Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
06/07 Ăn chay đẹp lòng Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ăn chay đẹp lòng Chúa.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 13 thường niên.
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Lời Chúa: Mt 9, 14-17
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"
Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thái độ dứt khoát
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Mới và cũ
Chẳng ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu da sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt. 9, 16-17)
Đức Giêsu, con người tự do
Chúa Giêsu yêu mến các truyền thống, nhưng Người không phải là con người bảo thủ. Người thông thạo Lề Luật, vàbiết cách tuân thủ, nhưng không làm nô lệ cho Luật. Người tôn trọng những cái cũ, nhưng không để cho những cái đó làm trở ngại cho đời sống được canh tân và được thể hiện vuông tròn.
Chúa Giêsu yêu thích cái mới, tạo nên cái mới, sống chết vì sự canh tân. Phúc âm của Người, chính là nguồn sinh lực mới mẻ và tươi mát. Không có chi lải nhải. Chúa Giêsu không chống lại việc giữ chay theo Luật truyền. Người thường ăn chay. Nhưng không ngại bãi bỏ việc giữ chay không có lý do thích hợp vì nó cản trở niềm vui chan hòa của con người. Chúa Giêsu nhìn nhận rằng người ta không thể suốt đời cứ huênh hoang tự đắc về những tập tục cũ kỹ và những cách suy nghĩ lỗi thời. Người đã rao giảng sự canh tân thường xuyên con người, việc làm và cách làm. Người luôn có những bước khởi đầu mới mẻ, với nhiệt tình hăng say luôn mới. Người là con người tự do, có khả năng xông pha mạo hiểm.
Chúng ta có là những con người tự do không?
Chúng ta có là những con người tự do như Chúa Giêsu không? Mặc dầu vẫn phải tôn trọng quá khứ, chúng ta có được khả năng sống luôn hướng về tương lai không? Dù ở tuổi nào, ta vẫn có được óc sáng kiến, tinh thần sáng tạo chứ? Có những ngày nào, ta thấy thích thú đoạn tuyệt với nhưng lề thói cũ, sẵn sàng hướng về những phiêu lưu mới mẻ, sẵn sàng đương đầu với những thách đố mới không?
Nếu cuộc sống của ta chẳng bao giờ có được điều chi mới mẻ, nếu lòng tin của ta không hề thúc đẩy ta làm được việc gì mới lạ, nếu ta chỉ sống với những gì đã cũ kỹ, dã qua, đã được làm rồi, nếu cuộc đời thường ngày của ta, mỗi ngày chỉ là rập theo vết xe lăn cũ, thế thì chúng ta đã tự giam hãm mình vào những bầu rượu cũ và chúng ta đang sống xa, rất xa tinh thần Phúc âm rồi đấy.
Suy Niệm 3: HÃY ĐỔI MỚI ( Mt 9, 14-17)
Xem lại CN 8 TN B, Thứ Hai tuần 2 TN, thứ Sáu sau lễ Tro, và thứ Sáu tuần 22 TN.
Đã nhiều lần Đức Giêsu bị những người Pharisêu cho rằng Ngài không giữ Lề Luật của Môsê. Họ kết án Đức Giêsu là người vô kỷ luật. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã phủ nhận chuyện đó và Ngài đã khẳng định: “Tôi đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn”. Thật vậy, Lề Luật Cựu Ước chỉ là một sự chuẩn bị cho Con Người và sứ vụ của Đức Giêsu đến mà thôi.
Nhưng nay, thời đã điểm và Đức Giêsu đã đến, Ngài hiện diện như những gì các tiên tri đã tiên báo và Lề Luật của Môsê hướng tới. Vì thế, giờ đây, chính Ngài là nội dung của Luật, nên hãy sống với một tinh thần mới chứ không phải mong đợi nữa, vì Chàng Rể là Đức Giêsu đã đến.
Tinh thần mới ở đây chính là lòng bao dung, tha thứ, hiền hòa, nhân hậu, từ bỏ con đường tội lỗi. Đổi mới bầu da cũ là bỏ đi nếp sống không còn phù hợp với Tin Mừng và thay vào đó là những cách sống mà Đức Giêsu đã vạch ra, đó là: “Mến Chúa và yêu người”. Thiên Chúa không thể đổ tràn ân sủng mới của Ngài vào trong một thân thể cũ với đầy những tội lỗi, những thù hằn, ghen ghét ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức mình là người tội lỗi, để đáng được đón nhận
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Giữ được cả hai
Suy niệm:
Mỗi năm người Do thái dành một ngày chính thức để cả nước ăn chay.
Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23, 29).
Tuy nhiên cũng có những ngày ăn chay khác có tính tập thể
để kỷ niệm những biến cố đau buồn của dân tộc.
Ngôn sứ Giôen đã mời người ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).
Vào thời Đức Giêsu, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu
còn ăn chay do lòng đạo đức riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).
Nhìn chung bầu khí ăn chay không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.
Bởi đó có người cố mang bộ mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu bị các môn đệ của Gioan tra hỏi
về chuyện tại sao các môn đệ của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).
Đối với họ ăn chay là một việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu
trong đời sống của một nhóm như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trả lời họ bằng một câu hỏi khác.
Gián tiếp Ngài nhận mình là chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Chính vì thế chuyện ăn chay than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.
Bầu khí vui tươi là nét đặc trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.
Đúng là cần phải sám hối, vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),
nhưng Nước Trời được ví như một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),
nên phải đón lấy Nước này trong niềm vui của ngày hội.
Chỉ khi nào chàng rể Giêsu bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,
khi ấy các môn đệ của Ngài mới ăn chay.
Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)
đặc biệt vào những ngày thứ tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),
thay vì thứ hai và thứ năm như người Do thái.
Nhưng họ ăn chay không phải để chờ một Đấng chưa đến,
mà để chuẩn bị lòng mình đón đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.
Đức Giêsu đem đến những giáo huấn và tinh thần mới mẻ.
Liệu có thể ghép những cái mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?
Bằng hai ví dụ, Ngài cho thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.
Miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.
Rượu mới được đổ vào bầu da cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.
Đối với Đức Giêsu, muốn giữ được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.
Bầu mới chính là cách sống mới Luật Tôra của Thiên Chúa
như đã được Ngài giải thích lại trong Bài Giảng trên núi.
Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống trong niềm vui,
bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Chàng rể đã bị đem đi, nhưng Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).
Bầu khí của tiệc cưới và rượu mới
vẫn là bầu khí của mọi cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
05/07 Kêu gọi người thu thuế Mátthêu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kêu gọi người thu thuế Mátthêu.
Thứ sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên.
"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".
Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bữa Tiệc Thân Hữu
Trong hầu hết các nền văn hóa hiện hữu trên thế giới, bữa ăn là một thời điểm, một nghi lễ đặc biệt trong đời sống con người. Con người thường chia giờ giấc trong ngày theo các bữa ăn. Bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Vì là giờ hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống. Người ta vẫn nói: "Trời đánh tránh bữa ăn". Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Người công chính với người tội lỗi
Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.
Đức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi khéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Mt. 9, 9-12)
Người tội lỗi được kêu gọi
Chúa Giêsu quan tâm lo lắng cho những người ốm đau bệnh tật, vì chính họ cần đến Người. Những người mà vì họ Chúa đã đến và kêu gọi đi theo Người, đó là những người tội lỗi, chứ không phải những người công chính.
Những người tội lỗi ám chỉ tất cả những-ai-kia mà xã hội có suy nghĩ, có giáo dục và hãnh diện về tính liêm khíết của mình, xua đuổi, không nhìn nhận và khinh bỉ. Thời Chúa Giêsu người ta gọi những người tội lỗi là tất cả những ai không tuân giữ tỉ mỉ những điều Luật truyền. Từ ngữ người tội lỗi cũng áp dụng cho tất cả những ai cụ thể đang sống trong tội lỗi, đang làm điều xấu. Chính vì những con người đó mà Chúa Giêsu được sai đến.
Nếu Chúa Giêsu yêu thương người tội lỗi, thì Người lại gớm ghét sự tội. Nếu quả Chúa kêu gọi những người tội lỗi, chính là để cho họ trở nên những người công chính. Nên ta có thể tự hỏi: Dù rằng đã là những con người tội lỗi, nếu ta đang trở nên những người công chính, nếu suốt cuộc đời, ta tìm sống thánh thiện và công chính, thì Chúa Giêsu có còn quan tâm đến ta không, có vẫn gọi ta đi theo Người không?
Những người công chính được kêu gọi
Đương nhiên ta phải trả lời có, vì thực ra Chúa luôn luôn kêu goi mọi người: người công chính cũng như người tội lỗi. Lý do đơn giản. Trước thánh nhan Người chẳng có người nào là hoàn toàn công chính. Những kẻ được nên công chính vẫn mang thân phận người tội lỗi.
Chỉ có những người mà thực tế Chúa Giêsu không có thể làm gì được cho họ, đó là những kẻ tưởng rằng mình quả là công chính nên không thấy được nữarằng mình vẫn và luôn luôn cần được tha thứ, được cứu độ, được thanh tẩy và được biến đổi.
Suy Niệm 3: CẢM NGHIỆM ĐỂ LÀM CHỨNG (Mt 9, 9-13)
Xem CN 10 TN A, thứ Bảy tuần 1 TN và thứ Bảy sau lễ Tro.
Trong dịp lễ tạ ơn của một tân linh mục, mọi người hiện diện được nghe thấy cha mới chia sẻ lúc đầu lễ rằng: “Cộng đoàn cùng với con tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con Thiên Chức linh mục, mặc dù con bất xứng, yếu hèn và vô dụng. Nhưng vì yêu thương, nên Chúa đã gọi và chọn con tiến lên bàn thánh để con trở thành linh mục của Chúa”. Câu nói đó của tân linh mục diễn tả một sự cảm nghiệm sâu xa tình thương mà Chúa dành cho cha.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Mátthêu, người thu thuế, hẳn ông cũng cảm thấy mình bất xứng vì công việc bất chính của ông đang làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã gọi ông để ông trở thành môn đệ.
Khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đức Giêsu, nên ông đã dứt khoát đứng dậy, rời khỏi bàn thu thuế, nơi ông đang làm việc, nơi ông đã gắn bó, nơi là sự nghiệp đã nuôi sống ông và gia đình ông, để đáp lời mời gọi đầy trìu mến và đi theo Đức Giêsu.
Thật vậy, một tình yêu, một lòng mến, Đức Giêsu đã gọi ông. Cũng một tình yêu, một lòng mến, ông đã đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi, để tiếp bước trên hành trình loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa trong cuộc đời môn đệ nơi ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra mình bất xứng để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Mặt khác, từ những gì đã cảm nghiệm, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta sẵn sàng cảm thông cho những yếu đuối của anh chị em mình, sống khiêm tốn và đón nhận Thánh giá trong hành trình môn đệ của mình như một hồng ân.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được Chúa yêu thương quá nhiều, dù chúng con bất xứng. Xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng con, để rồi chúng con ra đi loan báo về tình yêu đó cho anh chị em mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đứng dậy đi theo
Suy niệm :
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
04/07 Chúa có quyền tha tội
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa có quyền tha tội.
Thứ năm đầu tháng, tuần 13 thường niên.
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Lời Chúa: Mt 9, 1-8.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường.
Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội".
Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sống niềm tin
Con người là con vật xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng không ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phép lạ và Lời Chúa
Khi Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Và kìa, người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” (Mt. 9, 1-3)
Đức Giêsu, người hay làm phép lạ
Nếu đọc một mạch hết các Phúc âm, người ta có cảm tưởng là Chúa Giêsu đã làm vô số các phép lạ. Phải nói là rất nhiều, nên các thánh ký đã cẩn thận lưu ý ta rằng còn nhiều phép lạ khác không được kể lại trong các sách Phúc âm.
Điều này khiến ta có thể đặt ra ít nhiều câu hỏi: Tại sao Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều việc lạ lùng như vậy? Tại sao thời Chúa Giêsu các phép lạ thường hay xảy ra, còn thời chúng ta thì hiếm có thế? Tại sao có phép lạ?
Ý nghĩa các phép lạ
Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta, càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có mục đích chỉ cho ta thấy Đức Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích đoạn Phúc âm ta đọc lại hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Thiên Chúa còn làm phép lạ nữa không? Chắc chắn, còn. Nhiều không? Ai dám nói được điều này. Có một điều chắc chắn. Ay là ta không được nuôi dưỡng lòng tin của mình bằng các phép lạ, nhưng phải bằng Lời Chúa.
Suy Niệm 3: CHÚA LÀ ĐIỂM TỰA ĐỜI CON (Ga 20, 24-29)
Xem lại thứ Sáu tuần 1 TN, thứ Sáu tuần 6 TN và thứ Hai tuần 2 MV
Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân với những bệnh lý khác nhau. Các bệnh nhân thường hay kêu la đau đớn và tỏ vẻ khó chịu với thân nhân của mình. Tuy nhiên, những người hiện diện ở đó thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy và chứng kiến một bệnh nhân trạc tuổi 60, ông không kêu ca, không trách móc, nhưng có lúc lại nở nụ cười tươi. Hỏi thăm, mới biết ông là người Công Giáo và phải mổ để cắt thận vì sỏi quá nhiều.
Trong lúc trò chuyện, có một người hỏi thăm ông: “Tại sao các bệnh nhân khác thì đau đớn và kêu la, còn ông thì không?” Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói: “Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi nhớ đến Chúa chịu đóng đinh. Ngài còn đau đớn hơn tôi nhiều, vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa giúp sức để vượt qua cơn đau và tôi cũng xin Chúa cho mình được thông phần đau khổ với Ngài”. Thật tuyệt vời, Đức Giêsu là điểm tựa của ông, và cuộc thương khó, cái chết của Ngài đã làm cho ông can đảm, vui vẻ đón nhận đau đớn vì lòng yêu mến Chúa.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác, hẳn ai cũng biết ngài là người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng nói: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy thì mới có sự thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta ngày hôm nay phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Mong thay lời tuyên tín của thánh Tôma khi xưa: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" cũng là lời cầu nguyện và xác tín của mỗi chúng ta, và, lời chúc phúc của Đức Giêsu cho Tôma: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin" cũng là lời chúc phúc cho chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con còn non yếu, xin Chúa giúp cho đức tin của chúng con được lớn mạnh và trưởng thành. Xin cho chúng con tin tưởng vào Lời Chúa và những lời dạy của Giáo Hội. Xin cho chúng con biết luôn tìm đến Chúa như là điểm tựa của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Thấy họ có lòng tin
Suy niệm :
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác ! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
03/07 Con đường theo Chúa
- Viết bởi Ga 20, 24-29
Con đường theo Chúa.
Thứ tư tuần 13 thường niên – Thánh TÔMA, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
* Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tôma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giêsu đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, Tôma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.
Lời Chúa: Ga 20, 24-29
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vị tiên tri cô độc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế doạ sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe doạ của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe doạ của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hoá ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...
Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ...”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôi không kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chúng ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Thánh Tôma Tông Đồ
Khi nói đến ai đồng dạng với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của bất cứ tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma không tin các bạn tông đồ, đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho tin. Không phải là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức Kitô Phục Sinh, Con Thiên Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Kitô làm chúng ta tin.
Các sách Tin Mừng...
Chúng ta biết chắc rằng các sách Tin Mừng không được Đức Giêsu viết ra. Chúng ta biết chắc rằng những bài giảng của Đức Giêsu chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết bao. Tuy nhiên, khi Gioan, Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giêsu nói....”, chúng ta tin những lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta, những lời đó chúng ta nghe chính miệng Đức Kitô.
Tôma...
Chính Ngài làm chứng cho chúng ta về Đức Kitô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người chúng ta rằng, chúng ta cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những chứng nhân chính thức, còn chính Đức Kitô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và nhờ Giáo Hội.
Khi Giáo Hội dạy, Giáo Hội nói lời Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng nói của Ngôi Lời. Chính Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế vị các tông đồ, không phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe các Ngài, thì không nhất thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không lay chuyển nhưng khoa học thì liên tục tiến triển.
Tôma còn nhắc nhở chúng ta chỉ có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết kính trọng trí khôn chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái gì nhồi sọ chúng ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
J.M
SUY NIỆM 3: Thánh Tôma, Tông Đồ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ TRONG NHÓM 12:
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu: ”Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (Ga 11,8). Chúa nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê” (Ga 11,7). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinhvà không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ ĐÃ ĐƯỢC PHÚC TỬ ĐẠO:
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét: ”Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi” (Mt 10,17-22). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại: ”Anh em hãy đi khắp mọi nơi...” (Mt 28,19) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
SUY NIỆM 4: Đừng cứng lòng nữa
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin.
Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn.
Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương đó.
Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện lạ.
Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12).
Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông,
để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông.
Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!”
Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài không có được.
Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo giác tập thể.
Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn…
Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 5: Thánh Tôma, Tông Đồ
(tgpsaison.net)
Thánh Thomas (Tôma) Tông Đồ hay cũng còn được gọi là là Đi-đy-mô, xuất thân từ một gia đình nghèo túng tại Galilea, Do-thái. Tuy nhiên, không ai biết về ngày tháng năm sinh của Ngài, cũng không ai biết Ngài đã sinh ra tại địa điểm cụ thể nào ở Galilea. Theo tương truyền, Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Kitô với tư cách là một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, đã đồng hành với Chúa Giêsu suốt ba năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có nghĩa là "một cặp“ hay "người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.
Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.
1. Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh
Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên, Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3; Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gioan đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người Ngài.
a. Thomas là người đa nghi
Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giêsu. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn như thế:
“Vào chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người "đa nghi“ là vì, như được trình bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.
b. "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống"
Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4). Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: "Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).
c. “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“
Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc 10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“
2. Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria
Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.
3. Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas
Cuốn Didache, tức cuốn Giáo lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Kitô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Kitô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.
Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.
Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).
Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.
Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh tích vẫn còn sót lại của Ngài.
Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:
1. Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;
2. Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;
3. Núi và Thánh đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;
4. Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Piô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.
5. Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.
Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giêsu.
Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.
4. Việc tôn kính Thánh Thomas
Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn mạng của các Thần học gia.
Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.
Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.
Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
SUY NIỆM 6: Thánh Tôma, Tông Đồ
Thánh Tôma (còn có tên gọi là Điđimô) là một trong mười hai tông đồ của Chúa Giêsu. Có lẽ thánh Tôma được biết đến nhiều nhất bởi sự kiện được ghi trong Tân Ước là: các tông đồ khác kể lại cho ông là đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện ra với họ sau khi chịu chết, nhưng ông không tin và đòi được tận mắt nhìn sự việc thì mới tin. Ngày khác, khi Giêsu lại hiện ra với các tông đồ, cũng có mặt Tôma, thì ông đã tin và thốt lên câu nói nổi tiếng: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Gioan 20, 24-28). Lời tuyên xưng ấy đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước. Nhờ ngài mà Kitô Hữu có được lời nhận định của Đức Giêsu: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Gioan 20,19).
Phúc Âm, đặc biệt là Phúc Âm thánh Gioan, đã cho ta thấy ngài là người rất nhiệt thành và tận tụy. Một lần Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để cho Lazarô sống lại, nhưng nơi đó người Do Thái đang âm mưu giết Chúa, nên Tôma đã can đảm nói: "Nào chúng ta cùng đi để được chết với Thầy”(Gioan 11,16b). Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Đức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến có Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đi rao giàng khắp nơi, và thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthi, Medes, và Ba Tư; sau cùng ngài đến Ấn Độ, đem đức tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaca, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô hữu của thánh Tôma". Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự cố đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết ở nơi gọi là Calamine.
Thánh Tôma chia sẻ số phận của thánh Phêrô, thánh Giacôbê và Gioan (những người "con của sấm sét"), thánh Philipphê và lời thỉnh cầu dại dột của ngài khi muốn được nhìn thấy Chúa Cha - thật vậy mọi tông đồ đều có những khiếm khuyết và thiếu hiểu biết. Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ chú ý đến các khuyế điểm này, vì Đức Kitô đã không chọn những người vô dụng. Sự yếu đuối của các ngài vì bản tính loài người cho thấy sự thánh thiện là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không phải công sức của con người; món quà ấy được ban cho những con người bình thường đầy khiếm khuyết; chính Thiên Chúa là người từ từ biến đổi những khuyết điểm ấy trở thành hình ảnh của Đức Kitô, can đảm, trung tín và nhân hậu.
Giáo Hội kính nhớ ngài vào ngày 3 tháng 7 hằng năm. Hợp ý với Giáo Hội, chúng ta hãy xin Chúa, nhờ lời bầu cử của thánh nhân, thêm đức tin cho chúng ta, nhất là trong thế giới duy vật ngày nay. Bằng việc quyết tâm noi gương Thánh Tôma tông đồ, chúng ta luôn cố gắng tìm tòi học biết niềm tin vào Chúa Kitô, để giúp những người cứng lòng được tin thật Người là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ trần gian.
Giuse Đinh Thành Đạt SDB
SUY NIỆM 7: Thánh Tôma, Tông Đồ
Thánh Thomas Tông Đồ được mô tả như một con người sáng suốt, thực tế và quả cảm theo Phúc Âm của Gioan. Ông có biệt danh là Didymô nghĩa là song sanh. Thomas đoán chắc những việc lớn lao sẽ diễn ra ở Jérusalem dịp lễ Vượt Qua "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Người" (Gn 11, 6)
Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (coi Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: "Anh tin là vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng – vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ – nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Gioan 11:16b).
Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthia, Medes và Persia (Ba Tư); sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô Hữu của Thánh Tôma" theo lễ điển Malabar còn làm chứng tá cho tương truyền ấy. Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết năm 72 ở nơi gọi là Calamine.
Trong các hình của thánh nhân tay cầm một cây thước thợ nề mà theo tương truyền thánh nhân đã xây cung điện cho vua Guduphara ở Ấn Độ. Lễ kính thánh nhân ngày 03 tháng 7 là ngày chuyển dời thánh tích của thánh nhân về Edessa ở Mesopotamia.
(Trích Gương Thánh Nhân)
02/07 Theo Chúa: không sợ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Theo Chúa: không sợ.
Thứ ba tuần 13 thường niên.
"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Lời Chúa: Mt 8, 23-27
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?"
Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xin cứu chúng con
Ông John Newton sống nghề buôn bán các nô lệ. Trong lần vượt đại dương, thuyền của ông gặp bão lớn gần chìm; lúc đó, vì quá lo sợ, ông đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin cứu con; qua được cơn nguy hiểm này, con sẽ từ bỏ nghề buôn bán vô nhân đạo này và sẽ làm nô lệ Chúa". Và rồi, khi thuyền ông cập bến Mỹ Châu sau đó, ông đã từ bỏ mọi sự, trở thành nhà rao giảng Tin Mừng nổi tiếng.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc đời? Những cơn bão tố đó làm cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa: "Lạy Thầy, xin cứu chúng con". Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Một Hội Thánh trong cơn biến động
Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động rất mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất.” (Mt. 8, 23-25)
Hai con thuyền
Con thuyền của các môn đệ bị sóng ập vào làm ta tự nhiên nghĩ đến Hội thánh mà người ta thường ví như một con thuyền. Ta có thể đẩy so sánh đi xa hơn một chút và nghĩ rằng Hội thánh của thời đại ta đang bị chìm gióng như con thuyền của các tông đồ xưa.
Có một số người thực sự nghĩ như vậy và họ có lý. Họ nói: Hội thánh từ mấy thập niên nay đã mất đi nhiều tín đồ. Thậm chí cả những vị chủ chăn cũng đã ít nhiều quay lưng lại với Hội thánh. Hội thánh vẫn tiếp tục lên tiếng nơi diễn đàn công cộng, nhưng người ta ít nghe Hội thánh rồi. Các khuynh hướng bộc lộ trong các cộng đoàn Kitô hữu dẫn đến những cuộc tranh chấp gay go: phe bảo thủ chống lại phe cấp tiến, phe tiên phong kình với phái ôn hòa. Người ta dám nói có thể có phe ly khai.
Như vậy ta phải nghĩ gì về Hội thánh hôm nay? Có thể mường tượng một tương lai thế nào cho Hội thánh?
Tin mà không ngây ngô
Phản ứng của người có lòng tin sẽ phải dựa vào lời Chúa Giêsu để được soi sáng: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin?” Đó mới thực sự là phản ứng của những người có niềm tin lạc quan. Họ dám chắc rằng Hội thánh sẽ qua khỏi cơn khủng hoảng, sẽ tìm lại được luồng khí mới, và một sức năng động mới. Họ đã nhìn thấy những dấu chỉ của hồi sinh là sự trở về với cầu nguyện, lòng xác tín sâu xa của những người mới tin, v.v.
Chúng ta có lý do để lạc quan. Chúa Giêsu sẽ không bao giờ ngủ, dù rằng bề ngoài người ta tưởng như Người ngủ. Người vẫn ở bên Hội thánh của Người. Chắc chắn Người sẽ làm cho Hội thánh sống lại như chính Người đã sống lại vậy. Nhưng lòng tin của ta không được tự mãn và ngây ngô. Đức Kitô nhờ ta mà hành động. Người cậy dựa vào ta để làm cho Hội thánh trở nên đúng như hình ảnh thực của mình. Ta đừng quá hy vọng vào phép lạ, khi khoanh tay ngồi chờ đợi tất cả từ trên cao.
Suy Niệm 3: “THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ” (Mt 8, 23-27)
Xem lại CN 12 TN B, Thứ Bảy tuần 3 TN
Trước cảnh bão táp dữ dội, sóng cuồn cuộn dâng, hẳn ai là người không sợ? Nhất là lúc đó, chúng ta lại là người đang ở tâm điểm của thiên tai!
Hôm nay, các môn đệ cũng trải qua cơn cuồng phong, biến động mạnh của biển, khiến sóng lớn và nước ập vào thuyền, vì thế các ông lo sợ, hoảng loạn, nên đã tìm hết cách để chống trả với thiên tai và hy vọng con thuyền gặp được an toàn.
Hình ảnh con thuyền chuyên chở Đức Giêsu và các môn đệ hôm nay chính là hình ảnh của Giáo Hội và mỗi chúng ta trên hành trình dương thế. Có những lúc Giáo Hội gặp phải những khó khăn, thử thách, hay cuộc đời của chúng ta lắm khi gặp phải sự bất an, thất bại, chán trường ...
Thật vậy, những trận cuồng phong thiên hình vạn trạng từ bên ngoài với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, những tai nạn, bệnh tật ập đến, tiền tài tiêu tan theo mây khói, bị ức hiếp tột cùng, bị quá thiệt thòi vì những đổi trắng thay đen của lòng người; hay từ bên trong bản thân do những xung đột giữa thiện và ác, giữa bao dung và kết án, giữa tha thứ và hận thù, tất cả đã làm cho không biết bao người phải lung lay đức tin và hoang mang...
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Ngài, vì: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, Chúa vẫn còn đó trên chiếc thuyền của Giáo Hội và trong cuộc đời của chúng ta. Vì thế, không gì và không có cách nào, dù quyền lực của thế gian, của sự ác, bất công và ma quỷ cũng không phá đổ nổi Giáo Hội của Chúa. Đi theo và trở thành môn đệ thì phải hiểu được quy luật căn bản, tất yếu của hành trình đức tin là: qua đau khổ rồi mới đến vinh quang; qua cái chết rồi mới được phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết cậy trông nơi Chúa. Xin cho chúng con biết can đảm trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình, dù gặp phải bão táp phong ba. Những lúc như thế, xin Chúa soi sáng cho chúng con biết thưa với Chúa như các môn đệ khi xưa: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con!". Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Người vẫn ngủ Mt 8, 23-27
Suy niệm:
Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,
nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.
Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.
Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.
Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,
khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,
Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,
dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).
Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết ?
Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.
Điều quan trọng là lòng ta được bình an,
vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
01/07 Con đường theo Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con đường theo Chúa.
Thứ Hai tuần 13 thường niên.
"Con hãy theo Ta".
Lời Chúa: Mt 8, 18-22
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu".
Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Theo Chúa
Có hai tu sĩ lên đường hành hương: một người chủ trương cần phải có tiền bạc và phương tiện vật chất đầy đủ mới có thể đảm bảo cho đời sống tu trì; một người thì luôn tin tưởng nơi tinh thần từ bỏ. Hai người trao đổi, tranh luận với nhau về hai tinh thần khác nhau mà không ai có thể thuyết phục được ai. Khi họ đến bờ sông thì trời cũng đã tối. Người có tinh thần từ bỏ đề nghị: - Chúng ta không có tiền để qua sông? Chúng ta hãy ngủ lại đây và dâng lời chúc tụng Chúa.
Người kia đáp lại:
- Nơi này không có làng mạc, nhà cửa, thú dữ có thể cắn xé; bên kia sông, chúng ta có thể nghỉ lại một cách an toàn. Tôi có mang theo tiền, chúng ta hãy thuê một người lái đò.
Sau khi đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của mình như sau: - Anh đã thấy được cái lợi của việc giữ tiền trong túi chưa? Chính nhờ có chút tiền bạc, tôi đã có thể cứu mạng anh và mạng tôi. Ðiều gì sẽ xẩy ra, nếu tôi cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?
Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống trong tinh thần từ bỏ mỉm cười và nói:
- Chính sự từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta; anh đã không tiếc của để thuê người lái đò là gì? Hơn nữa, tôi không có đồng xu dính túi, thế mà tôi vẫn sống; tôi tin rằng chính tinh thần từ bỏ đã cho tôi có được mọi sự cần thiết.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay kể lại rằng: Ngày nọ, Chúa Giêsu và các môn đệ đang đi đường, thì có người đến thưa Ngài: "Tôi xin theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi". Chúa Giêsu trả lời: "Chồn có hang, chim có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu". Một người khác cũng muốn theo Ngài, nhưng xin được về chôn cất cha trước đã. Chúa Giêsu nói: "Anh hãy theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết".
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ và tất cả những ai muốn theo Ngài một thái độ từ bỏ, dứt khoát tận căn; Ngài không bao giờ chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào. Qua những đòi hỏi ấy, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho chúng ta giới răn cơ bản: mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Ðây không phải là một điều không tưởng, cũng không phải là một lý tưởng cao vời mà là một mệnh lệnh. Quả thật, con người chỉ thực sự đạt được ơn gọi làm người của mình, khi nó sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nó thuộc trọn về Chúa. Những việc làm, như hy sinh, hãm mình, khổ chế, chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị, nếu chúng được thực thi như một cố gắng dốc cạn chính mình để sống tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, và đó cũng là mục đích cuộc đời người Kitô hữu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Một lời đáp trả rõ ràng và dứt khoát
Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt. 8, 19-20)
Một lời mời gọi không hàm hồ
Khi dấn thân cho bất cứ công việc gì, cũng như đối với bất cứ ai, ta thích mọi chuyện phải rõ như ban ngày. Ta muốn biết mình đi đâu, muốn biết đích xác phần trách nhiệm của mình. Ta mong cho người đồng chí của ta nói lên không mập mờ ý hướng của anh.
Với Chúa Giêsu, chúng ta hoàn toàn được Người phục vụ tốt. Khi Chúa mời gọi ai đi theo Người, Người không ngại nói cho kẻ ấy biết Người chờ đợi gì nợi họ. Nói ra cũng rất đơn giản thôi. Người chờ đợi tất cả. Người đòi hỏi tất cả. Người yêu cầu ta từ bỏ hết, từ bỏ ngay lập tức vì Người. “Anh hãy cứ đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”
Lời lẽ của Chúa thật cứng rắn, sắc bén. Không có tiếng nào thừa, cũng không có gì giấu diếm. Nếu người ta quyết định đi theo Người, hẳn phải biết cái gì đang chờ đợi mình: không có chỗ tựa đầu, thập giá, đau khổ, nhưng cũng có niềm vui ngập tràn, không tưởng tượng được.
Một lời đáp thẳng thắn và chân thành
Nếu Chúa Giêsu đặt các quân bài của Người lên bàn, Người yêu cầu các môn đệ Người cũng phải làm như vậy. Lời Người mời gọi không mập mờ, thì Người đòi câu đáp trả cũng phải như vậy. Đi theo Người hoặc không đi theo Người. Không thỏa hiệp. Không thể đi với Người mà vẫn quấn quýt với người thân. Không thể trở thành môn đệ Người mà còn dính bén với những thói hư tật cũ, những cách suy nghĩ và hành động lỗi thời.
Chúng ta đã thẳng thắn và chân thành đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu không? Chúng ta đã thật sự quyết định đi theo Người không? Điều Người chờ đợi nơi ta, ta có đã thưa vâng một cách rõ ràng và dứt khoát không? Ta đừng trả lời quá vội. Chẳng phải vì ta đã được rửa tội và đang là những Kitô hữu tương đối tốt mà ta dứt khoát bước đi theo Đức Kitô đâu.
Suy Niệm 3: CHỌN LỰA ƯU TIÊN (Mt 8, 18-22)
Xem lại Chúa Nhật 13 Thường Niên, C
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại chuyện có một môn đệ muốn theo Đức Giêsu, nhưng anh ta xin được về chôn cha trước đã. Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ đó và nói: "Anh hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
Xét theo góc độ tình cảm tự nhiên, đòi hỏi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ích kỷ, và phi nghĩa quá chăng? Một sự đòi hỏi không hợp tình cũng chẳng hợp lý! Là con cái mà cũng không được thi hành bổn phận sau cùng là lo chôn cất cha mình cho tròn chữ hiếu?
Tuy nhiên, càng khó chấp nhận nghịch lý của Đức Giêsu đưa ra với môn đệ này bao nhiêu thì lại càng sáng tỏ chân lý mà Đức Giêsu muốn nhắm tới bấy nhiêu.
Thật vậy, điều mà Đức Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó trong tương lai là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thái độ thỏa hiệp và bỏ cuộc.
Nếu không thanh thoát thì làm sao chấp nhận được sự thiếu thốn trong hành trình theo Chúa và thi hành sứ vụ được! Bởi lẽ, hành trình của người môn đệ luôn phải đối diện với sự thiếu thốn như chính Đức Giêsu đã trải qua: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu".
Như vậy, Đức Giêsu không có ý nói phải bỏ cha, bỏ mẹ để mà theo Ngài cho bằng Ngài muốn nói lên một sự lựa chọn ưu tiên cho ơn gọi và sứ vụ.
Là Kitô hữu, sống trong thời đại văn minh, kinh tế thị trường, có nhiều điều để chọn lựa. Tốt có, xấu có. Cao cả có, tầm thường cũng có. Tuy nhiên, nhiều người đã không chọn cho mình điều tốt, nhưng lại chọn những điều xấu, bởi vì những cái đó hấp dẫn và dễ thi hành hơn. Hoặc có nhiều người tin và đi theo Chúa, nhưng khi gian nan thử thách đến, họ đã viện nhiều lý do để bỏ cuộc.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại ơn gọi và sự trung tín của mình với Chúa? Chúng ta có chọn Chúa và những phẩm tính tốt thuộc về Ngài không? Hay chúng ta đã chọn những thứ tầm thường?
Lạy Chúa Giêsu, theo Chúa là điều khó! Vì thế, xin cho chúng con biết thanh thản từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, hầu tâm hồn chúng con nhẹ nhàng, thanh thoát khi thi hành sứ vụ Chúa trao cách tốt đẹp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Không chỗ tựa đầu
Suy niệm :
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo.”
Đó là lời yêu cầu của một vị kinh sư đáng kính, thông thạo Thánh Kinh.
Vị này gọi Đức Giêsu là Thầy, dù chính ông là một bậc thầy trong dân.
Tại sao ông lại muốn đi theo Đức Giêsu, một ông thợ mộc ở Nazareth?
Tại sao một người có sự nghiệp ổn định như ông
lại chịu hạ mình làm môn đệ của Ngài?
Tại sao ông lại muốn theo Ngài đến tận chân trời góc biển?
Điều gì nơi con người Đức Giêsu đã khiến ông quyết định như thế?
Điều gì nơi Ngài đã cuốn hút con người ông
đến độ ông không muốn xa Ngài nữa,
và muốn gắn bó đời mình với Ngài?
Chúng ta không có câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Chúng ta chỉ nghe câu trả lời của Đức Giêsu cho vị kinh sư.
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Ngài nhắc cho ông biết cái giá phải trả
để đi theo Ngài làm môn đệ.
Đó là cuộc sống bấp bênh, lang thang, nay đây mai đó.
Trên bước đường rao giảng, Đức Giêsu sống như kẻ vô gia cư.
Ngài tạm trú ở nơi nhà của người mở lòng đón nhận.
Chẳng rõ sau câu trả lời thẳng thắn của Đức Giêsu,
vị kinh sư có còn muốn theo Ngài nữa không?
Khi một môn đệ của Đức Giêsu xin phép về chôn cất cha trước đã,
thì Ngài đã trả lời bằng một câu khó hiểu:
“Anh hãy đi theo tôi. Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
Người Do Thái coi trọng chữ hiếu và việc tống táng cho cha mẹ.
Có thể ở đây anh môn đệ này muốn xin về nhà,
ở với cha già cho đến ngày cha qua đời, rồi chôn cất cha để báo hiếu.
Không phải là anh không muốn làm môn đệ Thầy Giêsu nữa,
nhưng trước hết, anh muốn làm tròn bổn phận của một người con.
Đức Giêsu cho anh thấy báo hiếu không phải là bổn phận hàng đầu,
dù tôn kính cha mẹ là luật quan trọng trong xã hội Do Thái.
Ngài cho anh thấy có Ai đó còn quan trọng hơn cả cha mẹ.
“Hãy theo tôi”, tiếng gọi này đòi dành ưu tiên cho Ngài,
đến độ nghĩa vụ thiêng liêng nhất là chôn cất cha phải nhường bước.
Tin Mừng hôm nay cho thấy cái giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Có người xin đi theo Thầy khắp mọi nơi Thầy đi.
Nhưng đi vào Vườn Dầu, đi lên Núi Sọ, ít người dám theo Thầy.
Có người đã là môn đệ rồi, nhưng lại băn khoăn vì nghĩa vụ.
Anh phải nghe được tiếng gọi mới của Thầy: “Hãy theo tôi” (c. 22).
và đơn sơ đặt sứ mạng lên trên hết.
Thân phận người môn đệ xưa nay đều giống nhau.
Theo Thầy là phải chịu long đong, thiếu thốn, bị từ chối và bách hại,
thậm chí phải chấp nhận cái chết.
Nhưng hạnh phúc vẫn chờ họ, chỉ vì họ đã cùng thân phận với Thầy.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/06 Theo Chúa
- Viết bởi Lc 9, 51-62
Theo Chúa.
Chúa Nhật 13 Thường Niên năm C.
"Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy".
Lời Chúa: Lc 9, 51-62
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?" Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và các Ngài đi tới một làng khác.
Ðang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: "Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu".
Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa".
Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – C 2019
Lời Chúa: 1V 19,16b.19-21; Gl 5,1.13-18; Lc 9,51-62
1. Cuộc khởi nghĩa thiêng liêng - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, chống lại quân nhà Minh tàn ác cai trị nước ta, có Lê Lai rất giống Lê Lợi. Một hôm, quân ta đánh thua to, chạy về trú ẩn ở núi Linh Sơn, bị quân Minh vây hãm lâu ngày, hết lương thực, Vua tôi hầu chết đói. Lê Lai đã giả làm Lê Lợi hy sinh ra nộp mình cho quân Minh. Chúng tưởng đã bắt được Lê Lợi rồi, chúng kéo quân về. Thế là Lê Lai đã giải thoát cho quân ta khỏi bị quân Tàu tàn sát. Nhờ đó, Lê Lợi chiêu tập quân sĩ đông đảo, đã đánh bại quân Tàu. Nước ta thoát ách nô lệ dã man của nhà Minh.
Tin Mừng hôm nay đã tường thuật cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem, bắt đầu một cuộc khởi nghĩa thiêng liêng.
Giêrusalem mệnh danh là thành đô của Thiên Chúa đang bị quân thù vây hãm tứ bề, đang mong chờ Đấng Cứu thế đến giải thoát. Đức Giêsu lên Giêrusalem hy sinh nộp mình như Lê Lai, để cứu thoát thành thánh. Đức Giêsu đã biết rõ: “đã tới ngày Người được rước lên trời” Ngày Người sắp kết thúc một cuộc khởi nghĩa vĩ đại giải phóng muôn dân thoát ách nô lệ tử thần. Người thấy rõ mục đích cuộc khởi nghĩa thần thánh này sắp đến ngày chiến thắng vinh quang, nên “Người nhất quyết lên Giêrusalem, khuôn mặt gân guốc của Người hướng thẳng về thành Thiên Chúa đang lâm nguy. Nhưng càng cam go cực khốn, thì càng vinh quang rực rỡ, vì “Con Người phải qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Con Người bị bắt, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Trận chiến đã bắt đầu Người sai sứ giả đi thăm dò và về báo cáo những trở ngại. Có những đoàn quân Samaria phục kích chặn đường tiến bước. Các môn đệ xin Người lấy lửa bởi trời xuống đốt, nhưng Người không dùng chính sách bạo động đốt sạch, giết sạch, dù Người đang nắm trong tay toàn quyền của Thiên Chúa. Người đã dùng đường lối bất bạo động, nhún nhường khiêm tốn tìm đường khác để đi. Toàn quyền của Thiên Chúa để thực hiện lòng thương yêu họ, cho họ được sống và được sống dồi dào, chứ không để hủy diệt. Thiên Chúa như thân phụ và từ mẫu chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Người kiên nhẫn kêu gọi ta. Người chịu đựng mọi từ chối, mọi xúc phạm. Người hằng chờ đợi mọi trì trệ, lì lợm cứng lòng. Người khát khao ta tham gia vào cuộc hành trình khởi nghĩa của Người. Người đã kêu to: “Ta khát”.
Suốt cuộc hành trình, Đức Giêsu kêu gọi mọi người đồng hành với Người lên Giêrusalem. Có kẻ tình nguyện đi theo Người. Nhưng khi thấy Người sống quá nghèo, quá khắc khổ, chưa được bằng: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Họ không còn can đảm dấn thân theo Người. Người kêu gọi kẻ khác: “Anh hãy theo tôi”. Nhưng anh còn mắc ngăn trở, xin về chôn cất cha mẹ trước đã. Anh có lòng hiếu thảo thực thi giới răn thứ bốn thảo kính cha mẹ thì rất quý. Nhưng thời giờ cấp bách, cuộc hành trình thiêng liêng đang tiến công như vũ bão, không thể dừng bước. Người nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Anh phải hiểu rằng: Hy sinh cho nước trời, cho thành của Thiên Chúa, chính là giải thoát cho cha anh khỏi tay tử thần. Đó mới là đại hiếu, đại nghĩa, đó là làm cho cha anh được sống lại muôn đời, đâu còn phải lo chôn cất cho cha anh nữa.
Kẻ khác cũng xin tình nguyện theo Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy nhưng xin Thầy cho phép tôi về từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Thiên Chúa”.
Anh này có lẽ muốn như Êlisê xưa, xin về từ giã cha mẹ bà con rồi đi theo Chúa. Êlia đã cho Êlisê cứ về từ giã, còn Đức Giêsu thì không. Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng ta từ bỏ mọi sự dứt khoát như thế? Ngài muốn chúng ta theo gương Ngài rời bỏ mẹ hiền Maria của Ngài, từ bỏ bà con quê hương Ngài. Chính Đức Giêsu ngay khi lên mười hai tuổi, Người đã trả lời cha mẹ rằng: “Sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận thi hành ý Cha con sao?” (Lc. 2, 44), ưu tiên thực hiện ý Cha trên trời mới quan trọng, “Còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau”.
Thiên Chúa phản đối bất cứ ưu tiên nào của chúng ta: Dù là ưu tiên an táng cha mẹ hay từ giã gia đình. Còn chúng ta lại đặt ưu tiên của chúng ta hơn ưu tiên của Thiên chúa. Mỗi ngày Chúa Nhật, ưu tiên của ta là nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, vui chơi… Còn lễ lậy, từ thiện bác ái, sinh hoạt đạo đức sẽ tính sau.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã quyết tâm bắt đầu cuộc khởi nghĩa thiêng liêng với bất cứ giá nào, để trả lại quyền ưu tiên cho Thiên chúa, chống lại mọi thứ ưu tiên của satan, của thế tục, của mỗi người chúng ta, vì Người đến “giải phóng mọi xiềng xích nô lệ, cho chúng ta được tự do chân chính vững chắc muôn đời” (Gl. 5,1)
Lạy Chúa, xin cho con quyết tâm đồng hành với Ngài trên đường tiến về thành Thiên Chúa. Xin cho cho con được vác thập giá với Ngài và cùng chết với Ngài trên đỉnh cao chót vót để cùng được rước về trời với Ngài vinh quang.
2. Bài học nhân ái thật khó thuộc
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Đối với Kitô hữu chúng ta, và có lẽ cả các tín đồ các tôn giáo khác nữa, thì việc dành cho Thiên Chúa sự kính trọng xứng đáng luôn là mối bận tâm hàng đầu, đặc biệt là trong các việc thờ phượng, các nghi lễ phụng tự; điều đó là đương nhiên, là phổ biến, và không có gì để mà bàn cãi. Tuy nhiên hình như có một điều gì còn quan trọng hơn cả sự kính trọng và tôn vinh, một điều rất đặc sắc của riêng Kitô hữu mà rất thường khi chúng ta hầu như quên lãng hoàn toàn, đó là: hiểu thấu lòng từ nhân và hay thương xót của Thiên Chúa; Tân Ước xem ra rất coi trọng điều này, bởi vì đó là nội dung chính mà Đức Giêsu đã đến trần gian để khải mở cho chúng ta được biết (xem Ga 3:16).
Các môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an quả rất nhiệt tình; các ông muốn thấy Thầy Giêsu của mình phải được mọi người đón tiếp xứng đáng; chính lòng nhiệt thành đã thôi thúc các ông xin Thầy cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Sa-ma-ri đã từ chối đón tiếp Thầy. Các ông những tưởng sẽ được Thầy Giêsu khen thưởng và trọng dụng, nhưng tất cả những gì các ông nhận được là lời quở mắng; kỳ lạ thay!
Chúng ta đã từng bao nhiêu lần được chứng kiến những nhiệt tình tương tự, như cha xứ quở trách giáo dân đã không tiếp đón đức cha cách long trọng cho đủ, bề trên phiền trách hội viên đã không coi trọng mình cho phải lẽ… (chưa nói tới thói đời là tiền hô hậu ủng); và thường thì ta cho điều đó là hoàn toàn đúng, vì tôn ti trật tự xã hội đòi phải vậy. Thế nhưng cái điều quan trọng hơn kia thì lại rất khó nuốt trôi, và không biết tới bao giờ ta mới học cho thuộc. Đã mang danh là Kitô hữu (hơn nữa một tu sĩ theo Đức Giêsu sát hơn, “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”), ta không thể không thuộc bài học căn bản đó dầu cho nó có khó trôi tới mấy đi nữa: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” - bài học duy nhất Đức Giêsu đã muốn được trực tiếp dạy các môn sinh của Người!
Thiên Chúa của Đức Giêsu cần lòng thương xót, trước cả được tôn vinh: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”; nói cách khác, tôn vinh cao nhất mà Người muốn nhận được phải là lòng nhân ái xót thương. Người chấp nhận không có lấy một chỗ tựa đầu nên chưa bao giờ đòi các môn đệ phải dọn cho mình một chỗ xứng đáng để ngả lưng! Là Kitô hữu, một khi đã khởi sự con đường môn đệ bằng việc đón nhận lòng thương xót tha tội (bí tích Rửa Tội), tôi biết Người không muốn tôi, vì bất cứ lý do gì (kể cả hợp lý nhất), ngoái cổ để tìm lại thứ tôn vinh phải phép dành cho Thiên Chúa. Điều mà Người thật sự mong muốn, là tôi tham dự cách trọn vẹn và quyết liệt vào lòng nhân ái và xót thương mà Người đã dày công minh chứng khi đến trần gian.
Ôi, bài học xem ra dễ đó lại thật khó biết bao! Đức Giêsu đã không tỏ vẻ phấn khởi lắm với nhiều kẻ xin theo Người…, vì họ đinh ninh: theo Người là tôn vinh Thiên Chúa với cả một hệ thống luân lý và tu đức khắt khe; đàng này, Người đòi các môn đệ trung kiên phải thuộc bài học nhân ái tới độ tự hủy hoàn toàn… thì ít ai có thể học cho thuộc. Phê-rô được chọn làm thủ lãnh sẽ phải củng cố niềm tin của các anh em chính ở điểm này, sau khi bản thân ông đã thấm thía bài học xót thương và tha thứ của Thầy sau ba lần chối bỏ.
Tôi thầm ước: việc theo sát Đức Giêsu của mình (đã hơn 50 năm rồi còn gì!) sẽ giúp tôi hiểu và học thuộc được bài này. Tôi cầu mong cho mọi phần tử trong Hội Thánh, đặc biệt các linh mục và tu sĩ, sẽ hết lòng làm vinh danh Thiên Chúa trong chính nội dung này. Mong họ sẽ trở thành dấu chỉ làm cho một nhân loại (kể cả các tôn giáo khác) đang lao đầu kiến tìm các thứ quyền lợi, danh dự và vinh quang cho thần tượng hay thần thánh của họ (đôi khi rất chính đáng) biết rằng: có một ‘vinh quang đích thực’ mà Thiên Chúa của các Kitô hữu mong muốn, đó là ‘lòng xót thương và tha thứ’. Kitô hữu thà đánh mất mọi thứ (kể cả những quyền lợi thiết thân nhất dành cho Thiên Chúa và tôn giáo của mình) chứ không để chứng từ rất độc đáo này bị lu mờ.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ tình thương của Chúa: để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp... Hãy dạy con học thuộc bài học chấp nhận thua thiệt, kể cả trong những điều xem ra rất thiết yếu để thờ phượng kính tôn Thiên Chúa cho phải lẽ, bởi vì nhận thức được rằng vinh quang lớn nhất mà Thiên Chúa của Đức Kitô muốn bảo vệ bằng mọi giá chính là hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
3. Người môn đệ Đức Giêsu – Văn Hào SDB
Chân tính người môn đệ Đức Giêsu.
Ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập Tự quốc tế đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ ‘Hoặc tôi là môn đệ Đức Giêsu, hoặc tôi không là gì cả’. Cũng vậy, mọi người chúng ta đều được mời gọi trở nên môn sinh của Chúa. Nhưng, chân tính đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu là gì? Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi khác nhau: làm Linh mục, làm tu sỹ, hay sống bậc sống giáo dân. Nhưng tất cả các ơn gọi ấy đều có một mẫu số chung, đó là trở nên môn đệ Đức Giêsu và bước đi theo Ngài.
