta đã luôn biết lắng nghe và thực thi các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa chưa? Thánh ý Chúa luôn được tỏ ra nơi tiếng lương tâm chân chính, nơi chủ ý của các vị đại diện Chúa, nơi luật lệ và các giáo huấn của Giáo Hội, nơi Lời Chúa trong Thánh Kinh.
Lạy Mẹ, Mẹ là Đấng đã được Chúa khen ngợi: "Hạnh phúc hơn nữa cho Mẹ, vì Mẹ đã luôn lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa". Xin Mẹ giúp chúng con noi theo gương Mẹ, luôn suy niệm và sống Lời Chúa.
69. Chứng nhân mới - Trần Quang Huy Khanh
Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, đặc biệt, là những chứng nhân của thời đại chúng ta đang sống. Người tông đồ hay chứng nhân cho Chúa Giêsu hôm nay nếu thiếu những yếu tố này sẽ trở thành kệch cỡm, giả hình và thiếu hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II đã nhận xét về con người chứng nhân của thời đại này, và theo Ngài, thì thế giới hôm nay không thiếu những nhà giảng thuyết, nhưng thiếu những chứng nhân.
Nhận xét trên đến từ phản ảnh trung thực cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Ngài đến trong trần gian, sống giữa đời, ẩn dật và suy niệm đúng 30 năm. Ba mươi năm cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa Cha. Đó cũng là 30 năm Ngài nhìn thấy Chúa Cha, và Chúa Cha nhìn thấy Ngài: “ChaTa và Ta là một” (Gioan 10:30). Và sau khi đã nghe tiếng Chúa Cha, hiểu được ý của Chúa Cha, Ngài đã lên đường hành đạo. Ba năm rao giảng Tin Mừng, để rồi kết thúc bằng thảm kịch trên Núi Sọ. Nhờ “nghe-thấy-theo”, Chúa Giêsu đã trở thành căn nguyên Ơn Cứu Độ của nhân loại.
Thật vậy, hình ảnh người chứng nhân của thế kỷ chúng ta đang sống hôm nay cũng chính là hình ảnh mà Chúa Giêsu đã gợi ý, và đã được Thánh ký Gioan ghi lại bằng một hình ảnh quen thuộc: Những con chiên trong một đàn chiên. Những con chiên hiền lành đã nghe, thấy, và đi theo người chăn chiên.
Nghe tiếng Chúa. Điều quan trọng nhất của người chứng nhân là phải nghe được tiếng Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Ngài, chắc chắn chúng ta không biết Ngài là ai, và điều gì Ngài muốn chúng ta làm. Trong tâm lý phát triển, đứa trẻ khi mở mắt chào đời việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ. Thính giác hoạt động trước giúp đem em lại gần với mẹ. Do nghe được tiếng mẹ, em tìm được sự săn sóc, tìm được hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn tìm thấy Chúa Giêsu cũng phải biết nghe và nhận ra tiếng Ngài.
Nhưng làm thế nào để nghe và nhận ra tiếng Chúa, một tiếng nói êm ái, dịu dàng và thân thương như tiếng đập của con tim người mẹ hiền, như tiếng thì thầm của đôi tình nhân, và như tiếng gió thoảng của Thần Khí Thiên Chúa thổi qua trong cuộc đời của mỗi người. Đôi lúc tiếng ấy cũng vang vọng đâu đó trong những tiếng nổ long trời, lở đất của bom đạn, của chết chóc và máu lửa. Và cũng đôi lúc, tiếng ấy lại nghe thấy trong những lao đao, bệnh tật, nghèo túng, và những khắc nghiệt của kiếp người. Tóm lại, tiếng Chúa vang vọng khắp đó đây và trong rất nhiều cảnh ngộ của cuộc đời. Làm thế nào để nghe được những tiếng đó. Cầu nguyện, thinh lặng, và khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng đã nghe được tiếng Cha của Ngài trong âm thầm và cầu nguyện dưới mái nhà Nagiarét.
Sau khi đã nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là em bé nhìn rõ mẹ, phân biệt được mẹ với người lạ. Từ đó, em chỉ hạnh phúc khi nhìn mẹ, ngược lai, em hoảng sợ và khiếp đảm khi nhìn những người khác không phải là mẹ. Người Kitô hữu, sau khi nghe và nhận được tiếng Chúa, họ còn phải nhận diện được Ngài, cũng như ở trong tầm nhìn của Ngài. Họ không được đi xa khỏi tầm nhìn Ngài đến độ Ngài không nhìn ra họ, vì làm như vậy họ sẽ bị lạc đường: “Ta biết chiên Ta và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27).
Như hành động nghe tiếng Ngài, người Kitô hữu lúc này phải nhìn được Ngài qua từng nhân vật, từng cảnh vật, và từng biến cố cuộc đời. Họ phải có cái nhìn xuyên thấu bằng cặp mắt đức tin để khám phá ra dung nhan Ngài ẩn hiện chung quanh mình qua những người mình gặp gỡ, để thương yêu, tha thứ và giúp đỡ; cũng như qua những biến cố mà họ phải đối diện trong cuộc sống để không thất đảm, hốt hoảng và mất niềm tin.
Trong vai trò chứng nhân, người Kitô hữu không những chỉ nói về Chúa Giêsu, mà còn phải biết tường tận Ngài là ai, hình dáng, và ngôn ngữ Ngài như thế nào. Vì người chứng nhân của thời đại mới không chỉ nói về Chúa Giêsu, viết về Chúa Giêsu, mà còn sống đúng như những gì mình đã nghe và đã thấy nơi Ngài. Kết quả của đường lối chứng nhân này sẽ thu hút người nghe vì họ tin rằng họ đang nghe những gì mà người nói với họ đã xác tín và hành động như vậy.
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27). Đặc tính trổi vượt nhất của người chứng nhân là sống và làm chứng cho những gì mình nói. Các Tông Đồ xưa là những người đã thấy, đã nghe, và đã sống những gì các Ngài rao giảng. Họ là những người không những thấy những vết đinh nơi tay chân và vết đâm nơi cạnh sườn Chúa. Hơn thế nữa, như Tôma, họ đã xỏ ngón tay vào những vết đinh, và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa, để rồi thâm tín và thốt lên: “Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28).
Nghe được tiếng Chúa, nhìn thấy Chúa, sống chứng nhân những gì mình đã nghe và đã thấy. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, đây là điều khó khăn nhất nhưng cũng quan trọng nhất. Cũng như trong đời sống chứng nhân, đây là điều thực hành khó nhất nhưng mang lại hoa trái nhất. Vì khi nói về Chúa Giêsu, người nghe phần đông sẽ không hiểu gì và cũng chẳng mường tượng ra Ngài là ai. Nhưng nếu người chứng nhân minh chứng cho họ thấy bằng hành động của mình Chúa Giêsu là ai, lập tức những lời nói của người chứng nhân sẽ có ảnh hưởng rất rõ ràng.
Chúa Giêsu biết Ngài sắp về cùng Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các Tông Đồ, để các ông vào đời và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ. Ngài biết sứ vụ này không dễ dàng, vì các ông sẽ phải gặp nhiều thử thách đến từ việc cứng lòng tin của con người, nhất là từ những cám dỗ của ma quỉ. Chính vì thế, Ngài đã hiện ra với các ông, và như lần này, Ngài đã dậy các ông về một phương thức truyền giáo thiết thực với tâm lý con người, đó là “nghe-thấy-theo”. Ngài muốn các ông cũng như những ai sau này sẽ làm chứng nhân cho Ngài phải hiểu rằng chính họ là người trước hết phải nghe được tiếng Ngài, biết được Ngài, và nhất là sống với Ngài. Như vậy, từ hôm nay, mỗi khi tôi gặp những khó khăn, những người làm cho tôi khó chịu, và nhất là những bất trắc trong cuộc sống, tôi phải dừng lại ít giây phút để hỏi mình: “Chúa Giêsu đó có phải không? Ngài đang muốn nói với tôi điều gì? Và Ngài muốn tôi làm gì trong vai trò chứng nhân cho Ngài giữa dòng đời hôm nay?”
70. Quên mình- Nguyễn Kim Thanh
Hình ảnh người sĩ quan hải quân trong trận chiến chống lại kẻ thù đến xâm chiếm lãnh hải của tổ quốc. Xin được kể lại để ca ngợi tấm gương một con người thủ lãnh. Nó còn là gương sống động của người lãnh đạo đã dám hy sinh mạng sống mình vì các binh sĩ thuộc quyền, vì tổ quốc quê hương. Biết trước được rằng chiến hạm của ông sẽ bị chìm trong vài giờ vì trúng đạn pháo của địch. Vị sĩ quan chỉ huy đã lập tức điều động, phân tán binh sĩ xuống phao cứu nạn và thoát hiểm an toàn. Còn riêng mình, ông đã can đảm đứng trên boong tầu ở tư thế chào, mặt hướng về tổ quốc. Chiếc tầu chìm xuống lòng biển kéo theo cả vị chỉ huy hào hùng, bất khuất. Ông đã được chính phủ tri ân và ca tụng trên các phương tiện truyền thông. Cả báo chí quốc tế cũng coi cái chết của ông là một mẫu gương can đảm, hy sinh tuyệt vời.
Qua bí tích rửa tội, người tín hữu thật sự trở thành dân riêng của Thiên Chúa, thành những chiên con thuộc đàn chiên của Ngài. Ngài là chủ của đàn chiên. Ngài lo chăm sóc chiên của Ngài: lo tìm đồng cỏ, canh chừng thú dữ, tiên liệu thời tiết khí hậu cho chiên được khoẻ, để ý đến từng con một. Phân loại để chăm sóc đặc biệt những chiên bị thương, yếu bệnh, biếng ăn…
Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta là một thông hiệp hai chiều đối với đàn chiên hạnh phúc, an bình.
Nhìn lại lịch sử các tổ phụ, chúng ta cũng thấy được các tổ phụ có nhiều chiên, vì các ngài là dân du mục. Môi sê đã chăn chiên cho nhạc phụ suốt 40 năm trời. Tiên tri Amos là một người làm nghề chăn chiên. Ngay chính David cũng được chọn ngay sau đàn chiên của mình. Chính các vị vua Do thái cũng được coi như một mục tử, cai trị, cai quản dân như người chăn chiên. Nhà vua có quyền trên đàn chiên, cùng đồng hành với chiên và yêu thương chúng.
Sau thời gian ký thế ngắn ngủi, Chúa đã đặt cho Phêrô làm chủ, lãnh đạo đàn chiên. Trong cuộc “sát hạch” cả thể với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không”. Chính lúc Phêrô xác quyết tình yêu, Chúa đã trao quyền mục tử cho Phêrô: “Hãy chăn dắt các chiên con của Ta, và hãy chăn dắt chiên mẹ của Ta”. Ngày nay, quyền đó được truyền lại cho các vị giáo hoàng kế vị và các giám mục. Các linh mục là thừa tác viên của các giám mục. Đó chính là việc huấn luyện chủ chiên cho đàn chiên Chúa.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với nhiều loại thú hoang dã đang có nguy cơ bị diệt chủng. Chúng đang ở mức báo động đỏ bị xoá sổ bởi việc phá rừng, săn bắt. Cho nên cả thế giới đã lên tiếng và bắt tay vào việc bảo vệ các loài thú quý hiếm. Họ phân công trực rừng để bảo vệ chúng, từ việc cung cấp lương thực đến việc chữa trị bệnh tật. Nhiều địa danh mới được gọi là Thảo cầm viên bảo vệ động vật quý hiếm.
Các tín hữu cũng vẫn luôn có nhiều kẻ thù rình rập. Chúng ta gọi chúng: thế gian, xác thịt, ma quỷ. Bảy mối tội đầu nằm sâu chìm trong mỗi con người, chúng vùng lên bất cứ lúc nào, mọi nơi, mọi lúc. Vũ khí bén nhậy mà ma quỷ dễ chiến thắng chúng ta là chính những: Vui, Giận, Hờn, Sợ, Yêu, Ghét, Muốn. Vậy để cho tâm hồn được bình an, để cho cuộc sống mỗi con chiên công giáo được chủ chăn bảo vệ, không vào tầm nhắm của kẻ thù. Chúng ta cần có những điều thiết cần đối với chủ chiên mình như sau: Tin tưởng, Lắng nghe, Đồng hành.
Người chăn chiên luôn nhận biết chiên của mình. Như vị y tá biết rõ bệnh nhân mà cô săn sóc. Họ trở nên cái bóng của nhau. Không quản ngại thời gian, sức khỏe, sẵn sàng hy sinh, nếu cần cả mạng sống mình nữa. Sự thân thiện, gắn bó, gần gũi cũng là chìa khoá cho sự trung thành giữa chủ và chiên. Không thể có quan hệ mật thiết với người khác được, một khi ta vẫn cứ khăng khăng giữ khoảng cách xa lạ, thiếu thân thiện. Người chăn chiên luôn lấy khuôn mẫu của Đức Kitô để sống: Hiền lành, Nhân từ, Nhẫn nại, Hy sinh.
Để trở nên một chủ chiên đúng hiệu và đúng ý Chúa, đòi hỏi người chủ chiên ấy cần sống và hạ quyết tâm thực hành điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm: “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Câu nói này phải được khắc ghi đậm nét trong trái tim người mục tử. Hình ảnh hy sinh và xả thân vì thuộc quyền, vì tổ quốc của người sĩ quan hải quân kể trên đã cho chúng ta thấy rõ điều này.
Qua bài tin mừng lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta thấy được cánh đồng truyền giáo đang thật cần thiết. Đòi hỏi cả chủ lẫn chiên không thể ngồi không mà nhìn các linh hồn bị hư mất, sa chìm. Hãy cùng nhau cứu các linh hồn. Hãy hướng tâm hồn lên Chúa, hãy “uỷ lạo” vào kho thiêng trên trời bằng tất cả những gì có thể để viện trợ, tiếp viện cứu các linh hồn. Người mục tử cũng như chiên trong đàn luôn áp dụng Lời Đức Kitô: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng biết Ta”.
Xin Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, là Mẹ các chủ chiên, Mẹ của nhân loại ban cho hết mọi người chúng ta ơn bền đỗ, trung thành với nhiệm vụ được trao. Để xứng đáng lãnh nhận lời hứa của Con Mẹ vì chúng con biết Chúa, và Chúa biết chúng con.
71. Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: "Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao."
Tại sao bị vợ con bỏ.
Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:
"Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng."
Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa. Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?
Khởi sự tác giả Gioan đặt ta vào bối cảnh lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, trong đó Đức Giêsu cho thấy chính Người là Vị Cứu Tinh Mêsia (Ga 10, 22-31) và là Con Thiên Chúa (cc. 32-39).
Lễ cung hiến Đền Thờ là dịp để người Do Thái mừng chiến thắng vẻ vang do anh em dòng họ Macabê mang lại. Đó là cuộc chiến thắng để rửa nhục cho Israel. Suốt ba năm (167-164 trước CN) quân Syria đã xâm chiếm lãnh thổ dân Thiên Chúa. Họ đã làm cho Đền Thờ ra ô uế bằng cách dựng tượng thần Ba-an ngay trên bàn thờ nơi dân Israel thường dâng của lễ toàn thiêu cho Giavê Thiên Chúa (1Mcb 1, 54; 2Mcb 6, 1-7). Đầy lòng căm phẫn, tướng Giuđa Macabê đã nổi dậy đánh đuổi quân Syria và thiết lập một bàn thờ mới. Bàn thờ này cùng với Đền Thờ đã được tái cung hiến (1Mcb 4, 41-61) với lễ kỷ niệm được cử hành mỗi năm.
Hiến dâng bản thân làm bàn thờ
Điều mà tác giả Gioan ám chỉ là: chính Đức Giêsu hiến dâng bản thân Người làm bàn thờ. Điều đó Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rất rõ khi nói: Bàn thờ là nơi mà Giáo Hội được quy tụ lại; đó chính là "biểu tượng về Đức Kitô hiện diện giữa cuộc tập họp của những ai tin theo Người: Đức Kitô vừa là lễ vật hy sinh được dâng để ta được giao hoà, đồng thời Người còn là của ăn từ trời cao tự hiến để nuôi ta." (số 1383).
Riêng đoạn Tin Mừng Ga 10, 22-29 cho thấy tột đỉnh của những cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Đây là cuộc tranh cãi chót khiến giới hữu trách Do Thái quyết tâm bắt Đức Giêsu. Màn Tin Mừng này chia làm hai; ở giữa là biến cố người Do Thái toan tính ném đá Đức Giêsu.
C. 22 đặt ta vào bối cảnh của lễ Cung Hiến Đền Thờ vào trung tuần tháng 12, kéo dài 8 ngày.
C. 23 định vị cuộc tranh luận gay cấn diễn ra nơi hàng hiên hình thang khổng lồ bao quanh Đền Thờ Giêrusalem. Hàng hiên này ở phía thung lũng Khê-ron quen gọi là hàng hiên Salomon, có lẽ vì cổ kính nhất nên được kể như do chính vua Salomon xây dựng.
C. 24 nối lại việc Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng Người là Đức Kitô và là Con Người. Những người như chị phụ nữ người Samari (Ga 4, 25-26) hay như anh mù từ thuở mới sinh (Ga 9, 36-37), đều là những cá nhân sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu là vị Thiên Sai. Còn ở đây, ngược lại, Đức Giêsu bị bao vây và bị thách đố do những con người đến với ý đồ để bắt bớ Người mà thôi.
C. 25 Đức Giêsu vạch cho người Do Thái thấy nguồn gốc của mọi sự là CHA. Do đó Người đòi hỏi ai nấy phải bày tỏ một niềm tin tuyệt đối bằng cách thuộc về Người để có thể qui về Cha là nguồn gốc của họ.
C. 26 Khi Đức Giêsu của sách Tin Mừng Gioan nói với người Do Thái rằng "các ông không tin tôi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi," Người ám chỉ về một cộng đoàn hết sức cụ thể, đó là cộng đoàn Kitô hữu dưới sự chăm sóc của Gioan. Cộng đoàn ấy gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và được tách biệt khỏi những người không thuộc về Đức Giêsu. Cộng đoàn ấy biết mình sống dưới sự che chở của Đức Giêsu và của CHA Người, cho nên mọi người trong cộng đoàn đều được an tâm vững dạ.
Thuộc về ai
CC. 27-28 đối chiếu cách ăn ở trung tín của các chiên dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Mục Tử, ngược hẳn lại với thái độ cứng tin của người Do Thái. Ở đây Đức Giêsu nhắc lại "tính cách thuộc về" của các chiên đối với Người: chúng nghe tiếng Người (Ga 10, 3-16); chính Người biết rõ các chiên của Người (cc. 3, 14); chúng theo Người (cc. 10,4) và Người ban cho chúng sự sống đời đời (10, 9-10).
CC. 29-30 cho thấy các chiên được an toàn dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu là vị mục tử nhân hậu như Người đã thưa với Cha "Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất" (Ga 17, 12). Cha là Đấng đã ban chúng cho Người. Vì Người và Chúa Cha là một nên không ai cướp được chúng khỏi Người, bởi lẽ Chúa Cha thì lớn hơn tất cả, nên không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
C. 31-39 cho thấy giữa bối cảnh thù địch của người Do Thái, Đức Giêsu vẫn tiếp tục tự mạc khải và tự hiến mình cho họ và cho mọi người:
- Chính Chúa Cha thánh hiến Người và sai Người đến thế gian (c.36). Thân Thể Đức Kitô phục sinh chính là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho loài người (Ga 1, 14). Đó là nơi loài người có thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và trong Sự Thật (Ga 4,23-24). Cho nên Đức Kitô mới thực sự là Đền Thờ được cung hiến cho Thiên Chúa một cách hoàn hảo và trọn vẹn.
- Đức Kitô đòi mọi người tin vào các việc Người làm (c.38). Các việc ấy bao gồm toàn bộ công trình cứu độ do Người thực hiện: Người đến là để mạc khải cho nhân loại biết Chúa Cha; nơi Người chính Chúa Cha cũng tự mạc khải (c. 38).
Tất cả được nên một
Vậy bài Tin Mừng hôm nay tuy chỉ là một đoạn văn ngắn nhưng đã là một bước chuẩn bị cho lời cầu xin nơi bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: "Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến" (Ga 17, 19). Và trong bữa Tiệc Ly ấy, Đức Giêsu còn cho biết Người không chỉ cầu xin cho Mười Hai tông đồ mà thôi "nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như, lạy CHA, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (c. 20-21).
Trở lại với người bố rưng rưng hai hàng lệ trong câu chuyện nói trên. Người bố ấy đau khổ vì vợ ông và bốn con ông là những người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa! Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói tới mối tương quan thâm sâu là mối tương quan khiến cho người này cảm thấy mình thuộc về người kia, nhưng với Đức Giêsu mối tương quan ấy có cơ sở thực là vững vàng:
- Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êdêkien đã từng mô tả Giavê Thiên Chúa là vị Mục Tử lý tưởng: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta? Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng; con nào mập béo, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng." (Ed 34, 15-16). Trong Tin Mừng của Gioan, chính Đức Giêsu tự mô tả mình là vị Mục Tử lý tưởng đó với điều đặc sắc là: Người biết các chiên của Người để chăm sóc và yêu thương chúng vì chúng thuộc về Người; chính Người ban cho chiên của Người sự sống đời đời (c. 28). Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Mối tương quan giữa Đức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng "không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (c. 28). Lý do "vì Tôi và Chúa Cha là một" (c. 30) mà Chúa Cha "lớn hơn tất cả" thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu!
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ điều gì có thể thực sự an ủi người bố đau khổ trong câu chuyện nói trên: có phải việc ông được biết con ông học hành ra sao nơi học đường? Hay việc ông được chung sống trở lại với vợ con ông? Hay bạn cảm thấy chưa được cung cấp đủ tin tức về người bố đau khổ nói trên? Nhưng dựa theo bài Tin Mừng hôm nay, bạn có thể nói gì với người bố đó nếu bạn được yêu cầu và nếu bạn biết rõ người đó có chung một đức tin Kitô giáo với bạn?
2. Bạn nghĩ gì về câu nói của Chúa Giêsu áp dụng với trường hợp bạn khi Người nói "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời"? (cc.27-28) Điều gì bạn thấy là tâm đắc nhất trong câu nói đó của Chúa Giêsu?
72. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
Có những thí nghiệm gần đây cho thấy: một bà mẹ mang thai, hai vợ chồng đặt tên cho con của mình ngay từ khi siêu âm và biết nó là con trai hay con gái. Khi đã đặt tên cho con, ông bố hằng ngày trước khi đi làm hoặc đi đâu về đều gọi tên của bé. Rồi một ngày nọ, họ cho rất nhiều người đàn ông đi qua và cất tiếng gọi. Bé vẫn nằm im trong dạ mẹ. Nhưng đến lượt bố của em, ông cất tiếng gọi, vừa dứt lời, em đã ọ ẹ và chân tay vẫy đạp trong bụng mẹ. Quả thật là một điều kỳ diệu. Thật vậy, cũng tương tự, ngày nay, người ta muốn cho con của mình sau này làm gì thì các bà mẹ gợi hứng cho chúng ngay từ khi bé còn trong bụng mình bằng những hình ảnh hay hành động hoặc thính giác của bà mẹ hằng ngày.
Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành được khởi đi từ thời Cựu Ước: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ.” (Tv 23,1-4) Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel. Người yêu thương và chăn dắt dân của Người. Hình ảnh người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, nhưng thật đáng buồn vì các vua chúa thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò mục tử của mình mà lại còn đi ngược lại. Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng.” (Ez 34,2-4.9-10.23)
Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
Vào thời Chúa Giêsu, người ta thường hay nuôi chiên. Mỗi đàn chiên thì đều có mục tử, tức người chăn chiên. Người chăn chiên thường dẫn chiên đi ăn trong hoang địa. Tối về, họ lùa chiên vào nơi quy định. Tuy nhiên, cũng có thể nhiều đàn chiên ở cùng một chỗ, vì thế có sự lẫn lộn; nên chủ đàn chiên nào thì có ký hiệu riêng của mình, và khi họ cất tiếng thì tất cả các chiên của họ sẽ đi theo. Người mục tử tốt là người biết chiên của mình, biết rõ từng con một, để chăm lo cho chúng. Người mục tử tốt cũng là người biết dẫn chiên của mình đến những vùng cỏ non, có nhiều nước, để cho chiên thoả thuê ăn uống hầu được to béo, khoẻ mạnh.
Chúa Giêsu đã tự nhận mình chính là Mục Tử Nhân Lành. “Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Khác hẳn với hình ảnh mục tử trong Cựu Ước nơi các vị vua.
Thật không có gì đau khổ cho bằng trong cuộc sống ta không được ai biết đến. Và cũng thật bất hạnh khi trong các mối tương quan ta không được ai tôn trọng và tin tưởng nữa. Thấu hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã dùng động từ “biết” để diễn tả một mối tương quan thân mật giữa chủ chiên và đàn chiên. “Biết” theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ là một sinh hoạt thuần tuý tri thức hay văn hoá, mà “biết ở đây còn là sự gắn bó và yêu thương”. Chúa Giêsu biết từng con chiên đồng nghĩa với việc Ngài yêu thương từng con chiên một. Ngài cũng biết tên của từng con và gọi chúng khi cần, ấy là Ngài đang đi vào sự hiện hữu của từng con chiên, và ngược lại. Với Ngài, từng con chiên là một hiện hữu duy nhất trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài luôn coi trọng từng con một, đến nỗi Ngài nói: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha; Tôi và Cha tôi là một.” Thật hạnh phúc cho chúng ta vì có được Vị Mục Tử tuyệt vời là chính Chúa Giêsu.
Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ.
Tại sao phải cầu nguyện cho mục tử? Thưa vì các ngài cũng chính là mục tử trong Giáo Hội, thay mặt Chúa để dẫn dắt dân của Người. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, biết từng con chiên để: chăm lo cho từng con chiên. Con chiên nào bị thương thì băng bó, con nào bị ốm thì lo thuốc thang, con nào đi lạc thì tìm về, con nào có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt thì bảo vệ, con nào bị bắt thì liều mạng để cứu chúng. Được như thế, các ngài quả là mục tử nhân lành, đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Các ngài là những mục tử như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước.
Ngoài việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ, Giáo Hội đặc biệt hướng về các bạn trẻ. Các bạn là tương lai của xã hội và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Giáo Hội đang trông chờ ở nơi các bạn. Giáo Hội cũng hy vọng các bạn sẽ trở thành những linh mục và tu sĩ tốt lành hoạ lại chân dung của Vị Mục Tử Tối cao là Chúa Giêsu.
Quả thật, hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một xã hội có biết bao lựa chọn, và đôi khi có những chỉ dẫn hay thông tin cũng như quả quyết sai lầm. Hoặc nói theo ngôn ngữ hình tượng: “Chân lý nửa vời”. Trong một xã hội như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp, một chân lý tuyệt đối, để phục vụ con người ngày hôm nay, nhằm đem lại cho họ niềm hy vọng. Nhưng điều quan trọng là làm sao để các bạn nhận ra được tiếng Chúa gọi và chọn các bạn vào trong vườn nho Giáo Hội để phục vụ trong vai trò là mục tử của Chúa? Thưa Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2013 đã vạch ra cho các bạn, ngài viết: “Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta.” Đúng vậy, muốn hiểu được ai thì phải biết và có kinh nghiệm về người đó. Có thế, ta mới dễ nhận ra và đi theo ý của người mà mình yêu mến.
Trong thế giới đang sôi động về mọi mặt, nhưng lời mời gọi “hãy theo Thầy” vẫn được vang vọng nơi mỗi chúng ta ngay trong những cuồng nhiệt của cuộc sống. Lời bài hát, mà chúng ta vẫn thường nghe trong mỗi dịp lễ Chúa Chiên Lành hay trong các dịp lễ về Tận hiến của tác giả Nguyễn Duy Vi: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi, đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ tươi rợn đồng xanh, con no thoả không bao giờ khát nữa, cánh tay Người đưa, gậy người dẫn yên lòng”, gợi lại cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như giúp chúng ta thêm xác tín vào Vị Mục Tử Nhân Lành; đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhạy bén, can đảm để phác hoạ chân dung Vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Giêsu, ngay trong chính cuộc đời chúng ta.
Để kết thúc bài suy niệm này, tưởng cũng nên mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn gửi các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô. Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên những con đường có tính đòi hỏi, can đảm sống đức ái và quảng đại dấn thân. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban, các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu, và các con sẽ học để “sẵn sàng đưa ra câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (1 Pr 3,15).”
73. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu
Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay...
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.
2. Điểm mới của giới luật yêu thương
Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.
Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.
Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.
Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.
Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?
Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.
Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
3. Sống và thi hành giới luật yêu thương
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.
Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.
Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!
Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.
Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.
74. Chú giải của Noel Quesson
Tôi là…
Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết "bốn chữ cái không phát âm được là "Tên mầu nhiệm" mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.
YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai", "Đức Chúa”.
Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên "Tôi là...", kèm theo một phẩm tính:
- "Tôi là Bánh hằng sống" (Ga 6,35-42,48-51).
- “Tôi là ánh sáng thế gian" (Ga 8.12-9,5).
- "Tôi là Sự sống lại và là sự Sống" (Ga 11,25).
-"Tôi là Cây nho thật" (Ga 15,l-5).
-"Tôi là Cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7-9).
-“Tôi là Mục tử nhân lành" (Ga 10,11-14).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm" (Ga l,14).
Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).
Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: "Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc" (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: "Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavit, tôi tớ của Ta" (Ed 34,23).
Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm" (Ed 34,1-31).
Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: "Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? 'Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình, là Thiên Chúa" (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.
Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh "Mục tử" biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: "Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú hơn.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.
Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.
“Nghe": đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. "Hỡi Israel, hãy nghe đây?" (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian. "Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt 17,5).
“Theo": đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với... Đức Giêsu mời gọi: "Hãy theo tôi" (Ga l,42).
“Biết”: trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác... là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và "những kẻ nghe tiếng Người và theo Người". Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.
Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con đang ở trong "bàn tay Chúa". Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển. Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.
Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Như thế, chúng ta được cả "hai bàn tay" giữ gìn.
Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết bao!
Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng Chúa. 'Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh sắc màu mè diễn tả những "mục tử hiền lành" và các chú cừu con lông xoăn". Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ... gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).
Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương "không cướp được" một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu sống anh em tôi không?
Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?
Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc 15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối với Thiên Chúa yêu thương!
Tôi và Chúa Cha là một.
Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên Chúa.
Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. "Tôi và Chúa Cha là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải "lắng nghe" trong đức tin: "Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một... Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một"
Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban sự sống đời đời".
Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: "Tôi là...".
Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa", bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.
75. An toàn trong tay Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong phân đoạn thứ ba (từ ch. 5) của phần Phần i của TM Ga (“Sách các Dấu lạ” [ch. 2–15]), tác giả tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu (các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Người) trong khung cảnh các đại lễ của Do Thái giáo: ngày sa-bát, lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Với chương 10, chúng ta đến đại lễ cuối cùng là lễ Cung Hiến. Trong ch. 10 này, có hai câu hỏi căn bản được nêu lên: Đức Giêsu có phải là Đấng Mêsia chăng (c. 24)? Người có tự cho mình là Thiên Chúa không (c. 33)? Mỗi câu hỏi nhận được một câu trả lời dài gần như nhau (cc. 25-30; cc. 34-38) và đều kết thúc bằng đề tài khẳng định Đức Giêsu với Thiên Chúa (Cha của Người) là một (c. 30; c. 38).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay thuộc về câu trả lời thứ nhất.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đoàn chiên và Đức Giêsu (10,27-28);
2) Đoàn chiên và Chúa Cha (10,29);
3) Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30).
3.- Vài điểm chú giải
- chiên của tôi (27): Đức Giêsu có thể nói là các chiên thuộc về Người bởi vì Chúa Cha đã ban các con người cho Người (x. Ga 6,37.44.65; 17,6-7).
- Tôi và Chúa Cha là một (30): Bản văn này đã gây ra nhiều tranh cãi. Đức Giêsu không nói: Tôi và Chúa Cha là “một người” (heis, ở nam tính) duy nhất, nhưng là “một điều/sự” (hen, ở trung tính) duy nhất. Người muốn nói rằng Người và Chúa Cha cùng một bản tính; chính vì thế tay Người (c. 28) cũng mạnh mẽ như tay Chúa Cha (c. 29). Các nhà thần học không thuộc phái Ariô[1] đã coi c. 30 này là công thức Kinh Thánh nói về bản tính như nhau và ngôi vị khác nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đoàn chiên và Đức Giêsu (27-28)
Điểm nhắc đến đoàn chiên ở cc. 26-27 gợi lại cc. 1-21 và như thế đóng khung hai phần của ch. 10. Bằng cách quy chiếu về dụ ngôn Người mục tử tốt lành (10,1-18), Đức Giêsu mô tả tương quan giữa Người và những kẻ thuộc về Người. Nhưng cũng như ở cc. 7-10 và 11-16, cc. 27-28 không lưu ý nhiều đến đoàn chiên mà lưu ý đến người mục tử. Người Do Thái không nghe tiếng Người mục tử và không đi theo bởi vì họ không phải là chiên của đoàn. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng nếu họ không đi theo Đức Giêsu, thì không phải là bởi vì Người không phải là mục tử, nhưng bởi vì họ không phải là chiên. Muốn nghe được tiếng Đức Giêsu, người ta phải thuộc về Thiên Chúa (x. 8,47), phải “đứng về phía sự thật” (18,37).
Câu 28 gợi đến ý tưởng của c. 12 là có những con sói đến để tàn sát đoàn chiên. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Vị Mục tử kiểu mẫu sẽ bảo vệ đoàn chiên mà Chúa Cha đã ban cho Người.
* Đoàn chiên và Chúa Cha (29)
Tiếp đó, Đức Giêsu nhắc lại quyền tối tượng của Chúa Cha trên loài người. Câu 29 này gợi ý đến các tư tưởng của Cựu Ước nói rằng các linh hồn ở trong tay Thiên Chúa (Kn 3,1) và không ai có thể giựt họ khỏi tay Thiên Chúa (Is 43,13). Câu 28 và 29 nói về Đức Giêsu và về Chúa Cha theo cùng một cách: không một ai có thể cướp được các chiên khỏi tay hai Đấng. Điều này đưa chúng ta tới chỗ hiểu được c. 30.
* Đức Giêsu và Chúa Cha là một (30)
Sự duy nhất giữa Đức Giêsu và Chúa Cha là một sự duy nhất về quyền lực và công việc. Chúng ta có ở đây như một tổng hợp của tác giả Gioan về quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con: Con phát xuất từ Cha (8,42); tuy nhiên, Cha là Đấng sai phái Con, luôn ở với Con (8,29). Cha yêu thương Con (3,35); Con biết Cha thật thâm sâu (8,55; 10,15). Trong sứ mạng trên trần gian, Con chỉ có thể làm những gì đã thấy Cha làm (5,19), chỉ có thể xét xử và phán quyết như đã nghe từ Cha (5,30). Con được Cha dạy dỗ (8,28) và đã nhận được từ Cha mọi quyền xét xử (5,22) và có sự sống và ban sự sống (cc. 21.26; 6,57). Con làm theo ý của Cha (4,34; 6,38) và đã nhận được một lệnh truyền từ Cha liên hệ đến cái chết và sự sống lại của Người (10,18).
Nhưng chúng ta lưu ý là các quan hệ này giữa Chúa Cha và Chúa Con được mô tả theo hướng các tương giao của Chúa Con với loài người. Bởi vì như Chúa Cha và Chúa Con là một, hai Đấng nối kết loài người với nhau thành một (x. 17,11). Chính sự duy nhất này, đã được thông ban cho các tín hữu, khiến không một ai có thể cướp các tín hữu khỏi Chúa Cha hay Chúa Con.
+ Kết luận
Đức Giêsu quả là Đấng Mêsia, nhưng không phải là một Mêsia trần thế, đầy vẻ huy hoàng và quyền lực, nhưng Người là Vị Mục tử đến ban một sự hiệp thông riêng tư bền vững với Người. Nhưng sự hiệp thông của Người với các môn đệ phát xuất từ Chúa Cha và ở dưới sự che chở của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã ký thác các môn đệ cho Đức Giêsu; họ được an toàn trong tay Chúa Cha. Không một ai mạnh mẽ hơn Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, được nâng đỡ bởi tình yêu của Chúa Cha. Sự hợp nhất của Người với các môn đệ Người được bảo vệ bởi bàn tay mạnh mẽ của chính Người và bàn tay mạnh mẽ của Chúa Cha. Đức Giêsu và Chúa Cha là một trong các ý hướng và trong hành động.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là Mục tử tốt lành. Nhưng chính do điểm này, chúng ta hiểu là Người sẽ không làm gì cho các chiên theo cách ép buộc hoặc ngược ý muốn của họ. Đức Giêsu luôn trợ giúp hữu hiệu, nhưng người ta chỉ nhận được sự trợ giúp đó nếu mở lòng ra với Người. Người cũng có thể đi tìm kẻ khép lại với Người, để đưa kẻ ấy về với Người; đó là cách Người cư xử với các kẻ thù. Nhưng để có một sự hợp nhất đích thực, hai bên phải hướng về nhau, nhìn nhận nhau và trân trọng nhau. Chúng ta đi vào hiệp thông với Vị mục tử tốt lành nếu chúng ta nghe tiếng Người và đi theo Người, nếu chúng ta tin tưởng vào sự hướng dẫn của Người và tin rằng Người chỉ cho chúng ta con đường ngay thẳng và ban cho chúng ta sự sống viên mãn.
