Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
16/08 Không được phân ly
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Không được phân ly.
Thứ sáu tuần 19 thường niên.
"Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".
Lời Chúa: Mt 19, 3-12
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vấn Ðề Ly Dị
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi.
Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn". Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương trình của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thủy Chung Trong Hôn Nhân (Mt 19,3-12)
Cách đây vài năm, không những hai miền nam bắc Triều Tiên mà có lẽ cả thế giới cùng khóc trước cảnh tượng hai trăm người già của từ hai miền của đất nước bị chia cắt từ năm mươi năm nay gặp lại nhau, ôm chầm lấy nhau, chan hòa trong tiếng khóc và niềm vui đoàn tụ. Theo thống kê, có khoảng ít nhất bảy triệu gia đình Nam Hàn có liên hệ máu mủ với Bắc Hàn. Trừ một số nhỏ đã được đoàn tụ tại những nước thứ ba, phần lớn các gia đình Triều Tiên đều bị ly tán kể từ cuộc chiến tranh nam bắc hồi năm 1953. Gia đình đổ vỡ và ly tán vẫn là một trong những nỗi đau lớn nhất trong cuộc sống con người.
Không riêng gì chiến tranh, nạn ly dị mà chúng ta đang chứng kiến trong hầu hết các xã hội đương đại đã và đang là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vết thương khó hàn gắn nhất trong lòng người. Gia đình đứng vững, xã hội mới ổn định. Nhưng gia đình chỉ có thể đứng vững khi được xây dựng trên ý muốn của Ðấng Tạo Hóa về định chế hôn nhân mà thôi. Ðây là đạo lý mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta cùng nhau ôn lại qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Câu hỏi mà những người biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu gợi lại cuộc tranh luận giữa các trường phái Do Thái về luật cho phép ly dị được Môsê qui định trong sách giới luật. Luật Môsê cho phép người đàn ông bỏ vợ, nếu tìm thấy nơi vợ một thứ tì ố kín đáo nào đó. Các trường phái có khuynh hướng phóng khoáng giải thích rằng nếu một người chồng gặp một người đàn bà khác đẹp hơn và nhận thấy vợ mình xấu xí đến độ nhờm tởm, người đàn ông ấy được phép bỏ vợ. Những người có chủ trương nhiệm nhặt thì cho rằng một tì ố đáng khinh tởm nơi người vợ chỉ có thể là hành động ngoại tình mà thôi.
Như vậy, đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu, các biệt phái chỉ có ý gài bẫy Ngài, họ muốn Ngài phải đứng hẳn về một trong hai lập trường trên đây. Nhưng Chúa Giêsu đã tránh được cái bẫy do các biệt phái cài ra khi tuyên bố rằng Ngài hoàn toàn chống lại việc ly dị, dù bất cứ lý do nào. Trích dẫn sách Khởi Nguyên, Chúa Giêsu chứng minh rằng ngay từ đầu, Thiên Chúa muốn rằng vợ chồng phải nên một với nhau như một thể xác. Ðây là ý muốn minh thị của Chúa. Không có quyền bính nào trên trần gian này có thể đảo lộn ý muốn ấy của Ðấng Tạo Hóa. Qua khẳng định này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng hôn phối không chỉ là một giao ước giữa người nam và người nữ, mà còn là một thể hiện của chính ý muốn của Ðấng Tạo Hóa. Duy chỉ có ý muốn của hai người phối ngẫu chưa đủ để làm nên hôn phối, mà còn phải có ý muốn của chính Thiên Chúa. Nên vợ nên chồng không phải là nên một với nhau, mà còn là nên một với Thiên Chúa, hay đúng hơn, chỉ trong Thiên Chúa, hai người phối ngẫu mới thực sự nên một với nhau. Do đó, phá vỡ hôn ước, ly dị không chỉ là xé bỏ giao ước giữa hai con người, mà chính là chối bỏ chính Thiên Chúa.
Tựu trung, ly dị hay ngoại tình là phản bội chính Thiên Chúa; Khi Thiên Chúa bị loại ra khỏi tâm hồn thì dĩ nhiên con người cũng sẽ dễ dàng phản bội và loại trừ người khác. Và ngược lại, mỗi lần chúng ta phản bội hay loại trừ tha nhân, chúng ta cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Con người mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa một cách thâm sâu đến độ xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Thiên Chúa; và chối bỏ Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với chối bỏ con người. Suy gẫm về sự thủy chung trong đời sống hôn nhân, chúng ta cũng nghĩ đến tình yêu trong mọi quan hệ giữa người với người. Về điểm này, lời của thánh Gioan nên được chúng ta tâm niệm và đem ra thực hành: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Người ngoại tình.
Những người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, cò được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ,” Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt. 19, 3-4. 6)
“Những người biệt phái này điên rồ” Ôbelix nói thế. Từ khi họ thử gài bẫy Đức Giêsu, họ biết họ thất bại vì Đức Giêsu luôn trưng Thánh Kinh để trả lời họ.
Hạng đực rựa. (Le mâle)
Đoạn này cho ta thấy xã hội đực rựa thời đó. Chỉ có đàn bà là kẻ phạm tội ngoại tình, bị dãy bỏ. Đàn ông không có tội gì! giờ đây Đức Giêsu nhắc nhở họ phải tôn trọng người nữ, bình đẳng trước pháp luật và đàn ông cũng phải có trách nhiệm “ Kẻ dẫy vợ cũng phạm tội như kẻ cưới người đàn bà bị dẫy bỏ.”
Người ta thấy các tông đồ phản ứng: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ thì hơn.”
Ngày nay cũng không khác gì thời Đức Giêsu người ta không nói đến dẫy vợ nữa, nhưng nói đến ly dị, không bàn tán đến kết hôn nữa, nhưng nói đến tự do sống chung.
Người nam.
Giáo huấn của Đức Giêsu chính là luật tự nhiên. Sự kết hợp giữa hai người để xây dựng tốt hơn: hoàn toàn tôn trọng nhau. Đàn ông hay đàn bà không phải là máy móc để hành lạc hay con rối kỳ cục để thỏa mãn. Thời các tông đồ phản ánh ít nhiều thế. Chúa đã nhắc nhở họ nhớ đến phẩm giá là người. Thời đại chúng ta hầu như theo cái thứ luân lý buông thả. Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ đến luật thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
Chúa còn đi xa hơn về đời sống độc thân tự nguyện, phải kính trọng người khác và bản thân mình! Chúa không nghĩ phải khấn bậc tu trì. Nhưng, thời người đã có những người đáp lại tiếng gọi trở nên chứng nhân của đời sống vĩnh cửu, trường tồn.
J.M
Suy niệm 4: HÃY SỐNG CHUNG THỦY TRONG TÌNH YÊU (Mt 19, 3-12)
Xem lại CN 27 TN B, Thứ Sáu tuần 7 TN.
“Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Đây là một câu hỏi rất thâm độc của những người Pharisêu. Họ dùng phương pháp: “Nhất tiễn diệt song điêu”, tức là gài bẫy Đức Giêsu. Cái bẫy mà hôm nay họ đưa ra cho Ngài rất giống chuyện người đàn bà phạm tội ngoại tình mà họ nhờ Đức Giêsu phân xử, hòng tìm cách bắt Ngài.
Tại sao vậy? Thưa: Khi hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?". Câu hỏi này được cất lên lại nằm trong vùng địa lý, đặc trị của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Ông ta đã bị Gioan Tẩy Giả phản đối và cuối cùng Gioan đã bị giết chết dưới sự độc ác của vua. Ý tưởng thâm độc của họ là: nếu Đức Giêsu đồng ý cho ly dị, thì trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì họ rất tôn kính Gioan. Còn Nếu Đức Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với luật Môsê.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không vướng vào cái bẫy của họ. Nhưng qua đây, nhân cơ hội này, Ngài đã giải thích cho họ hiểu vì sao luật Môsê cho phép ly dị. Câu trả lời của Ngài đã dựa vào Kinh Thánh: "Thuở ban đầu, Ðấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Còn việc tại sao ông Môsê cho phép ly dị là vì: ‘các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ’”. Cũng nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã tái xác định luật hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội.
Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình".
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho đời sống hôn nhân ngày nay được ấm êm và hạnh phúc. Xin cho chúng con hiểu rằng: vì yêu thương mà Chúa đã chết vì chúng con, đến lượt chúng con cũng phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương Giáo Hội. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Một xương một thịt
Suy niệm :
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do Thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết nói không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.
Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các môn đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/08 Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa
- Viết bởi Lc 1, 39-56
Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.
Thứ năm tuần 19 thường niên – ĐỨC MẸ LÊN TRỜI. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
* “Kết thúc cuộc đời dương thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác”. Với những lời đó, năm 1950 đức giáo hoàng Piô 12 đã xác định tín điều Đức Maria hồn xác lên trời.
Đặc ân này xuất phát từ ơn được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lời hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh.
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mẹ lên trời
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời.
Vậy thì về trời có nghĩa là gì?
Về trời ở đây không phải là chuyện đi lên hay đi xuống trong một khoảng không gian, mà là một tình trạng hoàn toàn được kết hiệp với Thiên Chúa, được đem vào sự thánh thiện và sự sống của chính Thiên Chúa.
Như thế, về trời trước hết phải là con đường của Đức Kitô, đây là lẽ đương nhiên bởi vì Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, nay trở về với ngôi vị của mình. Có khác chăng là cùng với Ngài, có cả thân xác vật chất của mình nữa.