Ai là môn đệ Đức Giêsu?
Câu chuyện được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta câu trả lời. Thánh Luca lược tóm 2 loại môn đệ. Loại thứ nhất là những học trò được Chúa Giêsu ưu tuyển, đặc biệt có nhóm 12. Hai khuôn mặt tiêu biểu thuộc nhóm này mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới là Giacôbê và Gioan. Hai ông thuộc loại ‘Top ten’, là 2 trong 4 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyển chọn. Chính Đức Giêsu đã gọi và chọn các ông. Đáp lại lời mời gọi đó, các Ngài đã bỏ mọi sự, bỏ cha mẹ, bỏ ruộng vườn, bỏ cả vợ con, bỏ chài và lưới là những phương tiện mưu sinh hằng ngày, để bước đi theo Chúa.
Chúa Giêsu đã chọn các môn sinh không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào như chúng ta thường hay nghĩ. Ngài không cần những người tài giỏi, có học vị hay bằng cấp cao sang. Ngài cũng không tuyển chọn các tông đồ từ những con người xuất sắc theo tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Những học trò đầu tiên đến với Đức Giêsu chỉ là những ngư dân rất bình thường, đầy những tật xấu và khuyết điểm. Cụ thể, chúng ta hãy nhìn vào hai anh em con ông Giêbêdê mà bài Tin mừng hôm nay nhắc đến. Cả 2 là những chàng thanh niên tính nóng như lửa. Các ông hậm hực và cay cú khi thấy dân làng Samari không đón tiếp Chúa, nên đã nóng nảy xin Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu đốt ngôi làng, để họ chết hết cho bõ ghét. Hai ông lại còn tỏ ra quá tham quyền cố vị, xin cho một người được làm ‘thủ tướng’, còn người kia làm ‘chủ tịch nước’ trong vương quốc mà Đức Giêsu sẽ thiết lập. Điều đó cho thấy rằng những môn đệ đầu tiên được Chúa tuyển chọn hoàn toàn không phải là những con người hoàn hảo hay xuất chúng. Ngài chọn các ông chỉ vì Ngài muốn như vậy. Đơn giản thế thôi.
Loại môn đệ thứ 2 là những con người mà Chúa Giêsu chưa mời gọi bao giờ, nhưng vẫn khao khát muốn đi theo Chúa để trở thành học trò của Ngài. Cụ thể là hai thanh niên được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay. Hai chàng nhìn vào Chúa Giêsu như một thần tượng, và mong muốn được trở nên môn đệ của Ngài. Hai bạn thanh niên này thực sự chưa hiểu rõ lý tưởng mà họ đang ôm ấp. Một người xin phép trở về nhà chôn cất ông bố vừa mới chết. Người kia xin về từ biệt gia đình và những người thân quen trước khi lên đường đi xa. Những lý do đó rất chính đáng, nhưng đối với Chúa Giêsu thì không phải vậy. Ngài đặt ra điều kiện tiên quyết và tuyệt đối, là phải cắt đứt mọi dính bén một cách vô điều kiện. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”, hoặc “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái cổ lại phía sau thì không xứng đáng làm môn đệ thầy”. Như vậy Chúa nói với 2 bạn trẻ đang thai nghén hoài bão để trở nên môn đệ, là phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng. Đồng thời, Chúa cũng nhắc cho chúng ta biết rằng, chân tính đích thực của người môn đệ là phải tuyệt đối thuộc trọn về Ngài, không chút vướng bận hay so đo tính toán.
Hành trình của người môn đệ: ‘Sequela Christi’ (Theo Chúa Kitô).
Trình thuật Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu và các học trò đang trên đường lên Giêrusalem. Thuật ngữ ‘lên Giêrusalem’ hàm ngậm mầu nhiệm Thập giá và cái chết. Chúa tiến về Giêrusalem để hoàn tất kế hoạch cứu chuộc mà Chúa Cha đã hoạch định. “Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị nộp trong tay người tội lỗi, sẽ bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mt 16,21; Mc 8,31-33; Lc 9,22). Thánh Luca còn nói rõ hơn về cuộc hành trình ấy trong câu đầu tiên của bài Tin mừng hôm nay: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết lên Giêrusalem (c.51). Như vậy, rõ ràng thánh Luca muốn lồng ghép ơn gọi và cuộc hành trình của các môn đệ đan kết với mầu nhiệm Thập giá. Cũng vậy, đã nhiều lần Chúa Giêsu gợi nhắc: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo” (Mc 8,34; Lc 9,23-27…). Bài học căn bản Chúa nhắc đi nhắc lại cho các học trò, đó là tinh thần từ bỏ. Theo Chúa không phải để tìm kiếm vinh hoa phú quý hay lợi lộc trần thế, nhưng là dần dần đi vào mầu nhiệm tự hủy cách tròn đầy. Các môn đệ không hiểu, hay nói chính xác hơn, họ chưa hiểu. Chỉ sau này, sau khi Đức Giêsu sống lại, các Ngài mới dần nghiệm ra những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu năm xưa, và từ đó các Ngài ra đi làm chứng nhân cho Thầy mình, sẵn sàng chấp nhận cái chết để đi vào mầu nhiệm Thập giá một cách trọn vẹn. Đó là căn tính đích thực của những môn đệ Chúa Giêsu.
Thách đố cho mọi Kitô hữu ngày hôm nay.
Khi xem cuốn phim tài liệu về Cha John Lee, nhiều người đã xúc động đến rơi lệ. Ngài là một linh mục trẻ đầy tài năng, đã tốt nghiệp bác sĩ tại Hàn quốc. Tương lai đang rộng mở nếu Ngài ở lại trong nước để làm việc. Nhưng Cha Lee đã từ bỏ tất cả, tình nguyện sang Phi Châu truyền giáo. Ngài chọn nơi xa xôi và nghèo nàn nhất tại Sudan để dấn thân phục vụ. Bốn năm trước đây, Ngài đã chết vì bệnh ung thư. Dân chúng tại Sudan, đặc biệt giới trẻ khóc thương Ngài thảm thiết. Họ nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu rất gần gũi và sống động nơi vị tu sỹ đầy nhiệt huyết này. Ngài là một tu sỹ dòng Salêdiêng DonBosco thuộc tỉnh dòng Hàn quốc. Cha John Lee đã chết, đã đi vào mầu nhiệm tự hủy và đạt đến đỉnh cao của cuộc sống trở nên môn đệ Đức Giêsu một cách đích thực. Đó là mẫu gương và cũng là thách đố cho tất cả mọi người chúng ta.
Kết luận
“Hoặc tôi là môn đệ Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”. Đây là câu châm ngôn của ông Dunan, của nhiều vị truyền giáo, của rất nhiều bạn trẻ đã và đang từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa trên con đường trọn lành. Còn bạn và tôi, chúng ta đã chọn và thể hiện lý tưởng đó như thế nào?
4. Lên Giêrusalem
Đoạn Tin Mừng vừa nghe được chia làm hai phần: Phần thứ nhất kể lại cuộc hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
Bấy giờ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào một làng xứ Samaria. Đã từ lâu, người Do Thái vốn nghi kỵ và tránh tiếp xúc với người Samaria, vì họ cho rằng: Những người Samaria chỉ là những kẻ lai căng và đã chạy theo những tôn giáo ngoại bang. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại tỏ ra không quan tâm tới sự tranh chấp này. Trên đường lên Giêrusalem để thực hiện chương trình cứu độ, Người đã đi ngang qua xứ Samaria. Tuy nhiên, Người và các môn đệ đã không được tiếp đón. Thái độ thờ ơ lạnh nhạt này chính là hậu quả của những tranh chấp gữa họ và người Do Thái.
Trước sự từ khước này, các môn đệ đã muốn thẳng tay trừng trị bằng chính những hình phạt mà ngày xưa tiên tri Elia đã dùng để hạ bệ những kẻ thù của ông. Nhưng Chúa Giêsu thì khác. Người đã ngăn cản các ông và nhân dịp này, Người đã đưa các ông đi sâu vào sứ vụ của Người, và cũng là sứ vụ của các ông sau này: Con người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta, nhưng đến đề cứu chữa.
Phần thứ hai gồm một số những mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và những kẻ muốn theo Người.
Những mẩu đối thoại này có một ý nghãi rất đặc biệt, khi được đặt vào trong viễn tượng sự ra đi của Chúa Giêsu và ngay trước việc Người sai bảy mươi hai môn đệ tới các làng mạc và thành thị để rao giảng Nước Thiên Chúa. Công cuộc rao giảng này dưới ngòi bút của thánh Luca mang tính cách thật cấp bách. Chúa Giêsu không có thời giờ để dừng chân, bởi vì Người không có cả đến một chỗ để gối đầu. Cũng vì tính cách cấp bách này, Người đã không chấp nhận để những ai muốn theo Người, nhưng lại còn nấn ná, dù là để làm những công việc bình thường, rất đáng làm, như chôn cất người chết, hay từ giã những người thân yêu trong gia đình.
Từ đó, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã thực sự bước theo Chúa, hãy vẫn còn bị những níu kéo trần gian ràng buộc. Nhất là chúng ta đã thực sự nên giống Chúa, bằng cách đối xử khoan dung, độ lượng với những kẻ chúng ta không mấy có cảm tình. Bởi vì sự nóng giận thường làm hỏng công việc: Già néo thì đứt dây, giận quá thì mất khôn, và sự thù địch này sẻ nảy sinh ra sự thù địch khác, khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên bất ổn, bởi vì lúc nào cũng bị căng thẳng vì phải đối đầu với nhau.
Chính vì thế, một lần nữa tôi xin lặp lại lời Chúa Giêsu đã nhắn nhủ cho mỗi người trong chúng ta, đó là: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
5. Chọn lựa dứt khoát. "Hãy theo Ta"
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên đấy Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Qua chuyện này ta biết Chúa Giêsu trung thành đến mức nào đối với nhiệm vụ mà Chúa Cha giao cho Ngài. Nhiều khi lòng trung thành đòi hỏi phải hy sinh rất nhiều.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng trung thành với Chúa, xin Ngài tha thứ cho những lần chúng ta đã bất trung, và xin Ngài giúp chúng ta thêm can đảm để luôn trung thành với Chúa cho dù phải hy sinh.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con bất trung với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con không dám từ bỏ những điều bất xứng với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con chọn tội lỗi mà bỏ Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19, 16b. 19-21)
Bài tường thuật ơn gọi của Êlisê:
Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình.
Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisê. Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.
2. Đáp ca (Tv 15)
Tác giả Tv này đã nhất quyết chọn Chúa làm cơ nghiệp của mình nên bày tỏ sự phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 9, 51-62)
Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện:
a/ Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu: Trước sự việc trái ý này, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Chúa Giêsu dạy hai bài học:
Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
b/ Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1, 37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Chúa Giêsu nói: "Mặc cho kẻ chết chôn người chết": tiếng Pháp rõ nghĩa hơn "mặc cho les mortels chôn les morts" (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15, 3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1. V 19, 19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày "đầu ngoái lại sau": còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv...), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
4. Bài đọc II (Gl 4, 31b--5, 1. 13-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Sau đó Thánh Phaolô dạy cho họ biết phải sống thế nào như một người tự do: Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.
Bởi đó đừng viện cớ mình tự do rồi buông tuồng theo những đòi hỏi của xác thịt.
Hãy theo Thánh Thần soi sáng mà sống bác ái với anh chị em mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đời là những chọn lựa (Lc 9,51-62)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
***
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu" (Lc 9, 58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa" (Lc 9, 54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (Lc 9, 62).
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: "Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử" (Mi 15, 4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình... Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mi 6, 33).
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình, nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con, vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Suy nghĩ về điều kiện thứ nhất: "Không có chỗ gối đầu"
"Chỗ gối đầu" là một nơi thoải mái mình muốn chọn làm nơi thường trú, là một nếp sống tiện nghi mình muốn được hưởng mãi. Ai mà không thích có một chỗ gối đầu như thế.
Tuy nhiên nếu là môn đệ Chúa Giêsu thì không được "mọc rễ" ở "chỗ gối đầu" đó. Một vài thí dụ:
Cuộc sống của tôi đã thành nếp: ban ngày làm việc, tối về nhà nghỉ ngơi giải trí với gia đình, ngày Thứ bảy Chúa nhựt là thời gian hưởng thụ. Những lúc nghỉ ngơi, giải trí và hưởng thụ ấy chính là những "giờ thánh" của tôi, không ai được đụng đến. Nhưng tối nay, nhà hàng xóm có người hấp hối, người ta mời tôi sang cầu nguyện, phải bỏ mất một tập phim truyền hình đang hồi gay cấn! Chúa nhựt tới, Cha Xứ mời tôi dự phiên họp các gia trưởng, mất toi một buổi nghỉ ngơi! Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những mất mát đó.
Từ trước tới nay tôi là một tín hữu bình thường, đọc kinh tối sáng hằng ngày, Chúa nhựt và lễ trọng đều đi dự lễ. Tôi thấy như vậy là đủ quá rồi. Bây giờ người ta mời tôi tham gia sinh hoạt đoàn thể trong Xứ đạo: nào là hội họp, nào là đi công tác tông đồ, nào là đóng góp quỹ này quỹ nọ... Nếp sống của tôi bị xáo trộn. Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những xáo trộn đó.
* 3. Suy nghĩ về điều kiện thứ hai: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết"
Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc "của kẻ chết" là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v. v. Và những việc "hằng sống" như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo...
Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai.
Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.
* 4. Óc phe nhóm
Bắc Ai Len là một đất nước mà những người tin lành và những người công giáo thường xuyên xung đột với nhau. Jackie Hewitt là chủ tịch một Cộng đồng Tin lành. Một hôm ông đang lái xe về thủ đô Belfast thì nghe Radio trên xe loan tin có một quả bom phát nổ ở Shankill (khu vực của người tin lành) làm cho 3 người chết. Ông nổi giận và nghĩ "Khốn kiếp, cần phải đặt một quả bom ở khu Falls Road (khi của người công giáo)". Xe ông chạy gần tới Belfast thì Radio lại loan tin có thêm một quả bom phát nổ nữa và làm chết thêm 7 người. Ông hét lên: "Phải cài 2 quả bom bên khu người công giáo". Cuối cùng xe của ông chạy tới nơi xảy ra vụ nổ. Ông thấy những người đồng đạo kẻ thì khóc, người thì la, đòi trả thù. Những lời la hét ấy cũng giống những lời của ông thôi, nhưng chúng làm ông phát sợ: "Khi tôi nghe người ta hét lên những điều chính tôi đang nghĩ trong đầu, tôi thật sự hoảng sợ".
Vào thời Chúa Giêsu, những người Samaria và những người Do Thái là kẻ thù của nhau. Vì thế khi dân cư một làng Samaria nghe tin Chúa Giêsu muốn đi ngang làng họ để lên Giêrusalem thì họ không đón tiếp Ngài. Giacôbê và Gioan nổi giận, xin Chúa Giêsu cho họ khiến lửa từ trời xuống đốt rụi cả làng Samaria ấy.
Đây là một thí dụ điển hình của óc phe nhóm. Phe nhóm của tôi đúng hay sai gì thì cũng là phe nhóm của tôi nên tôi cương quyết bảo vệ, và chống lại phe nhóm khác. Óc phe nhóm của những người Samaria đã tệ, mà óc phe nhóm của hai môn đệ còn tệ hơn: theo họ nghĩ, ai mà chống lại phe nhóm của họ là chống chính Thiên Chúa cho nên phải bị Thiên Chúa trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu không tán thành, Ngài quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.
Trả thù thì dễ. Không trả thù mới khó, vì nó đòi hỏi ta can đảm hơn và có nghị lực nhiều hơn. Việc Chúa Giêsu không cho môn đệ trả thù và Thầy trò đi sang làng khác chứng tỏ Chúa Giêsu can đảm và rất nhiều nghị lực. Kẻ yếu thì nghĩ rằng mình phải thắng, còn người mạnh thì biết rằng mình không cần phải thắng trong mọi trường hợp.
Cần phải chống lại sự xấu, nhưng không phải bằng cách dùng một sự xấu khác, bởi vì sự xấu chỉ có thể được chế ngự bằng sự thiện mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu rằng muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải theo con đường của Ngài, đó không phải là con đường báo thù, con đường bạo động, mà là con đường yêu thương, con đường cứu độ (FM)
* 5. Không bỏ cuộc
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc xã Đức. Ông kể lại câu chuyện sau:
Ông là một bác sĩ nên được giao trách nhiệm chăm sóc các tù nhân bị bệnh. Gần cuối cuộc chiến, ông và một bạn tù đã tìm được một cách để vượt ngục. Nhưng trước khi trốn đi, ông đi một vòng thăm các bệnh nhân. Một bệnh nhân sắp chết hỏi "Có phải ông sắp trốn ra không?" Frankl chối. Nhưng câu hỏi ấy cứ ám ảnh ông, khiến ông có mặc cảm tội lỗi là ông đào nhiệm. Ông thấy mình có lỗi với các bệnh nhân. Cuối cùng ông bảo người bạn kia hãy trốn đi một mình, còn ông thì quyết định ở lại. Từ lúc đó ông thấy lòng mình rất thanh thản. Dù ông biết rằng tiếp tục ở lại trong trại tập trung thì sẽ gặp rất nhiều khổ sở, nhưng ông chấp nhận và cảm thấy rất bình an trong lòng.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu "Chúa Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem". Ngài biết có rất nhiều gian khổ đang chờ Ngài ở Giêrusalem như bị từ chối, bị phản bội và bị giết chết. Nhưng sứ mạng Chúa Cha giao cho Ngài ở Giêrusalem thì Ngài phải hoàn thành, không thể quay lui được.
Đáp lại một người muốn đi theo làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu cũng nói "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa". Đã dấn thân theo một lý tưởng thì phải kiên trì cho đến cùng.
Điều này ban đầu thì dễ. Nhưng với tháng năm trôi dần, khó khăn tăng thêm thì kiên trì trở nên rất khó. Khi ấy, ta bị cám dỗ "ngoái lại đàng sau".
Lời Chúa Giêsu nói với người muốn theo làm môn đệ Ngài cũng là nói với chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta theo Ngài không phải trong một thời gian mà theo suốt cả đời.
Xin Chúa giúp chúng ta kiên trì bước theo Ngài, không bao giờ "ngoái lại đàng sau" (FM)
* 6. Vài mẫu chuyện minh họa cho việc trả thù
a/ Đem yêu thương vào nơi oán thù
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lí do, ông trả lời như sau: "Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô-hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quì gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện.. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giầy mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo."
b/ Không có kẻ thù
Một thầy giảng lên tiếng: Mọi người đều có kẻ thù. Ông mời bất kỳ một thính giả nào không có kẻ thù lên nói về chính mình.
Một sự thinh lặng đồng tình với lời xác quyết đó. Nhưng rồi một người già giơ tay và nói: "Tôi không có kẻ thù".
Đương đầu với lời mời và gây sự chú ý của thính giả, ông nói: "Rất dễ. Tôi không quan tâm đến họ".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành theo Chúa đến cùng, bất chấp mọi thử thách gian nan, là lý tưởng của người Kitô hữu. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh có sứ mạng củng cố đức tin cho người Kitô hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu sống trọn vẹn niềm tin của mình.
2. Khuynh hướng thích báo thù / dùng bạo lực để giải quyết tranh chấp / gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
3. Thánh Phaolô cho biết: / dấn thân theo Đức Kitô là sống bác ái yêu thương và phục vụ lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết cố gắng thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
4. Chúa Giêsu đã nói: / Ai yêu mến Thầy / sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống chứng nhân thường ngày, chúng con gặp biết bao là thử thách gian truân. Vì thế, để có thể trung kiên bước theo Chúa đến cùng, sức riêng của chúng con không thể thực hiện được. Vậy, xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con đi trọn cuộc lữ hành trần thế. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt làng Samaria, và hãy sốt sắng khi đọc câu "xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
VII. Giải tán
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống. Hãy nhớ những gì Chúa đã dạy chúng ta trong Thánh lễ hôm nay và hãy can đảm chọn lựa những gì thuộc về Nước Thiên Chúa.
6. Dứt khoát.
Vào năm 1924 ở nước Anh, Eric là lực sĩ chạy nhanh nhất trong cự ly 100m. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đoạt huy chương vàng ở thế vận hội được tổ chức tại Paris năm đó. Thế nhưng vào phút chót một sự việc xảy ra làm cho mọi người đều ngỡ ngàng và bực tức. Số là việc thi đấu cho môn chạy 100m này lại nhằm vào ngày Chúa Nhật. Eric nghĩ rằng việc phụng sự Chúa không cho phép anh thi đấu vào ngày Chúa Nhật. Vì thế anh đành từ chối thi môn này. Vừa nghe tin Eric từ chối thi đấu, lập tức mọi người tìm cách gây sức ép đối với anh. Ngay cả hoàng tử xứ Wales cũng cố gắng thuyết phục anh vi phạm tiếng nói của lương tâm. Thấy anh không chịu đổi ý, báo chí nước Anh đã gọi anh là tên phản bội. Tuy nhiên Eric vẫn khăng khăng không chịu làm ngược với niềm xác tín của mình. Cuối cùng anh đề nghị với các huấn luyện viên chọn một lực sĩ khác thay cho anh trong môn chạy 100m, là môn anh chưa một lần thi đấu. Kết quả là trong thế vận hội năm ấy, nước Anh đã đạt hai huy chương vàng cho môn chạy 100m và 400m.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay với thái độ dứt khoát mà Chúa đòi hỏi, bởi vì Ngài đã phán dạy: Kẻ nào đã tra tay vào cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Chàng lực sĩ của chúng ta đã không bao giờ ngoái cổ lại đằng sau, mặc dù có những lý do chính đáng. Một khi đã quyết định theo Chúa, là anh cứ nhắm thẳng phía trước mà bước tới, chứ không ngó lại phía sau nữa, cho dù bị dư luận gọi là tên phản bội tổ quốc của mình. Còn chúng ta thì sao?
Mặc dầu chúng ta đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn chưa dứt khoát lập trường, để thuộc hẳn về Ngài. Chúng ta giống như bà vợ của ông Lót, mặc dầu đã ra khỏi thành Sođoma, nhưng vì còn ngoái cổ lại để xem sự gì đang xảy rar ở phía sau, nên đã hoá thành tượng muối. Chúng ta giống như dân Do Thái trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Trước những cực nhọc vất vả gặp phải, họ đã tưởng nhớ đến củ hành củ tỏi của Ai Cập và đã lên tiếng trách móc Maisen. Cũng vậy mặc dầu đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn tưởng nhớ đến những củ hành củ tỏi, là những đam mê tội lỗi, là những ước vọng xấu xa, để rồi cuối cùng, vì chạy theo tiền bạc, chúng ta đã bán Chúa như Giuđa, vì hèn nhát chúng ta chối Chúa như Phêrô, vì sợ sệt chúng ta đã chạy trốn như các môn đệ, vì quá quyến luyến và vương vấn với tội lỗi, chúng ta đã cúi mặt bỏ đi như chàng thanh niên giàu có.
Để kết luận, chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và hãy tự vấn lương tâm xem Đức Kitô đã chiến địa vị nào trong cuộc đời chúng ta? Ngài có phải là nhân vật số một của cõi lòng chúng ta hay chỉ là một hình ảnh đã bị phai mờ và chìm vào quên lãng.
7. Theo Thầy – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Trong một xưởng thợ, mấy cô bạn gái cùng làm việc đang chê bai đạo Chúa. Họ cho rằng Đạo Chúa làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc trí phán đoán người ta. Một nam công nhân nghe họ nói truyện và khi họ vừa im lặng, bèn cất tiếng nói: Phải, vì đạo Chúa mà tôi đã mất tất cả. Mọi người cùng sững sờ nhìn. Người thợ nói tiếp: Tôi thích rượu, Đạo Chúa làm tôi bỏ rượu. Trước kia tôi chỉ mặc quần áo rách và đội cái mũ bẩn thỉu, giờ Đạo làm tôi mất tất cả... Đạo còn làm tôi mất cả tâm địa xấu xa nữa… Xưa địa ngục cai trị gia đình tôi, vì nếp sống gia đình đã thành ra như chốn ngục hình. Thì nay, khi trở nên tín hữu Chúa, tôi đã mất tất cả. Hỡi các anh chị, bây giờ các anh chị biết đức tin đã làm tôi mất những gì và được những gì. Hãy làm như tôi. Tôi xin cam đoan chắc chắn các anh chị sẽ không phải hối hận đâu.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn gọi một số những vị tiên tri như Amos, Hosea, Micah, Isaia, Zephaniah, Nahum, Habakkuk, Jeremia, Ezekiel, Haggai, Zecharia, Obadiah, Joel, Malachi, Jonah và Elia. Ngoài ra còn một số những vị ngôn sứ nhỏ như Nathan, Êlise…, ít được nhắc đến. Trong suốt thời gian dài từ sau khi Dân Do-thái vào miền Đất Hứa cho đến khi Chúa Giêsu giáng trần. Thiên Chúa luôn gởi các vị ngôn sứ đến để hướng dẫn dân đi theo đường lối của Chúa. Tất cả sứ mệnh qui về việc tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, giữ các giới răn, huấn thị và chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Xưa tiên tri Êlia được Thiên Chúa gọi và chọn để thi hành sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa giữa cuộc sống xã hội đa thần. Nhiều người mê lầm chạy theo những thần giả tạo do con người sáng lập ra. Có rất nhiều tiên tri giả đã chạy theo thần Baal và rao truyền những sự mê tín lầm lạc. Êlia đã thách thức quyền năng của các thần và thuyết phục dân chúng tin vào Thiên Chúa duy nhất. Êlia đã gặp rất nhiều sự khó khăn, bị bắt bớ và chạy trốn. Bàn tay quyền năng của Chúa ở cùng ông. Ông đã chu toàn sứ mệnh của mình và Chúa đã cất nhắc ông lên bằng xe rực lửa.
Để chuẩn bị có người kế vị, Êlia đã chọn người môn đệ tên là Êlisê để kế thừa sứ vụ: Ông này liền để bỏ lại, chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? (1Vua 19, 20). Êlisê tiếp nối sứ vụ mà Êlia đã truyền lại. Êlisê đã từ bỏ nghề cầy bừa cũ, rời bỏ gia đình và bạn bè để ra đi thi hành sứ mệnh mới: Ông Êlisê bỏ ông Êlia mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cầy làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Êlia và phục vụ ông (1V 19, 21).
Trong tất cả các loài thụ tạo, mỗi loài đều có những cách thế truyền sinh và cơ cấu tổ chức khác nhau. Các loài động vật đã được Đấng Tạo Hóa phú bẩm những bản năng cố định. Các con vật sống thành bầy, thành đàn, thành tổ và chúng sống theo nhau, nối kết với nhau. Hằng năm chúng ta thường chứng kiến những bầy chim hàng ngàn con di chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực và sau đó lại trở về chốn cũ. Những đàn voi, đàn trâu bò, đàn khỉ… chung sống trong hoang địa cũng thế. Hoặc là những tổ ong, tổ kiến, tổ mối…tự nó xây cất những kiến trúc rất tinh tế. Từ đời này qua đời khác, các con vật theo nhau hoàn thành công việc đã được Tạo Hóa sắp đặt. Riêng con người có trí khôn, ý chí và tự do, họ đã tạo thành từng xã hội đặc thù. Loài người tiến triển theo từng giai đoạn để trở thành những người văn minh hơn. Con người có thể bảo tồn, truyền tụng những suy tư, phát minh và kho tàng văn hóa qua các dấu ấn trong lịch sử xã hội, tôn giáo và chính trị.
Sống trong xã hội có kẻ trước người sau, có thầy có trò, có người chỉ đạo và môn sinh. Trong mọi khía cạnh sống, bất cứ một ngành nghề chuyên môn nào cũng có những vị tiền bối muốn truyền đạt khả năng cho những người thừa kế. Trong tôn giáo, sự lưu truyền niềm tin của đạo giáo còn quan trọng hơn nữa. Đời sống tâm linh và tinh thần chi phối sinh hoạt của con người rất sâu thẳm. Đây là điểm đặc thù của con người xã hội. Nếu thiếu sự hướng dẫn trong đời sống tâm linh, con người sẽ bị tha hóa và thụt lùi trở lại sống theo bản năng giống như các loài cầm thú. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho biết, hiện nay thế kỷ 21, vẫn còn có nhiều tổ chức xã hội rất sơ khai, có những bộ lạc sống như người tiền sử và những nhóm người sống biệt lập rất man rợ trong rừng sâu. Đời sống của họ phát triển rất chậm và sống theo bản năng tự nhiên.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đi theo Chúa một cách khác nhau. Có người đi theo Chúa trong ơn gọi gia đình. Có kẻ sống độc thân phục vụ. Có người hiến thân trong việc truyền giáo. Có kẻ hiến dâng mình cho Chúa trong các dòng tu. Có người đi tu trở thành tu sĩ linh mục. Ơn gọi nào cũng qúi báu. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là chúng ta đã bắt đầu bước theo đường lối của Chúa. Chúng ta mang danh là Kitô hữu. Chúng ta là nhân chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, môi trường và thời gian. Chúng ta là Kitô hữu suốt đời. Làm chứng nhân cho Chúa cả thời gian chứ không chỉ bán thời hay trong một số trường hợp đặc biệt. Chúa Giêsu đã nói rõ cho những người sẽ đi theo Chúa:“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Lc 9, 58). Chúa Giêsu cần chúng ta có thái độ dứt khoát. Chúng ta không thể bắt cá hai tay hay làm tôi hai chủ. Đáp tiếng mời gọi của Chúa là chúng ta tự do chọn lựa trở thành môn đệ của Chúa.Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa.”(Lc 9, 60).
Người môn đệ cần có những sự dứt bỏ những mời gọi hấp dẫn của thế gian. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 62). Chúng ta biết sự yếu đuối của bản năng con người luôn kéo lôi ta trở lại sống theo thói đời. Ưa thích thỏa mãn những nhu cầu của lòng tham sân si. Không lạ gì khi chúng ta thích thu quén của cải, tiền bạc, chức tước và lợi lộc trần gian. Chúng ta lo làm giầu cho cuộc sống mà bất chấp lỗi phạm lề luật và giới răn của Chúa. Thí dụ: Các giới răn về ham mê dâm dục, ăn gian nói dối, làm chứng thề gian và lỗi luật yêu thương. Đôi khi chúng ta cảm thấy vì theo Chúa mà bị mất mát và rồi tiếc nuối những thỏa mãn thấp hèn. Theo Chúa, chúng ta phải phấn đấu hằng ngày với các cơn cám dỗ. Phải kiên tâm chịu đựng và vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa.
Đi theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14). Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô soi dọi đường chúng con đi. Xin đừng để chúng con bị lạc hướng trong đêm tối và tội lỗi của ma quỉ và thế gian.
8. Đời là những chọn lựa – Thiên Phúc.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
***
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9,58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa” (Lc 9,54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62).
Thực ra, Đức Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14,26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình, nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.
9. Trước đã
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.
Theo đạo là theo một con đường.
Điều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).
Làm môn đệ Đức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi, con đường đất quanh co trong xứ Palestine hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ vụ.
Đức Kitô chẳng những dạy Đạo, Ngài còn là Đạo (x. Ga 14,6).
Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.
Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.
Phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa.
Chúng ta chẳng biết họ là ai, cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không, nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ, để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả của mình.
Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu, chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.
Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn trước những đòi hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.
Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.
Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc thực sự.
Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế! Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách.
Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng; nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương.
Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa. Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai.
Chúa Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu... Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.
Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta? Đâu là lựa chọn ưu tiên một? Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.
Nếu Chúa Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài, tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong cuộc sống của bạn, có nhiều điều quan trọng và cần thiết. Đâu là 3 điều mà bạn nghĩ là quan trọng và cần thiết hơn cả? Tại sao bạn chọn 3 điều ấy?
Bạn nghĩ gì về thái độ của Chúa Giêsu đối với thân mẫu của Ngài dựa trên các sách Tin Mừng? Ngài có hiếu không? Ngài có quá lệ thuộc và Mẹ Ngài không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
10. Người nhất quyết lên Giêrusalem
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đời là một con đường: đường đời.
Sống là bước vào một cuộc hành trình tiến về phía trước, để đến nơi mình được thu hút, mời gọi. Nhưng đường đời không luôn luôn bằng phẳng. Có những dốc cao làm chúng ta ngần ngại, có những khúc ngoặt làm chúng ta sợ hãi. Đôi khi ta thấy mình phải đến nơi mình không muốn.
Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này khi Ngài kiên quyết lên đường đi Giêrusalem, dù biết có những nguy hiểm đang chờ mình ở đó.
Chúa Giêsu đã phải cố gắng như chúng ta để thắng vượt nỗi sợ hãi và do dự, và đi hết đường đời của mình, vì đó là con đường Cha muốn Ngài đi.
Trên đường đi, Chúa Giêsu gặp sự từ khước. Một làng Samari không muốn tiếp đón Ngài. Họ có lý do của họ, lý do có thể rất nghiêm túc. Nhưng điều đó khiến Giacôbê và Gioan nổi giận. Hai ông đòi sai lửa từ trời thiêu rụi cả làng.
Có cần trừng phạt vội vã như vậy không? Có cần dùng sức mạnh Thiên Chúa để tiêu diệt mọi kẻ dữ không?
Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do của những kẻ dữ trên mặt đất. Ngài kiên nhẫn chờ họ sám hối và biến đổi. Cả Giacôbê và Gioan cũng phải được biến đổi. Cần có thời gian và cần được huấn luyện để những "đứa con sấm sét" trở thành khoan dung, để Gioan trở thành vị tông đồ dịu dàng suốt đời ca ngợi tình yêu.
Đường đời của người Kitô hữu là đường theo chân Giêsu. Tự bản chất kitô hữu là người đi theo Chúa Giêsu.
"Thầy đi đâu, con sẽ theo Thầy đi đó" (Lc 9,57).
Ai có ngờ rằng đi theo Chúa Giêsu là đi theo một Đấng không nhà cửa, không nơi trú ngụ, một Đấng nghèo hơn cả loài chim, loài chồn, một Đấng luôn tín thác và chờ đợi tất cả từ Cha.
Các môn đệ đầu tiên đã sống bấp bênh từng ngày, họ đã hy sinh nghề nghiệp ổn định để chấp nhận theo Thầy bữa đói bữa no.
Chúa Giêsu mời ta theo Ngài để loan báo Nước Thiên Chúa.
Đây là một công việc khẩn trương và quan trọng, một giá trị vượt trên mọi giá trị khác.
Không cần phải trở về từ giã người thân yêu, không được quay lại đàng sau khi cầm cày, vì tất cả nằm ở phiá trước.
Cũng không cần lo xong việc tống táng cha già rồi mới nghĩ đến chuyện theo Chúa. Ở đây còn có gì trọng hơn chữ hiếu, vượt trên tình cảm tự nhiên của con người.
Lời Chúa hôm nay dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta phải hy sinh, chấp nhận sự bất ổn, thiệt thòi và đau khổ.
"Hãy tìm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đúng tinh thần của Chúa Giêsu, thực thi những lời Ngài dạy, điều đó chẳng dễ chút nào. Riêng bạn, bạn thấy có lời nào của Ngài quá khó đối với bạn không?
Chấp nhận đặt Thiên Chúa lên trên hết là chấp nhận đặt mọi sự khác dưới Thiên Chúa. Bạn có khi nào trải qua một kinh nghiệm chọn Chúa trong nước mắt không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một ngư phủ ít học và đã lập gia đình, để làm vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây nền Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
11. Bắt đầu ngày mới
Eric Liddle là người chạy đua 100 mét nhanh nhất của nước Anh trong năm 1924. Tại Thế vận hội thể thao Olympic (TVH) mở ở Paris năm đó, mọi người đều mong đợi rằng anh sẽ chiếm được huy chương vàng về cho nước Anh. Nhưng rồi một việc đã xảy ra làm xôn xao cả trong cũng như ngoài nước. Ban Tổ chức TVH sắp đặt môn chạy đua một trăm thước vào chương trình ngày Chúa Nhật. Eric nghĩ rằng luật kiêng việc phần xác, nghỉ ngày của Chúa, không cho phép anh chạy đua ngày Chúa Nhật. Vậy anh quyết định không chạy đua ngày Chúa Nhật, dầu việc nầy làm cho anh rất buồn phiền. Khi tin nầy được loan đi, mọi người sửng sốt. Họ làm áp lực tư bề để buộc anh bỏ ý định, và chuẩn bị chạy đua ngày Chúa Nhật. Nhưng Eric đã nói không là không. Thái tử nước Anh cũng đứng ra can thiệp, bắt buộc anh phải chạy đua ngày Chúa Nhật theo như chương trình của ban tổ chức. Trước mọi áp lực, Eric đã nói không là không. Báo chí nước Anh gọi Eric là người phản bội. Nhưng anh cương quyết không làm điều trái với lương tâm tôn giáo của mình. Sau đó Eric đi gặp các huấn luyện viên và đề nghị để cho một bạn đồng đội chạy đua 100 mét ngày Chúa Nhật thay thế, còn anh sẽ chạy 400 mét trong ngày thường, dẫu rằng trước đó chưa bao giờ anh chạy đua 400 mét cả. Một điều lạ đã xảy đến trước sự ngạc nhiên đến sửng sốt của mọi người. Eric đã thắng cuộc chạy đua 400 mét, rồi anh bạn đồng đội mà anh đề nghị thay anh cũng thắng trong cuộc chạy đua 100 mét. Ít năm sau Thế vậy hội, Eric lại làm cho cả thế giới ngạc nhiên lần nữa. Anh tình nguyện lên đường sang Trung quốc giúp việc truyền giáo. Cô thiếu nữ người yêu của anh cũng theo anh sang Trung Quốc. Với thời gian họ sinh được ba đứa con ngoan ngoãn. Thế rồi Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Nhật Bản xua quân xâm lăng Trung Quốc. Trước tình thế nguy hiểm, Eric gởi vợ con sang Canada lánh nạn. Ít lâu sau, anh bị quân Nhật bắt đem đi nhốt tại một trại tập trung. Tại đây, anh tiếp tục làm việc tông đồ giữa các bạn tù. Mấy năm sau, anh đã chết một cái chết thật can đảm và anh dũng tại trại tập trung. Sau khi Eric chết, vợ anh nhận được hàng trăm bức thư chia buồn, và nói lên lòng can đảm và anh dũng của anh khi bị gian trong trại. Ít nhất có hai bức thư của bạn tù nói rằng Eric là lẽ sống duy nhất của họ trong trại tập trung. Nếu không nhờ sự có mặt của anh trong trại, thì họ đã tự tử chết lâu rồi. Đến năm 1980 nghĩa là 56 năm sau Thế vận hội Paris nói trên, có người nảy ra ý kiến làm một cuốn phim về Eric và Thế vận hội 1924. Khi hay tin đó, vợ của anh còn sống ở Toronto nói: “Thời bây giờ ai mà còn để ý tới một việc đã xảy ra lâu lắm rồi về một người quyết không chạy đua ngày Chúa Nhật vì đức tin người Kitô hữu của mình? Ấy thế mà cuốn phim nầy tên là Chariots of Fire (Xe hỏa ngục) đã thành công một cách phi thường. Thiên hạ đùng đùng kéo nhau đi xem như nước lụt. Cuốn phim đã giựt giải thưởng điện ảnh năm 1982. Câu chuyện Eric giúp chúng ta hiểu được lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: “Kẻ cầm cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”
Eric không bao giờ ngó lại sau lưng. Một khi đã quyết tâm đi theo Chúa, anh luôn luôn nhìn về đàng trước mà tiến bước theo Chúa, không bao giờ nhìn lại đàng sau, mặc cho tất cả mọi người tìm cách gây áp lực. Anh không bao giờ nhìn lại đàng sau, dầu thiên hạ gọi anh là phản quốc. Đâu là bí quyết của lòng can đảm làm cho anh không bao giờ ngó lại đàng sau? Đâu là bí quyết long trung kiên của Eric đối với Đức Kitô trước những chống đối kinh khủng từ mọi phía? Đây là câu trả lời mà người vợ của Eric đã nói trong cuộc phỏng vấn với tờ báo Toronto Star: “Eric bao giờ cũng dậy thật sớm, dùng giờ đầu tiên trong ngày để đọc Kinh thánh và cầu nguyện, cùng sắp đặt công việc cho ngày mới.” Đó là bí quyết của lòng can đảm hành đạo và sự trung thành của anh đối với Đức Kitô. Eric là một người cầu nguyện. Anh đã tra tay vào cày mà không bao giờ ngó lại đàng sau, bởi vì anh tìm gặp Đức Kitô mỗi buổi sáng trong giờ cầu nguyện.
Câu chuyện về Eric Liddle không thể không làm cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta không thể không nghe tiếng Chúa phán bảo trong tâm hồn rằng phải noi gương Eric mà tổ chức cuộc đời mình bằng sự năng tiếp xúc với Chúa trong lời kinh cầu nguyện, nhất là ban mai sau khi thức dậy và ban tối trước khi đi ngủ. Nếu chúng ta gặp phải ưu tư phiền muộn, hãy nhìn vào Đức Kitô. Nếu thấy khó tra tay vào cày, mà không ngó lại đàng sau, hãy chạy đến cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện ban sáng cũng như buổi chiều hôm.Nếu thấy cõi lòng trống rỗng tẻ lạnh như khu rừng hoang, hãy chạy tới cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện, ban sáng cũng như buổi chiều hôm, chúng ta sẽ thấy mình làm được những sự lạ như Eric, bởi vì trong lúc đó, không phải tôi làm việc, nhưng chính Đức Kitô làm việc trong tôi. Nếu tôi có thể nói được một cách thành thực như thánh Phaolô rằng: “Tôi sống không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal 2:20) Lúc đó tâm hồn tôi sẽ ấm áp và sẽ không còn sự gì mà tôi không làm được, vì lúc đó, không còn phải tôi hành động, nhưng chính Chúa Kitô hành động trong tôi.
12. Điều kiện theo Chúa
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Thầy Marcel Văn tên thật là Gioakim Nguyễn Tân Văn, sinh ngày 15.3.1928 trong một gia đình Công giáo, tại làng Ngăm Giáo, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bắc Ninh, nằm giữa Hà Nội và Hải Phòng. Năm 17 tuổi, Thầy vào tu Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, theo bậc trợ sĩ và khấn lần đầu ngày 8.9.1946.
Sau khi khấn dòng, Thầy được Bề trên chỉ định về phục vụ tại Nhà Dòng Thái Hà Ấp và sau đó ở các tu viện trong miền Nam. Năm 1954, trong khi hàng triệu người ngoài Bắc di cư vào Nam, Thầy tình nguyện trở ra Bắc để "ít nữa là có người yêu mến Chúa" tại đây. Thầy bị tố cáo và bắt vào ngày 7.5.1955, bị giam giữ trong nhiều nhà tù và chết ngày 10.07.1959 trong nhà lao Yên Bình, cách Hà Nội 150 cây số.
Suốt cuộc đời vắn vỏi của mình (31 năm), Thầy Marcel Văn đã phát triển tinh thần yêu thương, đùm bọc nhau trong gia đình một cách tốt đẹp và gương mẫu. Nhờ tinh thần đạo đức đó, Thầy Văn đã sớm biết sống thân mật với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lúc sống chung với anh em trong Dòng, Thầy chóng vánh, vui vẻ và tuyệt đối vâng lời bề trên, ra sức phục vụ anh em lớn nhỏ và luôn hoà dịu với mọi người. Noi gương Nữ Thánh Tiến Sĩ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, trong lời cầu nguyện Thầy Marcel Văn đặc biệt lưu tâm đến các linh hồn đã từ bỏ ân sủng Chúa. Trong lao lý, Thầy đã hoàn toàn quên mình để chăm sóc anh em đồng cảnh, bệnh hoạn, khốn khổ. (Đôi dòng tiểu sử Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, 1928-1959 http://www.cuuthe.com/marcelvan/a02tieusu.html) (*)
Trích thuật Tin Mừng Thánh Luca hôm nay Chúa Giêsu công bố ai muốn theo Người, thì tuân theo ba điều kiện chính yếu, mà mỗi người đều có quyền tự do chọn lựa. Bởi vì “Sống là chọn lựa, và chọn lựa là hy sinh điều gì đó.” (Lm Gaston Courtois)
Vật chất & Tinh thần
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu"(Lc 9, 58)
Trước hết, theo Chúa không lệ thuộc vào môi trường sinh hoạt, không bị ràng buộc vào vật chất, phương tiện, hay tiện nghi. Nói cách khác, không để vật chất ảnh hưởng đến tinh thần theo Chúa. Điều này tuy đơn giản, nhưng hằng ngày rất khó tuân giữ.
Thầy Marcel Văn sớm từ bỏ nếp sống gia đình êm ái, từ bỏ mái ấm đầy ắp tình cảm khắng khít giữa cha mẹ và anh chị em, để theo đuổi Ơn Gọi Hiến Dâng, đối đầu với bao thử thách, cám dỗ, tưởng chừng không thễ vượt qua. Từ khi xa mái ấm đi tu, thầy luôn chịu muôn vàn hy sinh đau khổ, thậm chí ngay trong nhà xứ, nhà dòng, nhưng thầy vẫn một mực trung thành theo chân Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Còn chúng ta thì trái ngược, thường chọn sự đời hơn là chọn Chúa. Hằng ngày vào chiều tối, nghỉ ngơi sau ngày vất vả, mệt mỏi, dễ dàng bỏ ra vài giờ đồng hồ liền, đàn đúm chè chén bê tha, hay dán mắt vào TV, mê say, khóc cười theo phim Hàn Quốc, hay đứng tim theo phim hành động Hollywood. Hoặc lướt web hàng giờ bất tận vào thế giói ảo kỳ diệu. Luôn cúc cung tận tụy phục vụ bản thân, đâu cần đếm xỉa gì đến thân nhân hữu hình, hiện diện ngay bên cạnh, nói chi nhớ đến Thiên Chúa vô hình. Còn nhớ chi kinh hạt ban tối? Hay nhắc nhở gia đình đọc kinh chung?
Hơn nữa, còn tỏ ra thật khó chịu khi dự Thánh lễ Chúa Nhật lâu quá 60 phút, vì bài giảng dài quá 12 phút. Chi ly, bủn xỉn, cắt xén, tính toán với Chúa từng phút, từng giây. Xem chừng ai cũng đều đồng tình hành xử như vậy. Phải chăng chúng ta đang chọn thế gian, thay vì chọn Chúa?
Đi theo Chúa còn cần loại bỏ thói hư tật xấu. Không sừng cồ, xù lông nhím khi bị xúc phạm, như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, nổi cơn thịnh nộ trước dân làng Samaria, không chào đón Chúa Giêsu và các ông. Sự kiêu căng, lòng tự ái, óc bè phái, lạm dụng quyền hành che mờ Lời Chúa luôn răn dạy: Yêu thương, khiêm tốn, bao dung, tha thứ và nhường nhịn.
Sinh & Tử
“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” (Lc 9, 60)
Sống trong xã hội buông trôi theo văn minh sự chết, duy vật, vô thần, chỉ biết bái lạy con bò vàng tiền tài, của cải, danh lợi, hưởng thụ, khoái lạc, con người cũng sẽ mục nát, chết theo cái bả phù phiếm đó. Thói đời ham sinh úy tử, tham sống sợ chết, nhưng cũng không ai tránh nổi. Vấn đề là lựa chọn, sống hay chết như thế nào?
Thầy Marcel Văn trái lại, chọn vào nơi tù đầy, thay vì tự do thanh thỏa. Sẵn sàng bước vào cửa tử, thay vì chọn sống dưỡng xác theo thế gian. Thầy Marcel tâm tình cùng Cha linh hướng Dòng Chúa Cứu Thế người Canada Antoine Boucher:
“Thời gian qua con đã phải chiến đấu rất nhiều và chịu đủ mọi khổ hình về tâm não. Kẻ thù dùng nhiều mưu bắt con phải đầu hàng, nhưng chưa bao giờ con lại hèn nhát đến thế. Cũng có thể nói nếu con ham sống, thì ngày nay con không còn bị nhốt ở trong tù nữa. Nhưng kẻ thù lại không muốn để con chết một cách anh dũng và dễ dàng như thế. Cha hiểu con nói gì rồi. Cha cầu nguyện nhiều cho con, cách riêng cho các tín hữu Bắc Việt.” Tù 304 A. (Thư 17/11/1955 gửi cha A. Boucher)
Nếu còn cứ vấn vương tham sân si hỷ nộ ái ố, thì làm sao ngộ đạo được? Cứ mãi gắn bó với vật chất, thế tục, làm sao nâng hồn lên với Chúa Cứu Thế, mà gắn bó, sống theo Ngài? Nặng lòng tục lụy thì sẽ chết theo đời, chết theo của phù vân. Do vậy, “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” Còn muốn theo Chúa để được sống viên mãn, thì lắng ghe và chân thành thực hành Lời Chúa, làm chứng nhân cho Đức Kitô, rao giảng Nước Trời.
Trung thành & Bất tín
“Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (La 9, 62)
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đòi hỏi lập trường dứt khoát, trắng đen rõ ràng. Theo Chúa hay không. Người không thể chấp nhận sự mập mờ, chân trong chân ngoài, nước đôi, nhị trùng. “Nóng thì nóng cho hẳn, lạnh thì lạnh cho rồi. Không lạnh không nóng, dở dở ương ương, Ta sẽ mửa người ra!” (Kh 3, 15b -16)
Đi theo Chúa mà còn nuối tiếc củ hành củ tỏi Ai Cập, còn thèm thuồng vui thú hồng trần, thì không xứng đáng, “thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận bắt cá hai tay, thái độ lưng chừng, nửa vời: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: Vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia, hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên chúa mà lại làm tôi tiền của được!” (Lc 16,13)
Cần quay lưng lại quá khứ, bỏ đi tất cả những gì đã tích lũy, kể cả thành công lẫn thất bại, kể cả thanh danh hay xú danh, ô danh, sở đoản lẫn sở trường, tài năng và kinh nghiệm, khiêm hạ sám hối, ăn năn lỗi lầm. Rồi thanh thản, phó thác đi theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua các dấu chỉ.