2. Đức Giêsu khẳng định rằng không ai có thể hứa cho kẻ khác điều Người hứa, dù có thương yêu kẻ ấy đến đâu: sự sống đời đời, sự bảo vệ khỏi mọi sự dữ, sự hiệp thông bền vững muôn đời. Chúng ta chỉ có thể bảo vệ kẻ khác nếu người này còn sống; đối với Đức Giêsu thì ngược lại, Người không bị giới hạn bởi cái chết. Mục tiêu và đỉnh cao của cuộc đời Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, là ban cho chúng ta sự sống đời đời. Nếu Người che chở chúng ta, chúng ta không thể nào bị diệt vong; sự che chở của Người bảo đảm hơn mọi quyền lực trần gian. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).
3. Hôm nay là ngày cầu xin ơn thiên triệu, xin Thiên Chúa ban cho có những mục tử mới. Chắc chắn chúng ta nài xin Thiên Chúa ban cho có thêm các mục tử tốt lành “như lòng Chúa mong ước” (Gr 3,15), theo gương Đức Giêsu, Vị Mục tử tốt lành. Nhưng cũng cần phải cầu nguyện cho các mục tử đang làm việc trên khắp cánh đồng của Thiên Chúa cũng biết khép mình vào kiểu sống của Đức Giêsu; đồng thời cũng xin Người ban cho có các con chiên biết nghe và đi theo tiếng của Vị Mục tử tốt lành, mà các mục tử đang truyền đạt. Mục tử cần nhớ rằng đoàn chiên được Chúa Cha ký thác cho mình để đưa họ đến sự sống đời đời; con chiên cần nhớ rằng mục tử được gửi đến để làm việc theo chương trình của Chúa Cha.
4. Mục tử cũng như con chiên đều cần suy ngẫm về quan hệ giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Khi đó mục tử và con chiên sẽ hiểu rằng có một thứ độc lập trong nếp sống và trong lối suy tư đưa tới diệt vong, và cũng có một mối quan hệ lệ thuộc, một sự hợp nhất, đưa tới sự phong phú và sự sống dồi dào.
--------------------------------------------
[1] Ariô (256-336) là linh mục ở Alexandria. Ông cho rằng Đức Giêsu là thọ tạo cao cả nhất, nhưng không phải là Thiên Chúa. Ông đã bị kết án tại Công đồng Nixê năm 325.
11/05 Biết chọn lựa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Biết chọn lựa.
Thứ Bảy tuần 3 Phục Sinh.
"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 60-69
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống.
Nhưng trong các ngươi có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các ngươi rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa.
Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Biết chọn lựa
Trong những ngày vừa qua, nhiều người Mỹ đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát tại trường trung học Litaton, bang Colorado vào năm 1999. Cuộc thảm sát không những làm cho người Mỹ mà cả thế giới đều bàng hoàng, sửng sốt. Bàng hoàng, sửng sốt bởi vì đây không phải là cuộc thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà nằm trong một dây chuyền bạo động diễn ra hầu như theo một chu kỳ khó hiểu. Trong những năm gần đây, cứ vài ba năm lại xảy ra một vụ bắn giết như thế. Nạn bắn giết như thế cũng đã lan tràn sang Úc và một số nước khác.
Trong thư mục vụ công bố vào tháng 11/1994, các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động điều mà các ngài gọi là một nền văn hóa bạo động, được nuôi dưỡng bằng truyền thông, âm nhạc và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác. Nhưng bạo động từ đâu mà đến, bởi đâu mà con người có thể trở thành bạo động để hãm hại và loại trừ người khác. Hai cậu học sinh tại trường trung học Litaton đã có thể tính toán chi li cuộc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc, có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với một Milosevich và vô số người Serbi đứng đằng sau ông với chủ trương tàn sát và diệt chủng đối với người gốc Albani tại Kosovo.
Quả thật, chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ. Bạo động, sự dữ, tội ác vốn là một bí ẩn của loài người. Mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết. Ðồng thời suy nghĩ về cuộc song đấu giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Mỗi một giây phút của cuộc sống là một chọn lựa giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa Chúa Kitô và ác thần. Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về chọn lựa ấy. Sự chọn lựa ấy lại được xây dựng trên chính sự chọn lựa của Chúa Giêsu.
Với quyền năng của một Thiên Chúa, Ngài đã nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Cơn cám dỗ đầu tiên trong sa mạc hẳn đã trở lại với Ngài, chỉ cần vung cây đũa thần, Ngài đã có thể giải quyết nhiều vấn đề cơ bản của xã hội. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến để mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dãi ấy. Ngài đến trước tiên là để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống này không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua, mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa thập giá và đã đi cho đến cùng sự lựa chọn của Ngài. Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: cái chết của Ngài trên thập giá đã bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi nó thuộc trọn về Thiên Chúa và sống theo những giá trị vĩnh cửu. Ðám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui, chỉ còn lại nhóm Mười Hai, mà người đại diện là thánh Phêrô, bày tỏ sự lựa chọn dứt khoát: "Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai. Chỉ có Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời". Sự lựa chọn ấy cũng bao hàm cái chết mà tất cả các tông đồ đều trải qua. Chọn lựa theo Chúa là chọn lựa thập giá của Ngài, mỗi một giây phút là một chọn lựa.
Nguyện xin Chúa gia tăng niềm tin và ban sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai, vì Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Đức tin vượt lên trên mọi lý luận
Khởi đầu cho hành trinh đức tin là sự hiểu biết, nhưng đức tin phải vượt xa sự hiểu biết. Chỉ thuần túy là hiểu biết thì không thể gọi là tin và nhiều khi đức tin còn nghịch lại với hiểu biết. Đức tin đòi con người vượt trên mọi lý luận để xả thân chấp nhận như một liều lĩnh.
Có một người vô thần, bị rơi từ đỉnh núi cao xuống vực thẳm. May thay là giữa chừng có một lùm cây cản anh lại. Hai tay giữ chặt lùm cây, nhìn lên chẳng có ai, nhìn xuống là vực thẳm, anh mới cất tiếng kêu cứu: “Nếu quả thật có Thiên Chúa quyền năng vô biên, xin Ngài hãy ra tay cứu tôi, tôi xin tin”. Một giọng nói đáp lại: “Nếu anh thật lòng tin, anh hãy buông tay ra”. Người vô thần thầm nghĩ: Làm sao mà buông được, trèo lên chẳng được, buông tay thì rơi xuống vực thẳm, làm sao giữ được mạng sống, và anh hỏi lại: “Thật sự có Ngài ở đó không?” Nhưng không một lời đáp trả, chỉ còn có tiếng của anh vang vọng giữa núi rừng, cơ hội cho anh có đức tin đã qua.
“Lời gì mà sống sượng thế”, hoặc “Có Ngài ở đó không”, đấy là những phản ứng trước lời mời gọi tin. Nếu chỉ thuần túy lỳ luận và đòi hỏi bằng chứng, thì chẳng bao giờ gặp được niềm tin. Quá đòi hỏi một hiểu biết cụ thể, con người khó chấp nhận Thịt Máu Chúa Giêsu làm lương thực nuôi dưỡng thì họ sẽ thế nào khi thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước. Chưa cảm nhận được những điều cụ thể như thức ăn của uống, thì làm sao có thể cảm nhận được vinh quang của Ngài. Chưa chấp nhận được điều thuộc tinh thần mang hình thức vật chất, thì làm sao nói đến những điều thuần túy tinh thần.
Chính vì không tin, nhiều người đã bỏ không theo Chúa Giêsu nữa, chỉ còn nhóm 12 vẫn tin và theo Chúa, mặc dù cho đến lúc đó họ vẫn không hiểu lời giảng dạy của Ngài. Nói thế không phải là các ông tin và theo một cách mù quáng, nhưng là phó thác vì xác tín rằng chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống.
Trước những biến cố cuộc sống xem ra đòi hỏi một sự đáp trả bằng niềm tin, ước gì chúng ta cũng biết đáp trả không phải bằng sự bỏ đi, nhưng bằng lòng quảng đại trung thành vì biết rằng không gì ở ngoài thánh ý Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Những kẻ còn lại
Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga. 6, 67-69)
Trong Tin mừng theo thánh Gio-an, sau một phép lạ hay một dấu chỉ là tiếp đến một bài giảng giải thích, thính giả hay khán giả tiếp thu với thái độ lựa chọn trước đức tin, chấp nhận hay từ chối lời chứng của Đức Kitô. Lúc đầu thường bày tỏ thái độ hăng hái theo Đức Giêsu, sau đó lại tỏ ra bất mãn về sự đòi hỏi phải tin vào Đức Giêsu.
Phúc cho ai biết đi theo Người vì họ không thể chống cự lại mạc khải của Đức Kitô: Phúc cho họ vì họ không biết thoái thác! Phúc cho họ biết chọn lựa rõ ràng và không bị cuốn theo lười biếng!
Phúc hơn nữa cho ai sau khi nghe một loạt những lời của Đức Giêsu mà không còn bỏ Người ra đi, vì họ biết chỉ có một lý do độc nhất là sống theo Đức Giêsu và đặt hết tin tưởng và hy vọng của mình vào Người.
Bài giảng về bánh hằng sống được đọc lại cho chúng ta nghe trong tuần đã dẫn đưa các môn đệ phải biết chọn lựa theo Đức Giêsu. Có phải sự chọn lựa này đặt trên nền tảng lý luận tỉ mỉ kỹ lưỡng không? Không cần thiết đâu, chỉ cần ưng thuận theo Đức Kitô với lòng cảm mến hơn là lý trí. Chúng ta nhận biết một người nào đó, chúng ta liên đới với họ, và không muốn rời họ. Những người lính được sai đi bắt Người đã nói: “Không có ai ăn nói như người này bao giờ”.
Trái lại, nhiều người đã bị cám dỗ bỏ trốn theo lý trí, quyền lợi, luật lệ khi phải quyết định.
Bài giảng của Đức Giêsu cùng một mạch văn phản ảnh toàn thể tinh thần Tin mừng: Một tinh thần thuần túy điên dại trước mắt thế gian, nhưng lại là sự khôn ngoan trước mắt Thiên Chúa.
Những người còn lại theo Đức Giêsu đã đặt tin tưởng hoàn toàn vào Người.
SUY NIỆM 4: Xác Tín Niềm Tin
Vụ thảm sát ở tiểu bang Colorado Hoa Kỳ không những làm cho người Mỹ mà còn cho cả thế giới bàng hoàng sửng sốt. Bàng hoàng sửng sốt vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà hay diễn ra theo một chu kỳ bạo động. Ðó là một điều thật khó hiểu, vì trong những năm gần đây thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát như thế.
Trong lá thư mục vụ công bố vào năm 1994, các Ðức Giám Mục đã lên tiếng báo động được nuôi dưỡng bằng truyền thông âm nhạc, và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác được thực hiện. Nhưng bạo động từ đâu mà đến? Bởi đâu con người có thể trở thành bạo động thảm hại và loại trừ người khác?
Hai cậu học sinh trung học tại Colorado có thể tính toán chi li về việc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc; có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với vô số những người Serbia đang đứng đàng sau để chủ trương tàn sát những người gốc Albani tại Kosovo. Quả thật chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ, vì bạo động là sự dữ.
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Ðức Kitô trên tội lỗi và sự chết, đồng thời chúng ta cũng suy nghĩ về cuộc song đấu giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, mỗi phút giây trong cuộc sống là một cuộc chọn lựa giữa lành và dữ, giữa điều thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động.
Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta sự chọn lựa, và sự chọn lựa ấy được xây dựng trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa, Ngài đã dâng bánh và cá để nuôi sống một đám đông hơn 5,000 người. Cơn cám dỗ đầu tiên rong sa mạc đã trở lại với Ngài, Ngài chỉ cần vung cây đũa thần là có thể giải quyết được mọi khó khăn của xã hội, nhưng Chúa Giêsu không mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dàng ấy.
Do đó, điều trước tiên là Ngài đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người biết rằng: "Con người không chỉ sống bằng cơm bánh nhưng bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).
Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa Thập Giá và đi đến cùng sự chọn lựa của Ngài, Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, vì chính cái chết của Ngài trên Thập Giá bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người cốt là để thuộc trọn về Thiên Chúa là sống theo sự sống vĩnh cửu ấy.
Khi Chúa Giêsu đã nói đến sự trọn lành của Ngài, đám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui (Ga 6,66), chỉ còn lại nhóm mười hai mà người đại diện là thánh Phêrô; thánh nhân đã bày tỏ sự chọn lựa một cách dứt khoát: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời" (Ga 6,67-68). Sự chọn lựa ấy cũng mang lại cái chết mà các Tông Ðồ đều đã trải qua. Theo Chúa là chọn lựa Thập Giá của Ngài, các thánh Tử Ðạo Việt Nam đã hiểu rõ giá trị ấy, nên các ngài đã chọn lựa cái chết chứ không bỏ Thập Giá Chúa Kitô.
Mỗi một giây phút là một chọn lựa, nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin và gia tăng sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Bỏ Ngài chúng con biết theo ai?" Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 5: “CHÚNG CON CÓ MUỐN BỎ THẦY MÀ ĐI KHÔNG?” (Ga 6,61-70)
Lịch sử Giáo Hội vào những thế kỷ đầu, người Công Giáo gặp muôn vàn khó khăn do hoàng đế Rôma gây nên. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cũng không nằm ngoài nỗi khó khăn đó!
Tuy nhiên, sự cương trực, thẳng thắn và dứt khoát đã làm cho các bậc anh hùng, tổ tiên của chúng ta trung thành với Chúa cách trọn vẹn.
Nói về sự can trường của các vị tử đạo, người ta có kể đến câu chuyện của Giáo phụ Policarpo: khi đám lính đã bắt được ngài, họ điệu ngài ra tòa xét xử và buộc ngài phải từ bỏ Đức Giêsu, chối bỏ niềm tin của ngài vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, cụ già gần 90 tuổi đã tuyên bố cách dứt khoát: “86 năm tôi theo Đức Giêsu, Ngài không bao giờ phụ bạc tôi, làm sao các ông lại bảo tôi phản bội Ngài...?”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thái độ dứt khoát là điều kiện cần để sống đời sống chứng nhân. Đây cũng là điều mà Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ và tất cả những ai muốn bước theo Ngài. Vì thế, khi có một số môn đệ đã bỏ Đức Giêsu vì những lời tuyên bố của Ngài về Bánh Hằng Sống, và cụ thể chính là sự trao ban Thịt và Máu của Ngài để cho những ai tin và ăn thì được sống đời đời.
Thấy có người bỏ cuộc, Đức Giêsu đã lên tiếng hỏi trực tiếp các Tông đồ là những người mà Ngài sẽ trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, Ngài hỏi: “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô đại diện cho anh em thưa với Thầy: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai?".
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: muốn theo và làm chứng cho Ngài thì phải có thái độ dứt khoát. Không được lập lờ...!
Như vậy qua câu trả lời của thánh Phêrô, chúng ta thấy một cuộc tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thầy của mình. Tin Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Vì thế, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành và xác tín thật mạnh mẽ niềm tin của mình nơi Chúa. Chỉ có Chúa mới là niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực, và cũng chỉ có mình Ngài mới ban cho chúng ta sự sống đời đời. Ngoài Ngài ra, chúng ta không có chúa nào khác có thể ban cho chúng ta những thứ đó.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phêrô: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ngày càng gắn bó mật thiết với Chúa như các Tông đồ khi xưa, để dù có gặp phải những khó khăn, chúng con vẫn dứt khoát nói không với những gì trái ngược với đức tin và sẵn sàng sống chết cho niềm xác tín của mình vào Chúa để xứng đáng được Chúa ân thưởng trong cuộc sống mai hậu. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Anh em cũng muốn bỏ đi sao?
Suy niệm:
Chương 6 của Tin Mừng Gioan có một kết thúc không vui lắm.
Bài Tin Mừng hôm nay (cc. 60-69) đi theo ngay sau các câu 35-50,
vì các câu 51-59 có lẽ được viết muộn hơn và thêm vào sau này.
Đức Giêsu coi mình là bánh thật từ trời xuống (cc. 33. 50).
Ai tin vào Ngài sẽ được sống muôn đời (cc 40. 47).
Những lời giảng của Đức Giêsu đã gây vấp phạm, khó nghe, gai chướng,
khiến nhiều môn đệ xầm xì, không tin, rút lui và không đi theo Ngài nữa.
Chỉ có nhóm Mười Hai ở lại, nhưng cũng không trọn vẹn.
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn gây sốc cho con người mọi thời.
Lời Chúa vẫn luôn là điều khó hiểu, khó chịu và khó sống.
Những Kitô hữu đã tin theo Đức Giêsu trong nhiều năm
vẫn bị đặt mình trước lời Chúa và được mời gọi chọn lại.
Tin vào Đức Giêsu là một chọn lựa lớn và căn bản.
Chọn lựa này cần được làm mới lại mỗi ngày xuyên qua những chọn lựa nhỏ.
Có những Kitô hữu mất đức tin vì đã không dám sống niềm tin của mình.
Có những người rút lui và bỏ đi, dù tên vẫn còn trong sổ Rửa tội.
Có những người xầm xì vì những đòi hỏi gai góc của Lời Chúa.
“Chẳng lẽ anh em cũng muốn bỏ đi sao?”
Đức Giêsu buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai như thế.
Simon đại diện anh em đã xin được tiếp tục ở với Thầy, đi với Thầy.
“Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”
Lời của Thầy tuy khó nghe, nhưng con tin đó là lời ban sự sống đời đời (c. 68).
Lời của Thầy tuy chướng tai, nhưng lại là thần khí và là sự sống (c. 63).
Simon tin Thầy Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 69).
Đấng Thánh là Đấng từ trời xuống
và cũng là Đấng sẽ lên trời nơi đã ở trước kia (c. 62).
Có thể điều làm con người hôm nay bỏ đạo, bỏ Chúa Giêsu,
lại không phải là những lời khó nghe của Ngài,
mà là đời sống của các Kitô hữu, những người không dám sống các lời ấy.
Nhiều người thấy chướng khi nhìn vào cuộc sống của họ.
Xin Chúa Cha ban cho chúng ta ơn đến với Giêsu, và kiên trì ở lại với Ngài.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
10/05 Con đường hiến thân
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con đường hiến thân.
Thứ Sáu tuần 3 Phục Sinh.
"Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống".
Lời Chúa: Ga 6, 53-60
Khi ấy, những người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời".
Người giảng dạy những điều này tại Hội đường Capharnaum.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Con đường hiến thân
Bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ, Nga đã đưa du khách đầu tiên vào không gian. Vị du khách này là một triệu phú người Mỹ, tên là Dennis Titô. Ông Titô đã rời căn cứ phi thuyền không gian vào tối thứ Bảy tháng 4 năm 2001 và được đưa lên trạm không gian quốc tế.
Sở dĩ cơ quan không gian Hoa Kỳ là NASA phản đối chuyến đi này là vì cho rằng ông Titô có thể gây ra nguy hiểm cho các phi hành gia trên trạm không gian quốc tế. Tuy nhiên, cơ quan không gian của Nga cam đoan rằng sứ mạng của ông Titô sẽ được bảo đảm trong suốt chuyến du hành vào không gian. Ðược biết, vé du lịch không gian của ông Titô là hai mươi triệu mỹ kim.
Phải bỏ ra một số tiền kếch xù như thế để ra khỏi trái đất tìm một chút cảm giác thoát tục để trở thành một con người nổi tiếng quả là điều không cân xứng. Trong khi con người muốn bay lên trời cao bằng những phương thế và xác thịt riêng của mình, thì Ðấng từ trời cao đã xuống trần gian, để chỉ cho con người cách thế đúng đắn nhất để lên trời cao.
Thật ra khoảng không gian mà con người có thể bay lên được chỉ là vô nghĩa so với cõi trời cao từ đó Ngài đưa con người xuống; và con đường Ngài mở ra để cho con người ra khỏi trời cao ấy hoàn toàn trái ngược lại với con đường mà con người tự vạch ra. Con đường mà Ngài đã khai thông là con đường của tự hạ, hy sinh, quên mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân. Với Ngài, chỉ khi nào thoát khỏi mọi thứ vướng bận của trần tục, con người mới có thể nhẹ nhõm để bay lên khỏi trời cao. Trở thành tấm bánh và được bẻ ra để trao ban cho con người, Ngài đã đi cho đến tận cùng con đường đã hiến thân, Ngài đã chỉ ra cho con người con đường đích thực của sự siêu thăng. Tiếp rước Ngài, ăn lấy tấm bánh là chính Ngài, con người đón nhận sự sống của Ngài để rồi chia sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ bằng con đường hiến thân vô vị lợi, con người mới tìm lại được bản thân mà thôi.
Với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật, thế giới sâu xa này càng thu hẹp với con người, khoảng cách giữa các quốc gia ngày càng ngắn lại, đường lên không gian cũng được mở ra. Tuy nhiên, khoảng cách giữa người với người càng ngày càng lớn hơn. Cách biệt giữa giàu nghèo ngày càng vời vợi, con người đi vào không gian và cũng ngày càng xa cách nhau. Người nghèo Lazarô quằn quại bên cửa nhà hay ngay cả dưới gầm bàn ăn mà người giàu có cũng nhìn thấy. Chúa Giêsu đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người, Ngài ngồi đồng bàn với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài kết thân với những người tội lỗi, Ngài chịu đồng hóa với những người nghèo hèn và khẳng định rằng trong ngày sau hết, chính dựa trên cách cư xử với người nghèo hèn mà con người sẽ được xét xử.
Nguyện xin lương thực thần linh mà chúng ta đón nhận trong bí tích Thánh Thể bồi bổ chúng ta trong cuộc cử hành trần thế, để chúng ta luôn tiến bước trong hân, tin tưởng và quảng đại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ngôn ngữ Lễ Hy Sinh
Người Do-thái liền tranh luận với nhau. Họ nói:
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”.
Đức Giêsu nói với họ:
“Thật, tôi bảo thật các ông
nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,
các ông không có sự sống nơi mình
Ai ăn thịt và uống máu tôi,
Thì được sống muôn đời
Và tôi sẽ cho người ấy sống lại
Vào ngày sau hết. (Ga. 6, 52-54)
Những vấn nạn về tiệc Thánh Thể, về Mình và Máu Thánh Đức Kitô vẫn khó giải đáp. Chúng ta hiểu theo ngôn ngữ thực tế ư? “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” là vây quanh một xác chết, là tiêu hóa những miếng thịt của một cơ thể loài người từ hai ngàn năm nay sao? Dứt khoát là không.
Ngược lại với lối giải thích trên, người ta hiểu theo nghĩa biểu tượng: “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” chỉ là nhớ đến thịt và máu Đức Giêsu, tức là nhớ đến đời sống của Người, đến sinh hoạt của Người để gợi cảm hứng.
Đối với tôi, lời Đức Kitô rất rõ nét và súc tích. Tôi yêu lối giải thích cho bạn về lời Đức Kitô theo ngôn ngữ tế lễ hy sinh. Chúng ta được linh ứng theo lối giải thích của Kinh thánh để hiểu sự phân phát Mình thánh Đức Kitô.
Sự thông phần trong các lễ hy sinh, có sự phân phát của ăn cho các người tham dự. Của ăn đó là thịt con chiên hay con bê. Người ta lấy máu nó rảy trên dân chúng và dành một phần thiêu nó trên bàn thờ, một phần phân phát cho người dự lễ.
Phần dâng lên thì thuộc về Thiên Chúa với lời chúc tụng của dân chúng, điều đó có nghĩa là dân chúng nhận biết hồng ân Thiên Chúa và những việc lạ lùng Ngài làm cho dân.
Nhưng việc tế lễ đó không chỉ là do động lực của con người. Thiên Chúa tự mình nêu lên ý nghĩa cho những cử chỉ hy tế này. Hy tế trình bày quyền phép của Thiên Chúa trong hành động và khêu gợi cho con người đến tham dự.
Nguyên lý quan trọng nhất của tế lễ Thánh Thể không phải chúng ta làm cho Thiên Chúa xuống trong những dấu chỉ, nhưng chính Thiên Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được ở trong Ngài, cho chúng ta được liên kết với Ngài, được giao ước với Ngài.
Chúng ta vẫn còn được mời gọi tham dự vào tế lễ Thánh Thể này.
SUY NIỆM 3: Sống bằng sự sống của Thiên Chúa
Triết gia Nietzsche của Đức đã cho rằng: Kitô giáo là vong thân. Con người càng tin tưởng nơi thần linh, con người càng đánh mất chính mình. Như vậy để cho con người đừng thẳng lên như một con người, cần phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi con người”.
Thật ra, con người không thể loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì làm như thế con người sẽ chuốc lấy chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy của cái chết, loại bỏ Thiên Chúa là tự hủy diệt. Con người không thể sống mà không cần Thiên Chúa, đó là bản chất Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người, đi ngược với bản chất ấy là đi vào cõi chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy, Chúa Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, chỉ trong Ngài con người mới thấy được Thiên Chúa. Ngài đã nói với các môn đệ: “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta”, “Ta và Cha Ta là một”. Bởi vì con người chỉ có thể sống nhờ Thiên Chúa, bởi vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một, cho nên để sống thật sự, con người phải sống bằng chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống”. Tuyên bố điều đó, Chúa Giêsu cũng loan báo chính cái chết của Ngài. Thật thế, vừa xác quyết mình từ trời xuống nghĩa là bởi Thiên Chúa mà ra và là chính Thiên Chúa, vừa tự xưng là lương thực cần thiết cho con người, Chúa Giêsu đã đọc lên chính bản án của Ngài. Người Do Thái đã giết Ngài vì Ngài tự xưng là Thiên Chúa nghĩa là Ngài đã lộng ngôn. Như vậy cái chết của Ngài trên thập giá là một mạc khải Thiên tính của Ngài.
Bí tích Thánh Thể, vì là tưởng niệm cái chết ấy, nên cũng là một bày tỏ và tuyên xưng Thiên tính của Chúa Giêsu. Chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho con người như lương thực để con người được sống. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu tuyên xưng rằng con người không thể sống mà không có Thiên Chúa. Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống và sống dồi dào. Thế nhưng lương thực trường sinh mà người tín hữu đón nhận trong Thánh Thể cũng là một cam kết. Tuyên xưng rằng con người chỉ có thể sống bằng sự sống của Thiên Chúa, người tín hữu cũng phải sống thế nào để cuộc sống của họ là một bằng chứng của sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong con người. Sức sống của Thiên Chúa mà con người cần đến sẽ được tỏ hiện qua niềm vui, tình huynh đệ, lòng quảng đại, sự tha thứ trong cuộc sống người tín hữu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG (Ga 6,53-60)
Tin Mừng hôm nay trình thuật lời tuyên bố của Đức Giêsu về một vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới Ngài và tới tất cả những ai tin Ngài, đó là “Bánh Hằng Sống”. Ngài không nói quanh co bóng gió, nhưng rõ ràng minh bạch: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Khi tuyên bố như thế, ngay sau đó, Ngài liền khẳng định: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu không chỉ ao ước, cũng như không chỉ có ý định trở thành lương thực cho con người, nhưng Ngài còn thực sự muốn và thực hiện điều đó. Vì thế, Ngài nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống"; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (x. Ga 6, 54-56).
Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu cho thấy, lương thực Ngài ban tặng chính là lương thực Thần Linh, hoàn toàn khác biệt với những thứ lương thực trong đời thường, bởi vì Bánh mà Đức Giêsu trao ban chính là Ngài.
Khi trao ban cho con người chính bản thân mình, Đức Giêsu mong muốn được trở thành nguồn nuôi sống và nhất là thông truyền sự sống Thần Linh của Ngài cho nhân loại. Sự liên kết này được thể hiện qua việc ăn Thịt và uống Máu Chúa trong niềm tin. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
Nói như thế, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến việc chuẩn bị và ý thức cách xứng đáng để tương xứng với hồng ân cao trọng mà vì yêu, nên Đức Giêsu sẵn sàng trao hiến cho con người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con hiểu được sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể và ý thức được giá trị của việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Nhờ tôi mà được sống
Suy niệm :
Tin Mừng theo thánh Gioan không viết về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể,
nhưng lại giải thích cách sâu xa cho chúng ta về ý nghĩa của bí tích ấy
đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu 51 là một bước chuyển quan trọng
trong bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống ở chương 6:
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Lần đầu tiên thịt được nhắc đến trong bài giảng này.
Thịt của Đức Giêsu chính là bánh từ trời được ban cho thế gian.
Ngôi Lời đã vào đời làm người, đã thành thịt (Ga 1, 14).
Bây giờ chính thịt ấy lại được trao ban cho con người như bánh hằng sống.
Đức Giêsu không bằng lòng với chuyện nuôi một số người bằng bánh và cá.
Điều đó chỉ làm giảm cơn đói thân xác trong một thời gian.
Ngài muốn nuôi cả thế giới bằng chính sự sống thần linh ở nơi Ngài,
nuôi bằng trọn cả con người Ngài, nuôi bằng chính thịt và máu Ngài.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống vĩnh cửu.
Và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54).
Ăn thịt và uống máu một người là điều làm người Do thái ghê sợ.
Chúng ta chỉ hiểu được những lời trên đây trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly,
khi Đức Giêsu mời các môn đệ ăn bánh và uống rượu Ngài trao
mà Ngài lại nói: Đây là mình Thầy, đây là máu Thầy.
Đức Giêsu muốn trao cho nhân loại sự sống của Ngài
qua thức ăn, thức uống bình thường của con người là bánh và rượu.
Sự sống vĩnh cửu đã hé nở ngay từ đời này và sẽ viên mãn ở đời sau.
Hãy đến ăn và uống lương thực thần linh Ngài dọn cho ta.
Hãy đến với lòng tin và sự trân trọng trước món quà quý giá.
Nhưng dự tiệc Thánh Thể không phải chỉ là đến với thịt và máu Chúa,
mà còn là gặp gỡ tiếp xúc với một ngôi vị là chính Đức Giêsu.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi
thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56).
Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm giữa hai ngôi vị.
“Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c. 57).
Rốt cuộc, qua việc ăn uống mình máu Chúa,
chúng ta được tham dự vào mối tương quan thân tình giữa Cha và Con.
Chúng ta được sống bằng cùng một dòng sự sống xuất phát từ Cha.
Chúng ta được diễm phúc chia sẻ sự sống của chính Thiên Chúa.
Bí tích Thánh Thể không phải là một thứ bùa chú hay đũa thần.
Ai càng mở lòng mình ra để trao đi, càng thoát ra khỏi thái độ chiếm đoạt,
thì càng thấy mình được biến đổi và được giàu có muôn ơn.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta được mời gọi đón lấy Bánh hằng sống,
Tấm Bánh Lời Chúa và Tấm Bánh Mình Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói;
càng uống, con càng khát;
càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con
hơn cả tầng mật ong,
vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.
Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao,
vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài ?
Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con,
con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài,
đòi hỏi đó làm cho con đau đớn,
vì con không muốn từ bỏ
những thói quen của con
để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa,
ca ngợi và tôn vinh Chúa,
bởi đó là sự sống đời đời cho con. Amen. (Ruy Broeck)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
09/05 Tin vào Lời Chúa – cử hành Thánh Thể
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin vào Lời Chúa – cử hành Thánh Thể.
Thứ Năm tuần 3 Phục Sinh.
"Ta là bánh từ trời xuống".
Lời Chúa: Ga 6, 44-51
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: "Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: "Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo". Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha.
Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tin vào Lời Chúa
Rất nhiều khi chúng ta cũng có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Nói khác đi, chúng ta thường quan niệm theo mẫu mực và lối suy tưởng riêng của chúng ta, do đó Thiên Chúa mà chúng ta muốn chối bỏ không phải là Thiên Chúa thật: chúng ta chối bỏ vị Thiên Chúa theo quan niệm của chúng ta chứ không phải vị Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta, và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã quả quyết: "Ai thấy Ta là thấy Cha Ta". Chúa Giêsu là mạc khải hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải hoàn toàn khác với Thiên Chúa mà chúng ta thường quan niệm hoặc tự vẽ ra cho chính mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy lời mạc khải của Chúa Giêsu: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời". Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo Hội đã trải qua bao thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin vào Lời Chúa và hàng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức hơn nữa về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được có tâm hồn xứng đáng mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể là bảo chứng cho sự sống đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tôi là Bánh Hằng Sống
Tôi là bánh trường sinh.
Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc,
nhưng đã chết.
Còn bánh này là bánh từ trời xuống.
Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng,
Chính là thịt tôi đây,
Để cho thế gian được sống. (Ga. 6, 48-51)
Tiếp theo bài giảng của Đức Giêsu về bánh ban sự sống dẫn đưa chúng ta chiêm ngắm một tiến độ khác trong hoạt động của Đức Giêsu, chúng ta nhớ đến những tiến triển của bài giảng này dần dần đào sâu đến đoạn này.
Lúc đầu là bánh hóa nhiều. Phép lạ nuôi một đoàn dân chúng dẫn họ đi tìm Đấng đã làm phép lạ. Rồi Đức Giêsu rời xa họ, để vào nơi thanh vắng đêm khuya và hôm sau trở lại với các môn đệ bên kia bờ hồ. Tới đây, Người tiếp tục bài giảng sâu hơn, ý nghĩa hơn. Sự thay đổi nơi chốn thể hiện ý nghĩa thay đổi của bài giảng.
Đức Giêsu đồng hóa mình với thứ bánh mới. Ai liên kết với Người sẽ được sống. Đức Giêsu mặc khải mục đích của sự liên kết này là: Cho con người được sống lại. Hôm nay Người nói cho ta biết: Người sẽ trở nên nguồn sống lại cho chúng ta bằng cách nào? Bằng cách hiến thịt mình cho chúng ta ăn. Ở cảnh này, Đức Giêsu còn nói rõ hơn: “Bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.
Cho tới nhà Tiệc ly, Đức Giêsu nói: “Đây là mình Tôi bị nộp vì anh em”. Tất cả hoạt động của Người, tất cả mọi sự in ấn trong thịt máu Người với những lao khổ, chống đối, những thao thức, những bước đi cho tới lúc chết: Tất cả là hồng ân ban tặng cho chúng ta.
Đức Kitô đã là Người hiến thân cho tha nhân, không phải chỉ trong ý tưởng hay tinh thần mà còn trong hành động cụ thể sống động để lấy thân xác mình là quà tặng cho muôn dân. Như vậy, ai kết hợp với Người là kết hợp với sự sống mạnh mẽ của Người và biểu lộ ra bằng thân xác, biến thân xác mình thành quà tặng ban sự sống như Đức Giêsu.
Phần chúng ta, được thông phần thịt máu Người và được tham dự sự sống lại của Người, đó là thực hiện thánh ý và việc làm của Đức Kitô để sẵn sàng hiến thân mình làm quà tặng cho tha nhân theo gương Người, với tất cả lao khổ, thống khổ của ta để làm tôi tớ mọi người.
Tế lễ của chúng ta là thực hiện những điều đó.
C.G
SUY NIỆM 3: Thịt Máu Chúa Giêsu
Ở cổng nhà Dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một Thày dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marxellino đã leo lên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marxellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh Giá. Từ đò, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh Giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi: “Con thích điều gì nhất”. Cậu bé đáp: “Con muốn được thấy mẹ con”. Người khổng lồ liền nói: “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”. Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marxellino nữa, họ đi tìm và này cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Đối với Marxellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được chăm sóc Chúa”.
Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo con người lên với Chúa Cha, người tín hữu tiếp nhận Ngài trong Thánh Thể cũng được sai đến với tha nhân và lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẽ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hàng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thực tràn ngập tâm hồn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: BÁNH TRƯỜNG SINH LÀ ĐỨC GIÊSU (Ga 6,44-52)
Có một câu chuyện kể rằng: hai người yêu nhau tha thiết, nhưng chàng trai có lệnh lên đường đi nhập ngũ trong thời chiến. Bạn gái rất đau khổ, vì không biết đi như vậy, liệu có sống xót trở về không? Vì thế, nàng khóc lóc thảm thiết! Tuy nhiên, lệnh đã được ban, chàng không có cách nào khác, đành lòng rời xa nàng để đi thi hành nhiệm vụ. Trước khi chia tay, chàng tặng nàng một chiếc khăn mùi xoa với hoa văn thêu rất đẹp. Nàng trân trọng đón nhận và lưu giữ kỷ vật ấy như là vật thiêng thánh, và thi thoảng bỏ ra xem. Mỗi lần nhìn thấy khăn đó, nàng có linh cảm như chàng đang ở trước mặt mình. Vì thế, nàng có thể cười hay khóc rất tự nhiên, khiến nhiều người không khỏi thắc mắc!
Như vậy, qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cô gái có một niềm tin mãnh liệt rằng: chiếc khăn ấy chính là hiện thân của người yêu mà mình hết mực thương mến.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có sự tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu đã dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Bởi vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác, chắc chắn.
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Thịt Chúa thật là của ăn, Máu Chúa thật là của uống. Xin cho chúng con và mọi người biết siêng năng tôn thờ sự hiện diện của Chúa nơi Bí tích cao trọng này, để như một bảo chứng cho sự sống mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Chúa Cha lôi kéo
Suy niệm :
Sống ở đời là phải chịu nhiều sự lôi kéo.
Thời nay sự lôi kéo lại càng mạnh mẽ và thô bạo.
Có sự lôi kéo của khuyến mãi, giảm giá,
khiến ta vui vẻ mua cả điều không cần.
Có sự lôi kéo của những sản phẩm thuộc đời mới hơn, nhiều chức năng hơn,
khiến chúng ta mê mải chạy theo và rượt đuổi không ngừng.
Có sự lôi kéo của hình ảnh quảng cáo, của thời trang, của sách báo,
khiến chúng ta chẳng làm chủ được cái nhìn, và dễ đi đến chỗ phạm tội.
Để chống lại được sự lôi kéo bên ngoài cần có nội lực bên trong.
Nhiều người sa ngã vì bị kéo bên ngoài, mà bên trong không vững.
“Không ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha,
Đấng sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44).