Tiếp đến, đó phải là con đường của Mẹ Maria. Đối với Mẹ thì về trời là hiệu quả của ơn Phục sinh nơi Đức Kitô, vì Mẹ cũng là một thụ tạo cần được cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hiệu quả trọn vẹn của ơn cứu độ, vì cuộc đời và sự cộng tác của Mẹ làm cho Mẹ được trở nên xứng đáng với đặc ân cao cả ấy.
Sau cùng về trời còn phải là con đường, còn phải là mục đích cuối cùng mà chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống này, như lời thánh Augustinô đã nói: Tâm hồn tôi luôn băn khoăn lo lắng cho tới khi nào được nghỉ yên trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để đạt tới mục đích cuối cùng ấy thì chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa là ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô và cố gắng thực thi những điều Ngài truyền dạy. Phải làm cho Đức Kitô được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.
Con đường ấy chắc chắn sẽ không phải là một con đường rộng rãi thênh thang với những hoa thơm cỏ lạ. Chính Mẹ Maria cũng đã kinh qua một cuộc đời trần gian đầy gian nan và thử thách như lời ông già Simêon đã nói: Một lưỡi gươm sẽ đâm qua lòng bà. Đúng thế, từ lúc xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin cho đến khi đứng dưới chân cây thập giá, cuộc đời của Mẹ là một cuộc đời vâng phục đầy khổ đau, đầy cay đắng, thế nhưng chính những khổ đau này đã làm cho Mẹ được trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt trông lên Mẹ để thấy được rằng: Đau khổ sẽ làm cho niềm tin thêm tinh ròng, đồng thời không có một con đường nào của niềm tin mà không có những gian nan thử thách của nó.
Tuy nhiên, chúng ta tin chắc chắn rằng Đức Maria là Mẹ chúng ta, Ngài sẽ ra tay nâng đỡ và dìu dắt chúng ta trên con đường lữ hành của niềm tin cho đến lúc chúng ta được yên nghỉ trong tình thương của Chúa.
SUY NIỆM 2: Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang Westwood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.
Hiện nay, từng giây, từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim óng ả lặng lẽ ra đi không một lời dã biệt. Cuộc quên sinh của cô, cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết...
Randall Reise, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: "Marilyn không còn là một con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của Holywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
Marilyn đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi ngàn đời ấy...
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô", bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa nào hơn là cái chết...
Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời...
Ngày 22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Ðức Mẹ. Ðức Mẹ đã chết. Ðó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
Chết là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Ðức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về trời. Với Chúa Giêsu và Ðức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời...
Nếu cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành chính niềm hy vọng của chúng ta.
Trong một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Ðức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’)
SUY NIỆM 3: Mẹ lên trời.
Đối với Đức Ma-ri-a, ngày qua đời là ngày đẹp nhất cuộc đời. Đó là cuộc hành trình hiệp hoan. Mẹ không còn dưới thế nữa. Mẹ về với Chúa Con như Đức Giê-su về với Chúa Cha.
“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ”. Đến vời Đức Ma-ri-a, chết là chiến thắng, Mẹ không bị tan biến qua lỗ hổng đen tối của hư vô, nhưng đi vào vinh quang trong cuộc sống muôn đời. Hoàn toàn hiệp thông vô cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì các Đấng làm nên một.
Thiên Chúa thỏa mãn mọi cơn đói của Mẹ.
”Ai tin vào Ta sẽ không phải khát bao giờ”. Mẹ Ma-ri-a luôn luôn nói xin vâng lời Thiên Chúa suốt cả đời ở trần thế : Thiên Chúa vui lòng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của Mẹ cầu xin đề đáp lại sự vâng lời của Mẹ : “Tất cả những gì anh em cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14, 14) “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì cứ xin, anh em sẽ được như ý”. (Ga 15, 7). Chúng ta có cậy tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ không ?
Tin Mừng.
Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời là một Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo cho tất cả những người nghèo khổ ngày nay : Cho những người sống khó nghèo - Cho những người lao động - Cho những người cam chịu đau khổ trong thử thách - Cho những người vui lòng vững tin vào Thiên Chúa, dù phải sống trong đêm tối.
Từ nay, là những phần tử trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta như những đứa trẻ sắp ra đời, không thể nào kể cho xiết hạnh phúc đang đón chờ chúng ta ngày mai.
Trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất, như Mẹ Ma-ri-a, chúng ta chỉ làm những việc nhỏ mọn nặng nhọc, nhưng chúng ta có thể mang lại lợi ích lớn lao cho nó nhờ vào tình yêu của chúng ta, nhờ vào tình yêu vô cùng của Đức Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta. Trái đất sẽ qua đi, nhưng lời Chúa hứa không bao giờ qua đi. Chỉ có tình yêu của Ngài tồn tại mãi : “Chính tình yêu mới đáng kể thôi”. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói thế.
J.M
SUY NIỆM 4: Lời Thưa Xin Vâng
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: “Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận chính mình. Con người đành phải chịu đựng chính mình và chính vì phải chịu đựng mình mà con người luôn phẫn nộ với những giới hạn của mình và tìm cách vượt qua chính mình”.
Một trong những thể hiện của thái độ không chấp nhận chính mình là ước mơ bất tử trường sinh được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Từ các vua chúa của Ai Cập qua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa đến những lãnh tụ độc tài của các thời đại, và cuối cùng, những nhà khoa học của thời đại, con người vẫn tìm đủ mọi cách để trở thành bất tử. Các vua Ai Cập khi qua đời không những được ướp xác, mà người ta còn chôn sống cả những người thân tín của họ. Tần Thủy Hoàng cũng đã suốt một đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Những cái xác ướp của thời đại hiện đang được trưng bày trong những lăng tẩm nguy nga, mà sự bảo trì đòi hỏi bao nhiêu tốn kém cũng là thể hiện của những giấc mơ được sống mãi, dù chỉ là sống mãi với một thứ hào quang giả tạo.
Giấc mơ được sống lại ấy, ngày nay cũng đang được những nhà khoa học muốn hiện thực hóa qua việc tạo sinh vô tính con người, hay sử dụng tế bào gốc của các phôi thai người để chữa trị những căn bệnh nan y, và như vậy vượt qua biên giới của sự chết. Trước khi chết, người ta chỉ cần để lại một tế bào sống của mình và từ đó các nhà phù thủy khoa học sẽ nối dài cuộc sống của người đó bằng cách tạo sinh vô tính một con người y hệt như người đó. Với tế bào gốc rút ra từ phôi thai người, những nhà phù thủy khoa học cũng sẽ đánh bại thần chết bằng cách chữa trị mọi căn bệnh nan y.
Nhưng viễn tượng mà những nhà khoa học đang vẽ ra vì một vài người trường sinh bất tử trên mặt đất này, không chỉ thỏa mãn ước mơ được sống mãi, nó còn gợi lên bao nhiêu hệ lụy mà một cái nhìn có trách nhiệm không thể làm ngơ. Những con người trường sinh bất tử ấy sẽ là những con người bình thường, hay là những quái thai? Có được phép sử dụng hay sản xuất phôi thai để dùng vào việc chữa trị các căn bệnh nan y và làm cho con người trường sinh bất tử không? Ðó là những câu hỏi mà tinh thần trách nhiệm không thể tránh né được.
Tựu trung, sống và cư xử có trách nhiệm là đòi hỏi tất yếu của con người. Ðã là người đương nhiên phải có trách nhiệm. Nhưng nói đến trách nhiệm cũng là nói đến thân phận giới hạn của con người. Chính vì tính giới hạn ấy của con người mà tự do cũng đương nhiên có tính giới hạn.
Ðây là chân lý mà lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng suy nghĩ. Mẹ Maria là mẫu mực của một con người có trách nhiệm. Trách nhiệm ấy trước tiên là thể hiện qua sự cộng tác của Mẹ trong mầu nhiệm nhập thể. Mẹ đã thưa “Xin Vâng” với tất cả tinh thần trách nhiệm. Thưa “Xin Vâng” là chấp nhận đi vào một chương trình của Thiên Chúa, trong đó sự cộng tác của con người phải là toàn diện. Thưa “Xin Vâng” là ý thức về thân phận bất toàn và giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng triệt để tin tưởng nơi quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chính vì đã thưa xin vâng một cách triệt để mà Mẹ Maria đã là người đầu tiên trong nhân loại vượt qua được ranh giới của sự chết để trở thành trường sinh bất tử thật sự.
Chấp nhận thân phận giới hạn của kiếp người và tin tưởng ở quyền năng của Ðấng có thể làm được mọi sự. Mẹ Maria đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Mẹ đã trở thành đích điểm của cuộc lữ hành đức tin của chúng ta. Mẹ đã chỉ ra cho chúng ta con đường đích thực để đi, hầu đạt được cứu cánh vĩnh cửu của chúng ta. Nhìn lên Mẹ từ giữa bao nhiêu giới hạn bất toàn và khổ đau của kiếp người, chúng ta được mời gọi củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Giữa cuộc đời khổ lụy và tăm tối, chúng ta vẫn nhận ra ánh sáng để tiến tới. Ước gì bài ca Ngợi Khen mà Mẹ và cộng đoàn tiên khởi đã hát vang cũng trở thành tâm tình của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: MẸ LÊN TRỜI LÀ NIỀM VINH HẠNH CHO MỌI TÍN HỮU
(Kh 11, 19; 12, 1-6.10; 1Cr 15, 20-27; Lc 1, 39-56)
Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một trong những lễ quan trọng về Mẹ Maria.