Gương bất tín, bất trung, bất nghĩa nhan nhản, tràn trề như nước lũ, vì e sợ mất mát, mất cái ăn cái ở, mất tiện nghi, sung túc, danh lợi, nhất là e sợ thánh giá nặng nề, e sợ roi vọt, tù đầy, e sợ mất mạng sống tạm bợ đời này. Cho nên chúng ta dễ quay lại với cám dỗ thế gian, hòng che chắn tấm thân an toàn, sung túc, hạnh phúc đời này, mà dại dột đánh mất đời sau. Dại dột đổi của trọng lấy của hèn!
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo; Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải, vật chất phục vụ cho đời sống thiêng liêng, thay vì làm đầy tớ cho chúng. Xin giúp con biết từ bỏ những rào cản, để có thể luôn trung thành thực thi Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vượt biết bao trở ngại mưu sinh cùng với Thánh Giuse, xin giúp đỡ con dứt bỏ những cám dỗ thế gian, để mạnh dạn theo Chúa trên đường hy vọng. Amen.
_________________
(*) Việc Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận từ giã cõi đời ngày 16.9.2002 tại Rôma là một đại tang cho cả Giáo hội hoàn vũ nói chung và Giáo hội Việt Nam nói riêng. Nhưng ít ai biết Ðức Cố Hồng Y cũng là Cáo Thỉnh viên cho án phong Chân phước của Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, C.Ss.R. Do đó, việc Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê mệnh chung là một mất mát lớn cho Hội Les Amis de Van hiện đang xúc tiến án phong Chân phước cho Thầy...
13. Không quay đầu lại - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
14. Lên Giêrusalem – Lm. An Phong.
Tin mừng Chúa Nhật 13 thường niên năm C là đoạn khởi đầu về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem tức là Người lên đường hướng đến cuộc khổ nạn và thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ.
Đoạn Tin mừng này gồm hai phần:
* Câu 51 - 56: Đức Giêsu không được người Samari đón tiếp và phản ứng của tông đồ Giacôbê và Gioan.
* Câu 57 - 62: Ba lời khuyên của Đức Giêsu cho những ai muốn đi theo Người.
* Lời khuyên thứ nhất là khước từ những bảo đảm thường tình: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu".
* Lời khuyên thứ hai là việc rao giảng Nước Thiên Chúa phải được đặt trên hết, không được trì hoãn: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa".
* Lời khuyên thứ ba là hãy quên quá khứ và hướng về tương lai: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".
Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Đây là một giai đoạn mới trong cuộc đời Người. Người bỏ Galilê, nơi Người đã thành công ngay từ những bài giảng đầu tiên, đến độ người ta muốn tôn vinh Người làm thần tượng. Người lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải chịu treo trên thập giá để thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha, để hoàn tất công trình cứu độ. Vượt qua quá khứ "dễ dãi" và đi đến một tương lai "chẳng chắc chắn gì" theo dự phóng của Thiên Chúa Cha quả là một thách đố. Chính trong thời điểm thách đố đó, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên cho những ai muốn bước theo Người.
Đời sống kitô hữu là đời sống bước theo Chúa Giêsu, họ được mời gọi để vượt qua những bảo đảm thường tình: tiền bạc, danh lợi, chức quyền... đồng thời nhận lấy Đức Giêsu như là bảo đảm cho đời sống của mình. Kitô hữu là người cố gắng thể hiện mối phúc thứ nhất trong đời sống mỗi ngày: "phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó". Người có tâm hồn nghèo khó là người "có mà như không"; đó là người có những bảo đảm thường tình, nhưng họ không cho đó là duy nhất. Họ chỉ có một bảo đảm duy nhất là chính Thiên Chúa. Với tâm hồn nghèo khó, không có gì hết, họ mới có khả năng đón nhận Thiên Chúa vào đời sống của mình. Từ đó, trình bày vị Thiên Chúa của đời sống mình cho người khác.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi để "bước theo Đức Giêsu trong công trình cứu độ", nghĩa là cũng được mời gọi để "lên Giêrusalem". Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải rao giảng Tin mừng "lúc thuận lợi cũng như lúc nghịch cảnh", không vì lý do gì mà có thể trì hoãn. Rao giảng Tin mừng bằng chính đời sống bác ái có tính cách thuyết phục hơn là những "ngôn từ đao to búa lớn". Khi những người Samari khước từ Đức Giêsu, thánh Giacôbê và Gioan đã muốn "khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy những người đó". Ngày nay, hẳn là vẫn còn những người "samari hiện đại" không đón nhận Đức Giêsu và lời giảng của Người? Hẳn là không thiếu những thái độ như của Giacôbê và Gioan? Là người theo Đức Giêsu trong công trình rao giảng Tin mừng, chúng ta cần "đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu" (thánh Phanxicô Assisi). Thật vậy, Tin mừng là giải thoát, là làm cho con người được tự do. Tin mừng cần phải được tiếp nhận trong tự do và tình yêu.
Lạy Chúa,
trong một xã hội sâu xé nhau
vì quyền lợi, tiền bạc, danh vọng.
Xin cho chúng con trở thành
những con người có tâm hồn nghèo khó,
đồng thời biết chia sẻ cho người khác ơn tha thứ
và tình yêu chúng con đã nhận được từ Chúa.
15. Dứt khoát theo Chúa - Lm. Minh Vận, CRM
Bài sách các Vua và bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tường thuật thái độ của Elisê đi theo tiếng gọi của tiên tri Elia và người môn đệ đi theo tiếng gọi của Chúa Cứu Thế. Elisê được tiên tri Elia gọi lúc ông đang cày ruộng với cặp bò thứ 12, bằng một nghi thức cổ truyền là khoác áo choàng của ngài trên vai ông, để tuyển chọn ông nối nghiệp tiên tri của ngài. Tuy mau mắn bỏ nghề canh nông, bằng cách bắt cặp bò làm thịt, lấy cày làm củi nướng thịt thiết tiệc đãi dân, như để khao mừng vì mới được thăng quan tiến chức tiên tri. Nhưng Elisê cũng như mấy môn đệ xin theo Chúa trong bài Tin Mừng, còn bị tình cảm quyến luyến gia đình, việc từ giã cha mẹ họ hàng thân quyến làm ngưng trệ, làm gián đoạn ơn gọi theo Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người.
I. ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA
Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ, phụng sự và yêu mến, Chúa đòi chúng ta chỉ được tôn thờ, phụng sự và yêu mến duy một mình Ngài, Ngài muốn chiếm trọn trái tim chúng ta, Ngài không chịu để chúng ta đặt bất cứ thụ tạo nào ngang hàng với Ngài, Ngài không bằng lòng khi thấy chúng ta còn chia sẻ tình yêu của chúng ta cho thụ tạo; nghĩa là không được đồng thời vừa tôn thờ Thiên Chúa vừa phụng sự thụ tạo hoặc vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa quyến luyến tiền của.
Vì thế, khi thấy mấy môn đệ đến xin theo Chúa mà lòng còn quyến luyến cha mẹ, họ hàng thân quyến, của cải ruộng nương, Chúa đã mạnh mẽ truyền dạy: "Hãy theo Ta". Chúa như đặt một điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ Ngài, nên Ngài đã quả quyết dứt khoát khi truyền dạy: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết. Phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Trước thái độ lừng khừng quyến luyến gia đình, Chúa đã khẳng định: "Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".
Những người không hiểu giáo lý của Chúa cho rằng, những yêu sách Chúa đòi người muốn theo Chúa là phải dứt bỏ tình yêu gia đình, dứt bỏ cả lòng hiếu thảo con cái phải có đối với cha mẹ, là điều quá đáng; vì họ chưa hiểu rằng chính Thiên Chúa đã dành riêng giới luật thứ bốn trong 10 Giới Luật, truyền dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Sáu giới luật ngăn ngừa những lạm dụng, giúp con người duy trì tình liên đới tốt với tha nhân, chỉ có ba giới luật phải giữ trong việc tôn thờ phụng sự Thiên Chúa.
Những điều kiện phải có để trở nên môn đệ Chúa trên đây, cho chúng ta thấy: Để theo Chúa và dâng hiến tình yêu chúng ta cho Chúa, chúng ta phải đặt Chúa trước hết và trên hết; còn mọi tình yêu thương khác phải được xếp đặt theo thứ tự tùy thuộc vào tình yêu mến Thiên Chúa.
II. ĐỂ ĐƯỢC CHÚA LÀ PHẦN GIA NGHIỆP
Lời đáp ca chúng ta nhắc lại nhiều lần trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: "Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con". Cái diễm phúc của người môn đệ trung thành theo Chúa, là chiếm hữu được Chúa là phần gia nghiệp đời đời của mình. Nhưng để đáng được Chúa làm phần gia nghiệp đời đời, Chúa đòi chúng ta phải trung thành với ơn gọi của Chúa, khi tuyển chọn chúng ta làm con Chúa. Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con Chúa, là ngày chúng ta được Chúa Kitô giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục. Khi đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ dứt khoát từ bỏ tội lỗi và mọi quyến rũ xác thịt, từ bỏ Satan và mọi mưu kế của thần dữ. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa và tuân giữ mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy. Để được hưởng sự tự do đích thực của con cái Chúa, chúng ta hãy sống theo lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô: "Hỡi anh chị em, anh chị em đã được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt"; trái lại: "Anh chị em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thỏa mãn theo những đam mê của xác thịt".
Khi chúng ta dứt khoát khước từ những quyến rũ trần gian, những đam mê xác thịt, những mưu chước của thần dữ và trung thành sống theo thần trí hướng dẫn, qua những giáo huấn của Chúa và Giáo Hội truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ chiếm hữu được Chúa là phần gia nghiệp, là cùng đích, là hạnh phúc vĩnh cửu Chúa dành cho chúng ta ở đời sau, mà ngay từ đời này, chúng ta cũng sẽ được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn thánh thiện sống trong ơn nghĩa Chúa.
III. TẤM GƯƠNG ANH DŨNG THEO CHÚA
Đây, một tấm gương anh dũng: Thánh Giáo Phụ Basiliô bị điệu đến trước tòa án của Hoàng Đế Roma. Hoàng Đế phán: "Nếu ngươi bỏ đạo, trẫm sẽ ban cho ngươi chức cao lộc hậu".
Thánh Basilio đáp: "Lời Hoàng Đế dạy chỉ có thể dụ dỗ được đứa con nít, Kinh Thánh dạy tôi khác hẳn, nên tôi thà chịu chết còn hơn lià bỏ Chúa Kitô".
- Ngươi không biết trẫm là ai sao?
- Tôi biết chứ, nhưng tôi không thể tuân lệnh Hoàng Đế đâu.
- Ngươi không biết trẫm có quyền ban chức tước bổng lộc cho ngươi sao?
- Thưa, chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính ngôi vị Hoàng Đế của ngài.
Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh Nhân, nhà Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội, và giết chết. Ngài khẳng khái đáp:
- Tâu Hoàng Đế, tôi chẳng có tài sản để Hoàng Đế tịch thu. Lưu đầy chăng? Tôi có quê thật Thiên Đàng. Tra tấn ư? Tôi sẵn sàng chết vì Chúa Kitô. Muốn giết chết tôi ư? Tôi càng sớm được về Thiên Đàng với Chúa.
- Ngươi thật là điên cuồng.
- Tôi mong được điên mãi như thế này.
Hoàng Đế Roma và triều thần đành phải thua cuộc trước Đức Tin anh dũng của người môn đệ Chúa Kitô.
Kết Luận
Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô là những kẻ quyết tâm theo Chúa, không lùi bước trước bất cứ trở ngại nào, họ thắng vượt tất cả, khước từ tất cả, để chỉ gắn bó với Đấng lòng họ đã hiến thân, để tôn thờ, phụng sự và yêu mến một mình Ngài.
Như Thánh Phaolô Tông Đồ, họ dám thách đố: "Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Có phải gian nan thống khổ, đói khát trần truồng, hiểm nguy, khủng bố và gươm giáo chăng? Như đã chép: Vì Ngài, tôi phải khổ suốt ngày, khác nào con chiên bị phanh thây. Nhưng vì Đấng đã yêu thương tôi, tôi lướt thắng mọi nghịch cảnh đó. Vả, tôi chắc chắn rằng, dầu sống hay chết, dầu thiên thần hay tước phẩm, dầu hiện tại hay tương lai, dầu uy quyền hay thế lực, dầu trời cao hay vực thẳm, dầu bất cứ một thụ tạo nào, cũng không thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu thương Thiên Chúa vốn có trong Đức Giêsu Kitô Chúa tôi được" (Rom 8:35-39).
Mỗi người chúng ta, tùy theo địa vị chức vụ mình, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta đã có thái độ nào đối với Chúa, để sống xứng đáng với ơn Chúa đã yêu thương tuyển chọn chúng ta làm con và làm môn đệ của Chúa?
16. Sống đơn giản – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau:
Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bầy chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Để nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.
Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.
Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.
Đâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu...
Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy. (x.Những trang nhật ký của một linh mục, Nguyễn Tầm Thường, SJ).
Bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Êlisa quyết tâm theo Êlia để làm Ngôn sứ. Êlisa là nông dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông dân. Đốt cày cuốc, làm thịt trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không luyến tiếc những gì đã có. Đó là thái độ dứt khoát và phó thác, vâng phục hoàn toàn.
Khác với thái độ của Êlisa, Tin Mừng hôm nay thuật chuyện ba người muốn theo Chúa Giêsu, xin được làm môn đệ. Chúa đòi hỏi họ phải dứt khoát trong chọn lựa.
- Người thứ nhất hăng hái xin theo Chúa đi bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, không ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x.1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu. Chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ. Chỗ tựa đầu cuối là thập giá.
- Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã. Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
- Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh ta dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Ba người muốn xin đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ không dứt khoát chọn lựa như Êlisa, họ vẫn còn đắn đo kỹ lưỡng, chần chừ vì những lý do xác thịt và bịn rịn gia đình. Chúa Giêsu trả lời cho cả ba trường hợp là "hãy theo Ta" và đặt giá trị thiêng liêng lên trên mọi của cải vật chất. Theo Chúa lên Giêrusalem là đánh đổi cuộc đời quá khứ để lấy một tương lai mới, tuy vô định, đầy gian nan, bất trắc nhưng tươi sáng và chân thật hơn. Ba trường hợp khác nhau, nhưng đều chung một lời mời gọi từ Chúa Giêsu. Ba lời đối thoại trên cũng là ba đòi hỏi hướng đến điều răn thứ nhất: "Phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn." (Mt 22, 37).
Theo Chúa phải can đảm, phải chọn lựa và ưu tiên tìm kiếm và loan báo về Nước Thiên Chúa trước, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ lo cho sau. Con đường đi tìm Chúa là con đường con đường của từ bỏ... Tuy nhiên, muốn đạt được hạnh phúc thật thì phải lựa chọn trong tinh thần dứt khoát.
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người Kitô hữu là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình... Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Ơn gọi của Êlisa đến trong lúc ông đang cày ruộng, đang làm những công việc hàng ngày. Ơn gọi của Phêrô xảy đến khi ông đang thả lưới, của Môsê khi ông đang chăn chiên, của Mathêu khi ông đang ngồi bàn thu thuế... Ơn gọi tiêu biểu của mỗi cá nhân là ở trong bổn phận hàng ngày. Sống ơn gọi của mình là biết chọn lựa và ưu tiên. Đó cũng là lời mời gọi, hãy đơn giản hoá cuộc sống.
Cuộc sống thật đơn giản vì nó vốn rất đơn giản. "Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp. Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp. Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức tạp. Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp. Thật ra, thế giới này rất đơn gỉan chỉ có lòng người là phức tạp. Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, chỉ vì có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp. Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau khổ.Người vui vẻ không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế" (St). Để sống bình an vui vẻ hạnh phúc, chúng ta chỉ cần sống đơn giản. Chúa Giêsu là người thích sống đơn giản và bình thường. Suốt ba năm rao giảng, Ngài mặc những chiếc áo, mang những đôi dép giản dị. Ngài không nghĩ mình là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình trở nên như tôi tớ rửa chân cho các môn đệ, để đến với người nghèo, bệnh nhân và tội nhân. Chúa Giêsu thích sự đơn sơ và bé nhỏ giữa đời thường. Bởi vậy, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời " (Mt 18,4). Chúa Giêsu đã gieo vào lòng thế giới giá trị của yêu thương và phục vụ trong đơn giản âm thầm.
Đơn sơ là một đức tính quý báu trong linh đạo "thơ ấu thiêng liêng" của thánh Têrêxa Hài Đồng. Sống đơn sơ và giản dị. Đối với những tâm hồn đơn sơ, không cần có những phương thế phức tạp.Nếp sống của Têrêxa luôn trong sáng, thành thực và tự nhiên. Con đường thơ ấu thiêng liêng là sống cuộc sống đơn sơ, yêu mến Chúa, hướng tới trọn lành. Sống đơn giản mới có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng, chúng ta mới nhạy bén để sống theo hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt, vì "anh em được gọi để hưởng tự do".
17. Những đòi hỏi
Ngày 27.7.82, vận động viên trượt tuyết nổi tiếng người Thụy sĩ Sylvain Saudan, 44 tuổi đã lập một kỳ công thế giới: từ đỉnh núi cao 8.068m trên dãy núi Hy-mã-lạp-sơn ông đã lao xuống còn 3.000m trong 9 giờ. Để lập được kỷ lục này, Suadan đã chuẩn bị 3 năm, phải tập luyện chịu đựng rét lạnh thật kinh khủng, phải hy sinh mọi thú vui hại sức khỏe. Và trong một lần thực tập cụ thể ở độ cao 8.000m, đoàn tùy tùng theo ông đã có 3 người bị tuyết vùi bỏ mạng, những người còn lại vật lộn 2 ngày đêm với bão tuyết mới sống sót trở về được.
Từ sự kiện này chúng ta có thể rút ra được một bài học này: dù việc to hay nhỏ, nhất là những gì gọi là kỳ công, con người muốn thành đạt buộc phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt, phải tuân theo những đòi hỏi gắt gao, phải luyện tập bản thân thật khắt khe, phải từ bỏ những thú vui khác.
Nếu vì những mục đích, những thành quả mau qua và giới hạn ở đời mà con người ra sức, nỗ lực chiếm đoạt cho bằng được, huống chi để chiếm được Nước trời, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng sợ sệt khi nghe Chúa đưa ra những đòi hỏi, những điều kiện làm môn đệ, làm con Chúa trong bài Phúc âm hôm nay. Hơn nữa, nếu xét đâu là mục đích tối hậu và cao cả nhất mà con người phải nhắm tới, đâu là thành quả vĩ đại và vĩnh cửu mà cuộc đời con người phải đầu tư thì những đòi hỏi Chúa đưa ra quá rẻ.
Đòi hỏi đầu tiên là từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Đây là một đòi hỏi cốt yếu vì không ai có thể được gọi là môn đệ, không cố gắng tuân giữ những chỉ thị, những dạy bảo của Chúa. Ngay cả Chúa Giêsu, sau khi đã gặt hái được nhiều thành quả trên con đường truyền giáo, được dân chúng mến mộ, ca tụng, nhưng Ngài đã không dừng lại trong sự an phận thủ thường, trái lại Ngài cương quyết lên Giêrusalem để chịu khổ nạn theo ý của Thiên Chúa Cha.
Đòi hỏi thứ hai của người môn đệ Chúa là phục vụ kẻ khác vì Chúa. Suốt cuộc sống ở trần gian Chúa không những dạy dỗ mà còn làm gương sống phục vụ con người hết mình. Cũng thế, là môn đệ, chúng ta luôn tâm niệm và đeo đuổi một mục đích là đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác với bất cứ giá nào. Do đó, không thể để cho oán ghét, thù hận, ác độc ngự trị trong tư tưởng, lời nói, hành động của chúng ta cho dù người khác có đối xử không tốt hay vô ơn với chúng ta. Vì như Chúa dạy yêu thương, tha thứ, giúp đỡ anh em là dấu hiệu rõ ràng nhất để biết ai thuộc về Chúa, ai thuộc về thế gian.
Đòi hỏi thứ ba là tín thác hoàn toàn nơi Chúa cho dù ở đời có gặp phải những hoàn cảnh éo le, những thử thách đau thương, những thất bại đáng cay. “Con cáo có hang, chim trời có tổ” tiêu biểu những kẻ chỉ dựa vào của cải, danh vọng, kỹ thuật như là chốn nương thân vững chắc cho đời mình, còn “Con Người không có chỗ gối đầu” là những ai biết sống siêu thoát, biết hy sinh chịu khó cốt lo phần rỗi mai sau. Bởi vì, thân phận môn đệ Chúa là thân phận của một lữ khách, nghĩa là không có một nơi trú ẩn bảo đàm lâu dài nào, mà còn chấp nhận dấn thân vào những khó khăn của cuộc sống không từ nan.
Tóm lại, để theo Chúa đến cùng được và để xứng đáng làm môn đệ của Ngài, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm cao thực hiện tốt những đòi hỏi của Chúa dạy bảo mới mong chiếm đoạt được Nước trời.
18. Chọn lựa – Tổng hợp từ R. Veritas
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm về sự chọn lựa như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu trên hai bàn tay. Khi một hạt đậu rơi xuống đất, tiếc qúa nó bèn chọn lựa và làm một quyết định là nhặt hạt đậu đó lên. Không ngờ khi vừa buông tay để nhặt thì lại rơi thêm mấy chục hạt đậu nữa. Nó lại quyết định nhặt hết mấy chục hạt đậu đó lên. Ai ngờ vừa mở bàn tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm rơi hết nắm đậu còn lại trên tay. Tiếc quá, nó dùng cả hai tay lẫn hai chân để vơ vét các hạt đậu, nhưng càng khều càng vét thì đậu lại càng văng ra xa hơn. Cuối cùng cả hai nắm đậu đều tuột khỏi bàn tay, nằm vương vãi trên mặt đất.
***
Bạn thân mến! Cuộc sống không ngừng đòi hỏi ta phải chọn lựa. Có những chọn lựa "có vẻ" như mang lại cho ta nhiều thiệt thòi mất mát ở đời này. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay hé mở cho ta thấy những chọn lựa ấy:
Chọn lựa thứ nhất là chọn lựa giữa cuộc sống an toàn ổn định, có chăn ấm nệm êm dưới một mái nhà, hoặc cuộc sống của người đi theo Chúa với những hy sinh thiệt thòi mất mát; những phiêu bạt bấp bênh không một mái nhà trú ngụ…“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc.9:58). Hôm nay Chúa vạch ra cho ta hai con đường với hai cuộc sống khác nhau và mời gọi ta làm một việc chọn lựa …
Chọn lựa thứ hai là chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng. Có một người muốn đi theo Chúa, nhưng anh lại thưa với Chúa rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã" (Lc.9:59). Chúa nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại nước Thiên Chúa” (Lc.9:60). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa.
Chọn lựa thứ ba là chọn lựa một cách cương quyết và dứt khoát để đi theo Chúa. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc.9:62). Đó là lời Chúa nói với người môn đệ muốn đi theo Chúa, nhưng lại xin phép về từ biệt gia đình trước khi lên đường. Khi đi theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa một cách cương quyết và dứt khoát.
Thực ra, Chúa đòi buộc ta phải thảo kính cha mẹ, phải coi trọng tình yêu thương gia đình, nhưng Ngài cũng dạy ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước nhất. Ngài muốn ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu là ưu tiên phụ. Đối với người Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đó là điều quan trọng nhất, quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống của chính mình nơi trần thế này (Lc.14:26).
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra một giây phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình, để nhìn lại những chọn lựa mà ta đã làm trong cuộc sống hôm nay. Nhiều lúc ta phải giật mình vì thấy những chọn lựa của ta thường hay quy về chính mình: Ta chọn sở thích của mình, chọn tự do của mình, chọn hạnh phúc của mình, chọn gia đình của mình… Ta chọn tất cả những gì dính bén đến bản thân của ta, nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi việc khác, Người sẽ ban thêm cho” (Mt.6:33)
***
Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con vì đã nhiều lúc con chọn lựa của cải, danh vọng chức quyền và các thú vui vật chất của đời này. Xin ban cho con sức mạnh của Chúa để con thoát khỏi những bận tâm về chính mình. Xin ban cho con ý chí cương quyết để con biết chọn Chúa là phần gia nghiệp; là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen.
19. Nhìn lại phía sau, nhưng không luyến tiếc.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chúa Giêsu đi vào giai đoạn chót cuộc đời dưới thế của Người. Lần sau cùng Chúa lên Giêrusalem, nơi đây sẽ hoàn tất số mệnh Cứu Thế của Người. Chúa quở trách các môn đệ vì các ông muốn áp dụng luật ‘ăn miếng trả miếng’, mong ước lửa trời thiêu hủy ngôi làng từ chối tiếp đón Thầy trò. Một bản văn khác chép thêm một lời phán của Chúa Giêsu: “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào? Vì Con Người đến không phải để hủy diệt mạng người ta mà để cứu chúng”. Thần Khí Chúa không phải là tinh thần thù hận, dẫu cho bề ngoài đủ lý lẽ biện minh cho thù hận. Chúa không ép buộc phải đón tiếp, cũng không thù oán khi bị đuổi khéo. Làng Samaria nói ở đây theo chủ nghĩa địa phương cực đoan, có lẽ sau này cùng với một làng xóm khác đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Đối với bất cứ xúc phạm nào, không bao giờ Chúa làm quá để không thể hàn gắn được, Chúa biết lòng người ta hay thay đổi, có thể một ngày nào tâm hồn sẽ mở ra đón nhận ân huệ Thiên Chúa. Sau khi thuật lại cảnh từ chối tiếp đãi, thánh Luca thuật tiếp ba cảnh khác, nêu lên những đòi hỏi của ơn gọi truyền giáo.
1) Cảnh một cho ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố minh bạch trước mặt kẻ muốn theo Chúa rằng cuộc sống kẻ ấy chẳng dễ dàng gì. Làm thế, Chúa cho thấy không được giảm giá trị Phúc Âm vì cớ muốn lôi kéo dễ dàng hơn những kẻ nào ngần ngại trước những yêu cầu của Phúc Âm. Không bao giờ Chúa có thái độ cứng cỏi có thể khiến người ta xa lánh, trái lại Chúa thu hút người ta bằng lòng nhân hậu. Tuy nhiên, không bao giờ Chúa giảm bớt tính chất gắt gao của những yêu cầu hàm chứa trong Phúc Âm, trái lại Chúa nhấn thêm bằng những hình ảnh so sánh mà có thể chúng ta cho là thái quá, như câu: “Con Người không có chỗ để gối đầu”. Thái độ ấy tỏ ra Chúa trọng con người vì con người có quyền được biết sự thật và có khả năng đáp ứng yêu cầu.
2) Trong cảnh hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh vào việc phải đáp ứng mau chóng khi Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta nghe rõ, nhưng đôi khi có thể chúng ta muốn có thời giờ thu xếp công việc làm ăn, lo tích trữ thứ này thứ nọ để ‘phòng hờ’, tóm lại, chúng ta không gấp. Trường hợp ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, còn gì chính đáng hơn là thu xếp công việc gia đình trước khi dấn thân theo Thầy? Đúng thế, nhưng với điều kiện là không được trì hoãn, tới lúc phải ra đi thì can đảm chia tay những kẻ vô cớ chèo kéo bịn rịn.
3) Trong cảnh ba, Chúa Giêsu bảo kẻ nào muốn theo Chúa phải biết rõ mình muốn gì và chớ có nhìn lại đàng sau. Khi người ta lái xe, người ta cũng phải nhìn vào kính chiếu hậu nữa để tránh tai nạn, nhưng không được luyến tiếc quang cảnh bỏ lại phía sau. Chúa Kitô không muốn các môn đệ theo Chúa mà lòng vấn vương một quá khứ nào đó. Phải quyết tâm theo Chúa, con mắt hướng thẳng về tương lai.
20. Phát quang lộ trình lên thiên đàng.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân phải làm sạch con đường. Đôi khi những cây cối phải được cắt bỏ, những hòn đá phải được di chuyển đi và những ngọn đồi phải được san cho bằng. Bất cứ những cái gì cản trở trên con đường xa lộ đều phải được chuyển đi.
Chúa Giêsu có một điều gì giống như thế, khi Ngài mời gọi mọi người trở nên môn đệ của Ngài. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Lời tuyên bố khó hiểu của Ngài: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”. Không có nghĩa là Ngài chống đối việc chôn cất những người thân yêu của chúng ta. Một ý nghĩa khi Ngài tuyên bố, có nghĩa là những ai loại bỏ Người thì cũng giống như những người chết kể từ khi họ loại trừ Chúa của sự sống, nhưng đó cũng là cách mà Chúa Giêsu nói, là chúng ta phải quyết định không có gì quan trọng hơn việc trung thành với Người.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay miêu tả một thời kỳ của Cựu Ước, qua đó một con người đã phải làm một quyết định. Cái áo choàng của Êlia là một biểu hiệu chức vụ tiên tri của người. Khi ông khoác nó lên cho Êlisa, ngài muốn mời gọi Êlisa kế tục ông như là một tiên tri trong Israel. Êlisa có vẻ do dự mất một lúc. Ông ấy đã nghĩ về cha mẹ của mình. Ông ta đã làm gì? Sự tự do đã cho phép ông làm một quyết định riêng cho chính mình. Một quyết định mạnh mẽ đã bùng cháy bên trong trái tim ông. Ông đã giết bò, chẻ cày ra làm củi để nướng bò. Điều đó có nghĩa là ông đã từ bỏ những gì có ý nghĩa cho đời sống của ông. Ông đã gặp mọi người để từ biệt họ, bỏ mọi sự để đi theo Êlia. Chúng ta phải nói rằng ông đã thiêu cháy cái cầu đằng sau mình.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm cùng một công việc như thế để đi theo Người cách cởi mở. Tại phép rửa Ngài đã đặt một áo trắng trên chúng ta. Đó là một biểu tượng có nghĩa chúng ta là một dân mới với một đời sống mới, một đời sống của sự tự do thật. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta phải giải phóng tất cả những chướng ngại để làm viên mãn ơn gọi làm môn đệ của chúng ta nhưng sự tự do là một thực tại phức tạp. Chúng ta sống trong một xã hội tự do nhưng những ngày này chúng ta làm chứng phải chịu đựng sự lạm dụng tự do, xã hội chúng ta đã thần thánh hóa câu, sự”tự do chọn lựa”, điều đó có đúng không khi chọn lựa phá thai, tước đoạt quyền được sống của kẻ khác. Thật sự một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ngày xưa đã tuyên bố như giáo điều; “Sự tự do chọn lựa là nền tảng nhất của con người”. Ông ta sai –một cái sai chết người. Ý kiến của ông ta về sự tự do thì không phải những gì Chúa Giêsu đã dự định cho chúng ta.
Loại tự do mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta là vì tình yêu. Chúa Giêsu không cưỡng bách chúng ta làm môn đệ của Người, dâng hiến cho Người, để yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người. Ngài ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa bởi vì tình yêu mà bị cưỡng bách thì không phải là tình yêu nữa.
Trung thành với những ý tưởng của Chúa Giêsu là Thánh Phaolô, đấng đã dạy chúng ta rằng;”Chúng ta đã được kêu gọi để sống trong sự tự do nhưng không phải sự tự do để tháo thứ cho xác thịt”. Sự tự do tháo thứ này thật sự là một nô lệ. Nếu chúng ta nghiện rượu, chúng ta sống tình dục không hợp pháp, chúng ta tham lam hoặc giận dữ, thì chúng ta không tự do. Những vấn đề nhu cầu không bị chôn vùi đâu. Khi chúng ta cho phép môt thói quen lớn lên, một tính kiêu ngạo hoặc một tính ích kỷ điều khiển chúng ta, chúng ta đang lạm dụng sự tự do của chúng ta. Tội lỗi là một thứ nô lệ và đối đầu với tự do.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta, chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu đã trả một giá đắt cho sự tự do của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Người, Ngài đã thiết lập sự tự do cho chúng ta”. Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, để với ý chí tự do chúng ta có thể yêu mến Người một cách cởi mở.
21. Chiếc bị
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace). Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.
“Hôm ấy, tôi đang mê mãi bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời. Tôi vội vã đi theo.
Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.
Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.
Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,
Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.
Chân kéo lê trên một quãng đường dài.
Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.
Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.
Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.
Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,
Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.
Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,
Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.
Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.
Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.
Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.
Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.
Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,
Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.
Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.
Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.
Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,
Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi”.
Anh chị em thân mến,
Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân. Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp. Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:
Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu”. Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ”, và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ. Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thất tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy. Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ. Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.
Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi”. Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã. Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngòai Nước Trời. Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.
Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã”. Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã. Ông Êlia đồng ý ngay. Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước. Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu hti2 khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau. Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được. Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.
Thưa anh chị em,
Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.
Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ. Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà kh“Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”. Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời. Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy. Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa? Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi. Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3,7-13).
Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo. Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn. Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình. Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa. Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Việc tham dự tích cưc và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.
22. Tự do – Lm. An Hạ
Khát vọng tự do rất mãnh liệt trong tâm hồn con người. Nhưng đâu là tự do đích thực của người môn đệ Chúa Kitô?
MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC
Làm sao tìm được chân chung đích thực của người môn đệ Chúa Kitô? Câu trả lời nằm gọn trong Tin Mừng hôm nay. Môn đệ phải phản ánh hình ảnh Thày. Nếu Thày "nhất quyết đi lên Giêrusalem" (Lc 9:51), môn đệ cũng phải có một gương mặt quả cảm như thế. Nhưng làm sao có thể thênh thang trên thiên lộ như vậy, nếu Thày không phải là con người tự do? Từ tinh thần cho đến lối sống, Thày không bị hoàn cảnh hay con người chi phối.
Tận thâm tâm, Thày không bị đam mê khuấy đục. Thất tình không thể lung lạc tinh thần Người. Dù bị dân làng Samari lạnh nhạt, Thày cũng không màng. Khác hẳn các môn đệ, Thày không muốn khiến lửa thiêu hủy dân làng Samari. Trái lại, "Đức Giêsu quay lại quở mắng" (Lc 9:55). Nhờ đó, các môn đệ mới thấy rõ tất cả giới hạn của lòng mình. Họ không thể bắt chước ngôn sứ Êlia khiến lửa từ trời đốt cháy quân thù (2 V 1:10,12). Người không muốn người môn đệ nuôi mối hận thù hay tìm cách ăn miếng trả miếng. Trái lại phải "yêu thương kẻ thù" (Mt 5:44). Dù bị ghét bỏ và khinh dể, Người cũng như giả điếc làm ngơ. Tim Người không bao giờ sôi sục niềm ân oán. Đó là một tinh thần tự do tuyệt đối. Tinh thần đó sẽ tạo nên những giá trị lớn lao và siêu vượt những tầm thường cuộc sống.
Tinh thần Thày vô cùng siêu thoát! Làm sao có thể siêu thoát như thế? Trước hết, lối sống vừa phản ánh vừa góp phần xây dựng tinh thần siêu thoát đó. Người sống khó nghèo đến nỗi "không có chỗ tựa đầu" (Lc 9:58). Một cuộc đời từ bỏ hoàn toàn. Từ một nơi vô cùng cao trọng, Người đã hạ mình xuống đất đen. Cuộc sống không có ngày mai. Theo Thày là dấn thân vào một cuộc mạo hiểm vô cùng thú vị, nhưng cũng đầy thách đố. Cuộc sống không bị lệ thuộc vào bất cứ nhu cầu nào. Có gì ăn nấy. Không đòi hỏi. Sống nay chết mai. Không có gì để mất. Không có gì tồn trữ. Nay đây mai đó. Nếu quá lệ thuộc vào những điều kiện sống vật chất, làm sao có thể chấp nhận lối sống bấp bênh như vậy?
Khó nghèo là điều kiện đầu tiên và tối thiểu một môn đệ phải có trên con đường theo Đức Kitô. Nhưng để loan báo Tin Mừng, họ còn phải có một tinh thần siêu thoát với những liên hệ tình cảm gia đình nữa. Trước bổn phận báo hiếu đối với thân phụ mới qua đời của người thanh niên, tại sao Đức Giêsu trả lời: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" (Lc 9:60)? Phải chăng Chúa là một con người lạnh cảm?
Dĩ nhiên, Người không dạy môn đệ khinh dể hay loại bỏ bổn phận đối với gia đình. Gia đình là một giá trị thiêng liêng cao quí. Nhưng đứng trước giá trị siêu việt của Tin Mừng, gia đình phải nhượng bộ. "Những đường lối của Nước Thiên Chúa không nhất thiết sóng bước với đường lối con người" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:701). "Loan báo Triều Đại Thiên Chúa" (Lc 9:60) là một bổn phận tối thượng.
Nước Thiên Chúa phải chiếm địa vị ưu việt. Giá trị tuyệt đối. Thực vậy, "ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." (Lc 9:62). Ngoái lại đằng sau có thể làm cho luống cày không thẳng đường ngay lối. Làm việc trong cánh đồng truyền giáo cũng đòi môn đệ phải tập trung cao độ mới có thể đem lại kết quả tốt đẹp. Nếu còn để cho những quyến rũ bên đường thu hút, chắc chắn sẽ đánh mất giá trị lớn lao và công việc phục vụ mất hiệu lực. Chính vì thế, một khi hiến trọn đời loan báo Tin Mừng, thánh Phaolô phải "quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước" (Pl 3:13). Người không bao giờ ngoái lại đằng sau với bao nhiêu mối liên hệ tình cảm chằng chịt và địa vị lớn lao trong hàng ngũ Pharisêu. Bởi vì, không giá trị nào có thể vượt trên Nước Thiên Chúa.
Chỉ có con người tự do mới có một tinh thần siêu thoát khỏi những nhu cầu tình cảm và vật chất như thế. Đó mới là tự do đích thực. Tự do đem lại sự giải thoát hoàn toàn. Lên tới cấp độ tự do đó, người môn đệ sẽ thấy rõ mình "được gọi để hưởng tự do" mà "phục vụ lẫn nhau" (Gl 5:13). Họ rất trân trọng giá trị siêu việt của tự do, vì niềm tin mạc khải: "Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta" (Gl 5:1) bằng cái chết và sự phục sinh của Người.
Chính nhờ Thần Khí, Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao đó. Cũng như Đức Kitô, môn đệ cũng có sứ mạng giải thoát nhân loại để đem họ vào miền tự do làm con cái Thiên Chúa. Nhưng sứ mệnh đó chỉ có thể thực hiện khi người môn đệ "sống theo Thần Khí" (Gl 5:16). Chỉ Thần Khí mới có thể hướng dẫn họ tới miền đất tự do. Họ sẽ phóng mình theo Đức Kitô để giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
TỰ DO HÔM NAY
Hôm nay khát vọng tự do vẫn sôi sục trong lòng người. Nhân danh tự do, người ta tranh đấu cho quyền phụ nữ phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Thực tế, "mặc dù tất cả chúng ta phải theo tiếng lương tâm, nhưng lương tâm không có nhiệm vụ sáng tạo ra chân lý đạo đức, mà phải nhận thức ra chân lý đó. Có thể một cá nhân nhận thức sai lạc thực tại luân lý của một hoàn cảnh đặc biệt. Họ có thể thành thực, nhưng là sai lầm một cách thành thực" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Lúc đó, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan để hướng dẫn mới có thể xử dụng tự do đúng mức và đạt tới lý tưởng cuộc đời. Thực tế, có những mâu thuẫn. Chẳng hạn, "một số người Công Giáo muốn tin tất cả những gì Giáo Hội tin, nhưng lại muốn để cho người khác tiếp tục trực tiếp giết người vô tội. Đó là một gương mù lớn" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Tự do đã đưa con người tới những chủ trương trái nghịch với đạo lý Giáo Hội.
Nếu muốn sống theo tự do như thế, họ phải chấp nhận một thực tế. "Những người Công Giáo công khai chống lại giáo huấn Giáo Hội về quyền sống của tất cả các trẻ chưa sinh nên nhận thức rằng qua hành động họ đã tự do muốn tự tách biệt khỏi những điều Giáo Hội tin tưởng và giáo huấn. Một cách nghiêm trọng họ cũng tự tách biệt khỏi cộng đoàn Công Giáo. Tuy nhiên, "họ vẫn còn là người Công Giáo về một phương diện nào đó, nhưng không còn đức tin Công Giáo toàn vẹn nữa. Đối với người như thế, diễn tả việc hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội qua việc chịu lễ là một hành vi thực sự thiếu lương thiện" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Nhân danh tự do, con người tưởng đạt tới đỉnh cao quyền làm người. Thực tế, "không có quyền nào căn bản hơn quyền được sinh ra và nuôi dưỡng với toàn thể phẩm vị xứng đáng với con người." Do đó, "phá thai là một trong những bất công nghiêm trọng nhất" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Lý do vì con người không phải là "một hạt bụi vô dụng mất hút trong không gian và thời gian vô nghĩa, nhưng là một phần trong chương trình đầy khôn ngoan phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa" (Gioan Phaolô II: Zenit 5/5/2004).
23. Ơn gọi sống theo Chúa – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.
Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.
Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.
Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.
Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.
Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
24. Theo Chúa
Quan đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có nhiều loại người đi theo Chúa.
Hạng người thứ nhất: “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả.” Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết sức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
Hạng người thứ hai được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa biết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời mời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá yêu thương anh, do đó, không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?”. Và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng ta sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta.”
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đá chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng cao cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
Hạng người thứ ba còn lừng khừng chưa dứt khoát. Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm.” Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “Chúng ta nhận ơn Chúa cách vô ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”.
25. Con muốn đi theo Ngài – André Sève.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’ – André Sève)
Chúng ta sắp sửa nghe những lời rất gay go nhưng rất quan trọng đến nỗi trước tiên phải hiểu rõ tại sao Chúa Giêsu tỏ ra gay gắt và nóng lòng: “Vì gần đến ngày Chúa Giêsu phải lìa bỏ thế gian nên Ngài quyết định đi Giêrusalem”. “Con đường lên Giêsuralem” chính là con đường tiến về cái chết.
Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài đã thấy nổi lên sự chống đối, một liên minh các thù địch đang chờ đợi Ngài trong thành phố “là nơi người ta giết chết các tiên tri” (Lc 13,34). Có lẽ Ngài đã có thể tránh được thảm cảnh trong khi ở lại Galilê, nhưng Ngài không tránh né sứ mạng cứu độ và những hậu quả của nó. Nơi mà Gioan nói Ngài đi “cho đến cùng” thì Luca nói rằng Ngài “quyết định” đi (trong bản dịch nghĩa đen: “Ngài nghiêm mặt lại”).
Cái “quyết định” này cũng phải đánh dấu những người muốn đi theo Ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với những “ơn gọi”, nhưng mọi Kitô hữu, theo cách và trong hoàn cảnh của mình, được mời gọi “đi theo Đức Kitô”, nghĩa là sống theo Tin Mừng. Do đó chúng ta có thể làm một cuộc xem lại cuộc sống Tin Mừng bằng cách đi từ những câu trả lời sống động do Chúa Giêsu nói với ba người.
1) Ngươi sẽ không có chỗ trú ngụ.
Một ngày kia, chúng ta la lên hoặc thì thầm lời yêu thương này với Chúa Giêsu: “Con sẽ đi theo Ngài khắp nơi”. Câu trả lời của Ngài làm chúng ta hăng hái. Nếu ở vào lứa tuổi 20, ý tưởng thậm chí ‘không có hang’ chỉ có thể làm cho chúng ta vui thích mà thôi. Tập sinh nào, kẻ tiên phong nào, kẻ trở lại với Tin Mừng nào mà quan tâm đến tiện nghi cơ chứ!
Nhưng cuộc sống sẽ nhẹ nhàng trở nên trói buộc. Biết bao tông đồ sự tiện nghi đã làm cho uể oải! Biết bao Kitô hữu ngần ngại thực hành Tin Mừng bởi vì phải chịu thiếu thốn và nhất là dấn thân vào sự mất an toàn. “Quyết định đi Giêrusalem”, trước tiên đó là nhận thấy rằng chúng ta quá gắn bó với quá nhiều vật dụng, với quá nhiều điều đảm bảo.
- Sau đó thì sao? Chơi trò vô gia cư sao?
- Không, nhưng làm một vòng căn hộ và con tim để đo lường mức độ trưởng giả của chúng ta. Chúng ta sẽ là quan tòa duy nhất, mỗi một người trong chúng ta có những con quỷ tiện nghi riêng.
2) Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết
Đây trước hết là mệnh lệnh không được lần chần. Có biết bao nhiêu lý do làm chúng ta ngồi lại khi người ta đã đứng dậy để đi theo Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không đi theo Ngài ngay lập tức, ơn kêu gọi sẽ qua nhanh, nhanh hơn những trì hoãn của chúng ta.
Có những chọn lựa rất khó mà dám đón nhận. Khi tôi nghe la rầy một linh mục không quan tâm đủ đến những cuộc mai táng hoặc người nào đó vừa mới mất, hoặc thậm chí cha mẹ của chính linh mục đó, tôi tự nhủ phải xác minh kỹ những điều đó và trong tinh thần của Tin Mừng hôm nay. Có lẽ đó là sự hờ hững hoặc thiếu vắng tinh thần con thảo, thế thì phải phản đối. Nhưng nếu ngược lại đó là để phục vụ cuộc sống tốt hơn nữa, và đôi khi một cách anh hùng thì sao? Tôi biết một bà mẹ nói với người con làm linh mục: “Đừng quan tâm đến mẹ, con là con trai mẹ hàng ngàn lần khi con hiến thân hơn khi là khi con quan tâm đến mẹ”. Chúng ta đã giết chết những người tông đồ trong khi kéo họ lại phía sau, họ trở nên những người chết bận tâm đến những người chết.
Cũng ý tưởng này trong lời nói khó khăn thứ ba:
3) “Hãy nhìn về phía trước, chứ không phải phía sau, nếu không con không xứng với Nước Trời”.
Có những cách bám víu vào quá khứ rất não nùng hoặc rất sợ hãi mà không phải là những bước tiến quyết định hướng về Giêsusalem! Thay vì nói những lời từ biệt không cùng, trong khi nắm lại những kỷ niệm, môn đệ của Chúa Kitô là kẻ “hướng về phía trước” mà Phaolô đã mô tả: “Quên con đường đã qua và hướng về phía trước, tôi đi đến đích” (Pl 3,13-14).
26. Tinh thần siêu thoát
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý để như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Nhưng suốt cả ngày hì hụp ngoi lên lặn xuống hao hơi nhọc công, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác nơi mà ngài đã ném ngọc xuống để may ra tìm lại dễ hơn.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai lại ném xuống sông và nói: "Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm."
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng nhiên giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học đầu tiên mà vị linh sư muốn dạy anh là muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải có tinh thần siêu thoát, phải sẵn sàng dứt bỏ mọi dính bén với của cải thế gian.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho những ai muốn trở thành môn đệ của Người cũng phải có một tinh thần siêu thoát tương tự, chủ yếu là siêu thoát đối với ba sự việc sau đây:
Thứ nhất: siêu thoát đối với những tiện nghi và của cải
“Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu."
Với những lời nầy, Chúa Giêsu cảnh báo rằng: ai muốn theo Người thì trước hết phải lượng sức mình: Có đủ siêu thoát để chấp nhận cuộc sống thiếu thốn như Người, ngay cả chỗ tựa đầu cũng chẳng có chăng?
Thứ hai: siêu thoát đối với những trói buộc trần thế để ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Rồi Chúa Giêsu lại gặp một người khác và cất tiếng mời gọi: "Anh hãy theo tôi. Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã."
Đức Giêsu muốn anh siêu thoát khỏi trói buộc nầy nên bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."
Tất nhiên Chúa Giêsu vẫn đề cao việc thờ cha kính mẹ (Mc 7,10), nhưng qua lời dạy nầy, Người đòi hỏi ai muốn trở thành môn đệ của Người phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc loan báo Tin Mừng, còn việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, mai táng cha mẹ tất nhiên đã có anh em họ hàng ở nhà chung lo.
Thứ ba: siêu thoát khỏi những tình cảm riêng tư để dốc hết tâm lực cho việc loan báo Tin Mừng.
Đi thêm chặng nữa, Chúa Giêsu gặp một người khác tình nguyện theo Người: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."
Với người nầy, Chúa Giêsu kêu gọi phải siêu thoát khỏi những mối tình cảm gia đình để thảnh thơi lo việc xây dựng Nước Thiên Chúa. Đã xông pha lên đường phụng sự Nước Trời mà còn vấn vương những mối tình cảm riêng tư thì chẳng khác chi “đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau”.
***
Những mối ràng buộc do của cải tiền tài, do những mối tình cảm riêng tư… như những chiếc vòi của con bạch tuộc khổng lồ huyền thoại, cuốn chặt lấy những chiến sĩ của Tin Mừng, không để cho họ xông pha lên đường phụng sự lý tưởng cao đẹp.
Khi kêu gọi người môn đệ siêu thoát đối với của cải tiện nghi và những ràng buộc của những mối tình cảm hẹp hòi, Chúa Giêsu mong muốn những ai dấn thân phụng sự Nước Trời hãy can trường chặt đứt những chiếc vòi quỷ quái đó hầu có thể thảnh thơi thi hành sứ vụ.
Cần thật nhiều ơn Chúa, cần có nhiều bản lãnh và nghị lực bản thân mới có thể thực hiện được những đòi hỏi khó khăn nầy.
***
Lạy Chúa, xin luôn ở bên chúng con, đồng hành với chúng con và cùng chiến đấu với chúng con.
27. Sứ mạng tối thượng và khẩn cấp
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trường hợp cha mẹ có năm đứa con do chính mình sinh ra, do chính mình tận tâm chăm sóc nuôi dưỡng và ấp ủ bằng tấm lòng yêu thương tha thiết từ lúc mới lọt lòng cho đến lúc khôn lớn, mà những đứa con đó lại không đếm xỉa gì đến bậc sinh thành, phủ nhận toàn bộ công lao cha mẹ, lại còn chối bỏ hoặc phỉ báng cha mẹ nữa... thì trong hoàn cảnh đó, cha mẹ đau khổ biết chừng nào!
Và nỗi đau khổ của cha mẹ càng dâng cao hơn, khi chính những đứa con đó, vì không biết cha biết mẹ, do đó cũng chẳng biết chúng là anh chị em ruột thịt với nhau, nên đâm ra ghen ghét, xâu xé nhau, khai thác trục lợi nhau và tệ hại hơn nữa, gây ra cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn giữa chúng với nhau.