Đức Giêsu khẳng định về sự lôi kéo của Chúa Cha trong đời từng người.
Cha lôi kéo chúng ta về phía Con của Ngài là Đức Giêsu,
bất chấp những lôi kéo ngược lại đến từ phía thế gian, ma quỷ, xác thịt.
Nếu chúng ta để cho Cha kéo đi mà không cưỡng lại,
thế nào ta cũng đến được với Giêsu.
Và Giêsu lại là Con Đường tuyệt vời dẫn ta đến với Cha.
“Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 13, 6).
Như thế Cha đưa ta đến với Con :
“Này là Con ta yêu dấu… hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5).
Và Con đưa ta lại cho Cha
để hưởng sự sống đời đời trong ngày sau hết.
Cuộc sống người Kitô hữu là cuộc sống giữa những lôi kéo, giằng co,
giữa chính và tà, giữa thiện và ác, giữa Thiên Chúa và Xatan.
Tâm hồn con người là hiện trường của những cuộc giao đấu không ngơi nghỉ.
Hãy để cho Cha lôi kéo bằng cách nghe và đón nhận giáo huấn của Cha.
Lời dạy dỗ của Cha có khi chỉ nghe được trong thầm lặng.
Lời ấy đưa ta đến với Giêsu, Đấng duy nhất thấy Cha, biết Cha (c. 46).
Hãy tin vào Giêsu để được Sự Sống vĩnh cửu (cc. 44. 47).
Hãy ăn Tấm Bánh Giêsu để được Sự Sống ngay từ đời này (c. 51).
“Khi nào tôi được giương cao lên khỏi đất,
tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi” (Ga 12, 32).
Hãy để Giêsu lôi kéo chúng ta khỏi sự tầm thường của cái tôi ích kỷ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/05 Ý nghĩa của cuộc sống
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ý nghĩa của cuộc sống.
Thứ Tư tuần 3 Phục Sinh.
"Ý muốn của Cha Ta là: hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời".
Lời Chúa: Ga 6, 35-40
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài.
Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ý nghĩa của cuộc sống
Một nhà thơ nào đó đã nói lên thái độ bất cần của một số người như sau:
"Cần gì truy nguyên ta từ đâu đến
Lỡ sinh ra rồi, ta chơi đến nơi
Chết rồi đi đâu thì cũng mặc kệ
Trước khi sinh ra có ai hỏi đâu
Lỡ sinh ra đây ta không câu nệ
Từ đâu tới đây, chết rồi về đâu
Ôi thôi mặc kệ".
Vào thời Chúa Giêsu cũng không thiếu những người sống theo chủ trương mặc kệ ấy. Cái đám đông đi theo Ngài để chỉ được ăn uống nô nê là một điển hình. Họ chỉ biết có của ăn cho thân xác. Nói như thánh Phaolô: "Ðạo của họ là cái bụng". Là Ðấng Toàn Năng, Chúa Giêsu có thể vung chiếc đũa thần lên để thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu thể lý của con người. Bằng chứng là với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài có thể nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến trong trần gian để cung cấp một thức ăn chóng hư nát như thế. Ngài đến để làm cho con người được sống và sống sung mãn, và sự sống sung mãn ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Của ăn dư dật mà Ngài đã dâng lên từ năm chiếc bánh và hai con cá là dấu chỉ của bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho con người trong phép Thánh Thể, chỉ có bánh này mới làm cho con người được thỏa mãn trong nỗi khát vọng mà không một lương thực nào trên trần gian này có thể đắp đầy, chỉ có bánh này mới làm cho cuộc sống con người được sung mãn, chỉ có bánh này mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người, chỉ có bánh này mới không ngừng khơi dậy nỗi khát khao cõi trường sinh trong lòng người.
Cuộc sống tự nó là một nỗi khao khát khôn nguôi. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những khắc khoải mới. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những câu hỏi không ngừng được đặt ra cho chúng ta. Những người túng thiếu, những kẻ khốn khổ chung quanh chúng ta không ngừng hỏi chúng ta đã biết yêu thương đến mức độ nào. Cái chết của một người thân không ngừng hỏi chúng ta về cứu cánh của cuộc sống. Cô đơn và khổ đau không ngừng hỏi chúng ta về ý nghĩa của từng biến cố trong cuộc sống. Mỗi ngày sống là một chuỗi những câu hỏi mà chúng ta không thể tránh né được và đi cho đến ngọn nguồn những câu hỏi ấy là những câu hỏi ngàn đời của kiếp người: "Tôi từ đâu đến? Tôi sống để làm gì? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi không thể dửng dưng trước sự chất vấn của cuộc sống" Tôi không thể mặc lấy thái độ mặc kệ trước những tra vấn ấy của cuộc sống?"
Chúa Giêsu không những đến để khơi dậy những câu hỏi ngàn đời của cuộc sống: "Phần các con, các con bảo Ta là ai?" Câu hỏi Ngài đã từng đặt ra cho các môn đệ của Ngài cách đây hai ngàn năm. Ngày nay, Ngài cũng không ngừng đặt ra cho mỗi người. Ngài không những tra vấn con người của mọi thời đại, Ngài là giải đáp cho mọi thắc mắc của con người. Ngài là Ðấng đang hiện diện trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta. Ngài đang đồng hành với chúng ta.
Nguyện xin Ðấng Hôm Qua, Hôm Nay, và Mãi Mãi Vẫn Là Một cho chúng ta luôn được tác động bởi sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Sức mạnh Phục Sinh
Vì tôi từ trời mà xuống
Không phải là để làm theo ý tôi,
Nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai tôi.
Mà ý của Đấng đã sai tôi
Là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi,
Tôi sẽ không để mất một ai,
Nhưng sẽ cho họ sống lại
Trong ngày sau hết.
Thất vậy ý của Cha tôi
Thì tất cả những ai thấy người Con
Và tin vào người Con
Thì được sống muôn đời,
Và tôi sẽ cho họ sống lại
Trong ngày sau hết. (Ga. 6, 38-40)
Chúng ta đã nhấn mạnh đến giá trị tương quan giữa hai ngôi vị như của nuôi con người: Người ta chỉ có thể sống khi có sự tương quan với nhau, có sự cần tới nhau. Nói cách khác, ai có thể nuôi người khác được thì mới giải thoát được chính mình, mới gắn bó với người khác được.
Đức Giêsu, qua dấu chỉ tấm bánh, quả quyết với chúng ta rằng Người là một thứ của nuôi. Chính Người cam kết với chúng ta rằng: Người ban chính mình cho chúng ta, rằng: Chính mình Người là bằng chứng tình yêu gắn bó của Chúa Cha đối với chúng ta.
Hôm nay, Người cắt nghĩa rõ ràng Người được Đức Chúa Cha nuôi sống, Người sống nhờ Chúa Cha, cho chúng ta có sự sống của Người trong chúng ta. Thiên Chúa đã cam kết với chúng ta và cho chúng ta thấy dấu chỉ của sự cam kết này là chính Đức Giêsu Kitô đến dẫn đưa chúng ta đến sự sống lại: “Tất cả những ai thấy Chúa Con và tin ở Người thì được sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”.
Tóm lại, bất kỳ ai chấp nhận liên đới với chính mình Đức Kitô đều được chúc phúc, được hưởng sức mạnh cứu độ của Người. Đời sống nhân loại của mình sẽ đi tới vô cùng để được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Sự mặc khải này đã làm cho chúng ta hôm nay thấy rằng tiếp xúc với Đức Giêsu Kitô là sức mạnh sự sống lại giúp ta bày tỏ lòng cảm tạ Thiên Chúa. Chúng ta phải biết rằng Đức Giêsu là quà tặng của Chúa Cha ban cho ta để Người đến tái tạo sự hợp nhất con người với Thiên Chúa, để tiêu diệt sự chết và tỏ bày sự sống lại.
Hành động tạ ơn của chúng ta có thể tô điểm cho ta thấy những sự lạ lùng để ý thức sự trung tín, vâng lời và sẵn sàng hiến dâng của Đức Giêsu Kitô đối với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến thực hiện kế hoạch trao ban sự sống đời đời cho loài người.
C.G
SUY NIỆM 3: Sống là chính Đức Kitô
Một mục sư nọ kể câu chuyện sau:
Hai người bộ đội vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe dọa: Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay, những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cũng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm thế, vì chúng tôi muốn biết ai là người thực sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình, chỉ những người đó mới đáng tin cậy”.
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin mà Giáo Hội mời gọi chúng ta củng cố khi cho chúng ta lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Duy chỉ mình Ngài mới cho chúng ta sự sống đích thực.
Những người Do Thái đã thấy Chúa Giêsu nhưng họ không tin, thật ra họ đã không thấy gì. Cái nhìn của họ dừng lại nơi những cái chóng qua, họ tìm kiếm Thiên Chúa không phải vì đã tin nhận Ngài, mà chỉ vì chờ đợi được Ngài cho ăn no nê bằng của ăn hư nát. Muốn được thấy Chúa Giêsu, muốn tin nhận Ngài, trước tiên con người cần ra khỏi cái vỏ ích kỷ tham lam của mình. Có sẵn sàng ra khỏi thế giới hẹp hòi của mình, con người mới có thể thấy được Đức Kitô và đi vào thế giới của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Quả thật, chỉ những tâm hồn trong sạch, nghĩa là biết quên đi cái thế giới ích kỷ, phàm trần mới nhìn thấy Thiên Chúa.
Ước gì chúng ta luôn sống kết hiệp với Ngài và nhận ra Ngài trong mọi biến cố cuộc sống, và khi cuộc lữ hành trần gian chấm dứt “Ngài thế nào, chúng ta sẽ được thấy như vậy”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: SỐNG ĐỨC TIN CÁCH TRƯỞNG THÀNH (Ga 6, 35-40)
Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài.
Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).
Tại sao Đức Giêsu phải tuyên bố như vậy? Thưa, bởi vì Ngài thấy lòng trai dạ đá nơi những người Do thái và họ đi tìm Ngài vì của ăn hư nát chứ không phải là của ăn tinh thần, tức là sự sống đời đời.
Lối sống và lựa chọn của người Do thái khi xưa cũng chính là lối sống và lựa chọn của nhiều người trong chúng ta! Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ lễ, bỏ nhà thờ chỉ vì mớ rau, củ hành, củ tỏi, con cá, con tôm, hay cũng có khi chỉ vì một nhu cầu nào đó rất tầm thường mà chúng ta sẵn sàng đánh đổi...!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống đức tin cách trưởng thành. Tức là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Quả thật: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Muốn được như thế, chúng ta phải bỏ qua lối sống thực dụng, phải sống vượt lên trên những gì là vật chất, hẹp hòi, ích kỷ của mình. Có thế, con mắt đức tin của chúng ta mới nhận ra những dấu chỉ thiêng liêng và lý trí của chúng ta mới trong sáng để nhận biết điều gì quan trọng, điều gì thứ yếu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ban chúng con ơn khôn ngoan để chúng con biết lựa chọn điều cần thiết cho sự sống đời đời hơn là những thứ chỉ nuôi được thân xác. Xin cho chúng con biết quý trọng Bánh Hằng Sống chính là Thánh Thể Chúa và siêng năng rước Chúa vào trong linh hồn với trọn lòng mến. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Đến với tôi, tin vào tôi
Suy niệm :
Cuộc sống làm người ở đời chẳng mấy dễ dàng.
Con người lúc nào cũng phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống.
Môi trường sống bị ô nhiễm do bụi, khí thải, tiếng ồn.
Thiên tai, bão lũ, hạn hán ngày thêm trầm trọng bởi sự biến đổi khí hậu.
Dịch bệnh đủ loại thỉnh thoảng lại bất ngờ bùng phát ở một nơi nào đó
và có nguy cơ lan rộng toàn thế giới.
Khủng hoảng kinh tế lại càng xô đẩy nhiều người đến chỗ đói nghèo.
Chiến tranh vẫn kéo dài giữa một số quốc gia, bộ tộc.
Căng thẳng trong mối quan hệ giữa người với người, ngay trong gia đình.
Có những vấn đề riêng tư mà tự mỗi người không sao giải quyết nổi.
Con người lúc nào cũng phải vất vả trăn trở trước cuộc sống.
Kinh Lạy Nữ Vương gọi trần gian là thung lũng đầy nước mắt.
Chúng ta thuộc Giáo Hội chiến đấu trước khi thuộc Giáo Hội khải hoàn.
Để sống ở cuộc đời chóng qua này một cách tận tụy, nghiêm túc,
để sống như một người con xứng đáng của Trời và Đất,
người Kitô hữu cần nhận được sự đỡ nâng của ơn trên.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chia sẻ phận làm người ở đời như ta.
với đủ mọi cay đắng ngọt bùi của phận người và cái chết trên thập giá.
Ngài mong trở nên bạn được đồng hành của chúng ta
trên đường đời nhiều thách đố, gai chông và cạm bẫy.
Ngài thỏa mãn những khát vọng thâm sâu và thầm kín nhất của ta.
“Ai đến với tôi, sẽ không hề đói.
Ai tin vào tôi sẽ chẳng hề khát bao giờ” (c. 35).
Thiên Chúa Cha muốn gửi gắm chúng ta cho Chúa Giêsu lo liệu.
“Tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (c. 39).
Hãy đến với Chúa Giêsu để nhận được sự bảo vệ của Thiên Chúa.
Hãy tin vào Ngài và cùng với Ngài đi trên con đường gập ghềnh,
bạn sẽ đến được quê hương vĩnh cửu đang chờ đợi bạn.
Sự sống vĩnh cửu thực ra đã bắt đầu ngay từ đời này rồi,
khi chúng ta đến với Giêsu với niềm tin tưởng :
“Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời” (c. 40).
Hãy trở thành món quà của Chúa Cha cho Con của Ngài là Đức Giêsu.
Hãy trở thành món quà của Đức Giêsu cho thế giới.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
07/05 Bánh trường sinh
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Bánh trường sinh.
Thứ Ba tuần 3 Phục Sinh.
"Không phải Môsê, mà chính Cha Ta mới ban bánh bởi trời đích thực".
Lời Chúa: Ga 6, 30-35
Khi ấy, đám đông thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời".
Chúa Giêsu đáp: "Thật Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa với Ngài rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi".
Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bánh trường sinh
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, mức tiêu thụ đã gia tăng nhanh chóng và xâm nhập vào hầu hết mọi chiều kích của cuộc sống con người, đến độ chúng ta gọi nền văn minh hiện nay là văn minh tiêu thụ. Từ năm 1975 đến năm 2000, mức tiêu thụ của thế giới đã gia tăng gấp đôi. Tổng cộng mức tiêu thụ của thế giới trong hai mươi lăm năm qua đã lên đến hai mươi bốn ngàn tỉ Mỹ kim. Ðây là một hiện tượng tích cực hay tiêu cực.
Sự gia tăng của mức tiêu thụ có gia tăng với sự phát triển đích thực của con người không? Ðây là những câu hỏi cơ bản mà bản báo cáo cuối cùng của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc đã nêu lên, để rồi cuối cùng đưa ra khẳng định như sau: "Sự tiêu thụ của cải và các dịch vụ là một sinh hoạt thường hằng trong đời sống mỗi ngày. Tuy nhiên, đó không phải là cứu cánh tối hậu của mỗi cá nhân. Hơn nữa, cho dẫu của cải và và các dịch vụ có thừa mứa và mức tiêu thụ có gia tăng theo một mức độ làm chóng mặt, trật tự xã hội vẫn không tốt đẹp hơn."
Theo bản báo cáo của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc, hiện nay một gia đình trung lưu tại Phi Châu tiêu thụ hai mươi phần trăm ít hơn cách đây hai mươi lăm năm. Hai mươi phần trăm dân số thế giới vẫn còn đứng bên lề sự gia tăng mức tiêu thụ của thế giới. Trong bốn tỉ bốn những người đang sống trong các quốc gia đang phát triển, gần ba phần năm vẫn chưa có được những hạ tầng cơ sở về vệ sinh. Một phần ba thiếu nước uống. Một phần tư không có được cái bếp ăn chốn ở cho đàng hoàng. Một phần năm không biết thế nào là các phương tiện chăm sóc sức khỏe hiện đại. Một phần năm trẻ em không được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học và một phần năm khác không có đủ chất đạm và một chế độ ăn uống đầy đủ. Trong số hai tỉ người thiếu máu trên khắp thế giới chỉ có năm mươi lăm triệu sống tại các nước tiên tiến. Chênh lệch giữa các nước giàu và các nước nghèo, chênh lệch ngay trong cùng một nước. Ðây là hiện tượng không thể chối cãi được trong nền văn minh tiêu thụ ngày nay. Khoảng cách giữa các nước giàu và những nước nghèo càng xa; khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong cùng một nước lại càng xa hơn. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy chắc chắn chỉ có thể là sự ích kỷ của con người mà thôi, càng có con người càng muốn có thêm và chỉ muốn chiếm giữ cho riêng mình. Sự giàu có về của cải vật chất do đó cũng đương nhiên làm cho con người được phong phú hơn. Ðây là chân lý mà Giáo Hội không ngừng nhắc nhở cho con cái mình.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về cùng đích của cuộc sống chúng ta là chính Chúa. Chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được khát vọng thâm sâu của con người. Ðám đông những người Do Thái được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau đã tìm đến Ngài. Chúa Giêsu biết rõ họ đi tìm Ngài không phải vì đã thấy được ý nghĩa của phép lạ hoặc lắng nghe lời giáo huấn của Ngài, mà chỉ vì của ăn nuôi thân xác. Ngài kêu gọi họ hãy tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu mà Ngài đã muốn thể hiện qua phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều. Quả thật, qua phép lạ ấy, Chúa Giêsu báo trước bánh trường sinh là Ngài. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho mọi người, ai tin nhận Ngài, đón nhận sự sống của Ngài, người đó sẽ được trường sinh, người đó sẽ tham dự vào chính sự sống của Ngài, nghĩa là cũng sẽ trở thành tấm bánh được bẻ ra để san sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ có một cuộc sống như thế mới thực sự đáng sống, vì nó mang lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống con người. Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã có thể nuôi nấng một đám đông trên năm ngàn người. Quả thật, Ngài chỉ cần nói một lời, múa cây đũa thần cũng đủ để nuôi sống cả nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã không đến như một phù thủy, Ngài cũng chẳng đến để mang lại bất cứ một giải pháp kinh tế nào, Ngài đến là để trở thành tấm bánh được bẻ ra và trao ban. Ai thực sự ăn tấm bánh ấy cũng có thể trở thành một tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho người khác. Nhân loại thiếu ăn không phải vì thiếu cơm bánh mà chỉ vì thiếu lòng quảng đại khi những bàn tay được mở ra để trao ban và san sẻ với người khác mà thôi. Cái đói khủng khiếp của nhân loại hẳn không là đói cơm bánh mà chính là đói tình thương và lòng quảng đại của con người.
Ước gì được nuôi sống bằng tấm bánh bẻ ra là Chúa Giêsu, các tín hữu cũng trở thành tấm bánh được bẻ ra cho người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cái nhìn thiển cận
Một gia đình ếch sống dưới một đáy giếng tăm tối, không thấy ánh sáng mặt trời cũng không biết những gì đang xẩy ra bên ngoài. Ngày nọ, có một con chim sơ ca bay xuống nói với dòng họ ếch về thế giới của mặt trời, của hoa cỏ, của tình yêu. Nghe thế, tộc trưởng ếch liền nới với đồng bào mình: “Các ngươi nghe chưa, thế giới của bạn sơn ca mô tả là một thứ thiên đàng không tưởng, nơi chỉ có những con ếch tốt, tức những con ếch chịu đau khổ dưới đáy giếng mới được lên tới mà thôi”. Tuy nghe những lời mỉa mai đó, một số ếch vẫn tin vào lời chim sơn ca. Một chú ếch sau khi nghiên cứu tình hình đã giải thích: “Thế giới mà bạn sơn ca loan báo không phải là thế giới khác đâu, đó chính là thế giới của chúng ta; thêm một chút ánh sáng, một chút gió mát, một chút thực phẩm, chúng ta có ngay thiên đàng dưới đáy giếng này”. Thế nhưng đa số đồng bào ếch đã thấy được sự phỉnh gạt của lời giải thích ấy, chúng vùng lên ra khỏi đáy giếng và thấy được thế giới có mặt trời, trăng sao, hoa cỏ, tình yêu.
Những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là đại biểu của vô số những người không muốn nhìn lên khỏi đáy giếng tăm tối của họ. Dù chứng kiến nhiều phép lạ của Chúa, nhất là đã được Ngài cho ăn no thoả, nhưng cái nhìn của họ không vượt lên khỏi bao tử của họ. Khi Chúa Giêsu cho họ ăn bánh no nê và mời gọi họ đến thứ bánh không hư nát, họ đã chối từ Ngài; đôi mắt họ chỉ dán chặt vào thứ cơm bánh chóng qua; họ chỉ hướng đến cái trước mắt.
Đức tin là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa cho con người. Đức tin ấy chính là ánh sáng chiếu dọi vào đáy giếng tăm tối mà con người đã rơi xuống. Đức tin ấy là sức mạnh lôi kéo con người khỏi cái tăm tối ấy. Đức tin ấy cũng chính là cái nhìn về chân trời đầy ánh sáng Thiên Chúa ban cho con người.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta đức tin ấy. Cảm tạ Chúa đã cứu độ vào lôi kéo chúng ta ra khỏi vùng tăm tối của tội lỗi. Xin cho chúng ta được mãi là con người mới với Đức Kitô Phục sinh, được cùng tiến bước với Ngài để luôn sống như Ngài, nhìn đời bằng chính đôi mắt của Ngài và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Hãy tin
Đức Giêsu bảo họ:
“Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
Ai tin vào tôi chẳng hề khát bao giờ!” (Ga. 6, 35)
“Hãy cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”.
“Hãy cho chúng tôi uống mãi thứ nước đó”.
Lúc đó không còn phải vất vả lao khổ nữa! Người Ga-li-lê cũng như người Sa-ma-ri chỉ biết có xin cho, xin cho để Chúa làm những phép lạ cho mình.
Thứ tôn giáo dễ dãi, mê tín dị đoan, ỷ nại, vị kỷ. Thứ tôn giáo làm suy thoái con người cầu đảo, ném tất cả mọi tham vọng của mình vào Thiên Chúa. Họ lợi dụng Thiên Chúa. Họ quên rằng Thiên Chúa đặt đường lối cho họ đến gặp Ngài, đường lối của Thiên Chúa không thể theo đường lối của chúng ta. Ngài luôn luôn đòi ta phải ăn năn sám hối trở về với Ngài để “ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Cũng không phải trên trời phải như dưới đất.
Người Do thái cũng không lầm khi tin Đức Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa?”. Và Đức Giêsu cũng chẳng lầm khi trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn là hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Làm là gì? làm ở đây là thực hiện đức tin, là việc nội tâm, là tự tạo mình để tỏ lòng tin, tự đón nhận tận đáy lòng thuận theo chương trình của Thiên Chúa. Thuận theo, vâng phục là một ơn phải cầu xin cho mình chỉ thực hiện trong chân lý, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta chân thật trước tôn nhan Chúa, phải vượt qua những ước muốn hời hợt phàm trần bên ngoài như lối cầu xin “xin cho chúng tôi được bánh đó mãi mãi”. Để tiến tới lối cầu xin những điều cần thiết sâu thẳm: xin ánh sáng chân lý chiếu soi, xin được can đảm hy sinh, xin được tận tâm hiến thân. Tận đáy nền của việc cầu nguyện là gắn bó, cam kết, hiệp nhất.
Như thế toàn diện đời sống chúng ta mới có thể đến với Đức Kitô, sống với Người làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa.
Cầu nguyện không phải là trốn trách nhiệm, nhưng xin Chúa giúp mình làm tròn trách nhiệm. Cầu xin hòa bình không phải xin phép lạ, chính là xin để mọi người sáng suốt, can đảm và khả năng xây dựng hòa bình.
Man-na là bằng chứng Thiên Chúa ở với Mô-sê. Bánh hóa nhiều có nghĩa là chính Đức Giêsu là bánh từ Chúa Cha ban cho thế gian được sống vô cùng hơn của ăn vật chất, vì nhờ đức tin vào Người, chúng ta được tham dự vào chương trình Thiên Chúa. Thay vì rước Thánh Thể như một bánh ảo thuật, tín hữu phải nhìn thấy Đức Giêsu đến ban tặng tình yêu cho ta được làm bạn với Người để giải khát cơn đói chân lý, đói sự sống của ta, cho ta được hiệp thông với Thiên Chúa.
SUY NIỆM 4: CẦN LỰA CHỌN CÁCH KHÔN NGOAN (Ga 6,30-35)
Trong nền văn chương Việt Nam, nếu đã từng đi học, hẳn không một ai mà không biết truyện “thằng Bờm”.
Truyện kể rằng: thằng Bờm có cái quạt mo. Khi được một người phú hộ đề nghị đổi trâu, bò, bè gỗ lim, ao thả cá mè, đôi chim đồi mồi, để ông lấy cái quạt mo của thằng Bờm, nhưng Bờm ta vẫn không chịu. Thế nhưng khi người phú hộ đề nghị đổi bằng một nắm xôi, thì Bờm ta lại đồng ý!
Khi thằng Bờm đã đồng ý đổi nắm xôi, phải chăng cho thấy một lối nhận thức hạn hẹp trong sự thực dụng của Bờm. Bờm ta chỉ đủ khả năng để biết no hay đói mà thôi, chứ không hề có những suy tính xa và sâu hơn!
Dân chúng thời Đức Giêsu cũng vậy, họ có cái nhìn và lối sống cũng như lựa chọn không khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên! Vì thế, mới nghe Đức Giêsu nói về một thứ bánh mà khi ăn vào không hề phải đói, thế là họ nhao nhao lên xin Đức Giêsu cách khẩn thiết: “Xin Thầy cho chúng tôi thứ bánh đó luôn mãi”.
Qua lời van xin của họ, chúng ta thấy rõ cái bụng của họ đã lớn hơn cả lý trí, nên nó cũng chi phối luôn cả lựa chọn. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trách họ:“Các người tìm Ta không phải vì các người đã thấy dấu lạ, nhưng vì các người đã được ăn bánh no nê”.
Tiếp theo dòng chảy đó, Đức Giêsu đã mạc khải để giúp họ trực tiếp đi vào thẳng nội dung, trọng tâm của vấn đề, đó là: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ".
Trong đời sống đạo của chúng ta hôm nay, nhiều khi tin Chúa vì có lợi chứ không phải lòng mến. Chúng ta vẫn cầu nguyện, vẫn đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng tin và đón nhận thánh ý Chúa, nhất là khi thử thách, đau khổ và thất bại trong cuộc đời thì lại là chuyện rất khó chấp nhận! Những lúc như thế, phải chăng chúng ta cũng thực dụng không kém những người Dothái và đôi khi chẳng khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng tin vững mạnh, để trong cuộc sống, chúng con biết tìm Nước Trời trước hết, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ ban cho sau. Xin cho chúng con biết đặt ra cho mình những bậc thang giá trị dưới con mắt đức tin, để chúng con không như những người Dothái khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Bánh ban sự sống cho thế giới
Suy niệm :
Man-hu? Cái gì vậy? Đó là câu con cái Israel hỏi nhau
khi thấy manna lần đầu tiên rơi trên mặt đất.
Môsê trả lời: “Đó là bánh Đức Chúa đã ban cho các ngươi làm của ăn.”
Bốn mươi năm Đức Chúa đã nuôi dân của Ngài bằng thức ăn ấy,
trong suốt cuộc hành trình trong sa mạc cho tới khi họ đến đất Canaan.
Đức Chúa vẫn là Đấng quan tâm đến sinh mệnh của dân.
Qua Môsê, Ngài cho họ manna là bánh từ trời xuống.
Có vẻ những người ở Caphácnaum muốn thách đố Đức Giêsu
làm một dấu lạ lớn lao tương tự như dấu lạ Môsê đã làm (cc. 30-31),
nếu Ngài thật là một vị ngôn sứ như Môsê đã loan báo (Đnl 18, 15).
Hãy ban cho chúng tôi thứ bánh bởi trời như manna ngày xưa.
Đức Giêsu khẳng định không phải Môsê đã cho họ ăn bánh bởi trời.
Chính Chúa Cha đã ban cho dân Israel bánh bởi trời, trong sa mạc.
Và nay Chúa Cha còn muốn ban một thứ bánh mới.
Đức Giêsu long trọng giới thiệu bánh mới này :
“Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực” (c. 32).
Bánh này là bánh từ trời xuống và ban sự sống cho thế giới (c. 33).
Như thế bánh mới này cũng là bánh từ trời,
nhưng không chỉ dành cho dân Israel như manna cũ.
Đây là thứ bánh đích thật dành cho cả thế giới loài người.
“Lạy Ngài, xin cho chúng tôi thứ bánh ấy luôn” (c. 34).
Đây là một sự hiểu lầm của dân chúng đang nghe Đức Giêsu.
Nó tương tự như sự hiểu lầm của người phụ nữ Samari
khi chị xin Đức Giêsu: “Xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát” (Ga 4, 15).
Thứ bánh mới Đức Giêsu giới thiệu
không phải là tấm bánh vật chất, ăn được để tránh cái đói tạm thời,
nhưng là tấm bánh thỏa mãn sự đói khát sâu thẳm nơi trái tim.
“Chính tôi là bánh trường sinh,
Ai đến với tôi sẽ không đói, ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ” (c.35).
Đến với và tin vào Đức Giêsu ta sẽ tìm được thức ăn tinh thần.
Lời dạy dỗ của Ngài là bánh từ trời đích thực, vượt hẳn manna xưa.
“Người ta sống không nguyên bởi bánh,
nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8, 3).
Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa,
nên lời của Ngài sẽ là bánh đem lại sự sống cho bất cứ ai tin.
Tạ ơn Cha đã nuôi chúng ta bằng Tấm Bánh Giêsu, Bánh từ trời xuống.
Chúng ta không phải đi lượm manna mỗi ngày như dân Israel xưa.
Nhưng mỗi ngày chúng ta phải lắng nghe Lời Giêsu để được no đủ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
06/05 Tin vào Đấng Thiên Sai
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin vào Đấng Thiên Sai.
Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh.
"Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Lời Chúa: Ga 6, 22-29
Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.
Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hoán cải nội tâm
Ở thời đại nào, đám đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động thiếu suy nghĩ và bị lôi cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các thượng tế và tổng trấn Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án. Cái đám đông đã từng tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi kịch ấy dường như được thánh Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Ðám đông được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã đọc được động lực thúc đẩy họ tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải vì Ngài là đối tượng của khát vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho ăn no nê; họ đi tìm kiếm không phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì những giá trị cao quí của cuộc sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt, nhất thời và chóng qua là cơm bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không hành động theo những xác tín thâm sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ sống theo cảm tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính là nguy cơ mà người tín hữu Kitô có thể rơi vào.
Dĩ nhiên, nói đến đạo là nói đến đám đông. Chúng ta lãnh nhận đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta sống và thể hiện đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta cần có một đám đông nào đó để nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến việc thể hiện đức tin của chúng ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc. Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông thôi thúc để tuân giữ hơn là được thực thi vì xác tín và lòng mến.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh mà chúng ta đón nhận mỗi ngày trong Thánh Thể và gặp gỡ thường xuyên qua tha nhân trở thành đối tượng của sự khao khát và tìm kiếm không ngơi nghỉ của chúng ta, để trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tại sao theo Đức Giêsu
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp:
“Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông đi tìm tôi
không phải vì các ông đã thấy dấu lạ,
nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.
Các ông hãy ra công làm việc
Không phải vì của ăn hay hư nát,
Nhưng để có lương thực trường tồn
Đem lại phúc trường sinh,
Là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông
Bởi vì chính Con Người là Đấng
Chính Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga. 6, 24-27)
Bài giảng về bánh hằng sống trong hội đường Ca-phác-na-um sau ngày phép lạ bánh hóa nhiều có lẽ là một tổng hợp các bài giảng ở nhiều nơi. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các môn đệ và Đức Giêsu ở Ca-phác-na-um vì họ không thấy Người xuống thuyền đi sang Ca-phác-na-um với các môn đệ, mà bây giờ lại thấy Người ở đây. Còn “Đức Giêsu khi thấy họ sắp bắt mình đem đi tôn làm vua, thì Người lánh mặt, đi lên núi một mình”, mãi tới đêm, biển động vì gió thổi mạnh, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển hồ đến gần thuyền … Ngay lúc đó thuyền đã tới bờ của miền Ca-phác-na-um.
Như thói quen, thánh Gio-an sắp nối kết sự kiện phép lạ cụ thể này với ý nghĩa thần học: Họ tìm … họ ngạc nhiên vì không biết Người đến đây bằng cách nào? Người đã đến đây bằng cách lạ lùng là đi trên mặt biển giữa đêm khuya gió to sóng lớn. Cũng thế, Đức Giêsu đã đến với họ không phải từ làng Na-gia-rét, như người ta biết, nhưng là từ trời mà người ta không biết, cũng như Người từ bờ hồ phía đông nơi bánh hóa nhiều, đi qua biển tới bờ hồ phía tây nơi miền Ca-phác-na-um.
Họ cố gắng tìm Đức Giêsu là điều đáng ca ngợi, còn đáng ca ngợi hơn nữa khi họ tìm Người trong đức tin, và liên kết với Người không vì của nuôi xác nhưng vì của ăn đời đời. Tuy nhiên, dân chúng vẫn tiếp tục đòi của vật chất, họ chú trọng đến man-na nuôi sống cha ông họ hằng ngày trong sa-mạc và so sánh với phép lạ hóa bánh ra nhiều để cầu mong Đức Giêsu cho họ được ăn như vậy. Còn Đức Giêsu, Người nhấn mạnh đến sự đói khát tinh thần, đến của ăn hằng sống cho linh hồn. Đó mới chính là sứ mệnh quan trọng của Người. Người đã hết sức nhẫn nại như đã nhẫn nại giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, cho bà ở Sa-ma-ri về nước trường sinh. Lúc này, Người cũng kiên nhẫn giải thích về bánh man-na dựa vào thánh vịnh 78, 24 để dẫn họ tới bánh ban sự sống đời đời. Bài diễn thuyết này có thể hiểu như một giảng đạo có ba phần: Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa (câu 32-40), bánh bởi trời: Đức Giêsu đến từ trời (câu 41-50), để làm của ăn: như bánh ăn (câu 52-58).
L.P
SUY NIỆM 3: Sự lao công đích thực
Người Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Một gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét run vì lạnh. Một đêm nọ nhìn từ xa thấy một con đom đóm đang bay lượn, chúng tưởng là một cục than hồng. Thế là nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận để củi và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để thổi với hy vọng lửa bốc cháy. Một con chim bay qua tình cờ thấy cảnh tượng bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là một con đom đóm”. Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi. Một lần nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi hơi vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết cóng vì lạnh bên cạnh con đom đóm.
Khao khát hạnh phúc đích thực, nhưng lại chạy theo ảo ảnh; muốn sống sung mãn, nhưng lại chạy theo những phù phiếm chóng qua, có thể đó là bài học mà câu chuyện ngụ ngôn trên đây muốn ngỏ với chúng ta.
Tin mừng hôm nay dường như cũng muốn nhắc nhở chúng ta về sự lạc hướng ấy. Đám đông tụ tập bên Chúa Giêsu để được ăn uống thoả thích là hình ảnh của một nhân loại đang lạc hướng. Đám đông những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là những người đã từng chứng kiến phép lạ của Chúa Giêsu, thế nhưng họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì đã tin nhận Ngài hoặc để lắng nghe giáo huấn của Ngài, mà chỉ mong được Ngài cho ăn uống no thoả.
Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.
Mùa Phục Sinh, Giáo Hội luôn mời gọi chúng ta ý thức về sự sống thần linh đang châu lưu trong tâm hồn người tín hữu. Sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của người tín hữu trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao; bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình anh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không cha đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh hướng dẫn và cũng cố chúng ta trong niềm tin ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: TIN CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ? (Ga 6, 22-29)
Danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, nhất là sau cuộc hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Tuy nhiên, vì tình thương, nên Ngài đã làm phép lạ này chứ không phải vì muốn nổi danh! Nhưng đối với người Dothái, họ có lối suy nghĩ khác! Thay vì họ tạ ơn Chúa vì lòng thương xót của Ngài, thì ngược lại, họ chỉ nghĩ đến cái bụng và khao khát được thỏa cơm đói. Vì thế, dân chúng nghĩ rằng: có Đức Giêsu hiện diện ở giữa họ thì có lẽ sẽ không phải đói khát và có khi chẳng cần làm lụng vất vả cũng có ăn! Thế nên, họ tìm cách để tôn vinh Ngài lên làm vua. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lánh đi để sang bờ bên kia trước họ.
Vì biết được lộ trình của Đức Giêsu, nên họ đã tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu. Khi gặp Ngài, họ cất tiếng hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?", Đức Giêsu thừa biết mục đích của họ, vì thế Ngài nói ngay: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26 ). Khi nói như thế, Đức Giêsu mời gọi họ hướng tới một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn, đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh (x. Ga 6, 27 ).
Ngày nay, trong đời sống đạo, nhiều người vẫn còn thói quen tin Chúa như những người Dothái. Tức là tin Chúa khi vui, lúc thành công, nhất là tin khi được lợi. Vì thế, chúng ta vẫn thấy có chuyện như: thích thì đi lễ, đi chầu, đọc kinh... không thích thì thôi!