Lễ này được chính thức bắt đầu mừng kính cách công khai rộng rãi trên toàn thể Giáo Hội qua tín điều Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 1-11-1950 của Đức Thánh Cha Piô XII. Điểm chính yếu trong Tín điều nêu rõ: "Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiễm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.
Giờ đây, một lần nữa, chúng ta cùng nhau đào sâu về ý nghĩa này cách đặc biệt, để thêm niềm xác tín, yêu mến và nhất là qua thánh lễ này, mỗi người hãy ái mộ những sự trên trời.
1.- Kinh Thánh tiên trưng về biến cố đặc biệt này
Sự kiện Đức Maria về trời là một điều vĩ đại. Biến cố này cho thấy Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cách trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Nó đánh dấu một bước ngoạt mới trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Khi cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời trong vinh quang, Thiên Chúa muốn đề cao vai trò của mẹ như là ưu phẩm có một không hai trong thế giới loài người. Cũng từ đó, khơi gợi lên lòng kính yêu của con cái trần gian về Mẹ mình như một kiệt tác tuyệt vời trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Chính vì lẽ đó, Kinh Thánh đã nhiều lần tiên trưng về biến cố vĩ đại này:
Trong sách Sáng Thế, ngay sau khi Evà phạm tội bất tuân Thiên Chúa, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế được sinh ra bởi Người Nữ Đầy Ơn Phúc (x. St 3, 15). Lời xác tín này được lập lại khi sứ thần Gabriel đến truyền tin và kính chào Mẹ bằng ngôn từ hết sức kính trọng và suy tôn: kính chào Bà đầy ơn phúc (x. Lc 1, 28).
Rõ nét hơn cả, đó là sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Còn Người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Bà một chỗ ... Bà được ban cho đôi cánh Đại Bàng, để bay vào sa mạc, lên Ngai của Ngài... Bà đã tiến vào sa mạc, ở đó đã sẵn một chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho bà” (x. Kh 12, 5-14).
Trên đây là một số hình ảnh minh họa về Mẹ Maria như là một Đấng Đầy Ơn Phúc đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Còn trong truyền thống Giáo Hội, các thánh đã ca ngợi Mẹ và rất vui mừng, hãnh diện khi Thiên Chúa trọng thưởng Mẹ một cách đặc biệt.
2.- Các Giáo Phụ nói về biến cố trọng đại này
Nơi các thánh Giáo Phụ, việc tin nhận Mẹ Maria vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác được các ngài tuyên tín như là một điều đương nhiên, bởi vì: “Mẹ đồng trinh vẹn tuyền. Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa chí thánh bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, nên thân xác Mẹ không thể bị hư nát như hậu quả của cái chết thân xác mang tội Tổ Tông và tội riêng”.
Thánh Gioan Đamscênô thì quả quyết: “Người đã gìn giữ nguyên vẹn được sự Đồng Trinh sau khi sinh thì nhất định giữ được sự nguyên vẹn Thân Xác sau khi chết. Người đã cưu mang trong lòng Đấng Tạo Hóa, Con mình, thì cũng phải ở bên tòa Con Mẹ. Thiên Chúa Cha đã đính hôn Mẹ là Hiền Thê thì nhất định phải được ở phòng loan trên Trời. Mẹ ngắm nhìn Con Mẹ sinh ra và trên Thánh Giá, thì phải được chiêm ngắm Con Mẹ trên Trời”.
Còn thánh Giêmanô Constantinô thì nói: “Nếu thân xác Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về Trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa... Theo Kinh Thánh, Mẹ kiều diễm; thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thật là nơi Thiên Chúa ngự trị. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất”.
Với thánh Germanô thì cảm nghiệm sâu xa khi tuyên tín: “Thân xác Mẹ diễm phúc chí thánh trong trắng đến nỗi không thể trở về bụi đất được nữa”.
Ngoài ra, việc Mẹ Maria được rước lên trời cả hồn lẫn xác, chúng ta cũng nhận thấy đây là điều hiển nhiên, vì Mẹ đã cùng chịu đâu khổ với Đức Giêsu con của Mẹ, thì không có lý do gì Mẹ lại không được vinh quang với con của Mẹ trên Thiên Quốc, và thân xác của Mẹ không thể bị hủy hoại khi chính thân xác này đã cưu mang và sinh hạ cũng như nuôi dưỡng Đấng Hằng Sống.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thánh Tôma Aquinô lý luận rằng: “Yêu ai là muốn sự lành cho kẻ ấy”. Thiên Chúa yêu thương Đức Mẹ hơn mọi tạo vật, không lẽ Ngài từ chối việc Mông Triệu đáng công thưởng cho kẻ Ngài yêu sao?” (Thomas III, 17, 2).
Với tất cả những lý chứng trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: “Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là hoa quả tốt nhất của Ơn Cứu Độ, là thành quả vĩ đại nhất của Ơn Thánh, là kì công tuyệt vời của Thiên Chúa, hẳn Mẹ phải xứng đáng được hưởng ơn hồn xác lên trời.
3.- Mẹ lên trời, niềm hy vọng của chúng ta
Mỗi khi mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời, Giáo Hội tuyên xưng tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của Đức Mẹ và giúp cho người tín hữu thêm xác tín vào niềm hy vọng phục sinh của mỗi người. Đồng thời, mời gọi con cái của mình hãy hướng về Mẹ Maria như là mẫu gương sáng ngời, ngõ hầu noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời này cũng được phục sinh vinh hiển.
Sứ điệp của ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa tha thiết, trung thành tuân giữ những điều Chúa truyền dạy trong việc suy niệm, yêu mến và thực hành như Mẹ để đáng được trở thành người có phúc.
Bên cạnh đó, Lời Chúa hôm nay gợi lại cho chúng ta tâm tình cần phải có, đó là lời tạ ơn. Tạ Ơn thiên Chúa như Mẹ Maria. Mẹ đã coi mình là người không xứng đáng. Nhưng được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, nên Mẹ đã cất cao lời tạ ơn Chúa vì người đã đoái thương đến phận hèn mọn. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy tạ ơn Chúa như Mẹ khi xưa, vì biết bao ơn lành Người đã ban xuống trên cuộc đời chúng ta, mặc dù không xứng đáng.
Bên cạnh đó, chúng ta hãy biết chạy đến với Mẹ Maria với niềm tin tưởng sẽ được Mẹ ra sức phù trì bênh đỡ và chuyển cầu cho chúng ta như xưa Mẹ đã cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Canan.
Thiết nghĩ, nhờ gương sáng của Mẹ Maria trong việc sống đức tin, cậy, mến... sẽ là điểm cuốn hút đời sống nội tâm mỗi người, để mai ngày, chúng ta cũng được chung hưởng phúc vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, sống trung thành với Lời Chúa dạy, để sau cuộc đời tại thế này, chúng con được về vui sống bên Mẹ trong vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Em thật có phúc
Suy niệm :
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác,
phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria trong đời thường.
Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn 100 cây số,
đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên đang mang thai.
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui.
Maria là người cất tiếng chào trước.
Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (c. 44)
và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc. 42-45).
Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc. 46-47).
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần.
Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1, 35).
Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1, 41).
Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của cô em.
Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt vời (c. 42).
Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45).
Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được muôn hồng ân (c. 48).
Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại, phục vụ:
đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày xưa,
và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời.
Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi với con người.
Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ của nhân loại.
Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng ta nhiều điều.
Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và nỗi khốn cùng của nó.
Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề của trái đất,
vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao.
Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân xác.
Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và được tôn vinh với ta.
Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ.
“Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm.”
Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền thờ.
Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập tự giá.
Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ sống bên Ngài.
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26).
Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu bằng cả cuộc đời.
Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác.
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân loại.
Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến.
Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được hưởng.
Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh,
nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu.
Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững trên trời,
và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất.
Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 7: ĐỨC MARIA HỒN XÁC VỀ TRỜI: NIỀM HY VỌNG CỦA NGƯỜI TÍN HỮU
(Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, là chúng ta tôn vinh một người nữ, Mẹ của Đức Giêsu và Mẹ của mọi người tín hữu, đồng thời thắp lên cho nhân loại niềm hy vọng cứu độ.
1. Mẹ của Đức Giêsu: Trong Tân ước, người ta thường gọi Đức Maria là "Mẹ Đức Giêsu" (Mc 3,31; Ga 2,1-5; Cv 1,14). Nhưng trang Tin mừng hôm nay ghi lại một cách gọi đặc biệt dành cho Đức Maria, đó là 'Mẹ Thiên Chúa' (Lc 1,43).
Với tước hiệu này Mẹ đã đi vào lịch sử cứu độ, như là một mắt xích không thể thiếu được (Gl 4,4-5). Mẹ đã đồng ý thực hiện trọn vẹn kế hoặch của Thiên Chúa, làm cho Chúa Con sinh hạ trong lòng Mẹ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Các Giáo phụ đã dạy rằng trước khi cưu mang Đức Giêsu trong thân xác, thì Mẹ đã cưu mang Người trong tâm hồn chan chứa niềm Tin - Cậy - Mến.
Tình mẫu tử này đã dành cho Mẹ một quan hệ rất độc đáo với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Khi nhận ra ân huệ này, Mẹ cất lời ca Magnificat, vừa ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa, đồng thời xưng tụng các hành vi quả là cách mạng của Người và sống trước các mối phúc thật mà Đức Giêsu, con Mẹ sẽ loan báo sau này.