Nỗi đau của Thiên Chúa cũng chất ngất như thế đó!
Thiên Chúa quá đỗi đau buồn vì có rất đông con cái của Ngài trên khắp thế giới, do chính Ngài sinh ra, do chính Ngài chăm sóc nuôi dưỡng và hết lòng yêu thương quý mến, lại không nhìn nhận Ngài là Cha, thậm chí có kẻ còn quay ra phỉ báng Ngài; và vì không nhìn nhận Chúa là Cha nên họ cũng không thể nhận ra nhân loại là anh chị em con cùng một Cha trên trời. Hậu quả là người ta đâm ra ghen ghét, hận thù, xâu xé nhau và gây ra vô vàn đau thương khốn khổ cho nhau.
Đây là thảm cảnh đau thương khiến Thiên Chúa là Cha nhân lành không chịu đựng nổi nên Ngài muốn chấm dứt thảm trạng nầy càng sớm càng tốt.
Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thực thi một sứ mạng tối thượng và cấp bách là bày tỏ cho nhân loại biết họ có một Người Cha/Mẹ tuyệt vời là Thiên Chúa và bởi vì Thiên Chúa thật sự sinh ra mỗi người trên trái đất nên mọi người đều là anh chị em con cùng một Cha/Mẹ trên trời; hy vọng một khi sự thật nầy được mọi người nhận biết và đón nhận, nhân loại sẽ được diễm phúc chung sống hòa bình như anh chị em một nhà có chung một Người Cha.
Đây là sứ mạng tối thượng và cấp bách nên không thể trù trừ chậm trễ mà phải dồn tất cả mọi nỗ lực để hoàn thành. Chính Chúa Giêsu đã dành ưu tiên cho sứ mạng nầy đến nỗi hy sinh quên mình, từ bỏ hết mọi sự, ngay cả chỗ tựa đầu, Ngài cũng không có: “Chim trời có tổ, chồn cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Thế nên, khi có người gặp Chúa Giêsu để xin làm môn đệ, thì Ngài cho anh biết điều kiện tiên quyết để trở nên cộng tác viên của Ngài là phải hy sinh quên mình cho sứ mạng - sứ mạng loan Tin Mừng cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh chị em - đến mức không còn chỗ dựa đầu. Ngài nói với anh ta: “Chim trời có tổ, chồn cáo có hang, Con Người không chỗ dựa đầu.”
Và khi Chúa Giêsu gọi một kẻ khác theo Ngài, kẻ ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về mai táng cha tôi trước đã.” Chúa Giêsu bảo: “Hãy để người chết chôn người chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."
Đành rằng mai táng cha mẹ là việc quan trọng rất đáng thực hành để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục; tuy nhiên, khi trả lời như thế, Chúa Giêsu muốn dạy ta hiểu rằng sứ mạng theo Chúa loan Tin Mừng còn khẩn cấp hơn, đáng được ưu tiên hơn cả việc chôn cất cha mẹ qua đời.
Lần khác, có người thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." Nói như thế, Chúa Giêsu có ý nhắn bảo rằng phải dốc toàn tâm toàn lực cho công cuộc loan Tin Mừng, không chút chểnh mảng vì bất cứ lý do gì, kể cả việc giã từ cha mẹ vợ con hay những người thân trong gia đình.
Là người con trong Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta không thể vô cảm trước nỗi thống khổ của Cha chúng ta, một Người Cha bất hạnh vì bị rất nhiều người con - mà Ngài đem hết lòng yêu thương - từ khước và thậm chí còn quay lại phỉ báng Ngài.
Là người em của Chúa Giêsu, chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn Anh Giêsu lao đao, thổn thức trên hành trình hun hút tìm kiếm những người em lưu lạc, sống xa cách Cha, lìa bỏ Gia Đình.
Là người anh em nhỏ bé trong Đại Gia Đình nhân loại, chúng ta không thể dửng dưng khi anh chị em một nhà không nhận ra nhau là người ruột thịt con cùng một Cha và vì thế, có những đối xử tệ hại với nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con chấp nhận hy sinh quên mình như Chúa, biết dốc toàn tâm toàn lực như Chúa đòi hỏi để đồng hành với Chúa, góp công sức với Chúa thi hành sứ mạng tối thượng mà Chúa ngày đêm kêu mời chúng con hợp tác. Amen.
28. Sống thanh thoát để hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nước Pháp người ta vẫn tự hào về chị nữ tu Emmanuelle. Nữ Tu này, đã từng được biết đến như là "Nữ Tu lượm giẻ rách" tại Cairô, Ai Cập.
Năm 1971, Nữ Tu Emmanuelle đến sống giữa những anh chị em nghèo cùng tại khu nhà ổ chuột ở thủ đô Cairô, Ai Cập, và đi lượm rác kiếm sống như họ. Năm 1980, Nữ Tu đã thiết lập hội "Trợ Giúp Xã Hội và Y Tế cho Trẻ Em", hiện có mặt hoạt động tại 9 quốc gia trên thế giới, và giúp cho khoảng hơn nửa triệu trẻ em.
Trong lần sinh nhật 87 của bà, người ta đã nêu câu hỏi dành cho bà: "làm sao Sour có thể chấp nhận sự mất tự do ấy khi sống cho người nghèo và hoàn toàn lệ thuộc vào người nghèo?"
Vị nữ tu trả lời: "tôi lại nghĩ rằng nữ tu là người tự do nhất!" Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, chị giải thích:
Với ba lời khấn hứa của đời nữ tu, tôi hoàn toàn tự do. Ba lời khấn đó là:
- Thứ nhất: nghèo khó, không giữ của riêng. Nhờ đó tôi không bị ràng buộc bởi những ham muốn tiền bạc, tài sản, không phải bon chen tìm kiếm chúng, không phải loay hoay để bám lấy chúng. Sống có nhà dòng lo, chết cũng nhà dòng lo nên tôi chẳng phải bận tâm đến nó.
- Thứ nhì: thanh tịnh, không dính vào tình yêu nam nữ. Nhờ đó tôi được giải thoát khỏi sự kềm tỏa của quý ông (mọi người cười)! Không phải sợ chồng con hỏi đi đâu, bao giờ về, tôi hoàn toàn tự do sống cho người nghèo.
- Thứ ba: vâng lời, tuân phục bề trên. Nhờ đó, tôi được giải thoát khỏi chính tôi, tức là khỏi những ham muốn, khi thì thích đi đây, khi thì thèm đi đó, khi đòi làm chuyện này, lúc muốn làm chuyện nọ, của riêng tôi. Tôi để bề trên quyết định
Bà kết luận: với ba sự giải thoát ấy, tôi hoàn toàn tự do.
Và tôi có cảm tưởng những người nghèo đói sống trong những khu nhà ổ chuột ở Cairô, Ai Cập lại có vẻ hạnh phúc hơn những người giàu vì họ ít ham muốn... Và điều quan trọng là họ thỏa mãn với những gì mình có.
Cuộc sống con người quan yếu là hạnh phúc. Hạnh phúc không dựa vào tiền bạc, quyền lực mà hạnh phúc là sống thanh thoát khỏi những bon chen của tiền – tình – quyền. Có tiền mà không hạnh phúc thì cũng không bằng không tiền mà hạnh phúc. Có quyền lực mà không có tự do cũng không bằng thường dân mà thanh thản.
Cuộc sống sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống thanh thoát khởi những ham muốn danh lợi thú trần gian. Đôi chân sẽ nhẹ nhàng để đến với mọi người. Đôi tay sẽ thanh thoát để trao ban. Tâm hồn sẽ lạc quan dẫu cuộc đời vẫn còn đó những khó khăn.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhắc nhở người theo Chúa hãy sống thanh thoát với ảo ảnh trần gian. Chính Chúa cũng sống vượt ra ngoài những tiện nghi. Chúa không có nơi gối đầu để có thể thanh thoát ra đi đến với muôn nơi. Đôi chân Chúa không bị níu kéo bởi những tình cảm mau qua. Chúa đã chọn sống vì mọi người và cho mọi người. Cuộc sống của Ngài không tìm niềm vui riêng cho mình. Ngài không giữ lại cho mình một mái nhà, một người thân mà sẵn lòng bỏ lại đi đến tận cùng của hiến dâng cho đồng loại.
Xin cho chúng ta biết sống cao đẹp như Chúa khi biết sống mình vì mọi người. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống thanh thoát trước những mời gọi của danh lợi thú để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
29. Hai biển hồ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta bảo ở bên Palextina có hai biển hồ... Biển hồ thứ nhất gọi là biển chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi mà người uống phải cũng bị bệnh. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở hồ lúc nào cũng trong xanh mát dịu, con người có thể uống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.
Đây là một định lý trong cuộc sống: có cho đi mới được lãnh nhận. Vì "xởi lởi trời cho, co ro trời co lại". Hay ít ra cũng là "có qua có lại mới toại lòng nhau". Người có tâm hồn quảng đại trao ban mới có cơ hội đón nhận niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Người có tâm hồn thanh thoát khỏi những tham sân si của giòng đời mới tự do tự tại. Vì vậy, thật bất hạnh cho những ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. "Sự sống" trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Và thật hạnh phúc cho những ai biết trao ban. Cuộc sống họ sẽ mãi lan tỏa và dồi dào sức sống như biển hồ Galilê.
Đó chính là cung cách sống của Chúa Giêsu. Ngài đã sống một cuộc sống thanh thoát với những tiện nghi vật chất. Ngài đã chấp nhận cuộc sống bấp bênh, rày đây mai đó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài đã đi vào cuộc đời với cảnh nghèo khó khốn cùng trong thân phận người nghèo: "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài đã sống một cuộc đời cho đi: cho đi tình yêu, cho đi cả tính mạng mình vì người mình yêu. Ngài đã bỏ lại tình yêu của gia đình, của xóm làng để ra đi rao truyền chân lý, để tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa Cha. Giá tri cuộc sống của Ngài là làm theo thánh ý Chúa Cha. Ngài không làm theo ý riêng. Ngài không tìm danh vọng cho bản thân. Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha và làm rạng danh Chúa Cha qua đời sống hiến dâng phục vụ nhân trần.
Hôm nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống. Ý Chúa có thể làm chúng ta phải thiệt thòi, nhưng là cơ hội để chúng ta đón nhận niềm vui bất diệt trên quê hương trên trời. Ý Chúa đang mời gọi chúng ta bỏ lại những hận thù, ghen ghét, những vinh hoa phú quý trần gian hay những tình cảm mau qua để chọn Chúa làm gia nghiệp đời đời. Ý Chúa đang mời gọi chúng ta đừng bám víu vào những tham vọng của danh lợi thú để tâm hồn thanh thoát bình an. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy quảng đại trao ban, hãy cho đi để được nhận lãnh. Ý Chúa cần thể hiện trong mỗi giây phút khi phải chọn lựa giá trị Nước Trời hơn là những giá trị vật chất tầm thường mau qua.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những người thích bám víu vào của cải danh vọng trần gian, vẫn còn đó những người sống lệ thuộc vào những tình cảm mau qua, vẫn còn đó những người vẫn để lòng tham làm hoen ố tâm hồn, làm mất đi nét đẹp của hoạ ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình. Họ chưa thực sự sống tín thác vào Chúa. Họ chưa thực sự để cho Chúa làm chủ con người của họ. Họ vẫn là những con người làm tôi hai chủ. Sống đạo nửa vời, thiếu dứt khoát khi phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và danh lợi thú trần gian.
Xin cho mỗi người chúng ta biết tín thác vào sự quan phòng của Chúa, biết chọn Chúa làm nghiệp đời đời. Xin cho tâm hồn chúng ta luôn thanh thoát khỏi những ràng buộc vật chất và những tình cảm mau qua trần gian để tâm hồn và thân xác chúng ta luôn thuộc trọn về Chúa. Amen.
30. Ba điều ước của Alexander
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Alexander là một vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Vào thời khắc ấy, những vùng đất ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, những thanh gươm bén, và sự giàu có không còn nghĩa lý gì với ông. Ông nhận ra rằng cái chết sắp sửa đến và ông sẽ không về kịp mảnh đất quê hương. Ông bảo các sĩ quan của mình:
- “Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba điều nguyện ước. Các ngươi cần phải thực hiện những gì ta bảo”.
Các vị tướng tuân lệnh trong dòng nước mắt.
- “Điều ước đầu tiên của ta là hãy bảo thầy thuốc của ta mang cái hòm rỗng của ta về một mình”.
Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander nói tiếp:
- “Ước nguyện thứ hai của ta là hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho tàng của ta trên suốt dọc đường đến nấm mồ của ta khi các ngươi mang quan tài của ta ra nghĩa địa”.
Sau khi quấn mình trong chiếc áo khoác và nghỉ một lúc, ông nói tiếp:
- “Ước muốn cuối cùng của ta là hãy đặt 2 bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài”.
Mọi người xung quanh ông tất cả đều rất tò mò, nhưng không ai dám hỏi nguyên nhân. Vị cận tướng của Alexander hôn bàn tay ông và hỏi:
- “Thưa đức Vua, chúng thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng Ngài có thể cho chúng thần biết tại sao Ngài lại muốn chúng thần làm như vậy hay không?”.
Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời:
- “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã học được:.
- “ Mong ước thứ nhất của ta, để người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình, là để cho người ta nhận ra rằng một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng, phải trân quý cuộc sống của họ.
- “Mong ước thứ hai của ta, là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên giống như ta, theo đuổi mộng giàu sang. Nếu ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu có, ta sẽ lãng phí hầu hết thời gian quý báu của đời người.
- “Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng, ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng”.
Nói xong ông nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.
Người Việt Nam có câu: “Khôn dại cùng chung ba thước đất”. Vâng, với kinh nghiệm của mình, chúng ta thấy rằng: cho dù khi còn sống người đó là ai, làm gì đi chăng nữa, thì đến khi từ giã cõi đời cũng chỉ còn lại “ba thước đất”. Cũng chính vì thấy rõ sự giới hạn của thế giới vật chất mà tác giả sách Giảng Viên đã nói: “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không”. Và tác giả đã nêu lên lý do tại sao ông cho rằng tất cả là hư không, đó là “vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không”.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài đã sống thật thanh thoát với của cải. Ngài không để danh lợi thú cản trở bước chân của Ngài. Ngài đã từng nói: Cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”. Ngài không lệ thuộc vào phương tiện vật chất. Vì phương tiện chỉ hữu dụng khi con người làm chủ nó, còn khi con người phải lệ thuộc vào phương tiện thì lúc đó con người mất tự do và để phương tiện làm chủ mình. Ngài hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, cho dù phải uống chén đắng cuộc đời, Ngài vẫn xin vâng ý Cha trọn đời.
Thế nhưng, những người môn đệ Chúa hôm nay vẫn còn có những người thích tích lũy của cải trần gian. Vẫn còn có những linh mục sợ phải vào rừng sâu, phải đến những nơi thiếu thốn mọi bề. Cuộc sống của họ đang đầy đủ phương tiện nhưng bây giờ phải đối diện với thiếu thốn họ sợ hãi và muốn lẩn tránh.
Nhưng cũng có nhiều linh mục biết dấn thân mà không quản ngại khó khăn. Họ đến những vùng rừng núi hoang vu. Họ sống giữa bản làng thiếu thốn tư bề. Họ vẫn sống thanh thoát bình an. Đây là những hình ảnh đẹp của người môn đệ. Thanh thoát, nhẹ nhàng trong cuộc đời. Không để vật chất làm cản trở bước chân truyền giáo. Không để những tình cảm níu kéo làm mất đi tinh thần hăng say phục vụ.
Cuộc đời người ky-tô hữu cũng chỉ đẹp khi biết sống thanh thoát với của cải trần gian. Đừng vì ham mê của cải mà sống ti tiện, sống tham lam, bất công và bất chính. Cuộc đời người ky-tô hữu phải để Chúa làm chủ linh hồn và thân xác mình, đừng để những lạc thú làm mê hoặc lòng người. Hãy bước theo Chúa trong tin yêu phó thác. Hãy buông mình trong vòng tay quan phòng của Chúa để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta luôn chọn Chúa làm gia nghiệp, luôn sống khó nghèo để tin mừng được loan đi khắp cùng trái đất. Xin cho từng người chúng ta luôn sống thanh thoát trước những mời gọi của danh lợi thú để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa. Amen.
31. Theo Chúa cũng lắm hạng người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc xung đột đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem. Trở về thủ đô, Chúa Giêsu muốn đi qua xứ Samaria. Nhưng một làng đã không đón tiếp Ngài khiến cho Gioan và Giacôbê nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng ấy. Chúa Giêsu không chấp nhận. Ngài đã quở trách hai môn đệ được mệnh danh là con của thiên lôi này, và Ngài quyết định đi sang làng khác. Trên đường đi xuất hiện 3 người muốn theo Ngài làm môn đệ.
- Mẫu người thứ nhất: Theo Matthêu, đây là một luật sĩ. Chính đương sự tự giới thiệu và đề nghị được đi theo Chúa. Không những thế, ông còn tuyên bố mạnh mẽ sẵn sàng theo Chúa đến bất cứ đâu. Lời đề nghị này cho thấy lòng nhiệt thành nơi ông là rất lớn. Tuy nhiên, động cơ đi theo Chúa có lẽ là vinh quang, danh vọng và địa vị trần thế mà ông mong là Chúa Giêsu có thể mang lại. Ông thiếu sự thành tâm thiện chí, thiếu cả ý ngay lành.
Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh trước sự ảo tưởng của ông: “Cáo có hang, chim có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu.” Ở đây, ta thấy rằng Chúa Giêsu không chiêu mộ đồ đệ theo kiểu tiếp thị ngày nay… Ngài nói rất rõ những điều kiện khắt khe cho những ai muốn theo ngài. Theo Ngài là phải chấp nhận sự bấp bênh thiếu an toàn tiện nghi: “Con Người không có chỗ tựa đầu.” Ngài không đưa ra một bảo đảm nào cho cuộc sống hiện tại. Có chăng là Ngài chỉ bảo đảm cho cuộc sống mai sau, tức là sự sống đời đời. Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là biết chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đôi khi cũng thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản của cuộc sống.
- Mẫu người thứ hai: Khác với người thứ nhất, người thứ hai không tự đề nghị theo Chúa mà chính Chúa Giêsu đính thân ngỏ lời cùng anh: “Anh hãy theo tôi!” Thái độ của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu là gì? Anh xin được về chôn cất cha anh trước đã. Thực ra ở đây phải hiểu là không phải cha người này vừa chết; ông ta vẫn còn sống. Ý của anh là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi đã, rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo. Có thể nói anh ta là một người rất tốt, rất có hiếu. Nhưng đề nghị của Chúa Giêsu có vẻ như rất phủ phàng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”, tức là để cho người thế gian lo việc thế gian. Như vậy rõ ràng điều kiện thứ hai của người đi theo Chúa là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình, nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Tin Mừng phải có chỗ đứng trên hết, các giá trị Tin Mừng phải được đề cao tuyệt đối, sứ mạng loan báo Nước Chúa phải có tầm quan trọng và cấp thiết hơn tất cả các nghĩa vụ khác. Ngoài ra còn cần phải biết phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa.
- Mẫu người thứ ba: Chính anh tự nguyện xin theo Chúa Giêsu. Nhưng anh lại xin thêm một ân huệ: “Xin cho phép tôi về từ biệt gia đình tôi trước đã.” Thỉnh nguyện của anh ta xem ra chính đáng, nhưng thực sự anh ta vẫn còn dây dưa, chưa dứt khoát, anh vẫn còn để cho những chuyện tình cảm riêng tư ràng buộc, giống như kiểu đi tu rồi nhưng tạm thời xin về một thời gian để chia tay với người yêu. Lời đáp của Chúa Giêsu khiến ta nhớ lại chi tiết trong Bài đọc I. Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình cho Êlisê (áo choàng tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ). Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng với lời nài xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia. Dù sao đây cũng là một hình ảnh tuyệt đẹp về ơn gọi rồi.
Thế nhưng nếu xưa kia Êlia đồng ý cho Êlisê được phép về từ giã cha mẹ trước, thì hôm nay Chúa Giêsu lại không đồng ý. Điều kiện Ngài đưa ra là phải dứt khoát, hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi. Không bắt cá hai tay, không để những tình cảm trần thế (dẫu là tình cảm gia đình) chi phối và ràng buộc: “Cầm cày không ngoảnh lại.”
Theo văn mạch thì Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là thương khó tử nạn và phục sinh. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
Như vậy, điều kiện thứ ba mà Chúa dạy là phải chấp nhận quên đi quá khứ đời mình. Quá khứ đó có thể là những quyến luyến tình cảm phù du, những ước mơ trần tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa,… đồng thời phải dứt khoát với mọi thứ ràng buộc, vì người theo Chúa cần có một con tim không san sẻ để luôn biết lo cho vinh quang Nước Trời.
Tôi có thuộc mẫu người nào trong 3 mẫu người trên không? Có khi nào tôi thuộc cả 3 mẫu người cùng một lúc hay không? Có thể lắm. Đó là khi tôi theo Chúa mà thiếu thành tâm thiện chí, thiếu ý ngay lành; tôi theo Chúa mà không dứt khoát từ bỏ những ràng buộc trần thế; và nhất là chưa biết ưu tiên cho các giá trị Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các thứ khác ngài sẽ ban cho sau.” Những ai tin tưởng điều này và ưu tiên chọn lựa Chúa và các giá trị Tin Mừng trong đời sống, chắc chắn họ luôn xứng đáng là những người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, và chắc chắn sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn cho dư dật. Amen.
32. Muốn theo Chúa, cần có điều kiện gì?
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Một bài hát ta thường hát hoặc đã nhiều lần nghe, đó là bài: “Chúa là Gia Nghiệp” của nhạc sư Mi Trầm, trong đó có đoạn viết: “Chúa là gia nghiệp đời con. Xin Ngài bảo toàn thân con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy hạnh phúc, và chỉ nơi Chúa con tìm thấy được nguồn vui”. Qua bài hát này, gợi lại cho chúng ta tâm tình xác tín rằng: chỉ có Chúa là chỗ nương thân, chỉ có Chúa là nguồn hạnh phúc, chỉ có Chúa là Đấng cứu độ. Và, ta mong sao cho được thuộc về Chúa và được Ngài đưa ta đến bến bờ hạnh phúc.
Hôm nay thánh Luca kể lại ba mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và những người muốn theo Ngài cũng như những người Ngài muốn gọi họ. Tâm tư của Đức Giêsu cho những người muốn theo và được gọi này là đạt được hạnh phúc đích thực.
Tuy nhiên, muốn có được điều đó, hẳn phải đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là con đường từ bỏ, phó thác, dứt khoát, hy sinh và đôi khi phải chấp nhận lội ngược dòng với đầy tình tiết phưu lưu.
1. Đi theo Chúa là phải sống tinh thần phó thác tuyệt đối
Câu chuyện Tin Mừng được khởi đi từ một sự kiện: khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, bất chợt có một chàng thanh niên tình nguyện đến xin đi theo Ngài, vì thế, anh ta đã thốt lên những lời rất tâm huyết: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo" (Lc 9, 57). Đứng trước lời đề nghị được đi theo mình, Đức Giêsu đã không nói là thâu nhận hay không, mà chỉ thấy Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58).
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn đưa anh vào một lộ trình của niền tin và phó thác hoàn toàn cho sự an bài của Thiên Chúa; mặt khác, Ngài cũng muốn tiên báo cho anh về sự thiếu thốn, bấp bênh trên hành trình sứ vụ. Sự phưu lưu này không có nghĩa là làm cho anh hoang mang về con người và sứ vụ cứu độ của Ngài, mà là giúp cho anh nhận định thật rõ, để anh thấy trước được những khó khăn của sứ vụ. Khi nói cho chàng thanh niên này như vậy, Đức Giêsu muốn báo cho anh ta biết sứ vụ và cuộc sống của Ngài không giống như những vị lãnh đạo khác, mà là một Đấng Mêsia khiêm tốn, từ bỏ sang giàu, quyền lực. Sống nghèo khó và vâng lời Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối.
Vì vậy, nếu anh thanh niên này muốn theo, thì cũng phải đón nhận cuộc sống như Ngài đã sống. Một cuộc sống mà theo lối nói của Việt Nam thì: “Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”.
2. Theo Chúa là lo tìm Nước Thiên Chúa trước hết
Khác với trường hợp thứ nhất, lần này Đức Giêsu chủ động lên tiếng gọi một người thanh niên: "Anh hãy theo tôi!" (Lc 9, 59). Ngài muốn anh ta lên đường với Ngài để loan truyền Nước Thiên Chúa, để cùng Ngài sống chứng tá cho Nước Trời. Đứng trước lời mời gọi này, chàng thanh niên đã đặt ra cho Đức Giêsu một điều kiện, đó là: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã" (Lc 9, 59), rồi đi theo Ngài sau. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận, Ngài đã phủ nhận thái độ đó và coi là không xứng hợp với tinh thần tông đồ, nên Ngài đã nói: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa" (Lc 9, 60).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài cho anh ta thấy rằng: thời điểm này và ngay tức khắc, anh hãy theo tôi để loan báo Triều Đại Thiên Chúa cho những người chưa biết, vì đây là sứ mạng quan trọng nhất, cấp bách, vượt lên trên mọi tình cảm tự nhiên của con người. Ngài không chấp nhận sự lần lữa và kèo nèo của một người môn đệ. Sứ mạng loan báo Tin Mừng là gian nan khốn khổ, đòi buộc phải hy sinh, phải từ bỏ, phải mau mắn… Vì thế, không thể chấp nhận một con người có thái độ trì hoãn.
3. Muốn theo Chúa: phải có thái độ dứt khoát
Đi xa thêm một chút nữa, Đức Giêsu lại cất tiếng gọi một người khác đi theo Ngài. Khi được gọi, người thanh niên này thưa: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã" (Lc 9, 61). Người thanh niên này quả thực cũng muốn theo Chúa, nhưng anh ta muốn xin Đức Giêsu cho lui lại ít thời gian nữa, để anh ta lo giàn xếp chuyện gia đình… Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (Lc 9, 62). Qua câu nói này, Đức Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Cũng vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình… Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.
4. Còn chúng ta thì sao?
Khi đọc bài Tin Mừng này, hẳn mỗi người chúng ta đều đặt ra cho mình một câu hỏi: chúng ta có được Thầy Giêsu gọi không? Điều kiện của Ngài đặt ra cho chúng ta thời nay là gì?
Trước tiên, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, được tháp nhập vào dân của Chúa, được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Cha. Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, chết đi cho con người cũ với những tham sân si, và mặc lấy con người mới để chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng như ngọn nến cháy sáng. Đây là ơn gọi căn bản của mỗi chúng ta.
Thứ đến, vào một thời điểm nhất định, mỗi người đều có một lựa chọn cho bậc sống của mình. Người thì xây dựng gia đình; người thì đi tu. Hai con đường. Hai ơn gọi. Nhưng đều chung một sứ vụ là loan báo Tin Mừng và đi tìm hạnh phúc đích thực.
Thật vậy, nếu là một người chồng mẫu mực; một người vợ thủy chung; một người con hiếu thảo; một đời tu trung thành, thánh thiện... Thì đây, chính là đời môn đệ tuyệt hảo khi chúng ta thuộc về Đức Giêsu và đáp lại lời mời gọi của Ngài để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống gương mẫu của mình. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Biết từ bỏ ý riêng để thánh ý Chúa được thể hiện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác vì phần rỗi của họ như Chúa khi xưa. Amen.
33. Không nhìn trở lại - McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI ĐÀNG SAU
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor kể lại một cách sinh động cái đêm mà sau cùng ông đã quyết định trở thành một nhà văn. Ông đã mất việc làm trong ngành đường sắt ở Great Southern Railway và không có tiền. Những người láng giềng nhìn ông như một tên khùng vô tích sự. Tuy nhiên, ông đã trình ra trước công chúng những điều ông đã viết:
“Hành động tin tưởng hy vọng quan trọng đến nỗi bằng cách nào đó, ở nơi nào đó, tôi muốn chứng tỏ tôi không điên cũng không vô tích sự; bởi vì giờ đây tôi nhận ra rằng tôi phải trả giá cho mọi sự, và không được quay đầu lại đàng sau. Khi còn là những cậu bé, chúng tôi đến bức tường bao quanh một vườn cây ăn quả, có vẻ quá cao khó mà trèo qua được, chúng tôi cởi mũ lưỡi trai ra và ném chúng qua bức tường và rồi không có chọn lựa nào khác hơn là phải đi theo chúng. Tôi đã ném cái mũ qua bức tường đời tôi và tôi biết rằng tôi phải đi theo nó, bất cứ nơi nào mà nó rơi xuống”.
Trong Tin Mừng, một cách nào đó, Đức Giêsu đã đối xử tương tự với ba người muốn trở thành môn đệ của Người. Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Người nêu bật sự cần thiết phải cam kết dấn thân và nói rằng không thể quay đầu nhìn lại đàng sau. Nếu bạn muốn cày một luống cày thẳng, bạn phải tập trung chú ý công việc bạn đang làm, không để bị phân tâm. Nếu bạn cứ quay đầu nhìn lại đàng sau, bạn sẽ không làm tốt công việc. Bạn cần phải có sự dâng hiến và cam kết. Nếu bạn bắt đầu công việc như thế, thì bạn toàn tâm toàn ý với công việc ấy.
Mọi người chúng ta đều tra tay cầm cày, không cày này thì cày khác. Thanh niên thì bắt tay vào việc học… vợ chồng thì bắt tay vào cuộc hôn nhân… linh mục thì bắt tay vào tác vụ… còn có thể kể thêm nhiều nữa. Và khi được rửa tội, chúng ta tra tay vào một cán cày khác –đi theo Đức Kitô, hoặc gia nhập và hàng ngũ các môn đệ của Người.
Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta?
Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ có một sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ điệp là: Đừng quay đầu lại; cũng đừng nhìn lại đàng sau.
Bài đọc một cho thấy Êlisê đã nghe theo lời gọi của Êlia như thế nào. Sự đáp lại của ông thì toàn diện, và bằng việc giết bò, đốt cày ngăn cản mình quay về đời sống cũ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy gương mẫu tốt nhất trong chính Đức Giêsu. Người hướng đến Giêrusalem dù biết rằng sự loại trừ, phản bội và cái chết đang chờ đợi Người ở đó. Người không muốn đào thoát khỏi con đường đó. Người đã đem lại một gương sáng cho các môn đệ của Người về loại dâng hiến mà Người được đòi hỏi.
Loại dâng hiến ấy là một thách đố lớn. Nó có thể dễ dàng lúc khởi đầu. Nhưng để giữ được sự kiên định, chúng ta cần có ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng này sẽ giữ chúng ta trung tín với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta kiên trì trên con đường đã chọn, bền bỉ trong nhiệm vụ đã chọn. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu được niềm vui của người tận hiến và đến thời gian thuận lợi, chúng ta thấy mình đã phù hợp với Nước Trời.
Suy Niệm 2. GIỮ LÒNG TRUNG TÍN
Viktor Frankl, người đã trải qua ba năm dài ở các trại cải tạo Auschwitz và Dachau, kể lại câu chuyện sau đây. Là một bác sĩ, ông dành phần lớn thời gian để săn sóc cho các tù nhân bị bệnh hấp hối trong trại. Khi chiến tranh gần chấm dứt, ông cùng một bạn tù lên kế hoạch để trốn trại.
Ông bắt đầu thu thập một ít vật dụng: một bát đựng lương thực, một đôi găng tay bị rách, những ghi chú cho một cuốn sách mà ông hy vọng sẽ viết ra. Rồi ông nhìn một lần cuối cùng những bệnh nhân của ông đang nằm trên những tấm ván dài bằng gỗ mục ở mỗi góc của căn lều. Ông bước đến bên một người đàn ông sắp chết, Frankl cố che giấu hành động chạy trốn của ông. Nhưng người đàn ông không bị đánh lừa. Và một giọng nói buồn rầu, mệt mỏi vang lên: “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?”. Frankl chối bỏ điều đó. Nhưng những lời “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?” ngắt lời ông và lên án ông. Sau khi đi hết một vòng, ông trở lại với người đàn ông. Một lần nữa, ông được đón chào bằng một cái nhìn tuyệt vọng chiếu thẳng vào ông. Ông cảm thấy đã phản bội người đàn ông ấy. Thình lình ông quyết định nắm lấy số phận trong đôi tay mình. Ông chạy ra khỏi căn lều và nói với người bạn ông hãy ra đi đừng đợi ông nữa. Ông sẽ ở lại với các bệnh nhân. Lập tức cảm giác bất hạnh của một kẻ phản bội rời bỏ ông. Và ông nói rằng cho dù ông không có ý niệm gì về những ngày phía trước đưa ông đến đâu, ông có được sự bình an nội tâm mà trước đó chưa bao giờ ông cảm nghiệm. Và ông vẫn còn sống khi được giải thoát khỏi trại cải tạo.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với việc loan báo Đức Giêsu cương quyết tiến về Giêrusalem. Người biết rõ điều đang chờ đợi Người ở đó –loại bỏ, phản bội, và cái chết. Nhưng đối với Người, không có việc quay đầu lại. Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ mang ơn cứu độ đến cho các em trai, em gái của Người. Người không có chọn lựa nào khác.
Karen Blixen (tác giả cuốn Out of Africa) nói: “Có lẽ luôn luôn có một lúc trong đời khi vẫn có hai khả năng để theo đuổi và một lúc khác khi chỉ còn có một khả năng. Vào lúc cuối cùng này, tôi đã đốt những chiếc thuyền của tôi và sau đó, không còn con đường để rút lui”. Đức Giêsu đã đạt đến điểm đó.
Với những người muốn trở thành môn đệ của Người, Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay lại nhìn đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Điều này đi ngược với sự cam kết và dâng hiến với nhiệm vụ đã chọn. Lúc khởi đầu, nhiệm vụ ấy có thể dễ dàng. Nhưng với năm tháng đi qua, những khó khăn gia tăng. Những công việc đều đặn mỗi ngày lấy đi sự kiên trì. Chúng ta bắt đầu nhìn lại đàng sau. Trong những lúc khó khăn chúng ta dễ dàng không giữ những điều mà chúng ta đã hứa trong những lúc vui tươi hơn. Một cái chảo càng mau nóng thì cũng càng mau nguội. Ngày này, chúng ta sống trong thời đại “ăn xổi ở thì”.
Lời trung tín không phải là một con đường dễ dàng. Đức Giêsu không giấu giếm điều đó, với các môn đệ của Người. Người khuyên chúng ta sống trung tín và chính Người nêu gương sáng cho chúng ta và hứa sẽ giúp đỡ chúng ta.
Đức Chúa vẫn còn kêu gọi người ta hôm nay và vẫn còn có những người đáp lại. Theo Đức Kitô có nghĩa là gì đối với một con người bình thường? Nó có nghĩa là được kêu gọi làm người Kitô hữu ở nơi bạn sống và trong nghề nghiệp bạn đã chọn. Có nhiều cách để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Trong lúc ban đầu, ơn gọi là để trở nên một môn đệ hơn là một Tông đồ.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Dostoyevsky kể lại câu chuyện một thiếu niên bị cha cậu đưa ra khỏi thành phố. Khi còn trẻ, cậu có nhiều mơ ước và hy vọng về một đời sống mới đang mở ra trước mắt cậu. Tuy nhiên, không lâu sau, cậu có được bài học khắc nghiệt về thực tế. Họ dừng lại một quán trọ để nghỉ ngơi, giải khát. Trong lúc môt viên chức của chính phủ bước vào và nốc một cốc rượu Vốt-ka. Rồi ông ta chạy đến chiếc xe ngựa và không một lời giải thích, nhào vô người đánh xe ngựa nghèo nàn, bất hạnh là một anh nông dân và đấm anh này túi bụi. Rồi ông ra lệnh cho người đánh xe ngựa cho xe đi. Người đánh xe đáp lại bằng cách quất cái roi vùn vụt trên lưng mấy con ngựa với hết sức lực. Vừa hoảng sợ vừa đau đớn, những con vật chồm lên kéo chiếc xe chạy lao tới.
Bạo lực nuôi dưỡng bạo lực. Nhưng Đức Kitô thách đố chúng ta đáp trả bóng tối bằng ánh sáng, đáp trả điều xấu nhất nơi người khác bằng điều tốt nhất trong chúng ta. Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều xấu mà không làm thêm điều xấu trong quá trình ấy.
34. Lên đường với Ngài - R. Gutzwiller
Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ Ngài, vì họ muốn theo gương Ngài khăng khít hơn. Họ cảm phục Ngài đức độ cao dầy, vì giáo huấn trong sáng, vì những phép lạ kỳ diệu, vì sức mạnh việc Ngài thực hiện, và vì dự định quả cảm của Ngài. Họ nôn nóng và tỏ ra sẵn lòng theo Ngài, lên đường với Ngài.
Người thứ nhất.
Anh tỏ ra dứt khoát, hết sức sẵn sàng ‘tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu’. Anh muốn theo Ngài bất chấp nghịch cảnh, hy sinh tất cả, dù hoàn cảnh nào chăng nữa. Thật là tiếng đáp trả quyết liệt, vô điều kiện.
Nhưng chắc là anh còn ảo tưởng, nên Đức Giêsu khẳng định mạnh mẽ: ‘Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu’.
Bình thường, ai cũng thích một nơi ăn chốn ở an toàn, thật bảo đảm, nơi họ được tự do định đoạt mọi chuyện, tha hồ thoả mãn nhu cầu riêng, được sống ‘hết sức thoải mái’, muốn làm gì thì làm, còn mặc ai nấy sống. Dù ở nơi tầm thường, dù chỉ là một túp lều tranh sập sệ, nhưng có tự do và thoải mái vẫn hơn.
Nhưng đi theo Chúa Kitô không đem lại cho ta thứ tình cảm an toàn ấy. Đức Kitô vốn lang thang, nay đây mai đó. Ai quyết chí theo và vững tâm phục vụ Ngài ắt phải như Ngài không đóng đô ở đâu cả, không ham lối sống an cư lạc nghiệp. Có tiếng mời gọi, tức khắc cất bước lên đường, dứt khoát cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nơi an toàn của ta ở bên kia thế giới. Nơi nương ẩn của ta đặt ở nơi Chúa. Và an bình thư thái thực sự lại thuộc về đời sau.
Không thể như con chồn được: chọn hang sâu hốc hiểm làm nơi an thận bình phận: thù bất nhập, mà an toàn khỏi mọi thời khí độc hại. Cũng không thể như con chim tự làm cho mình một tổ ấm an lành. Bởi vì đời sống luôn có những giông bão nổi lên, tàn phá và làm tan những chòm cây an toàn đã khổ công xây dựng cho riêng mình thay vì cho những người khác. Theo gương Đức Kitô, bước đi theo Ngài, có nghĩa là hiến thân cho con người và sống trong sự bấp bênh.
Người thứ hai
Anh không tự quyết theo Chúa, song được Ngài mời gọi ‘hãy theo Ta’. Anh thưa: ‘xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’.
Theo đó, vấn đề không chỉ là việc chôn cất cho bằng anh tự cho rằng mình còn phải có trách nhiệm với cha mình và vì tình cốt nhục mình phải ở lại phung dưỡng cha già đến ngày ông mất. Khi ấy anh mới sẵn sàng theo. Điều này cũng tự nhiên thôi; có lẽ, còn thuộc về bản chất tốt của người Công giáo nữa.
Dù sao, ta không thể để song thân lâm cảnh cơ cực. Phải để ý đến anh em và phụ giúp gia đình, bỏ đi như vậy là không được. Vì công cha nghĩa mẹ, phận làm con là phải đáp đền. Tuy hôn nhân là một bí tích, gia đình là cơ cấu do Chúa an bài. Hơn nữa Đức Kitô đã chẳng sống ba mươi năm tại Nagiarét và thánh hoá gia đình đó sao?
Tất cả thật là chí lý, vậy sao Đức Giêsu lại nói ‘để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa’.
Thiên Chúa là Tôn sư tối cao. Ngài đã cất tiếng mời gọi thì phải đáp lại dứt khoát. Yêu sách của Ngài phải được ưu tiên hơn mọi nhu cầu khác. Luật Chúa phải sáng chói hơn hẳn luật con người. Ơn gọi trên cao đòi tha phải tích cực đáp trả vô điều kiện.
Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công việc Cha con sao?’. Ngài không thể khép vào thế giới bé bỏng Nagiarét nhưng thuộc về vương quốc bao la của Cha Ngài.
Ai muốn rao giảng nước Thiên Chúa ắt phải từ bỏ vợ con và gia đình. Phải có một tâm hồn quảng đại và đôi tay thong dong, không bị ràng buộc bởi bất cứ một trở lực nhân loại nào. Phải hy sinh cái thế giới gia đình, tuy đẹp nhưng nhỏ bé và phấn đấu cho cái vũ trụ lớn lao là nước Thiên Chúa. Lời mời gọi của Chúa Kitô là một lời động viên. Ai đã dứt khoát dấn thân phục vụ Thiên Chúa, không thể để mình dan díu với những gì thuộc thế giới chết chóc được.
Người thứ ba.
Người này xem ra đắn đo hơn. Anh phát biểu sự ưng thuận của anh với điều kiện: ‘Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về từ biệt gia đình trước đã’. Như vậy, anh ta đã sẵn sàng chưa? Hẳn là chưa. Anh tạm hoãn quyết định của anh. Trước khi dứt khoát, anh còn có việc khác phải làm: anh xin được trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để cáo từ cha mẹ và thân thuộc.
Qua đó, ta thấy có chút mơ mộng và tình cảm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại cách quả quyết: ‘Kẻ vưà tra tay cầm cày vừa ngó lại sau, không xứng đáng với Nước Thiên Chúa’. Ta thấy ngay một lối sắp xếp giả tạo. Theo Chúa Kitô không phải là nhìn lại phía sau mà nhìn phía trước, cứ nhắm Đấng kêu gọi mà tiến bước, cứ dõi theo mục tiêu của con đường ta đi qua. Tình cảm sẽ làm tê liệt. Cứng đầu cứng cổ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc theo Chúa. Chúa là tôn sư, Ngài đòi ta phải hy sinh trọn vẹn, nguyên tuyền và vui vẻ sẵn sàng.
Ai muốn đồng hành với Ngài, phải có quyết định gan dạ và chấp nhận dặm trường. Ai dừng chân ở mỗi khúc quanh để ghi nhớ những hình ảnh vừa đi qua, ngoái cổ nhìn lại, thì chính họ sống bằng quá khứ hơn là tương lai; họ không hề biết dặm trường hiểm nguy. Nếu mỗi chặng đường đều có sẵn một chiếc ghế dài thoải mái, hẳn họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi và chẳng đặt vấn đề theo Chúa nữa.
Cần lưu ý nữa là ba đòi hỏi của Đức Kitô thật phù hợp với đời sống gia đình. Với người này, Ngài nói phải từ bỏ cuộc sống an toàn của tổ ấm; với người kia, sẽ chỉ ở lại nhà cho đến lúc anh có thể tự thoát khỏi những ràng buộc mà không phẫn nộ. Và người thứ ba sẽ hành động mà chẳng chú ý gì đến gia đình cả.
Nếu cùng một vấn đề được đề cập tới trong ba câu đáp thì ắt không phải do tình cờ ngẫu nhiên. Cha mẹ và thân thuộc dễ nghĩ rằng mình được quyền định đoạt theo quyền lợi mình. Họ không ngừng phẫn nộ khi một người trong họ nghe theo tiếng Chúa từ bỏ gia đình cất bưóc ra đi. Có nhiều cha mẹ, anh chị em không thông cảm nổi mỗi khi có người con trai hay gái theo tiếng gọi ấy. Nhưng những người con này vẫn đành chấp nhận… Thiên Chúa lớn lao hơn.
Khi Ngài đặt tay trên ai thì người này hoàn toàn thuộc về Ngài. Không có chuyện chia sớt, gây tổn hại. Rõ ràng từ bỏ là ray rứt, chia lìa là khổ đau, Chúa diễn tả minh bạch. Chỉ có một cách giải quyết: Ai muốn đi với Ngài, phải thành tâm theo Ngài. Và dứt khoát chỉ theo một Thày. Đó là lý do môn đệ phải dự phần vào sự đơn độc của Ngài.
35. Điều kiện căn bản để theo Chúa
Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là những nhà truyền giáo của Đức Bác Ái, Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã là nữ tu khấn trọn của dòng các nữ tu Côlôrentô và đang sống an nhàn, tiện nghi của một giáo viên trường trung học tại Calcutta, nhưng bỗng chị như cảm thấy sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, từ bỏ nếp sống an lành đang có để ra đi đến một nơi khác, dấn thân phục vụ người nghèo nhiều hơn.
Trong tập sách có tựa đề là: “Mẹ Têrêxa thành Calcutta” hay “Cây Viết Chì Trong Tay Thiên Chúa”, kể lại giây phút thay đổi tận căn này trong cuộc đời của Mẹ Têrêxa. Đó là vào sáng ngày 01/08/1946, Mẹ Bề Trên cộng đoàn các nữ tu Côlôrentô nhận được bức thư của Đức Giáo Hoàng Piô XII giải lời khấn cho chị nữ tu Maria Têrêxa để được tự do ra đi theo tiếng gọi mới của Chúa. Phản ứng của mọi người lúc đó là ai nấy đều ngạc nhiên không biết mình có làm gì gây phiền cho chị Maria Têrêxa hay không để chị phải ra đi như vậy. Mọi người đều khóc khi phải chia tay chị Têrêxa, vì thật sự chị được mọi người trong cộng đoàn yêu mến.
Phần chị Maria Têrêxa sau khi nhận được bức thư thì chị rất bình tĩnh và nói một câu vắn tắt: “Bây giờ tôi có thể đi đến xóm nghèo”. Lúc đó chị Maria Têrêxa Calcutta đã phải cương quyết, dứt khoát lắm để có thể bỏ lại mọi tiện nghi vật chất đang hưởng và mọi tình thân thương của cộng đoàn. Sách tiểu sử của chị sau này ghi lại rằng, chị ra đi khỏi cộng đoàn với đôi chân không, hành trang của chị là một sâu chuỗi, một vé xe lửa và năm đồng Rubi trong túi, chị đã dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo Chúa trên con đường Chúa muốn.
Mẹ Têrêxa ra đi bắt đầu công việc phục vụ người nghèo với năm đồng Rubi trong túi, một món tiền không đủ sống cho một ngày bình thường, Mẹ đã thực hiện tinh thần theo Chúa như được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay.
Sự dứt khoát, nhất là quyết ra đi như Mẹ Têrêxa mà trong túi chỉ có năm đồng tiền là điều mà Chúa muốn những ai theo Ngài phải thực hiện và từ bỏ những cái đang quyến rũ hay níu kéo chúng ta trở lại phía sau, không tiến lên theo Chúa trọn vẹn hơn. Chúa có phải là người tôi yêu mến nhất hay không?
Truyện cổ Hy Lạp có kể lại câu chuyện của vua Ả rập lên đường chu du khắp nơi, với đoàn tùy tùng đông đảo và những con lạc đà chở theo nhiều của cải phân phát cho dân chúng; dĩ nhiên có nhiều đầy tớ theo phục vụ nhà vua. Khi đi được một ngày đàng, nhà vua dừng lại phân phát của cải cho dân nghèo và chỉ giữ lại một ít của cải cho đoàn tùy tùng rồi tiếp tục lên đường. Một số những người theo phục dịch nhà vua không tiếp tục cuộc hành trình theo nhà vua qua sa mạc nữa, nhưng dừng lại để nhận những thùng lương thực mà nhà vua để lại phân phát cho dân chúng.
Đi qua nửa sa mạc, nhà vua truyền dừng lại và để lại những thùng đựng vàng, bạc, châu báu mà ban phát rồi nhà vua tiếp tục lên đường. Nhưng lần này thì hầu như tất cả những người theo nhà vua đều ở lại để chia nhau những thùng vàng ngọc châu báu, ngoại trừ một người phục vụ duy nhất đi theo, dù nhà vua không còn gì để phân phối cho nữa. Lấy làm lạ, nhà vua quay lại hỏi anh ta: - “Sao nhà ngươi theo ta mà không ở lại để chia những thùng của cải ta để lại đó?”. Người phục vụ trả lời: “Thưa nhà vua, con theo nhà vua vì lòng yêu mến kính phục nhà vua chứ không phải vì tiền bạc giàu sang, nhà vua là tất cả của con”.
Trong cuộc đời ta có bao giờ ta đã thưa với Chúa như vậy chưa? Lạy Chúa, con muốn theo Chúa vì yêu mến Chúa chứ không phải vì điều gì khác, có Chúa là phần gia nghiệp của con thế là đủ cho con rồi. Khi dấn bước theo Chúa, trong niềm sốt sắng chúng ta hân hoan dâng bài ca: “Chúa là gia nghiệp đời con”, lúc đó xem ra như không còn gì phân lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa. Thế nhưng tại sao với thời gian tình yêu của ta đối với Chúa bị nhạt dần, bị phai mờ đi vì những thử thách, vì những bám víu, vì những mưu toan lo cho bản thân mà chối bỏ Chúa, chối bỏ không dấn thân sống sứ điệp của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại một số điều kiện căn bản để sống theo Chúa: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi”. Đây là mộ phản ứng nồng nhiệt, tình cảm, nhưng Chúa Giêsu cảnh tỉnh anh về cuộc sống theo Chúa là không có sự an toàn êm ả trong một căn nhà êm ấm đâu, mà phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, kể cả những gì con người tự nhiên có quyền hưởng. Chúa muốn chúng ta phải có thái độ dứt khoát theo Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài và vì Ngài mà thôi. Chúa sẽ bù lại gấp trăm nhưng theo cách thức mà Chúa muốn, theo ý Chúa an bài, chứ không phải theo ý riêng của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được dứt khoát theo Chúa cho đến cùng. Amen.
36. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa Nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là: "Chúa cất tiếng gọi". Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn: "Hãy theo Ta" (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: "Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài" (1 V 19, 20).
Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. "Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai" (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đến ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo: "Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông" (1 V 19, 19). Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.
Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói: "Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do" (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.
Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.
Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. "Hãy theo Ta" (Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa" (Lc 9, 59 - 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao. Nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.
Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là vượt qua. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.
Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu "dứt khoát " lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: "Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu" (Gl 5,13).
Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng "kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài" (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời: "Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa" (x. Dt 10,7).