Trong tâm tình cầu nguyện, mấy ai nghĩ đến chuyện chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì những điều kỳ diệu cũng như ơn lành Ngài đã làm cho! Hoặc liệu có ai xin Chúa cho được đạo đức, thánh thiện, sám hối, khiêm nhường, nhất là yêu mến Lời Chúa ... Nhưng mỗi khi đến nhà thờ là lâm râm xin cho được cái này, được cái kia, nhất là xin cho được ăn ra làm nên... Mỗi khi như thế, chúng ta cũng không hơn gì người Dothái muốn tôn Chúa làm vua và đi tìm Ngài chỉ vì cái bụng chứ không phải vì lòng mến!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết hướng về Chúa như là nguồn cội của hạnh phúc, và xin ban cho chúng con làm mọi cách vì hạnh phúc mai hậu trong Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Lương thực thường tồn
Suy niệm:
Xóa đói giảm nghèo, giảm số trẻ em suy dinh dưỡng,
nâng chiều cao của giới trẻ Việt Nam lên bằng các nước trong vùng,
đó là mối quan tâm của những người mang trách nhiệm,
vì sức khỏe thân xác cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người.
Làm sao để con người lớn lên cân đối về mọi mặt,
đó là mục tiêu tối hậu của mọi công tác giáo dục.
Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông.
Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác họ.
Nhưng Ngài cũng biết rằng không thể làm phép lạ như thế mãi.
Hơn nữa, phép lạ này chỉ giúp họ khỏi đói trong vài giờ,
và đây là cái đói của thân xác.
Phép lạ này dù lớn, nhưng chỉ nuôi được một đám đông vài ngàn người,
vẫn còn bao người trên thế giới cần được nuôi ăn.
Đức Giêsu mong nuôi được nhiều người hơn, nuôi được mọi người.
Không phải chỉ nuôi về thân xác, mà nhất là về tinh thần.
Không phải chỉ nuôi bằng thức ăn trần thế là bánh và cá,
mà nuôi bằng giáo huấn của mình, bằng chính con người mình.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua,
chắc họ đã nghĩ đến sự bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại.
Lúc nào cũng có bánh ăn no nê,
đó là ước mơ của nhiều người nghèo thời ấy.
Nhưng Đức Giêsu đã từ chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập.
Ngài không phải là một Mêsia làm chính trị.
Bánh và cá mà Ngài giúp họ tạm thời vượt qua cơn đói
chỉ là thứ lương thực mau hư nát dành cho xác thân (c. 27).
Lương thực đó là dấu chỉ cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban.
Đó là lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27).
Hẳn nhiên, lương thực sau này quan trọng hơn nhiều.
Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh,
nhưng còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa.
Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ.
Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến (c.29).
Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài,
vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, noi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
noi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
05/05 Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần 3
- Viết bởi Ga 21, 1-19
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần 3.
Chúa Nhật 3 PHỤC SINH năm C.
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Lời Chúa: Ga 21, 1-19
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.
Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".]
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH - Năm C 2019
Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19
1. Với Chúa
“Suốt đêm hôm ấy, các ông chẳng bắt được một con cá nào”.
Đọc xong đoạn Tin mừng hôm nay, tôi nhớ tới lời Thánh vịnh:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Thực vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
- Không có Thày, các con chẳmg làm được gì.
Tự tin vào sức lực, vào tài năng của mình là điều tốt vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Muốn vượt thắng những khó khăn, thì chúng ta đã làm được một nửa công việc. Ai nghĩ rằng mình thất bại, thì chắc chắn người đó sẽ thất bại.
Thế nhưng, tài năng và sức lực của chúng ta mới chỉ là một góp phần nhỏ bé vào những thành công mà thôi, bởi vì lắm lúc chúng ta đã cố gắng rất nhiều mà kết quả lại chẳng được bao nhiêu, vì ngoài sức lực và tài năng của chúng ta, còn một Đấng có quyền ấn định sự thành công hay thất bại của chúng ta. Và Đấng ấy chính là Thiên Chúa..
Thực vậy, ngay từ đầu, con người đã nuôi một tham vọng phản bội cùng Thiên Chúa, vì thế họ đã góp sức xây một ngọn tháp chọc trời, lấy tên là ngọn tháp Babel. Nhưng rồi công việc ấy đã bị đình trệ dang dở và không bao giờ ngọn tháp chọc trời ngạo nghễ ấy trở thành sự thật, bởi vì Thiên Chúa đã khiến cho ngôn ngữ của họ trở nên bất đồng, để rồi mỗi người phân tán đi tới một chân trời góc biển khác nhau mà sinh sống. Không có Chúa, con người không thể làm gì được.
Hay như một đội quân Ai cập hùng mạnh, dưới sự điều động của vua Pharaon, đã vội vã lên đướng và hăng say đuổi theo đoàn người Do thái đang trong cuộc xuất hành, trở về miền đất hứa. Nhưng rồi tất cả chiến mã cùng với kỵ binh của họ đều bị vùi dập dưới lòng Biển Đỏ.
Chống đối Chúa, thù địch với Chúa chẳng khác gì giơ chân đạp mũi nhọn. Nếu có thành công, thì thành công ấy chỉ hời hợt thoáng qua, để rồi chắc chắn sẽ phải thất bại đắng cay ê chề. Vì nào ai có uy quyền và hùng dũng cho bằng Thiên Chúa.
Các môn đệ ngày hôm nay cũng đã trải qua kinh nghiệm cụ thể ấy. Các ông đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Không có Chúa thì sức lực và cố gắng của chúng ta nhiều lúc đã trở nên vô ích và uổng công, gống như tục ngữ đã bảo:
- Dạ tràng xe cát bể Đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Thực vậy, ngày thi sắp đến, chúng ta thức khuya dậy sớm, vất vả ôn lại bài vở…Thế rồi khi bước vào phòng thi, chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ khiến mắt chúng ta hoa lên, đầu chúng ta nhức như búa bổ và chúng ta phải bỏ dở cuộc thi.
Chúng ta ra sức cầy sâu cuốc bẫm, nhưng Chúa không cho mưa thuận gió hòa, trới cứ nắng mãi, nắng hoài…thì chắc mùa màng cũng sẽ thất bát, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chinh Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái
Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Thế nhưng, có Chúa là có tất cả, có Chúa chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái những thành công tốt đẹp.
Cựu ước có kể lại:
Bà Giuđích, vốn chỉ là phận liễu yếu đào tơ, thế nhưng, với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, bà đã chiến thắng được mọi khó khăn, cuối cùng đã chặt được đầu tướng Holopherne và đem lại vinh quang cho dân tộc mình.
Một hình ảnh khác cũng thật dễ thương và dễ nhớ, đó là hình ảnh của Maisen. Hễ bao giờ ông giang tay cầu nguyện, thì đội quân Do thái liền chiến thắng. Thế nhưng, hễ bao giờ ông bỏ tay xuống, thì lập tức dân Do thái liền bị quân thù trấn áp.
Tin tưởng và kết hiệp với Chúa chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta nhưng thành công như thế.
Các môn đệ này hôm nay cũng vậy. Từ khi các ông thả lưới theo lệnh truyền của Chúa, thì lập tức các ông bắt được nhiều cá, một mẻ cá thật lạ lùng mà có lẽ từ trước cho đến bây giờ, các ông chưa bao giờ được thấy.
Có Chúa đi bên cạnh và tin tưởng vào Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ, vì như lời Chúa đã phán:
- Nếu các con có được đức tin bằng hạt cải mà thôi, các con có thể làm được những việc phi thường như chuyển núi dời sông.
Sở dĩ như vậy, vì chỉ mình Chúa mới đủ quyền năng biến không thành có, chuyển thất bại hóa nên thành công, không có gì mà Chúa chẳng làm được.
Và sau cùng, tin tưởng vào Chúa, bước đi với Chúa và sống dưới cái nhìn trìu mến của Chúa, chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ được hạnh phúc và yên vui bởi vì chúng ta không còn phải băn khoăn và lo lắng, không còn phải run sợ và khiếp hãi trước những gian nan và thử thách, trước những khổ đau và cay đắng chồng chất trên đôi vai chúng ta.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
2. Thầy đấy - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong tác phẩm Quo vadis được giải Nobel văn chương 1905, Đại Văn Hào Sienkievich tả những cảnh cực hình rùng rợn mà hai thánh tông đồ Phêrô, Phaolô và các tín hữu chịu dưới thời Hoàng Đế Nêrông, biệt danh: Râu đỏ. Các tín hữu phải sống ẩn danh. Họ chỉ nhận biết nhau qua tín hiệu về hình con cá.
Một hôm, chàng quý tộc Markus là cận vệ đặc biệt của Nêrông, là tướng hùng bách chiến bách thắng, gặp công chúa Ligia nước Ba Lan bị bắt làm con tin. Chàng cảm động nói những lời tán tụng mến phục làm Ligia bối rối cúi đầu vẽ trên cát hình con cá, rồi bỏ chạy. Hình con cá thổ lộ gì với Markus. Đầu óc chàng suy nghĩ đến quay cuồng mà chẳng hiểu gì? Chàng đành hỏi ông cậu Pêtrônius nổi tiếng khôn ngoan nhất trong các cố vấn của Nêrông cũng không biết gì hơn.
Nhưng đối với các tín hữu thời đó hình con cá là một tín hiệu tin mừng vô hạn giữa những đau khổ để họ nhận ra nhau là những người tuyên xưng Đức Kitô Phục sinh. Người đã dùng hình ảnh con cá để ám chỉ về Người.
Lần thứ nhất, Người làm phép lạ từ hai con cá và năm chiếc bánh cho cả chục ngàn ngưới ăn, nếu kể cả đàn bà con trẻ, rồi Người tuyên báo về Bánh Hằng sống đời đời (Mt. 14,13.) Lần thứ hai, từ vài con cá và bảy tấm bánh cho hơn bốn ngìn người ăn, không kể phụ nữ và trẻ em. Từ phép lạ này Người nói về điềm lạ trọng đại như Giona ở trong bụng cá ba ngày thế nào thì Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày rồi sống lại (Mt. 15, 36-16,4). Lần ba, Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm mà không được con cá nào, nhưng khi vâng lời Thầy ông thả lưới, đã bắt được hai thuyền cá đầy (Lc. 5,2..). Lần bốn, nhân dịp họ đòi Phêrô và Thầy phải nộp thuế Thầy bảo Phêrô câu cá để lấy tiền nộp thuế. Như thế, Người muốn đồng hóa con cá với mình và Phêrô (Mt. 17, 27).
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật hai việc: Việc thứ nhất, Đức Giêsu hiện ra an ủi các ông đang buồn sầu, không còn được sống với Thầy, các ông đã trở về làm nghề đánh cá mà chẳng được gì, và Người cho họ được mẻ cá đầy. Việc thứ hai, Người hỏi Phêrô: “Anh có yêu mền Thầy không”. Sau đó, Người mới trao đoàn chiên cho Phêrô coi sóc.
1- Hoàn cảnh các môn đệ như những kẻ mồ côi, buồn sầu khổ cực. Thầy đã chịu chết, đã sống lại, nhưng không sống bên các ông như trước nữa. Người chỉ thỉnh thoảng hiện ra an ủi, chúc lành và dậy dỗ các ông những điều cần thiết. Các ông còn bị đói khổ vì phải về quê tiếp tục nghề đánh cá vất vả, cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì. Cuộc sống thật bấp bênh. Trước thảm cảnh đó, Chúa đã hiện ra giữa buổi bình minh trên bờ biển lúc các ông đánh cá về. Như một người mua cá, Người hỏi: “Này các chú, không được gì ăn ư?” các ông kêu lên với giọng cụt ngủn, chán nản: “Không!” Một câu nói khác như dậy dỗ chọc tức các ông: “Hãy thả lưới bên phải thuyền. Các anh sẽ bắt được cá”. Nghe thế, các anh dân chài không bực bội, nhưng như có sức mầu nhiệm giúp các anh vui vẻ làm theo. Thật bất ngờ, lưới đầy cá không kéo nổi. Họ ngạc nhiên tự hỏi: Ai nói đấy? Một trực giác nhạy cảm giữa hai người yêu nhau: Môn đệ Chúa yêu nhận ra ngay và bảo Phêrô: “Thầy đấy”. Như cá gặp nước, Phêrô nhảy xuống biển chạy lên gặp Thầy. Có Thầy, sẽ thoát khỏi mọi nổi cô đơn, sợ sệt, buồn sầu, lo lắng, mệt nhọc. Có Thầy có tất cả: Có cá, có bánh, có lửa sưởi ấm, có bạn đồng tâm nhất trí, có Thánh Thần tràn đầy hoan lạc, đầy sức sống yêu thương mãnh liệt.
2- Hoàn cảnh các tín hữu thời các thánh tông đồ phải chịu đầy đau khổ, buồn sầu, lo lắng. Bao nhiêu cực hình hiện ra trước mắt: Tù tội, đánh đập, khổ giá, đóng đinh từ trẻ con, thanh niên, phụ nữ tới ông già bà cả. Họ vẽ hình con cá để nhắc nhở nhau nhớ đến Đức Kitô Phục sinh. Người sẽ an ủi, ban bình an cứu giúp họ, ban Thánh Thần soi sáng cho họ giữ vững đức tin, hun đúc họ mến Chúa nồng nàn, đem lại sức mạnh mãnh liệt cho họ chiến thắng sự chết. Họ sẽ được sống vinh quang với Đức Kitô. Họ sẽ được như Gioan “mải nhìn và nghe vang lên tiếng muôn vàn Thiên thần, đông tới ức ức triệu triệu, đứng chung quanh Ngài… và lớn tiếng hoan hô: Con Chiên đã bị giết, rất xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng” (Bài II). Như vậy, Đức Giêsu đã yêu thương Phêrô, các môn đệ và các tín hữu thời đó đến cùng. Người rất tế nhị, không hỏi tội Phêrô chối Thầy ba lần, không hỏi các ông bỏ Thầy chạy trốn và cứng lòng tin khi Thầy sống lại. Người chỉ hỏi như hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Người hỏi ba lần để nhấn mạnh Người chỉ cần họ yêu mến, vì chỉ có lòng yêu mến mới có sức mạnh đáp lại lòng thương yêu vô cùng của Thiên Chúa. Chỉ có lòng yêu mến mới được tha nhiều “được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Chỉ có lòng yêu mến như “Thầy yêu các con” mới nên một với Thầy trong chăn dắt đoàn chiên và thí mạng sống vì đoàn chiên. Chỉ có lòng yêu mến mới dám thí mạng sống vì Thầy, và như Thầy bước lên thập giá để tế lễ Đức Chúa Cha và cứu độ người ta. Không lạ gì, Thánh Phaolô đã quả quyết: “Dù tôi nói được hết các thứ tiếng của nhân loại và các Thiên thần… được lòng tin chuyển núi rời non… và nộp mình chịu thiêu, mà không có đức mến thì cũng như không, vô ích cho tôi… lòng mến lớn hơn cả đức tin, đức cậy… vì đức mến tồn tại đời đời” (1Cr. 13, 1-3. 8. 13)
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại để có thể hiện đến khắp nơi, cứu chữa hết mọi người, ban bình an, ơn tha tội và ban Thánh Thần đầy hoan lạc. Xin cho chúng con luôn luôn cảm tạ lòng thương yêu vô cùng của Chúa để hết lòng tin mến Chúa và hy sinh phục vụ anh em.
3. Dù có chối nhưng hãy yêu Phêrô!
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người, gần trong mọi cảnh sống của con người. Và rồi, trong những khoảnh khắc sống đó, các môn đệ bất chợt nhìn ra Thầy của mình.
Trang Tin Mừng vừa nghe, ta thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa. Ta dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.
Thật ra, cả đêm các môn đệ quá vất vả để đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria nhưng kết quả là không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn: “Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Nói cách khác, có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?
Suốt cả đêm vật vả nhưng không có gì. Quả là quá chuyên nghiệp nhưng không có con nào cũng là điều dễ hiểu với tâm trạng đầy thất vọng. Cái biển mà các ông thả cá đêm qua dường như các ông quen đến độ từng con sóng. Đến sáng, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.
Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).
Ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong trang Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các môn đệ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)
Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.
Noi gương các tông đồ, ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống , nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?".
Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn".
Và rồi ta thấy nét đẹp là Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.
4. Mục tử
Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1971, viên quản trại đã phân phát cho những tù binh Mỹ đang bị giam giữ tại Hoả Lò, một nhà tù ở Hà Nội, vài ba cuốn Kinh Thánh. Tuy nhiên ông bảo họ phải gom trả vào đêm Noel. Thế là những người lính Mỹ quyết định phải tận dụng khoảng thời gian vắn vỏi ấy. Họ lấy cộng dây thép làm bút. Lấy nước hoà vào bụi gạch làm mực và viết một vài đoạn chính yếu lên những mẩu giấy vụn. Trong số các đoạn Kinh Thánh được chép lại, có dụ ngôn về con chiên lạc. Các tù binh đã sánh ví mình là con chiên lạc ấy. Và họ cũng ghi thêm mấy câu của thánh vịnh 23: Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì.
Chủ đề về người mục tử cũng là một chủ đề rất quen thuộc trong Kinh Thánh, bởi vì một số người Do Thái vốn sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Và họ đã sánh ví Thiên Chúa với người mục tử. Thực vậy, qua Tin Mừng Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết Ta. Ta hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc về đoàn này. Cả những chiên ấy, Ta cũng sẽ dẫn dắt và chỉ còn một đoàn chiên và một chủ chiên.
Từ đó chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay để nghe Người uỷ thác cho Phêrô tiếp nối sứ mạng mục tử chăn dắt đoàn chiên của Người. Quả là giây phút trọng đại khi Chúa phán với Phêrô: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy.
Tiếp nối vào đó, khi Giáo Hội đã được phát triển, thì tước vị mục tử cũng được mở rộng. Thực vậy, thánh Phêrô thường gọi các Giám mục, những người lãnh đạo Giáo Hội tại từng địa phương là các mục tử, ngài muốn chia sẻ cho họ phần nào vai trò nặng nề của mình và đã nhắn nhủ họ: Các con hãy sống xứng đáng là những mục tử của đoàn chiên Chúa đã trao phó. Hãy nhiệt tình phụng sự đoàn chiên.
Cũng trong tinh thần chia sẻ ấy, chúng ta gọi các linh mục là các mục tử, bởi vì các ngài là những người được tham dự vào quyền bính của thánh Phêrô, của các tông đồ và của các Giám mục, lãnh nhận sự uỷ thác của Đức Kitô.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy, danh hiệu mục tử trước hết được dành cho Đức Kitô. Sau đó, Đức Kitô đã chia sẻ cho Phêrô và các tông đồ. Rồi đến lượt thánh Phêrô và các tông đồ lại chia sẻ cho các Giám mục và linh mục. Chính vì thế trong giây phút này, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa chúc phúc lành cho các vị lãnh đạo Giáo Hội. xin giúp chúng con nhìn thấy các vị ấy thực sự là những dấu chỉ sống động của Chúa đang hiện diện giữa chúng con, cho dù các vị ấy có phạm phải những sai lầm. Và nhất là xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với các ngài, để qua các ngài, Nước Chúa được mở rộng ở khắp nơi trên thế giới.
5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển" (Ga 21,7)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.
Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy: chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.
Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.
- Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.
- Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Cv 5,27b-32.40b-41)
Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh:
- Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt.
- Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
- Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.
2. Tin Mừng (Ga 21,1-9)
Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria:
- Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
- Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
- Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
- Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
3. Bài đọc II (Kh 5,11-14)
Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên:
- Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.
- Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Sức khám phá của tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? thích chở nhau đi chơi? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng: "Ubi amatur, non laboratur": khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
2. Thủ lãnh giáo hội (Ga 21,1-19)
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: "Quo vadis?" nghĩa là "Người đi đâu đó?" Người ấy trả lời: "Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa". Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa" (Ga 21,18-19).
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm "Đá tảng", thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: "Tôi đi đánh cá đây". Các môn đệ khác cũng đồng tình: "Chúng tôi cùng đi với anh". Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: "Chúa đó!" Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?". Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn" (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga 21,17).
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy Đã Yêu".
****
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.
Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.
Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng: Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (Thiên Phúc)
3. Tình yêu và lý luận
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh: Tôma đã tuyên bố "nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú "Gioan là người môn đệ Chúa yêu". Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay: "Phải mày là thằng Chơn đó không?" Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời "Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà". Nhưng bà mẹ nói "thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà". Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!
4. Sự hiện diện của Đấng phục sinh
Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài:
- Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.
- Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
- Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
- Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.
5. Đừng xóa sổ người ta
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị "xóa sổ". Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: "Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?" Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: "Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)
6. Ơn gọi thứ hai
Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.
Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên: "Tới đây, tới đây". Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh "Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi".
Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói: "Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng". Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.
Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.
Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng "Vâng" thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng "vâng" lần thứ nhất.
Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.
Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương: yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)
7. Chịu khổ vì Chúa
Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.
Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.
Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.
Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.
Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin:
1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.
4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha: Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta. Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.
6. Mẻ lưới.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.
Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.
Theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng ngay cả đối với các môn đệ. Bài đọc I, trích sách Tông đồ Công vụ đã nêu lên những khó khăn của việc rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ đã bị cấm không được rao giảng danh Chúa Giêsu. Lệnh cấm ấy lại xuất phát từ thẩy cả thượng tế. Trong chính cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng gặp phải những khó khăn từ phía những người lãnh đạo Do Thái giáo. Và cuối cùng Ngài đã phải chết vì tay họ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận thực hành. Kết luận ấy như thế này. Công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà còn là một bổn phận chung của mọi người tín hữu. Chu toàn được bổn phận ấy không phải là một việc dễ dàng, trái lại ở mọi nơi và trong mọi lúc, người tông đồ đều có thể gặp phải những khó khăn, những phản kháng.
Trong những hoàn cảnh như thế, nếu chỉ cậy dựa vào sức lực và tài năng riêng của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nản chí và chắc chắn sẽ đi tới chỗ thất bại. Trái lại nếu biết cậy dựa vào tình thương và ơn sủng của Chúa, chúng ta sẽ luôn có được một lòng hăng hay và nhiệt thành để rồi sẽ đi tới thành công, bởi vì đối với Chúa, không có điều gì mà Ngài không thể làm được.
Noi gương các môn đệ, chúng ta hãy vâng theo lời Chúa, ra khơi và thả lưới, để nhờ đó chúng ta sẽ đem về cho Chúa những tâm hồn sám hối.
7. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
SỐNG BẰNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Trong cuộc sống, người Kitô hữu phải đối mặt với một vấn đề thực tế hết sức cam go. Đó là vấn đề sống đức tin. Thật vậy, chúng ta được nghe dạy Thiên Chúa quan phòng, nhìn thấu suốt và an bài mọi sự. Nhưng thực tế cho thấy, nhiều lúc gặp túng quẫn, chúng ta kêu cầu Chúa nhưng không thấy sự việc thay đổi. Vậy phải chăng Thiên Chúa quan phòng còn xa vời, chỉ là ý niệm?
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy gương sống đức tin, tin tưởng và phó thác vào tay Chúa quan phòng.
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do Thái không cho, bắt các ngài bỏ tù lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, sỉ vào mặt các ngài và bảo: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem". Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.
Chúng ta nhận thấy điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít hôm, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát. Thế mà, hôm nay thật can đảm đứng trước Công nghị Do Thái. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Phần các ông, khi ra về Các ông hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sĩ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đày, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta".
Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Các ông đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ được biến đổi hoàn toàn. Từ đó, họ xác tín một điều: "Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội". Vì thế, họ sẽ "vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta". Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, bất công. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó. Như thế, chúng ta học được gương sống đức tin của Các tông đồ: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng lời Thiên Chúa để phục vụ anh chị em của mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em của mình được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.
Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều có thể sụp đổ tan tành không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. Phần Thiên Chúa luôn được chúc tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời.
Bài Phúc Âm cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao, đó là hy vọng vào tình thương và quyền năng của Chúa Phục sinh. Phải, Thiên Chúa như người cha luôn yêu thương con cái mình. Người là Thiên Chúa giàu tình thương luôn quan phòng và lo lắng cho con người. Thật vậy, Chúa Giêsu nhìn thấy các môn đệ của Người vất vả suốt đêm với công việc chài lưới. Người biết các ông sau một đêm dài vất vả, mệt mỏi, chống chọi với sóng nước, biển khơi đã trở vào bờ với hai bàn tay trắng. Có bắt được con cá nào đâu! Nhưng rồi, khi các ông vừa lên đến bờ đã "thấy than lửa, trên đó có sẵn cá và bánh." Ngài đã quan tâm lo lắng cho các ông, là những người mà Ngài đã tuyển chọn và rất mực thương yêu. Điều này cũng nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa luôn lo lắng và quan phòng cho từng người chúng ta.
Bằng những cử chỉ quen thuộc, các tông đồ đã nhận ra Chúa. Còn chúng ta, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng hãy nhận ra Chúa luôn hiện diện. Khi gặp vất vả và thử thách chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, không phải Chúa không hiện diện trong cuộc sống. Điều quan trọng là con người có tận lực với sức cố gắng của mình, và có dám tin vào lời Chúa để buông lưới trong cuộc đời như các tông đồ xưa hay không? Tình thương quan phòng của Chúa đã thể hiện khi Người còn ở với các Tông Đồ, cũng như sau ngày Ngài phục sinh từ cõi chết, chứng tỏ rằng Người là Thiên Chúa luôn yêu thương. Cũng vậy Chúa luôn ở bên chúng ta, để nâng đỡ, an ủi và bảo vệ chúng ta. Nhưng Người cũng muốn chúng ta phải nhận ra Người. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra Chúa, thấy Chúa trong cuộc sống của chúng ta? Tông đồ Gioan đã nhận ra Chúa, và nói với Phêrô: "chính Chúa đó". Vì Gioan đã yêu mến Chúa nhiều và chính Gioan cũng được Ngài thương mến. Chúng ta cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn yêu mến Chúa và để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống mình. Chúng ta hãy nhận ra Chúa hiện diện trong thiên nhiên, trong vũ trụ bao la với mọi kỳ công Người sáng tạo. Chúng ta hãy nhận ra Chúa trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh may hay rủi, khó khăn hay dễ dàng, may mắn hay nghịch cảnh trong cuộc đời chúng ta. Cuộc sống chúng ta luôn được bình an, luôn được hạnh phúc, vì chúng ta biết rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và chúng ta cũng hết lòng yêu mến Người. Do đó, giống các tông đồ xưa, chúng ta cần phải được tràn đầy Chúa trong lòng, nhờ đó chúng ta mới có thể tỏ cho người khác thấy Chúa được. Hơn nữa, chúng ta cần phải trở nên giống Chúa, được nên một với Chúa, để những người chung quanh nhận ra Chúa và tình yêu của Ngài, qua đời sống chứng nhân trong cuộc sống hằng ngày. Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin Chúa Kitô Phục Sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Hãy sống niềm tin Phục Sinh, để trở nên một dấu hiệu về sự sống của Chúa Kitô, trở nên ánh sáng, đem bình an và niềm vui của Chúa Phục Sinh đến cho tất cả những ai đang đau khổ, vất vả, âu lo. Thất vọng và đang tìm kiếm nguồn sống mới của Đấng đã từ cõi chết sống lại, của Đấng Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng vào tình thương của Chúa dành cho chúng con, để chúng con luôn nhận ra sự hiện diện quan phòng đầy tình yêu thương nơi thế giới này. Và xin cho chúng con can đảm sống đức tin trong tình mến Chúa và yêu người, đó cũng là cách chúng con đang truyền đạt đức tin cho tha nhân. Amen.
8. Hãy theo Thầy! – AM. Trần Bình An
Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé ở một trường Công giáo do các Sơ phụ trách. Tất cả các chị em tôi cũng đều được học như tôi. Cuộc sống đức tin của mình cứ xuôi chèo như thế lâu dài: đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội mùa chay. Cùng với niềm say mê hát xướng, tôi đã gia nhập vào ca đoàn nhiều năm, hát vì thích nhạc đạo và vì thích được hát, chưa ý thức rằng hát là để ca tụng Chúa.
Tôi đã lập gia đình với một người cũng có đạo gốc như tôi và còn là con nhà một “Ông Trùm“ có nhiều con đi tu. Cuộc sống cứ trôi đi tự nhiên, như dòng nước chảy. Rồi dần dần sự mai một đức tin cứ lớn dần theo thời gian. Tôi còn bị tác động thêm bởi các bất bình, bất mãn cuộc đời xảy đến. Cái ung nhọt mất niềm tin vào Chúa lớn dần, đến mức độ tôi tự thấy xa hẳn Hội Thánh. Tôi đã bỏ đạo trong suốt 15 năm, thưa thớt dần dần bỏ lễ Chúa Nhật, không xưng tôi, rước lễ và cả không tham gia sinh họat giáo xứ! Cuộc sống không có Chúa cứ thế diễn ra, khiến cho mẹ ruột tôi và bố mẹ chồng rất buồn. Các cụ nói xa rồi lại nói gần về sự bất hạnh nếu xa rời Chúa, tôi bất cần ! Tôi lại càng cảm thấy mình đúng khi đã cắt tỉa đi những rườm ra hình thức tôn giáo, mà tôi cho là giả tạo, mê hoặc con người. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôn giáo là liều thuốc an thần cho nhân loại. Cũng như tôi đã thầm trách nền giáo dục Công giáo, đã làm cho tôi cảm thấy mất tự do. Thọát ra khỏi vòng kềm toả tôn giáo, tôi cảm thấy rất vui sướng vì khung trời tự do thoải mái sống hưởng thụ. Hơn nữa, tôi còn tự biện hộ rằng mình vẫn sống đạo làm người, yêu thương đồng lọại, giúp đỡ tha nhân chung quanh. Tôi đã khóc cười với những người anh em và tự mãn mình đã làm đúng, làm đủ bổn phận con người.
Bất ngờ, con gái tôi bỏ nhà ra đi. Tôi đau khổ khóc thầm. Trải qua bao đêm mất ngủ, tôi hóa ra ngây dại, mất hết mọi cảm giác. Tôi vẫn đến cơ quan làm việc, nhưng không còn một chút hăng hái nào, mà máy móc như con rô bô. Tôi hụt hẫng tột độ. Tôi đã muốn chết vì thương nhớ con. Tôi thất vọng cái kiếp người tràn đầy bi kịch! Gia đình tôi trở thành bãi chiến trường không đổ máu, nhưng lại đổ lệ đầy thương đau! Tôi lại càng thêm oán giận cuộc đời. Điên cuồng chống lại tất cả. Chưa bao giờ gia đình tôi lại sóng gió đến thế! Chính lúc đau khổ đó, Chúa đã đến với tôi, ban lại niềm tin. Ngoài Chúa ra, chẳng còn ai cứu nổi gia đình tôi! Tôi bỗng nhiên nhớ ra, vững tin rằng: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.“ (Lc 18, 27)
Từ sự cố con gái, Chúa đã dẫn tôi trở về. Hơn nữa, Ngài còn dẫn cả gia đình tôi thật sự trở về. Cứ lần theo con đường để trở về, chúng tôi đã gặp Chúa. Thì ra bấy lâu này, Ngài thầm lặng chờ đợi tôi. Ngài vẫn hằng yêu thương tôi, Ngài đã cho tôi một thể nghiệm của Người Cha mất con đau đớn như thế nào. Tôi đã thật sự khổ sở và sâu xa hối hận. Tôi bước qua nhiều chặng đường trong sự trở về, như một khám phá mới. Tôi cứ phải lột dần những rào cản của cuộc sống đi hoang đã thành nếp. Chúa đã lôi kéo tôi, chồng tôi, con tôi, trên bước đường trở về, vội vã cứ y như là chạy vậy! Hiện nay gia đình tôi bỗng đổi khác tận gốc rễ. Từ ngày Chúa “chạm” tôi, Chúa “chạm” chồng con tôi, chúng tôi liền thấy mình được thoát ra khỏi vòng vây hãm của khổ đau và những mâu thuẫn, như không thể khắc phục được. Nay chúng tôi được dễ dàng thương yêu nhau, vì có Chúa ở trong và ở bên tôi.
Từ khi hai vợ chồng tôi cùng đến cầu nguyện và gia nhập nhóm Thánh Kinh Cầu Nguyện. Chúa đã “chạm” mạnh vào gia đình tôi và hiện nay vợ chồng tôi đã được nhận chìm trong Đức Kitô. Cả gia đình tôi đã cảm nhận được hạnh phúc thật sự. (theo Maria Vũ Kim Hồi, Chúa Giêsu đã biến đổi đời con, Thanhlinh.net)
Sau bao năm xa rời đức tin, chị Maria đã tìm lại Chúa, nhờ sự cố con gái bỏ nhà đi. Chị không ngờ Chúa Giêsu vẫn liên lỉ quan tâm, chờ đón gia đình chị trở về đoàn tụ trong Lòng Thương Xót. Cũng như xưa các môn đệ đâu thể nào ngờ Chúa Phục Sinh, vẫn còn chờ đón vỗ về họ, sau một đêm chài lưới hoàn toàn vô vọng.
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan tường thuật Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tébériade, với bữa sáng sẵn sàng phục vụ. Sau một đêm vất vả, trắng tay, Chúa Giêsu hiện ra hỏi thăm, chỉ chỗ thả lưới hiệu quả, mà không một ai nhận ra Người.
Nhận ra Chúa
Ông Phêrô và các bạn chài đều nhìn thấy, đều nghe thấy Người đang đứng trên bờ Biển Hồ lúc tảng sáng, hỏi thăm họ đánh cá. Vâng lời Người, họ thả lưới bên hữu thuyền, liền bội thu. Thế mà chỉ có ông Gioan, ngạc nhiên khám phá ra Người, chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, liền thầm thì tiết lộ cho ông Phêrô: “Chúa đó!”
Tương tự tại “ngôi mộ trống,” cũng chỉ duy nhất một mình ông Gioan thấu đáo hiểu dấu chỉ Người đã sống lại, qua khăn che đầu và băng vải xếp gọn ghẽ. Chắc chắn chân dung, vóc dáng, lời nói của Người hẳn đã hằn sâu, in đậm nét trong lòng, cũng như trí nhớ Người môn đệ Chúa yêu, chẳng thể nào phai nhoà đi. Như vậy, một lần nữa, nhờ con tim mách bảo, linh cảm, nhờ lửa mến nóng bỏng, môn đệ Gioan đã kịp thời nhận ra Thầy Chí Thánh.
Lửa mến xua tan màn đêm tăm tối, tội lỗi, u mê, đốt cháy chướng ngại vật che chắn, vật chất, tiền tài, danh vọng, vượt qua cám dỗ vị kỷ, chia rẽ, dao động, nghi kỵ, phân hoá. “Chúa đó!” một khám phá tuyệt diệu chỉ dành cho một tình yêu bén nhạy, bền bỉ, sâu đậm, trung thành và viên mãn. “Chúa đó!”một lời giới thiệu tràn trề vui mừng và hy vọng! “Chúa đó!” một tiếng reo khải hoàn, vì được cứu thoát khỏi khốn khổ, thử thách, thất bại, lẫn thất vọng.
Đến với Chúa
Lần này, môn đệ Gioan ắt hẳn kính lão đắc thọ, không dám xớn xác, tuỳ tiện, như hôm chạy đua marathon ra ngôi mộ trống, bỏ xa lắc ông Phêrô tội nghiệp, lẹt đẹt theo sau. Mặc dầu ông Gioan rất phấn khích, sốt ruột, mong mau được gặp lại Chúa Phục Sinh, nhưng cũng phải dằn lòng, dành ưu tiên cho vị tiên chỉ Simon Phêrô nhảy xuống nước, bơi vào diện kiến Đấng Phục Sinh trước.
“Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” Không ngần ngại bỏ tất tần tật, bạn chài, thuyền lưới, cá mú, ông Phêrô tức khắc nhảy ra khỏi thuyền, bơi vào gặp Chúa ngay. Một hành động tích cực cao độ biểu lộ tâm hồn khao khát Chúa, tâm hồn từ bỏ chức tước, danh vọng, tiền tài, của cải, tâm hồn sẵn sàng, tỉnh thức, chạy đến với Chúa. Nhất là sau một đêm hì hục, miệt mài, vất vả chài lưới trắng tay. "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11, 28-30)
Đi theo Chúa
Dù trên bếp hồng, đã sẵn sàng cá nướng thơm nồng, hoà quyện mùi bánh mới hấp dẫn, Đức Giêsu vẫn yêu cầu các môn đệ đóng góp thành quả vừa đánh bắt được: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Rồi Người tiếp tục phục vụ các môn đệ: “Anh em đến mà ăn!” Sau khi ăn xong, Người mới trang trọng phỏng vấn ông Simon Phêrô về tình yêu tối thượng dành cho Người.
Ba câu hỏi lập đi lập lại:“Này anh Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Gọi ngay tên cúng cơm, chính xác con ai, Đức Giêsu thân mật đòi hỏi một tình yêu tận hiến agapé trọn hảo, chứ không dừng lại tình yêu huynh đệ philia thường tình. Bởi vì, “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi!” Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” (Mc 12, 29-31)
Sau ba lần xác nhận tình yêu dâng hiến, ông Simon Phêrô được Chúa mời gọi: “Hãy theo Thầy!” Đồng thời giao cho ông trọng trách phục vụ đoàn chiên: “chăn dắt” và “chăm sóc.”Vừa hướng dẫn vừa nuôi dưỡng như vị mục tử nhân lành,“thấm đẫm mùi chiên,” chứ không phải cất nhắc lên ngôi cai trị, hay chiếm hữu.
Như vậy, ai muốn đi theo Chúa thì nghe và thực hành Lời Chúa: Mến Chúa, yêu người và phục vụ tha nhân. Không riêng gì các đấng bản quyền, mà tất cả con chiên, giáo hữu muốn theo Chúa, cũng đều phải tuân giữ nghiêm nhặt hai điều này.