Lời fiat - xin vâng - ngày Truyền tin ngân nga xuyên suốt đời Đức Maria. Mẹ luôn xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình, dù phải trải qua những đau thương, từ bỏ dưới chân thập giá, nên Mẹ đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ khám phá này đến khám phá khác và từ ưng thuận này đên ưng thuận khác.
2. Đức Maria, người phụ nữ mới và cũng là Mẹ của người tín hữu: Trên núi Sọ, dưới chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và chối thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó Mẹ luôn ở bên cạnh các môn đệ vào mọi thời đại, để nhắc nhở các môn đệ "Thày bảo gì thì anh em cứ việc làm theo" (Ga 2,5) và trợ giúp các môn đệ trong việc dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm gặp lại mình nơi Đức Maria vào những ngày u tối cũng như những ngày vinh quang, để học biết khiêm nhu phục tùng lời Chúa, biết vui vẻ đợi chờ hồng ân của Chúa Thánh Thần và biết nhận ra các hành động quen thuộc của Chúa Cha nơi Chúa Con (x.Lc 2,51-52).
3. Niềm hy vọng cứu độ: "Kết thúc cuộc đời trần thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác" (PVGK, ngày 15 tháng 8, trang 1360).
Khẳng định như vậy, truyền thống Giáo Hội muốn nhìn nhận Đức Maria được hưởng một cái gì đó của cương vị mà Đức Kitô phục sinh đang sở hữu: Thần Khí đã chiếm hữu trọn vẹn Đức Maria, biến Mẹ trở thành đền thờ của Người và hòm bia của Thiên Chúa trên trần gian, thì sau khi hoàn tất cuộc đời lữ khách, Mẹ đã trở thành chi thể đầu tiên của Hội Thánh, một con người đầu tiên của nhân loại ở bên cạnh Thiên Chúa, một hoàn thành thật diễm phúc cho Thiên Chức làm Mẹ Thiên Chúa và cho ơn gọi làm người môn đệ Đức Kitô của Mẹ Maria. Đó là lý do tín điều Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria không được công bố vào ngày 15 tháng 8, nhưng vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ (01/11) năm 1950.
Khi công bố vào dịp lễ Các Thánh, Đức Piô XII đã đặt Đức Maria, một thụ tạo và cũng là vị nữ tỳ hoàn hảo của Thiên Chúa về phía nhân loại được cứu độ, để loan báo cho mọi người biết vận mệnh sáng ngời của mình:
"Chúa Kitô phục sinh vinh quang là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô" (1Cr 15,23). Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, mến Chúa yêu người như Mẹ, hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người và từng người một trong chúng ta. Chúa Kitô đã về trời, Mẹ Maria cũng đã về trời, chắc chắn chúng ta cũng sẽ về trời, chúng ta phải xác tín như vậy.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời, xin cho mỗi người chúng con mai sau cũng được về trời như Mẹ trong niềm tin yêu và hy vọng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Amen.
Suy niệm 8: Suy niệm Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời (Lc 11, 27-28)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28 ). Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu giảng cũng cất cao giọng nói: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" ( Lc 11, 27 )
Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay được Giáo hội dùng, dìu chúng ta về với tước hiệu Đức Maria đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói: "Phúc đức tại mẫu", nghĩa là theo quan niêm truyền thống, con cái được thừa hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế, George Herbert đã viết một câu rằng: "Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả trăm ông thầy!"
Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế này, hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức Giêsu về Mẹ của Ngài: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
"Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy" ( Lc 11, 27 )
Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Câu này ám chỉ, dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là người được Thiên Chúa đến ở cùng, và dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến Đức Maria, người diễm phúc như lời Thiên Thần Grabirel chào và nói: "Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1, 28 ), lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42 ). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã chọn Mẹ, cư ngụ trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú mớm nâng niu... những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn; không những thế, Chúa Giêsu còn ở với Mẹ trong suốt nhiều năm và đã vâng phục Mẹ. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc, Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
"Phúc cho vú đã cho Thầy bú" ( Lc 11, 27 )
Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang và sinh hạ và dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa cho trần thế. Người đàn bà khi nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, mà còn "vú đã cho Thầy bú mớm" ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.
Nếu "yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời" như kiểu nói của văn hào Shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc, vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh "hồn xác lên trời" trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng chính Mẹ biết rõ hơn ai: Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu Thiên Chúa cưu mang từ thủa đời đời. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu của Người Con ấy, "vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài" (Ep 5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là Evà mới "Mẹ của tất cả chúng sinh" (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ là Mẹ của những kẻ chết... Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự sống của mình trong Đấng Hằng Sống.
Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và trìu mến... Và giờ đây chúng ta "ở trong sự che chở " của Mẹ "Đấng Tối Cao", chúng ta "ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người bên hữu, tôi sẽ không lay! " (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta.
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5 ). Chúa Giêsu bảo: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" ( Lc 11, 28 ). Xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con diễm phúc của Mẹ. Amen.
Suy niệm 9: Mẹ về Trời, niềm hy vọng của chúng ta
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng «rình người nữ sắp sinh con để nuốt lấy đứa trẻ» (Kh 12, 4). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với Đức Kitô và Giáo hội của Người. Người sẽ toàn thắng.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang trong mình sự mỏng giòn.
1. Sự mỏng giòn của con người
Vốn mỏng giòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe, việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, cha mẹ khi đã về già, ốm đau bệnh tật, khủng hoảng về luân lý...tất cả đè nằng lên lòng trí con người. Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu trước những biến cố của cuộc đời?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi không làm gì hết, để mặc cho số phận. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một phần và tự sát. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng!
Giữa cảnh đời lữ thứ, người kitô hữu sống ra sao ? Đức tin của chúng ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống?
2. Cuộc chiến thắng!
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không?
Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: «Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc» (1 Cr 15, 20 ). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại (x. 1 Cr 15, 20-26). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh. Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta!
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ: "Chúa đã ra oai cánh tay thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của đầy dư... Vì Người nhớ lại lòng thương xót" (x. Lc 1, 39-56). Chắc chắn Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì sự hiện hữu của nhân loại. Thánh Phaolô nói: "Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng" (1 Tx 4, 13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Người trẻ sống hy vọng, khi họ hướng đến một tương lai khác và muốn sống quảng đại như Chúa muốn.
Những người ở bậc gia đình sống niềm hy vọng, bằng cách hiệp nhất cùng nhau, thủy chung trong đời sống vợ chồng để yêu thương, trao ban hạnh phúc và sự sống cho con cái.
Những người nam sống niềm hy vọng khi mau mắn đáp lại tiếng gọi Chúa để trở nên những linh mục, phó tế trong Giáo hội, và lấy làm hạnh phúc vì được cộng tác vào sứ mạng cao cả của Đức Kitô Mục Tử! Chúng ta thật bất hạnh nếu chúng ta không có niềm hy vọng!
Người sống hy vọng còn là người dấn thân cải thiện đời sống xã hội và làm việc công ích, lương thiện với mọi người, chăm sóc những người ốm đau, bệnh tật, già nua để trao ban cho họ niềm tin và giá trị về sự hiện hữu của chính mình. Những người sống hy vọng cũng còn là người tránh xa bom đạn, bạo lực chiến tranh, không ham báo thù.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất, thì thật phúc cho chúng ta, như Mẹ Maria khiêm nhường phục vụ Chúa: "Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước!" (Lc 1, 48)
Nếu như khi xưa Mẹ Thiên Chúa đã đến với bà Êlisabet, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con. Amen!
Suy niệm 10: MẸ MARIA LÀ ƯU PHẨM CỦA THIÊN CHÚA
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên Chúa, một thụ tạo được ưu tuyển và trổi vượt trên hết mọi loài được dựng nên. Bởi lẽ Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn cách đặc biệt. Không những thế, Thiên Chúa còn gìn giữ Mẹ cách nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Những ân huệ đó không thể có nơi bất cứ loài thụ tạo nào ngoài Mẹ.
Vì thế, khi mừng kính trọng thể lễ Đức Maria hồn xác về trời, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng nhau khám phá vị thế ưu việt của Mẹ trong chương trình cứu độ nơi tín điều, truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội. Mặt khác, Giáo Hội cũng chỉ cho con cái mình thấy và hiểu được việc Đức Maria hồn xác lên trời có tầm ảnh hưởng thế nào đến đời sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta.
1. Giáo huấn của Giáo Hội
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus. Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: "Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa"; "Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc" (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, việc đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời "Xin vâng" tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vậy, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang Cây Sự Sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể "nhục thân bất hoại" theo lẽ thường được.
2. Cùng với Mẹ ngợi khen Thiên Chúa
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Mẹ lên trời, chúng ta hãy cùng với cả triều thần ca mừng Nữ Hoàng Thiên Quốc: "Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?" (Dc 6,10).
Thế nên, phụng vụ hôm nay làm toát lên vẻ huy hoàng và sắc thái hân hoan, vì: kể từ đây, Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất; làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ đáng được mọi đời khen ngợi vì Mẹ là "Đấng đầy ơn phúc"; "Thiên Chúa ở cùng Mẹ". Mẹ trở thành Evà mới, thành Cây Quả Phúc mà Thiên Chúa đem trồng vào vườn Địa Đàng mới để được cưu mang và sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đấng Cứu Thế.
Sự xuất hiện của Mẹ đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Lịch sử cứu độ được mở ra với biết bao ân huệ.