37. Hãy theo Thầy
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thánh sử Luca trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, đang khi trên đường hướng về Giêrusalem đã gặp một vài người, có lẽ là đang tuổi thanh xuân, họ hứa sẽ đi theo Người khắp nơi. Chúa Giêsu đã tỏ ra rất yêu sách đối với người bắt gặp dọc đường đến xin: "Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy" (Lc 9, 57), Chúa cảnh báo cho người ấy biết rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người, tức là Ðấng Mesia - không có chỗ gối đầu" (Lc 9, 58), nghĩa là không có một nơi thường trú, và ai đã chọn làm việc với Người trong cánh đồng của Thiên Chúa thì không được quay trở lại (x. Lc 9,57-58.61-2). Với một người khác, Chúa Giêsu nói: "Hãy theo Ta", và yêu cầu anh cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình (x. Lc 9,59-60).
Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã phán với chúng ta rằng: "Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất..." (Lc 9,23). Hôm nay tương tự như thế Chúa đòi hỏi tất cả: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa" (Lc 9, 62). Yêu cầu của Chúa Giêsu thật quá khắt khe, vì tất cả những điều người ta giữ thật rất tự nhiên và phù hợp với đạo lý gia đình mà bất ai làm người cũng phải phải có như "hôn chào cha mẹ" và nhất là "chôn cất mẹ cha". Còn gì tự nhiên và ý nghĩa hơn lòng biết ơn đối với người thân chúng ta như cha như mẹ, ấy vậy mà cử chỉ cuối cùng của tình yêu là "chôn cất cha" cũng phải từ bỏ.
Những đòi hỏi trên xem ra quá đáng, nhưng thực ra chúng diễn tả sự mới mẻ và ưu tiên của Nước Thiên Chúa hiện diện ở nơi bản thân của Chúa Giêsu. Nói cho cùng, tính cách triệt để bắt nguồn từ Tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Giêsu là kẻ đầu tiên đã vâng theo. Phàm ai từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân mình, thì đi vào một chiều kích mới của tự do, được thánh Phaolô định nghĩa như là "bước theo thần trí" (xc. Gl 5,16). Thánh Phaolô viết: "Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta", và ngài giải thích rằng hình thái mới của sự tự do mà Đức Kitô đã chinh phục cho chúng ta hệ tại việc "phục vụ lẫn nhau" (Gl 5,1.13). Tự do và yêu thương trùng hợp với nhau. Ngược lại, việc tuân theo tính ích kỷ dẫn tới hiềm khích và xung đột.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta suy nghĩ về cách chúng ta theo Chúa. Điều quan trọng là chúng ta phải biết theo Chúa với cách thức Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Giacôbê và Gioan vẫn chưa học được sứ điệp tình yêu và sự tha thứ nên các ông mới thưa cùng Chúa: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy chúng không?" (Lc 9,54). Các môn đệ thì Chúa mời gọi từ bỏ gia đình và người thân. Để theo Chúa Giêsu Kitô và thi hành sứ mạng chúng ta được trao phó, tất cả chúng ta phải thanh thoát khỏi những ràng buộc hầu xứng đáng với Nước Thiên Chúa (x. Lc 9,62)
"Hãy theo Thầy". Lời mời gọi trên của Chúa Giêsu vẫn thật cấp bách gửi đến mỗi người chúng ta. Theo Thầy, trở nên môn đệ Thầy để mở mang Nước Chúa. Kẻ đi theo làm tông đồ cho Chúa cần ý thức về sứ mạng của mình là truyền giảng Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể qui tụ những con người thuộc đủ mọi sắc tộc, màu da, tiếng nói, khác nhau về văn hóa thành một gia đình, lúc ấy mới có thể hàn gắn những vết thương đau bởi chia rẽ, khác nhau về ý thức hệ, bất bình đẳng kinh tế và những cuộc tấn công bạo lực đàn áp nhân loại cho đến hôm nay. Qua việc truyền giảng Tin Mừng, người tín hữu giúp mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau.
Theo Chúa Giêsu không chỉ có từ bỏ mà còn vác thập giá (x. Lc 9, 22). Từ bỏ cũng có nghĩa là từ chối nhiều điều kiện "thuận lợi " trong cuộc sống giúp thăng tiến bản thân. Khi lựa chọn bước theo Chúa Giêsu, như các Tông đồ, bỏ buông thuyền lưới, gia đình, nghề nghiệp. Con đường theo Chúa Giêsu không trải đầy nhung lụa mà là những gai nhọn và gian nan. Con đường đó dẫn lối về hạnh phúc cho những ai dám từ bỏ mọi sự để sống cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến với quyết tâm thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đó là Ơn Gọi cho những người bước đi theo Thầy Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra những tiếng gọi mời của Chúa, giúp chúng con bước theo và thực thi cách trung thành. Xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo hội luôn là tiếng gọi chúng con phải quan tâm để ý. Lạy Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương và là Mẹ chúng con, xin cầu cho chúng con. Amen.
38. Lên Giêrusalem
Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem, đó là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Thế nhưng, dân chúng ở đây thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét thật tệ hại, đã có từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn ở trong tư thế đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man và đẫm máu, nhất là khi người Do Thái có công chuyện phải đi ngang qua vùng đất này.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Vì phải ngủ qua đêm, nên Ngài đã sai Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị. Ngài hy vọng mọi sự được tốt đẹp, bởi vì toàn cõi Samaria đã biết đến danh tiếng Ngài. Làm gì mà họ lại không được nghe nói tới những việc lạ lùng Ngài đã làm ở Capharnaum và ở nhiều nơi khác.
Thế nhưng, chỉ một lúc sau, hai môn đệ được sai đi trở về, lòng đầy căm tức. Các ông nói:
- Thưa Thầy, nếu Thầy muốn, chúng con sẽ sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Sở dĩ như vậy, vì các ông đã bị họ từ chối, không cho được một chỗ trú ngụ qua đêm.
Chúng ta có thể tưởng tượng ra câu trả lời đầy mỉa mai của họ:
- Nếu Thầy các ông muốn lên Giêrusalem, thì hãy đi thẳng vào những làng mạc của dân Do Thái. Chúng tôi chẳng có liên hệ gì với ông ấy và cũng chẳng cần ông ấy làm phép lạ, bởi vì chúng tôi chẳng có người nào đau yếu bệnh tật.
Rồi họ lại còn đe dọa, khiến cho hai ông cảm thấy cần phải tường trình lại sự việc cho Chúa Giêsu được rõ. Họ đã không tuân giữ khoản luật về việc cho khách đỗ nhà, lại còn miệt thị dân Do Thái và coi thường đền thờ. Hành động như vậy phải chăng là đã đổ dầu vào lửa. Và hơn thế nữa, họ đã không đón tiếp Thầy mình, là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Như vậy, phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Elia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu đã thực sự đi ngược lại với lòng mong đợi của họ:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Ai sống tinh thần của Chúa sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập nát và không thổi tắt tim đèn còn khói.
Cho tới lúc bấy giờ, các ông có lẽ cũng chưa hiểu thấu được ý nghĩa của dụ ngôn về tên đầy tớ độc ác, được chủ tha cho món nợ khổng lồ, nhưng lại cư xử hà khác với người bạn mình.
Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác và thực hiện đúng như lời Ngài đã dạy:
- Nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con.
Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ hành động một cách nóng nảy và vội vã như các môn đệ. Nhìn thấy tội lỗi tràn lan và những kẻ chống đối Giáo hội không ngừng tìm mọi cách để bôi bác và hạ nhục Giáo hội, chúng ta cũng muốn sai lửa trời xuống tiêu diệt họ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ cũng muốn nói với mỗi người chúng ta:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Bổn phận của chúng ta là phải cứu vớt những kẻ sa ngã vấp phạm, là phải tìm kiếm những kẻ lầm đường lạc lối, là phải đem Tin mừng đến cho những người chung quanh bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng những hành động bác ái, là phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù.
Hãy bắt chước Chúa vì Ngài là Đấng nhân hậu, chậm bất bình và đầy lòng khoan dung.
39. “Hãy theo Chúa Kitô”
(Suy niệm của Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)
Theo Chúa Kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc cho đi một cách tốt hơn”.
Cách đây trên dưới 2000 năm, sau khi suy nghĩ cân nhắc, Chúa Kitô đã biết điều đang chờ đợi Người là quyết định lên Giêrusalem. Người biết lên Giêrusalem là sẽ phải chịu treo trên thập giá nhuốc nha, trong khi đó thì các môn đệ cứ tưởng rằng Người lên Giêrusalem để nắm vương quyền và đập tan thế lực ngoại bang Roma xâm chiếm. Người bình tĩnh tiến bước. Mãi về sau này các ông mới hiểu được sự bình tĩnh ấy là dấu chỉ của lòng can đảm. Người đi trước, thủ lãnh của tất cả những ai theo Người cũng sẽ can đảm chịu chết vì tin mừng hoạc vì công lý. Thầy làm gương để anh em cũng làm như vậy.
Chúa Kitô biết rằng mình phải đi chịu chết. Sau khi suy nghĩ chín chắn chính Người đã muốn biết cái chết mà người không cần phải biết và ngay cả cái chết dữ dằn. Chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa bước đi lên thành phố mà Người phải lãnh án tử hình như thế nào. Chúa Kitô can đảm, Chúa Kitô dũng cảm, Chúa Kitô kiên cường. Đó là mẫu gương Người để lại cho tất cả những ai muốn bước đi theo Người. Vì vậy theo Chúa Kitô, chính là: Chuẩn bị đương đầu với thất bại và thập giá
Hãy đọc lại bài phúc âm hôm nay:
Để đi từ Galilea đến Judea, cần phải qua Samaria, người samaria thường bị người Do Thái khinh bỉ.. Dù sao Chúa Giêsu vẫn sai một số môn đệ báo tin trước rằng Người sẽ đến đó. Nhưng khi đến, các môn đệ thấy người Samaria đóng sập của lại không thèm tiếp mình. Vì thế, họ trở về nổi giận lôi đình và thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa tù trời xuống thiêu huỷ thành này không?” Nhưng Chúa Giêsu quát mắng họ nặng lời. “Này, tụi con đừng có cái kiểu muốn đổi hướng đi mà thầy đã chọn: chiến thắng chỉ có được nhờ thập giá chứ không phải nhờ sức mạnh, nhờ tình yêu chứ không phải nhờ bạo loạn. Tụi con không hiểu đó là lối sống của Thầy ư?”.
Kitô giáo không phải là một con đường trải hoa hồng đón thưởng những ai say mê Đức Kitô. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo cho những ai yên phận không dám đi ngược dòng với thói đua đòi của môi trường chung quanh. Kitô giáo cũng không phải là một đảm bảo may rủi chống lại những nỗi buồn của cuộc sống.
Theo Chúa Kitô, là đi vào hiện tượng của thập giá: chấp nhận thất bại, chấp nhận trở nên điên rồ trước mắt người đời, chấp nhận nói những câu nói đi ngược dòng với trào lưu tư tưởng đương thời và từ chối vuốt ve quảng cáo và bôi trơn.
Theo Chúa Kitô là bắt đầu trở về trước khi muốn làm cho người khác trở về; chấp nhận trỗi dậy trước khi muốn người khác trỗi dậy. Theo Chúa Kitô là cậy dựa vào sức mạnh của tình yêu, là đi gặp gỡ anh em bằng chính sự tốt lành của Chúa Kitô.
Theo Chúa Kitô là bắt chước Chúa tôn trọng mọi người, không phải là giáng đòn chân lý bằng những tai vạ bất ngờ, nhưng bằng sự hiền lành như chim bồ câu, bằng sự nhẫn nại của người môn đệ biết rằng chính Thiên Chúa làm cho trở về nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần “gió muốn thổi đâu thì thổi”.
Trở lại bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu gặp một người sẵn sàng theo Chúa khắp nơi. Chúa Giêsu làm gì đối với anh? Người sẽ làm giảm sự nhiệt tình của anh: “Này bạn yêu quí, tôi phục thiện chí của bạn, nhưng bạn đừng bị mắc lừa. Nhất là bạn đừng đợi chờ tìm được một công việc béo bở, một đảm bảo vật chất nào đâu nhé”.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không muốn quyến rũ các tân binh của Người bằng những món lợi vật chất hoặc một sự danh tiếng nào. Kitô giáo không phải là một sự béo bở gì, một Tabor liên tục. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo cho những người yếu ớt và nhát đảm. Theo Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi liên tục của Phúc Am sống khó nghèo.
Bài Phúc Âm hôm nay còn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu mời một chàng thanh niên khác theo Người, nhưng anh này xin Chúa gia hạn: “Thầy biết rõ, cha tôi vừa mới qua đời… còn một số giấy tờ cần phải điều chỉnh lại… và cả gia tài, của hồi môn cần có thời gian để phân chia. Tốt hơn là tôi có mặt ở nhà khoảng 15 ngày hoặc một tháng thì càng tốt.” Không, Chúa Kitô không phải là một con quái vật không biết bổn phận của những người trong gia đình, nhưng trong bài phúc âm hôm nay, Người gửi cho anh một sứ điệp quan trọng: “Đúng, anh nghĩ đến cha anh là một việc đáng khen, nhưng anh thấy đó, cha anh đã chết, anh không thể làm được gì hơn nữa cho cha anh. Điều thúc bách anh bây giờ đó là tất cả những người còn sống đang chờ đợi Tin Mừng”. Đúng vậy Kitô giáo không phải là định cư trong những tiện nghi và tình cảm gia đình. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo của một Thiên Chúa nhu nhược và cho phép tất cả. Kitô giáo là một tôn giáo nâng đỡ, trợ lực và thức tỉnh người tín hữu và nói với họ rằng: Rao giảng tin mừng là công cuộc khẩn cấp. Khẩn cấp về giáo lý trong một thế giới bị vật chất hoá, khẩn cấp về quyền bình đẳng, khẩn cấp về tình yêu.
Vì thế, theo Chúa kitô là cần phải trao ban mạng sống mình như Chúa. Đối với một gia đình, theo Chúa Kitô là vượt qua đau khổ và sống đức tin nếu có một đứa con phải chết, là chấp nhận cho con gái vào dòng tu hoặc vui mừng cho con trai vào chủng viện làm linh mục để phục vụ Giáo Hội. Theo Chúa Kitô là sẵn sàng tứ chối mọi tương quan tình cảm đi ngược với chương trình của Thiên Chúa.
Trở lại bài phúc âm hôm nay, chúng ta thấy một nhân vật khác nữa. Anh say mê Chúa Kitô và nói với Chúa: “Con sẵn sàng theo Thầy ngay, nhưng thầy để cho con về nhà một thời gan để nhìn lại ngôi nhà tuổi thơ ấu của con, kỷ niệm của con và được ôm hôn mẹ một lần nữa. Elia, khi gọi Elise thay thế mình, đã chẳng cho phép Elise thăm lại người thân thuộc đó sao?” Chúa Kitô trả lời: “kéo dài tạm biệt chính là kéo dài chia ly. Nếu anh ra đi thì đừng hối tiếc gì và đừng muốn trở về với quá khứ của anh nữa”.
Đúng vậy, ktô giáo không phải là một lời cam kết chỉ phục vụ Chúa Kitô 3 năm thôi. Kitô giáo cũng không phải là một lời cam kết có điều kiện: “Lạy Chúa, nếu con thích, con sẽ theo Chúa. Bằng không, nếu sau này con sẽ quay lại với chọn lụa của con, Chúa sẽ tha lỗi cho con, vì con có thể sai lầm về vấn đề này”.
Theo Chúa Kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc cho đi một cách tốt hơn”.
40. Đường theo Chúa - Cố Lm Hồng Phúc
Thánh Luca dẫn nhập vào bài Phúc Âm hôm nay bằng một câu thật trang trọng nhưng cũng bi thảm: “Vì gần đến lúc Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Ngài cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
Chúa Giêsu như bị giằng co giữa hai cảm quan. Theo bản tính nhân loại, Ngài cảm thấy lo sợ vì “lên Giê-ru-sa-lem” là đi chịu chết và chết trên cây Thập giá, nhưng Ngài đã tự vượt thắng để tuân phục Thiên Ý của Đức Chúa Cha, đã sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Cuộc day dứt nội tâm này còn ám ảnh Ngài trong những ngày cuối đời và sẽ lên đến tột độ trong cuộc hấp hối dưới ánh trăng mờ của vườn Giêtsêmani.
Từ đây, mỗi tín hữu cũng có đoạn đường lên Giêrusalem của mình; là Kitô hữu, chúng ta phải vác Thập giá để đi theo Chúa Kitô.
Trên đường lên Thành Thánh, Chúa Giêsu đã gặp bốn sự kiện, gợi ý những bài học Chúa dạy chúng ta phải thực hiện khi lên đường theo Chúa.
Trước hết, Chúa sai một số môn đệ, trong đó có hai anh em Giacôbê và Gioan đi trước dọn chỗ cho Ngài và các môn đệ sẽ đến sau. Nhưng dân làng Samaria không chịu đón tiếp, khiến cho hai anh em “con của sấm sét” tức mình, đến xin Chúa cho quyền khiến lửa trên trời xuống thiêu rụi quân vô đạo ấy. Chúa Giêsu trả lời: “Con người đến không phải để giết mà để cứu chữa”. Chúa muốn dạy chúng ta rằng con đường theo Chúa không phải luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy người muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành, lấy tinh thần của Chúa hiền lành khiêm tốn, để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salesiô nói: “Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn là một xe dấm”.
Sau đó, Chúa gặp ba người đến muốn làm ứng viên đi theo Chúa, trở nên môn đệ. Người thứ nhất tuyên bố sẵn sàng xin đi theo Ngài mọi nơi. Chúa Giêsu đọc trong tâm hồn kẻ ấy và thoáng thấy ít nhiều vụ lợi nào đó, nên Ngài trả lời thẳng thừng để dạy cho những ai muốn theo Chúa: phải nhắm mắt tận hiến, không tìm một mối bảo đảm nào. Theo Chúa là từ bỏ một nếp sống có qui củ, là nhận lãnh mọi nghịch cảnh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có lấy hòn đá gối đầu”.
Người thứ hai xin theo làm môn đệ Chúa, nhưng xin được về lo tang sự cho thân sinh đã. Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần con, hãy đi rao giảng Nước Trời”. Chúa không bãi bỏ giới điều thứ tư, nhưng Chúa dạy rằng có những lúc phải đặt việc phụng sự Chúa trước, và trên hết (14, 26). Phải có can đảm cắt đứt mọi giây mơ rễ má để theo Chúa. Thánh Neron, tử đạo tại Sơn Tây, Việt Nam, trên đường xuống hải cảng Marseille để đi truyền giáo, đã cố tình tránh cha mẹ bà con ra tiễn tại sân ga. Nữ Thánh Chantal nước mắt tràn trụa bước qua con nằm chận cửa, không cho mẹ đi lập Dòng Thăm Viếng.
Với người thứ ba, có thái độ chần chừ, Chúa phán: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay mặt ngó lui, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã thực thi lời Chúa: “Quên phía sau mà lao mình tới trước, tôi nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi Chúa ban” (Phil. 3, 13-14).
Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của tôi.
Tôi luôn đặt Chúa ở trước mặt, tôi sẽ không phải nao núng.
41. Đi theo Thầy
Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo
Bài Tin mừng ngày hôm nay nói đến việc đi theo Đức Giêsu. Thế nhưng mở đầu bài Tin mừng lại đề cập đến sự kiện Đức Giêsu bị một làng người Sa-ma-ri từ chối đón tiếp. Điều đó báo hiệu cho thấy hành trình đi theo Đức Giêsu không phải là việc dễ dàng.
Thực vậy, người thứ nhất chạy đến thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Lời nói có vẻ dứt khoát, cương quyết. Thế nhưng Đức Giêsu lại trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Câu nói như một lời từ chối khéo léo! Vì sao Đức Giêsu lại làm giảm lòng nhiệt thành của anh ta như vậy? Có lẽ Người nhìn thấy bên trong sự hăng say đó là một sự bồng bột, cao hứng nhất thời. Câu nói của Đức Giêsu không hẳn là một lời từ chối cho bằng là một lời khẳng định. Người khẳng định thực tại mà chính Người đang trải qua và muốn anh ta ý thức rõ lời cầu xin của mình. Theo Đức Giêsu không phải để được một chỗ ở yên ổn, được bảo đảm lương thực hằng ngày, được theo Người đi giảng dạy và làm phép lạ cho người ta. Trái lại, theo Đức Giêsu là chấp nhận một cuộc sống bấp bênh, nay đây mai đó. Theo Người là bước vào cuộc hành trình cam go với nhiều rủi ro nguy hiểm. Đức Giêsu không từ chối anh ta nhưng mời gọi anh ý thức rõ việc theo Người trước khi quyết định.
Đó cũng là lời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta. Theo Đức Giêsu không phải là một quyết định nông nổi theo cảm xúc nhất thời nhưng là một lựa chọn đòi hỏi đắn đo cân nhắc. Đặc biệt là ý thức rõ con đường theo Đức Giêsu là con đường lắm chông gai, đòi hỏi người đăng trình phải luôn sẵn sáng đón nhận mọi nghịch cảnh.
Trường hợp thứ hai do chính Đức Giêsu chủ động mời gọi. Thế nhưng người ấy lại chần chừ, trì hoãn. Anh xin cho được “về chôn cất cha trước đã”. Điều đó không có nghĩa là cha anh vừa mất và anh cần chôn cất cha trước, nhưng nó có nghĩa là anh xin về phụng dưỡng cha, cho đến khi nào cha qua đời thì anh sẽ đi theo Người. Ý định của anh thì tốt vì anh muốn chu toàn bổn phận của người con trước đã, trước khi theo Đức Giêsu. Thế nhưng Đức Giêsu không đồng ý điều đó. Người không chấp nhận một sự nhượng bộ. Bổn phận đối với Thiên Chúa phải là bổn phận được ưu tiên hàng đầu. Ngay cả bổn phận đối với cha mẹ cũng không được xếp trên. Đó là một đòi hỏi dứt khoát.
Trong đời sống, nhiều khi chúng ta phải đắn đo suy nghĩ giữa hai sự lựa chọn: bổn phận đối với Thiên Chúa và các công việc khác. Chẳng hạn việc lựa chọn giữa đi lễ chiều Chúa Nhật với ở nhà xem một trận bóng đá hay đi gặp gỡ, hội họp với bạn bè; giữa việc dành một ít thời gian cho giờ kinh gia đình với việc xem một chương trình truyền hình; giữa việc sống theo lời dạy của Đức Giêsu với việc chiều chuộng thân xác buông theo một ham muốn dục vọng. Và còn rất nhiều sự lựa chọn khác nữa đòi hỏi chúng ta phải quyết định hàng ngày. Giữa những lựa chọn đó, ta có luôn ưu tiên cho công việc, bổn phận với Thiên Chúa?
Lại có một trường hợp khác, anh đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Anh muốn đi theo Đức Giêsu nhưng còn luyến tiếc gia đình nên xin về từ biệt gia đình trước đã. Trường hợp của anh rất giống với trường hợp của ngôn sứ Ê-li-sa (1V 19, 16-21). Nếu như trong Cựu ước, thầy Ê-li-a đã nhượng bộ, cho phép Ê-li-sa về thì ở đây, Thầy Giêsu cương quyết hơn nhiều. Thầy Giêsu đòi hỏi một thái độ dứt khoát, quyết liệt. Ngoái lại đàng sau, luyến tiếc quá khứ thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Lời mời gọi theo Chúa luôn đòi hỏi một thái độ mau lẹ, dứt khoát. Đi theo Đức Giêsu là hướng về phía trước, nơi chân trời tươi sáng đang vẫy gọi. Muốn vậy, ta phải gạt bỏ những gì thuộc con người cũ, con người của tính xác thịt, để mặc lấy con người mới của Thần Khí. Theo Đức Giêsu là không ngừng tiến lên phía trước để ngày một hoàn thiện hơn như Cha trên trời. Ước gì lời Chúa ngày hôm nay giúp cho ta nhìn lại quãng đường theo Chúa của mình để kịp thời sữa chữa và thích ứng cho phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu.
42. Theo Chúa.
Nếu chỉ đọc lướt qua hay nghe sơ qua bài Tin Mừng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên: không hiểu tại sao Chúa Giêsu lại có thái độ khắt khe đối với những người muốn theo Chúa như vậy? Tin Mừng kể lại trường hợp của ba người khác nhau.
Người thứ nhất,
Theo Tin Mừng Matthêu, là một kinh sư, tự thân hành đến xin theo Chúa. Anh phấn khởi và tuyên bố sẵn sàng theo Chúa khắp nơi, vì anh thấy nơi Chúa có thể thỏa mãn được những tham vọng của anh, một thứ tham vọng theo kiểu trần thế: giàu có, bảo đảm danh vọng, địa vị. Chúng ta hiểu như vậy là nhờ vào câu trả lời của Chúa. Chúa đưa ra điều kiện làm anh chưng hửng: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Còn Con Người không có chỗ tựa đầu:, nghĩa là Chúa cho anh biết: Chúa không có gì bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì nghèo đến nỗi còn thua con chim có tổ, con chồn có hang, và nghèo đến nỗi không có nơi dựa đầu, tức là không có mái nhà để ở. Chúa nghèo như thế đó. Theo Chúa anh cũng phải sống như vậy, anh có chấp nhận được không? Tin Mừng không cho biết anh ta có chấp nhận điều kiện của Chúa không? Tức là anh có đi theo Chúa không?
Người thứ hai,
Chính Chúa kêu gọi anh. Anh xin phép về nhà để chôn cất cha già rồi đến theo Chúa. Nhưng Chúa không chấp nhận. Chúa cho anh biết: chôn cất cha già là bổn phận cao quí, nhưng còn có một bổn phận cao quí hơn, đó là xây dựng Giáo Hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn. Vì thế, Chúa bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa”, nghĩa là hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn anh được ủy thác cho một sứ mệnh cao cả hơn, thì anh hãy đi theo Ngài. Tức là việc phụng dưỡng cha mẹ là cần, nhưng việc rao giảng Tin Mừng lại cần hơn, nên phải ưu tiên hơn. Tin Mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa không?
Người thứ ba,
Cũng như người thứ nhất, anh tự mình đến xin theo Chúa. Anh cũng khéo léo nối kết thêm một yêu cầu: xin về từ giã gia đình. Thật ra yêu cầu này cũng chính đáng, nhưng Chúa bảo anh: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Chúa đã dựa vào công việc người đi cày để trả lời cho người thứ ba này về điều kiện đi theo Chúa. Người cầm cày khi cày ruộng, thì luống cày phải thẳng, vì thế, không được ngoái cổ về đàng sau kẻo làm luống cày vênh vẹo, khiến cho đất không cày đều, làm cho đất không tốt cho hạt giống gieo xuống. Cũng vậy, người đã đi theo làm môn đệ Chúa phải có một thái độ dấn thân dứt khoát, không được do dự, ngập ngừng hay chần chừ khiến cho việc theo Chúa bị cản trở, tức là phải quay lưng lại với quá khứ và hướng mắt nhìn về tương lai. Một khi tâm hồn thanh thản, con người dễ dành trọn con tim cho Chúa và tha nhân. Tin Mừng cũng không cho biết người này có đi theo Chúa không?
Qua những tìm hiểu trên, có người đã thắc mắc: tại sao muốn theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa, phải chấp nhận từ bỏ nhiều thứ, kể cả những điều rất tự nhiên, rất hợp lý như vậy? Vì thế, nhiều người cho rằng: những điều Chúa dạy bảo ở đây chỉ hiểu về những người đi tu thôi. Nhưng theo các thánh Giáo phụ và các nhà giải thích Kinh Thánh, thì những điều này có thể áp dụng cho tất cả mọi tín hữu. Đúng vậy, chúng ta đã đi theo Chúa, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tất cả mọi sự, nhưng chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện tại lúc này, chúng ta có coi Chúa Giêsu và nước trời hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự không, hay chúng ta còn ngoái cổ lại đàng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa và nước trời? Chúng ta có thái độ dứt khoát và rõ ràng đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và tiếc rẻ tất cả?
Rồi theo Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với Tin Mừng, với giới răn của Chúa, chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ gì không? Như đời sống tội lỗi, thói hư tật xấu, những hành động gương mù, lòng độc miệng dữ, những ý nghĩ sai trái, những lời nói chua cay độc địa… chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ nhiều thứ không? Tóm lại, Chúa muốn những ai theo Chúa thì phải có thái độ dứt khoát và quảng đại.
Xin kể cho anh chị em câu chuyện mà thánh Gioan Bôscô thường kể để dạy cho thanh thiếu niên về lòng quảng đại: Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại và bảo hai ông cùng leo núi với Ngài. Dọc đường, Ngài bảo hai ông, mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một viên đá bỏ vào túi. Gioan, do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hỗn hển. Còn Phêrô, vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan: “Sao anh lại nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?” Chúa Giêsu nghe tất cả, nhưng Ngài thinh lặng. Khi lên tới đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành ra bánh mì. Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào trong bụng ông.
Lần khác, Chúa Giêsu lại cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan, bảo leo núi với Ngài một lần nữa. Lần này Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm lần trước, Phêrô liền đi tìm tảng đá lớn để vác theo. Đường xa, Phêrô phải cố gắng hết sức mới mang được tảng đá cồng kềnh lên đỉnh núi. Ông chờ đợi một phép lạ mà Chúa sẽ làm để tưởng thưởng ông. Thế nhưng, vừa lên tới đỉnh núi, Chúa chỉ nói với họ: “Nào chúng ta hãy ngồi lên tảng đá chúng ta vừa mang theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh đâu”. Phêrô cảm thấy xấu hổ. Ông thưa Chúa: “Thì ra Thầy đã chơi khăm con”. Nhưng Chúa Giêsu mỉm cười bảo ông: “Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại có tính toán và vụ lợi”.
Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta theo Chúa thế nào? Chúng ta cầu nguyện, chúng ta hy sinh hãm mình, chúng ta làm những việc từ thiện bác ái với thái độ và ý hướng thế nào? Chúng ta có đặt điều kiện hoặc trả giá với Chúa không? Xin mỗi người hãy suy nghĩ.
43. Theo Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại, việc Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem để nộp mình, để thi hành thánh ý của Chúa Cha. Trên đường đi, Ngài ghé vào thành Samaria, nhưng dân chúng không tiếp Ngài, cho nên các môn đệ nổi nóng, đòi xin lửa từ trời tiêu diệt họ. Nhưng, các môn đệ đã bị Chúa Giêsu khiển trách. Bởi vì, sứ vụ của Ngài đến không phải để tiêu diệt, nhưng để cứu vớt. Và đang khi đi trên đường, có ba người muốn xin đi theo làm môn đệ Ngài. Chúng ta không biết sau này, những người này có trở thành môn đệ của Ngài không, nhưng lời của Chúa, có vẻ như là điều kiện quá khắt khe cho những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài.
Theo Chúa phải trở nên nghèo khó.
Bởi vì, câu trả lời của Chúa cho người muốn biết Ngài ở đâu. Ngài cho thấy: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người thì không có nơi gối đầu”. Cuộc đời của Chúa sống nghèo khó, Ngài không lợi dụng quyền năng để làm giàu cho mình, để lo cho mình. Nhưng Chúa đã cứu giúp và dành cho người nghèo, kẻ đau khổ và tội lỗi. Khi mới sinh ra, Chúa đã chọn nơi nghèo nàn nhất để sinh ra, nơi hang bò lừa, sinh ra ở nơi chẳng xứng cho một người. Cho nên, Ngài đã đồng hóa với người nghèo, người đau khổ. Ngài cũng dạy các môn đệ, khi đi rao giảng, thì đừng mang theo gì. Người ta cho ăn thì anh em ăn những thứ đó. Chính cuộc đời của Ngài và các môn đệ Ngài, là sống nghèo khó, không tạo cho mình văn phòng, không tích lũy của cải dành riêng cho mình. Bởi vì, ai đến với Ngài, đều được đón nhận lời Chúa, được chữa trừ mọi bệnh tật, không một điều kiện, không đòi hỏi gì. Ngài và các môn đệ sống lay lắt, ngủ đường, ngủ chợ. Khi rao giảng rày đây, mai đó.
Theo Chúa, đòi phải từ bỏ.
Người thứ hai xin theo Chúa, nhưng muốn về chôn cha. Ngài bảo: “Hãy theo Ta, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Câu nói này có đi trái ngược với giáo lý Ngài dạy hay không? Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Ngài dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Còn trong Cựu ước thì nói, kẻ bất hiếu với cha mẹ thì đáng bị xử tử. Còn lời dạy trên đây Chúa không nghiêm khắc đến nỗi không cho người con về chôn cha. Nhưng có lẽ, người cha của chàng thanh niên đó đang bị đau nặng. Nhưng, đòi hỏi của Chúa, tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng, là điều cấp bách, còn hệ trọng hơn cả việc chăm sóc bệnh nhân nữa. Khi theo Chúa, thì phải biết hy sinh, phó thác cho Chúa, biết từ bỏ đi những quyến luyến riêng tư của mình, mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Trường hợp thứ ba, anh muốn về từ giã gia đình. Cũng vậy, Chúa không cấm việc từ giã người thân, nhưng Chúa muốn kẻ theo Ngài thì biết hy sinh, biết đáp trả lại ơn gọi là điều cần thiết hơn, quan trọng hơn. Cho nên, theo Chúa thì phải biết từ bỏ, từ bỏ những gì quyến luyến với mình, từ bỏ những cản trở để đến với Chúa, luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa “hãy theo Ta”. Theo Chúa, đáp lại lời mời gọi của Ngài, biết phó thác mọi sự cho Ngài. Dù có gặp nghèo khổ, dù có gặp những khó khăn hay thử thách, nhưng người môn đệ biết luôn trung thành với Ngài. Cho nên, muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, thì hãy vác thánh giá hằng ngày, để theo Chúa.
Theo Chúa, phải chịu thiệt thòi.
Mỗi người Kitô hữu đều là môn đệ Chúa. Chúng ta biết rằng, mình theo Chúa phải chịu nhiều thiệt thòi lắm! Thiệt thòi là bởi vì sống ơn gọi Kitô hữu thì phải lội ngược dòng. Tôi không được chiếm đoạt của người khác, tôi cũng không có quyền sống buông thả, chiều theo những dục vọng của tội lỗi. Tôi phải sống tha thứ, ngay cả cho kẻ thù. Còn bổn phận phải chu toàn đối với Chúa nữa. Thay vì bây giờ, tôi có thể lựa chọn ở nhà, để lai rai với bạn bè, có thể ngồi đánh bạc, hay tán gẫu với bạn bè khác hàng giờ ở các quán cà phê, thì tôi lại đến với Chúa, để tham dự thánh lễ, để nghe Lời Chúa. Anh chị em nghĩ coi, theo Chúa làm cho tôi bị hạn chế rất nhiều. Nhưng mà chính trong cái hạn chế đó, tôi biết tôi là ai, và tôi hiện diện ở cõi đời này để làm gì. Không phải là tôi chỉ biết tôi, sống cho tôi, lo cho tôi mà thôi, nhưng tôi còn có bổn phận đối với anh chị em sống chung quanh tôi nữa và tôi cũng phải có trách nhiệm với gia đình của mình với khu xóm. Sống tôn trọng người khác. Chính đời sống đó làm cho cuộc đời tôi trở nên có ý nghĩa, và có mục tiêu rõ ràng. Chính khi anh chị em và tôi đã là Kitô hữu, là môn đệ Đức Kitô, thì những cản trở đó, sự dấn thân đó không còn làm cho tôi mất đi tự do, mà trái lại, còn làm cho tôi có được tự do đích thực hơn nữa là đàng khác. Nếu tôi sống trong tự do của lề luật của Chúa thì lại càng làm cho cuộc sống này trở nên có ý nghĩa hơn, tốt hơn và không những tình yêu của Chúa lan tỏa trong tôi mà còn lan tỏa đến mọi người nữa. Cũng như trong Thánh vịnh 18 nói rằng: “luật pháp Chúa quả là chính trực, làm hoan lạc tâm can”. Cho nên, luật của Chúa chính là sự sống, là con đường dẫn ta đến với Chúa và anh chị em của mình, chứ không như sự chết thì dẫn người ta đến ngõ cụt.
Muốn trở nên môn đệ của Chúa, đòi hỏi ta phải vác thập giá hàng ngày để theo Chúa. Có nghĩa là biết chấp nhận sống nghèo như Chúa. Nghèo ở đây tức là mình biết sống chia sẻ cho anh chị em túng thiếu xung quanh mình, biết phục vụ, giúp đỡ anh chị em mình. Đó chính là sống nghèo khó thật sự là lời chứng sống động và hùng hồn nhất của người môn đệ Chúa Kitô. Hình ảnh những người muốn theo làm môn đệ Chúa hôm nay, còn là lời mời gọi của Chúa với chúng ta là hãy biết từ bỏ những rào cản, những gì nó gắn bó, nó thiết thân, thân quen với mình, đã cản trở, làm cho mình lỡ đi những cơ hội để theo Chúa… Những quyến luyến đó là gì? Đó là những ích kỷ, những kiêu ngạo, hận thù, ngăn cách ta đến với Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta, biết quí trọng ơn gọi làm Kitô hữu của mình, và sống đáp lại tình thương của Chúa dành cho mình.
44. Yêu thương để cảm hoá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rắng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
- Ngươi còn đứng đây để làm gì? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì? Ngươi không biết xấu hổ sao? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận một cách chản nản như sau:
- Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi. Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đến đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
- Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao? Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một thực tế bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác giác tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo cao siêu! (x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston, 2003, tr. 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ của Đức Giêsu qua trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Gioan và Giacôbê đã nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng Samaria chỉ vì dân làng không tiếp đón Thầy của mình.
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Mối hận thù đã có từ lâu đời, hai dân tộc luôn đối nghịch nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Ngài đã sai sứ giả Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy trò. Thế nhưng, hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận dữ:Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Êlia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ (2 V 1,10-12). Chúa đã nặng lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con. Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Samaria. Họ càng kinh ngạc hơn khi Chúa tuyên bố: anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào,vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nỗi khát khao hàng thế kỷ của dân Do thái là mong đợi một Đấng Messia giải phóng dân tộc, phục hồi sức mạnh trần thế của Israel. Chúa Giêsu thận trọng để không bao giờ đồng hoá với hình ảnh một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục…
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Satan trong sa mạc là khởi đầu một cuộc đấu tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa đã qưở trách Phêrô khi ông đóng vai trò Satan dụng tâm cám dỗ Ngài bỏ con đường cứu độ theo chương trình của Thiên Chúa: “Satan, xéo đi! vì tâm tư ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 8,32). Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ hoá bánh (Ga 6,5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu một dấu lạ nhãn tiền vì người ta muốn thử tài Ngài (Mt 12,38; Mc 8,11) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời (Lc 23,8). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ để hù doạ hay trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất bị quân binh vây bắt, một môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, Chúa liền truyền lệnh:”Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (Mt 26,52-54).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ được gửi đến mọi người, đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh người Mục tử tuyệt đẹp, bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, hân hoan mời mọi người chia sẻ niềm vui (Lc 15, 4-7). Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên (Ga 10,11). Nơi Ngài, sứ vụ Messia và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Giavê đã quyện lẫn với nhau, như Isaia đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi Tớ” (Is 52,13-53,12). Ngài là người Tôi tớ trung tín của Giavê ”bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”(Is 53,8); “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng”(Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Xuyên suốt dòng lịch sử, người Công Giáo Việt Nam sống Tin Mừng Chúa Giêsu bằng gương sáng bác ái đến nỗi đã giới thiệu được hình ảnh Đạo Công Giáo như “Đạo Yêu Nhau” cho những người đồng thời. Sống đạo là dựa vào sức mạnh của Thánh Thể và Lời Chúa, và thể hiện ra bên ngoài bằng những hành động bác ái yêu thương, khiêm nhường hy sinh. Sống đạo đúng mức cũng là chấp nhận lội ngược dòng. Sống đạo thẳng thắn cũng là chấp nhận phải thua thiệt so với những người khác. Sống đạo trọn vẹn cũng là một cách nào đó tử đạo hằng ngày.
Hình ảnh Đấng Thiên Sai đau khổ nơi Đức Giêsu diễn tả một cách thật hùng hồn điểm độc sáng của Kitô giáo: Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù doạ hay ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết (x.sđd tr 217).
Chúa Giêsu không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân tâm. Ngài dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giêsu không xây dựng giáo thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá. Chúa Giêsu đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Ngài đã phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao quý làm con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giêsu, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương hướng đến trọn lành.
Giữa một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, khuynh hướng cá nhân và hưởng thụ duy vật chất, chúng ta sống Đạo Yêu Nhau với lòng bao dung, nhân hậu, thắp sáng lửa Tin Mừng để trở nên ánh sáng, nên muối nên men cho cuộc đời.
45. Hãy theo Tôi
(Suy niệm của Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 9:51-62 khởi đầu phần thứ hai của Tin Mừng Luca.
Trước đây, Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng tại Galilêa. Người đã tỏ mình ra như là Đấng Cứu Thế, Đấng Kitô (9:18-24), Con Thiên Chúa.
Bây giờ, Người làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc thương khó do vai trò cứu thế của Người đòi hỏi.
Hành trình nầy bao gồm 10 chương (9:51-19:27).
Ở câu 19:27-28, Luca ghi nhận là Chúa Giêsu đã đến Bêthphagê và Bêthania, cạnh núi Cây Dầu. Từ đó Nguời sai hai trong số các môn đệ đi đem về cho Người con lừa con, để Người vào thành Giêsuralem và thi hành sứ vụ cuối cùng của Người trong thành nầy (19:28-31:38).
Hành trình lên Giêrusalem có thể chia làm ba giai đoạn, dựa trên ghi nhận “Người lên Giêrusalem” (9:51-13:21; 13:22-17:10; 17:11-19:27).
Trong phần đầu của giai đoạn một, Luca nói đến việc tuyển chọn và sai đi các môn đệ (9:51-10:24).
Đoạn 9:51-62 gồm hai đoạn kế tiếp nhau: - Câu chuyện khi đi ngang qua làng Samaritanô (9:51-56); - Những đòi hỏi nơi người theo Chúa (9:57-62).
Chúa Giêsu đã ở Galilêa để chữa bệnh và giảng dạy (x. 9:10b). Giai đoạn nầy đã hoàn tất. Sứ vụ của Người chuyển sang hướng khác là lên Giêrusalem (9:51-56).
Để đánh dấu việc khởi đầu nầy, Luca dùng cách nói trọng thể: “khi đã đến ngày” (x. Cv 2:1), “hướng mặt đi lên Giêrusalem”. Động từ “đi lên” và “mặt Người” (cc. 51-53) được dùng kết hợp với nhau cho thấy hành vi có tính cách quyết liệt và nhắm đạt đến đích. Anal#mpsis “đưa lên” vừa có nghĩa là “lên trời”, vừa là “ra đi”. Trong Kinh Thánh chữ nầy chỉ xuất hiện duy nhất ở đây. “Ngày của Chúa được đưa lên” có nghĩa không chỉ là ngày Người sẽ chịu chết trên thánh giá, mà còn là ngày Người được chỗi dậy và lên trời. Tất cả những sự việc nầy sẽ xảy ra cách liên kết với nhau.
Để đi lên Giêrusalem, họ phải đi ngang qua Samaria (9:51; x. Mt 19:1-2; Mc 10:1).
Chỉ Luca ghi lại sự kiện xảy ra tại một làng nào đó ở Samaria: sự không hiếu khách và phản ứng của hai môn đệ Gioan và Giacôbê.
Có nhiều lý do để đặt chú tâm vào hai môn đệ hơn là sự không hiếu khách: 1- câu chuyện nầy nằm trong văn mạch liên quan đến việc tuyển chọn và sai các môn đệ đi. Ngay sau đoạn nầy là những đòi hỏi dứt khoát nơi người môn đệ.
Câu chuyện một người nào đó nhân danh Chúa Giêsu của họ mà trừ quỷ (x. 9:49-50) và câu chuyện nầy muốn nêu lên phần nào cá tính và khuyết điểm của họ, cũng như những người sẽ đến đi theo Chúa (x. 9:57-62). 2- Chúa Giêsu sẽ dùng những cơ hội nầy mà chỉ dạy và đòi hỏi họ thay đổi. 3- “Samaria” xuất hiện 2 lần trong tin mừng Luca với cái nhìn tích cực: hình ảnh người Samaritanô nhận hậu (10:33), người phong cùi biết ơn (17:16). Do đó, có thể nói Luca dùng sự kiện nầy như là khung cảnh mở đầu cho hành trình, và cũng là cơ hội cho việc bộc lộ cá tính của các môn đệ của Người. Người Samaria không hiếu khách vì họ biết mục đích hành trình của Chúa Giêsu (9:52).
Liên kết với đoạn trước, đoạn nầy cũng nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu “trên đường đi” lên Giêrusalem (c.57a).
“Trên đường đi” diễn tả cách tượng hình sự vận chuyển không ngừng tiến về phía trước. Hình ảnh nấy gắn liền với chủ đề “đi theo” của cả đoạn nầy (cc. 57.59.61). Đoạn nầy gồm ba cuộc gặp gỡ và đối thoại (9:57-62); trong khi Matthêô chỉ ghi lại hai (x. Mt 8:18-21).
Chương 9 nầy nói nhiều lần nhất đến việc “đi theo” Chúa: dân chúng (9:11), những ai muốn (9:23), người không theo Chúa mà trừ quỷ (9:49), và ba người trong đoạn nầy (9:57.59.61). Hầu hết việc “đi theo” Chúa đều đặt ra những điều kiện và đòi hỏi. Đòi hỏi “vác thánh giá” (9:23) là đòi hỏi tổng quát và căn bản nhất. Ba đòi hỏi tiếp theo là cụ thể tùy theo từng cá nhân.
Trong cuộc đối thoại với người thứ nhất (9:57-58), Chúa Giêsu nói rõ là Người không có một chỗ ở nào cả. Hình ảnh cái hang của con cáo và tổ ấm của con chim, và nơi tựa đầu, chỉ một nơi cư ngụ. Nơi cư ngụ là đòi hỏi căn bản nhất không chỉ của con người, mà cả muôn loài trên mặt đất. Ai cũng lo lắng cho chuyện nầy trước tiên. Có được nó, chính là sự an toàn (x. 16:9). Cụm từ “Người Con của Nhân Loại” trong bối cảnh “đi lên Giêrusalem” ám chỉ đến cuộc thương khó. Người “không có nơi tựa đầu”, vì phải đi cho đến khi hoàn tất sứ mạng. Như thế, đi theo Người “trên đường” là tiến về phía trước vì sự cấp bách của sứ mạng, và bỏ lui đằng sau mọi sự an toàn. Chúa Giêsu sẽ chỉ dạy cho các môn đệ thái độ không dính bén khi vào nhà nào đó khi họ được sai đi: ở lại, ăn uống hay ra đi khỏi nhà đó (x. 10:1-12). Sứ mạng là quan trọng, chứ không phải nơi cư ngụ. Chúa Giêsu là nơi cư ngụ và sự an toàn của người môn đệ.
Cuộc đối thoại thứ hai gồm một lời mời gọi (c. 59a), một lời yêu cầu bị từ chối (cc. 59b-60a), và một lời sai đi (9:60b). So với Matthêô, Luca thêm câu “ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (c. 60b), tạo nên sự song song với lời yêu cầu “ra đi chôn cất cha tôi”. Luca dùng đại danh xưng “tôi”(c. 59) và “anh” (c. 60) để nhấn mạnh là cả hai lời yêu cầu của người nầy lẫn lời sai đi của Chúa Giêsu đều quan trọng, mạnh mẽ và cấp bách; và người nầy phải chọn lựa. Chữ “trước” không chỉ có nghĩa về thời gian, mà còn có nghĩa “ưu tiên”, “trước mọi sự”, nhất là khi chữ nầy được dùng với “Nước Thiên Chúa” (x. Mt 6:33). Như thế, có thể hiểu là người nầy đặt tương quan gia đình ưu tiên hơn lời mời gọi của Chúa, “Hãy theo tôi” (c. 59).
Cần khẳng định là lời từ chối của Chúa Giêsu không nghịch với lề luật dạy thảo kính cha mẻ, nhất là đối với người chết (x. Tobia 1:17; 4:3; 6:15; Sirach 7:33; 22:11-12; 38:16-23).
Không thể hiểu câu Chúa nói theo nghĩa đen, vì người chết không thể đi chôn kẻ khác. Khi nói với các môn đệ về sự chọn lựa tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình, Chúa Giêsu thường dùng cách nói phóng đại “Ai đến cùng Tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả sự sống đời nầy, không thể là môn đệ của Tôi” (14:26). Điều nầy chỉ có nghĩa là phải yêu mến Người hơn tất cả (x. Ez 24:15-24).
Cũng phải được hiểu tương tự như thế trong trường hợp nầy. Ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa (x. 8:1; 9:2.11; 10:9) thì ưu tiên hơn ra đi chôn cất người chết, dù đó là cha mình.
Kết cấu của cuộc đối thoại thứ ba tương tự như cuộc đối thoại trước (9:60-61). Ở đây Luca đề cập đến tương quan gia đình rộng hơn, không chỉ là với “nơi cư ngụ” (c. 58), “cha” (c. 59), mà “những người trong nhà” (c. 61).
Apotassomai có nghĩa là “giã từ”, và “bỏ đi”. Như người trước, người nầy đặt những tương quan nầy “trước” tương quan với “Nước Thiên Chúa”. Hậu cảnh của câu trả lời của Chúa Giêsu là câu chuyện Êlisêô đang cày với 12 đôi bò (1V 19:20).
Ý nghĩa chính của lời khôn ngoan nầy: “Đã tra tay vào cày” là đã khởi đầu việc cày. “Nhìn lại đàng sau” theo nghĩa đen là nhìn những luống đất đã cày. Động từ “nhìn” ở thể phân từ hiện tại chỉ hành động đang diễn ra. Vì “đang nhìn” đàng sau, thì không thể tiến lên phía trước và cày ngay hàng thẳng lối. Do đó, chính việc “đang nhìn lui đàng sau” nầy cản trở cho mục đích của việc đi theo Chúa là loan báo Nước Trời.
Euthetos, có nghĩa là “hữu dụng”, “thích hợp” như hình ảnh hạt muối (x. 14:35). Vậy, người không đặt ưu tiên cho việc đi theo Chúa thì không thích hợp cho việc rao giảng Nước Trời.