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Lạy Chúa Phục Sinh, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con luôn nhận ra Chúa trong từng anh chị em chung quanh, để yêu thương và phục vụ. Xin thúc đẩy chúng con năng hạnh ngộ cùng Chúa trong bí tích Thánh Thể, để luôn được Chúa hâm nóng lửa mến, hầu luôn được sống kết hiệp cùng Người trong mọi lúc, mọi nơi.
Lạy Mẹ Maria, chúng con khấn xin Mẹ giúp chúng con thấu hiểu những dấu chỉ của Chúa gửi đến, để vâng theo Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời ba đào, gian lao, vất vả, hầu gặt hái được thành quả đáng mừng, như mẻ cả bội thu của các môn đệ. Amen.
9. Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi – AM. Trần Bình An
Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18 m.Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu "không thể chìm".
Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)
Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.
Con Thuyền Thánh Hóa
Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.
Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.
Con Thuyền Tình Yêu
Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.
Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.
Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)
Con Thuyền phục vụ
Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)
Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.
“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)
Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.
10. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan
CHÚA GIÊSU PHỤC SINH ĐI CHỌN MỘT NGƯỜI CHĂN DẮT CHIÊN CỦA CHÚA
Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:
Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.
Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.
Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’
Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.
Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.
Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.
Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.
Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).
Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.
Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).
Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.
Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.
Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.
Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.
Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.
Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.
Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.
Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)
Nội dung câu trả lời thâu tóm câu chuyện của thánh Phêrô.
11. Mẻ cá
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.
Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.
Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.
12. Suy niệm của Lm. Jos. Vũ Mộng Thơ
CHÚNG TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CÁC LỜI ĐÓ CÙNG VỚI THÁNH THẦN
Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".
- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.
- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.
Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.
13. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh cá nhưng thức suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Sáng ra, CG đến gặp các ông, kêu các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông làm theo lời Chúa và kéo lưới lên bắt được rất nhiều cá, nhiều đến mức kéo lưới lên không nổi. Cuộc đời của mỗi người chúng ta xem như một chuyến đi trên biển trong đêm, những ai có Chúa Giêsu trong đời sống đạo của mình, người đó có một chuyến đi thành công, một cuộc đời thành công.
Tôi đang ở Chủng viện Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.
Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ Chúa Giêsu, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của Chúa Giêsu giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà Tin Mừng hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.
Vậy thì tại sao có Chúa Giêsu trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.
Thực hành Lời Chúa hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày Thiên Chúa trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.
14. Sứ mạng phục vụ - Cố Lm Hồng Phúc
Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!
Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.
Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.
Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.
Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…
Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.
15. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Trong bữa ăn thân mật tình thầy trò, Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô và các môn đệ một sứ vụ mới đó là ra đi rao truyền Tin mừng cho muôn dân.
Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. Chúa Giêsu bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói "Chúa đó" (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.
Sau khi ăn xong Chúa Giêsu bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa Chúa Giêsu hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: "Lãnh đạo toàn thể Giáo hội".Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.
Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.
Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.
16. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến! Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình. Chúng ta cứ khăn khăn trong lập trường đó, chúng ta nghĩ rằng, mình phải làm như thế này mới đúng cách, làm thế kia mới đúng kỹ thuật, đúng khoa học, nhưng nhiều lúc chúng ta cũng bị thất bại thật ê chề.Thái độ quá tự tin đó khiến ta không còn biết đón nhận sự góp ý, sự soi sáng của người khác, nó khiến ta không còn tin, không còn cậy trông phó thác vào ai cả, chỉ cậy dựa vào tài ba của mình mà quên đi cả Chúa nữa. Sự vâng lời Chúa Giêsu nơi các tông đồ hôm nay giúp ta nhận ra bản tính thấp hèn yếu kém của con người chúng ta.
Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.
Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì "không có Thầy, các con chẳng làm được gì".Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.
17. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quovadis?”nghĩa là “Người đi đâu đó?”Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:
Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó!”Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”. Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy đã yêu”.
18. Chúa đó
(Trích trong ‘Manna’)
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: "Tôi đi đánh cá đây.”Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: "Chúng tôi cùng đi với anh”. Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Đây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
"Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: "Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một "mẻ cá lớn”không?
Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
19. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Phêrô con có yêu mến Thầy hơn các anh em khác không?
Ngày nay qua các nghiên cứu chuyên sâu về mọi mặt thì thấy lịch sữ của Ga không đơn giản như đã tưởng. Nhất là Ga 21, Cách chung đồng ý là không phải của Ga mà được thêm vào sau vì văn phong không giống phần trước và thuộc thời rất muộn về sau.
Các Phúc Âm được chuyền tay chép lại và chuyện có sửa đổi thêm bớt là bình thường vì chưa có phương tiện nào để nhân bản dù mỗi lần nhiều hơn một bản thôi. Cho tới cuối thế kỷ IV và đầu V mới có bản văn như ngày nay. Khi ấy người ta phải hợp tuyển từ cả ngàn bản chép tay, không bản nào giống bản nào. Và Thánh Giêrônimô đã dịch ra tiếng la tinh (bản Vulgata) được Giáo Hội coi là bản chính thức của Giáo Hội thì vấn đề chép lại và sửa đổi cũng đở nhiều.
Ga. 21 không phải là của Gioan chính thống, cũng không biết của ai (đươc coi là của một môn đệ viết theo như Gioan kể lại). Đoán thế thôi.
Còn về các câu chuyện Phục Sinh (hiện ra) được viết sau hết trong sách Phúc Âm với mục đích rỏ ràng không phải để chứng minh Chúa Giêsu đã Phục Sinh, vì Đức tin vào Chúa Giêsu đã Phục Sinh là Chúa và là Đấng Kitô đã hai năm rỏ mưòi rồi. Mục đích chính là:
- Buổi sáng ngày thứ I, với các bà, trong mớ lẫn lộn những dị biệt là để nhắn với các môn đệ "hãy trở về Galilê ở đó sẽ gặp Thầy". Thật ra những lời nầy không bảo đi về Galilê theo nghĩa chử mà là đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã Phục Sinh, là Đấng Kitô và là Chúa thì hãy đem ánh sáng Phục Sinh mà soi sáng mọi ký ức của họ về Đức Giêsu Galilê. Những gì họ đã sống, đã nghe, đã chứng kiến về Đức Giêsu Galilê để nhớ lại và thấu hiểu theo cách nói 'Chúa Giêsu thở hơi ban thần khí giúp nhớ lại đầy đủ và hiểu rõ Kinh Thánh'.
- Buổi chiều ngày thứ I:
- Với hai môn đệ đi làng Em mau: Cách nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ Kinh Thánh và Thánh Thể.
- Với 11 môn đệ (coi như lần hiện ra chính thức): Để sai đi (cùng với việc ban phương tiện). Đã tin và vui mừng thì hãy đi loan truyền niền tin và vui mừng ấy..
- Tám ngày sau có Tôma (vì chiều ngày thứ I Tôma mắc đi vắng). Các Phúc Âm cách chung đều nói 'các môn đệ chưa tin', cứng lòng. Ga không nói cách đó mà nói bằng câu chuyện của Tôma ông Dydimo (Ông đi mô) bị đem ra làm gương'đi vắng' bị mắc. Vắng thì không thấy, không tin lời người khác thấy nói lại nên cũng không nhận được gì cả khi Chúa Giêsu đến ban cho ngày thứ I trong tuần. Tôma là trong số 12 ông đã được chọn. Mất Giuda rồi, buồn lắm, không nở bỏ Tôma. Chúa Giêsu đã yêu thương họ thì yêu thương đến cùng (trừ đứa con hư mất) Nên gọi là Chúa Nhật của lòng thương xót. Tám ngày là để cho Tôma thấy mà tin (đừng cứng lòng) và có đưọc những gì Chúa đã ban mà các ông khác kể lại gồm cả việc thổi- hơi- sai- đi cùng với ơn tha tội.
Ga 21 cũng cùng mục đích là sai đi. Nhưng ở đây 'điểm' là Phêrô, người cầm đầu công cuộc "sai đi" vì việc rao giảng đã được tiến hành bốn năm mươi năm rồi - kết quả mỷ mản- Phêrô đã vào vai trò cầm đầu không thể chối cải hoặc thay thế được. Phải hợp thức hóa thôi.
Ga 21 là lần bắt cá thứ I được thuật lại dưới ánh sáng Phục Sinh.
Thuyền của Phêrô. Phêrô cầm đầu đi đánh cá.
7 môm dệ. Con số 7 chỉ toàn thể. Đánh cá thì một thuyền 2 người. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm đầu mới nhiều thế.
Cả đêm không được gì. Sức con người thì làm được gì!
Thả lưới bên phải theo Lời Chúa mới kết quả. Thả lưới bằng thần khí của Đấng Phục Sinh thì lưói đầy cá.
153 con cá. Rỏ ràng không phải là cá thật mà là Truyền giáo. Lưới không bị rách là Giáo Hội. Phải hiểu theo nghĩa biểu tượng.
Chỉ là chuyện để vào đề. Đề chính là chuyện về Phêrô.
Ba lần hỏi. Văn chương do thái nói ba lần để chỉ thì superlatif vg. thánh thánh thánh không phải là ba lần thánh mà muốn nói rất thánh, chí thánh...Số 3 là số trời, mà là trời già. Bất quá tam.
Có thể: Phêrô nông nổi. Nói ngon miệng mà rồi chối Chúa ba lần (cũng ba lần). Là chuyện tối quan trọng phải đánh lưỡi ba lần mà trả lời cho đầy đủ ý thức và chỉ có một lần không có cơ hội để làm lại đâu. Hỏi ba lần, trả lời ba lần thì nhấn mạnh đủ, ý thức đủ và đủ cho mãi mãi.
1- "Có yêu Thầy hơn các anh em nầy không?". Yêu là quan trọng hơn hết. Yêu nhiều thì hơn hết, làm cho người ta sẳn sàng hy sinh chịu khó kể cả liều mạng. Yêu hơn thì sẽ kể là hơn
Hãy chăm sóc các chiên con của thầy. Chiên con thì phải chăm sóc cực hơn lại ăn thịt dể và ngon nữa. Đòi yêu nhiều mới dám trao cho.
2- Có yêu mến Thầy không? Hãy chăm sóc các chị chiên của Thầy. Các chị nầy có em bé rồi nhưng cũng không dể gì.
3- Có yêu mến thầy không? Một lần nữa cho chắc. Hỏi hai lần và giao phó hai lần các chị.
- Để cho người ta thắt lưng và dẩn đi không theo ý mình. Hãy theo Thầy. Không phải tự ý đi mà đi theo. Yêu thì hy sinh tự do rồi. Chăm sóc chiên Thầy vì yêu Thầy không phải vì yêu chiên, là phục vụ như Thầy sẳn sàng hiến mạng sống vì chiên. Có như thế thì hãy theo Thầy: vác thập giá và hiến mạng sống. Theo truyền thuyết 'Quo vadis' thì Phêrô khăn gói bị gậy đi trốn ra cửa thành gặp Chúa Giêsu đi vào.....và ông đã trở vào vác thập giá và hiến mạng sống (không để Chúa Giêsu chịu đóng đinh lần nữa).
Phêrô đóng vai là người cầm đầu việc rao giảng với lòng yêu mến Chúa Giêsu hơn các anh em khác để thay thế Chúa Giêsu hữu hình. Từ đầu Phêrô đã nổi lên và được công nhận là người cầm đầu thật sự (chắc lúc viết bài nầy Phêrô đã hoàn tất nhiệm vụ). Gioan rất quan tâm đến việc ' được sai đi'. Thiên Chúa sai Đức Giêsu (để anh em nhận biết Đấng Người đã sai đến). Chúa Giêsu sai các tông đồ. Đươc sai chính thức mới được ban các phương tiện và quyền năng để thi hành sứ mạng và mới đuợc tin tưởng. Phêrô phải được Chúa Giêsu chính thức 'sai' cầm đầu việc rao giảng mà Người đã truyền cho các tông dồ.
Điều mà đoạn Phúc Âm nầy muốn nhấn mạnh hơn hết là 'yêu mến hơn hết' làm tính cách đặc biệt của người cầm đầu cho những vị kế tiếp. Yêu mến hơn hết để cầm đầu trong việc phục vụ và hiến mạng sống như Chúa Giêsu và vì yêu mến Chúa Giêsu hơn hết.Nhưng không phải máy móc, khô khan mà ướt át, tình cảm vì yêu mến và yêu mếu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Chủ chăn được Chúa Cha sai. Đoàn chiên là của Chúa Giêsu, Đấng là Chúa và là Thầy và cũng là Đấng rữa chân. Phêrô và những vị kế tiếp, hãy làm vị cầm đầu như lòng Chúa mong ước.
20. Mầu nhiệm Giáo Hội.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.
Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.
Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
21. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài. Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: "Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng". Đức Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.
Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: "Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta". Cái chết tử đạo của Đức cha giúp chúng ta hiểu sứ điệp Lời Chúa trong Phụng Vụ Chúa Nhật III mùa Phục Sinh hôm nay.
Sách Tông đồ công vụ là cuốn sách kể lại lịch sử thời giáo hội sơ khai, trong đó, nét nổi bật nhất của Giáo hội thời đó là thực tại Kitô hữu bị bách hại. Cũng như Chúa Giêsu đã bị khước từ và bị bắt bớ trong lúc rao truyền Tin Mừng cứu độ thế nào, thì giờ đây cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng bị bắt bớ như vậy.
Tin Mừng mà các tông đồ vâng lệnh Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng được dân chúng đón nhận như bị giới lãnh đạo khước từ, đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo. Ngay từ đầu, các tông đồ đã ý thức được rằng khi các nhà lãnh đạo chống đối lời rao giảng là họ đã chống đối chính Thiên Chúa và chương trình của Ngài, chứ không phải chỉ chống lại các tông đồ, vì các tông đồ chỉ là dụng cụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Nói cách khác, mọi cuộc bách hại Kitô hữu đều bắt nguồn từ thái độ thù ghét Thiên Chúa và chống lại chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình mà chính Chúa Giêsu Kitô đã thành toàn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Nhiều người Do thái dù rất đạo đức và chân thành cũng không chấp nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đối với họ, Chúa Giêsu đã không sống theo luật Môisê và giáo huấn của Kinh Thánh, vì thế họ cần phải thủ tiêu Ngài. Nhân danh các luật lệ và giáo huấn, giới tư tế đã cấm các tông đồ phổ biến sứ điệp của Chúa Giêsu. Nhưng lời rao giảng của các tông đồ có mục đích giúp mọi người hiểu rằng: "Giáo huấn Kinh Thánh dẫn đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã thành toàn chương trình cứu độ".
Tin Mừng của Chúa Giêsu tiếp tục Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái, vì thế mọi người phải vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã nói qua các ngôn sứ và sau cùng qua Đức Giêsu, Đấng đã hứa trao ban ơn tha tội và ơn cứu rỗi cho con người, Đấng đã từng bước trong lòng lịch sử dân Do Thái, và sau cùng trong bản tính nhân loại của Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là phải vâng lời Thiên Chúa của toàn Kinh Thánh và trở về với Ngài chứ không phải là chiều theo ý muốn của giới lãnh đạo trần gian.
Áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, qua chương 5 sách Tông đồ Công vụ, Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều này: Ngài cần đến các nhân chứng biết vâng lời bằng thái độ không vâng theo giới lãnh đạo trần gian dối trá, tham lam và ác độc. Bằng cách biết nói "không" với các đề nghị và dàn xếp đổi chác của họ, biết cương quyết nói "không" trước những ve vuốt, tâng bốc hứa hẹn, lợi lộc và cạm bẫy họ giăng để biến đổi Tin Mừng trở thành dụng cụ phục vụ họ và vô hiệu hóa giáo huấn của Chúa. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời bằng cách cương quyết chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống, phẩm giá, tự do và tính chất thánh thiêng của con người. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời Ngài bằng cách nói "không" với tất cả những gì nghịch với luật Chúa và lương tâm của mình. Cho dù tiếng "không" ấy được cất lên mà có phải thất bại và thiệt hại trong cuộc sống đi nữa, thì họ vẫn cương quyết giữ vững lập trường để bảo vệ giáo huấn Tin Mừng của Ngài. Chỉ khi nào người tín hữu Kitô biết sống như thế thì họ mới diễn tả trung thực lòng tin của mình vào Chúa Kitô Phục Sinh mà họ tôn vinh và cử hành trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật trong năm.
Cũng giống như kinh nghiệm của tác giả sách Khải Huyền trong chương 5, "chính trong bầu khí Phụng Vụ Chúa Nhật, chính lúc tụ họp nhau lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể mà Kitô hữu sẽ được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và bối cảnh cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu mai sau.
Nói một cách khác, các buổi cử hành Phụng Vụ Thánh Thể rất quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu Kitô vì đó là suối nguồn ân thánh giúp vun trồng đồng cỏ cuộc sống thiêng liêng và ba loài hoa quí là tin cậy mến. Nếu không ý thức được sự thật tuyệt vời này, Kitô hữu sẽ không bao giờ sống Phụng Vụ một cách trọn vẹn. Mỗi một Kitô hữu, mỗi một cộng đoàn Kitô hữu không sống các thực tại nhiệm mầu của Phụng vụ một cách trọn vẹn và sâu thẳm thì sớm muộn cũng trở thành thờ ơ bất động, tê liệt và nguội lạnh. Mà nguội lạnh là sắp chết nếu không nói là đang chết hay đã chết như một cái xác không hồn bất động. Nếu không biết ý thức và cảnh tỉnh, người Kitô hữu rất dễ trở thành những cái xác nguội lạnh không hồn và sẽ là những bộ phận ung thối rữa nát trong thân mình Giáo Hội.
Chương 21, thánh Gioan đã tường thuật biến cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và can thiệp giúp các ông đánh được mẻ cá lớn sau một đêm lao nhọc mỏi mệt mà chẳng bắt được gì. Qua đó, thánh sử muốn nhắn nhủ chúng ta những điều sau đây:
1. Nếu không muốn lao nhọc một cách vô ích trong công việc làm và cuộc sống mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Phục Sinh để Ngài hoạt động, hiện diện và hướng dẫn chỉ vẽ cho chúng ta trong mọi sự: nghĩa là biết vâng lời Đức Kitô Phục Sinh quẳng lưới phía bên phải. Trong truyền thống Kinh Thánh, bên phải là phía của phúc lành. Rất tiếc trong cuộc sống chúng ta lại thường cứng đầu cứng cổ, quẳng lưới bên trái là phía của án phạt và chúc dữ.
2. Chúng ta hãy biết noi gương Chúa Giêsu Phục Sinh duy trì chiều kích nhân bản của cuộc sống. Phúc âm thánh Gioan là Phúc âm thiêng liêng kết thúc với hình ảnh Chúa Giêsu Phục Sinh sửa soạn bữa ăn sáng cho các tông đồ trên bờ hồ Tibêria chứng minh cho thấy tất cả chiều kích nhân bản trong kiểu cách sống của Chúa Giêsu. Đức Giêsu thành Nazareth trước kia và Chúa Giêsu Phục Sinh giờ đây vẫn là một. Ngài chuyện vãn đối thoại với các tông đồ. Ngài chú ý đến công việc làm, các sinh hoạt, các vấn đề khó khăn của họ và ngồi ăn với họ.
Mầu nhiệm Nhập Thể dạy cho chúng ta biết rằng đức tin của chúng ta sẽ không vững chắc nếu không được xây trên chiều kích nhân bản với tất cả cái phong phú tuyệt diệu của nó.
Khi còn sống và rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã luôn luôn yêu thương bênh vực những người nghèo hèn, bé nhỏ bị gạt ra lề xã hội. Giờ đây, khi trao ban cho Phêrô chăn dắt chiên con, chiên mẹ, biểu tượng cho lớp người yếu đuối, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục đường hướng mục vụ ấy và muốn Giáo hội tiến bước trên con đường này.
3. Trong sứ mệnh phục vụ này, cường độ của tình yêu thường là điểm qui chiếu và thước đo duy nhất. Càng yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều bao nhiêu thì công tác phục vụ của Phêrô càng trung thực với tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô và càng hữu hiệu bấy nhiêu.
Vấn đề ở đây không phải là khả năng trí thức, học cao biết rộng, mà là biết yêu mến nhiều nhất, yêu thương nhiều hơn hết đó là tước hiệu duy nhất có giá trị biện minh cho quyền bính cai trị, nghĩa là phục vụ trong Giáo hội.
4. Tinh thần sẵn sàng theo Chúa Giêsu Kitô không phải để bước đi trên con đường danh vọng có nhiều đặc quyền đặc lợi, được người đời ca tụng kính nể, mà là để bước đi trên con đường Thập Giá khổ đau dẫn đến cái chết Phục Sinh.
22. Hãy phục sinh đức tin…
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Sống Mùa Phục Sinh
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin, trong các sinh hoạt đạo đức cá nhân hay tập thể, lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để diễn tả niềm tin phục sinh. Đó cũng là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh. Tôi gọi đó là phục sinh đức tin.
1. NHỮNG LÝ DO CẦN ĐẾN ƠN PHỤC SINH ĐỨC TIN.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong nội tâm, để nội tâm lắng đọng một chiều sâu phục sinh đích thực: Biết bao nhiêu người, kể cả bạn và tôi đã mừng Chúa phục sinh, nhưng sự mừng ấy có khi chỉ là lễ hội, là sự háo hức về một đêm thánh mà trong đó phụng vụ có nhiều diễn tả lạ, khác mọi cử hành phụng vụ khác. Thiếu chiều sâu nội tâm của đức tin, vì thế, mừng ơn phục sinh vĩ đại, nhưng lòng ta, ơn phục sinh chẳng thấm, chẳng biến đổi gì. Ta chẳng phục sinh.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong các sinh hoạt đạo đức: Nhiều người sống nguội lạnh, bỏ cầu nguyện, bỏ các giờ kinh sớm chiều, bỏ luôn cả việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích. Nhiều người chạy theo dục vọng, tiền tài đã sống bê tha trong tội lỗi, thậm chí nhiều năm không đến nhà thờ, bỏ luôn cả việc xưng tội, rước lễ. Nhiều anh chị em tích cực hơn, nhưng chỉ giữ đạo theo mùa: Cứ đến lễ trọng, mùa Vọng, mùa Chay, mùa Giáng Sinh, mùa Phục Sinh thì chạy đôn, chạy đáo tìm linh mục giả tội, nhưng rồi vẫn không mấy thay đổi. Nhiều người còn chịu khó giữ đạo, giữ các giờ kinh, tuy đấy đã là điều tốt, nhưng cần phải tốt hơn trong sự chăm chú cầu nguyện, suy tư và chiêm ngắm lời kinh mà mình đọc, chứ đừng chỉ giữ giờ kinh, giờ cầu nguyện, cả đến việc dự lễ mỗi ngày như một thói quen. Vì thế, họ cần phải phục sinh đức tin của chính mình.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong đời thường. Từ trước tới nay, ta chưa bao giờ, hoặc có nhưng rất ít, rất thiếu sót sự gắn bó với Thiên Chúa trong từng công việc, trong các bổn phận, và mọi lao nhọc… Vì thế, khi phải lao tác, vất vả, lắm lúc gặp nhiều trở ngại, nhiều thất bại và không biết bao nhiêu cay đắng khác…, ta chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đời ta đầy nặng nhọc, đầy oan khuất. Ta cần biết rằng, cuộc đời vẫn thế, bất cứ ai sống trong đời đều cũng giống như ta. Chỉ khác ở chỗ, họ đã tin tưởng vào Chúa Kitô. Họ kết hợp với thánh giá của Người trong từng ngày sống. Họ hiến dâng cho Người tất cả suy nghĩ, việc làm, niềm tin, hy vọng, sự sống, mọi hoàng cảnh, mọi tương quan… Nhờ đó, họ chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. Họ đủ nghị lực mà gánh vác chính cuộc đời của họ. Ta cần phải phục sinh đức tin như họ để ta cũng được ơn bình an của Đấng Phục Sinh.
Ngược với những người phải ngày đêm vất vả là những người sống xa hoa. Nhất là trong thời hiện tại, người ta có quá nhiều phương tiện hưởng thụ, đến nỗi lao thân vào lối sống duy vật và nô lệ cho lối sống ấy. Đây là đối tượng khẩn thiết nhất cần đến ơn phục sinh đức tin. Vì chỉ có thể sống lại trong đức tin, họ mới có thể thuộc về thế giới của sự sống tự do, sự sống mới, khơi nguồn từ nguồn Phục Sinh là chính Chúa Kitô. Bởi chỉ có ai bước đi trong ơn phục sinh của Đấng Thiên Chúa làm người, người ta mới thực sự sống tự do, không nô lệ.
Với tất cả những lý do cụ thể bên trên, ta thấy phục sinh đức tin là việc làm khẩn cấp. Vậy để phục sinh đức tin, ta cần phải làm gì? Tôi muốn đưa ra vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, chỉ xin là những gợi ý khả dĩ giúp ta bước vào hành trình phục sinh chính đức tin của mình.
2. GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.
Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin. Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô. Bởi vậy, những gì chúng ta đã từng sống, đã từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô giáo, nhưng chưa có chiều sâu bằng một cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô. Tôi tạm gọi việc chỉnh đốn lại cách sống, cách thực hành đức tin là phục sinh đức tin.
Như vậy phục sinh đức tin có nghĩa là hãy nhìn vào Chúa Kitô trước đã. Từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiệc các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy. Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi.
Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình. Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui. Người đàng ông là tù binh chắc chắn sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, chỉ là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông. Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa của tôi. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.
Ta cần phục sinh đức tin của mình, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.
Nếu ta phục sinh đức tin của mình trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…
3. THOÁT LY NHỮNG NHU CẦU GIẢ TẠO.
Một trong những nguy cơ giết chết đức tin của người tín hữu chính là lòng ham mê ngẫu tượng của thời đại.
Họ trang bị cho mình mọi thứ vật chất, mọi tiện nghi, mọi phương thế thụ hưởng, và coi đó là những thứ cần thiết như đích điểm của đời người, đến nỗi cuốn mình chạy theo nó, quay quắt với nó như cơn bão xoáy không chừa lại một chỗ nào cho sự sống tinh thần có thể ngoi ngóp. Đúng hơn, đấy chính là trận bão của những nhu cầu giả tạo, nhu cầu trước mắt, cuốn phăng lòng người theo nó. Bởi vậy mà không ít người đau khổ khi mình thua anh kém chị dù chỉ một chiếc áo, một đôi dép. Họ tôn thờ vật chất đến độ như chỉ có nó mới là vẻ đẹp của đời mình vậy. Chính vì thế, ngày càng có nhiều người tôn thờ chủ nghĩa thời thượng, chủ nghĩa “mode”. Sự tôn thờ này đã biến họ thành nô lệ cho vật chất. Họ phải liên tục đổi di động, đổi xe gắn máy, đổi đồng hồ, đổi những thứ trang xức khác…, làm sao cho những gì họ có phải mới liên tục, phải “mode” liên tục. Họ tôn thờ vật chất một cách đam mê và cuồng tín. Tôi gọi đó chính là sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại.
Điều mỉa mai đau đớn là, dù ngụp lặn trong thế giới vật chất, vượt trên cả sự tìm tòi vật chất: con ngưới trầm mình với vật chất như thể nên một với nó, thì lại có một thực tế khác, dù âm thầm, vẫn không kém mạnh mẽ lên án thái độ nô lệ ngẫu tượng thời đại của con người. Thực tế đó chính là tiếng nói của lương tâm, là đời sống tinh thần, là thế giới thiêng liêng của tâm hồn. Cố tình vượt qua giới hạn của tiếng nói nội tâm mình như thế, con người trở nên chao đảo, bấp bênh, thiếu bình an, và đói khát chân lý. Tình trạng này làm cho con người sống hết sức ngột ngạt.
Bởi con người đâu chỉ là vật chất, nhưng trước hết là tinh thần. Đời sống tinh thần mới là sức mạnh làm nên giá trị của đời người. Vì thiếu niềm tin, vì lạc mất tinh thần, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại cũng sẽ đẩy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi. Bởi càng tiện nghi bao nhiêu, con người càng dễ sống một mình bấy nhiêu.
Nhưng các tiện nghi vật chất không bao giờ là đối tượng chia sẻ sự sống, suy nghĩ, tình cảm…, điều mà từ rất xa xưa, Ađam đã cảm nghiệm, vì ông không thể “tìm được một trợ tá tương xứng” (St 2, 20). Không thể chấp nhận một xã hội chỉ là cá nhân, Ađam thao thức tìm kiếm sự chia sớt tương xứng, và Chúa đã ban cho ông như lòng ông mong đợi. Nhưng oái oăm và nghịch lý quá đỗi! Trong khi Tổ Tông của mình cố thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thì loài người hôm nay, dẫu quá kinh nghiệm về sự tai hại của chủ nghĩa này, lại cứ tìm về, cứ cố tình đuổi theo nó bằng mọi thứ tiện nghi, mọi thứ trang bị cho chính cá nhân, biến cá nhân thành trọng tâm cho sự quan tâm của chính mình. Thật vô phúc cho ai sống gần những cá nhân chỉ tôn thờ chính mình như thế!
Rồi từ chỗ chỉ biết sống cho riêng cá nhân mình, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại, càng biến con người thành động vật sống ích kỷ không thể tả. Nhưng như một hệ luận tất yếu: càng sống ích kỷ, con người càng cô độc. Nếu tiếng nói của nội tâm bị coi thường, cuộc sống của con người vốn đã ngột ngạt, sự cô độc sẽ làm cho con người ngày càng chơi vơi hụt hẩng, ngày càng cay đắng với chính mình, với thế giới quanh mình gấp nhiều lần hơn.
Không còn chỗ bám cho đức tin, con người tự giết chết mình, giết chết cả những tương quan quanh mình cách thảm hại. Bởi dù họ sống, nhưng lối sống ích kỷ ấy chỉ là lối sống thiếu sức sống. Nói nặng hơn, cá nhân mình, một khi chỉ là đối tượng chăm sóc của bản thân, cá nhân ấy trở thành cá nhân què quặt, dị tật.
Như vậy, trong sự phục sinh đức tin của mình, cùng với việc sống cá vị và liên kết mật thiết với Chúa Kitô, người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để sống đức tin với anh chị em. Họ cần để cho lòng mình thanh thoát, khỏi những vướng bận của trần gian, của những tiện nghi vật chất.
Người tín hữu cần học biết điều này: Đức tin là đức tin cá nhân của bản thân gắn bó với Thiên Chúa. Càng chìm sâu bao nhiêu trong sự gắn bó với Chúa, sẽ càng đầy tràn lòng yêu mến, và chắc chắn đức tin càng sáng chói bấy nhiêu. Nó đòi hỏi ý thức và sự dấn thân thực sự của cá nhân trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa. Nhưng đức tin chỉ có thể được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đoàn. Bởi Thiên Chúa, nền tảng của đức tin chúng ta là một Thiên Chúa “không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (kinh Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Người không cứu chuộc từng người đơn độc, nhưng trao ban tình thương cho tất cả mọi người.
Cũng vậy, Chúa Kitô không phải là “Đấng ở cùng một người”. Nhưng Người là Đấng “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa Kitô không nhập thể và chết cho bất cứ cá nhân nào, nhưng cho cả thế giới qua lớp lớp thế hệ. Chính vì thế, hôm nay Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng hãy làm phục sinh đức tin của mình trong tương quan với cộng đoàn Hội Thánh, với mọi người xung quanh. Chính trong cộng đoàn mà ta liên kết, gương tốt của người này sẽ ảnh hưởng trên người kia; gương xấu của người này sẽ là bài học lớn cho kinh nghiệm sống của người kia, để có thể lách mình khỏi những sai sót mà anh em vấp phải.
Ngoài ra, đức tin còn phải được gìn giữ, phát triển nhờ sự đào tạo liên tục trong suốt đời người bằng mọi nỗ lực cá nhân như: Tìm về một lối sống đơn sơ, giản dị chứ không tìm một lối sống dễ dãi; không nhắm tiện nghi và hưởng thụ, nhất là không nhắm vào nó đến nỗi quay quắt với vật chất như chỉ có nó là sự bảo đảm cho đời mình; hãy biết hy sinh, hãy chấp nhận giới hạn trong tất cả những đòi hỏi vật chất. Hãy là người biết khôn ngoan nói không với những nhu cầu giả tạo. Hãy bền chí theo đuổi cái đẹp của tinh thần, của tình yêu, của sự thầm lặng, của ơn gọi sống nghèo khó, chứ không khoác lên mình những hào quang chỉ được xây dựng từ trần thế cho riêng cá nhân mình.
4. CUỘC PHỤC SINH CỦA CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
Cùng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta bước vào hành trình phục sinh đức tin của chính mình. Trong hành trình này, Chúa Kitô chính là điểm dừng quang trọng nhất mà đức tin của ta phải tiến đến. Và sự phục sinh của Người là lời mời gọi mạnh mẽ nhất cho hành trình phục sinh đức tin của chính ta.
Phục sinh nào cũng đòi hỏi hy sinh lớn lao, rát buốt. Chính Chúa đã rơi vào những tình huống như thế. Để tiến vào sự phục sinh vĩnh cửu của Người, Người đã từng đối mặt với những đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác. Người đã phải rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc, vùi giập. Cái chết của Chúa tưởng đã là tiếng nói sau cùng, là thất bại thảm khốc. Nhưng Chúa đã vượt qua. Người đã đứng lên. Người sống lại. Người chiến thắng.
Sự phục sinh của Chúa vừa là mẫu gương cho sự phục sinh đức tin của ta, vừa là nguồn mạch ban ơn phục sinh cho ta.
Vì thế, như Chúa Kitô, ta vượt qua chính con người nhiều đam mê của bản thân, vượt qua mọi rào cản khách quan lẫn chủ quan để được phục sinh đức tin từng ngày trong nội tâm, trong mọi sinh hoạt đạo đức, lẫn trong đời thường của ta.
Cùng với những nỗ lực nhìn về Chúa Kitô để phục sinh đức tin, ta vững một niềm xác tín rằng, Chúa Kitô ban ơn phục sinh từng ngày cho ta. Bởi giữa mọi lý do gây ra tình trạng chết của đức tin do thiếu chiều sâu nội tâm, do thiếu ý thức trong việc sống đạo, thiếu ý thức về ý nghĩa đạo đức của đời thường, thậm chí do cám dỗ chạy theo lối sống xa hoa, hưởng thụ và thực nghiệm…, ta vẫn trung thành mong đợi ơn phục sinh, và tin tưởng vào sự phục sinh bừng lên nơi cuộc đời mỗi người, thì chính lòng mong đợi và sự tin tưởng ấy, đã cho thấy nguồn ơn phục sinh của Chúa đang thấm vào đời ta.
Mặt khác, dù cho còn đó bao nhiêu lý do cám dỗ ta đi xa đức tin, thậm chí tiêu diệt đức tin, và dù cho lòng ta nhiều khi còn hời hợt, còn thiếu chiều sâu nội tâm, thiếu ý thức, ta vẫn mong ước được phục sinh đức tin của mình. Niềm mong ước này không thể có được, nếu không có ơn phục sinh của Chúa khơi nguồn và ban ơn.
Từ nay, bước theo Chúa Kitô, ta ngước nhìn Người để nếu Người đã phục sinh, ta cùng phục sinh đức tin của mình trong từng hoạt động, từng ngày sống của ta. Ta cũng sẽ gắn bó đời mình với Chúa, can đảm thoát ly mọi nhu cầu giả tạo, để được chìm đắm trong nguồn ơn phục sinh của Chúa. Có như thế, trong cuộc phục sinh của Chúa Kitô, có những cuộc phục sinh trong đức tin của mỗi người. Và cuộc phục sinh của mỗi người trong tương quan với ơn phục sinh của Chúa Kitô, có sự phục sinh của nhiều người, của cả Hội Thánh..….
23. Tin và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Cuộc sống quanh ta có rất nhiều biểu tượng. Một biển báo đi đường, một hình vẽ diễn tả sự tai hại của bênh AIDS, của ma túy, một ký hiệu cấm hút thuốc nơi công cộng, cấm đậu xe bừa bãi… Tất cả những biểu tượng đó là những lời nói vô âm soi rọi cho mình về một vấn đề nào, một quy định nào mà mình cần thực hiện, hay sống… Ngôn ngữ biểu tượng rất phong phú. Nó gần gũi với ta, ở xung quanh ta.
I. LỬA VÀ NƯỚC
Trong đêm tưng bừng của thứ Bảy tuần Thánh, khi công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội không chỉ công bố bằng ngôn ngữ của lời, của âm thanh; hay ngôn ngữ trừu tượng của Thánh Kinh, của thần học, của suy tư tích lũy hàng ngàn năm qua… Rất đặc biệt, đêm vọng Phục Sinh, Giáo Hội đã sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính biểu tượng để công bố Tin Mừng Phục Sinh. Đó là những hành động biểu tượng giúp ta hiểu mầu nhiệm Phục Sinh và nội dung phong phú chất chứa trong mầu nhiệm này.
Đặc biệt đêm Phục Sinh có hai biểu tượng nền tảng đó là Lửa và Nước.
1) Lửa
Trước khi bắt đầu cử hành đêm cực Thánh này, nhà thờ tắt hết đèn. Một khung cảnh tối tăm bao trùm. Khung cảnh đó diễn tả một thế giới chìm trong nỗi chết do tội. Một thế giới mà lòng người còn đầy dẫy hận thù, yếu đuối, bất toàn, gian trá…
Thế rồi giữa cảnh tăm tối đó, thừa tác viên thắp sáng và rước nến Phục sinh từ cuối nhà thờ lên cung thánh. Nến Phục Sinh được thắp sáng ấy tượng trưng cho Chúa Kitô. Bởi vậy khi rước nến, linh mục lặp đi lặp lại lời này: “Ánh sáng chúa Kitô”.