Đứng trước hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, và đặt mình trong tâm tình của Mẹ, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm nơi Mẹ: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Lc 1, 46-48).
Đây chính là lời kinh tuyệt mỹ mà Mẹ Maria đã cất lên để ca tụng Thiên Chúa, và đây cũng là những cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhiệm mầu.
Biến cố Mẹ được đưa về trời, đã đem lại cho con người niềm hy vọng lớn lao và tuyệt đối.
Bởi vì sự phục sinh của Mẹ gắn liền với sự phục sinh của Đức Kitô: "Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu [...] cũng được Thiên Chúa cho sống lại" (x. 1Cr 15, 20-22).
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. "Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác" (GLCG, số 966). Bởi vì "Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người" (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
"Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành" (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương trời đất, nên hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: "Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian" (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh cho tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Suy niệm 11: Theo Đức Mẹ lên trời
(GM GB. Bùi Tuần)
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:“Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
Suy niệm 12: Mẹ Lên Trời
Từ tín điều Mẹ hồn xác lên trời, được mừng kính hôm nay, chúng ta rút ra được những kết luận nào.
Kết luận thứ nhất, đó là Mẹ đã được đưa về trời, nơi mà một ngày kia chúng ta cũng sẽ đến.
Thực vậy, sở dĩ Mẹ đã được đưa về trời một cách kỳ diệu vì Mẹ không hề phạm tội, nên thân xác Mẹ không bị huỷ hoại tiêu tan, cũng như thân xác Chúa Giêsu. Thân xác Mẹ trực tiếp đi từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang mà không phải nếm mùi mục nát. Sự hiện diện của Mẹ trên trời là lời hứa hẹn cho chúng ta, bởi vì một ngày kia chúng ta cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tuy nhiên, vì mang thân phận tội lỗi, nên chúng ta sẽ không chuyển trực tiếp từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang, nhưng sẽ phải trải qua một thời kỳ huỷ hoại, một thời kỳ mục nát. Chúng ta giống như cây phượng. Khi mùa hè trở về, nó trổ bông đỏ rực. Nhưng khi mùa thu tới, nó bắt đầu rụng lá để rồi chỉ còn lại những cành cây trơ trụi vào mùa đông.
Cuộc sống của chúng ta cũng giống như vậy. Khi mùa thu cuộc đời trở lại, chúng ta mất đi toàn bộ vẻ đẹp thân xác, để rồi sẽ bị rữa thối trong lòng đất lạnh, một khi chúng ta nằm xuống cùng với một cái chết. Thế nhưng khi giờ phút sống lại đã điểm, thì một thân xác mới mẻ và xinh đẹp sẽ nở tươi trên đống tro tàn bụi đất, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: khi gieo một hạt giống vào lòng đất, nó sẽ không mọc lên nếu không bị chết đi. Và hạt giống chúng ta gieo, há chẳng phải là một cây đầy đủ mà sau này sẽ lớn lên sao. Thân xác của chúng ta lúc bấy giờ sẽ như thế nào? Thánh Phaolô diễn tả: – Thân xác hay chết này sẽ mặc lấy sự không hay chết và thân xác mục nát này sẽ không còn mục nát nữa.
Kết luận thứ hai việc Mẹ được đưa về trời còn là nguồn trợ lực cho chúng ta khi chiến đấu để chiếm lấy niềm vinh thắng mà Mẹ đang vui hưởng.
Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến kêu cầu cùng Mẹ.
Douglas Hyde là một đảng viên Cộng sản, chủ bút một tờ báo lớn ở Anh Quốc. Ông đã kể lại sự mình trở về với Giáo hội như sau:
Ngày nọ, tình cờ ông bước vào một nhà thờ Công giáo. Ngồi ở hàng ghế sau cùng, ông đưa mắt quan sát và nhận thấy có một thiếu nữ bước vào, vẻ mặt đầy âu lo. Cô ta đến trước bàn thờ Đức Mẹ, quỳ cầu nguyện một hồi lâu, sau đó đứng dậy ra khỏi nhà thờ. Lúc cô ta đi ngang qua, ông nhận thấy vẻ mặt đầy lo âu khi trước đã tan biến, nhường chỗ cho một vẻ mặt phấn khởi và hy vọng.
Thế là ông cũng mon men đến bên bàn thờ Đức Mẹ và trình bày câu chuyện đời mình, nhưng ông không biết phải bắt đầu như thế nào. Sau này khi nhớ lại, thì hình như ông ta đã nói với Mẹ:
– Lạy Mẹ dịu dàng và đáng yêu, xin hãy tỏ ra nhân từ và khoan dung với con. Nhờ Mẹ giúp đỡ, cuối cùng ông đã được ơn ăn năn trở lại.
Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, bởi vì xưa nay chưa từng nghe có người nào kêu cầu Mẹ, mà Mẹ chẳng nhận lời.
Suy niệm 13: Cảm nghiệm ơn Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
Suy niệm 14: Niềm an ủi
Hôm nay, chúng ta mừng kính một tạo vật đầu tiên đã được khải hoàn và bước vào quê hương nước trời. Tạo vật ấy chính là Mẹ Maria.
Bầu khí phụng vụ mang một sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh, để rồi nắm giữ vai trò quan trọng nhất, vai trò Nữ vương trời đất, cũng như chiếm lấy một địa vị cao cả nhất, thật gần với Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi tạo vật, địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Thực vậy, sau những ngày tháng khổ đau, giờ đây Mẹ được vui hưởng niềm hạnh phúc bất diệt như lời thánh Phaolô đã diễn tả: – Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những người yêu mến Ngài.
Trong ngày mừng kính Mẹ hồn xác về trời, chúng ta không phải chỉ ngợi khen và chúc tụng, mà còn phải tìm lấy cho mình một niềm vui mừng và hy vọng.
Thực vậy, kể từ khi Mẹ bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ rất nhiều, bởi vì tình mẫu tử, một thứ tình cảm đẹp đẽ và tinh ròng nhất của trái tim con người, đã được cụ thể hoá nơi Mẹ Maria trước ngai toà Thiên Chúa.
Nó không phải chỉ mang lấy vẻ dịu hiền của tình thương, mà còn mang lấy vẻ uy nghi của quyền năng, nhờ đó Mẹ sẵn sàng ra tay nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trên đường lữ thứ trần gian.
Đúng thế, trên đỉnh đồi Canvê, Đức Maria đã trở nên Mẹ của nhân loại, cũng như trở nên Mẹ của mỗi người chúng ta, qua lời trăn trối của của Chúa Giêsu:
– Này là Mẹ con… và này là con Mẹ.
Qua lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã cưu mang chúng ta. Đồng thời, qua những đau khổ phải chịu, nhất là khi đứng dưới chân cây thập giá, Mẹ đã sinh chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, với tước hiệu là Mẹ chúng ta, Mẹ vẫn nhớ đến từng người và Mẹ sẽ dùng tình thương của một người mẹ và uy quyền của một vị nữ vương để bầu cử và giúp đỡ chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói được rằng: – Mẹ nắm giữ số phận của mỗi người chúng ta trong lòng bàn tay yêu thương và quyền năng của Mẹ.
Vì thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ trong những phút giây hạnh phúc để cảm tạ, cũng như hãy chạy đến với Mẹ trong những tháng ngày đau khổ để xin Mẹ chở che.
Trong cuộc sống dương thế, Mẹ đã trải qua biết bao nhiêu cay đắng, nên Mẹ sẽ hiểu biết và chia sẻ với chúng ta hơn ai hết, bởi vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Có khổ đau, thì mới dễ dàng cảm thông với người đau khổ. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ trợ giúp và dẫn chúng ta đến cùng Chúa.
Douglas Hyde là một người cộng sản, chủ trương tờ nhật báo “Công Nhân” tại Anh, đã trở lại Công giáo trong một hoàn cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một nhà thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, nhưng khi cô ta ra về, thì dường như những nét khổ đau đã được xoá tan, không còn để lại một dấu vết nào cả.
Tò mò, ông ta cũng bước vào và đến bên tượng Đức Mẹ. Ông ta thắp lên một ngọn nến và quỳ cầu nguyện. Thế nhưng, đầu óc thì trống rỗng, ông ta không thể nhớ nổi một câu kinh mà hồi còn nhỏ ông ta đã thuộc lòng. Cây nến cứ giảm dần, giảm dần. Sau cùng, ông ta nghe như có một tiếng nói thì thầm bên tai, nhưng cũng không được rõ.
Sau khi ra khỏi nhà thờ, ông ta cố gắng nhớ lại. Rồi ông ta đã mỉm cười, bởi vì trong lúc cầu nguyện, ông ta đã khẽ hát một bản tình ca đang thịnh hành lúc bấy giờ: – Nàng xinh đẹp quá, xin hãy nhớ đến tôi…
Nhưng Mẹ Maria đã thấu suốt cõi lòng ông ta và đã dẫn đưa ông ta về cùng Chúa.
Với tình thương của một người mẹ, Đức Maria sẵn sàng nâng đỡ chúng ta và với uy quyền của một bậc nữ vương, Đức Maria có thể làm được tất cả những gì chúng ta kêu cầu.
Chúng ta vốn thường đọc: – Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Phải chăng đó là chính là niềm an ủi và khích lệ chúng ta gặp được khi mừng kính Mẹ hồn xác lên trời ngày hôm nay?