Tâm điểm của đoạn nầy là đặt ưu tiên tương quan của người môn đệ với Chúa Giêsu trên mọi sự.
46. Dân làng Samaria không đón tiếp Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Cho tới nay Đức Giêsu chỉ thực sự thực thi tác vụ của Người ở Galilê. Bắt đầu từ đây, trong suốt mười chương (9,50- 19,20), chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem. Lên Giêrusalem là một khúc ngoặt, là một quyết định tối quan trọng đối với Người. Bởi thời gian mà Chúa Cha ban cho Người, để thực hiện công trình tại thế sắp kết thúc và việc Đức Giêsu ra đi đã gần kề. Đức Giêsu lên Giêrusalem để kiện toàn sứ vụ. Như Êlia, ông chỉ được rước về trời sau khi đã hoàn tất sứ vụ (2V 2,9-11). Đức Giêsu cũng chỉ được siêu thăng hay được rước về trời sau khi đã chịu đau khổ và phải chết. Ý thức rõ điều đó, nên khi đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã phải can đảm, phải nhất quyết. Đúng hơn Ngài phải rắn khuôn mặt lại, làm cho khuôn mặt chai cứng, để vượt qua nỗi sợ hãi. Giống như người tôi tớ Giavê, Isaia loan báo trong bài ca thứ ba (Is 50,7).
Lên Giêrusalem, Đức Giêsu không chỉ đi một mình. Cùng đi có Nhóm Mười Hai, bảy mươi hai môn đệ, các cảm tình viên, các bà đạo đức... Bởi thế, Đức Giêsu sai mấy sứ giả đi trước, họ có phận sự tìm lương thực, sắp xếp chỗ ở. Trong số những người được sai đi, có Giacôbê và Gioan. Họ lên đường vào một làng người Samaria, chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem.
Giữa người Dothái và người Samaria, có những xung khắc trên bình diện quốc gia và trên bình diện tôn giáo. Người Samaria là miêu duệ của các bộ lạc Đông Á, đến định cư vùng này vào thời vương quốc phương Bắc của người Dothái, bị người Assyri chiếm đóng năm bảy trăm hai hai trước công nguyên, cũng là miêu duệ của những người thổ dân bản xứ. Họ đã theo Dothái giáo thờ Đức Giavê, nhưng đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Họ khác với dân Dothái về nhiều điểm trên bình diện tôn giáo. Chẳng hạn, ngoài Đức Giavê họ còn thờ các thần riêng, có bộ lạc còn giết con trai, để tế thần riêng của mình. Người Dothái khinh dể người Samaria, cho họ như một dân nửa lương nửa giáo, tránh tiếp xúc với họ (Ga 4,9). Nhiều lần vì thù ghét, giữa hai dân tộc đã có những cuộc tấn công lẫn nhau, có lần người Samaria đã quẳng xương các loài vật vào đền thờ Giêrusalem, để đền thờ bị ô uế. Nay họ nghe biết Đức Giêsu lên Giêrusalem để dự lễ, họ đã chống đối và từ chối đón tiếp Người. Nếu Đức Giêsu không lên Giêrusalem, chỉ đến với họ, họ đâu có từ chối. Họ đã chẳng mời Ngài ở lại hai ngày, khi Ngài gặp một phụ nữ của họ ở giếng Giacob đó sao?
Trước sự từ chối đó, Giacôbê và Gioan, biệt danh là con của sấm sét, đã nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" Êlia đã hai lần xin lửa từ trời xuống, thiêu hủy hai sỹ quan và năm mươi binh lính của vua Akhátgia, đến gặp nhà tiên tri đang ngồi trên núi đòi ông xuống để hỏi xem vua có khỏi bệnh hay không? (2V 1,10). Giờ đây, Giacôbê và Gioan cũng muốn xin Đức Giêsu cho các ông thực hiện điều đó, để thiêu huỷ dân làng Samaria, mà các ông cho là "hỗn láo" dám khước từ đón tiếp Đấng Messia của Thiên Chúa. Giacôbê và Gioan tưởng, làm như thế là đẹp ý Thiên Chúa và được Đức Giêsu tán đồng. Các ông lầm, Thiên Chúa đâu hẹp hòi như các ông nghĩ. Ngài là Thiên Chúa toàn năng nhưng không thích trừng phạt ai cho dù họ xúc phạm đến Ngài. Ngài là người cha nhân từ, một người mẹ hiền dịu, sẵn sàng chờ đợi tội nhân hối cải. Thiên Chúa không trừng phạt, Người luôn tha thứ. Đức Giêsu không đến để lên án, nhưng để cứu độ (Lc 19,10). Bởi thế, Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
47. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này, soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.
Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã
Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho phép.
Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.
Con người không có chỗ tựa đầu
Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo, nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.
Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài “khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.
Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động không?'
Đức Kitô giải phóng chúng ta
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”. Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự do với tất cả.
Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ; những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt được khi cơn nghiện đến).
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người; Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và ách nô lệ của tội.
Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức Yêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tại sao Đức Yêsu lại đòi hỏi những người theo Ngài như vậy?
2. Bạn có hài lòng với cuộc đời của bạn không? Nếu cho bạn chọn cuộc đời của Đức Yêsu và cuộc đời của bạn như hiện tại, bạn chọn cuộc đời của ai? Tại sao?
3. Bạn hiểu và kinh nghiệm gì về tự do thể lý và tự do nội tâm? Tại sao người sống “yêu thương” là người tự do đích thực?
48. Người không nhìn lại - Lm. Mark Link, S.J.
Chủ đề: "Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu"
Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.
Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn "giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện" có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.
Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.
Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.
Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.
Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.
Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.
Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.
Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.
Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, "Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?"
Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.
Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:
"Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời."
Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.
Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?
Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?
Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, "Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày."
Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.
Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader's Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.
Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.
Ông cố vấn hỏi, "Bà có muốn lấp đầy nó không?" "Dĩ nhiên là có," bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, "Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện."
Bà nhìn ông và nói, "Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi." Ông mỉm cười và nói, "Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm." Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, "Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa."
Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!
Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.
Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: "Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa."
Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.
Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.
Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, "Điều quan trọng là lời hứa."
Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:
"Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa."
49. Theo Chúa
Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần đến, đó chính là thời gian Ngài chịu đau khổ để thực hiện công cuộc cứu độ…
Chính vì thế mà Ngài đã đi lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc hành trình này, Ngài đã sai các môn đệ, là những sứ giả của Ngài đi trước, để chuẩn bị nơi ăn chốn ở tại những nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua. Cuộc hành trình sẽ phải đi ngang qua xứ Samaria. Người Do Thái thì khinh bỉ dân Samaria vì coi họ chỉ là những kẻ lai căng, bỏ mất truyền thống của cha ông, chạy theo những thứ tôn giáo nhảm nhí khi tiếp xúc với dân ngoại.
Còn những người Samaria lại nhìn dân Do Thái với một cặp mắt thù hận, nhất là những người hành hương về Giêrusalem. Bởi vì đối với họ phải thờ kính Thiên Chúa tại Sichem, chứ không phải tại Giêrusalem.
Chính vì mối thù nghịch sâu xa và lâu đời này mà họ đã tỏ ra thờ ơ lãnh đạm cũng như đã không tiếp đón các môn đệ và cả chính Chúa Giêsu. Thái độ này đã làm cho Gioan và Giacôbê tức tối, đến nỗi muốn sai cả lửa trời xuống thiêu rụi họ. Phải chăng sự hiền lành của Phúc âm đã không đem lại kết quả mong muốn? Thế nhưng Chúa Giêsu đã trách cứ các ông thiếu tinh thần bác ái.
Bài học Chúa muốn nhắn gửi các ông cũng như nhắn gửi mỗi người chúng ta, đó là đừng vội nóng giận, nhưng hãy cư xử một cách nhân từ, kiên nhẫn và yêu thương, bởi vì giận quá mất khôn, hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù, nếu như chúng ta muốn cảm hóa và dẫn đưa họ về cùng Chúa, bởi vì mật ngọt thì chết ruồi, chúng ta có thể giết được nhiều ruồi bằng một giọt mật hơn là bằng cả một thùng dấm chua.
Tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đối thoại với ba người.
Với người thứ nhất, Chúa Giêsu cho biết theo Ngài thì phải long đong vất vả, bởi vì Ngài không có nhà cửa, không có cơ sở và không có một chốn để gối đầu, để ngả lưng. Như thế Chúa muốn nói, để trở thành môn đệ của Ngài, thì phải từ bỏ bản thân, từ bỏ tiền bạc vật chất, nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.
Với người thứ hai muốn theo Chúa nhưng lại muốn về từ giã những người thân yêu, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời: Phải dứt khoát lập trường, phải ra đi ngay lập tức, không chần chừ, không lưỡng lự. Bởi vì ai đã tra tay vào cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng đáng với nước trời.
Sau cùng đối với người thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng gọi: Hãy theo Ta. Thế nhưng trước lời yêu cầu rất tự nhiên và rất chính đáng của anh đó là lo chôn cất cho người cha mới qua đời, Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn ngươi hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Như thế, qua những câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta thấy như có vẻ cứng cỏi, nghiêm khắc và đi ngược lại với những thói quen của chúng ta. Thế nhưng đó lại là sự thật, đó lại là sự đòi hỏi của Chúa.
Đứng trước lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải mau mắn đáp trả không chần chừ, không so đo tính toán. Phục vụ Chúa, đó phải là nỗi ưu tư số một, còn ngoài ra, tất cả chỉ là phụ thuộc, chỉ là thứ yếu mà thôi.
50. Kỳ kèo – Trầm Thiên Thu
Kỳ kèo là động thái mặc cả, trả giá hoặc ngã giá. Kỳ kèo cũng là so đo, suy hơn tính thiệt. Kỳ kèo đôi khi còn được người ta “biến thể” thành kèo nèo. Thực ra kèo nèo là một loại thực vật ăn được, nhưng nhiều người “đồng hóa” kèo nèo với động từ kỳ kèo, rồi còn biến thành cù nèo. Đúng là “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”!
Người ta có thể kỳ kèo trong mọi lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực “mua bán” mà ngay cả trong lĩnh vực tình cảm. Thậm chí là trong vấn đề tâm linh, đôi khi người ta cũng vẫn kỳ kèo với Chúa trong khi cầu nguyện. Thế mới lạ!
Về vấn đề theo Chúa, có lần Chúa Giêsu đã nói rạch ròi: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62). Rất thẳng thắn và dứt khoát.
Khi ngôn sứ Êlia phải trốn chui trốn nhủi trong một cái hang vì bị người ta tìm giết, Đức Chúa hiện ra nói với ông: “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về” (1 V 19:15). Và Đức Chúa căn dặn: “Còn Giêhu, con của Nimsi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ítraen. Êlisa con Saphát, người Avên Mơkhôla, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (1 V 19:16).
Kinh Thánh cho biết thêm rằng ông Êlia bỏ đó ra đi và gặp ông Êlisa là con ông Saphát đang cày ruộng; trước mặt ông Êlisa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Êlia đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Êlisa. Ông này liền để bò lại, nhưng chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông”. Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?” (1 V 19:21). Được gọi và sẵn sàng đi theo, nhưng ông Êlisa vẫn kỳ kèo một chút là về từ giã cha mẹ.
Chúng ta vẫn thường thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 16:1-2). Cách nói phủ định như vậy là để xác định mạnh mẽ hơn. Thế nhưng đôi khi chỉ hứng chí mà nói theo cảm tính, chứ thực ra thì có thể lại… “gãi đầu” và kỳ kèo điều gì đó. Con người là vậy, còn “đời” lắm! Chính hai con ông Dêbêđê cũng đã kỳ kèo cho mỗi người được kề cận bên Thầy Giêsu (x. Mt 20:20-23; Mc 10:35-40).
Chúa hiểu và luôn thông cảm cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để bớt dần “chất đời” trong những công việc đạo đức, phục vụ thật chứ không dùng sự phục vụ làm “chiêu bài” để đạt mục đích nào đó. Điều này thường thấy trong những người mệnh danh là Kitô hữu. Hãy cố gắng dùng cả tâm hồn và thể xác mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Hãy luôn nhớ có Chúa trước mặt, được Ngài ở bên thì an tâm, chúng ta chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, “tâm hồn sẽ mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:9). Chắc chắn “Chúa chẳng đành bỏ mặc ai trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung phải hư nát trong phần mộ, chính Ngài sẽ dạy chúng ta biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-10-11)
Chúa biết chúng ta yếu đuối, tham quyền cố vị, “chất đời” vẫn nhiều hơn “chất đạo”, thế nên Ngài mới bảo chúng ta phải cố “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48), nhờ đó mà có thể thoát “nhà tù trần tục”. Thánh Phaolô nói: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5:1).
Chúng ta đã được Thiên Chúa kêu gọi để hưởng tự do. Thánh Phaolô căn dặn: “Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.14 Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5:13-14). Và thánh nhân cảnh báo: “Nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5:15). Cảnh “cắn xé” này vẫn thấy xảy ra trong các cộng đoàn, rất đa dạng: phe cánh, kiêu ngạo, ích kỷ, giả hình, khinh người, “nổ” và “chảnh”...
Thời nào cũng có cảnh “cắn xé” đó, nhưng ngày nay người ta “cắn xé” nhau tinh vi hơn nhiều! Thánh Phaolô khuyên: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa” (Gl 5:16-18).
Chắc chắn không dễ chút nào, nghĩa là khó lắm. Nhưng lại rất lô-gích: Vì khó nên mới phải cố! Ca dao Việt Nam nói: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra”. Chí lý! Quả thật, đâu phải cứ đẹp là tiên, đâu phải ai tu cũng hiền, đâu phải tên cướp nào cũng ác, đâu phải tội nhân nào cũng xấu,... Cái gì dũng có cái ngoại trừ, như người ta thường nói: “Đừng vơ đũa cả nắm”.
Chính Chúa Giêsu đã xác định Ngài là người-không-có-chỗ-tựa-đầu. Thật te tua, không ai có thể nghèo hơn Ngài, vì người ăn mày hoặc kẻ lang thang cũng có cục gạch làm gối đầu. Có những người mệnh danh là môn đệ của Chúa Giêsu mà chẳng thấy giống Thầy chi cả: Sống ung dung, sang trọng, giàu có, đầy đủ tiện nghi,... thậm chí còn “đòi hỏi” phải thế này hoặc thế nọ, bắt người khác phải phục vụ mình. Đòi hỏi tức là kỳ kèo vậy!
Thánh sử Luca kể: Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến.53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9:54). Bất nhân quá! Kiêu ngạo quá! Chảnh quá! Thế nhưng Đức Giêsu liền quay lại quở mắng các ông, rồi Thầy trò đi sang làng khác. Chúa Giêsu chả kỳ kèo gì cả, họ không thích mình thì thôi. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thế mà trong chúng ta cũng vẫn có những người đầy “thâm ý” giống như hai anh em nhà Dêbêđê kia!
Đang khi Thầy trò đi đường, có kẻ thưa với Đại Sư Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9:57). Ngài thản nhiên trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Chu choa! Khổ rứa hỉ, răng mà theo nổi? Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!”. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9:59). Lại kỳ kèo! Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9:60). Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9:61). Đức Giêsu thẳng thắn đưa ra nghiêm luật: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62).
Ba người có ba kiểu kỳ kèo khác nhau, Chúa Giêsu cũng có ba kiểu nói khác nhau. Chúng ta cũng chẳng hơn gì, chín người mười ý, vì chúng ta vẫn thường kỳ kèo với Chúa trong những lời cầu nguyện, thế nhưng chúng ta cứ tưởng vậy là hợp lý. Chúa khổ thật, vì hằng ngày phải nghe biết bao lời kỳ kèo của những người mà Ngài đã cứu thoát án tử!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con đã kỳ kèo quá nhiều. Xin biến đổi chúng con để chúng con trở thành những môn đệ đích thực của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, không hề so đo gì. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Sư Giêsu, Thiên Chúa cứu độ chúng con. Amen.
51. Tự giải thoát và tự ràng buộc
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với 9,51, Tin Mừng Lc bắt đầu mộtphân đoạn quan trọng và là phần thứ ba của TM, đó là bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem, Thành định mệnh (9,51–19,28). Khác với TM Mc, tác giả Lc nhiều lần nói rõ tên Giêrusalem ra trong chuyến đi này (9,53; 13,22.33-34; 17,11; 18,31; 19,11, luôn luôn là Ierousalêm, ngoại trừ 13,22, Hierosolyma). Ta nhận ra phân đoạn này được coi là trọng yếu qua việc tác giả nêu tên thành ra trong liên hệ với việc Đức Giêsu “được rước lên trời” (analêmpsis) và qua việc nhắc tới sự hoàn tất (“Thời gian đã mãn, đến buổi Người siêu thăng” – NTT). Nói cách khác, trong TM Lc, Đức Giêsu đi từ Galilê lên Giêrusalem không qua Pêrê (như Mc và Mt), nhưng Người chỉ nhắm thẳng tới Thành định mệnh bằng cách băng ngang miền đất tượng trưng cho sự đối nghịch, đó là Samari.
Cuộc hành trình lên Giêrusalem (9,51–19,28) có thể được chia ra làm bốn phần, ba phần đầu của riêng TM Lc, mỗi phần được đánh dấu bằng mộtlời nhắc đến mục tiêu Giêrusalem; phần cuối có chung với các TMNL khác, có câu kết nhắc lại mục tiêu:
(1) 9,51–13,21: bắt đầu bằng “Người cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem”;
(2) 13,22–17,10: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(3) 17,11–18,14: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(4)18,15–19,28: tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các TMNL khác; kết thúc bằng “Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị, mộtcâu mở với hai phân đoạn khá khác nhau:
1) Mở: Hành trình lên Giêrusalem (9,51);
2) Sự đón tiếp tại mộtlàng Samari (9,52-56);
3) Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (9,57-62).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi đã tới ngày (51): dịch sát là “việc làm đầy các ngày”. Tác giả đã tạo ra công thức này để giúp hiểu là nay chương trình của Thiên Chúa bắt đầu chuyển sang mộtgiai đoạn mới trong tiến trình thực hiện.
- được rước lên (51): Analêmpsis có nghĩa là “hành vi cất đi; sự nâng lên”.
- Người nhất quyết (51): dịch sát “Người đanh/làm chai (stêrizein) mặt lại để đi lên…”. “Mặt” trong văn chương Do Thái chỉ cả con người. Ý nói là Đức Giêsu cương quyết đối đầu với định mệnh của Người, Người can đảm thắng vượt nỗi sợ hãi. Ta nghe ra được âm vang của Is 50,7. Nhưng cũng có thể câu này nhắm tới sứ mạng của ngôn sứ Êdêkien tại thành Giêrusalem (Ed 8–11).
- người Samari (52): dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tCN. Sau này, tên gọi “người Samari” (Hl. Samaritês) trở thành mộttên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do Thái được giải thích khác nhau tùy mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tCN và đưa những người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đã phá những người Do Thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây mộtđền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy Lạp (đền này đã bị phá hủy dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tCN).
- vì Người đang đi về hướng Giêrusalem(53): dịch sát là “mặt Người đang hướng tới Giêrusalem”. Mục tiêu của cuộc hành trình của Đức Giêsu chính là lý do khiến người Samari từ chối đón tiếp Ngài.
- Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? (54): Mặc dù Lc dùng analôsai (aor. act. inf. analyô, “tháo gỡ; tiêu hủy”) thay vì kataphagein (aor. act. inf katesthiô, “ăn ngấu nghiến, thiêu hủy, phá hủy”) của Bản LXX, câu văn vẫn là một lời nhắc rõ ràng đến 2 V 1,10 (hay 12). Các môn đệ muốn chia sẻ quyền lực của Đức Giêsu để làm mộtphép lạ trừng phạt.
- quay lại (55): xem cả 10,23; 14,25. Tác giả cho thấy là Đức Giêsu dẫn đầu nhóm môn đệ.
- quở mắng (55): Đức Giêsu sửa các môn đệ vì các ông vẫn chưa hiểu sứ mạng của Người nhắm điều gì (x. 9,45). Người không chấp nhận cho người ta coi Người là ngôn sứ Êlia, nhà cải cách được ví với lửa. Người không chấp nhận phản ứng theo kiểu thường tình loài người (x. 6,29).
- chôn cất cha tôi (59): Theo truyền thống kinh sư sau này, bổn phận chôn cất cha mẹ qua đời bó buộc với các na-dia (nazir), tư tế, và cả với thầy thượng tế, cho dù tiếp xúc với mộtthi hài thường được coi như là cớ gây nhiễm uế (x. Ds 6,6-7; Lv 21,11).
- Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ (60): Câu này được giải thích nhiều cách, nhưng dựa vào mộtcâu tục ngữ, giáo sư J.A. Fitzmyer cho rằng ý nghĩa của câu này là “Cứ để kẻ chết (về thiêng liêng) chôn kẻ chết (về thể lý) của họ”.
- xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã … Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau (61-62): xem truyện ngôn sứ Êlia gọi Êlisa (1 V 19,19-21). Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi hơn Êlia, vì vị ngôn sứ còn cho phép môn đệ về từ giã bà con thân thuộc, còn Đức Giêsu thì không cho phép.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Hành trình lên Giêrusalem (51)
Câu mở với giọng long trọng của bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem có ba điểm:
a) Thời gian Chúa Cha ban cho Con để thực hiện chương trình của Người trên trần gian đã đến lúc chấm dứt;
b) Đức Giêsu nhất quyết đi cho tới Thành thánh. Người biết chuyện gì đang chờ Người ở Giêrusalem. Người thấy những đau khổ, cái chết và cả sự sống lại đang đến gần. Ta nghe ra gợi ý xa xa về cuộc hấp hối trong vườn Ô-liu. Khi đến lúc, Người cắt đứt những liên hệ với miền Galilê và cương quyết tiến về Giêrusalem, hiên ngang đối diện với định mệnh của Người;
c) “Người sai mấy sứ giả đi trước”: Hẳn là tác giả Lc gợi đến sấm ngôn thiên sai Ml 3,1, với ý nghĩa Đức Giêsu chính là Đức Chúa (Yhwh), còn các tông đồ là những sứ giả.
* Sự đón tiếp tại một làng Samari (52-56)
Cũng như sứ vụ tại Galilê được dẫn nhập bằng mộttruyện Đức Giêsu bị loại trừ (Lc 4,16-30), chuyến đi lên Giêrusalem cũng được dẫn nhập bằng mộttruyện như thế. Có một làng Samari đã không đón tiếp Người vì Người lên Giêrusalem, chứ không lên Garidim là nơi có đền thờ của người Samari. Sự từ khước này không làm cho lòng Người ra chua chát. Người quở mắng hai môn đệ Giacôbê và Gioan vì các ông đã đề nghị chuyện bạo lực. Người yêu cầu người ta nghe Người, nhưng Người để cho người ta tự do, chứ không muốn ép buộc người ta phải đón tiếp Người. Người không thể diễn tả quyết định của Người ra bằng những biện pháp hà khắc, bất kể hoàn cảnh cụ thể của người khác.
* Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (57-62)
Trên con đường này, Người nhắc lại những điều kiện để đi theo Người. Có ba người đến để xin đi theo Người. Không biết là điều gì đã thúc đẩy họ xin như thế. Chắc chắn là họ đã bị Người thu hút, nên muốn ở với Người. Chúng ta cũng không biết là sau đó họ có thật sự đi theo Người chăng. Nhưng chúng ta biết những hoàn cảnh và những điều kiện cần thiết để có thể đi theo Người.
Người thứ nhất diễn tả mộttình trạng sẵn sàng vô điều kiện. Đức Giêsu cho anh ta biết rõ điều gì đang chờ đợi anh nếu anh bước theo Người. Đặc điểm con đường Người đang theo là những bất ngờ và sự nghèo khó. Người không thể cung cấp sự an toàn và tiện nghi nơi ăn chốn ở. Chính Người đã cho thấy điều đó khi đi qua Samari: Người lệ thuộc vào sự tiếp đón của kẻ khác. Người chấp nhận bị từ chối và lại bắt đầu tìm chỗ khác. Người từ chối những tiện lợi của mộtnơi ở cố định. Như thế Người tự giải thoát khỏi dây ràng buộc với mộtnơi cố định và trở thành hoàn toàn tự do mà thi hành nhiệm vụ. Người cũng yêu cầu kẻ muốn theo Người phải có sự từ bỏ ấy, sự tự do ấy và dây liên hệ ấy.
Hai người khác nêu ra các điều kiện (chôn cất cha; từ giã người thân). Cho cả hai trường hợp, Đức Giêsu không chấp nhận những điều kiện ấy, trong đó luôn liên hệ đến gia đình. Đức Giêsu cho thấy rõ ràng là Người đòi hỏi người ta bước theo Người vô điều kiện.
+ Kết luận
Khi bước theo Đức Giêsu, người ta không được nhìn lại đàng sau, nhưng phải dứt khoát nhìn tới trước, nhìn vào chính Đức Giêsu và tất cả những gì được hàm chứa trong quan hệ với Người. Không những trong lãnh vực của cải vật chất, cả trong lãnh vực các tương quan người với người, liên hệ với Người đòi hỏi mộtsố những từ bỏ đau đớn. Nhưng phải biết vấn đề ở đây là gì: đó là gắn bó với Người, phục vụ Người, sống thân tình với Người. Phần Người, Đức Giêsu đề nghị, nhưng luôn tôn trọng tự do của từng người.
52. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MỘT LÀNG MIỀN SAMARI KHÔNG ĐÓN TIẾP
Từ ngữ 9,51 rất phong phú về mặt thần học. Trước hết Luca nói: “Khi đã tới ngày Ngài được rước lên trời”. Từ Nước Trời đã nhắc lại bảy lần, ở Luca 1-2, việc thực hiện lời hứa của Chúa (x.1,57), nơi đó tôi giải thích từ này; đây không chỉ một chú thích thuần tuý có tính thời gian! Còn chữ được rước lên (trời) sẽ được Luca dùng ba lần để chỉ cuộc thăng thiên về với Cha (Cv 1,2; 11-12). Tiếp theo, tác giả nói là Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Diễn ngự hiếm hoi này muốn nói lên quyết định của Chúa Giêsu sẽ chạm trán với với cuộc thụ nạn đang chờ đợi Ngài, bởi vì có lẽ nó phản dội lại thái độ của người Tôi tớ ở Is 50,7, nhờ một lối chơi chữ cương quyết / trơ ra. Nếu người Tôi tớ của Chúa không giấu mặt khỏi lăng nhục và khạc nhổ, chính là vì người đã trơ mặt ra như đá. Để được rước lên bên cạnh Chúa Cha, trước hết người Tôi tớ phải trải qua đau khổ và cái chết.
Một nhập đề như thế cho đoạn văn nói lên tầm quan trọng mà Luca muốn đặt vào dịp lên Giêrusalem duy nhất này của Chúa Giêsu trong suốt thời gian thi hành sứ vụ. Chắc hẳn một cuộc hành trình lên Giêrusalem này đã có trong bản văn của Marcô –còn truyền thống của Tin Mừng thứ tư thì nói đến nhiều lần lên Giêrusalem. Nhưng biến cố chỉ hiếm có một chương ở Marcô (và hai ở Matthêu) thì ở đây lại tới mười chương! Để tìm chất liệu cho một đoạn dài như thế, Luca đặc biệt khai thác nơi Nguồn các lời cũng như nơi tư liệu riêng của ông, trước khi sử dụng trình thuật của Marcô về cuộc hành trình từ 18,15 đến 19,44. Thực ra, những giai đoạn của cuộc hành trình, theo địa lý, không làm cho Luca quan tâm; những ghi chú hiếm hoi mới có lại không rõ ràng, thậm chí còn thường nữa (17,11). Điều quan trọng, đó là Chúa Giêsu đang lên đường, không nơi cố định (9,57) và Ngài tiến về định mệnh của Ngài, ở Giêrusalem, kinh thành nơi mà, trong tư cách ngôn sứ, Ngài phải chết (13,33), nơi mà Ngài sắp hoàn thành cuộc xuất hành của Ngài (9,31), việc Ngài được nâng lên (9,51). Việc nhắc đến thành Giêrusalem sẽ làm cho toàn bộ đoạn văn này được nhịp nhàng và, để sắp xếp đoạn này cách thuận lợi, chúng ta sẽ dựa vào những”điệp khúc” chính nhắc lại rằng Chúa Giêsu lên đường tiến về Giêrusalem (13,22; 17,11) và dựa vào lời loan báo rõ ràng về cuộc thụ nạn ở Giêrusalem (18,31). Chúng ta sẽ xác minh đúng lúc nếu phải ấn định phần kết của đoạn văn khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ (19,44).
Samari ngăn cách Galilê với Giuđê và thủ đô Giêrusalem khi yêu cầu các môn đệ chuẩn bị cho Ngài đến một làng của người Samari (9,52-55), Chúa Giêsu muốn cắt đứt mối thù địch của người Do Thái đối với dân tộc không còn thuần chủng này nữa, họ lấy Ngũ thư làm Kinh Thánh, nhưng địa điểm thờ phượng của họ là ở Garizim là một thách đố thường trực đối với Đền Thờ Giêrusalem. Nhất là Ngài tiên báo sứ vụ của Giáo Hội mà tính cách phổ quát đại đồng sẽ bắt đầu chính tại Samari (Cv 8,5tt). Trình thuật Chúa Giêsu bị những người đồng hương ở Nagiaret khước từ đã khai mở giai đoạn bằng đề tài khước từ. Đó là tính cách phổ quát đại đồng được loan báo trong bài giảng mà các người ở Nagiaret từ chối; ở đây những người ở Samari từ chối Chúa Giêsu thì ít, mà Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình của Ngài thì nhiều. Khi Chúa Kitô sẽ được rao giảng ở đó, đám đông một lòng chú ý đến những lời của Ngài rao giảng (Cv 8,5-6).
Chính hai trong số các môn đệ thân tín nhất (x.9,28) trong trường hợp ấy cảm thấy mình phải đóng vai trò của sứ ngôn Êlia! Để cho người ta nhìn nhận sứ vụ của mình là người của Thiên Chúa, Êlia đã làm cho từ trời xuống tiêu diệt cả trăm người kéo đến để bắt ông (2V 1,10-12). Nhưng Chúa Giêsu đâu có đến để làm người cải cách mạnh mẽ các phong tục tập quán như vị Tẩy Giả mong chờ (3,16-18). Và nếu Ngài quở mắng các môn đệ – một động từ thường được dùng khi Chúa Giêsu nói với ma quỷ (4,35)- chính là vì các ông không hiểu tí gì về sứ vụ của Ngài (loan báo việc Ngài bị khước từ: 9,22) cũng chẳng hiểu giáo huấn của Ngài (lòng yêu kẻ thù: 6,29). Và cũng như sau khi bị những người Nagiaret khước từ, Chúa Giêsu lại tiếp tục lên đường.
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI KẺ ĐI THEO NGÀI
Đề tài của đoạn văn này là nỗi khó khăn khi theo Chúa Giêsu và gồm ba hoạt cảnh nhỏ. Cảnh chót giống với cảnh đầu tiên: những người vô danh tự nguyện xin làm môn đệ, trong khi chính Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi trong cảnh giữa; nhưng cũng như trong cảnh giữa này, người ở cảnh thứ ba cũng đặt điều kiện.
Ở những câu 57-58 –như ở câu 61- chúng ta tham dự một cảnh cổ điển trong Do Thái giáo: người học trò chọn Thầy mà mình muốn theo học, bỏ gia đình hoặc nhiều năm để đến trú ngụ trong nhà Thầy (x. Ga 1,37-39). Câu trả lời cho thấy Chúa Giêsu không giống như những Kinh sư khác: cuộc sống của Ngài lưu động bởi Ngài là một kẻ bị khước từ. Bị truy nã, Ngài không có chỗ dựa đầu để nghỉ ngơi cho yên ổn mà phải trốn lánh. Để ám chỉ mình, Chúa Giêsu nói về Con Người, một diễn ngữ để vừa chỉ sự bất lực của kẻ bị ruồng bỏ và bị giết (9,22-44; chính là trường hợp ở đây) vừa chỉ quyền lợi mà Ngài sẽ thừa hưởng khi Ngài được nâng lên trên trời (9,26; 12,8). Như vậy, những ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ, sẽ san sẻ cuộc đời của một kẻ vô gia cư, không biết ngày nào sẽ có được mái nhà để qua đêm.
Trong những câu 59-60 Chúa Giêsu chủ động khởi xướng (x. các trình thuật ơn gọi 5,27). Yêu cầu của người ẩn danh chứng tỏ rằng đối với ông ra có một ưu tiên (trước hết): việc thi hành bổn phận hiếu thảo là chôn cất cha ưu tiên hơn việc đi theo Chúa Giêsu và chỉ cần vài tiếng đồng hồ… Chúa Giêsu đáp lại bằng một châm ngôn gây sửng sốt gắn liền với hoàn cảnh đó:”Cứ để kẻ chết –những kẻ khước từ Chúa Giêsu và Tin Mừng Nước Thiên Chúa- chôn kẻ chết của họ!”. Điều này dẫn đến chuyện”làm bật rễ” giới răng của Chúa về sự hiếu thảo (Xh 20,12), chính là sự cấp bách phải loan báo Triều Đại Thiên Chúa; việc phục vụ Tin Mừng này là trước hết và vượt qua cả những liên hệ gia đình, tuy vẫn được Chúa chúc phúc (x. 14,26).
Cảnh chót (cc. 61-62) nhắc đến việc Êlisê trở thành đệ tử của ngôn sứ Êlia (1V 19,19-21), trong khi ông cày với một đôi bò, ông đã xin phép về ôm hôn cha mẹ ông trước khi theo Êlia. Sau khi giết bò và sau bữa tiệc từ giã người thân ông bắt đầu theo Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi hơn vị đại ngôn sứ xưa kia; ở đây lời dạy của Ngài cũng gắn liền với mạch văn (ở đây, câu chuyện 1V) và đưa ra lý do của việc đòi hỏi quyết liệt ấy: khi đã bắt đầu cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa làm cho khai mở triều đại của Ngài; người ta không có thể ngoái lại đàng sau. Chính gia đình cũng thuộc những thứ người ta bỏ lại đàng sau (x. 18,29). Phải coi chừng:”Quyết định theo Chúa Giêsu không chỉ là kết quả nhất thời của phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
Vì không phải là trình thuật về ơn gọi nên bản văn không chú ý chút nào đến cách thức mà những kẻ ẩn danh này đáp lại lời Chúa Kitô. Thực ra đó là ba lời ở trung tâm của trình thuật, nhưng có lẽ ta sẽ sai lầm khi coi những lời ấy như những chỉ thị có tính quy luật. Các môn đệ đã chôn cất xác của Đấng bị đóng đinh (23,55-56) và Giáo Hội thời xưa đã luôn luôn hết sức tôn trọng việc an táng kẻ chết (“khi con gặp người chết, con hãy lo chôn cất họ và ghi dấu thánh giá trên họ, và Ta sẽ ban cho con chỗ nhất trong ngày Phục Sinh của Ta” Chúa Kitô tuyên bố như thế trong quyển thứ tư sách Esdras 2,23). Và nếu Phêrô và các bạn của ông đã lìa bỏ gia đình trong thời gian Chúa Giêsu thi hành sứ vụ, thì sau này các ông sẽ cho các bà vợ đồng hành trên con đường truyền giáo (1Cr 9,5). Ở đây Tin Mừng Luca đòi hỏi chúng ta phải không ngừng khám phá ra một cách thức để đặt việc loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm vào trung tâm cuộc sống hằng ngày của ta.
53. Chú giải của Noel Quesson
Bài Tin Mùng cua Luca Chúa Nhật này bắt đầu một giai đoạn mới trong đời sống của Đức Giêsu. Cho đến nay. Đức Giêsu chỉ thực thi tác vụ cua Người ở Galilê. Trong suốt mười chương bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu "lên Giêrusalem". Đây là một lộ trình về địa dư (Lc 9, 51; 13, 22, 22; 17, 11).
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời...
Cách trình bày thật trang trọng. Bản văn sát nghĩa tiếng HyLạp cảm động hơn nhiều: "Vì những ngày Người được rước lên hoàn tất..."
Cái chết đang đến gần ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, đó là một sự hoàn tất, một thành tựu, việc thực hiện sau cùng, việc làm tỉ mỉ sau cùng của một đời sống rất trọn vẹn.
Nhưng đó cũng là một sự "rước lên". Ở đây, Luca dùng cùng một từ để nói về sự Thăng Thiên: Đức Giêsu sẽ được rước lên trời (Cv 1, 2-11-22)... như ngôn sứ Êlia cũng đã được rước lên (2 V 2, 8-11) Điều "sắp tới"... đối với Đức Giêsu, cũng như đối với mỗi người chúng ta cùng với Người. Đó là một biến cố vừa đau thương, vừa hạnh phúc: Phục sinh, với hai mặt của nó, cái chết và đi vào sự sống của Chúa Cha.
Người nhất quyết đi lên Giêrusalem.
Bản văn Hy-lạp của Luca chứa đựng một hình ảnh: “Người làm khuôn mặt chai cứng lại để đi hướng về Giêrusalem"… như ngày hôm nay, chúng ta thường nói: Người siết chặt hàm răng để cương quyết dấn thân về nơi mà Người biết rằng Người sắp chết. Các Tin Mừng hiếm khi nhấn mạnh những trạng thái tâm hồn của Đức Giêsu. Điều đáng lưu ý là ngày hôm đó Người phải vượt qua nỗi sợ hãi và lấy hết sự can đảm của một con người.
Mỗi người chúng ta phải dành thời gian cùng với Đức Giêsu gợi lại khó khăn hiện tại của mình, đối với một thanh niên có thể là thi rớt, một nỗi đau khổ vì tình cảm cô đơn, một sự xung đột trong đời sống lứa đôi, một sự bất ổn nghề nghiệp, một bế tắc xem ra không vượt qua nổi, một căn bệnh không chữa khỏi, một cái tang vừa phải chịu v.v...
Thay vì buông xuôi, tại sao chúng ta không cùng với Đức Giêsu làm cho khuôn mặt mình chai lại để giữ vững bằng bất cứ giá nào... theo gương người "tôi tớ của Thiên Chúa" đã nói: "Có Đức Chúa là Chúa thương phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt chai ra như đá. Tôi biết mình sẽ không thẹn thùng" (Is 50,7)
Giê-ru-sa-lem hỡi! Nơi duy nhất trên cả hành tinh này: cái hố ấy nơi trồng cây thánh giá... cái ngôi mộ trong huyệt đá ấy nơi cái chết đã thất bại, nơi mà Thiên Chúa kêu khát và làm cho một suối nguồn sinh ra từ cạnh sườn Người. Mọi đời sống Kitô hữu là một con đường lên Giê-ru-sa-lem!
Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng giảm nhẹ Tin Mừng, như thể thời đại của chúng ta là thời đại đầu tiên chứng kiến những xung đột về chủng tộc, chính trị, tôn giáo xã hội.
Những người Samari bị những người Do Thái giáo trung kiên coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Ga-ri-dim để cạnh tranh với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ "lầm lạc" ấy (Ga 4, 9.20).
Bị những người Do Thái khinh bỉ, họ trả đũa lại và gây ra mọi thất phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilê về Giê-ru-sa-lem qua các mỏm núi miền Samari. Đức Giêsu không quay lưng lại mảnh đất bị sự phân biệt chủng tộc và sự khinh bỉ lẫn nhau tàn phá. Và hơn thế nữa, Người từ chối bước vào sự hẹp hòi bế tắc ấy của dư luận quần chúng. Trước hết Luca mô tả với chúng ta một Đức Giêsu hoàn toàn độc lập và làm nổi rõ đức bác ái trọn hành động của người Samari tốt lành (Lc 10, 30). Lòng biết ơn của người bệnh bằng được chữa lành (Lc 17,16) Đức Giêsu yêu thương tất cả mọi người kể cả những người bị cám dỗ nguyền rủa Người.
Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?
Đó là hành phạt mà Êlia đã bắt các đối thủ của ông phải chịu (2 V 1,10). Hai người "con trai của thiên lôi" (Mc 3,17), Giacôbê và Gioan muốn xứng đáng với biệt danh của mình! Nhưng họ chưa hiểu gì về sứ điệp và công việc của Đức Giêsu. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã tạo ra cho mình một ý tưởng về Thiên Chúa hoàn toàn sai lầm: họ tưởng rằng mình là những người giải thích Thiên Chúa và họ chắc rằng mình sở' hữu chỉnh lý! Thiên Chúa toàn năng có thể nào tha thứ việc Đấng Mêsia của Người bị con người khước từ' và đối xử tùy tiện? NGÀY NAY cũng thế, chúng ta cũng muốn thực hiện các dự án của "con trai Thiên Lôi": Thiên Chúa phải can thiệp để tiêu diệt những kẻ thù của Người!
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Giêsu không đến để kết án những người tội lỗi nhưng để cứu họ (Lc 19,10) Thiên Chúa không trùng phạt, Người tha thứ (Lc 23,34).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Ở đây Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Người vốn là Đấng Toàn Năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế để bắt các bề tôi và kẻ thù quỳ móp nhưng chúng ta có thể nói rằng một cách khiêm nhường và nghèo khó, Người chờ đợi sự hoán cải, như một người cha, như một người mẹ, đồng ý cho gia hạn và chờ đợi hành trình chậm rãi của chân lý trong lòng con người. Và Thầy trò đi sang làng khác như những người nghèo hèn ra đi khi người ta không chịu tiếp họ: Tôi nhìn ngắm Đức Giêsu ra đi sang làng khác... Và tôi tự hỏi về sự thiếu nhẫn nại của tôi... trước những tội lỗi của tôi, trước những tội lỗi hoặc sự khước từ của những người khác, trước sự chậm chạp hoặc nặng nề của Giáo Hội... Lạy Chúa xin ban cho con sự nhẫn nại Thánh thiêng của Người.
Thầy trò đang đi trên đường thi có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lởi: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu".
Đúng vào lúc người ta từ chối tiếp đến" Đức Giêsu đang trên đường Giêrusalem, thì có một người xin theo Người một cách quảng đại và có điều kiện. Hẳn người ta có thể mong Đức Giêsu chấp nhận ngay lập tức. Vả lại thay vì chiều theo nhiệt tình của ơn gọi này, Đức Giêsu đã đặt ra phía trước mọi khó khăn thái độ này hoàn toàn trái ngược với mọi cách quảng cáo của chúng ta khoe khoang các sản phẩm của mình đến độ che giấu đi các khuyết điểm. Đức Giêsu không tìm cách tuyển mộ với bất cứ giá nào. Trái lại, Người nhấn mạnh phải chấp nhận sự thiếu thốn, sự nghèo khó, sự bất trắc... để theo Người.
Điều đó làm nổi rõ điều mà Đức Giêsu đã ý thức khi lên Giê-ru-sa-lem. Người tiến về một số phận bi thảm. Ai muốn theo Người cũng phải sẵn sàng chịu ruồng bỏ. Theo sở thích tâm linh của chúng ta, chúng ta có thể suy niệm về cuộc sống lang thang và bấp bênh của Đức Giêsu, "kẻ lang thang không nơi trú ẩn" ấy! Đọi với một con người, không có một mái nhà để trú ẩn và một cái giường để ngã lưng thì quả là khắc nghiệt. Vào những buổi chiều mệt mỏi, điều đó phải trĩu nặng trong lòng. Đức Giêsu. Người lưu ý chúng ta rằng ngay cả thú rừng còn có một nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng can đảm trong những lúc mệt nhọc thể xác hoạt tinh thần.
"Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo!" kẻ nói câu đó có lẽ không biết rằng con đường của Đức Giêsu sẽ dẫn người lên Gôn-gô-tha. Nhưng chúng ta thì biết. Và chúng ta cũng biết rằng "Qua cuộc khổ nạn và Thập giá, chúng ta đi đến vinh quang của sự Sống lại" ánh sáng nhất định sẽ chiếu giải trên những thử thách' của chúng ta: Giê-ru-sa-lem!
Đức Giêsu nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi!" Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chọn cất cha tôi trước đã " Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa".
Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất trong toàn bộ Phúc âm... một lời khiêu khích, nổi loạn. Sự mai táng những người thân của chúng ta là một bổn phận thiêng liêng, đặc biệt lành thánh vì dựa vào một điều răn rõ ràng của Thập giới: “ngươi phải yêu mến cha mẹ ngươi". Lời nói quá đáng của Đức Giêsu đặt chúng ta trước một song luận:
- hoặc là Đức Giêsu là một người điên không nhận thức điều mình đòi hỏi.
- hoặc là Đức Giêsu thuộc về một bình diện khác bình diện trần ri thế, bên trên con người...
Sự thật là Đức Giêsu đi đến chỗ cho rằng ai không tìm kiếm Triều Đại của Thiên Chúa là một "người chết". Bởi vì rõ ràng trong cùng một câu, từ "kẻ chết" không có cùng một ý nghĩa: trong một trường hợp, nó có nghĩa thông thường tức là "những người đã qua đời" nhưng trong trường hợp kia, nó có nghĩa là tất cả những người đã không gặp gỡ Đức Giêsu và Người dám nói rằng họ là "những người chết"? Đối với Đức Giêsu người nào không lo lắng những sự việc của Thiên Chúa không sống theo nghĩa mạnh nhất của từ ấy. Phải, đó là lời khó nghe nhưng là mạc khải về sự sống chân thật và duy nhất sự sống của Thiên Chúa, của Triều Đại Thiên Chúa.
Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã". Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa".
Vậy, Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng con sự từ bỏ ấy? Tuy nhiên Ngài cũng đã đòi hỏi chúng con yêu mến cha mẹ mình và Ngài đã làm gương bằng một tình cảm gắn bó tinh tế với mẹ Ngài là Đức Maria khi trao phó bà cho người bạn tốt nhất của Ngài.
Nhưng sự phục vụ Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tất cả và ngay lập tức. Thiên Chúa bác bỏ những ưu tiên của chúng ta: "Để tôi về chôn cất cha tôi trước đã... Để tôi từ biệt gia đình trước đã..." Đó là những yêu cầu rất chính đáng. Thật vậy đó là những Người rất nghiêm túc, đứng đắn, hiểu lý. Họ đã "lên kế hoạch" của họ trước tiên, những công việc: của cá nhân tôi, kế đó là những công việc của Thiên Chúa. Tôi vừa kết thúc năm học của tôi. Tôi dự trù lập kế hoạch cho kỳ nghỉ hè: khoảng giữa tháng chín tôi sẽ tìm lại Thiên Chúa... sau đó! Mỗi chúa nhật, nghỉ ngơi trước đã, giải trí trước đã, dành thì giờ cho gia đình và bạn bè trước đã: sau đó... nếu còn thời gian hãy đi dự thánh lễ.
Trước ngưỡng của mùa hè đang bắt đầu, Đức Giêsu Kitô cảnh giác tôi về thời gian biểu của tôi! Thang giá trị của con là gì'? Những điều cấp thiết của con là thứ bậc nào. Con đi tắm biển trước đây phải không? Sức khỏe của con trước đã phải không? Hoặc là trước tiên là điều chủ yếu? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta "hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa" (Gl 5,1).
54. Chú giải của William Barclay
Các việc này chứng tỏ Chúa Giêsu lựa lọc rất cẩn thận những kẻ muốn theo Ngài, và rất thành thật trong thái độ của Ngài. Ngài có những lời cho ba loại người theo Ngài.
1. Với hạng người thứ nhất thấy người ta tấp nập đi theo Ngài, anh cũng hớn hở đi theo.
Hạng người: “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo Ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả”. Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết mức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
2. Những lời Chúa Giêsu nói với người thứ hai nghe như ác nghiệt, nhưng thực ra không phải thế.
Được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa chết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá thương yêu anh, do đó, họ không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?” và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy lui chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng tôi sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta”.
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đã chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng ca cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
3. Những lời Chúa Giêsu phán với người thứ ba bày tỏ một chân lý không ai chối cãi được.
Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo Ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm”. Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ăn vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
4. Người muốn theo Chúa nhưng đặt một điều kiện: từ giã gia đình.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “chúng ta nhận ơn Chúa cách ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”. (Phanxicô đệ Salê)
55. Giải thoát
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước theo’)
Vâng! Kính thưa quý vị, giải thoát là một động từ cần thiết để bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn khuyên bảo các môn đệ về sự từ bỏ, vì chỉ có sự từ bỏ con người mới nên cao trọng. Muốn bước theo Chúa Giêsu mà không từ bỏ chính mình, thì không thể đi theo Chúa được. Vâng! Thưa quý vị, sự từ bỏ một cách dứt khoát là sự đáp trả triệt để đối với Lời mời gọi của Tin Mừng. Thiên Chúa cứu thoát những ai biết từ bỏ. Từ bỏ chính mình là quên mình đi, ngày nay nếu làm như vậy thì bị coi là lội ngược dòng. Nhưng điều kiện để được bước theo Chúa Giêsu thì không bao giờ lỗi thời. Dù nhân thế cố công gạt bỏ Thiên Chúa qua một bên, nhưng rồi họ cũng thất bại. Đoạn Tin Mừng Lc 9, 51-62 hôm nay, có hai phần , phần đầu thuật lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, nhưng trên đường đi một làng của người Samaria không đón tiếp Chúa. Điều nầy mang tính hiềm khích trong lịch sử giữa hai bên của người Israel và người Samaria. Vì vậy , họ xem Chúa Giêsu là thù địch của họ. Nhưng Chúa Giêsu không nổi cơn thịnh nộ đẩ đáp trả, nhưng các môn đệ của Người thì nổi giận. Đòi khiến “lửa từ trời xuống thiêu đốt”. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu quở mắng các ông. Điều nầy cho thấy, Tân Ước không phải là thời kỳ luận phạt mà là thời gian cứu độ, vì vậy không giống như Cựu Ước khi bị luận phạt thì Thiên Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt. Như trường hợp thành Sodoma, và người bất tuân đã biến thành tượng muối.
Như vậy thời Tân Ước là thời kỳ cứu độ của Thiên Chúa, và hiện thân của sự cứu độ chính là Đức Kitô, vì vậy lửa từ trời không thiêu đốt như nghĩa đen, mà là thánh hóa và thiêu đốt theo nghĩa bóng, đó là tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu chính là hy lễ duy nhất và vĩnh cửu, chính là hy lễ toàn thiêu. Theo đó bài đọc 2, (Gl 5, 1), thánh Phaolo đã xác quyết rằng: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kiô đã giải thoát chúng ta...), và dường như chúng ta thấy bài đọc 2 không logic với Đoạn Tin Mừng hôm nay theo câu chữ, nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn phù hợp, vì thánh Phao- lô cho chúng ta biết về Thần Khí và xác thịt, điều gì để cho Thần Khí hướng dẫn thì hoàn toàn có tự do. Vâng, tự do chính là một sự giải thoát, nhưng giải thoát chính là để đem lại bác ái cho tha nhân. Nên chi phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy nổi bật lên tính bác ái: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” mà thánh Phaolô đã nhắc lại (Gl 5,14).