Ánh sáng Chúa Kitô tới đâu, đẩy lùi bóng tối tới đó. Người tham dự cũng lấy lửa từ Lửa Phục Sinh, thắp sáng từng ngọn nến trên tay mình. Với ngọn nến được chuyển lửa từ Lửa Phục Sinh, cả nhà thờ, tràn ngập ánh sáng, không còn chìm trong bóng tối nữa.
Nếu bạn và tôi biết thắp lên niềm tin vào Chúa Phục Sinh trong cuộc đời của mình, và sống niềm tin ấy bằng một đức mến mãnh liệt nơi Thiên Chúa giàu lòng yêu thương, là chúng ta thắp lên Ánh sáng Chúa Kitô cho cuộc đời. Ánh nến cháy sáng trên tay chúng ta có ý nghĩa là như vậy.
2) Nước
Biểu tượng thứ hai là Nước. Trong đêm Phục Sinh, thừa tác viên làm phép nước và nhún cây nến Phục Sinh vào trong dòng nước. Nếu từ nơi Chúa Kitô, máu và nước chảy ra mang lại sức sống cứu độ trần gian, thì hôm nay, trong đêm Cực Thánh, dòng nước vừa mới được làm phép bởi nến Phục Sinh, trở nên dòng nước thanh tẩy chúng ta.
Dòng nước này sẽ đổ lên đầu các tân tòng để đưa họ vào thế giới của ơn cứu độ, của tình yêu, của sự sống. Dòng nước ấy cũng được rảy trên đầu mọi người tham dự, nhắc lại ơn tái sinh mà chúng ta đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.
II. BIỂU TƯỢNG DIỄN TẢ ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU
Suy tư sâu hơn một chút, ta sẽ thấy, thuở ban đầu khi tạo thiên lập địa, Chúa bắt đầu dựng ánh sáng trước hết. Ngay sau ánh sáng là nước. Như vậy, khởi đầu của sự sống là ánh sáng và nước. Trên nền tảng của ánh sáng, nước, Thiên Chúa tạo dựng thế giới, tạo dựng muôn loài, tạo dựng một nhân loại, và tạo dựng cả vũ trụ nguy nga này.
Tạo dựng chính là sáng kiến của tình yêu. Tạo dựng cũng là làm cho sống. Nghĩa là, từ thuở đời đời, Thiên Chúa vì yêu, đã san sẻ sự sống của Người cho tạo vật. Tạo vật sống cũng chính là tạo vật được yêu. Vì được yêu, tạo vật mãi mãi được sống trong sự sống của Người. Nhưng do tội, tạo vật đã đánh mất sự sống ấy của mình.
Như vậy, trong đêm công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội muốn sử dụng hình ảnh Lửa và nước của thuở ban đầu ấy để mọi người biết rằng, thế giới này, nhân loại này, vũ trụ này đã chìm trong bóng tối, đã chết trong tội, giờ đây được sống lại trong ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Nói cách khác, Nhờ ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu giãi, và nhờ dòng máu và nước từ cạnh sườn Chúa Kitô mà nhân loại này, vũ trụ này, thế giới này được sống, hơn thế, được sống trong sự sống của Thiên Chúa: sự sống của Đấng Phục Sinh.
Khi Giáo Hội rước lửa và rảy nước trên toàn dân, là Giáo Hội muốn công bố một niềm xác quyết: Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng về một thế giới mới, một công cuộc sáng tạo mới, một nhân loại mới được bắt đầu từ Chúa Kitô Phục Sinh. Niềm xác quyết ấy chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng của Lửa và Nước.
Đó là đức tin của chúng ta. Đó là đức tin của một sức sống mới, sức sống Phục sinh chảy tràn từ Đấng Phục Sinh mà chúng ta phải khắc ghi và phải sống.
Đó cũng là lòng mến của các Kitô khi cử hành đêm vọng Phục Sinh long trọng này để khắc ghi tình yêu của Chúa, một tình yêu cứu độ từ thuở đời đời hóa nên một tình yêu cứu chuộc quá đỗi diệu kỳ. Vì nếu Chúa tạo dựng con người bởi tình yêu, thì hôm nay, Người tái tạo cũng bằng tình yêu.
III. ĐỂ NHẬN RA ĐẤNG PHỤC SINH
Chỉ có ai sống đức tin của mình như ánh lửa cháy sáng, hay như một dòng nước có sức lan rộng, người ấy mới có thể yêu mến Chúa một cách chân thật. Chỉ có lòng yêu mến trong đức tin, mới nhận ra Đấng Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời mình.
Thánh Gioan tông đồ là người đã tin và đã yêu như thế. Ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.
Hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho ta biết tầm quan trọng của cảm thức đức tin và sự cần thiết của một đức mến nồng nàn.
Có ai ngờ rằng, suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các môn đệ đã không bắt được một con cá nào, thì bây giờ, khi trời đã bắt đầu rạng sáng, một người lạ xuất hiện, dạy các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Không hiểu sao, dù chỉ thấy đó là một người lạ, nhưng các môn đệ lại nghe theo, để cuối cùng, họ đã thu được một kết quả quá bất ngờ: “Lưới đầy toàn cá lớn”.
Thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốc rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa yêu” thật hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.
Vì “Người môn đệ Chúa yêu” đã có sẵn một lòng yêu mến Chúa, một đức tin từ kinh nghiệm sống với Chúa, nên đã nhận ra Chúa một cách hết sức dễ dàng.
Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin. Mình không có lòng yêu mến Chúa.
Nhưng Nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng.
Bạn ạ, trong đêm rước nến Phục Sinh, chỉ đi từ cuối nhà thờ lên cung thánh, một đoạn đường ngắn thôi, vậy mà ngọn lửa ấy đã chực tắt mấy lần. Và đã có những ngọn nến trên tay của những người tham dự tắt ngúm, phải lấy lại lửa từ phía những anh chị em bên cạnh.
Tôi nhìn thấy ngọn lửa mong manh ấy cũng chính là hình ảnh của đức tin, của lòng mến nơi bạn và tôi. Nếu có lúc nào đức tin chúng ta tắt ngúm, lòng yêu mến của mình chết lạnh, hãy tìm cách lấy lại ngay. Lấy lại bằng chìm đắm trong cầu nguyện, chứ đừng tuyệt vọng. Vì nếu có lúc đức tin và lòng mến càng trở nên tối tăm bao nhiêu, chúng ta càng phải đến gần Chúa nhiều hơn bấy nhiêu.
Và cũng như khi tắt lửa, ta lấy lại lửa từ anh chị em, thì cũng hãy nhìn những tấm gương sống đạo đức, thánh thiện của anh chị em mà vững tin, mà yêu mến Chúa hơn. Nhất là xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu anh chị em bất hạnh: mù lòa, tật nguyền, nghèo đói… nhưng họ vẫn tin Chúa, vẫn sống đạo. Họ chính là bài học sống, dạy chúng ta tin và yêu Chúa.
Hãy tin và hãy yêu để bạn và tôi cũng trở thành những môn đệ Chúa yêu. Từ đó nhận ra Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình, trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta phải đối mặt với nó. Chỉ cần đức tin, chúng ta sẽ được tăng thêm lòng mến. Khi có đức mến, tự nhiên đức tin cũng sẽ được bồi đắp hơn. Và khi tin tưởng vào Chúa trong một tình yêu, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện với mình.
Như vậy Lửa và Nước không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng của việc công bố Tin Mừng Phục Sinh, không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng để diễn tả đức tin và tình yêu của Giáo Hội. Nó còn là ngôn ngữ biểu tượng của lòng yêu mến Thiên Chúa, của đức tin, của sự gặp gỡ và đón nhận Chúa Kitô đang hiện diện, không phải chỉ trong lễ Phục Sinh nhưng trải dài suốt cuộc đời của mỗi người.
24. Vâng lời
Lúc còn nhỏ, tôi thường nghe cha mẹ nói: Đức vâng lời trọng hơn của lễ. Con cái lớn có nhiều tiền cũng chưa chắc làm vui lòng cha mẹ bằng một đứa con nhỏ nhưng biết vâng lời. Điều này làm tôi suy nghĩ.
Thực ra, những gì con cái có cũng là do cha mẹ tích luỹ và giúp cho mới có. Vd: kiến thức, nghề nghiệp, vốn sống. con cái lúc còn nhỏ, nhờ cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, chăm sóc mới trưởng thành, mạnh khỏe. Trong giai đoạn này, conc ái có làm nên chuyện gì cho cha mẹ nhờ đâu! Nếu không vì con cái, cha mẹ sống dư ăn dư mặc. Cho nên, đối với cha mẹ, điều cha mẹ ưa thích nhất là con cái biết vâng lời hơn là chỉ trả hiếu bằng vật chất.
Từ đây, tôi nghĩ đến tương quan của con người đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha Mẹ chúng ta, chúng ta có thể giúp gì cho Ngài, vì chính Ngài tạo nên trời đất muôn vật. Điều chúng ta làm vui lòng Ngài là vâng theo thánh ý. Loài người chúng ta tự sức mình có thể làm được gì? Trường hợp các Tông đồ trong bài phúc âm hôm nay cũng dạy ta điều đó. Các Tông đồ đã nhiều năm kinh nghiệm trong nghề chài lưới nhưng suốt đêm không bắt được con các nào! Lúc các ông giặt lưới, chuẩn bị về thì Chúa Giêsu hiện đến. Ngài chỉ phán một lời: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Quả nhiên, làm theo lời Chúa dạy, các Tông đồ được một mẻ cá lớn chưa từng thấy, không thể kéo nổi lên thuyền. Như vậy, với kinh nghiệm nhiều năm và sức cố gắng suốt đêm của các Tông đồ cũng chưa chắc được gì! Nhưng với sức Chúa thì trong tích tắc đã có đủ những gì chúng ta mơ ước.
Chúa Giêsu rất thương các tông đồ. Ngài biết các ông vất vả suốt một đêm nhưng không bắt được gì, nên đã ban cho một phép lạ, một mẻ cá đầy thuyền. Hơn nữa, Ngài còn muốn thể hiện tình thầy trò gắn bó mật thiết với các Tông đồ trước khi về trời, nên đã tự tay nướng cá và bánh đãi các ông. Rõ ràng, Chúa Giêsu sống rất tình nghĩa và luôn dõi theo các ông mà trợ giúp.
Với một tình nghĩa Thầy trò đầm ấm mật thiết như vậy, lẽ nào các ông lại phản bội Thầy Giêsu cũng là Chúa của mình.
Các ông biết Ngài là Thiên Chúa có quyền năng vô biên, cảm nhận tình nghĩa Thầy trò gắn bó, thân thiết. Do đó, khi thầy thượng tế ra lệnh cấm các ông nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy thì Phêrô và các Tông đồ trả lời ngay: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta. Thiên Chúa, cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, tôn Ngài làm Đấng Cứu Độ để cho Israel được ăn năn sám hối và ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các điều ấy cùng với Chúa Thánh Thần.
Các Tông đồ không thể nói trái sự thật được. Cho dù khi nói sự thật thì bị kẻ cầm quyền làm khó dễ. Khi bị nhà cầm quyền đánh đòn, các Tông đồ tuy đau đớn nhưng lòng đầy hân hoan vì thấy mình được chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu. Mặc dù việc rao giảng về Chúa Giêsu gặp nhiều khó khăn, nhưng các Tông đồ không chùn bước khi nhớ lại tình nghĩa thầy trò và mẻ cá lạ lùng hôm nay. Qua mẻ lưới lạ lùng, các Tông đồ hiểu rằng: chỉ cần Chúa phán một lời thì kẻ thù Ngài tan rã và đồng lúa truyền giáo được mùa bội thu. Thế nhưng, ý nhiệm mầu của Chúa dường như muốn cho các ông phải khổ một thời gian để thông phần đau khổ với Chúa. Rồi mai đây Chúa sẽ cho các ông gặt hái những kết quả mỹ mãn, không phải bởi sức riêng của mình nhưng nhờ ơn Chúa. Và sau cùng, Ðức Giêsu sẽ cho các ông đồng hưởng vinh phúc với Ngài trên Thiên Quốc.
Con người ngày nay hay cậy sức riêng mà quên phó thác cho kế hoạch nhiệm mầu của Chúa nên hay thất vọng. Chúng ta con Chúa, hãy trông cậy vào Chúa, cứ cố gắng thờ phượng Chúa, đối xử tốt với tha nhân, loan báo Tin Mừng phục sinh, giữ vững niềm tin. Rồi Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta, và cứu độ những ai có lòng thành tâm tìm Chúa.
Xin Chúa cho chúng con biết hướng lòng về Chúa, năng cầu nguyện và tìm mọi cách cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
25. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R. Veritas.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người, là sự dấn thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi, bị những vị lãnh đạo uy quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa. Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài và làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế, để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tuân phục Chúa, chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng."
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cứu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người", đọc và suy nghĩ về lời này của thánh tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do Thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cùng với quyền lãnh đạo dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm dụng quyền hành của họ để xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng Chúa Kitô Phục Sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai thái độ hoặc theo Chúa Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do Thái, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Giêsu Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải là lời kêu gọi dân chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.
Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.
Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế chỗ của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội, để sống đúng phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa, và như là anh chị em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, và cuối cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một trăm năm, sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. "Chúng tôi và Thánh Thần", không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa không thiếu, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để củng cố sự dấn thân của họ và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức trong tình thân thiết Thầy trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui mừng và củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do sau đây:
Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn đệ, những kẻ cách này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải qua, tức cuộc khổ nạn và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở trách các ông mà ngược lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: "Bình an cho các con", như thể Chúa đã nói: "Thầy không chấp những lỗi lầm của các con đã bỏ Thầy, Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần để đổi mới các con, cho các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn luôn có sự bình an giữa sự thử thách".
Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu thực hiện phép lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần đầu tiên, phép lạ lưới được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng Chúa Phục Sinh mời gọi họ, tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm của họ. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội và Chúa không bao giờ từ bỏ chương trình Ngài đã định.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được bình an và niềm vui. Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con cho chúng con được củng cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh nhận.
26. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe phác họa lại cảnh Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ trên bờ biển Hồ Tibêria. Sự kiện này xoay quanh Tông đồ Phêrô. Trong lúc Phêrô và các Tông đồ trở lại nghề cũ là đánh cá thì Chúa Giêsu hiện ra. Sau bữa ăn, Đức Giêsu đã thẩm định tình yêu của Phêrô và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là chăn dắt đàn chiên của Chúa. Sự kiện này có thể làm cho chúng ta thắc mắc: Tại sao Phêrô chỉ là một ngư phủ dốt nát, thậm chí ông là một người đầy những yếu đuối, mới chối bỏ Thầy mình cách đây vài ngày, thế mà giờ đây Chúa Giêsu sau khi sống lại đã không trách móc hay hạch tội Phêrô mà còn trao cho ông một sứ vụ, một ơn gọi thật lớn lao như vậy? Phải chăng Phêrô tuy yếu hèn nhưng lại có tài lãnh đạo cao? Không phải vậy.
Thầy Giêsu đã đi bước, Ngài đã thấy tấm lòng của Phêrô và Ngài chấp nhận con người yếu đuối của ông để từ tình tình yêu và lòng trung thành của Phêrô mà Thầy Giêsu hoàn tất những gì Ngài khởi sự nơi ông. Điều này còn cho ta thấy, Đức Giêsu không xây dựng Giáo hội của Ngài trên sức mạnh của con người nhưng xây dựng trên tình yêu và lòng trung thành của con người.
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Phêrô là người bộc trực, tính tình nóng nảy, rất nhiều lần ngài hành động mà không suy nghĩ, Phêrô phản ứng rất mau lẹ trước mọi biến cố, mặc dù gặp nhiều sai sót và bị Đức Giêsu sửa dạy nhiều điều. Chẳng hạn, khi vừa nghe Thầy Giêsu loan báo cuộc thương khó, Phêrô đã vội can ngăn thầy mình, liền bị Chúa rầy cho là đồ Satan. Hay khi Thầy Giêsu rửa chân cho Phêrô để dạy cho ông bài học yêu thương phục vụ thì Phêrô lại từ chối: "Không được, không đời nào thầy mà lại đi rửa chân cho học trò". Chưa hết, khi quân lính đến bắt Thầy Giêsu, Phêrô đã nhanh tay rút lấy gươm mà chém đứt tai của một người đầy tớ vị thượng tế. Và tệ hại hơn nữa, trong lúc Thầy Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn, trong đó có cả ông, Hơn nữa đang lúc Thầy Giêsu gặp cảnh khốn khó, đáng lẽ Phêrô phải đứng ra bênh vực nhưng Phêrô đã không làm như vậy, ông đã thẳng thừng chối bỏ Thầy mình. Con người Phêrô là thế đó, đầy khiếm khuyết, yếu đuối, bất toàn..Tuy yếu hèn như vậy, nhưng Phêrô lại có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình. Có ai vừa nghe nói: "Chúa đó" thì vội mặc áo vào rồi lại nhảy xuống nước không? Thế nhưng hành động này của Phêrô chứng tỏ rằng ông có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình.
Sau biến cố Thầy Giêsu tử nạn, các Tông đồ hoàn toàn thất vọng và buồn chán vì đã ba năm các ông bỏ mọi sự mà đi theo Thầy mong tìm được sự đổi đời. Thế mà bây giờ mọi sự đều phải bắt đầu. Ông Phêrô đành trở lại với nghề cũ của mình. Song le tâm hồn Phêrô vẫn còn âm ĩ một nỗi niềm mong chờ được gặp lại Thầy Giêsu. Phêrô vẫn còn khao khát mong sớm được gặp lại Thầy của mình. Chính vì thế mà cũng hiểu vì sao khi vừa nghe nói Chúa đó thì Phêrô không còn kịp chèo thuyền vào bờ nữa mà vội khoác áo vào rồi nhảy xuống nước để đến với Chúa cho nhanh hơn. Gặp được Chúa rồi thì hạnh phúc. Sau bữa ăn, Đức Giêsu bắt đầu thẩm vấn Phêrô về tình yêu và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là làm thủ lãnh Giáo hội để tiếp tục công việc của Ngài. Không giống những cuộc thẩm vấn nào cả, Đức Giêsu không hỏi Phêrô bằng cấp, kinh nghiệm lãnh đạo, nhưng Ngài hỏi về tình yêu và lòng trung thành của ông đến ba lần: "có yêu mến Thầy không"? Câu hỏi ấy thật tế nhị vì với Phêrô mới chối Thầy ba lần mà giờ đây Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không. Mới phản bội đây mà bây giờ lại nói lời yêu thương thì thật là ngại quá. Thế nhưng Phêrô đã mạnh dạn: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần chối Chúa thì giờ đây cũng ba lần Phêrô nói lời yêu thương để tuyên xưng lại niềm tin. Từ đó, Phêrô đã thực sự trở nên thủ lãnh chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Như vậy, Phêrô đã trung thành với ơn gọi của mình và đã trung thành cho đến chết.
Khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa trao cho một ơn gọi, đó là ơn gọi làm Kitô hữu, làm con Chúa. Tuy chúng ta đầy yếu hèn nhưng Chúa vẫn thương, kêu gọi chúng ta trở thành những Kitô hữu. Thế nhưng điều đáng tiếc là ngày nay có nhiều người đã không sống tròn bổn phận là Kitô hữu biết yêu thương như Chúa muốn. Như thế thì chúng ta còn gì là men là muối cho đời nữa, và như thế không còn trung thành với ơn gọi Kitô hữu. Ơn gọi Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên "muối và ánh sáng cho trần gian". Chúng ta là những Kitô hữu, không phải chỉ để cho có danh, nhưng chúng ta phải hành động, phải sống đời Kitô hữu của mình. Chúng ta phải là ngọn đèn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy sống trọn ơn gọi làm Kitô hữu của mình. Nói cách khác, chúng ta hãy "sống đạo" chứ đừng "giữ đạo". Vậy chúng ta đã là những Kitô hữu thì chúng ta hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm Kitô hữu của mình.
Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta biết ý thức lại và sống ơn gọi Kitô hữu của mình để chúng ta luôn là những gương sáng cho những người khác, để chúng ta biết sống Thánh Lễ nối dài từ trong nhà thờ đến giữa đời để từ đó chúng ta luôn là men là muối ướp cho mặn đời. Amen.
27. Hãy tin vào tình thương Chúa.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Đamát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công khai nói lên lời "yêu mến Thầy", là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.
Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: "nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: "Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm". Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng "lực bất tòng tâm". Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh em.
Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.
Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với nhau. Amen.
28. Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống luôn cho chúng ta những cơ hội để làm việc, để thăng tiến. Có những khi thất bại hay yếu đuối, cuộc sống lại cho chúng ta những cơ hội để sửa đổi, để chuộc lỗi. Cơ hội để làm lại, để chuộc lỗi luôn cần thiết nơi chúng ta. Ai nên khôn mà không từng thất bại. Ai bước đi mà không từng vấp té. Thế nên, cần lắm những cơ hội để đứng dậy sau những lần vấp ngã.
Có những vấp ngã thể xác. Có những vấp ngã tâm hồn. Vấp ngã nào cũng cần đứng dậy. Vấp ngã nào cũng cần một bàn tay ai đó trợ giúp. Vấp ngã nào cũng cần cơ hội để đứng dậy chuộc lại lỗi lầm.
Ông Mahatma Gandhi đã kể rằng: “Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, khiến tôi luôn mất bình an. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn”.
Chúa Giêsu cũng cho Phêrô cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Khi Chúa thử thách lòng tin của Phêrô. Chúa bảo Phêrô hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Phêrô đã mệt sau một đêm vất vả chẳng được gì! Thế mà, ông vẫn tin, vẫn thả lưới. Lưới đã đầy. Lòng tin của ông cũng đầy tràn sau mẻ cá kỳ diệu.
Lòng tin ấy đã giúp Phêrô mạnh dạn 3 lần cam kết với Chúa rằng “con sẽ yêu mến Thầy hơn những người này”. Lời cam kết này sẽ đi trọn cuộc đời của thánh nhân. Ngài đã trung thành đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ niềm tin của mình vào Thầy chí Thánh Giêsu là Thiên Chúa Đấng cứu độ trần gian.
Cuộc đời thánh Phêrô tưởng chừng đã kết thúc sau 3 lần chối Chúa. Thế nhưng, Chúa đã phục sinh. Cuộc đời ông cũng phục sinh nhờ lòng thương xót của Chúa. Chúa đã tìm đến với ông. Chúa không oán trách. Chúa còn cho ông cơ hội minh chứng cho tình yêu của mình. Lòng thương xót của Chúa đã cải lão hoàn sinh cho con người cũ của Phêrô. Con người của hèn nhát, của chối Chúa, bỏ Thầy thành con người mới can trường, mạnh mẽ ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời cần lắm những lần tha thứ cho nhau. Cuộc đời càng cần hơn khi ta bỏ qua tính tự ái để cho anh em cơ hội chuộc lỗi lầm. Vợ chồng hãy tha cho nhau không chỉ một lần mà cần nhiều lần để giúp nhau cơ hội sửa đổi sai lầm. Cha mẹ hãy tin tưởng con cái hơn khi cho chúng cơ hội đứng dậy sau những lần vấp ngã. Bạn bè vẫn cần cơ hội để thể hiện lòng chân thành dành cho nhau.
Ước gì chúng ta biết học nơi Chúa lòng bao dung và tính nhẫn nại để luôn cho nhau cơ hội chuộc lỗi lầm. Xin cho chúng ta luôn ý thức là người luôn có yếu đuối, luôn lớn lên trong tình thương tha thứ của mọi người thì cũng cảm thông tha thứ cho nhau. Amen.
29. Cảm thông với nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lời tâm sự viết như sau: “Hôm qua, bị ngã rất đau, muốn khóc lắm, nhưng không dám khóc. Và cũng không thể khóc, vì cảm giác đau đã trôi qua nhanh, nhường chỗ cho cảm giác xấu hổ.
Tất cả mọi người nhìn vào, hình như đâu đó có tiếng ai đó chê bai: “Lớn thế rồi mà đi đứng còn ngã”. Đâu đó còn có cái nhếch môi cười, và đâu đó còn có cả cái xuýt xoa...
Tự dưng ước mình chỉ là một đứa trẻ, là trẻ con thì được ngã, ngã thoải mái, khóc thoải mái. Tiếc là đã lớn, lớn không được ngã. Ngã người cười chê…”
Ngã là chuyện thường tình. Nhưng xem ra nguời ta chỉ chấp nhận cho trẻ con được ngã, còn người lớn thì hình như không được phép ngã. Dẫu biết rằng: “Ai nên khôn mà không dại một lần”; và: “Một lần ngã là một lần bớt dại – Cho thêm khôn chút nữa trong đời”. Nhưng xem ra người ta dễ xem thường nhau mỗi khi ai đó vấp ngã trong đời.
Đôi khi chúng ta vẫn chê trách, đàm tiếu với nhau về những lầm lỗi, khiếm khuyết của người này, người nọ. Đôi khi chúng ta ít cảm thông với những yếu đuối, thiếu sót của tha nhân. Dẫu biết rằng không ai hoàn hảo. Nhưng chúng ta vẫn thích bỉu môi, xuýt xoa về những lầm lỗi của tha nhân.
Người lớn không nên ngã. Ngã bị người đời cười chê, bị người đời xem thường. Ngã là biểu hiện sự vô ý tứ hay bồng bột. Ngã là dấu chỉ của sự chưa cứng rắn hay trưởng thành. Thế là, người ta thường kết án nặng lời với những cái ngã của anh em. Người ta ít cảm thông cho cái ngã của tha nhân. Người ta thường xem thường những ai lớn rồi mà còn ngã. Xem ra, người bị ngã đã đau còn đau hơn bởi sự thiếu cảm thông của anh em mình. Họ bị cô đơn trong nỗi quặn đau không nói thành lời, vì chẳng ai hiểu mình, chẳng ai cảm thông với mình.
Có người còn nói rằng: đau nhất là ngã hai lần cùng một lỗi. Ngã một lần, lần sau lại ngã. Có dại mới ngã, có ngã mới bớt dại, mỗi lần ngã thêm một lần bớt dại, mỗi lần ngã là một lần đau đớn. Nhưng có cái dại nào giống cái dại nào đâu! Thế nên, làm người thường vấp ngã về thể xác và tinh thần không chỉ một lần mà có khi rất nhiều lần. Không chỉ khi còn trẻ mà có khi vào tuổi gần đất xa trời vẫn vấp ngã vì dại! Nhưng nếu mỗi lần vấp ngã mà có ai đó cầm tay, nâng đỡ thì có lẽ cái đau sẽ bớt đi và tinh thần đứng lên làm lại sẽ mạnh mẽ hơn.
Phêrô đã từng vấp ngã. Tuy đối tượng khác nhau nhưng hoàn cảnh vẫn không thay đổi. Thế mà ông ngã đến ba lần. Ông vấp ngã không ai nâng đỡ ông. Không ai kéo ông đứng lên. Vì ông phạm tội chẳng ai biết. Ông té chẳng ai hay. Thế nhưng, có một người biết hết mọi sự. Có một người vẫn nhìn theo ông. Đó là Thầy Giêsu. Ngài không nói. Nhưng ánh mắt như một lời nhắc nhở, động viên Phêrô hối cải và làm lại cuộc đời. Ánh mặt biểu lộ tấm lòng. Ánh mắt bày tỏ tấm lòng nhân ái mà Chúa dành cho Phêrô. Ánh mắt ấy không xét tội của Phêrô. Ánh mắt ấy chỉ nhắc nhở Phêrô đã ngã đến ba lần mà là cái ngã mà Thầy đã cảnh báo trước nhưng ông vẫn xem thường.
Xem ra Chúa cũng nhìn Phêrô như một học trò cần được yêu thương vỗ về hơn luận phạt. Phêrô ngã Chúa nâng đỡ. Phêrô sai đường Chúa uốn nắn. Chúa không nói với Phêrô : “lớn thế còn ngã”. Chúa cũng không xem thường Phêrô, nhưng Chúa chỉ mời gọi Phêrô: “Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.
Hôm nay, sau khi Chúa sống lại, Ngài đã không tìm Phêrô để luận tội. Ngài chỉ đòi Phêrô nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh Giêsu. Chúa đã hỏi Phêrô đến ba lần: “con có yêu mến Thầy không”. Ba lần công khai nói lên tình yêu để xoa dịu nỗi đau dằn vặt lương tâm sau ba lần ông vấp ngã đến chối Chúa ba lần.
Phêrô hiểu tình yêu của Thầy. Phêrô hiểu Thầy luôn yêu Phêrô. Và Thầy cũng hiểu tấm lòng chân thành của Phêrô. Phêrô có té nhưng không chủ ý. Phêrô té vì yếu đuối. Phêrô té vì nhu nhược. Nhưng Phêrô không té vì phản bội. Phêrô vẫn yêu Thầy và gắn bó với Thầy. Thế nên, khi được hỏi: “con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đã mạnh dạn thưa: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”
Cuộc đời hôm nay, có lẽ có nhiều lần chúng ta cũng từng vấp té, nhưng chẳng ai cảm thông, nâng đỡ. Đôi khi còn bàn tán, xem thường. Mỗi lần vấp té đã đau lại càng đau hơn khi không nhận được sự cảm thông nâng đỡ từ anh em. Một mình ta quặn đau. Một mình ta phải đương đầu với khó khăn. Một mình phải gượng đứng dậy. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán trường muốn buông xuôi mặc cho dòng đời đưa đẩy. Nhưng không Chúa biết mọi sự. Chúa vẫn nhìn chúng ta như Ngài đã từng trìu mến nhìn Phêrô. Chúa đã từng hứa: “cho dù người mẹ có bỏ con, Ta vẫn không bỏ các ngươi”. Chúa vẫn ân cần vực dậy khi chúng ta váp té trên đường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen.
30. Tình yêu - Phương thức điều quản Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.
Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát
“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.
Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.
Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.
Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.
Sức mạnh của Lời
Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường. Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.
Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội
Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông: Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.
Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.
Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.
Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.
Kết luận
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
31. Yêu mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng thuật lại hai tiếng gọi Chúa gọi Phêrô. Tiếng gọi đầu tiên là khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai sau khi Chúa sống lại như Tin Mừng hôm nay tường thuật. Hai tiếng gọi cách nhau ba năm. Dọc theo thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông khám phá được nhiều điều về Thầy của mình, học biết nhiều công việc khi theo Thầy, và nhất là ông có kinh nghiệm gặp được chính bản thân mình.
Khi Chúa gọi lần hai, Phêrô đã là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn.
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò. Một đêm đen mờ mịt tại biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời Phêrô từ đêm đen thất bại ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Chúa Giêsu Phục Sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục Sinh hỏi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: “con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói: Thầy bảo cho con biết, lúc còn trẻ con tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi con chẳng muốn”. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: “Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào”. Thế rồi Chúa bảo ông: “Hãy theo Thầy”. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của Giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Thánh Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:"Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5,2-4).
Ngày 19.3.2013, thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô. Trong bài giảng lễ, ngài suy niệm: “…Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải được linh hứng bởi sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, trung tín của thánh Giuse và như thánh nhân, ngài phải mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và đón nhận với lòng từ ái toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mathêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, những người trần trụi, đau yếu, tù đày (x.Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết làm sao để bảo vệ!”.
Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi đã phục vụ Giáo hội với lòng yêu mến nên ngài là một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt còn là người luôn biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ngài thông cảm với yếu đuối của người khác. Thánh Phêrô học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Đó là, dù ngài đã chối Chúa nhưng Chúa vẫn luôn yêu thương ngài. Chính tình thương của Chúa đã thanh tẩy ngài khỏi mọi lỗi lầm. Cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là điều thật ngạc nhiên. Ân sủng là như thế đó.
Cũng như vậy, đối với Thánh Phaolô, tất cả là ân sủng. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê "anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai. ..(2Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt "chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài "tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?. .. Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta " (Rm 8, 35-39).
Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ngài được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài tổ chức, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? Thích chở nhau đi chơi ? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo ! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha ! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất chí lý: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo cách miễn cưỡng.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Mọi ơn gọi đều là tình yêu. Nhờ lòng mến Chúa nên chúng ta yêu mến Giáo hội và yêu thương anh em.
Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?
32. Con có yêu mến Thầy không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ngài ra làm hai. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma. Cuộc đời phần một: Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất. Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31) Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16) Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33) Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16,16-17).
Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô: là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết, lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:"Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5,2-4).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng. Cũng như tất cả là ân sủng đối với Thánh Phaolô. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê "anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai... (2Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt "chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cr 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài "tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?. .. Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39). Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, được Chúa chọn lựa một cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? Thích chở nhau đi chơi ? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo ! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?
33. Con có yêu mến Thầy không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.
Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).
Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)
Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)
Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)
Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).
Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.
Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.” Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5:2-4).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt. Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.” Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?
34. Giáo hội phổ quát
"Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách".
Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồng của Giáo Hội. Phổ quát có nghĩa là chung, dành cho tất cả mọi người. Tuy vậy, không phải đến thời của Thánh Inhaxiô thì điều này mới được thánh nhân phát hiện ra. Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ đã nhận ra được sứ vụ phải loan báo Tin Mừng cho mọi loài. "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Nhưng chính xác hơn điều này đã thấy trước khi Đức Giêsu chịu nạn khi Ngài tiên báo là dân Do thái sẽ bị loại ra và các dân khác sẽ được hưởng ơn cứu độ." (Mt 8,12).
Đoạn Phúc Âm cuối cùng của Thánh Gioan cho chúng ta thêm một lời khẳng định về tính phổ quát của Giáo hội. Ta thấy nơi Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên là ở bờ hồ Giênêgiarét (x. Ga 5,1). Và bây giờ Chúa lại đến bờ hồ Tibêria để trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ hay nói đúng hơn là quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trong Kinh Thánh bờ hồ là nơi Đức Giêsu gặp gỡ và giảng dạy dân chúng. Nghĩa là Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ tiếp tục công việc của Ngài, nhưng hôm nay không phải chỉ ở bờ biển mà là mọi nơi trên trần gian này.
Theo trình thuật của Thánh Gioan thì Phêrô được xem như vai chính trong đoạn phúc âm này. Ông thả lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Rồi cũng chính ông nghe theo lời Đức Giêsu thả lưới bên phải mạng thuyền.. Ông cũng là người kéo mẻ cá đó vào bờ. Ông đã thắng đậm. Lưới đầy cá lớn. Một mẻ lưới mà từ lúc khởi nghiệp nghề biển đến nay ông chưa bao giờ có được. Chắc chắn Thánh Gioan có dụng gì sâu xa khi để cho 153 con cá xuất hiện trong mẻ lưới của Phêrô. Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay đã trình bày 3 gợi ý rất thú vị về con số 153 này.
Thứ nhất, theo Cyril ở Alexandria cho rằng số 153 có 3 điểm để lưu ý. Số 100 tiêu biểu cho sự trọn vẹn, đàn chiên 100 con thì mới tốt(). Hạt giống tốt cũng sinh 100. Đó là một sự đầy đủ của mọi dân tộc. Còn 50 là số dân Israel còn sót lại được thu tập về. Còn số 3 là Ba Ngôi mà mọi vật phải qui tụ.
Thứ hai, theo thánh Augustinô, số 10 là 10 điều răn, là lề luật của Chúa. 7 là 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 cộng 10 là 17. Mà tổng các số từ 1,2,3.... đến 17 là 153. Như vậy, 153 là tất cả những ai nhờ lề luật hoặc nhờ ân sủng thúc bách mà tìm về với Đức Giêsu.
Đơn giản nhất là cách lý giải của Thánh Jerome. 153 là tất cả mọi sắc tộc, mọi quốc gia sẽ được quy tụ về một chủ chăn là Đức Giêsu.
Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu thêm một hình ảnh rất sống động và cũng rất giàu ý nghĩa là chiếc lưới. Chiếc lưới dù bắt nhiều cá nhưng không rách. Tay lưới là Hội thánh. Hội thánh có đủ chỗ cho tất cả nhân loại trên địa cầu. Có bao nhiêu người thì Hội thánh cũng đủ rộng để ôm ấp, giữ gìn.
Trình bày như thế chắc là chúng ta cũng hiểu được dụng ý của Thánh Gioan một cách ít nhiều. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Hội thánh không còn là độc quyền của riêng người Do thái hay một nhóm dân đạo đức nào. Mà cho tất cả những ai tin và chịu phép rửa của Ngài, không có sự phân biệt màu da, ngôn ngữ, giới tính, sắc tộc. Ngày hôm nay Hội thánh vẫn giữ nguyên sứ vụ của mình như cách đây 2.000 năm. Đó là lãnh đạo nhân loại hướng về hạnh phúc thật trên thiêng đàng. Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. "Tính bao dung của Hội thánh cũng phổ quát như tình yêu thương của Đức Chúa Trời". Chính nhờ tính phổ quát đó mà giờ đây tôi được làm con cái Thiên Chúa, làm thành phần dân thánh của Người. Ý thức như thế để chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì đã cho ta tháp nhập vào thân thể thánh thiêng của Người. Nói như thánh Cypriano: "Không ai có thể có Thiên Chúa là cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ". Như vậy, dù thế nào thì chúng ta cũng phải có mẹ, để được sinh ra trong cuộc đời này. Cũng như không thể bước vào Nước Trời mà không qua Hội thánh. Qua đó, chúng ta cần hoà mình vào trong nhịp sống của Giáo hội, để trở nên con hiếu thảo, và góp cánh tay để Giáo hội được nới rộng ra cho nhiều anh chị em, để tính phổ quát của Giáo hội được biểu hiện thiết thực hơn.
35. Bữa ăn trên bờ biển
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội.
Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người đang chờ mình, gọi mình.
Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.
Nhưng, thưa anh chị em,
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh chị em thân mến,
Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.
Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
36. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
ÐƯỢC BIẾN ÐỔI NHỜ VÂNG LỜI CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
Khi hướng về tương lai, con người ta hay đặt hy vọng của mình vào điều gì đó hay một ai đó. Ðó là động cơ thúc đẩy con người ta thêm phấn khởi để dấn bước. Tuy nhiên, nếu như đột nhiên người đó hay điều đó bỗng nhiên mất đi thì phần nhiều sẽ làm cho người hy vọng sẽ cảm thấy mất phương hướng. Ðang lúc mất phương hướng như thế, nếu họ may mắn gặp được một ai đó hay điều gì đó tốt hơn chắc chắn sẽ làm cho cuộc đời họ được biến đổi.
Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị treo trên cây thánh giá thì các Tông đồ như những con người mất cả phương hướng sống. Mặc dù, các ông được Chúa Giêsu kêu gọi đi theo nhưng trong các ông vẫn còn những tính toán theo kiểu người phàm. Các ông hy vọng mình sẽ được đổi đời. Bất ngờ, Chúa Giêsu bị người ta bắt và đem đi đóng đinh một cách khổ nhục trên cây thánh giá. Thử hỏi làm sao các ông có thể bình tĩnh cho được.
Một buổi sáng nọ, các ông quyết định trở lại nghề nghiệp của mình trước kia. Ông Phêrô đã gợi ý: "Tôi đi đánh cá đây." (Ga 21, 3b). Với gợi ý đó, các Tông đồ còn lại đồng thanh hưởng ứng: "Chúng tôi cùng đi với anh." (Ga 21, 3c). Dường như trong tâm trạng buồn chán thất vọng nên suốt đêm các ông hầu như không bắt được một con cá nào.
Chính lúc ấy Chúa Giêsu Phục sinh xuất hiện: "Người nói với các ông: Này các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." (Ga 21, 5 - 6). Theo lẽ thông thường các ông có quyền không làm theo vì đã suốt đêm rồi chẳng bắt được con nào. Dầu vậy, các ông vẫn làm theo: "Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá" (Ga 21, 6b). Ðến lúc này các ông mới nhận ra người kêu mình chính là Chúa Giêsu Phục sinh: "Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó!. Vừa nghe nói , Chúa đó!, ông Si-môn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển". (Ga 21, 7)
Ðây là cử chỉ khiêm tốn thật lòng của Phêrô. Từ một con người hung hăng đến chối Thầy giờ đây không còn nữa. Bây giờ Phêrô đã nhìn nhận được thân phận của mình. Thái độ khiêm tốn này chính nhờ ông tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh. Từ đây về sau ông không còn mơ ước được làm người người lớn theo kiểu người phàm nữa.
Chúa Giêsu đã biến đổi ông để sau này ông trở thành người lớn theo cách dạy của Chúa Giêsu. Ðó là hiến mình phục vụ Chúa và anh chị em. Mỗi người tín hữu chúng ta cũng được mời gọi tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh trong đời sống hằng ngày. Nhờ đó, chắc chắn đời sống của chúng ta sẽ được biến đổi mỗi ngày tốt hơn.
37. Bảo đảm cho sự chân truyền – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên đoán biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Đức Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.
1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động, Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2) Những lời Thày nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa chọn một số người “lập thành nhóm các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân 19). “Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta” (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.
38. Mẻ lưới của Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: "Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia".
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).
Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển" (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: "Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa". Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em" (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l'Évangile, no 24)
Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: "Tôi đi đánh cá đây"(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: "Bây giờ họ không có gì khác để làm".
Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau "khổ đau" của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.
Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở "phía bên kia" thuyền. Tại sao lại ‘bên kia? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.
39. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Cha mẹ nào không yêu thương con, nhưng người làm con thì không ai mà không làm cho cha mẹ mình phải phiền lòng, nhiều khi còn làm cho các ngài phải đau đớn vất vả. Còn có những người con, suốt cả một đời không làm được một việc gì xứng đáng để gọi là đền đáp công ơn.
Nhưng một khi, nếu người con đó biết quay trở về với tình thương của cha mẹ, thì mọi lỗi lầm trước kia dường như không còn tồn tại nữa. Tình thương yêu được biểu hiện qua hành động rất cụ thể, qua sự lo lắng chăm sóc. Tình thương của cha mẹ có phần nào đó không thể giải thích được, dường như có một chút gì đó hơi mù quáng nếu đem cân đo đong đếm bằng khoa học. Từ ngàn đời vẫn thế. Cha mẹ vẫn thương yêu, vẫn tự hào đặt niềm tin vào con của mình. Còn những người con, có những người cũng biết cách đền đáp cho xứng đáng, cũng có những người dường như không nhận ra được tình thương yêu đó.
Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, Ngài luôn yêu thương và thành tín. Các Tông Đồ đã từng theo Chúa Giêsu, đã được dạy dỗ, đã từng được yêu thương. Giờ đây Các ông đang làm gì? Các ông đang trở lại con đường cũ, con đường mà Chúa Giêsu đã kêu gọi các ông từ bỏ để theo Ngài. Các ông đang trở về với nghề của đêm tối. Nhưng cho dù các ông có đầy đủ kinh nghiệm, nếu không có Chúa bên cạnh, với những sức lực và tài năng cùng với kinh nghiệm, cũng không ích lợi gì.
Một phép lạ được thực hiện. Một mẻ cá bất ngờ. Nếu các ông không biết lắng nghe, thì phép lạ đã không được thực hiện. Nhưng điều quang trọng hơn là các ông đã nhận ra được Người đã từng yêu thương mình, đã từng kêu gọi mình đỗi đời. Các ông đã biết quay trở về. Các ông đã nhận được sự triều mến, thương yêu chăm sóc lo lắng qua thức ăn đã dọn sẵn.
Các ông đã biết cách đền đáp tình yêu thương bao la đó, các ông không còn trở lại con đường của ngày xưa nữa, mà bước theo con đường mà Đấng yêu thương kêu gọi và dẫn dắt.
Chính vì các ngài đã biết cách đền đáp tình yêu thương cho xứng đáng mà hôm nay, chúng ta những người công giáo, những người ngồi trong nhà thờ này cũng nhận biết được tình yêu thương đó. Chúng ta cũng từng được kêu gọi bước theo Chúa, từng sống với Ngài, được giảng dạy, được hưởng những hồng ân. Chúng ta cũng có những quyết tâm rất tốt đẹp để sống xứng đáng hơn. Nhưng cũng như các Tông Đồ, chúng ta cũng từng trở lại con đường cũ, con đường riêng tư, con đường mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta từ bỏ.
Chúng ta lần mò trong đêm tối của những toan tính không ngay chính, của những ước vọng không tốt đẹp, của những việc làm không chấp nhận được. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng hiện diện để kêu mời, để chỉ dạy qua những biến cố, những con người. Nhưng chúng ta có như các tông đồ, có nhận ra Chúa, có dám hăng hái, bất chấp dòng nước lạnh của cuộc đời ngăng cản mà quay trở về. Nếu chúng ta làm được như thế, thì phép lạ đã xảy ra, cuộc đời chúng ta đã được thay đỗi. Chúng ta nhận ra được sự thương yêu triều mến qua những hồng ân trong suốt cuộc đời.
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy tư, xem mình là người con biết cách đền đáp tình thương yêu, hay là người con luôn làm phiền lòng cha mẹ. Cứ nhìn vào đời sống đã qua và trong hiện tại.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh, để biết trở về với tình yêu thương bao la của Chúa.
40. Thiên Chúa không bỏ con người - McCarthy
Suy Niệm 1. CHỊU ĐAU KHỔ VÌ CHÚA
Bài đọc từ sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do Thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Chúa Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các Tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các Tông đồ đồng môn của ông.
Thật may mắn là kể từ thời các Tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẩu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”.
Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu.
“Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”.
Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được.
Chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các Tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ –thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta.
Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
Suy Niệm 2. TIẾNG GỌI THỨ HAI.
Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.
Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy sáng rực. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.
Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được nhu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận được thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.
Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của nah sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.
Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “Xin vâng” của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu –yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).
41. Kiểm định lòng mến
Đoạn Tin Mừng Ga 21, 1-19 mà chúng ta được nghe đọc hôm nay là một đoạn Tin Mừng đẹp và hữu tình. Đẹp bởi phong cảnh của hừng đông ở bờ biển, đẹp bởi cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ nói chung và Phêrô nói riêng, vẻ đẹp còn được tăng lên bởi cách cư xử của các môn đệ đối với Chúa Giêsu cũng như cách cư xử của Phêrô... và đặc biệt đẹp bởi cách chọn người đứng đầu của Chúa Giêsu chỉ chọn trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu Chúa hơn hết mọi người.
Qua đoạn Tin Mừng dài và đẹp này chúng ta thấy được rằng Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn hiện diện với các môn đệ nhưng các ông không nhận ra mà chỉ có mình Gioan nhận ra. Đứng trước một người lạ chỉ cho nơi thả lưới ở bên phải mạn thuyền và đứng trước mẻ cá lạ lùng thì Gioan nhận ra người đó chính là Chúa. Chúa đó. Tại sao không phải là Phêrô người tông đồ trưởng? Tại sao không phải là một tông đồ nào khác? Thưa vì Gioan là người được Chúa yêu và trong tình yêu đó Gioan nhận ra người lạ đó chính là Chúa phục sinh. Chúng ta cũng thấy được điều này nơi Maria Mađalêna. Bà đã yêu mến nhiều nên được tha thứ nhiều và trong tình yêu mến đó Maria đã nhận ra được Chúa Kitô phục sinh. Người ta thường nói trong tình yêu không thể giải thích bằng lời. Chính trong tình yêu Gioan trực giác được Chúa hiện diện trước mặt các ông. Cũng chính trong tình yêu ta thấy được cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ: không một lời trách móc, không một lời kết án... Chúa đến với các ông đầy thông cảm yêu thương, san sẻ.. Vẫn là Thầy Giêsu đầy yêu thương cầm bánh, cầm cá trao cho các môn đệ.
Kế đó là cách chọn người của Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thêm an ủi và hy vọng. Ta thấy hay lắm, Chúa không hỏi Phêrô con có hiểu biết gì thêm không? Con có tài năng lãnh đạo không? Mà Chúa chỉ hỏi "Con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?" nhưng với câu này Chúa Giêsu hỏi đến ba lần cho thấy đây là nhân tố quyết định cho việc chọn người đứng đầu của Chúa. Tại sao như thế? Thưa bởi vì một lý do hết sức đơn giản đó là việc dẫn dắt lãnh đạo là của chính Chúa con người chỉ là cộng tác nên người lãnh đạo phải là người gắn bó mật thiết với Chúa, yêu ai là nên giống người đó, yêu Chúa là trở nên giống Chúa ngày một hơn và như thế là để cho chính Chúa hành động qua con người của chúng ta. Theo cái nhìn bình thường của con người thì Phêrô không đáng được chọn tý nào. Thủ lãnh gì mà khi Thầy bị bắt thì chạy mất, thủ lãnh gì mà chối Chúa đến ba lần... nhưng trong đoạn Tin Mừng hôm nay ta thấy cách cư xử của Phêrô cũng rất lạ. Khi nghe Gioan nói "Chúa đó" thì đáng lẽ Phêrô phải chạy trốn mất vì mặc cảm với Thầy, đáng lẽ Phêrô rụt rè đến với Chúa vì lo sợ chịu sự trách mắng nhưng Phêrô không xử sự như thế mà Phêrô vội khoát áo vào rồi ùm xuống biển để vội vàng đến với Chúa Giêsu. Tại sao ông cư xử như thế? Bởi lòng ông yêu mến Chúa, lòng yêu mến Chúa thúc đẩy ông đến với Chúa. Ông như quên đi tất cả, quên không gian, quên lỗi lầm, tình yêu Chúa trong ông thúc đẩy ông chỉ có một việc là đến với Chúa. Với tình yêu mến Chúa như thế, Chúa Giêsu không nhắc lại lỗi lầm, không nhắc lại những lần ông chối Chúa mà Chúa Giêsu ân cần đến với Phêrô và với các môn đệ, đồng bàn san sẻ với các ông cũng như đặt Phêrô làm thủ lãnh Giáo hội bởi Phêrô yêu mến Chúa hơn hết mọi người. Nhưng làm thủ lãnh là làm sao? Ở cuối bài Tin Mừng chúng ta nhận ra cách làm thủ lãnh mà Chúa muốn ở Phêrô đó là "Hãy theo Thầy". Làm thủ lãnh là bước theo Chúa chứ không phải là dẫn dắt Chúa, là muốn làm sao cũng được. Chúng ta nhớ lại sau khi Phêrô tuyên xưng "Thầy là Con Thiên Chúa là Vua Israel" thì Chúa Giêsu mặc khải là Ngài sẽ phải lên Giêrusalem để chịu chết, vừa mới được Chúa khen Phêrô liền đứng ra can ngăn "Thiên Chúa thương Thầy không để Thầy như thế đâu". Ngay lúc đó Phêrô bị Thầy khiển trách "Satan lui lại đằng sau Thầy". Nên lần này Phêrô có kinh nghiệm nơi chính bản thân mình "Theo Thầy" không phải chỉ là theo Thầy biến hình trên núi Tabo, hay hãnh diện vì Thầy làm phép lạ... nhưng theo Thầy là theo suốt cả cuộc đời dù đó là Tabo hay Thập Giá. Và cuộc đời của Phêrô đã sống triệt để lời mời gọi của Chúa Giêsu khi Phêrô chịu chết vì tuyên xưng Chúa Kitô.
Chúa Kitô phục sinh hằng hiện diện ngay bên chúng ta nhưng để nhận ra được Ngài đòi hỏi chúng ta phải có lòng yêu mến, yêu mến để cảm nhận ra những dấu chỉ trong cuộc sống chính là sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh, yêu mến để gắn bó với Chúa hơn. Chính vì lòng yêu mến mà Phêrô được chọn nên chúng ta hãy yêu mến Chúa để trở nên người của Chúa. Cách Chúa chọn Phêrô cho chúng ta niềm hy vọng vì Chúa chọn không theo một tiêu chuẩn nào khác ngoài lòng yêu mến, ta hãy gắn bó với Chúa và phó thác cho Ngài. Sau cùng câu Chúa gọi Phêrô cũng là câu Chúa gọi mỗi người chúng ta "Hãy theo Thầy". Theo Chúa là đón nhận mọi sự trong niềm tin tưởng phó thác cho dù dễ dàng hay khó khăn, cho dù là hoạn nạn hay an bình, khi vui cũng như lúc buồn... vì ta biết tất cả mọi sự nếu ta biết gắn bó với Chúa thì Chúa sẽ hành động trong ta, qua ta Chúa thể hiện tình yêu của Ngài. Theo Chúa là bước theo sau Chúa chứ không phải ép Chúa theo mình như Giuđa mà thất vọng.
Hãy tin tưởng phó thác trọn vẹn cho Chúa và hãy để Chúa hành động.
42. Có Chúa nâng đỡ
Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho chúng ta.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã suy nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn cứ thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta trước những thất bại.
Thực vậy, trước những thất bại gặp phải, có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn kiên trì theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:
- Thua keo nay, ta bày keo khác.
- Thất bại là mẹ thành công…
Và sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.
Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc.
Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở thành một nhà tỷ phú.
Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:
- Cơm sôi cả lửa thì khê,
Việc làm hay hỏng, là lề thế gian.
Sự thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:
- Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.
Thế nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.
Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hoá thành dễ và không có thể đã biến thành có thể.
Tìm tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:
- Không có Thầy, các con không thể làm gì được.
Thánh Phaolô đã xác quyết:
- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.
Và người Việt Nam chúng ta cũng thường nói:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hoà. Việc này thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.
Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.
Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây? Hôn nhân không giống như một chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời thì qua là một gánh nặng.
Trong trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nềvất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:
- Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Và chính Chúa cũng đã phán:
- Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.
Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trợ giúp cho nhau, đó là tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt đẹp.
43. Mầu nhiệm Giáo Hội
1. Giáo hội thoạt nhìn như bao tổ chức trần thế khác, nhưng Giáo Hội bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nên Giáo Hội còn là một mầu nhiệm. Đoạn Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, tại biển hồ Tibêria, giúp chúng ta có vài suy nghĩ về Giáo Hội của Chúa.
Chiếc thuyền tượng trưng cho Giáo Hội, mà các thuỷ thủ là các tông đồ trong đó có anh thuyền trưởng Phêrô do chính Đức Giêsu chỉ định. Các loại cá được bắt nhắc ta nhớ mọi dân tộc đều được mời gọi vào Giáo Hội... Giáo Hội là một mầu nhiệm, bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn, Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng tình yêu, Giáo Hội được mời gọi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc và Giáo Hội chỉ có sức sống thực sự khi hoạt động dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
2. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn. Phêrô và các tông đồ khác đa số làm nghề chài lưới, ít học. Thậm chí có người, như Matthêu, làm nghề thu thuế, một nghề đáng nguyền rủa thời đó, vậy mà Đức Giêsu lại chọn các ngài. Tại sao? Thưa, chỉ vì yêu thương mà Chúa chọn các ngài. Cũng vậy, bên cạnh chúng ta còn rất nhiều người chưa được biết Chúa, còn chúng ta được mời gọi vào Giáo Hội của Chúa, con đường dẫn ta đến hạnh phúc đích thực, có phải vì công trạng của chúng ta hay không? Chắc là không, nhưng vì Chúa thương chúng ta thế thôi!
3. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Vì yêu thương Đức Giêsu xuống thế gian để cứu chuộc con người, vì yêu thương Chúa đã lập Giáo Hội để tiếp tục phân phát ơn cứu độ của Chúa. Trước khi trao quyền lãnh đạo Giáo Hội cho Phêrô, Đức Giêsu ba lần hỏi Phêrô con có yêu mến Thầy không? Phải chăng Chúa muốn nhắc lại quá khứ, ba lần Phêrô chối Chúa? Nhưng, có lẽ điều quan trọng hơn đó là vì Chúa sắp giao cho Phêrô một trọng trách, và Chúa muốn Phêrô tỏ rõ lòng yêu mến của ông đối với Chúa, có thực lòng yêu mến Người thì mới có thể yêu mến đàn chiên của Người được.
Đoạn Tin Mừng nầy còn cho thấy những người có trách nhiệm trong Giáo Hội không những yêu mến Chúa, yêu mến đàn chiên của Chúa mà còn phải đồng tâm nhất trí với nhau nữa. Simon Phêrô nói với các tông đồ khác "tôi đi đánh cá đây", câu nói nầy như trình bày với anh em một việc làm thường nhật của mình, cũng có thể hiểu đây là lời mời gọi nhẹ nhàng của anh trưởng để anh em cùng làm việc chung. Các tông đồ khác hưởng ứng ngay đề xuất và việc làm của Phêrô, nên đáp lại:"chúng tôi cùng đi với anh", thay vì có thể nói những câu như:"anh đi mặc kệ anh, còn chúng tôi đi ngủ", hay "nhiệm vụ ai nấy làm...!". Phải chăng Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi lòng họ, muốn họ yêu thương hiệp nhất, bỏ qua việc tranh chức quyền, ngồi bên hữu bên tả Chúa...! Họ đã thấu hiểu được lời dạy của Chúa: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13,35).
4. Giáo Hội là một mầu nhiệm, Chúa muốn mầu nhiệm nầy được muôn dân biết đến qua việc truyền giáo. Đức Giêsu đã có lần nói với các tông đồ của mình: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mt 4,19; Mc 1,17). Mẻ cá lạ mà các tông đồ vừa đánh được, có đến 153 con cá lớn mà lưới không hề rách, làm cho chúng ta liên tưởng đến việc Giáo Hội phải có trách nhiệm cưu mang, giới thiệu cho mọi dân tộc, mọi quốc gia nhận biết Chúa. Với số lượng cá trên mang tính biểu tượng cho toàn thể, tất cả, vì thời đó người ta chỉ biết được có 153 loài cá. Chính Đức Giêsu Phục Sinh trước khi về trời đã có chỉ thị rõ ràng cho các tông đồ, môn đệ của Người về việc truyền giáo cho muôn dân (x. Mt 28,19). Những ngư phủ trước đây đánh bắt cá, giờ hoàn toàn đổi nghề sang "đánh bắt người" cho Chúa. Công Đồng Vatican II khẳng định lại bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Vì vậy, từ xưa đến nay Giáo Hội không ngừng thực hiện lệnh truyền nầy của Chúa.
5. Giáo Hội là một mầu nhiệm vì sức sống của Giáo Hội chỉ có được khi nghe và thực thi lời Chúa. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, vậy mà đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào! Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và bảo cho các ông hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông đã làm theo, và mang lại kết quả khả quan. Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói "không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Giáo Hội có sức sống, có những hoạt động tốt đẹp, tích cực... không phải do sự cố gắng của con người mà do ơn Chúa ban. Mẹ Têrêsa Calcutta với những cống hiến lớn lao của mẹ cho xã hội, nhưng mẹ nhận rằng, mình chỉ là cây bút chì nhỏ bé của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn dùng như thế nào tuỳ Ngài. Mỗi người chúng ta chỉ là công cụ của Thiên Chúa, việc tông đồ chỉ mang lại hiệu quả đích thực, lâu bền khi chúng ta biết lắng nghe và thực thi lời Chúa dạy.
6. Trong tâm tình mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta có quyền tự hào là phần tử trong Giáo Hội của Chúa, không những bởi cách tổ chức, uy tín... của Giáo Hội, mà nhất là Giáo Hội còn có một sức sống huyền diệu. Nhưng mỗi Kitô hữu hãy nhìn lại đời sống của mình:
- Chúng ta có đáp lại tình thương của Chúa bằng đời sống tốt đẹp của mình hay không?
- Chúng ta làm mọi việc, nhất là việc tông đồ với tất cả lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân hay không?
- Chúng ta đã sống và đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho tha nhân như thế nào?
- Chúng ta có lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống hay không?
Xin Đức Kitô Phục Sinh đem lại sức sống mới cho chúng con, để chúng con góp phần xây dựng Giáo Hội ngày càng theo ý Chúa hơn. Amen.
44. Con có yêu mến Thầy không? - Lm. John Nguyễn
Chúa Giêsu hỏi Phêrô: "Con có yêu mến Thầy không?" Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng không phải ai cũng có đủ can đảm để trả lời một cách dễ dàng như Thánh Phêrô đã thưa: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Một buổi sáng Chủ Nhật, người mẹ bảo người con trai rằng, hôm nay mẹ muốn con chở mẹ đi tham dự Thánh lễ, vì lâu nay anh ta không đến nhà thờ. Trong lúc đang buồn ngủ và mệt mỏi, vì đêm qua anh ta đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa. Trong lúc bực tức vì mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: "Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Nếu mẹ có thấy Chúa thì hãy chỉ cho con. Con có thấy Chúa đâu." Người mẹ đau buồn và lặng lẽ đi. Phải chăng câu nói của chàng thanh niên ấy cũng là câu nói của nhiều người trong chúng ta hôm nay? Chúng ta cũng đang hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong thế giới này? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại với trang Tin Mừng hôm nay qua biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ tại bờ biển Tibêria.
Sau một đêm dài vất vả mệt nhọc, các Tông đồ đã thất vọng vì không bắt được con cá nào, thì lúc trời rạng sáng, Chúa Giêsu hiện đến với các ông trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và được đầy cá. Sau khi các ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại.
Cái Chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng cho đời sống của đức tin chúng ta, vì Ngài chiến thắng sự chết và đã mở ra cho chúng ta con đường hướng đến cuộc sống mới. Chúng ta được tái sinh bởi nước và máu của Ngài. Ngài là Cha yêu thương và tha thứ cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong bài giáo lý về Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin: "Giờ đây, chúng ta xem xét lại ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô đối với chúng ta và đối với ơn cứu độ dành cho chúng ta..." Thật vậy, chúng ta đang sống trong niềm vui mừng Chúa phục sinh. Nếu trong lòng của chúng ta không có niềm tin thì cũng trở nên vô ích. Hơn nữa, lòng yêu mến của chúng ta không chỉ dừng lại ở việc giữ các giới răn, mà là sự sống mới với niềm vui Chúa phục sinh. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng chứng thực của các Tông đồ, và niềm tin đó được nuôi dưỡng hằng ngày bằng cách nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành các công việc bác ái. Để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ cộng tác và cảm nghiệm đức tin qua biến cố trong cuộc đời của chúng ta.
Nếu bạn hỏi: Có thấy Thiên Chúa không? Bạn từ đâu đến? Bạn sẽ đi về đâu? Nếu bạn trả lời thắc mắc này, thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy Thiên Chúa ở đâu. Trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi một bé gái: "Con tin có Thiên Chúa không?" - Cô bé mở tròn đôi mắt và trả lời: "Thưa cô, có chứ! Con luôn tin có Thiên Chúa." - Sao con biết có Thiên Chúa mà tin? - Cô bé vô tư trả lời: "Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, con tin có Thiên Chúa." - "Con chỉ cho cô biết Thiên Chúa của con ở đâu?" - Cô bé tiếp tục trả lời: "Thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của con nữa."
Với thân phận yếu đuối và giới hạn của con người, chúng ta tìm kiếm Chúa trong đức tin và lòng yêu mến của chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được tái diễn trên bàn thờ. Ngài đang hiện diện và chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài là người Cha yêu thương đang mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Vì nơi Ngài, chúng ta được sống trong nguồn yêu thương, niềm vui và được đổi mới trong Chúa Phục Sinh.
Lạy Chúa, chúng con luôn yêu mến Ngài vì Ngài là nguồn ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng con. Amen.
45. Làm theo Lời Chúa
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và với các người phụ nữ để củng cố niềm tin của họ. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra với bà Maria Mađalena (Ga 20, 14); Chúa cũng hiện ra với các môn đệ đang họp nhau trong căn phòng mà các cửa đều đóng kín. (Ga 20, 19-29); Chúa Phục Sinh còn hiện ra với các môn đệ trên đường Emmau nữa (Lc 24, 13-35).
Hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ của Người, nhưng lần này Chúa hiện ra ở Biển Hồ Tibêria, nơi các môn đệ đang thả lưới. Các ông đã vất vả suốt đêm mà không bắt được một con cá nào. Một nhóm thuyền chài lành nghề, vậy mà quần quật suốt đêm, rất vất vả, lại chẳng được gì hết. Phải chăng do tâm trạng của các môn đệ không ổn định, nổi buồn mất Thầy mấy ngày qua vẫn còn, niềm tin về việc Thầy sống lại cũng chưa chắc chắn. Tâm trạng không thoải mái và ổn định, thì làm việc sao có kết quả tốt được!
Chúa hiện ra và chỉ cho các ông chỗ để thả lưới: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạng thuyền đi, thì sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá'. Kết quả thật lạ lùng, vượt quá sự mong đợi của các Tông đồ.
Chúng ta có thường xuyên làm theo lời Chúa dạy chúng ta không? Do chúng ta chưa nghe lời dạy của Chúa nên cuộc đời của mỗi người chúng ta có nhiều hư hỏng, thất bại. Muốn thành công trong mọi công việc chúng ta phải dựa vào Chúa: năng tham dự Thánh lễ và năng lãnh nhận các Bí tích. Lấy Lời Chúa dạy làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Cầu nguyện nhiều hơn không chỉ ở nhà thờ, ở gia đình mà còn ở mọi nơi mọi lúc nữa.
Nhà bác học thời danh của nước Pháp là ông Louis Pasteur. Ông được nổi tiếng chẳng những trong lãnh vực y khoa mà còn ở niềm tin sâu sắc của ông. Người ta thuật lại một lần ông đi xe lửa, có một sinh viên ngồi bên cạnh ông, thấy ông cầm tràng chuỗi đọc kinh cầu nguyện thì ngạc nhiên hỏi:
Thưa ông, thế là ông còn tin ở chuyện nhảm nhí à?
Ông điềm tỉnh trả lời:
Đúng thế. Tôi vẫn còn tin và tin đến chết. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người thanh niên cười ngạo nghễ và nói:
Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ tôi không còn tin nhảm nhí thế nữa, vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông hãy quăng bỏ tràng chuỗi đó đi và học những khám phá của khoa học, ông sẽ thấy tất cả những gì ông tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.
Ông thản nhiên hỏi lại:
Cậu vừa nói đến những khám phá của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi biết những điều đó không?
Cậu sinh viên vui mừng đề nghị:
Vậy ông cho tôi địa chỉ của ông. Hôm nào tôi gởi cho ông quyển sách, để ông học biết những điều nhiệm lạ của khoa học.
Ông từ từ lấy tấm danh thiếp trao cho cậu. Đọc xong tấm danh thiếp, cậu sinh viên tái mặt, xin lỗi và cúi đầu quay đi vì xấu hổ, vì danh thiếp đề như sau: 'Louis Pasteur, viện trưởng nghiên cứu khoa học Paris '.
Nhà bác học Louis Pasteur đã trả lời với chàng sinh viên: "Tôi vẫn còn tin và tin cho đến chết"; ông đã thể hiện đức tin đó bằng việc cầu nguyện, lần chuổi ngay cả lúc đi trên xe lửa. Niềm tin vào Thiên Chúa đã giúp nhà bác học Louis Pasteur thành công trong nghiên cứu khoa học.
Các Tông đồ đã nghe lời Chúa dạy mà thả lưới bên phải mạn thuyền và đã bắt được rất nhiều cá. Nhà bác học Louis Pasteur đã làm theo lời Chúa dạy: "hãy cầu nguyện luôn đừng nản chí "(Lc 18,1), nhờ đó ông đã thành công lẫy lừng trong nghiên cứu khoa học.
Còn chúng ta thì sao? Những suy nghĩ, những việc làm của chúng ta có dựa vào lời Chúa dạy không? Đời sống của chúng ta còn những hư hỏng, thất bại là do chúng ta không làm theo lời Chúa dạy, chúng chưa cầu nguyện nhiều, chưa gặp gỡ Chúa nhiều.
Xin Chúa cho mọi Kitô hữu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa trong mọi việc, biết cầu nguyện thường xuyên và gắn bó với Chúa hơn qua việc lãnh nhận các Bí tích, để Chúa hướng dẫn chúng ta trong mọi việc làm, hầu đạt được kết quả tốt nhất ở đời này và cả đời sau nữa.
46. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
NHẬP LỄ
Yêu thương là một hoạt động sâu thẳm trong tâm hồn, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy sức sống. Thiên Chúa là Tình Yêu và Người dựng nên con người để con người được chia sẻ tình yêu với Thiên Chúa. Tương quan cuộc sống con người với Thiên Chúa hay con người với nhau, chính là tương quan tình yêu.
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con vượt qua được mọi gian khó, để trung thành với Chúa. Xin Chúa thương xót …
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con nhận biết Chúa đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin Chúa Kitô...
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con được vào cộng đoàn "chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Chúa đến muôn thuở muôn đời". Xin Chúa thương xót...
GIẢNG
Người ta nói: Sống với nhau "vì tình vì nghĩa, chẳng ai vì đĩa xôi đầy", cho nên những ai vì tiền vì của mà bán nghĩa bạn bè, sẽ bị người đời khinh chê sỉ nhục. Vợ chồng sống với nhau được, là nhờ vì tình vì nghĩa. Cha mẹ hy sinh cho con cái, cũng chỉ nhờ vì nghĩa vì tình. Tình càng nồng, nghĩa càng hậu, cách cư xử càng nhân ái, càng trung thực. Điều này đòi buộc chính bản thân con người phải cảm nghiệm.
Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng chỉ vì không có thiện cảm với Chúa, luôn ganh tỵ và sợ hãi Chúa, nên các lính canh đã nhận tiền để xuyên tạc; các thượng tế, kinh sư thì tìm cách che giấu sự thật, bịt mắt bưng tai. Còn các Tông Đồ và môn đệ của Chúa thì bởi vì gặp được Chúa, nên càng xác tín hơn. Họ yêu Thầy, sống chết với Thầy, bởi vì chính bản thân họ đã được cảm nghiệm ở bên cạnh Thầy. Sự thật đã được liên kết trong tình yêu, nên họ không thể xuyên tạc hay làm ngược lại điều chính họ đã sống. Tình yêu đối với Thầy, thúc đẩy họ phải rao giảng về Thầy -cho dù có gặp phải người đời hoặc những kẻ có thế lực chống đối, ngược đãi, đe doạ mạng sống. Ông Phêrô -một con người bộc trực và cũng dễ chao đảo- nhưng sau khi đã cảm nghiệm được Tình Thương Yêu của Chúa, đứng trước hội đồng Dothái giáo đã mạnh dạn phản bác lời cấm đoán của vị thượng tế: "Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm" (Cv 5,29). Tình yêu đối với Thầy đã thúc đẩy ông can đảm nói lên cả những điều mà những kẻ có thế lực đang cấm cản ông, điều mà trước đây vì nhát sợ, vì chưa đủ mức độ yêu thương, ông đã 3 lần chối bỏ: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israen ơn sám hối và ơn tha tội" (5,30-31). Chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa / mới có thể giúp cho các Tông Đồ can đảm và kiên cường như thế. Cũng chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa như thế, mới có thể giúp cho Giáo Hội từ thuở sơ khai cho đến ngày hôm nay, vẫn phát triển không ngừng giữa biết bao gian nan thử thách. Thánh Gioan -được mệnh danh là "người môn đệ được Đức Giêsu thương mến" (Ga 21,7)- nhờ tấm lòng yêu quý dành cho Thầy sâu đậm hơn những anh em khác, nên sớm nhận ra Chúa trên bãi biển hơn những Tông Đồ khác.
Như thế, tình yêu đóng vai trò rất quan trọng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cho nên sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã muốn đặt tiêu chuẩn để trao trách nhiệm cho Thánh Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (21,15). Chúa Giêsu hỏi tới 3 lần, để Thánh Phêrô xác định tình yêu tuyệt đối của mình nơi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (21,17).
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta nhận ra được Chúa. Nhờ Tình Yêu của Chúa và nhờ tình yêu của chúng ta đối với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm, sáng suốt để trung thành với Chúa vượt qua những gian truân, đau khổ, thử thách của cuộc đời cho đến cùng. Xin Chúa Thánh Thần đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh, giúp chúng con phục sinh tình yêu của chúng con đối với Chúa.
47. Suy niệm của Lm. Vinh sơn Nguyễn Thành Trung
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện như một người bạn
Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người.
Với ý hướng này, chúng ta hãy dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.
Các Tông đồ đã đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria mà không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi: “ Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Hay có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?
Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).
Chúng ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các tông đồ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”(Ga 21, 6a)
Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của chúng ta, khi chúng ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp chúng ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính chúng ta không tài nào thoát ra được.
Noi gương các tông đồ, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).
Xin Chúa Kitô Phục Sinh luôn ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện rất thân tình của Ngài. Ngài luôn mang đến sự bình an và hạnh phúc thật. Bên cạnh đó, xin cho chúng ta có lòng nhiệt thành, hăng say đem tình thương của Chúa chia sẻ cho người khác, để họ cũng nhận ra được sự hiện diện của Chúa qua những cử chỉ thật dễ thương của chúng ta.
Chúng ta hãy để Chúa Phục Sinh luôn là người bạn thân của chúng ta và chúng ta cũng hãy là người bạn thân của tất cả những ai mà chúng ta đang gặp gỡ và sẽ gặp gỡ trong cuộc đời của mình.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến và đang ở thật gần bên chúng con. Lạy Đấng Phục Sinh, xin ở mãi với chúng con, xin đừng rời xa chúng con vì chúng con luôn cần Ngài. Al-lê-lu-ia.
48. Vâng lời - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.
Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.
Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.
Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.
Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).
Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! "(Kh 5, 13).
Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.
49. Sức mạnh của tình yêu – Trầm Thiên Thu
Yêu là gì? Chưa ai có một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ "mơ hồ" nói: "Yêu là chết trong lòng một ít". Thế nào là ít hay nhiều? Mức độ cũng thật trừu tượng!
Khi yêu người ta có thể hạnh phúc hoặc đau khổ, thường là khổ nhưng vẫn phải có trách nhiệm – dù nhẹ hay nặng. Yêu là lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim.
Trái tim là trung tâm phân phối máu giúp cơ thể sống, cũng là trung tâm tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: "Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu".
Thánh Phaolô cũng đã xác định: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13:13). Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là... "chuyện nhỏ". Tình yêu "nổi tiếng" thế giới là tình yêu của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thế nên Đại văn hào Victor Hugo đã định nghĩa: "Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu".
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" (Cv 5:28).29 Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa!
Ông Phêrô còn hùng hồn nói thẳng: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người" (Cv 5:30-32).
Thế rồi các Tông Đồ bị họ đánh đòn và họ cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mộc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Người ta gọi đó là "thú đau thương". Cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của tình yêu. (Tv 30:2,4-6,11-13).
Tác giả Thánh Vịnh tuyên xưng: "Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con" (Tv 30:2).
Thật vậy, "từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống" (Tv 30:4). Do đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: "Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo" (Cv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: "Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi".
Với lòng tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: "Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu" (Cv 5:11-13).
Thánh sử Gioan tường thuật về thị kiến: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc" (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ công thì được tưởng thưởng. Đó là công lý công minh và chính trực!
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!" (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: "Amen". Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" (Ga 21:5). Các ông trả lời: "Thưa không". Ngài bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá" (Ga 21:6). Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: "Chúa đó!" (Ga 21:7). Ôi chao! Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá! Nhưng bản tính Phêrô nhà ta là nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay. Thấy anh Hai làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Khi lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" (Ga 21:10). Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" (Ga 21:12). Lúc này các ông biết rõ đó là Sư Phụ Giêsu rồi. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy.
Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy" (Ga 21:15c). Ngài lại hỏi: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" (Ga 21:16a). Ông cũng đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:16b). Ngài nói: "Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy" (Ga 21:16c).
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?" (Ga 21:17a). Ông Phêrô gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ hết sức, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Ông xác quyết: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:17b). Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy" (Ga 21:17c). Rồi Ngài nói với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21:18).
Thánh Gioan nói rằng Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Chúa Giêsu bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21:19).
Người Việt nói: "Quá tam ba bận". Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này.