Suy niệm 15: Đức Maria: Địa chỉ trên cao
(GM Giuse Vũ Duy Thống)
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
Suy niệm 16: Vinh quang
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kiện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết. Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi. Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác. Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
Suy niệm 17: Mẹ lên trời là hy vọng của chúng ta
Tại một số thành phố trong nước Ý có một cách mừng Lễ Mẹ Lên Trời thật đơn sơ nhưng có ý nghĩa: Họ bắt đầu không phải ở nhà thờ nhưng ở đường phố chính. Việc cử hành gồm hai cuộc rước.
Cuộc rước tượng Đức Mẹ bắt đầu từ ngoại ô thành phố tiến vào trung tâm thành phố. Cuộc rước này tượng trưng cho cuộc hành trình của Đức Mẹ từ cuộc sống trần gian tiến về trời.
Cuộc rước khác là cuộc rước tượng Chúa Giêsu qua các đường phố lớn. Ý nghĩa cuộc rước này là Chúa Giêsu đi đón Đức Mẹ khi Đức Mẹ tiến vào thiên đàng.
Giây phút nổi bật là khi hai cuộc rước gặp nhau tại một cổng chào được trang hoàng lộng lẫy. Chúa Giêsu và Đức Mẹ cúi chào nhau ba lần nói lên rằng Chúa Giêsu chào mừng Đức Mẹ tại cổng thiên đàng.
Sau nghi thức này, tất cả mọi người kiệu Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào nhà thờ. Ý nghĩa việc rước này là Chúa Giêsu đưa Mẹ Ngài lên toà vinh quang trên trời. Khi mọi người vào nhà thờ thì Thánh Lễ được bắt đầu.
Theo phương diện thần học, Lễ Mẹ Lên Trời nói với chúng ta rằng cả hồn và xác Mẹ Maria đang ở trên thiên quốc. Vì Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, giống như thân xác Chúa Giêsu, thân xác Mẹ không hư nát. Thể chất trần gian của Mẹ biến sang thể chất thiên đàng.
Theo phương diện thực hành, Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở rằng chúng ta một ngày nào đó cũng được ở trên thiên đàng cả hồn và xác.
Có khi chúng ta quên rằng chúng ta cũng có thân thể trên thiên đàng. Dĩ nhiên, nó không phải là cái xác hay chết này như là thân thể thiêng liêng giống như thân thể Chúa Giêsu sau khi sống lại.
Nói về loại thân thể của chúng ta trên thiên đàng, chúng ta tìm đọc Thư thứ I Thánh Phaolô gửi cho Corintô: “Kẻ chết sống lại thể nào? Lấy thân xác nào mà đến?” Thánh Nhân so sánh thân xác dưới đất này với hạt giống và thân thể trên thiên đàng với cây lớn lên từ hạt giống đó: “Vật ngươi gieo nào phải là thân hình tương lai, nó chỉ là cái hạt, như lúa mì hay thứ khác chẳng hạn… Thiên Chúa cho nó hình thể nào tuỳ ý, mỗi hạt đều được hình thù riêng… Có hình thể thuộc về trời, có hình thể thuộc về đất. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế: đã gieo sẽ mục nát, sống lại rồi thành bất hủ. Gieo xuống là nhục, sống lại là vinh, gieo vào đau yếu, sống lại mạnh khoẻ. Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân hình thiêng liêng.” (I Cor 15:36-44).
Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta một điểm thực hành nữa là Đức Mẹ ở trên trời là để giúp chúng ta. Đức Mẹ không ngồi nghỉ, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chờ đợi chúng ta lên trời. Thật ra, Đức Mẹ luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta. Đức Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Đức Mẹ trên trời có thế lực để giúp chúng ta.
Đó là tin mừng cho chúng ta khi mừng Lễ Đức Mẹ. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Chúng ta cùng cầu nguyện, dùng lời kinh của lễ hôm nay: “Lạy Chúa chí thánh, hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài.” Xin cho chúng con được cùng Đức Mẹ, một ngày nào đó trên thiên đàng, ca tụng Chúa muôn đời.
Suy niệm 18: Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
– “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
– “Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
“Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh”.
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tuỳ thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ «cao cả» đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giêsu là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Suy niệm 19: Lòng tự trọng
Bà Elisabét nói với Đức Maria “Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ”. Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả”.
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng “Tôi là người tốt”.
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng “Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người”. Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới ánh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
Suy niệm 20: Thiên Chúa chiến thắng Con Rồng đỏ
(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta cần khám phá ý nghĩa của chúng trong thánh lễ này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó như một sức mạnh khủng khiếp, ích kỷ vô cùng và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a). Ở đây, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống Kitô giáo và bách hại Giáo Hội với một sức mạnh vô tận. Đối diện với thế lực đó, Đức Tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mền”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Thế nhưng, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ là thất bại và bị tiêu vong. “Người phụ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, đế quốc La Mã “trở lại” và đón nhận Đức Tin Kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế Rôma lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.
Theo một giải thích khác, “con rồng đỏ” cũng là hình ảnh của các thể chế độc độc tài duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, Trung Quốc và Việt nam. Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Sống dưới sự thống trị của các thể chế đó, thật là khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa và giữ các giới răn của Người. Nhưng lịch sử Châu Âu chứng kiến chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Tình yêu và sự thật mạnh hơn hận thù, bạo lực và ích kỷ của con người!
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Như thế, Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Đây là một tín điều được định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950.
Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, cưu mang và sinh hạ Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ của con người.
Như thế, lễ Mẹ Lên Trời đưa chúng ta tới chân trời hy vọng và mời gọi chúng ta can đảm, đừng sợ và tin tưởng vào tương lai vì cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng con rồng đỏ. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện. Đức tin là sức mạnh của thế giới! Chúng ta hãy xác tín như Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng sự từ bỏ và quyên mình phục vụ anh em. Đó là con đường đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ trên trời. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy dâng lời tung hô: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!
Suy niệm 21: Thăm viếng và Bài ca Ngợi khen
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo Hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: “Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn…”. Biết được tin này, Maria “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo như lời sứ thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta đi từ “người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người “nữ tỳ” hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động” (“Truyền tin cho Maria”, Cerf, 1981, Lectio divina số 106, tr-222). Trong Maria Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới mọi bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? có lẽ là vì bác ái: để giúp Êlisabét? Thánh Luca không thoả mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mặc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai gặp nhau. Về điều này L.Legrand đã nhận xét rất đúng: “Khi đọc chính bản văn hình như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của Êlisabét và hát bài ca ngợi khen” (Sđd, tr.219).
2. Và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Giacaria, Maria truyền đến cho chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai Êlisabét, con trẻ trong lòng bà nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hylạp, từ “nhảy mừng” có nghĩa là: “Nhảy bật lên”, “nhảy lên”, “nhảy múa”.
Như thiên thần đã báo tin cho Giacaria, Gioan được “đầy Thánh thần ngay trước khi sinh” (1,15) nên Gioan nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được “đầy Thánh Thần” nên Êlisabét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ mà bà đang trải qua.
Khi cất tiếng thán phục, Êlisabét nhìn nhận Maria và “đứa con trong lòng” được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Êlisabét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh Tv109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria tước hiệu “Mẹ Chúa tôi”.
Cuối cùng sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”; “đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng, mối phúc Thanh Luca dành cho một tên khác của Maria: “Người đã tin” (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa
Bài ca “Ngợi khen” là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: “theo lối văn kể chuyện… một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sôlô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thuỷ, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Lu ca cho chúng ta thấy rằng hình ảnh đẹp về Mẹ”. (“Cahiers- Evangile”, số 77, tr.45).
Các câu 45 và 47 chi phối tất cả phầ còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những ký công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên “Mẹ Chúa”. Ở đây Luca diễn tả văn bản đầy cảm hứng này qua sự đối lập đầy lòng khiêm tốn của người “nữ tỳ” và sự cao cả của Đấng “quyền uy” đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca “nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ cá nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1,48) tới dân nghèo (1,52); từ người nữ tỳ (1,48) tới Israel tôi tớ (1,54) (“Cahiers- Evangile”, số 77, tr.47).
Những kì công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc xuất hành, là Lề luật, nhưng trên hết đó là kỳ công của đã hoàn tất nơi Maria: sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người Con này Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Chúa Cứư Thế đến với lòng tin tưởng không phải là một giáo thuyết, nhưng là một sức mạch chuyển lay nhằm thay đổi và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: “người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng”. (Cahiers- Evangile, số 77, tr.48).
Suy niệm 22: Mẹ Lên Trời
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.
Suy niệm 23: Đức Maria Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không ?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
– Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
– Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
– Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5) .
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).
Suy niệm 24: Sum họp trên Trời
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biế bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa… và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy niệm 25: Chú giải các bài đọc
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: “Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc “thực hiện chính mình”. Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
Suy niệm 26: Phận hèn cao trọng
(Trầm Thiên Thu)
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
13/08 Sống tinh thần trẻ thơ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống tinh thần trẻ thơ.
Thứ ba tuần 19 thường niên.
"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".
Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10. 12-14
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Tinh Thần Trẻ Thơ
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ.
Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: "Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền".
Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Những Trẻ Nhỏ Của Tôi.
Lúc ấy các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông mà bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. (Mt. 18, 1-4)
Người lớn khó có lòng trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, khó sống trong đức tin.
Giầu có nhờ nghèo khó.
Nghèo khó trong mối phúc thật thứ nhất chính là sự giầu có của tuổi thơ ấu. Trẻ nhỏ không phải là thiên thần. Tuy nhiên thiên thần giống như đứa trẻ má phúng phính, chút vẻ ngây ngô, vô tính, như những bức họa mô tả.