Phần 2 của đoạn Tin Mừng: Là sự từ bỏ (phần chính của đoạn chia sẻ hôm nay).
Khởi đi từ bài đọc 1, thuật lại việc tiên tri Elise bỏ mọi sự công việc đồng áng của mình mà đi theo tiên tri Elia, nhưng khác vời Chúa Giêsu, tiên tri Elia cho phép Elise từ biệt song thân trước khi đi theo Elia. Như vậy sự khác nhau giữa sự lưu luyến và từ giã người thân trước khi đáp lại tiếng Chúa gọi giữa Cựu và Tân Ước là gì? Thưa đó là sự trực tiếp và gián tiếp. Khi xưa tiên tri Elia chỉ là ngôn sứ, người gián tiếp khi tiếp nhận Elise, còn Tân Ước chính là Chuá Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Như vậy sự kêu gọi hôm nay là sự kêu gọi trực tiếp, nên chi khi đáp lại tiếng Chúa thì phải có thái độ dứt khoát không do dự, không lo âu, không quyến luyến người thân và của cải. Phần 2 của đoạn Tin Mừng hôm nay từ câu 57- 62 là một chủ đề từ bỏ, từ bỏ là một sự giải thoát, những người muốn xin đi theo Chúa Giêsu nghĩ rằng: sẽ có một địa vị, danh vọng,tài sản để vinh thân, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng CON NGƯỜI không có chổ tựa đầu.” Vâng , Chúa Giêsu là Người nghèo nhất trong số những người nghèo, vì không có người nghèo nào mà nghèo đến nỗi thua cả con chim, con chồn, con cáo.
Nhưng cái nghèo của người môn đệ theo Chúa làcái nghèo tự nguyện từ bỏ để hiến dâng cho việc loan báo Tin Mừng đến độ không dính bén đến tình thân. Như vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi phải dứt khoát khi chọn đi theo Người. Nghĩa là một sự chọn lựa dấn thân vô vị lợi, khi Chúa mời gọi: “ để kẻ chết chôn kẻ chết” , là có ý cho biết việc nào quan trọng hơn và việc nào ít quan trọng hơn. Một khi chính Chúa đã từ bỏ ngôi Trời để ở với con người, thì không còn điều gì quan trọng hơn. Khi nói điều nầy ,Chúa Giêsu muốn cho chúng ta đặt hết niềm tin vào Người. Theo đó, Người muốn cho biết không việc nào quan trọng hơn việc loan báo Tin Mừng đối với người Tông đồ. Nhưng thực tế, thì không phải quá khắt khe như vậy. Câu nói nầy không thể hiểu theo nghĩa đen, vì nếu hiểu theo nghĩa đen, thì không thể đủ nghĩa được, như vậy, những người đi tu thì quá bất hiếu sao? Chúa Giêsu muốn đặt sự dứt khoát, sự triệt để đối với công việc nhà Chúa và là một nội qui Tông Đồ trong sáng và trọn vẹn đúng nghĩa. Theo đó, “Ai đã tra tay cầm cày, mà còn ngó lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn dạy chúng con phải biết từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, vì như vậy chúng con mới nên Tông đồ đích thực của Nước Trời. Xin cho chúng con biết giá trị của Lời Chúa dạy mà làm theo. Amen.
56. Từ bỏ để đi theo Chúa - Lm Giacôbê Tạ Chúc
Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định.Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác.Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh. Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài. Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống. Thế nhưng, để làm môn đệ của Chúa, thì phải dứt khoát, hy sinh và đành chấp nhận thiệt thòi, vì theo Chúa sẽ không có nơi gối đầu, không ngoái nhìn đằng sau.
Thử thách trong chọn lựa
Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân lọai các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích:công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.
Dân Do Thái chọn Chúa
Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa: Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa (Gs24,15).Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng. Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Ê-li-sê-ô cũng được thầy là Ê-li-a kêu mời đi theo Chúa, ông đã bỏ lại cha, mười hai cặp bò và lên đường theo Chúa. Ba người trong Tin mừng đến xin theo Chúa, nhưng ai cũng bịn rịn muốn từ giã gia đình, muốn chôn cất người thân, và muốn có một nơi an toàn cho bản thân. Đức Giê-su Ngài đề nghị hoàn toàn ngược lại với những mong muốn của họ. nước mắt của chọn lựa. Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn. Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hòan thành sứ mạng của mình trên trần gian này.Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời.
Con người chọn lựa
Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh. Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác. Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa.Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động. Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian. Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân.
29/06 Giáo Hội phục vụ
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Giáo Hội phục vụ.
Thứ Bảy tuần 12 thường niên – THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ. Lễ trọng. Cầu cho giáo dân.
"Con là Đá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
* Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo.
Nhưng hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô tại Rôma; có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó".
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ Th. PHÊRÔ & Th. PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
Lời Chúa: Cv. 12, 1-11; 2Tm. 4, 6-8.17-18; Mt. 16, 13-19
Suy Niệm 1: Hai con người
Từ xưa tới nay, Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô. Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có nhiều khác biệt.
Thực vậy, thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ. Còn thánh Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin tòng giáo. Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững. Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo Hội. Đúng thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Biết liên kết những cái khác nhau trong Giáo Hội và trong nhân loại là một đặc điểm quan trọng của Kitô giáo. Bởi vậy trong giây phút này chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mặc dù có những khác biệt trong lòng Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải liên kết phải trở nên một hầu ước vọng của Chúa Giêsu sẽ là một sự thật: Xin cho mọi người được hợp nhất trong chúng ta để cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai con.
Suy Niệm 2: Một đức tin
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, lễ này cũng là dịp giúp chúng ta chiêm ngắm gương sống đức tin của các Ngài. Các Ngài là hai con người khác nhau, nhưng đón nhận cùng một đức tin từ Thiên Chúa, nhưng các Ngài đã vượt qua và ra đi rao giảng đức tin của mình.
Đức tin được đón nhận
Chúng ta thấy Phêrô và phaolô hai người có hai hoàn cảnh, hai địavị, hai trình độ… hoàn toàn khác nhau nhưng các Ngài cùng đón nhận một đức tin duy nhất đến từ Thiên Chúa. Phêrô là người chài lưới, ông rất hăng say, nhiệt tình và có một tâm hồn nhạy cảm. Ông không ngần ngại, không suy nghĩ đắn đo gì, đã bỏ tất cả mọi sự theo Chúa khi Chúa gọi, điều này cho chúng ta thấy rất rõ Phêrô cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí. Phêrô tin và theo Chúa với tất cả lòng nhiệt thành của mình và niềm tin đó được tuyên xưng cách mạng mẽ rõ ràng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật chính xác, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư con người, đây là lời tuyên xưng về bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu này chính là chỉnh cao trong đời sống niềm tin của Phêrô. Có thể là đại diện cho nhóm mười hai, nhưng đây cũng là lời tuyên xưng cho chính Phêrô. Chúa Giêsu xác định lời tuyên xưng này do Chúa Cha mạc khải nên Phêrô mới biết được: “Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”.
Với Phaolô, ông là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa, thái độ đó được biểu lộ khi ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi ông hăng say phi ngựa trên đường Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục sinh gọi và thanh luyện, một quầng sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa, nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là chính Đấng mà Phaolô đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và không gì có thể tách ông ra khỏi lòng mến của Ngài”.
Rõ ràng Phêrô và Phaolô đã đón nhận đức tin trực tiếp từ Đức Giêsu Kitô, còn chúng ta đã đón nhận đức tin gián tiếp qua cha mẹ, Giáo hội …dù khởi đi từ nguồn nào điều đó không quan trọng cho bằng chính thái độ đón nhận của ta, đức tin đo có gắn liền với chích con người mình hay không? Một khi đón nhận cách chân thành, thì chắc chắn chúng ta cũng bị thử thách như Phêrô và Phaolô đã từng bị thử tháh.
Đức tin bị thử thách
Mặc dù Phêrô và phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các Ngài cũng không ngừng bị thử thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ đức tin Giáo hội, nên đức tin đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào Chúa, nhưng mới trước được Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa quở trách là Satan hãy lui ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con không chối Thầy” mới hứa đó thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước ung dung bước đi trên ngọn sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là nhiều khi Phêrô nói mà chẳng hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu là một thử thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô. Cuộc đời theo Chúa của Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành đá tảng vững chắc, trên đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có thể nâng đỡ Đức tin cho anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã của mình.
Và Phaolô cũng bị thử thách “năm lần bị người Do thái đánh 40 roi bớt một, ba lần bị đắm tàu, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi”, ngoài ra ông còn gặp nhiều khó khăn nguy hiểm trong các cuộc hành trình phải chịu đói khát, rét lạnh… cho dù những nguy hiểm ấy ngày đêm cứ bám chặt vây bủa lấy ông thay vì chùng bước, nhưng niềm tin vào Đấng Kitô Phục sinh qua mạnh nên ông coi những việc xảy ra cho ông không quan trọng. Ong chỉ có một mối bận tâm ray rứt là lo cho tất cả Hội Thánh vì lòng yêu mến và nhiệt thành nhà Chúa “tình yêu Chúa Kitô thức bách tôi”. Ông coi sự sống của ông không phải là củ ông mà của đấng đã gọi chọn ông, đến độ ông thốt ra: “Tôi sống nhưng không phải là Tôi sống mà là Đức Kitô sống trong Tôi”.
Khi nhìn lại cuộc sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất một lần trải qua những đau khổ như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những nghịch cảnh đó chúng ta có đứng vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn còn một niềm tin sắc con thì hãy làm chứng đức tin của mình cho người khác như mẫu gương của Phêrô và Phaolô.
Đức tin được rao giảng
Phêrô và phaolô là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ can trường, thay vì chao đảo là một lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống ông là người đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người, đặc biệt là người Do tháij. Khi Chúa Giêsu đặt ông làm đá tảng Hội Thánh ông đã sống đúng với chức vị của mình, ông làm chứng và rao giảng hết sức hùng hồn về Đức Giêsu Kitô bị giết và đã sống lại từ cõi chết “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, chúng tôi xin làm chứng”.. Phêrô cũng cho thấy chính Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại, chỉ có nơi Ngài mới có được ơn cứu độ: “dưới gầm trời này có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ”. Quả thật ông là đá tảng vững vào trong mọi sóng gió, những điều ông rao giảng đã chứng minh bằng cái chết của ông tại Rôma.
Còn Phaolô, sau khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông đã lao mình về phía trước như một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành của mình đi bất cứ nơi đâu vào bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù đày do quyền bính trần thế gây ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho Chúa các linh hồn. Phaolô cũng dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên lợi khí phổ biến Tin Mừng cho những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận và niềm hạnh phúc của mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, đến với những người tin.
Ta thấy rõ Phêrô và Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng. Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến bước trong đức tin và đảm bảo sự thống nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà minh chứng hùng hồn nhất đức tin của Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu cho việc rao giảng niềm tin cho mọi người.
Còn chúng ta, khi đứng trước một thế giới dường như mất cảm thức về tội, quá nhiều người chưa biết và không tin Chúa, chúng ta có dám sống và giới thiệu một Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại như Phêrô và phaolô không? chúng ta hãy cố lên, can đảm minh chứng đức tin của mình vì chỉ có nơi Đức Giêsu Kitô con người mới được cứu độ.
Sự khác biệt giữa hai cuộc đời, hai quá khứ của Phêrô và phaolô, đã nối thành một, bởi một sởi chỉ vào “Đức tin vào Thiên Chúa”.
Chúng ta mỗi người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong đức tin, xẵng sàng minh chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày, điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy nguồn sức mạnh nơi bí tích Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để lời tuyên xưng của Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai?”.
Suy Niệm 3: Anh Là Tảng Đá
(‘Manna’)
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình. Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ. Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng. Cả hai đều được Đức Giêsu gọi. Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Đamát. Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng. Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong một phút giây quá tự tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
"Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống, vì Ngài là "Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40). Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28). "Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu" (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18). Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai vị thánh làm bạn ưa thích?
Bạn nghĩ gì về Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của Ngài cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Suy Niệm 4: Hai cuộc đổi đời
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. Các ngài là cột trụ của Hội Thánh. Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.
Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh. Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi”. Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rầy đây mau đó, phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.
Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.
Thực vậy, nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.
Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết! Phêrô chột dạ. Phêrô nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trũi nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông. Còn đâu lời khẳng khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Còn Phaolô thì sao? sau khi ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Ông đang thấy và thấy rất rõ. Đó là Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe, đã thấy và đã biết.
Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà cả thế giới được đổi mới. Văn hoá ky-tô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu. Có thể nói ở đâu đó còn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm nhuần văn hoá Kitô giáo. Ở đâu đó vẫn còn đó những người được đổi mới cuộc đời nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của tin mừng. Ở đâu đó vẫn còn đó những tâm hồn thất vọng, lầm than họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà Kitô giáo mang lại cho họ.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh. Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta. Amen.
Suy Niệm 5: Đứng dậy nhờ ơn Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn, khiến bạn không thể tiến lên”.
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con trai.
Chúng ta sẽ không biết được sự khó khăn diễn ra như thế nào nếu không tạo cho bản thân cơ hội để vượt qua nó. Đừng bao giờ từ bỏ khi bạn gặp thất bại hay khó khăn”.
Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.
Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa. Anh không buông xuôi theo số phận nhưng biết tận dụng khả năng giới hạn của mình để có thể phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Anh đã rao giảng về Chúa ở quê hương anh. Anh đã rao giảng vượt qua biên giới để đến nhiều vùng đất xa xôi. Anh đã đến Việt Nam và đã tuyên xưng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào thiên đàng và đó là lẽ sống cuộc đời anh, là lý do anh sống và vươn lên.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng từng có những khuyết tật trong cuộc đời của các ngài. Phêrô yếu đuối, nhút nhát. Phaolô kiêu căng, thẳng thắn. Vì tấm lòng khuyết tật nên Phêrô từng chối Chúa ba lần. Còn Phaolô thì lao vào việc truy sát người tin vào Chúa Giêsu phục sinh để bách hại và giết chết. Thế nhưng, cả hai đã nhận ra sự khuyết tật của mình để phấn đấu, để vươn lên. Nhất là biết cậy vào ơn Chúa mà kiện toàn con người mình và phụng sự Thiên Chúa. Phêrô đã từng cảm nghiệm “Ơn Ta đủ cho ngươi và quyền năng Ta hiển trị trên sự yếu hèn của ngươi”. Phaolô thì trông cậy vào sức mạnh của Chúa mà ông đã đi đến cùng sự bách hại, gian truân, đói rét, tù đầy nhưng vẫn giữ vững đức tin. Cả hai đã nhờ ơn Chúa mà bù đắp những khuyết tật của mình để hoàn thiện con người mình theo như lòng Chúa mong ước.
Hôm nay mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, trước hết chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta hai tấm gương biết sám hối và canh tân. Các Ngài không chết trong tội như Giuđa nhưng đã đứng lên để làm lại cuộc đời. Các Ngài đã ý thức sự yếu đuối bất toàn của mình để cần đến ân sủng của Chúa. Các ngài đã biết nương tựa vào ơn Chúa để thắng vượt những giới hạn của bản thân. Và trên hết chính là tấm gương rao giảng tin mừng không mệt mỏi, không chùn bước trước nghi nan. Cho dẫu dòng đời có những sóng gió nguy nan. Cho dẫu đường trần có lắm gian truân, các ngài vẫn kiên trung cho đến cùng lòng trung thành với Chúa. Các ngài luôn ý thức rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”, thế nên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Nước trời”.
Xin cho chúng ta luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình để nhận ra tình thương tha thứ của Chúa vẫn dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta biết nương tựa vào ân sủng của Chúa để kiện toàn mình mỗi ngày một tốt hơn. Và xin cho chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe lời Chúa và nói về Chúa cho tha nhân. Amen.
Suy Niệm 6: "ST" nghĩa là sự thánh thiện
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc". Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi". Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)".
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở là satan. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba lần chối mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh kytô hữu. Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của hai ông chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống đổi mới con người theo như lòng Chúa mong ước.
Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: "Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vẫn hay sao?". Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya đã giúp lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: "trước khi gà gáy con đã chối Ta ba lần". Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua ông còn tuyên bố rằng: "dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà, miệng gan hùm đã không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà hôm ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể xác ông bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn ông lại được sáng tỏ. Ông đã thấy Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế mà, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Người đang nói với ông: "Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm giết". Bao lâu nay ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan báo về sự sống lại của một tử tội Giêsu. Giờ đây, ông đã tin. Sự sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Và kể từ nay, ông đã trở thành một tông đồ ra đi đổi mới cả thế giới.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có những yếu đuối, có những bước đi bị vấp té bởi cạm bẫy của tham sân si. Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: "lầm lỗi là của con người", nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của "thánh nhân". Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài. Chúa không trách phạt các ngài mà còn tin tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận cùng trái đất. Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng". Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: "phải nghe lời Thiên Chúa hơn là lời của con người". Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi chúng ta hãy làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ thân quen.
Ước gì cuộc đời các ngài soi sáng cho cuộc đời chúng ta để chúng ta không bao giờ thất vọng về lỗi lầm của mình, nhưng qua những yếu đuối bản thân, chúng ta càng nhận ra tình thương bao la của Chúa và cũng biết noi gương các ngài trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen.
Suy Niệm 7: Tranh cãi thế nào?
Có một cặp vợ chồng sống trong một căn hộ, họ thường tranh cãi nhau to tiếng và lâu dài hầu như mỗi đêm. Qua những bức tường không cách âm, một cặp vợ chồng khác ở căn hộ kế cận có thể nghe tiếng họ la hét. Vậy phải làm gì để ngừng sự quấy rầy này, để giúp cho cặp vợ chồng kia nói nhỏ nhẹ hơn?
Cặp vợ chồng bên cạnh quyết định một cuộc tranh cãi để cặp vợ chồng kia có một vài ý tưởng về sự ồn ào đáng sợ thế nào. Họ đứng sát tường rồi bắt đầu la hét nhau. Và hầu như tức thời cặp vợ chồng kia ngừng cãi nhau. Và không bao giờ họ la rầy nhau nữa.
Tất cả chúng ta có tranh cãi nhau, vì không có hai người trong chúng ta hoàn toàn giống nhau, không có hai người trong chúng ta nhìn cùng sự vật theo cùng một cách thức. Chúng ta có những khác biệt, và chúng ta bày tỏ những khác biệt này.
Có nhiều cách tranh cãi lành mạnh, nếu chúng ta thực sự trao dổi tư tưởng, quan điểm và lý luận, chúng ta có thể học được nhiều nhờ trao đổi tư tưởng với người khác.
Hôm nay chúng ta tôn vinh hai vị thủ lãnh của Giáo hội, thánh Phêrô và thánh Phaolô. Các Ngài là những vị thánh, tuy nhiên các Ngài cũng đã có một cuộc tranh cãi. Thánh Phêrô nghĩ rằng: người nào muốn nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa Kitô, thì trứơc hết phải trở nên người Do thái, họ phải chịu cắt bì và tuân theo nhiều qui tắc của lề luật Do thái. Thánh Phaolô thì nghĩ khác. Các Ngài đã tranh cãi công khai. Tại cộng đồng Giêrualem, các Ngài quyết định sự tranh cãi bằng cách nhắc đi nhắc lại những điều Chúa Kitô đã dạy các Ngài, nghĩa là Chúa Kitô đã thiết lập Giáo hội của Ngài không chỉ cho người Do thái mà cho cả người ngoài Do thái, dân ngoại.
Nếu bạn phải tranh cãi, th2 hãy theo khuôn vàng thứơc ngọc là: hãy làm cho người khác điều mà bạn muốn họ làm cho bạn. Hãy tranh cãi với người khác như bạn muốn họ tranh cãi với bạn. Hãy lắng nghe, thực sự lắng nghe. Hãy mở rộng cho những ý tưởng khác với ý tưởng của bạn. Hãy chấp nhận là người khác có thông tin và kinh nghiệm vượt hơn bạn.
Bạn đừng chửi bới, hay nguyền rủa, thiên vị, bất công hay lăng mạ. Bạn hãy giữ lời nói ôn hòa, đừng hăm dọa chút nào. Bạn hãy lắng nghe chính mình và người khác. Hãy nghe cuộc tranh cãi dữ dội như cặp vợ chồng thứ nhất trong câu chuyện đã làm.
Trước hết, bạn hãy cầu xin cho được hiểu biết và bình an. Hãy xin Chúa thực sự. Hãy cầu nguyện với ý nghĩa đăc biệt của lời kinh nguyện Thánh Thể II: “Xin cho chúng con khi thông Mình và Máu Chúa Kitô được hợp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.
Trong công đồng Vat. II, đã có những sự tranh cãi giữa 2500 giám mục. Một số trong những trao đổi này rất là nặng nề. Nhưng các Ngài đã giải quyết những khác biệt của mình theo đường lối giống Chúa Kitô.
Ngày nay, cũng có những tranh cãi trong gia đình của Thiên Chúa, nếu thánh Phêrô và Phaolô có những khác biệt, thì chúng ta cũng có thể thâý được những tranh cãi trong tổ chức phức tạp và mở rộng toàn cầu, đó là Giáo hội, chúng ta cũng có thể thấy những khác biệt trong chính giáo xứ chúng ta. Bạn hãy giải quyết chung trong tinh thần của Chúa Kitô, trong tinh thần khuôn vàng thước ngọc của Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con khỏi tranh cãi, nhưng nếu con phải tranh cãi, thỉ xin giúp con hành động theo tinh thần của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 8: Phêrô và Phaolô
Hôm nay tôi xin có ít lời về Thánh Phêrô một vị thánh mà tôi hết lòng kính trọng.
Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.
Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh
Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: "Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến 'dzụ' ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt" Lý do, ông viết tiếp: "Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột" Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tấm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.
Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. PA ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông 'kể công' với Chúa là tất cả mọi sự.
Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành
Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa. Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.
"Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.
Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.
Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ. Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa vó Người: "Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi" Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diên của Chúa.
Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời…….
Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. (xem Ngài đã gọi họ)
Còn Phaolô
Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.
Ông là một con người có học thức - Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.
Gia đình ông thuọc loại khác giả
Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa. - Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về người và s8ãn sàng chết vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đạ tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phêrô trên con đường ra khỏi thành Roma. Quo vadis?
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện."
Suy Niệm 9: Thánh Phaolô Tông Đồ
Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn. Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á. Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình. Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontane.
Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội?
Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói “ Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa. Từ lời gọi “Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do”
Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
Suy Niệm 10: Thánh Phaolô
Hôm nay tôi chỉ xin được nói ít lời về Phaolô một con người đối với tôi thật là vĩ đại và kỳ diêu.
Thú thực tôi rất sợ phải nói về những con người như thế này vì tôi cảm thấy mình quá thấp kém. Nhưng thái độ tránh né hoàn toàn thì tôi tưởng sẽ không phải là tốt nhất…nhất là đối với một người ở trong một cương vị như tôi. Tôi sẽ cố gắng để nói một chút về con ngưởi đặc biệt này.
Phaolô! Ông là ai vậy?
+ Thật khó mà có được một bài trình bày đầy đủ và vắn tắt về con người đặc biệt này. Vì ở nơi con ngưởi này có quá nhiều vấn đề và quá nhiều điều phải nói. Ở đây tôi chỉ xin được nói về một ít đểm nổi bật trong cuộc đời của Ông: trước - sau khi được Chúa gọi và cuộc đời truyền giáo của Ông.
1. Trước khi được Chúa kêu gọi.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
+ Ông là người say mê với niềm tin vào Giavê Thiên Chúa và Đạo của Người
+ Ông là một con người có học thức. Ông đã từng học Kinh Thánh với Gíáo sư Gamaliel, một vị giáo sư về Kinh Thánh nổi tiếng thời đó.
+ Ông hiểu biết nhiều về thần thoại và hệ thống triết học rất thịnh hành thời đó.
+ Chắc chắn ông đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, một con người theo Ông là một người có kiến thức và hiểu sâu biết rộng nhưng ông không thể nào có thế khoan nhượng đối với một số sự việc Chúa Giêsu đã làm như là dám vi phạm đến những luật lệ của Thiên Chúa và những tập tục của tiền nhân như: phạm đấn ngày hưu lễ, tự cho mình có quyền tha tội, làm loạn trong đền thờ và nhất là dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều ưu điểm hơn hẳn Phêrô
Gia đình ông thuọc loại khá giả
Đặc biệt ông là người có tước hiệu Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất bất ngờ và đột ngột làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa.
- Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế:
Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình.
Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sãn sàng chết vì Người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
Suy Niệm 11: Thánh Phêrô Tông Đồ
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilêa. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo:
- Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô:
- Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói:
- “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả lời:
- “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người”.
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an:
- “Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ”.
Phêrô liền kêu ngay:
- “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày”.
Người bảo:
- “Hãy đến đây”.
Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu:
- “Lạy Chúa xin cứu tôi “.
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không? Phêrô trung tín đáp lời:
- “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ:
- “Còn các anh, các anh nói tôi là ai?”
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình:
- “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn:
- “ Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội. Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ:
- “Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa:
- “Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình:
- “Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng:
- “Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết:
- “Chúa đó”.
Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông:
- Con có mến Thày không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa.
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông:
- “Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và Người thêm:
- “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn:
- “Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời:
- Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không?
Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa:
- Thày đi đâu dây?
- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của Ôrigênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.
Suy Niệm 12: Mến Chúa
Mẫu gương chúng ta tìm hiểu hôm nay về hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, đó là lòng mến Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời thánh Giacôbê tông đồ:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Và theo theo mẹ Têrêsa thành Calcutta:
- Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an.
Như vậy, đức ái vừa là dấu chỉ, vừa là kết quả của đức tin. Giữa đức tin và đức ái luôn có một sợi dây liên kết chặt chẽ. Càng có một đức tin bền vững, thì càng phải có những hành động yêu mến để chứng tỏ đức tin của mình.
Hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, chắc chắn đã có một niềm tin kiên vững, thì cũng phải có một tình mến sâu xa.
Trước hết là đối với thánh Phêrô. Sau lời kêu gọi đầu tiên của Chúa Giêsu bên bờ hồ Tibêriat, Phêrô đã từ bỏ tất cả mà đi theo Chúa. Khi Chúa loan báo mình phải lên Giêrusalem để chịu đau khổ và chịu chết treo trên thập giá, Phêrô đã không chấp nhận được sự thật phũ phàng ấy, nên đã kéo Chúa ra một góc mà can ngăn:
- Ước gì điều đó đừng xảy ra cho Thày.
Và rồi Phêrô đã bị Chúa quở trách nặng lời về một tình yêu chưa được soi sáng ấy.
Với một trái tim nóng bỏng, đôi lúc Phêrô đã đi tới chỗ quá khích. Tại phòng tiệc ly, Phêrô đã thề thốt cùng Chúa:
- Dù phải chết cùng thày, con cũng sẵn sàng…Dù mọi người có bỏ Thày, thì phần con sẽ không bao giờ.
Và rồi, Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi, đã chối Chúa ba lần. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải ghi nhận: sau đó là tâm tình sám hối của Phêrô. Phúc âm đã ghi lại:
- Phêrô đã ăn n ăn khóc lóc về tội lỗi của mình.
Sau ngày phục sinh, Chúa Giêsu đã đòi hỏi ở Phêrô, vị tông đồ đã phản bội, điều gì nếu không phải là một tình mến chân thành:
- Phêrô, con có yêu mến Thày hơn những người này không?
Và Phêrô đã ba lần xác quyết về tình yêu của mình bằng một câu trả lời đầy khiêm tốn:
- Lạy Thày, Thày biết con yêu mến Thày.
Thánh Augustinô đã diễn tả như sau:
- Gioan có thể đã yêu mến Chúa một cách tha thiết hơn, nhưng tình yêu của Phêrô lại là một tình yêu mãnh liệt. Lòng mến của Gioan nghiêng về tình cảm, còn lòng mến của Phêrô thì quảng đại và chân thành. Và như vậy, Gioan không có một tình mến đối với Chúa vừa dứt khoát, lại vừa sâu xa cho bằng tình mến của Phêrô.
Tiếp đến là đối với thánh Phaolô. Ngoài mười hai thánh tông đồ, chúng ta không thể tìm thấy một trái tim nào nhiệt thành cùng Chúa cho bằng trái tim của Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
Thực vậy, chính Phaolô đã kêu lên:
- Ai có thể chia lìa chúng ta ra khỏi tình mến của Đức Kitô. Bách hại ư? Đói khát ư? Đau khổ ư? Gươm giáo ư?
Rồi Phaolô còn viết thêm:
- Vì đức tin, chúng ta bị bắt bớ và bị dẫn tới lò sát sinh như một con chiên. Tuy nhiên, chúng ta chiến thắng tất cả nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta.
Nơi khác thánh nhân cũng bảo:
- Dù tôi nói được mọi ngôn ngữ của loài người và các thiên thần, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là như não bạt ầm vang. Dù tôi có ơn nói tiên tri và thấu hiểu mọi mầu nhiệm của khoa học, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời sông, dù tôi phân phát hết mọi của cải, nhưng nếu không có tình mến, thì tôi cũng chẳng là gì cả.
Cũng chính vì tình mến dành cho Chúa mà thánh nhân hăng say rao giảng Tin mừng và phục vụ các linh hồn, dù có phải chịu đựng đòn vọt, tù ngục và muôn vàn khó khăn và thử thách khác nữa.
Sau cùng, đối với thánh Phaolô, cái chết sẽ là một triều thiên vinh quang xứng đáng dành cho một cuộc đời bừng cháy lửa yêu mến.
Thánh Phêrô đã trung thành với Chúa cho đến khi bị đóng đanh vào thập giá trên đỉnh đồi Vatican dưới thời bạo vương Nêron. Còn thánh Phaolô cũng không thua kém thánh Phêtô về phương diện đức tin cũng như tình mến. Thực vậy, sau nhiều năm bị bị tù đày, thánh nhân vẫn không ngừng rao giảng Đức Kitô và sau cùng đã bị chém đầu trên đường Ostie, gần Rôma.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô đều là cha đẻ của chúng ta trong đức tin đồng thời đều là thày dạy của chúng ta trong tình mến.
Bởi đó, hãy bước theo hai đấng và xin hai đấng giúp đỡ chúng ta trên bước đường tiến về quê trời.
Suy Niệm 13: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.
Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống". Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: "Này Simon Phêrô, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: "Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập giá mà Phêrô đã trải qua.
Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống", tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật khác:"Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được.
Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận cùng: "Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được". Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi. Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục, tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.
Suy Niệm 14: Giáo Hội
Mừng kính lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, hai cột trụ vững chắc, chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội, chúng ta cùng nhau nhìn vào tình trạng hiện nay, để rồi từ đó rút ra những kết luận thực hành. Nhìn vào Giáo hội hiện nay, chúng ta phải ghi nhận ba sự kiện đáng buồn sau đây:
Sự kiện thứ nhất, đó là người ta giảm sút lòng tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội.
Thực vậy, nếu theo dõi báo chí, ngay cả những tờ báo công giáo, chúng ta thấy xuất hiện một khuynh hướng cấp tiến nguy hiểm. Khuynh hướng này nhằm đả phá phẩm trật trong Giáo hội, bôi nhọ Đức Thánh Cha và nhất là phê bình những quyết định của Giáo hội. Tôi xin đan cử một trường hợp gần đây nhất, để cho thấy sự sút giảm đã đến hồi trầm trọng. Ai cũng biết Giáo hội Ý là một Giáo hội được coi như toàn tòng công giáo và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị Giáo Hoàng được cảm tình của nhiều người. Khi ngài bị ám sát hụt tại công trường thánh Phêrô, ai cũng cảm thấy xót thương. Thế nhưng, hầu hết người dân Ý vẫn đi bỏ phiếu để chấp thuận luật phá thai, một vấn đề đã được ngài từng lên tiếng phản đối nhiều lần.
Đi xuống một lãnh vực nhỏ bé hơn, trong những câu chuyện thường ngày, tôi được nghe rất nhiều những lời chỉ trích, hạ nhục uy tín các linh mục. Tôi cũng được biết đến rất nhiều vụ kiện về cha này hay cha khác. Kéo nhau ra cha quản hạt hay lên Tòa giám mục mà thôi chưa đủ, họ còn mượn tay chính quyền để phân xử.
Sự kiện thứ hai, đó là người ta đòi hỏi Giáo hội hơn là đòi hỏi chính bản thân mình.
Thực vậy, người ta luôn đặt quyền lời của cá nhân hay gia đình lên trên quyền lợi của Giáo hội. Người ta đòi hỏi các cha, các thày, các dì phải thế nọ, phải thế kia, nhưng lại chẳng bao giờ tự hỏi lòng mình: Tôi đã làm được gì cho Giáo hội?
Rồi từ đó, người ta đi tới một thái độ cực đoan, muốn kiểm soát cả những vị bề trên của mình. Không thiếu gì những cặp mắt soi mói, luôn dò xét nhà thờ, nhà xứ, không phải để nâng đỡ, mà để bới móc. Và nếu chẳng may có một sự việc gì không được vừa ý là thổi phồng và bàn tán xôn xao.
Có nơi, ban hành giáo muốn kiểm soát cả sự chi tiêu của cha sở. Muốn làm bất cứ việc gì cũng phải trình qua ban hành giáo, bằng không thì sẽ có chuyện đôi co, chẳng lành. Hành động như thế là đi ngược lại với nguyên tắc quyền bính trong Giáo hội. Thực vậy, quyền bính trong Giáo hội phải từ trên đi xuống, chú không phải từ dưới đi lên.
Sau cùng, sự kiện thứ ba đó là người quá lo lắng cho bản thân, quá vun quén cho gia đình, mà quên đi lợi ích chung của giáo xứ, của giáo phận, cũng như của Giáo hội. Chẳng hạn việc bàu ban hành giáo. Mặc dù được nhắc đi nhắc lại chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà số người ra ứng cử vào ban hành giáo chẳng được bao nhiêu. Hình như người ta ngại gánh vác những công việc chung. Ai cũng than là gia đình mình quá bận rộn và thiếu thốn. Tuy nhiên, xét cho cùng phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần chung và chúng ta ngại hy sinh cho giáo xứ? Đã thế, khi có người thiện chí, dám hy sinh ra gánh vác công việc chung, thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản, hay gièm pha thế này thế khác.. Chúng ta nói rằng mình yêu mến Giáo hội, thì hãy chứng minh lòng yêu mến ấy bằng những việc làm cụ thể. Đừng tưởng rằng mỗi năm mình đóng góp dăm ba chục ngàn hay một vài trăm ngàn là đã làm tròn phận sự, là đã yên lương tâm, để rồi có quyền đòi hỏi và hạch sách. Chúng ta thử nghĩ xem sự đóng góp ấy được là bao so với những chi phí cần thiết cho việc sinh hoạt cũng như cho việc duy trì và kiến thiết của giáo xứ.
Chẳng hạn việc học hỏi giáo lý. Mỗi năm mới có một kỳ hè. Đây là thời gian thuận tiện để mở những khóa giáo lý. Chính các Đức Giám mục cũng muốn như vậy. Không phải chỉ mình giáo xứ của chúng ta, mà hầu như tất cả các giáo xứ đều mở. Khi mở những khóa giáo lý như vậy, chúng tôi vừa hao tốn tiền bạc, vừa hao tốn thời giờ, lại vừa hao tốn công sức…Thế nhưng, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận để con em chúng ta được bồi dưỡng về đạo đức, được giáo dục về đức tin. Tuy nhiên, tôi thấy có những người đã phát biểu nghe nó chua chát làm sao: Con tôi không phải để đi chơi, nhưng phải tập cho nó biết làm ăn… Nghỉ giáo lý một ngày thì không sao, chứ nghỉ ăn một ngày thì chết…
Từ những sự việc trên, chúng ta đi vào ngày lễ hôm nay: hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã chết để tuyên xưng đức tin và đã trở thành nền móng cho Giáo hội công giáo.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có dám sống và dám chết cho Giáo hội hay không? Chúng ta có dám lên tiếng để bênh vực những quyền lợi chính đáng Giáo hội hay không? Mỗi người chúng ta phải là một viên gạch, góp phần vào việc xây dựng Giáo hội. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta hãy tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội. Nhiều khi, trong những lúc vui đùa bên mâm cơm hay bên tiệc rượu, chúng ta đã kể những mẩu chuyện tiếu lâm liên quan tới tôn giáo. Làm như vậy, chúng ta đã vô tình coi thường những chức vụ trong Giáo hội, để dẫn tới những thái độ bất kính.
Tiếp đến, chúng ta hãy dùng lời nói và việc làm để góp phần xây dựng cho giáo xứ của mình, cũng như cho những giáo xứ khác, trong một tầm nhìn rộng lớn hơn và tổng quát hơn.
Đừng bao giờ hỏi rằng: Giáo hội đã làm gì cho tôi? Nhưng hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi đã làm gì cho Giáo hội?
Suy Niệm 15: Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Khi đọc lại lịch sử của hai vị thánh Phêrô và Phaolô, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì hai con người này hai tính khí khác nhau, hai nền giáo dục khác nhau, nhưng đã bổ túc cho nhau khiến hai Đấng trở nên cột trụ vững chắc cho Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần thế. Thánh Phêrô,vị tông đồ trưởng đã bộc trực thưa với Chúa Giêsu ba lần “Ngài yêu mến Chúa”, nhưng sau đó lại chối Chúa ba lần. Còn thánh Phaolô, một con người bắt bớ Giáo Hội của Chúa, đã bị Chúa làm cho tan nát trên đường đi Đamas.
HAI KHUÔN MẶT - MỘT NIỀM TIN
Tin mừng Matthêu thuật lại, các môn đệ sau khi theo Chúa một thời gian khá dài, có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu, người thì bảo là Êlia, người bảo là Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó, còn các môn đồ nghĩ sao? Chúa Giêsu muốn biết tấm lòng và sự hiểu biết của các tông đồ đối với Chúa Giêsu như thế nào và đây là điều Ngài muốn biết. Ông Simon Phêrô vẫn nhanh nhảu, nóng nảy, bộc trực đã thưa với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Chúa Giêsu đã rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô và đây là câu trả lời Chúa Giêsu muốn biết. Đức Giêsu nói với Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Đức tin của Phêrô đã giúp Ông thốt lên và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin, sự xác tín và sự tuyên xưng của Simon Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh (Mt 16,18). Còn Phaolô, sau khi bị Chúa đánh cho ngã ngựa trên đường Đamas đang khi thực hiện ý đồ triệt hạ các môn đệ và Giáo Hội của Chúa, Phaolô đã nghe tiếng Chúa nói: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai? Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ.” (Cv 9, 4-5). Sao-lô tức Sa-un đã được Khanania đặt tay chữa lành và làm cho Sa-un được sáng mắt do quyền năng của Chúa và Ông đã lại thấy được, Ông đứng dậy và lãnh nhận phép rửa (Cv 9,17-19). Từ hôm đó Ông đã mạnh dạn rao giảng về Chúa khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9,21). Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22).
Thánh Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó Ông và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa (Cv 9,28). Thánh Phêrô và thánh Phaolô mỗi người một cách suy nghĩ, mỗi người một tính khí nhưng dưới ánh sáng của Tin Mừng, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, hai Ngài đã trở thành hai cột trụ vững chắc cho Giáo Hội nhờ đức tin của các Ngài được Chúa củng cố.
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ NÊU GƯƠNG TÔNG ĐỒ CHO TA:
Dù thánh Phêrô đã chối Chúa tới ba lần, dù trước đó Ngài đã cương quyết theo Thầy tới cùng, nhưng khi nghe Chúa loan báo cuộc thương khó Ngài phải chịu để cứu độ nhân loại, Phêrô không thể hiểu được Thầy mình, Ông đã cản ngăn đường Chúa đi, Chúa đã khiển trách Phêrô rất nặng lời, cho ông là Satan, ma quỉ. Nhưng Phêrô đã nhận ra con người của Chúa sau ba lần chối Thầy. Phêrô cũng chỉ nhận ra tình yêu và lòng xót thương của Chúa sau những giọt nước mắt tang thương, ăn năn, sám hối. Còn Phaolô chỉ nhận ra Chúa khi Ông hăm hở, lấc cấc, hăng say truy lùng, bắt bớ các môn đệ của Chúa. Ông chỉ hiểu được lòng tha thứ và tình thương của Chúa khi Ông ngã ngựa và đôi mắt bị mù lòa trên đường Đamas. Hai thánh nhân đều ý thức việc quay trở lại với Chúa, đều cảm nghiệm tình thương xót hải hà của Chúa. Hai Ngài đã rất thực, sống hoàn toàn như mình nghĩ và cũng hồi sinh mau chóng khi hiểu được con người đầy xót thương của Chúa Giêsu. Nên, dù hai tính khí, hai nền giáo dục, hai khả năng, hai cách làm việc khác nhau, thánh Phêrô và thánh Phaolô đã bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa vững chắc ở trần gian này. Hai vị thánh tông đồ đã nêu gương sáng cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho từng người về lòng nhiệt thành, sự can đảm và sự say mê truyền giáo của các Ngài. Hai Ngài còn cho nhân loại thấy dù yếu hèn, dù tội lỗi, dù kém tài, Chúa vẫn luôn dùng tới nếu con người biết tin, cậy và quay trở về với Chúa. Mỗi một con người đều có chỗ đứng trong trái tim Chúa. Chúa thương yêu con người không chung chung, có lệ, nhưng Chúa gọi tên từng người một vì “Ta biết chiên và chiên biết Ta”. Chúa dùng mọi người, dùng mỗi người với tất cả những gì đang có, những khuyết điểm, những hạn hẹp của con người, Chúa xử dụng tất cả để làm phong phú, đa dạng và làm nổi bật quyền năng, uy dũng của Ngài. Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô là lễ kính mầu nhiệm Hội Thánh đặt nền tảng trên các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các Ngài, Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các Ngài giảng dạy”.
Suy Niệm 16: Hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô_Lm Nguyễn Văn Độ
BÀI SUY NIỆM LỄ CHÍNH NGÀY
LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
(Mt 16,13-19)
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và mừng trọng thể cùng lúc lễ hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô, những cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô. Theo truyền thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính với lòng biết ơn hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, và đồng thời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền.
Phêrô có tên gốc là Simon, người Galilê làm nghề chài lưới, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô.
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này : « Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy » (Mt 16, 18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ « tảng đá », chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Phêrô, ngư phủ miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô, người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu tại thế, ông bách hại những người tin Chúa Kitô. Nhưng khi gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, ông trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin, là « dụng cụ ưu tuyển » để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc (x. Cv 9, 1-22).
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi, Phêrô được gọi lúc ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai mờ. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới. Phaolô là chiếc bình được tuyển chọn, Phêrô giữ chìa khóa Nước Trời ; cho dù người này là ngư phủ, người kia là kẻ bách hại. Phaolô đã bị đánh cho mù, cuối cùng thấy rõ hơn ; Phêrô đã chối Chúa, sau tin vững vàng. Phaolô đã chọn tin vào Chúa Kitô sau khi phục sinh. Phêrô vị dân chài thay vì thả lưới bắt cá, nay trở thành kẻ lưới người ta.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh « Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy» (Mt 16, 17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng : « Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến ». (2Tm 4, 17-18)
Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. « Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy » (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống, vì Người là « Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi » (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: « Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô » ( Rm 8, 35.39)
Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28) ; « Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu » (Gl 6, 1-7).
Cả hai hạnh phúc trong việc giữ gìn giáo lý tinh tuyền, nhưng cái phúc tử đạo còn hạnh phúc hơn. Nơi dương gian, vinh quang chỉ là ước muốn ; chốn thiên đàng mọi sự thật nhãn tiền. Tiếng các ngài đã vang đến tận cùng trái đất, và thông điệp loan đi tới chân trời góc bể. Khắp nơi vang tiếng ngợi khen các ngài ; các tín hữu nhẩm đi nhắc lại chiến thắng khải hoàn của các đấng.
Thật là hữu ích khi nhắc lại cho chúng ta vinh quang tử đạo của các hai đấng. Phaolô bị chặt đầu, Phêrô bị đóng đinh cắm đầu xuống đất. Hình thức tử đạo thật mầu nhiệm. Phêrô không dám chịu đóng đinh giống Thầy mình. Đó không phải là ông từ chối tử đạo, nhưng ông sợ nhận lấy cái chết giống Đấng Cứu Thế. Cả hai vị đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo, dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
Lạy Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, cầu cho chúng con.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm 17: Hai Cột Trụ Của Giáo hội
HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(Mt 16, 13-19)
Phêrô và Phaolô là hai trụ cột của Giáo hội mà phụng vụ không thể tách rời. Đây là hai khuôn mặt sáng ngời của Giáo hội, hai người Do Thái gắn bó với đạo cha ông, một người sống ở miền quê, người kia thành thị, cả hai đã được Đức Kitô chọn gọi.
Simon, mạnh mẽ với đức tin bình dân xứng đáng với tên gọi Phêrô. Saolô, người đã theo học với các bậc thầy nổi tiếng, trên đường đến Đamát, ông đã gặp Chúa Giêsu, Đấng tự tỏ mình cho ông như một nhân vật sống trong vinh quang của Thiên Chúa duy nhất và trong lòng những người tin vào Người mà ông đang bắt bớ (x. Cv 9,1-19), được đầy Thánh Thần ông được gọi là Phaolô (x. Cv 13,9).
Phêrô vất vả vượt qua biên giới Israel mở toang cánh cửa Giáo hội cho những người không phải là con cháu của Abraham bước vào. Trái lại, Phaolô là một nhà truyền giáo khắp nơi của Giáo hội và trên thế giới. Phêrô và Phaolô là những chứng tá sống động, mẫu mực về đời sống thiêng liêng. Hơn bao giờ hết, chúng ta có được cảm hứng từ đời sống của hai đấng, nếu chúng ta muốn, đến lượt chúng ta, có thể làm chứng trong chân lý về đức tin của chúng ta, đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh. Cùng đi với Giáo hội hướng tới chân lý và ánh sáng giữa sóng cả ba đào thế gian. Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Mt 11, 25). Chúng ta, những con người nhỏ bé, nghèo hèn phải đối mặt với một thế giới đầy khó khăn. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta tiến bước trong ân sủng với niềm tin và hy vọng.
Chúa Giêsu trả lời Phêrô : "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17). Phêrô sẽ không đòi cho mình sự độc quyền để trở nên Phêrô cho Giáo hội đang gặp rắc rối giống như ông lúc Chúa Giêsu chịu khổ nạn : "Anh em cũng vậy, anh em là những viên đá sống động mà xây dựng cộng đoàn dưới tác động của Chúa Thánh Thần" (1Pr 2, 5). Ngôi Đền Thờ thiêng liêng Cộng đoàn Kitô giáo được xây dựng trên Chúa Kitô là Đá Tảng của Thiên Chúa. Phêrô với tư cách cá nhân tuyên xưng : "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Những gì ông nói thực sự là căn tính của Chúa Giêsu trong tương quan giữa Chúa Giêsu với Cha Người, đây là đức tin của Giáo hội sau khi Chúa phục sinh. Đức tin này đã được các Tông Đồ trung thành gìn giữ cho đến tử vì Đạo.
Tiếp theo, chúng ta đề cập đến niềm tin của chúng ta vào lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng, và giáo huấn của Giáo hội. Chúng ta xin ơn khiêm nhường để phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa. Phêrô và Phaolô đã tỏ bày sự nóng bỏng của Tình Yêu, Đức Ái nơi lòng mình. Các ngài đã nói về Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, và các ngài đã làm điều đó không chỉ bằng lời nói, nhưng trên tất cả bằng hành động. Phêrô và Phaolô đã thấy mình cùng rực cháy lửa tình yêu của Thiên Chúa. Và chính Tình Yêu này đã thúc đẩy họ hiến trọn thân mình cho Chúa Kitô và hiền thê của Người là Giáo hội.
Lời tuyên xưng của Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho các môn đệ, một điểm chuẩn cho tất cả mọi thời. Còn Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho những người tin, nhờ ông mà họ có thể khẳng định niềm tin của mình. Chúa Giêsu nói với Simon bằng một lời chúc phúc : " Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc", Người đã mạc khải cho Phêrô cái phúc mà ông vừa tuyên xưng, đón nhận lời tuyên xưng của Phêrô vào Người mà Thiên Chúa Cha đã mạc khải cho ông. Chính nhân đức này mà Phêrô được Chúa Giêsu coi như đá góc của Giáo hội. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận ra rằng đức tin đến từ những nơi khác: Đó là một sự trung thành mà Chúa Thánh Thần nói cho chúng ta. Chúa Giêsu trao cho Phêrô Mầu Nhiệm của Giáo hội Chúa, mầu nhiệm đó sẽ là cả hai cùng chịu đóng đinh với Người và được sống lại với Người. Qua mái trường tình yêu tuyệt vời của phụng vụ, một kho tàng được ban cho chúng ta mỗi ngày. Dân Thiên Chúa bước đi trong một thế giới khủng hoảng. Với Chúa Thánh Thần, dân Chúa có thể đánh bại quyền lực của bóng tối nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Đối với mỗi người Kitô hữu, sống là Đức Kitô, thánh Phaolô nói : "Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh." (Col 1, 24). Lòng chúng ta bừng cháy lửa tình yêu đối với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người, bởi vì yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến Giáo hội của Chúa và dâng hiến hoàn toàn cho Giáo hội.
Đại lễ mừng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô hôm nay khơi dậy nơi chúng ta một niềm vui lớn lao, vì đặt chúng ta trước công trình thương xót của Thiên Chúa trong tâm hồn hai vị Thánh, hai người tội lỗi. Và Thiên Chúa cũng muốn làm cho chúng ta được tràn đầy ân sủng của Ngài như đã làm cho hai thánh Phêrô và Phaolô. Kính xin hai Thánh, giúp chúng ta đón nhận ơn thánh như hai vị với con tim rộng mở.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm 18: Hồng Ân Đức Tin
LÊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
(Mt 16, 13-19)
Ngày 29 tháng 6 hàng năm là ngày dành riêng cho hai vị thánh tử đạo Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta long trọng cử hành Đại Lễ Kính Các Ngài là nền tảng của Hội Thánh sơ khai, và đức tin của người kitô hữu, vì “Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin”; “Phaolô, là người làm sáng tỏ đức tin” (Kinh Tiền Tụng).