Về tình yêu, các thánh có nhiều cách cảm nhận: "Yêu là chiến thắng Thiên Chúa" (Thánh Bênađô), "Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài" (Thánh Phanxicô Salê), "Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt" (Thánh Madeleine Barat), "Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng" (Thánh Augustinô), "Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con" (Thánh Phanxicô Assisi), "Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người" (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), "Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu" (Thánh Thomas Aquinas), "Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy" (Thánh Inhaxiô Loyola). Và còn rất nhiều nữa...
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Xin Tình Yêu Kitô biến đổi tất cả chúng con nên hoàn thiện qua sự tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi lúc càng nên mới hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
50. Hiện ra
Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội. Cộng đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoà con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.
Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.
Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.
Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.
Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.
Điều gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.
51. Niềm vui Phục Sinh – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20- “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:31)-rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa- “Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).
Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh “rắn mất đầu”. Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông. Tuy ngắn nhưng sao mông lung mịt mờ.
Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: “Tôi đi đánh cá.” Phêrô đã thốt lên câu nói đó.
Đi đánh cá là trở lại với nghề xưa-thực tập và tìm lại những gì mà một thời mình đã bỏ hết để theo Đức Giêsu. Đi đánh cá là để gợi nhớ kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy nơi biển hồ. Dường như Phêrô muốn níu lại một thoáng bóng hình đang tan biến.
Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: “Chúng tôi cùng đi với ông.” Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.
Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, “đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Gn 21:3). Hoá ra, dù có phương tiện đánh cá trong tay, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.
Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao “ra khơi” nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi “bên hữu bên tả”, và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô… “đầy tớ”?
Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: “Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa” (Ga 21:12).
Cuộc tao ngộ Thầy trò bên hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: “Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?”
Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: “Các ngươi trốn nơi đâu?” cũng không hề trách: “Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?”
Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Gn 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.
Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.
Trong yêu thương có tha thứ. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.
52. Sống lại
Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn trẻ đang hiện diện trong ngôi thánh đường này.
Có một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.
Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?... Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không?”
Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay không?
Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế?
Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).
Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”
Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hoá được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.
Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách?
Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hoá Phêrô.
Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.
Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.
Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp đúng sai, miễn sao có lời.
Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu “tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!
Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung thành.
Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính mình và người khác? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.
53. Làm chứng
Trong một buổi toạ đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết. Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ, các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài thì Ngài cứ việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu nào?”. Mọi người đều im lặng.
Một lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”. Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ cũng có một yếu điểm nghịch thường mà người ta không thể diễn tả hết được”.
Người ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, đích thực 100% Chúa đã sống lại. Còn chúng ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.
Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.
Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hoá những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con cái Chúa.
54. Vì Chúa
Bài đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Đức Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững được lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm là nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các tông đồ đồng môn của ông. Thật may mắn là kể từ thời các tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”. Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
55. Tiếng gọi
Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.
Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.
Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.
Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.
Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).
56. Tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ra ngay ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
57. Tình yêu
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh: Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin “. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu”có hai anh em sinh đôi tên là Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đi đày Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù loà cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù loà ấy nói ngay: “Phải mày là thằng Chơn đó không?”Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù loà ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông hậu”nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. Và rồi đang khi các tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến tám ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!
58. Đừng xoá sổ
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “ôxoáổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xoá sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?”Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi”.
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vặt cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng hội đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng.
59. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ
Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.
Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.
“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
60. Ông ấy không biết mình có sức mạnh như vậy
Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge, một lần đã đọc một bài diễn văn cho một bộ lạc người Da Đỏ ở trên miếng đất cằn cỗi mà đã từ lâu không có một giọt mưa nào. Những người phù thuỷ thổ dân và những người có thể làm cho mưa đã làm những nghi lễ vô ích. Bầu trời vẫn trong sáng và mùa màng sẽ bị mất. Tổng thống Coolidge đã nhìn vào những gương mặt đau khổ và nói, "Các bạn đừng nghĩ rằng tôi ở Washington và tôi không biết về hoàn cảnh sống của các bạn. Đừng nghĩ rằng tôi không khỏi những ưu tư lo lắng. Các bạn đừng nghĩ rằng tôi đã không lo lắng tìm cách để cứu giúp các bạn.”Sau đó, trước cảnh lạ lùng của mọi người, những cơn mây đã kéo đến và một trận mưa rào to đã đổ xuống. Tổng thống đã bị ướt đẫm trước khi ông tìm được chỗ để trú thân. Nhìn những giọt mưa đổ xuống, tổng thống đã kêu lên, "Trời ơi! Tôi đã không biết là tôi có sức mạnh như thế ở trong mình tôi!"
Simon Phêrô đã không biết rằng ông có sức mạnh như thế ở trong con người của ông cho đến cái giây phút ông bắt gặp được Người Lạ ở trên bờ hồ là Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, ông bắt đầu rao giảng không ngừng, không mệt mỏi, hăng say, không sợ sệt gì cả về Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã có thể làm cho người ta cảm thấy mạnh mẽ, cảm động lòng người, chữa các bệnh tật, thay đổi muôn vàn tâm hồn. Thánh Phêrô đã giảng, "Anh em đã giết chết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”(Cv 3:15).
Simon Phêrô đã không biết điều mà ông có trong người. Tuy nhiên, khi giây phút quyết định đã đến, khi Phêrô nhảy xuống thuyền và bơi vào với Chúa Giêsu Phục Sinh, ngài trở thành một Kitô hữu lập dị mà dám nói với Thượng Hội Đồng Do Thái rằng, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Trong chương 5 của sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca nói cho chúng ta truyện Thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước Thượng Hội Đồng của người Do thái bởi vì họ bị tố cáo một số tội, cộng luôn cả tội phá ngục. Thượng Hội Đồng đã ra lệnh cấm các Tông Đồ không được rao giảng về Chúa Kitô Phục Sinh. Các Tông Đồ đã được thành lập theo một tổ chức. Họ biết những điều mình nói sẽ đưa họ đến chỗ nào. Ai cũng phải biết về sự nguy hiểm của kiểu giảng dạy như thế. Thượng tế của hội đồng đã lên tiếng cảnh cáo, "Chúng tôi đã ra lệnh cấm các anh nói về Giêsu, và các anh đã không tuân theo và đã làm cho thành Giêrusalem này nực đầy mùi giáo huấn của các anh.”Thánh Phêrô đã trả lời, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Với lời nói ấy, Phêrô và các Tông Đồ có thể bị giết. Thế nhưng, một người Pharisiêu đã đứng ra và lên tiếng, "...nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quí vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quí vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.”Sau cùng, các Tông Đồ đã được thả về và một lần nữa, Thượng Hội Đồng lại ra lệnh cấm các ông không được rao giảng. Thế nhưng, các Tông Đồ hiểu rằng Phúc Âm Chúa Kitô vượt trên mọi lời đe doạ.
Chúng ta thấy sự so sánh giữa bài thánh thư của Thánh Luca, diễn tả sự gan dạ của Thánh Phêrô đứng giữa Thượng Hội Đồng, và bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, tả lại cảnh Thánh Phêrô đang đánh cá. Thánh Gioan thuật lại cảnh ngộ mà Thánh Phêrô đã trở nên một con người mới. Thánh Phêrô và một số Tông Đồ đang ngồi nghỉ tại bờ sông Tiberia. Chúa Giêsu đã bỏ họ, và họ không biết phải làm cái gì cả. Có lẽ có một số người đã chọc tức họ, "Đó kìa, những người môn đệ của Giêsu Nagiareth. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã chấm dứt. Chuyện gì đã xảy ra với những ước mơ của quí huynh? Sư phụ đâu rồi?"
Những lời nhạo báng mỉa mai đó đã đưa đến kết quả. Thánh Phêrô đã nói lên quyết định của ngài: "Tôi đi đánh cá.”Và những người khác đã đồng thanh, "Chúng tôi cũng đi với anh.”Mọi sự coi như là tan theo mây khói, và họ phải trở về với chiếc tàu đánh cá, chiếc lưới, và những việc làm thường ngày. Tệ hơn nữa, họ thả lưới cả đêm mà không bắt được chút gì cả. Khi trời vừa mới hừng đông, một Người Lạ đã nói với họ phải thả lưới ở mạn thuyền và họ đã bắt được nhiều cá mà họ không thể nào kéo lên nổi.
Thánh Gioan đã nhanh nhẩu nói với Phêrô, "Chính Chúa đó!”Trong chính cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã trở thành một người mới. Không có một cái gì có thể cản trở ông đến với Chúa Giêsu, và ông đã nhanh nhảu nhảy xuống và bơi vào với Chúa Giêsu. Sự trở lại của Thánh Phêrô đã hoàn tất. Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Hãy theo Ta!”và Phêrô đã đi theo.
Chúng ta thấy địa vị của chúng ta và của Thánh Phêrô thời xưa cũng tương tự giống nhau. Sự trung tín hoàn toàn của chúng ta thường bị thử thách. Thiên Chúa phán, "Hãy nói!", và con người nói, "Hãy im!", và chúng ta phải chọn lựa...
Chúa Kitô bị đóng đinh đang nhìn xuống chúng ta với dòng máu ở trong bàn tay, bàn chân, nhưng sự sống từ trong ánh mắt của Ngài, kêu gọi chúng ta sự lựa chọn giữa tình yêu và sự lãnh đạm. Ngài sẽ không để chúng ta mồ côi và đi chỗ khác, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta với bàn tay bị đóng đinh của Ngài. Ngài sẽ không để cho chúng ta dùng thế giới này như là một công viên để chơi, hoặc là một chiến trường. Chúng ta phải chăm sóc nó, nếu không thế giới sẽ bao trùm bằng bóng tối.
Nếu chúng ta chọn Chúa như Thánh Phêrô, có lẽ chúng ta sẽ chẳng được những vinh quang như được huy chương, bằng cấp, học vấn, được báo chí ca ngợi, nhưng là những vết sẹo. "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5:10).
61. Cậy dựa vào quyền năng Chúa.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Sau khi sống lại, việc Chúa hiện ra với các tông đồ đều nhắm một mục đích nào đó, chứ không phải Chúa cứ hiện ra khơi khơi, có hứng thì xuất hiện, còn không thì thôi. Mỗi lần Chúa hiện ra với các tông đồ là mỗi lần Chúa trao ban cho các ông những sứ vụ khác nhau. Theo Phúc âm hôm nay ghi lại thì đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông đồ sau ngày phục sinh. Trong lúc tâm trạng các ông còn hoang mang với những vui buồn lẫn lộn: buồn vì cuộc tử nạn của Thày mình, vui vì Thày mình đã sống lại, hoang mang vì sự hiện diện của Thày mình sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khoả. Xuống thuyền, các ông thả lưới suốt đêm mà không bắt được cá. Ở đây ta phải phục sự kiên nhẫn của các tông đồ. Thả lưới suốt đêm không bắt được con cá nào mà vẫn tiếp tục.
Chính trong lúc các ông bị cụt hứng thì Chúa hiện ra với các ông. Chúa giả vờ hỏi: Sao các con có bắt được gì ăn không? (Ga 21:5). Các ông đồng thanh trả lời: Thưa không (Ga 21:5). Bấy giờ họ chưa nhận ra người khách lạ là Chúa. Và theo đề nghị của người khách lạ, họ thả lưới. Kết quả là mẻ lưới của các ông nặng trĩu đầy cá. Bấy giờ các ông mới nhận ra Chúa. Các tông đồ nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng Chúa, chứ không phải do sự chuyên nghiệp của các ông. Mặc dầu là thuyền chài chuyên nghiệp, hôm nay các ông cũng chịu thua. Mẻ lưới mà các ông kéo lên đếm được một trăm năm mươi ba con cá. Tại sao Phúc âm không ghi con số chẵn 150 con cá cho dễ nhớ mà lại ghi 153 con? Theo thánh Hiêrônimô, một học giả về thánh kinh thì số 153 có nghĩa là các nhà chuyên môn về cá thời bấy giờ biết được có được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá chứ không nhất thiết phải là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩa như vậy, thì Chúa muốn các tông đồ phải đi rao giảng tin mừng cứu độ cho cả thế giới, cho năm châu bốn bể. Như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người sẽ nhận lãnh đức tin sau này.
Bài học mà Chúa muốn dạy các tông đồ hôm nay là các ông phải tuỳ thuộc vào ơn Chúa và quyền năng Chúa. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết phải bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành chương trình cứu độ không tuỳ thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của loài người, nhưng tuỳ thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa phục sinh đã biến đổi các tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi lẩn tránh quân dữ. Chính ông Phêrô còn chối Chúa. Sau khi gặp Chúa sống lại, các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Tông đồ Công Vụ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Cv 5:29). Là chứng nhân các tông đồ phải nói lên cái sứ điệp dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe doạ đến tính mạng.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng phúc âm…. Thiên Chúa hằng hiện diện giữa ta. Chính những khi các tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thày mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường Emau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.
62. Sứ mạng truyền giáo – Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trước khi về trời Chúa Giêsu, đã truyền lệnh các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
1. Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: "Chúa đó!". Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em?. Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần (x. Ga 20, 1-9).
Khi nghe Gioan nói: "Chúa đó!" các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy" (Ga 21:15c). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì trối Thầy. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7). Hay: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13,13). Có lòng mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21,18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên Thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần "con có mến Thầy không?", sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.
2. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.
Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của "ba thù". Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm "vườn nho của Ngài".
3. Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm,và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát. Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng...Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi Loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: "hãy theo Thầy" và cùng Thầy lên đường...?
Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
63. Đức Giêsu hiện ra ở bờ hồ Tibêria
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.
Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):
a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),
b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),
c) Một nhận xét (14);
2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):
a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),
b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).
3.- Vài điểm chú giải
- Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.
- tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.
- cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.
- Ông Simôn Phêrô... (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.
- đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.
- thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.
- Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.
- Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.
- một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi… Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.
- Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).
- anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.
Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).
- hãy chăm sóc... chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17...), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ[2].
- chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này[3], nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia [4].
Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.
* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)
Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.
Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa[5]. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.
Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.
Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12). Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.
* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)
Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.
Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện. Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ôngchỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng với Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9)[6].
Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).
Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.
Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.
Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).
+ Kết luận
Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.
2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.
3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.
4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.
---------------------------------------------
[1] G. Mlakuzhyil, The Christocentric Literary Structure of the Fourth Gospel, 344.
[2] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, xiii-xxi, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299).
[3] Quyển sách Tân Ước khác dùng từ arnion là sách Khải huyền (29 lần).
[4] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299). C. Rusconi lại cho rằng phải đọc probata ở ngay c. 16 là probation, “agnello”, “agnella” (xem mục từ này trong Vocabolario del Greco del Nuovo Testamento, EDB, Bologna 1997, 287). Đây là quan điểm của Codex Vaticanus, Nestle, Aland Synopsis, Barrett, Bultmann.
[5] Đây là hiện tượng mà các nhà chuyên môn gọi là anagnorisis, cũng là peripeteia.
[6] Bài giáo lý của Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI ngày 24-5-2006. Đây cũng là quan điểm của PIB.
64. Chú giải của Noel Quesson
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh”.
Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.
Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.
Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya... họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.
Bảy người đang sống trên "biển nổi sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên... nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.
Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.
Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa không". Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ "bờ" bên kia?
Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.
Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.
Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.
Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "
Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một "bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.
Ta biết tầm quan trọng của "bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.
Ông Simon - Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.
Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.
Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như "tấm lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả "chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.
Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.
Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!
Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Đây là bữa ăn thực sự... đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.
Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ", từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…
Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở "trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta "lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là Bánh hằng sống... Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ "con cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:
Lèsous Kristos Théou Unios Sôter
Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện "bằng xương, bằng thịt" nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Lần thứ hai... rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.
Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy".
Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu! "Anh có mến Thầy không?": Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh X... anh có yêu Thầy không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.
Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….
Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.
Thật Thầy bảo thật cho anh biết: "Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy".
Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt lưng cho anh"), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.
65. Suy niệm của nhóm Nha Trang
“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”
I. Ý CHÍNH:
Chương 21 của Tin-Mừng thánh Gioan được gọi là phụ trương. Vì Gioan muốn nói thêm về việc Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên ở Galilê và đặt Phêrô làm thủ lãnh của Giáo Hội. Bài Tin-Mừng hôm nay là phần đầu của chương này, nói về việc Chúa Giêsu dùng mẻ cá kỳ lạ để làm dấu chỉ cho các Tông Đồ tin nhận Người Phục Sinh.
II. SUY NIỆM:
1. “Lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria…”
Khi khởi sự công việc rao giảng ở trần gian, Chúa Giêsu đến bờ hồ Giênêgiarét và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên (5,1) để huấn luyện các ông. Bây giờ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu lại hiện đến với các ông đang ở bờ biển Tibêria để trao sứ mạng, cách riêng trao quyền thủ lãnh Giáo Hội cho Phêrô (Lc 21,15-23).
2. “Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Đidimô….”:
danh sách các môn đệ đã được Chúa hiện ra ở đây chỉ có năm nhưng theo diễn tả của doanh có thể hiểu là bảy. Sở dĩ hiểu như vậy là vì thánh Gioan không kể đến tên các người trong gia đình mình nên có lẽ trước kia chữ “hai con ông Giabêđê”người ta để trong ngoặc cho độc giả hiểu, sau này chép đi chép lại, người ta bỏ ngoặc đi.
3. “Simon Phêrô bảo: tôi đi đánh cá đây”:
Phêrô là người khởi xướng việc đánh cá. Câu này muốn nói lên vai trò thủ lãnh Giáo Hội của Phêrô.
4. “Chúng tôi cùng đi với ông….”:
Ơ đây muốn nói lên sự tùng phục của các môn đệ đối với vị thủ lãnh là Phêrô.
5. “Nhưng đến hôm ấy không bắt được con cá nào”:
Ở đây cũng liên tưởng đến Luca 5,5: “suốt đêm chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì”. Điều này chứng tỏ sự bất lực của con người.
6. “Lúc rạng đông Chúa Giêsu hiện đến bên bờ biển”:
Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ của Người. thoạt đầu các ông cho nhận ra Chúa là vì các ông chưa am hiểu về sự Phục Sinh của Chúa, mặc dầu các ông tin Chúa sống lại (Ga 20,9).
7. “Này các con, có gì ăn không?”:
Đây là câu hỏi thông thường như người ta quen hỏi những người đi đánh cá hay những người đi săn về. Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu muốn tỏ cự thân mật quen biết để gợi cho các môn đệ nhớ lại Người. Và cũng là câu hỏi để mở đầu câu chuyện.
8. “Họ đồng thanh đáp: thưa không!”:
Ở đây bày tỏ sự bất lực.
9. “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”:
Ơ đây liên tưởng đến Lc5,4: “Ra khơi mà thả lưới đánh cá”. Mặc dù các môn đệ chưa nhận ra Thầy mình, nhưng Chúa Giêsu cũng ra lệnh: Một thứ ra lệnh như người có quyền và nắm chắc được hiệu quả của việc “Thả lưới” thì sẽ được.
10. “Các ông liền thả lưới…”:
Tin tưởng trong tinh thần phó thác, các môn đệ thả lưới như lệnh truyền và tức khắc có hiệu quả là “không kéo nổi lưới lên vì đầy cá
11. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô”:
Nếu qua những dấu chỉ của ngôi mộ trống, Gioan người môn đệ Chúa yêu dấu, “Thấy và tin”, thì ở đây qua dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, ông cũng nhận ra và nói với Phêrô “Chính Chúa đó”. Điều này cho chúng ta thấy sức mạnh dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, đã đánh động sự nhận thức và đức tin của Gioan.
12. “Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào”:
Phêrô, dân chài, khi làm việc thì mặc áo cụt tay hay đóng khố, vì thế khi nhận ra Chúa thì ông khoác áo choàng để đến gặp Chúa: Đây là cử chỉ bày tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu, Thầy mình. ông nhảy xuống biển để bơi vào bờ cho nhanh hơn. Ở đây nói lên niềm vui mừng và lòng nhiệt thành của Phêrô đối với Chúa Giêsu phục sinh.
13. “Các môn đệ khác chèo thuyền vào…”:
Phêrô bơi vào trước còn các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ sau. Sự kiện này diễn tả vai trò điều khiển Giáo Hội của Thánh Phêrô.
14. “Khi các ông lên bờ thấy có sẵn lửa và than”:
Ở đây Chúa đóng vai trò “Anh nuôi”: Chúa dọn cho các môn đệ bữa ăn thanh đạm như bao bữa ăn khác mà Chúa thường ăn với các ông khi còn sống trong vùng này. qua hành động đó, Chúa muốn gợi lên cho các môn đệ nhớ lại những cử chỉ quen thuộc của Người trước đây, để các ông tin nhận ra Người.
15. “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”:
Chúa đòi các môn đệ đem cá mới bắt được đến, vì Chúa muốn các môn đệ nhìn qua dấu chỉ của mẻ cá để nhận ra Người.
16. “Lưới đầy toàn cá lớn, tất cả được 153 con”:
Con số 153 không có ý chỉ số lượng cá cho bằng chỉ ý nghĩa biểu hiệu. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà vạn vật học thời xưa khám phá ra được 153 loại cá. Vì thế con số ở đây chỉ số lượng tất cả các loại cá, và như vậy ý nghĩ của con số 153 này trùng hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước-Trời (Mt 13,47).
Giáo Hội phải quy tụ trong lưới của mình tất cả các dân tộc như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ đàn khác ngoài Israel (Ga 10,1), như con người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (Ga 12,32; 6,44).
Vì vậy mẻ cá kỳ lạ bắt được do một nhóm các môn đệ, dưới sự chỉ huy của Phêrô, theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu là hình bóng mở mang Giáo Hội.
Lưới không rách là hình ảnh của Giáo Hội, sự hợp nhất, không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,57-60). Những con cá là hình ảnh các Ki-tô hữu đã được chinh phục do Chúa Giêsu bằng lời giảng qua các Tông Đồ.
17. ‘Chúa Giêsu bảo rằng: các con hãy lại mà ăn”:
Dấu chỉ mẻ cá cũng như cách cư xử thân mật quen thuộc “các con hãy lại mà ăn” của Chúa Giêsu là những bằng chứng khiến cho các môn đệ nhận ra “là Chúa”, nên không ai dám hỏi “ông là ai? nữa”.
18. “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ …”:
Ở đây Chúa Giêsu lập lại cử chỉ như trong bữa tiệc ly người đã làm để tỏ bày cho các môn đệ nhận ra rằng Giêsu, Thầy mình, khi còn sống ở trần gian trước đây, thì bây giờ cũng là Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết, đang hiện diện trước mặt các ông đây. Và như vậy, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ về sự hiện diện của Người sau khi phục sinh.
19. “Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra…”:
Sự kiện này muốn nói các lần hiện ra khác mà Tin-Mừng nhất lãm kể lại xảy ra ở Galilê đều sau lần hiện ra nầy. Đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với nhóm các môn đệ. Hai lần trước được ghi lại nơi (Ga 20,19-31).
III. ÁP DỤNG:
A. Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin-Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta, một đàng nhờ những dấu chỉ của những sự việc xảy ra trong lần thứ ba Chúa hiện ra ở đây để chúng ta xác tín vào sự Phục Sinh của Chúa, và đàng khác biết nhận thức sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội và trong đời sống của mỗi người chúng ta.
B. Áp dụng thực hành:
1. Nhìn vào Chúa Giêsu:
a. Xem việc Người làm:
- Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ đang lúc đánh cá đánh động niềm tin của các môn đệ về sự phục sinh của Người. sự tiếp xúc với nhau là phương tiện gây lên tin tưởng thông cảm và hiểu biết nhau.
- Chúa Giêsu hiện đến lúc các môn đệ chưa nhận ra Người. Nhưng nhờ việc làm, lời nói và cử chỉ, các môn đệ nhận ra là Chúa. chúng ta cũng vậy lúc đầu chưa hiểu nhau, nhưng dần dà nhờ sự tiếp xúc nhận biết nhau qua những cử chỉ lời nói, việc làm và những tâm tình trao cho nhau. Cũng vậy, muốn tin nhận Chúa, chúng ta cũng cần tiếp xúc với Chúa thường xuyên bằng sự cầu nguyện, suy niệm, lãnh các phép Bí Tích.
b. Nghe lời Chúa nói:
- Này các con có gì ăn không? Chúa có thể dùng đủ mọi cách thế: tha nhân, việc làm, các biến cố điềm trời, vạn vật và ngay chính bản thân mình để khơi dậy cho chúng ta cái nhu cầu cần đến Chúa vì không thấy mình là không có gì cả.
- “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…”ý Chúa được thể hiện cho chúng ta đôi khi nó không hợp với lý lẽ của ta, nhưng vì đó là ý Chúa, chúng ta cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả.
- “Các con hãy đem cá mới bắt được vào đây”Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra những ơn Chúa ban để trình lên Người trong tâm tình cảm tạ và kính phục Chúa.
2. Nhìn vào các môn đệ:
a. Các môn đệ, do Phêrô khởi xướng đi đánh cá, nhưng đêm ấy chằng bắt được con cá nào. Con người sẽ bất lực với sức riêng mình. Nhưng nghe lời Chúa các ông thả lưới, các ông bắt được đầy cá. làm việc thuận theo ý Chúa bao giờ cũng sinh hiệu quả nhất là hiệu quả phần rỗi cho ta.
b. Gioan và các Tông Đồ khác cũng nhận ra Chúa quả dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ. Chúng ta tìm được những dấu chỉ qua những cái kỳ lạ Chúa làm để tăng thêm niềm tin vào Thiên Chúa.
66. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN
TRONG HỘI THÁNH CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tảng sáng, Đức Giêsu đã có mặt trên bờ biển hồ.
Các câu 30-31: "Còn nhiều phép lạ... " kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật trước hiển nhiên là đoạn kết của Tin Mừng thánh Gioan. Bới vậy, nhiều nhà chuyên môn coi đoạn 21 như một phụ lục được thêm vào sau.
Alain Marchadour nhanh chóng quả quyết: "đoạn phụ lục này không phải chỉ là một "lời bạt ", nhưng là một nối tiếp có tính Giáo Hội học cho một Tin Mừng nặng tính Kitô học. Giữa Tin Mừng tập trung vào Đức Kitô coi như kết thúc sau đoạn 20 là phụ lục là đoạn 21 không có mâu thuẫn mà chỉ là sự chuyến hướng nhắm vào Giáo hội (I. Zumstein). Những trung gian cần thiết để Đấng Mạc Khải tiếp tục công trình đều được trưng diễn: bữa ăn tạ ơn trong đó sự hiện diện của Người được tiếp tục nhiệm vụ mục tử của Phêrô là các Đấng kế vị, nhiệm vụ của người môn đệ được Chúa yêu và Giáo Hội của Ngài " ("Levangile de Jean ", Centurion, trg 253).
Một lần nữa, chúng ta lại thấy 3 giai đoạn của tiến trình Phục sinh:
- sáng kiến của Đấng Phục sinh
- nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết Người đã chết
- sứ mệnh Đấng Phục sinh trao cho Phêrô
a/ Khung cảnh diễn ra trên bờ hồ Tibêriát, nơi họ gặp Đức Giêsu Nadarét. Simon Phêrô và 6 anh em khác: Tôma, Nathanael quê Cana xứ Galilêa, hai con ông Zêbêđê và hai môn đệ nữa đang dưới thuyền đánh cá. Nhưng không được gì hết. "Nhưng suốt đêm ấy họ không bắt được gì.? (so sánh với bản tướng thuật khởi đầu sứ vụ tại Galilê của Luca 5,1-11).
b/ Tảng sáng, Đức Giêsu phục sinh hiện đến trên bờ hồ.
Các môn đệ không nhận ra Người. A. Marchadour chú giải rằng: "Họ không nhận ra Người. Sự Phục sinh đã tạo một biến đổi nào đó nơi Đức Giêsu. Vì sự biến đối đó nên các bản tường thuật cũng có những chi tiết khác biệt. Ở đây, cả sự hiện diện thể lý, cả giọng nói cũng không làm cho các môn đệ nhận ra, trừ người môn đệ được Chúa yêu." (Sđd, trg 256).
Khi Đức Giêsu hỏi: "Các con bắt được con cá nào không? (Hãy nghĩ tới câu Chúa hỏi các môn đệ trên đường đi Emmaus: các bạn nói chuyện gì mà rầu rĩ thế?) họ thú thật: vất vả thâu đêm mà chẳng được gì, nhưng, vâng lời Người, "họ thả lưới ".
c/ Sau đó, mẻ cá lạ lùng được trình bày như một biểu trưng cho sứ mệnh tông đồ của cộng đoàn. Các tông đồ tự sức mình, không thể thành công trong sứ mệnh, nhưng, dựa vào lời Đấng Phục sinh, họ bắt tay vào việc, và ngoài sự mong đợi, họ tập hợp được muôn người khắp nơi (bội thu: 153 con cá, gợi nhớ ở tiệc cưới Cana nơi Ga 2; bánh hoá nhiều Ga 6). Lại còn hình ảnh hợp nhất (chính sử đã muốn tượng trưng bằng chi tiết: lưới không bị rách, theo ngữ nghĩa Hy Lạp, không bị phân ly, không có chia rẽ).
2. Chúa đó
- Gioan, người môn đệ Chúa yêu (như nơi Ga 20,2-10: "ông thấy và ông tin"), đã tỏ ra bén nhạy với dấu lạ. Và nhờ trực giác chiêm niệm này mà mắt các anh em khác mở rộng để thấy Đấng Phục sinh hiện diện trên bờ hồ: “Chúa đó ". Thánh Phêrô Chrysologue chú giải: " Kẻ được yêu thấy trước vì con mắt tình yêu tinh hơn, và kẻ được yêu cảm nhận bén nhạy hơn.”
Lời của Gioan làm cho Phêrô tin tưởng, ông vội khoác áo vào và nhảy ùm xuống (Thi vị thật. Phêrô đang ở trần. Xin nhớ đến Luca 5,8: "Lạy Thầy, xin xa con ra, con chỉ là tên thuyền chài”)..
- Cái gì làm cho tâm trí Phêrô trì trệ vậy ông vẫn là người ban phát cho người khác mà bây giờ phải nhờ người khác mách bảo. Vẫn thánh Phêrô Chrysologue chú giải: "Đâu rồi lời tuyên xưng " thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa 'hằng sống ". Hay tại ông đã chối Thầy khi nghe một đứa nữ tỳ tra vấn? Khi bạn ông nói “Thầy đó”. Ông vội lấy áo vì đang ở trần, nhảy xuống biển, như muốn rửa sạch các vết tội như chối Thầy 3 lần. Ông, người đứng đầu các Tông Đồ, trở thành kẻ sám hối đầu tiên”.
Vào tới bờ các môn đệ thấy bánh và cá đã nướng sẵn đó. Trong bữa ăn mà Chúa đã chuẩn bị để đãi họ ("đến mà ăn "). Anh sáng thâm nhập tâm hồn: Không môn đệ nào còn hỏi Người Thầy là ai? Vì họ đều biết đó là Chúa?
A. Marchadour chú thích rằng: " Trong những bích hoạ cổ, bánh và cá biểu tượng tiệc Thánh Thể. Như vậy, trình thuật này của thánh Gioan, muốn nhắc độc giả nhớ rằng: cử hành Thánh Thể là sự nối dài là hiện thực hoá điều mà các chứng nhân tiên khởi của biến cố Phục sinh tin nhận trong sứ vụ cũng như công việc đời thường, tín hữu cần nhớ: Chúa Giêsu vinh hiển đang chờ họ, đang chuẩn bị cho họ bữa ăn nuôi sống họ và làm cho họ có sức mà gặp được Người" (Sđd, trg 257).
3. Hãy chăn các chiên của Ta.
Toàn bộ trình thuật của Gioan khẩn khoản mời chúng ta hướng về Phêrô. Ở bờ hồ, Phêrô được liệt kê trước hết trong danh sách các môn đệ. Ông là kẻ khởi xướng chuyến ra biển, các anh em khác theo ông và xuống thuyền của ông; chính ông nhào xuống nước lội vào gặp Đấng mà Gioan vừa chỉ ra là Chúa; và rồi, chính ông trở lại thuyền để kéo lưới vào tận bờ, đầy những cá lớn và trình mẻ cá cho Đức Giêsu thấy.
Và bây giờ, trong câu chuyện có tính quyết định, Phêrô đóng vai trò chính yếu nhất, khi Đấng phục sinh long trọng xác nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt của ông cũng như những điều kiện cần thiết để chu toàn sứ mệnh ấy.
Ba lần hỏi: "Con có yêu mến Thầy Không? Con có yêu mến Thầy hơn những người này không? " những câu hỏi vừa gợi lại vừa sửa lỗi ba lần Phêrô đã chối Thầy (Ga 13,37 và 18, 17.25.27). Đức Giêsu đón nhận một tội nhân sám hối.
Ba lần trao nhiệm vụ. Kẻ mới chối Người, Người lại trao một nhiệm vụ đặc biệt trong Giáo Hội Người. Ba lần trao nhiệm vụ theo thói quen thời đó, Đức Giêsu đã chính thức uỷ thác cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên. Nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn khi "theo " Thầy mình cho tới cái chết để làm chứng. (Ga 13,36): tham dự vào sứ mệnh của Đức Giêsu, chính là tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người; và cũng chính là chấp nhận hiến dâng mạng sống cho những anh em đã được Chúa trao phó như Đức Giêsu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Giêsu trên bờ biển Hồ
("Bible du Dimanche"" trg 582).
Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ: Người sẽ gặp các ông ở Galilê sau khi sống lại. Người đang ở bờ biển Hồ (biểu tượng của vĩnh cửu), trong khi các môn đệ đang vất vả trên.mặt biển, trong thử thách, hiểm nguy. Các Tông đồ không nhận ra Người ngay. Chỉ đức tin mới làm cho người ta nhận ra Người qua những dấu chỉ Người tỏ bày.
Đức Chúa vinh hiển, Đấng từ xa kêu gọi và chỉ tỏ mình trong đức tin, lại cũng chính là người mời phục vụ chuẩn bị bữa ăn và mới gọi chúng ta ngồi chia sẻ bữa ăn ấy. Đức Kitô sai các Tông đồ đi chài lưới người ta. Mẻ chài này, Người điều khiển. Người làm cho cá vào đầy lưới, biểu tượng Nước Trời (Mt.13,47). Người trao nhiệm vụ chủ chăn cho Phêrô. Uy quyền này được trao cho một con người rất bình thường (Simon con Giona), một con người mỏng giòn, đã chối bỏ Người và không thể yêu Người sâu xa hơn ngoài sự gắn bó thuần tình cảm.
Nhưng từ đây, Đức tin của Phêrô dựa trên Đức Giêsu chứ không dự' trên sức mình: " Thầy biết ". Phêrô không đòi chia sẻ mọi tâm tư của Thầy, ông chỉ còn việc duy nhất phải làm: theo Thầy.
Số phận của Phêrô cũng sẽ là số phận của các tín hữu: từ lòng tin nhiệt thành phác hoạ lối đi, ông tiến tới đức tin chín chắn, dám để cho Chúa dẫn dắt cuộc đời cho tới chết, tới tử đạo.
2. Người của bờ biển Hồ
(G. Bessière, trong dieu si proche, Nãm C". DDB, trg 57-58).
Không ai nhận ra con người đứng trên bờ biển Hồ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu đã kêu lên: " Chúa đó! " Vào sáng phục sinh, ông là người đã đến mồ trước tiên, "ông đã thấy và đã tin; và trong ánh sáng của tình yêu, ông còn là người đầu tiên nhận ra Đấng Phục sinh. Phêrô cũng là người có phản ứng rất đặc biệt: nhảy ùm xuống nước mà lội vào với Chúa.
Bản tướng thuật như quên những anh em khác để tập chú vào hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ. Người thì được Đức Giêsu quá yêu thương. người thì là.thủ lãnh năng động của tập thể. Giáo Hội sơ khai cần nhận ra đặc điểm của hai khuôn mặt vĩ đại này. Đó là hai cực sống động của những cộng đồng quan trọng tiên khởi, hai trào lưu khác nhau của Kitô giáo thuở đầu. Cả hai vị đều tiếp nhận từ Đức Giêsu vai trò đặc biệt của mình.
Còn một biểu tượng rất giàu ý nghĩa: người ta chèo thuyền, người ta thả lưới, đêm dài vô tận, bình mình nhợt nhạt, mà thuyền cá nhẹ tênh. Phải nhìn ra đấng Phục sinh đang ở xa xa, phải biết đi tới tận cùng thế giới. Nghe người chỉ mà quay lại quăng lưới. Chỉ Người có thể dẫn ta vào những cuộc mạo hiểm khi nhắc cho ta những đòi hỏi và hạnh phúc của cuộc mạo hiểm đó, đời sống của Giáo Hội phải luôn được "hiệu chỉnh " dưới ánh mắt của Đức Giêsu''
Lưới không rách. Cộng đồng Kitô giáo cũng vậy. Nhiều dị biệt. Nhưng là nơi người ta nghe nhau, hiệp thông với nhau dù rất khác biệt. Đức Giêsu luôn mời gọi. Người hiến tặng bánh và cá, như thời nuôi dân trong hoang địa, như bữa tiệc chiều ly biệt. Chúng ta thoáng nhận ra hình ảnh bữa tiệc ngày thế mạt mà Người muốn mời cả loài người. Chân trời này gợi nơi ta một mối quan tâm vô cùng sâu sắc.
Các Kitô hữu, thực hiện sứ mệnh mỗi người mỗi cách, nhưng phải trùng hợp với ý Đức Giêsu, nhận ra Người, nghe "được tiếng Người khi thi hành sứ mệnh Chính Người nuôi dưỡng và làm cộng đồng sống động: chúng ta nghĩ đến Bữa tiệc ly Thánh Thể. Và như tại Emmaus, chúng ta nhận ra Đấng Phục Sinh nhờ cử chỉ khi hiện diện, phục vụ và chia sẻ của Người.