Còn trẻ nhỏ có nhiều lầm lỗi, nhưng có nhiều đức tính, cá tính. Nó tin cậy tất cả, yêu tất cả. Nó biết cha nó không gắt gỏng về tính hay thay đổi của nó. Nếu cha nó sửa lỗi nó, thì luôn luôn vì yêu nó. (tôi nghĩ đến những người cha bình thường chứ không phải hạng người cha đao phủ mà báo chí đăng tin gật gân)
Cha chúng ta ở trên trời tha thứ những lời bậy bạ của chúng ta, khi chúng ta sống chắc chắn trong tình yêu của Ngài, tin cậy hoàn toàn vào Ngài.
Một đứa trẻ tưởng mình qua mặt được Thiên Chúa, cho rằng mình không cần Thiên Chúa để được hạnh phúc, thì nó đã tự coi mình trưởng thành, nó đã mất tâm hồn trẻ thơ, cạn kiệt hạnh phúc và niềm vui rồi.
Những đòi hỏi trở nên trẻ nhỏ.
Khi kêu gọi chúng ta trở nên trẻ nhỏ, Chúa nhắc nhở chúng ta rằng Nước Trời không phải là một phần thưởng dễ được, phải thực hiện một đời sống toàn diện. Phải tìm lại vẻ cao đẹp của tuổi thơ, sự chân thật, sự hết mình và tính vui tươi của chúng. Không lo ngày mai, nhưng lúc này là giây phút đời đời. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ, tìm lại được nhiệt tình hăng hái trước cuộc đời biết ngạc nhiên trước tình yêu đang bộc lộ ra hằng ngày cho chúng ta. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ và cuộc sống đầy tràn sức sống mỗi ngày. Nếu mọi việc chúng ta làm trong ngày mà đến cuối ngày chúng ta thấy mệt mỏi tinh thần, thì chắc chắn tất cả nhiệt tình chúng ta đổ vào công việc không còn mang được ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của thánh ý Chúa nữa, như vậy cuộc sống của chúng ta đã trở thành thảm kịch bi đát rồi.
J.M
Suy niệm 3: MUỐN LÀM LỚN, PHẢI LÀM GÌ? (Mt 18, 1-5. 10. 12-14)
Xem lại thứ Ba tuần 2 MV, lễ thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su ngày 1/10
và lễ Thiên Thần Bản Mệnh ngày 2/10.
Trong xã hội mọi thời, những chuyện như tranh dành quyền lực luôn diễn ra nhan nhản. Tuy nhiên, sự tiêu cực này không phải không có trong thời Đức Giêsu, vì thế, ta không lạ gì khi thấy các môn đệ lên tiếng hỏi Ngài: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”. Hồi hộp, mong mỏi chờ đợi Đức Giêsu lên tiếng! Nhưng khi Ngài lên tiếng thì các ông té ngửa và chưng hửng, bởi vì mưu ý của các ông đã bị lật đổ.
Nhân đây, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ bài học:
- Điều kiện cần để được vào Nước Trời là: "Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời".
- Điều kiện đủ để là người lớn nhất trong Nước Trời là: "Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời".
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì nên giống trẻ nhỏ thì: chân thành, không thù oán, không giận giữ, không màng công danh và luôn phó thác mọi sự nơi cha mẹ chúng.
Như vậy, Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình phải mặc lấy những tâm tình đó để sẵn sàng hy sinh, tự hạ và chấp nhận mọi sự vì Nước Trời. Trở nên người phục vụ theo gương của chính Ngài là: “Đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cũng mặc lấy tâm tình của trẻ thơ như Đức Giêsu mong muốn. Biết chấp nhận thân phận yếu đuối để cần đến ơn Chúa và biết sống trong sự khiêm tốn, phó thác.
Được như thế, nhân loại này sẽ không còn chiến tranh, hận thù. Các gia đình sẽ ấm êm hạnh phúc vì mọi người biết sống cho nhau và vì nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa tha thiết, luôn sống trong tâm tình phó thác, và sẵn sàng dấn thân phục vụ anh chị em để được hạnh phúc Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 4: Em nhỏ và kẻ bé mọn
Suy niệm :
Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
Như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về.
“Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/08 Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục.
Thứ hai tuần 19 thường niên.
"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Lời Chúa: Mt 17, 21-26
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.
Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
J.M
Suy niệm 4: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 17, 21-26)
Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy".
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực... Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang". Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702) , thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Để khỏi làm cớ sa ngã
Suy niệm:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/08 Sẵn sàng quản lý khôn ngoan
- Viết bởi Lc 12, 32-48
Sẵn sàng quản lý khôn ngoan.
Chúa Nhật 19 Thường Niên năm C.
"Các con hãy sẵn sàng".
Lời Chúa: Lc 12, 32-48
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – C 2019
Lời Chúa: Kn. 18, 6-9; Dt. 11,1-2.8-19; Lc. 12, 32-48
1. Nước Trời cho anh em – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ năm 1945 cho đến nay, cứ vào ngày 06 tháng 08, hàng trăm ngàn người đã đến tượng đài Hòa Bình ở Nagazaki đứng chờ đúng 11 giờ 30 từng hồi chuông đổ ngân vang trên khắp nước Nhật, nhắc nhở thế giới mặc niệm hơn 147.000 người của hai thành phố Nagazaki và Hiroshima đã bị thiêu hủy dưới sức tàn phá của hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Suốt 45 năm thế giới luôn luôn nơm nớp lo sợ trong chiến tranh lạnh dưới sức đe dọa khủng khiếp của hàng triệu triệu tấn bom nguyên tử trong kho vũ khí các cường quốc có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mãi cho tới năm 1990, thế giới mới có tin mừng; chiến tranh lạnh chấm dứt, vũ khí hạch nhân đang bị loại bỏ.
Các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để tưởng niệm lễ Vượt qua của dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Nhưng nghe Thầy tiên báo Thầy phải vượt qua một khổ nạn sắp tới, các ông linh cảm thấy một sức mạnh ghê gớm đe dọa làm các ông lo sợ. Thực vậy, các ông chỉ là đoàn chiên bé nhỏ có mười hai người quê mùa, kém cỏi, đi theo một mục tử hiền hòa, nhân hậu, làm sao đương đầu được với một lực lượng đầy quyền thế hùng hậu của thủ đô và một đoàn quân dũng mãnh của đế quốc Rôma. Trước những lo ngại ấy, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, anh em đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em”.
Nước Trời mới thực là Tin Mừng muôn thuở. Đời sống anh em được Cha trên trời bảo đảm vững chắc, không một sức mạnh thế gian nào dám xâm phạm tới, không quân dữ nào dám nhào tới, anh em không còn sợ bị chết nữa, không còn sợ bất cứ chiến tranh, bom đạn nào nữa. Không còn sợ đau khổ, hận thù, cực hình nào nữa. Không còn sợ bất kỳ đói khát, bệnh tật, bất công, bất nhân nào nữa. Vì thế ngay đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu đã nói với các ông:
“Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy” (Lc. 12, 4-5).
Đấng ấy là Cha trên trời đã ban cho anh em nước trời rồi, anh em đâu còn sợ chi nữa! Nước trời là hạnh phúc vô biên cho anh em rồi. Nước trời là Tin Mừng mang lại cho anh em cuộc sống vinh quang, toàn thiện, toàn mỹ trong tình thương bao la của Thiên Chúa rồi. Không còn đâu vui mừng hạnh phúc cho anh em hơn nước trời nữa.
Vậy để được hưởng nước trời, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ và chúng ta phải cố gắng thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất: phải quyết tâm đạt được nước trời với bất cứ giá nào, dù phải bán hết của cải đem đi bố thí, cũng sẵn sàng vui lòng, vì nước trời là “túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, là kho tàng vô giá chẳng bao giờ thiếu hụt, là kho tàng trên trời, nơi không có trộm cướp bén mảng, không có mối mọt đục phá”.
Thứ hai: Phải thắt lưng làm việc như tôi tớ, như bồi bàn, như Thầy đã thắt lưng rửa chân cho các môn đệ, đã dọn tiệc bằng Thịt Máu Thầy cho các môn đệ ăn. Đến lượt các ông cũng làm như Thầy, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!
Thứ ba: Phải luôn luôn là những người quản gia, quản lý trung tín và khôn ngoan như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn luôn tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa như Abraham dầu phải vác con lên núi, sát tế, ông sẵn sàng hy sinh mạng sống con mình và cả mạng sống mình để thực thi ý Chúa (Bài đọc II)
Sau nữa: Phải trông cậy kiên trì vào lời Thầy: “Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em” như dân Chúa xưa “các ngài đã kiên trì trông đợi đêm vượt qua …, để các Ngài được phấn khởi hân hoan, vì biết chắc về những lời thề hứa của Chúa mà các ngài đã tin tưởng” (Bài I)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì tin tưởng và trông đợi lời hứa không bao giờ lay chuyển của Chúa, để luôn luôn tỉnh thức chu toàn mọi công việc Chúa trao như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, cho tới khi Chúa đến gõ cửa, chúng con được vui mừng ra đón rước Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
2. Sự nghèo khó
Mọi quốc gia đều lấy sự giàu mạnh làm lý tưởng. Ai cũng mơ ước và cố gắng làm sao cho dân giàu nước mạnh. Vậy mà chỉ có Nước Trời xem ra lại chỉ muốn có sự nghèo khó.