Là Tông Đồ của Chúa Giêsu, và là nhân chứng tiên khởi, nên Hai Thánh đã sống những khoảnh khắc đầu tiên và chứng kiến sự lớn mạnh của Giáo hội, đồng thời đã đổ máu đào để chứng tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu. Chúng ta, những kitô hữu ở thế kỷ XXI, có thể là những chứng nhân đáng tin cậy về tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian giống như Hai Tông Đồ và nhiều người khác nữa.
Trong Huấn từ đầu tiên của Ðức Thánh Cha Phanxicô, ngỏ lời với các hồng y năm 2013, ngài nói “Chúng ta phải bước đi, xây dựng và tuyên xưng” Không Tuyên Xưng Ðức Kitô Chịu Ðóng Ðinh, thì Không Phải Môn Ðệ của Người. Chúng ta có thể đi như chúng ta muốn, chúng ta có thể xây dựng rất nhiều điều, nhưng nếu anh em không tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô, thì có điều gì sai? Chúng ta sẽ trở thành một cơ quan hỗ trợ cho tổ chức phi chính phủ (NGO), chứ không phải Hội Thánh, là Hiền Thê của Chúa.”
Vì thế câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai ?” Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính mình. Trong số người đương thời, có kẻ cho Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, Êlia, Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó (x. Mt 16,13-19).
Đối với Phêrô, vị ngư phủ miền Galilê, Chúa Giêsu đòi hỏi một hành động về đức tin của chính mình và ông đã không ngần ngại tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ngay lập tức, Chúa Giêsu nói với ông : “Phêrô, con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” ( Mt 16,18) và trao cho ông chìa khóa nước Trời, đặt ông làm Thủ lãnh các Tông Đồ, cùng với quyền tối thượng.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa có nghĩa là Đấng được xức dầu làm Ngôn Sứ, Vương Đế và là Mục Tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đức Kitô chứa đựng ý tưởng toàn năng. Các môn đệ nhìn chung đều nghĩ rằng, Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel, Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa người Do thái lên thống trị. Vì thế, khi Phêrô thưa : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), là ông nghĩ tới một Đức Kitô vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù.
Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi trên đường Chúa đã chỉ cho. Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực của Đức Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa biến đổi đời ta.
Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đức Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh Đức Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đức Kitô đau khổ thay vì vinh quang. Vì thế, ngày hôm nay phải là ngày tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta được loan báo bởi hai cột trụ của Giáo hội là thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. Đức tin này đã thắng thế gian, vì đức tin ấy tin và tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Cho dù Phêrô hay những người kế vị đã được trợ giúp bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, vì nhiệm vụ của các ngài thật cao cả tuyệt vời đối với đời sống của Giáo hội : Các ngài phải là nền tảng vững chắc cho tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời; Thế nên, chúng ta phải cầu nguyện hàng ngày cho Giáo hội, cho Đức Thánh Cha.
Những ngày lễ về hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong năm nhắm đến khía cạnh khác, nhưng hôm nay 29 tháng 6, chúng ta chiêm ngưỡng điều cho phép chúng ta gọi là “những người đầu tiên loan báo đức tin”: thông qua cuộc tử đạo của Hai Thánh, và lời tuyên xưng của Các Ngài. Lời tuyên xưng ấy không phải xác thịt hay khí huyết mặc khải cho Phêrô về Chúa Giêsu, nhưng là Chúa Cha Đấng ngự trên trời (x. Mt 16,17). Tương tự như vậy, việc phát hiện ra Chúa Giêsu là “một trong những người bị bắt bớ”, ngay cả đối với Saolô, thực sự mở ra ân sủng của Thiên Chúa. Trong cả hai trường hợp, nhu cầu tự do con người đòi hỏi hành động của đức tin dựa trên tác động của Chúa Thánh Thần.
Đức tin của các Tông Đồ là đức tin Giáo hội, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Kể từ khi Phêrô tuyên xưng tại Caesarea Philiphê, “mỗi ngày, toàn thể Giáo hội, chính thánh Phêrô nói: 'Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Saint Lêô Cả). Từ đó cho đến nay, tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời nam phụ cũng như lão ấu, thuộc các nền văn hóa khác nhau đều tuyên tuyên xưng cùng một đức tin như thế với sự khải hoàn.
Lạy thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng con cám ơn Hai Đấng vì hồng ân đức tin mà Các Ngài đã rao giảng và sống, đồng thời truyền lại cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
28/06 Tình yêu thương xót
- Viết bởi Lc 15, 3-7
Tình yêu thương xót.
Thứ Sáu tuần 12 thường niên – THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU. Lễ TRỌNG.
Ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
"Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc".
Lời Chúa: Lc 15, 3-7
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các người biệt phái và luật sĩ dụ ngôn này rằng: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tình yêu
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:
- Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.
Có lẽ không một lời nói nào của Chúa làm cho chúng ta xúc động bằng lời nói đầy yêu thương sau đây:
- Này con, con hãy dâng lòng con cho Cha.
Khi nghe đọc những lời này, chúng ta dường như cảm thấy Chúa đang gõ cửa, đang dang tay van xin chút tình yêu thương của chúng ta.
Thực vậy, Ngài không phải chỉ van xin bằng lời nói, mà Ngài còn thực hiện sự van xin ấy bằng những việc làm cụ thể. Máng cỏ, Thập Giá và Thánh Thể đã chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn nhất của một tình yêu điên khùng và mạnh mẽ đó sao?
Đúng thế, mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, khi quì bên máng cỏ, chúng ta không bồi hồi xúc động sao được. Hài nhi Giêsu nằm trên lớp cỏ rơm, không nói với chúng ta bằng ngôn từ, nhưng nói với chúng ta bằng việc làm, bằng chứng tích cụ thể của tình yêu:
- Con thấy không Cha đã yêu thương con biết bao, chính vì yêu con mà Cha đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất. Cha đã đến trong thế gian, chỉ vì yêu thương con mà thôi.
Rồi trong những phút giây thinh lặng ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên Thập Giá và tự hỏi:
- Ai đã chịu treo trên đó?
- Con Thiên Chúa.
- Tại sao Ngài lại chấp nhận một cái chết tủi nhục và đớn đau như thế?
- Chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi.
Thực vậy, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống nghèo túng và cực nhọc. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu đánh đòn, chịu đội mạo gai và sau cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu lưỡi đòng đâm qua trái tim.
Suy nghĩ về cực hình Thập Giá, chúng ta phải kêu lên như thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Sau cùng, hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết về hình ảnh người mục tử nhân lành. Đúng thế, người mục tử nhân lành dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Và khi chiều xuống, người mục tử nhân lành đưa đàn chiên về chuồng để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta còn trở vượt hơn tình yêu của người mục tử nhân lành rất nhiều.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thấy được những gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Cả Mình với Máu thánh. Cả thân xác với linh hồn. Cả bản tính nhân loại với bản tính Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng đáp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Và sau cùng, tước tình yêu thương vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời nguyện cầu chân thành:
- Lạy Chúa, xin cho con biết làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.
SUY NIỆM 2: Nền văn minh tình thương – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tiến bộ. Trong vòng vài thập niên, khoa học kỹ thuật tiến nhanh tới mức không ngờ. Đời sống vật chất của con người được nâng cao rất nhiều. Nhà cao cửa rộng hơn. Ăn uống đầy đủ hơn. Có nhiều tiện nghi hơn. Có nhiều tiền bạc của cải hơn. Tuy nhiên con người vẫn không thấy hạnh phúc. Cuộc sống tiến bộ hơn nhưng lại làm con người cảm thấy mệt mỏi hơn. Cuộc sống trở nên như gánh nặng.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người quá vất vả. Chưa bao giờ cuộc sống đầy đủ như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ cuộc sống lại vất vả như hôm nay. Phải lo âu tính toán nhiều hơn. Phải bươn chải chạy vạy nhiều hơn. Phải cạnh tranh nhiều hơn. Chính vì thế mà phát sinh nhiều bệnh mới. “Stresss” là căn bệnh điển hình của thời đại. Hưởng thụ như một ảnh ảo, càng đuổi theo lại càng lùi xa.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người đã đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Chưa bao giờ người ta giàu có như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ người ta chán sống như hôm nay. Số người tự tử tăng một cách đáng sợ. Bi thảm là những người tự tử thường trẻ tuổi. Và những người chán sống lại là những người dư thừa vật chất.
Đứng trước những lo âu vất vả của con người. Chúa chạnh lòng thương, bày tỏ Trái Tim Chúa như phương thuốc chữa trị. Và Chúa ân đưa ra hai lời mời gọi.
Lời mời gọi thứ nhất: Hãy trở về với Trái Tim Chúa: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ bổ sức cho ngươi”. Con người được tạo dựng do tình yêu thương của Thiên Chúa. Nguồn gốc, con người lạc hướng, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Muốn tìm lại ý nghĩa đời mình, phải quay về nguồn cội, nơi mình được phát sinh ra. Càng xa Chúa, càng khắc khoải băn khoăn. Càng về gần Chúa, càng bình an thư thái. Thánh Augustinô đã cảm nghiệm được chân lý này. Khi còn trẻ, Ngài đã tìm kiếm hạnh phúc qua hưởng thụ. Nhưng càng tìm kiếm càng thấy trống rỗng. Càng hưởng thụ càng thấy chán ngán. Sau cùng được ơn ăn năn trở lại, gặp được Chúa, ngài đã thốt lên một câu bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa tạo dựng nên con cho Chúa. Nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Từ đó ngài tiến bước trong tình yêu Chúa, được rửa tội, dâng mình cho Chúa, làm linh mục, làm giám mục, và làm thánh. Ngài đã tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Lời mời gọi thứ hai: Hãy học với Trái tim Chúa: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hầu hết những xung đột trên thế giới đều phát xuất từ tính kiêu căng và lòng độc ác. Vì kiêu căng nên hay tự ái, cạnh tranh với người khác. Vì độc ác nên tàn nhẫn chà đạp người khác. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Người trở nên kẻ thù của người. Vì thế tâm hồn con người không lúc nào nghỉ yên. Muốn được bình an thư thái phải học nơi Trái Tim Chúa sự hiền lành và khiêm nhường. Người hiền lành khiêm nhường chiến đấu với chính mình chứ không chiến đấu với người khác. Người hiền lành khiêm nhường quên mình vì người khác chứ không quên người khác vì mình. Khi biết quên mình để nghĩ đến người khác, ta góp phần xây dựng hoà bình trên thế giới. Khi biết chiến đấu để thắng được chính mình, ta được bình an trong tâm hồn. Khi sống hiền lành khiêm nhường như thế ta xây dựng một nền văn minh mới. Không phải nền văn minh khoa học kỹ thuật mà là nền văn minh của trái tim. Không phải nền văn minh gây ra chán nản mệt mỏi, nhưng là nền văn minh đem hạnh phúc an vui. Đó chính là nền văn minh tình thương. Nền văn minh ấy ta chỉ xây dựng được trong Trái Tim Chúa.
Trong tháng sáu kinh Thánh Tâm Chúa, ta hãy siêng năng đến với Thánh Tâm Chúa, để tìm được ý nghĩa cuộc đời và để được Chúa dạy bảo ta con đường hiền lành khiêm nhường. Đó chính là con đường đưa ta đến sự thật và sự sống.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1- Lễ Thánh Tâm, Chúa Giêsu mời gọi bạn làm gì?
2- Hiền lành và khiêm nhường có quan trọng không? Bạn đã từng thực hành hiền lành và khiêm nhường nơi nào?
Sứ điệp của lễ Thánh Tâm có cần thiết cho thế giới hôm nay không?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Tâm Chúa Giêsu
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
SUY NIỆM 4: Trái Tim bốc lửa
Hình ảnh Trái tim Chúa Giêsu bốc lửa đỏ rực giữa trước ngực, nổi bật lên tình yêu nồng nàn của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
Dấu chỉ tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa thể hiện rõ nơi tình mẹ con. Loài nào sinh con ra, mẹ cũng biết âu yếm, ấp ủ, nuôi dưỡng bảo vệ con. Đó là bản năng tự nhiên do Thiên Chúa ban phát cho chúng. Loài càng khôn càng tỏ ra yêu con hơn. Tình yêu như vậy là hướng về sự sinh tồn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho tình yêu muôn loài được sinh tồn. Do đó phải hướng về Thiên Chúa thì mới được sinh tồn. Nhưng Thiên Chúa cho con người có tự do, nên con người lạm dụng tình yêu về những đối tượng bất chính.
Để phân biệt rõ rệt đâu là tình yêu của Thiên Chúa, đâu là tình yêu bất chính, lời Chúa hôm nay đã nêu ra hai tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn thứ nhất: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hiệp thông và thăng tiến những đối tượng không mấy hấp dẫn như những kẻ bé mọn và tội lỗi.
Bài đọc I nói Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn, thánh hiến và gắn bó với một dân tộc thiểu số, một dân nô lệ.
Bài đọc II cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vì chúng ta tội lỗi.
Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu đã “cảm tạ Cha là Chúa tể trời đất” lại yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn”. Chúa Giêsu dù là Con Chúa Cha và đã được Chúa Cha ban toàn quyền trên mọi sự, lại đánh bạn với những kẻ lao động vất vả, những phu khuân vác cực khổ, những người gồng gánh, bán rong nặng nề. Người kêu gọi họ đến hiệp thông với Người trong tình nghĩa êm ái, dịu dàng, trong trái tim hiền lành và khiêm nhu của Người.
Tiêu chuẩn thứ hai: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hy sinh cứu độ. Hy sinh của Thiên Chúa là giữ lời giao ước, lời tuyên thệ trung tín và tín nghĩa với một dân thiểu số. Thiên Chúa đã hy sinh hạ mình xuống ngang hàng với kẻ nhỏ bé nô lệ để thề ước với họ, phải hy sinh giữ tín trung với hạng người hay phản bội, phải ra tay làm việc nghĩa cứu họ khỏi tiêu diệt. Thiên Chúa phải hy sinh mặc khải cho kẻ bé mọn. Những kẻ khôn ngoan thông thái còn mù tịt về Thiên Chúa, thì làm sao những kẻ hèn mọn, dốt nát, ngu độn hiểu biết được Thiên Chúa cao siêu, huyền diệu? Thật là một công trình khó khăn như múc nước đại dương đổ vào lỗ cáy. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chịu đựng làm một việc khó khăn đó.
Tình yêu hy sinh cứu độ của Thiên Chúa vô cùng lớn lao hơn nữa là đã sai Con Một đến nâng đỡ kẻ gánh vác nặng nề, bổ sức cho kẻ lao đao vất vả, làm cho cuộc đời họ trở nên êm ái, nhẹ nhàng. Tột đỉnh của tình yêu hy sinh đó là: “Con của Người đã hy sinh chịu chết làm của lễ đền tội vì tội lỗi của chúng ta”. (Ga. 4, 10).
Suy gẫm tình yêu tuyệt vời đó, thánh Phaolô đã đưa ra một so sánh cụ thể cho ta thấy rõ Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may mới có kẻ chết vì một người lương thiện. Không có ai chết cho kẻ tội lỗi, thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, là những kẻ tội lỗi” (Rm. 5, 7-8).
Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa mới có thể hy sinh cùng cực như vậy. Những thứ tình yêu khác chỉ bắt nguồn từ:
Tình dục:
“Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh”
“Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi”
Từ tiền bạc, danh vọng:
“Thế gian chuộng của, chuộng công
Nào ai có chuộng người không bao giờ”
“Có ăn thiếp ở cùng chàng
Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui”
“Còn tiền kẻ rước người đưa
Hết tiền chẳng thấy một người nào ưa”
Đó là những thứ tình yêu bất chính, bất chính với Thiên Chúa và bất chính với cả con tim của họ.
Ai cũng cho rằng: trái tim chân chính là nơi phát xuất tình yêu, một thứ tình yêu hiệp thông và rung cảm, một thứ tình yêu hy sinh giải thoát sự chết.
Nhiệm vụ của con tim là phân phát dòng máu đỏ, dòng máu sống đi khắp cơ thể, cho tới kẽ tóc chân tơ, tới nơi bé nhỏ nhất trong cơ thể, con tim còn như cây đàn rung lên bảy nốt nhạc: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, cụ tạo nên những âm thanh thông cảm với lòng người trong những khi gặp vui buồn, sướng khổ, giận hờn, yêu ghét, lo sợ, hồi hộp. Đó không phải là thứ tình yêu hiệp thông sự sống, chia sẻ tâm tình làm cho cuộc sống trở nên êm ái nhẹ nhàng đó sao?
Con tim còn là nơi thu hồi dòng máu đen, dòng máu lạnh của sự chết để cứu mọi chi thể khỏi chết đó sao?
Con tim xứng đáng là một hình ảnh của Đấng Cứu độ yêu thương để ban phát sự sống, hy sinh để lãnh lấy sự chết.
Lạy Chúa là nguồn yêu thương vô tận, Chúa đã tác tạo nên những trái tim nhỏ bé đang yêu thương chúng con, đã ban Thánh tâm Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu đến yêu thương chúng con hơn chính mạng sống của Người, xin cho mỗi người chúng con biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con. Đó là hạnh phúc lớn nhất của chúng con mà văn hào Shakespeare đã cảm nghiệm rằng: “Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất trên đời”. “To love and to be loved is the happiest thing in the world”.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm VIKINI)
SUY NIỆM 5: Ðỉnh cao của tình yêu thương – Lm Trần Ngà
Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải phẩu thay tim ngay thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.
Khi người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vân vân. Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!
Ðứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất quan trọng khác... Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn...
Ðến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận... Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.
Thế là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.
Thế nhưng có một Ðấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban Trái Tim mà còn toàn cả thân xác và mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Ðó là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta và chết thay cho chúng ta.
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Phêrô 2, 24)
Trước mặt Thiên Chúa toàn năng tốt lành cao cả thì loài người chúng ta chỉ là sâu bọ, chỉ là cỏ rác, cát bụi thấp hèn, thế mà Chúa Giêsu, là Chúa Tể càn khôn, là Vua của muôn vua, là Ðấng quyền năng và vô cùng cao cả đã vui lòng hiến ban thân xác và mạng sống cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng ta.
Thật là điều nhiệm mầu của tình yêu mà trí khôn loài người không hiểu thấu được.
* * *
Trên thập giá, Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta không những Trái Tim bị đâm thủng mà còn cả sinh mạng của Người với trọn vẹn tình yêu và lòng tha thứ vô biên.
Từ đó, Thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Gioan 3, 16)
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình.” (Gioan 15, 13)
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
* * *
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta không tôn thờ hình ảnh trái tim rỉ máu của Chúa Giêsu nhưng tôn thờ Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa mà Thánh Tâm là biểu tượng.
Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học yêu thương cơ bản: yêu thương không phải là chiếm đoạt nhưng là trao ban.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một mình.” (Gioan 3, 16)
“Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho người mình yêu.” (Gioan 15, 13)
SUY NIỆM 6: Sống Lời Chúa – Lòng Chúa nhân từ
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã giảng dạy cho mọi người và nhất là Ngài đã niềm nở tiếp đón những kẻ thu thuế và tội lỗi, ghé thăm và dùng bữa tại nhà họ. Đó là điều khiến cho bọn biệt phái và luật sĩ, vốn tự hào là những người đạo đức và trung thành tuân giữ lề luật, không thể nào chịu đựng nổi. Họ đã thì thầm bàn tán cùng nhau :
- Nếu ông ta là một vị tiên tri, hẳn phải biết những kẻ ấy là hạng người nào. Hay ông ta chỉ là một kẻ mị dân, một tên quyến rũ, một phường vô lại mà thôi.
Để dạy cho những kẻ đạo đức giả, như bọn biệt phái và luật sĩ, một bài học về lòng Chúa xót thương, Ngài đã kể cho họ nghe mẩu chuyện về người mục tử nhân lành, lang thang đi tìm con chiên lạc. Và khi đã thấy được, người ấy đã vác nó trên vài mà mang về nhà, rồi loan báo tin vui cho bè bạn.
Hay mẩu chuyện người đàn bà đốt đèn tìm kiến đồng bạc đánh rơi. Và khi tìm thấy, người ấy đã mời chị em lối xóm đến để chia vui với mình.
Và nhất là với hình ảnh người cha già mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về, để rồi sẽ tha thứ tức khắc và tha thứ tất cả cho cậu.
Từ những mẩu chuyện trên, Chúa Giêsu đã đi tới một kết luận. Và chính kết luận này đã làm cho chúng ta cảm thấy được an ủi, khích lệ và thấm thía :
- Ta nói thật với các ngươi : các thiên thần ở trên trời sẽ vui mừng hân hoan vì một kẻ tội lỗi sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Những hình ảnh và những so sánh này đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn, giúp chúng ta hiểu được niềm vui khi một kẻ tội lỗi chổi dậy, từ bỏ con đường tăm tối mà trỡ về cùng Chúa, đồng thời thắp lên trong chúng ta ngọn lửa hy vọng, giúp chúng ta hiều được lòng Chúa xót thương đối với những kẻ lầm đường lạc lối.
Đức Kitô không phải chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa Ngài còn thực hiện những gì mình đã giảng và đã dạy. Nơi Ngài, ngôn hành hợp nhất, lời nói luôn đi đôi với việc làm.
Thực vậy, Ngài đã cải tạo trái tim của Madalêna, người thiếu phụ tội lỗi. Ngài đã tha thứ và để cho người đàn bà ngoại tình được ra về bình an. Ngài đã làm cho người thiếu phụ Samaria xúc động trước tấm lòng khoan dung. Ngài đã đổi đời cho ông Giakêu, một nhân viên thu thuế, vốn bị người Do Thái đồng hóa với phường tội lỗi. Ngài đã hứa thiên đàng cho tên trộm lành trên thập giá : ngày hôm nay, ngươi sẽ ở nơi vui vẻ cùng Ta. Ngài đã đặt Phêrô làm đầu Giáo hội, dù ông đã chối Ngài ba lần. Nỗi khổ đau của con người thì cùng cực, những tình thương của Chúa lại vô biên.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã đi theo dấu chân của Chúa, không ngừng tím kiếm những con chiên lạc, cũng như tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Chẳng hạn cha thánh Vianney đã chấp nhận mọi mệt mỏi, ngồi vào tòa giải tội nhiều giờ mỗi ngày để xoa dịu những tâm hồn tan nát vì tội lỗi. Thánh nhân thường nói :
- Thật là vui mừng nếu như có được những con cá lớn trong mẻ lưới của tôi.
Những con cá lớn mà Ngài ám chí, đó chính là những kẻ tội lỗi..
Chẳng hạn cha Chevrier đã nói :
- Linh mục là người bị ăn.
Và rồi cha đã vui vẻ tiếp nhận những thanh thiếu niên lầm lỡ, đã bị xã hội ruồng bỏ, dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt lành và đạo đức.
Gần chúng ta hơn, có những dòng tu, như Dòng Chúa chiên lành ở Vĩnh Long, đã mở rộng cánh cửa tiếp đón và nâng đỡ những chị em đĩ điếm, giúp họ làm lại cuộc đời. Hay như dòng Don Bosco, chuyên môn giáo dục thanh thiếu niên, nhất là những trẻ em bụi đời, để họ tìm thấy hướng đi cho cuộc sống của mình.
Phải chăng đó là những phản ảnh, những tiếng vọng cho tình Chúa xót thương ? Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi hai thái độ.
Thái độ thứ nhất đó là cậy trông mù quáng. Những người này chủ trương cứ việc hưởng thụ, cứ việc vui chơi và chỉ cần ăn năn vào một vài giây phút cuối cùng và rồi Chúa sẽ mở rộng cửa thiên đàng đón nhận. Lý luận như thế là một sự xúc phạm, một sự chế nhạo và coi thường lòng thương xót của Chúa. Đây không phải là con đường dẫn tới thiên đàng, mà là con đường dẫn tới hỏa ngục, bởi vì Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, nhưng đồng thời còn là Đấng công bằng và ngay thẳng vô cùng.
Thái độ thứ hai đó là mất lòng cậy trông. Dù có sai lỗi và vấp phạm, thì cũng đừng bao giờ tuyệt vọng như Giuđa, bởi vì Chúa nhân từ luôn mở rộng vòng tay chờ đón. Ngài đã lên đường tìm kiếm chúng ta, những con chiên lạc. Ngài đứng ngoài cửa và gõ. Còn mở hay không, thì đó là việc của mỗi người chúng ta.
Hãy trỗi dậy và trở về để được hưởng nhờ lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa.
SUY NIỆM 7: Mục tử
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội muốn con cái mình chiêm ngắm, suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và để theo chân Đức Kitô, ta cũng dám sống, và nếu cần, dám chết vì tình yêu đó.
Lòng Chúa yêu thương loài người
Hình ảnh mà Êzêchiel và nhiều ngôn sứ khác đã phác họa là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm chiên không quản ngại đường xa vạn dặm, khó khăn khôn lường. Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định lại chân lý ấy : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta, và đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong sự tội và bất tín. Thái độ lên đường tìm kiếm con chiên lạc của dụ ngôn hôm nay là một minh họa sống động cho chân lý ấy. Quả thật, Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt, hay vì một công trạng nào. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tốt Ngài mới yêu thương, mà Ngài yêu thương ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài yêu thương chúng ta chỉ vì Ngài là tình yêu, chỉ vì Ngài tốt lành. Quả thật, tình yêu của Ngài là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm hạnh phúc của người được yêu. Chỉ một mình Thiên Chúa có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Tác giả sách “Đường hy vọng” đã có lý khi viết : “Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người – Tình yêu nhân loại đáp trả sau – Tình yêu Thiên Chúa tình nguyện bước trước ; Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình – Tình yêu Thiên Chúa hợp nhất muôn người ; Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người – Tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi và cải hóa con người”.
Trải qua 2000 năm của biến cố Nhập Thể, Chúa Giêsu đã cho con người thấy được mức độ của cuộc so sánh tình yêu thương đó chính là không cột mốc biên cương, không kỳ thị chủng tộc màu da, ngôn ngữ hay giai cấp. Tình yêu ấy là tình yêu của Thiên Chúa tự nguyện tặng ban cho nhân loại chính Con Một của mình, tình yêu của con Thiên Chúa hiến thân, Tình yêu là cho loài người trở thành con Thiên Chúa và làm anh em của Đấng cứu Thế. Tình yêu đó chính là nguồn gốc của sự sống và mục đích duy nhất mà con người phải nhắm đạt tới.
Quả thật, thái độ của Người là thái độ của một mục tử tốt. Người làm y như một mục tử chứ không ví mình như mục tử. Người muốn trong dân người chỉ có yêu thương : yêu thương của Người dành cho dân và cho từng người ; và yêu thương của mọi người dành cho nhau. Đó là ý nguyện của Chúa, là chương trình cứu độ của Người. Chúa đã thực hiện lòng yêu thương đó thế nào, chúng ta hãy nhìn nơi Đức Kitô, Đấng Người đã sai đến.
Tình thương biểu lộ nơi lòng Đức Kitô
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ví Ngài như người Mục Tử Nhân Lành, đã bỏ 99 con chiên ở lại để đi tìm một con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì quên hết những nỗi vất vả cực nhọc do con chiên lạc gây ra cho mình, không trách mắng cũng không đánh đập, không cho là con chiên lạc lầm lỗi, trái lại đã vui vẻ vác chiên lên vai đưa về tận nhà. Về tới nhà, người ấy còn mời mọi người cùng chia sẻ niềm vui với ông nữa.
Hình ảnh người Mục tử Nhân Lành đã diễn tả tình yêu thương sống động và cụ thể của Chúa Giêsu. Tình yêu thương ấy có khi khó hiểu và khó chấp nhận đối với chúng ta cũng như với nhóm Biệt Phái ngày xưa. Bởi vì chúng ta thường ích kỷ, hẹp hòi, bủn xỉn… chính những người Biệt Phái xưa cũng đã từng phiền trách khi thấy Chúa Giêsu đón tiếp và cũng ăn uống với những người tội lỗi vì yêu thương họ? Quả thật, Ngài đã khẳng định một cách không thể hiểu khác hơn được : “Chỉ có bệnh nhân mới cần thầy thuốc” mà ở đây Chúa là thầy Thuốc, là Lương Y Từ Mẫu…mà các bệnh nhân đang mong đợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã xác định mục tiêu Ngài theo đuổi trong cuộc sống : “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ngài không đến để xét xử luận phạt, nhưng là để cứu độ, để “cho họ được sống và sống dồi dào.
Trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, thái độ của người anh cả cũng hẹp hòi, bủn xỉn trước tình thương của người cha nhân lành. Anh ta không chấp nhận cho cha yêu thương đứa em đã có một quá khứ xấu xa, tội lỗi… không chấp nhận cho nó làm lại cuộc đời. Thái độ đó không phù hợp với Tin Mừng, với Trái Tim Chúa Giêsu, người Mục Tử Nhân Lành. Từ chỗ không hiểu tình thương của Chúa đối với người khác, chúng ta cũng có thể không hiểu tình thương của Chúa đối với chính mình. Đó quả là một điều tai hại ! không hiểu thì không biết cám ơn và không biết đáp trả tình yêu của Chúa.
Tình yêu đáp trả tình yêu
Chỉ một mình Thiên Chúa của Kitô giáo có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Chính vì thế mà đạo Công giáo được mệnh danh là Đạo Tình Yêu thương trong cuộc sống, thì người đó đánh mất chân tính của mình. Vì chưng, Chúa Giêsu đã không chỉ bộc lộ tình Thương nhân hậu của Cha, mà Ngài còn mời gọi chúng ta : “ Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót”, và còn đưa ra cho chúng ta một quy luật sống cụ thể : “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Trong cuộc sống, theo tâm lý chung thường chúng ta hay tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Tục ngữ đã có câu
Chân mình những lấm bết bê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Quả thật, nếu chúng ta tự cho mình là công chính, từ đó tách biệt mình khỏi đám người tội lỗi, là vô tình chúng ta đã tự loại mình ra khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta với tất cả con tim cuả một Thiên Chúa làm người. Ngài luôn cảm thông tha thứ mọi yếu hèn cuả con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình là thánh thiện để rồi tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa : “chỉ có một mình Ngài mới có quyền xét xử”. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn và tin tưởng đến với Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài. Đừng bao giờ tìm cách che đậy tội lỗi để tỏ ra khỏi cần đến Ngài, đó là tự lừa dối mình một cách nguy hiểm. Hơn nữa, chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Chúa cách tìm đến với những người đã trót lầm lỗi, những người đang lạc đường , đang bơ vơ không có định hướng… để giúp đỡ họ , khích lệ họ, nói với họ một lời an ủi, dâng tăng họ một nụ cười tin yêu, đem đến cho họ niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, giúp họ thực tâm hối cải.
Giờ đây, tiếp tục bước vào cử hành phụng vụ Thánh Thể, là hiện tại hóa sự chết của Đức Kitô, là biểu hiện tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, chúng ta hãy nhờ Đức Kitô để ca tụng và cảm tạ Chúa Cha, cảm phục tin tưởng xin ơn tha thứ cho chính mình và toàn thể nhân loại, xin ơn sám hối cho các tội nhân. Amen.
SUY NIỆM 8: Trái Tim
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ : Mỗi người với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20. 000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkien với toàn thể dân Do thái : “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới”. Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới.
Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi.
Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đem và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuội đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng giòn yếu đuối này, tôi cần được tham dự vào sự sống của người.
Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đăt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ :
Hãy yêu như đang sống.
Hãy sống như đang yêu.
Yêu để sự sống tồn tại.
Sống để tình yêu có mặt.
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ : Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng giòn và là bình sành dễ vỡ nên người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi : “Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm”. Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người ?
SUY NIỆM 9: Thiên Chúa là tình yêu – Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ kính toàn bộ kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu diễn tả sâu xa nhất lời yêu thương của Ngài. Chết mới diễn tả tất cả, chết mới thốt nên lời. Lời của Chúa Giêsu trên thập tự: “Ta khát” là lời tình yêu.
MỘT CON NGƯỜI BỊ TREO LÊN, CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI:
Hơn hai ngàn năm nay, nhân loại vẫn tôn thờ một con người có tên Giêsu, một con người bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh vào thập giá. Con người đó đã bị nhiều người lên án, có người đã viết cả pho tiểu thuyết: “Thiên Chúa đã chết”, họ tưởng Ngài chết là hết, là tiêu tan, là hết hy vọng, nhưng quả thực, Thiên Chúa vẫn còn đó, Ngài vẫn sống động, Ngài vẫn hiện diện giữa mọi người, giữa dòng thế giới. Chúa Giêsu, người đã bị treo lên cao trên thập giá, người chết vì yêu: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Đã hơn hai ngàn năm nay, tại sao nhân loại, tại sao nhiều người lại vẫn tiếp tục tôn thờ một con người bị treo lên thập giá? Đây là điều rất diệu kỳ: “Chúa Giêsu là tình yêu đích thực”. Nơi Ngài có một sự thu hút rất mãnh liệt, Ngài đã được hầu hết mọi người trên toàn thế giới mến phục, tôn thờ và yêu mến. Có tới chân thập giá, nhân loại mới hiểu tại sao thế giới tôn kính Chúa, yêu mến Chúa và tin tưởng Chúa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Ga 12, 32). Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Canvê: thân trần, mình trụi, hai tay, hai chân bị đóng đinh vào thập tự, đầu đội mão gai. Chúa đã chết, đã quên mình, đã hy sinh cho nhân loại, cho mọi người vì Ngài yêu thương, tình yêu của Ngài là tình yêu đích thật, tình yêu vô vị lợi, tình yêu vô biên. Trong Phúc âm đã thuật lại biết bao dụ ngôn, biết bao ví dụ nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, đối với nhân loại: dụ ngôn “Người con hoang đàng”, “Con chiên lạc”, “Đồng bạc bị mất” vv...
Tất cả những dụ ngôn ấy nói lên lòng Chúa yêu thương nhân loại, nhất là đối với những người tội lỗi biết là chừng nào. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi bước trước. Chúa yêu nhân loại chẳng phải nhân loại có giá trị, hay cũng chẳng phải con người có nhãn hiệu Kitô-giáo Chúa yêu thương và cứu độ nhân loại trước khi nhân loại còn ở trong tội và bất tín, bất trung. Chúa chết vì yêu nhân loại, Chúa cũng mời gọi nhân loại sống tình yêu như Ngài: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng từ nhân” (Lc 6, 36). Đó là mầu nhiệm của tình yêu. Đây cũng là mầu nhiệm của đức tin.
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA:
Trong cuộc sống đời thường có biết bao trường hợp thương tâm xẩy ra: hận thù, chém giết, chiến tranh, lừa đảo vv... Sở dĩ những chuyện đó xẩy ra vì “con người thiếu yêu thương”. Chúa mời gọi con người sống yêu thương, quên mình, hy sinh vì người khác miễn người khác có được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: “Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, nên đã phó mình vì chúng ta” (Eph 5, 2). Sống như Chúa, có trái tim của Chúa, con người sẽ ở trong tình yêu thật của Ngài. Người ta kể : “Vào một ngày nào đó, chú bé Adam Lester nay mới hai tháng tuổi (6/1984), sẽ biết rằng mẹ chú yêu chú biết chừng nào và đã hy sinh cả cuộc đời mình cho chú. Sau khi được các bác sĩ cho biết các loại thuốc trị bệnh ung thư sẽ để lại di chứng trên đứa trẻ đang nằm trong bụng, chị Hazel đã từ chối không dùng thuốc. Sau khi bé Adam ra đời được bảy tuần lễ, chị đã trút hơi thở cuối cùng tại Conventry nước Anh”. Đây là câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện ở trần gian nói lên tình thương thật của người mẹ, tình thương hy sinh đến quên mạng sống vì người mình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là thước đo tình thương của Chúa đối với nhân loại. Đây là thực tế của một con người có tên Giêsu, Ngài không chỉ nói suông, nhưng đã thực hiện đúng lời Ngài đã nói: “...hy sinh mạng sống vì người mình yêu”. Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là tôn kính Chúa, tôn vinh tình yêu của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn và có thể cùng với thánh Gioan thánh sử, nhân loại hãy hô to: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó!”.
Mừng kính Trái tim Chúa Giêsu, xin cho các linh mục được có con tim nhạy cảm, tấm lòng yêu thương như Chúa để các Ngài luôn trung tín, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu, cho đàn chiên.
LỜI CẦU:
“Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng con tràn lửa say yêu một Chúa... Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh Tâm Cha”.
SUY NIỆM 10: Chọn lựa cho một tình yêu – Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng
Nhân Lễ Thánh Tâm, suy nghĩ về đời sống thánh hiến
Tháng Sáu, tháng của những lễ phong chức, lễ khấn dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ niệm ngày chịu chức, ngày khấn dòng… Có thể nói tháng Sáu là mùa ơn gọi.
Tháng Sáu cũng là tháng tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa, được cụ thể nơi Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Kitô cũng nằm trong tháng Sáu, lại là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục.
Bởi thế, tháng Sáu nói chung và lễ Thánh Tâm nói riêng là thời điểm thích hợp để tất cả những ai sống ơn gọi tu trì có dịp nhìn lại chính mình, nhìn lại ơn gọi mà mình đã sống, từ đó tự nhắc nhở cho chính bản thân ta về một chọn lựa mà mình đã dấn bước: CHỌN LỰA CHO MỘT TÌNH YÊU. Nhưng tình yêu ấy không do bản thân ta, hay bất cứ một người nào mà có, nhưng đó chính là TÌNH TRỜI.
Vì thế tôi muốn cùng bạn chia sẻ những suy nghĩ về chính ơn gọi và sự chọn lựa của mình.
Bạn có biết: Cuộc sống là kết thành của những chọn lựa. Có những chọn lựa quyết định cho cả một đời, và một đời phải sống cho chọn lựa ấy. Có những chọn lựa có thể thay đổi nhưng cũng có những chọn lựa không bao giờ thay đổi. Chọn lựa luôn là điều cần thiết cho đời người. Bởi thái độ sống của mỗi người tùy thuộc và ảnh hưởng rất nhiều từ những chọn lựa mà mình đã quyết định.
I. CHỌN LỰA:
1. Chọn lựa cần chiến đấu:
Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến không phải là người nọ, thế lực kia mà là cái “tôi” xấu trong chính bản thân. Bởi thế chiến đấu để tự lách mình khỏi những mối nguy cản bước ta tiến đến sự hoàn hảo, thì ngay trong sự tự chiến đấu ấy đã là chọn lựa: chọn lựa đứng về phía thiện, tách mình khỏi những sai lạc. Chọn lựa không cho phép ta ở hai tình trạng, nhưng chỉ là một, hoặc là tốt hoặc là xấu. Chọn lựa không có chỗ cho sự trung dung: “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi: nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng, chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miện Ta”1.
Chọn lựa luôn là chọn lựa một điều gì đó, không thể có chọn lựa suông. Trong chọn lựa bao giờ cũng có lý tưởng để theo đuổi. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Chọn lựa bao gồm một hướng ngắm để đến, một hy vọng củng cố lý tưởng, một niềm tin nuôi hy vọng. Và khi đã chọn lựa, không có nghĩa là ngưng chiến đấu. Càng chọn lựa, nghĩa là càng đi trên con đường mà mình đã quyết định, càng phải chiến đấu: Chiến đấu để bảo vệ điều đã chọn lựa. Chọn lựa thì dứt khoát, nhưng chiến đấu thì lâu dài, bền bỉ, vì không phải chiến đấu một lần là đủ. Ngày nào ta bằng lòng với tình trạng hiện có mà không chiến đấu để vươn lên, ngày ấy báo hiệu chọn lựa ban đầu của ta đang bị chính ta đánh mất. Nếu chọn lựa cho một thái độ sống lâu dài thì chiến đấu liên lỉ không bao giờ thừa. Càng chiến đấu bảo vệ cái thiện, chống lại cái xấu, chọn lựa càng vững chắc.
Mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến có khi chính là sự dữ ngự trị trong ta.
2. Tự do chọn lựa:
Chọn lựa đòi tự do. Không những tự do cần ngay khi chọn lựa, mà khi chọn lựa rồi cũng cần có tự do để sống điều chọn lựa. Chọn lựa không tự do, không phải chọn lựa mà là áp đặt, là thế lực. Cần đập vỡ áp đặt, thế lực để lý trí, ý chí và cả tình yêu có được sự chọn lựa đúng mức. Áp đặt hay thế lực ở đây là những hào nhoáng, là danh, là lợi, là sự thúc ép của kẻ khác... khiến đương sự nhầm lẫn, cuối cùng chọn lựa sai.
Cần có tự do để dấn thân cho điều đã chọn lựa. Nếu chọn lựa không có tự do, người ta không thể dấn thân cho điều đã chọn lựa. Và chỉ có yêu thực sự một điều gì mới có thể dấn thân cho điều đó cách trọn vẹn. Một người xả thân giúp đỡ người khác, việc làm đó mang lại cho anh ta hạnh phúc, ngược lại một người làm điều gì vì bị cưỡng bức, anh ta sẽ không cảm nhận sự bình an.
3. Thiên Chúa làm người, một chọn lựa:
Chúa Kitô đã quyết định trở thành “Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” 1. Chọn lựa của Ngài là “trở nên người phàm”. Chọn lựa này mãi mãi không thay đổi. Đó cũng là chọn lựa tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài đã sống một cuộc đời cho điều đã chọn lựa, và dấn thân trọn vẹn cho chọn lựa ấy: Chúa Kitô đã “nên giống anh em mình về mọi phương diện”2. Hay “Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”1.
Chúa Kitô “vâng lời cho đến chết”, sự “vâng lời” của Ngài là hoàn toàn tự nguyện. Ngài quyết định “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”2. Quyết định này là sự lựa chọn tự do: “Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta, và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta”3. Một khi quyết định chết cho đàn chiên, Chúa Kitô đã mang lại sự sống dồi dào cho đàn chiên.
II. CHỌN LỰA SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN:
1. Một chọn lựa can đảm:
Nếu chọn lựa sống đời Kitô hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì chọn lựa sống đời Kitô hữu thánh hiến còn phải chiến đấu vất vả hơn. Vì chọn lựa ấy là chọn lựa “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”. Nhưng họ vững tin rằng, Chúa Kitô ở bên họ. Ngài cầu xin Cha: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha... Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần... Lạy Cha Con muốn rằng Con ở đâu, thì những kẻ Cha ban cho Con, cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con...”4.
2. Đời sống thánh hiến là sống những nét đặc trưng của đời sống Đức Kitô:
Những người sống đời thánh hiến đi một bước cao hơn tiến gần đến đời sống của Chúa Kitô. “Họ diễn lại cách nào đó lối sống Đức Kitô đã chọn sống, và cho thấy lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung”1.
Một khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”2, họ muốn như nhà thương gia kia, đi tìm ngọc quý, tìm được rồi bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc3.
Viên ngọc NƯỚC TRỜI mà họ chọn lựa, buộc họ phải trung kiên cả một đời, chiến đấu cả một đời, hy sinh cả một đời, từ bỏ cả một đời. Chọn lựa vác thập giá theo Đức Giêsu, họ sẽ là người sống “các nét đặc trưng của đức Giêsu- khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”. “Các nét đặc trưng” ấy “trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng”4. Vì trên thập giá, “Tình yêu khiết trinh của Nguời đối với Chúa Cha và đối với mọi người được diễn tả mạnh mẽ nhất; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn; sự vâng phục của Người sẽ đi đến hiến dâng mạng sống”5.
3. Chọn lựa giữa lòng cuộc sống và chọn lựa cho TÌNH YÊU:
Là người, những người dấn thân trong đời sống thánh hiến lựa chọn hướng đi của mình ở giữa lòng cuộc sống như bao nhiêu lựa chọn của mọi người. Nhưng Tình Yêu mà họ dấn bước theo không là một mái gia đình riêng tư, không là hạnh phúc đến bởi sự thành công của những nỗ lực trong đời thường, không là những thú vui trụy lạc mà không ít người của thời nay ngụp lặn trong đó, và vẫn lầm tưởng đó là hạnh phúc, là tự do của họ…
Vì chọn lựa sống rập theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô, anh chị em bước vào đời thánh hiến cũng sẽ nên giống Chúa Kitô, để cùng với Người, họ hiện diện giữa lòng cuộc sống. Nói một cách cụ thể hơn: họ chọn cho mình một kiểu mẫu của Tình Yêu để sống trọn đời cho Tình Yêu ấy. Một thứ Tình cao cả mà Chúa Kitô đã chọn sống và yêu.
Bởi vậy, giống như Chúa Kitô, cũng ngay giữa lòng cuộc sống, họ thực thi sứ mạng mà Tình Yêu đòi hỏi họ. Và ngay giữa lòng cuộc sống ấy, Họ đi tìm và bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa “đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt chán chường vì những lời hứa chính trị, những bộ mặt uất hận của những ai bị người ta khinh dễ nền văn hóa của mình, những bộ mặt sợ hãi cảnh bạo lực mù quáng thường ngày, những bộ mặt của người trẻ, những bộ mặt tủi hổ của những phụ nữ bị xúc phạm và làm nhục, những bộ mặt mệt mỏi của đám di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện để sống đàng hoàng...”1. Họ dấn thân phục vụ giữa lòng cuộc sống. Và như thế, họ tìm thấy niềm vui giữa lòng cuộc sống. Chính vì sống theo kiểu mẫu của Tình Yêu mà Chúa Kitô đã sống, những anh chị em chọn lựa sống đời thánh hiến là Chọn lựa cho một tình yêu: Tình Yêu mang tên GIÊSU KITÔ.
III. MỘT LỜI NGUYỆN:
Lạy Chúa, diễm phúc và hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái nam nữ của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng Tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa.
Chúng con hiểu rằng, dù chúng con có chọn lựa, có hy vọng, có tin tưởng, thì điều trước tiên vẫn là hồng ân, là Tình yêu của Chúa đối với chúng con. Tình yêu là lời ngỏ, là động lực đưa chúng con tới lý tưởng của mình.
Lạy Chúa, trong lòng cuộc sống, có nhiều cách để chúng con chọn lựa, nhưng chúng con chọn lựa theo Chúa. Chúng con cầu xin cho chúng con luôn trung thành truyền lại Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người. Xin làm cho chúng con trở nên xứng đáng phục vụ bàn thánh Chúa và Hội Thánh.
Chúng con kính dâng Đức Nữ Trinh Vương Maria và cầu xin Người là mẹ của Chúa Kitô, mẹ của Linh Mục Thượng phẩm đời đời gìn giữ chúng con trong hạnh phúc của đời thánh hiến, để chúng con biết trung thành theo Chúa bằng cả cuộc đời của chúng con. Chúng con biết rằng, Chúa Kitô.
27/06 Nhà xây trên đá
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Nhà xây trên đá.
Thứ Năm tuần 12 thường niên.
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".
Lời Chúa: Mt 7, 21-29
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thực thi ý Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.
Tin Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.
Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.
Không thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống trung thực mà thôi.
Nguyện xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những người không thực hành đạo
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt. 7, 21)
Để xứng đáng là một Kitô hữu đích thực, tin vào những điều Hội thánh dạy, không đủ. Đọc Phúc âm, cảm mến giáo huấn của Chúa, và tâm trí, ngay cả tự thâm tâm, vẫn thiết tha trìu mến Phúc âm và lời Chúa dạy, vẫn không đủ. Phải hơn thế nữa: thực hành điều mình tin, tức là đưa đạo vào cuộc sống, đó mới là điều căn bản. Thế mà có nhiều Kitô hữu vẫn vỗ ngực nói rằng mình tin Chúa, nhưng họ lại không sống đạo như vậy. Họ là những người không thực hành đạo.
Những người giữ đạo ngày Chủ nhật
Khi chúng tôi nói những người không sống đạo, chúng tôi nghĩ ngay đến những người không đi lễ ngày chủ nhật. Cách họ giữ đạo như vậy, rõ ràng là có vấn đè. Quả là điều bất thường, khi đã đi theo một Giáo hội, mà lại không hề tham dự một buổi hội họp nào của Giáo hội ấy. Nhưng trong số những người không đi lễ ngày chủ nhật này, còn có nhiều người vẫn thực hành đạo trong đời sống, và thực hành tốt. Họ yêu mến những người thân cận. Họ vẫn cầu nguyện Chúa; khi phải lựa chọn việc phải làm, thái độ phải cư xử, họ thường lấy Phúc âm để soi sáng cho những lựa chọn của mình, và đôi khi họ làm còn nhiều hơn và tốt hơn cả những người vốn thấy có mặt đều đặn ở nhà thờ.
Còn những người khác
Những người đến nhà thờ ngày chủ nhật, người ta gọi họ là những người còn giữ đạo. Đúng. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ chỉ tới để dự lễ mà thôi. Chỉ có thế thôi. Ở bên ngoài nhà thờ, họ cũng chỉ hoàn toàn là những người không sống đạo vậy.
Những Kitô hữu đi lễ ngày chủ nhật mà không thực hành Phúc âm thì cùng chính là những người không sống đạo mà còn tệ hơn. Mỗi ngày chủ nhật, họ có kêu cầu Chúa “Lạy Chúa, lạy Chúa”, cũng sẽ vô ích thôi. Chúa sẽ không nhân từ với họ. Người sẽ nói với chính họ rằng: “Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”.
Chúng ta vẫn thường đi lễ. Tốt lắm. Nhưng ta có phải là những người sống đạo thực sự không?
SUY NIỆM 3: NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ (Mt 7, 21-29)
Xem lại CN 9 TN A, thứ Năm tuần 1 MV.
Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?
Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.
Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.
Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức vì hình thức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: "Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ" (ÐHV. 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc đời của mình trên nền tảng Lời Chúa chứ không phải thuần túy qua công việc của Chúa. Như thế, chúng con sẽ đứng vững ngay cả khi thử thách dồn dập đến với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Xây trên nền đá
Suy niệm :
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 26/06 Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu
- 25/06 Thi hành điều muốn người khác làm cho mình
- 24/06 Gioan Tiền Hô
- 23/06 Phép lạ Bánh Hóa Nhiều
- 22/06 Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa
- 21/06 Kho tàng trên trời
- 20/06 Chúa Giêsu dạy lời cầu nguyện
- 19/06 Đạo đức thực sự vì Chúa
- 18/06 Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành
- 17/06 Ðừng báo thù