Thực vậy sự nghèo khó gắn liền với Nước Trời, đó là điều đã được Chúa Giêsu công bố: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cái mối tương quan bất khả phân ly giữa Nước Trời và sự nghèo khó ấy: Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng và cũng chẳng có mối mọt đục phá. Lý do của sự gắn bó giữa Nước Trời và sự nghèo khó không phải như nhiều người vẫn nghĩ là vì Nước Trời thuộc về trật tự siêu nhiên, một thực tại đối lập với thực tại trần thế. Cái lối suy nghĩ như thế không giúp ích gì để soi sáng cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm Nước Trời, trái lại nó còn làm cho lu mờ khó hiểu thêm, hay nói đúng hơn, nó xuyên tạc hoàn toàn ý nghĩa của mầu nhiệm đó.
Không phải vì Nước Trời là một thực tại thuộc về tâm linh mà đối lập và chống lại thực tại vật chất. Trái lại, giữa hai thực tại vẫn có một sự liên tục: giữa trần gian và Nước Chúa. Giữa trời đất đang có và trời mới đất mới đang hình thành có một liên hệ không thể nào tách biệt. Điều đó phần nào cũng giống như mối liên hệ giữa con sâu hiện tại và cánh bướm của tương lai, giữa hạt thóc hôm nay và bông lúa của ngày mai.
Vì thế, khó nghèo ở đây trước hết, không phải là chủ trương không có gì, và nhất là không phải chỉ dừng lại ở chuyện không có của cải vật chất. Sự nghèo khó ở đây phải là một sự nghèo khó tuyệt đối, một sự nghèo khó trong tâm hồn giống như cái “tiết trực tâm hư” theo lý tưởng của người quân tử Trung Hoa, nghĩa là cái lòng thanh bạch, không tham lam chất chứa gì cho mình. Hay là cái vô ngã của nhà Phật, chủ trương dẹp bỏ tận gốc của tham sân si, là cái tôi. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình.
Do đó sư nghèo khó này không phải chủ yếu ở chỗ không có gì và không muốn có gì, mà còn là sự từ bỏ cái có mà nhân loại không ai muốn bỏ, tức là cái tôi của mình. Tuy nhiên muốn từ bỏ cái tôi mà lại không muốn từ bỏ những gì thuộc về nó, những gì nó có và bám vào để tồn tại, thì cũng chẳng khác gì muốn dập tắt ngọn lửa mà vẫn còn để cho nó bám vào chất cháy. Bởi đó không ai có thể từ bỏ chính mình mà lại không từ bỏ của cải vật chất cũng như danh vọng và địa vị. Thế nhưng sự từ bỏ ấy không phải để tạo cho mình một sự thanh tĩnh vô vi, một thứ niết bàn nào đó theo quan niệm Phật giáo, nhưng là để dâng hiến theo đòi hỏi của tình yêu, dâng hiến trọn vẹn để phục vụ anh em vì Nước Trời.
Khi yêu nhau, người ta sẵn sàng đem tất cả những gì mình có đến đặt dưới chân người mình yêu, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay người mình yêu, sẵn sàng dâng hiến cả mạng sống mình cho người mình yêu, sẵn sàng sống tất cả vì người mình yêu và cho người mình yêu. Người nghèo khó theo chân Chúa Giêsu cũng phải là người hiến dâng trọn vẹn như thế. Chính trong kinh nghiệm ấy mà thánh Phaolô đã nói: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
3. Đức tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dòng dõi của Tổ phụ Abraham đã thừa hưởng gia bảo quý báu là đức tin. Tuy phải đối diện với muôn vàn gian khó và chung đụng với nhiều tôn giáo thờ các thần ngoại, con cháu của Tổ phụ Abraham tiếp tục đặt niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Họ đã trung thành với truyền thống của cha ông. Họ là nhóm nồng cốt lưu truyền cho các thế hệ sứ mệnh đã được trao ban cho các Tổ phụ. Họ là những người công chính cầm cân nẩy mực giúp cho đoàn dân quy hướng về Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ghi nhận: "Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ." (Kn 18,9). Số còn sót lại của dòng dõi Abraham đã trải qua vinh nhục và sướng khổ để hoàn thành sứ mệnh.
Lịch sử Ơn Cứu độ là một cuộc lữ hành trong đức tin. Thư gửi tín hữu Dothái đã nhấn mạnh: "Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt." (Dt 11,1-2). Qua đức tin, các cha ông đã tiến đi trong sự phó thác và sự quan phòng của Thiên Chúa. Các ngài sống chết trong niềm tin, dù chưa hề chứng kiến các sự kiện xuất hiện. Bước đi trong niềm tin chứ không phải đi trong cảnh nhãn tiền. Từ lời hứa ban ơn cứu độ với Adong và Evà, qua các Tổ phụ Noe, Abraham, Isaac, Jocob, Giuse và Môisen… Thiên Chúa luôn đồng hành và dẫn dắt lịch sử cứu độ. Thiên Chúa luôn trung tín với lời đã hứa. Các Tổ phụ đã luôn đặt niềm tin nơi Chúa: "Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất." (Dt 11,13).
Bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục giảng về của cải Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc và của cải hay hư nát mà đổi lấy kho tàng trên trời. Lữ hành trần thế nhưng mắt của chúng ta hướng về trời cao. Mỗi người chúng ta có một định mệnh riêng. Khởi đi từ dưới đất tạm thời và sẽ kết thúc nơi vĩnh hằng. Nơi đó có thể là nơi hằng sống ở thiên đàng hoặc nơi bị đày ải khổ đau. Muốn gặt hái những hoa trái tốt lành, chúng ta phải chăm sóc gieo hạt cẩn thận. Hoa trái an lạc không phải tự nhiên hay ngẫu nhiên mà kết thành. Muốn hưởng hạnh phúc quê thật, chúng ta phải làm việc lành phúc đức và tích trữ những của cải không hư nát. Chúa Giêsu dạy: "Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát." (Lc 12,33).
Truyện kể có bà lão ăn mày tên là Mary. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ ăn xin. Không kể mùa đông băng giá, bà chỉ mặc manh áo sờn rách. Bà van xin kể lể cảnh túng cực. Bà kiên tâm xin người qua kẻ lại thương tình bố thí. Tối đến bà trở về túp lều gỗ. Bà ăn uống đơn sơ. Vì quá kham khổ nên bị bệnh và chết. Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh tìm đến nơi. Vào căn lều nhỏ, thấy bà đã chết nhưng tay vẫn chỉ vào một góc nhà. Họ đã đào bới và tìm thấy cái hộp, có 127.000 đô la. Thật là món tiền khổng lồ nhưng lại vô ích cho chủ nhân.
"Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó." (Lc 12,34). Đúng thế, đồng tiền nối liền khúc ruột. Tiền bạc rất cần cho cuộc sống nơi dương thế, nhưng tiền bạc không là cùng đích. Của cải tiền bạc như con dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại hạnh phúc và cũng có thể huỷ hoại niềm vui hoan lạc cuộc sống. Tiền bạc là phương tiện tốt giúp tìm được hạnh phúc thật nếu chúng ta dùng tiền bạc như một tên đầy tớ hữu dụng. Chúa Giêsu đã nhắc nhở rằng kho tàng ở đâu thì lòng ở đó. Khi lòng chúng ta mải mê với của cải trần đời, tâm hồn cũng sẽ bị hoen ố lây. Thường tình, ai trong chúng ta cũng mến chuộng tiền bạc. Tiền giúp chúng ta tránh khỏi cảnh lầm than, thiếu thốn, nhưng tiền không là tất cả. Có tiền, chúng ta có thể mua được nhà, được xe và các phương tiện đồ dùng nhưng chưa chắc đã mua được sức khoẻ, tri thức, tình yêu và hạnh phúc. Chúng ta nên cẩn thận về cách kiếm tiền, tiêu tiền và dùng tiền để sinh hoa trái an vui và hạnh phúc cuộc đời.
Có người quan niệm rằng tiền là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ… Lợi nhuận của đồng tiền đã lôi kéo nhiều tâm hồn vào con đường lầm lạc. Có người nghĩ rằng dối gian gạt người khác và gạt các nhân viên chính quyền thì không phải là sự gian dối. Chủ trương là miễn làm sao đạt được mục đích riêng tư, lợi ích cho bản thân và gia đình. Có trường hợp làm giấy hôn thú giả và cưới giả để lấy một món tiền. Hai bên đều có lợi. Bất chấp tiếng nói lương tâm hay lỗi phạm các giới răn của Chúa. Có nhiều tín hữu bên ngoài có vẻ sùng đạo cũng đã vào hùa với nhau để làm chứng dối cho nhau.
Như trường hợp một người đã có gia đình, vợ và con cái ở quê nhà. Ông sang Hoa Kỳ đi du lịch, visa đã gần hết hạn và muốn được ở lại Hoa Kỳ. Qua mai mối, ông âm thầm ly dị vợ và làm giấy hôn thú với một người Công giáo khác. Có chứng minh hình ảnh và nhân chứng thật rõ ràng. Khổ nỗi, các nhân chứng quá thật, dàn cảnh có linh mục và bạn bè cùng chụp hình chung làm bằng chứng để phỏng vấn, rồi tổ chức đám cưới giả để qua mắt chính quyền. Người được việc, kẻ được tiền và người mai mối thì vui vẻ thành công. Hả hê vì có bạn, có tiền và có kết quả theo ý muốn. Đôi khi cậy vào danh Chúa để khoe rằng Chúa đã nhận lời cầu nguyện, cảm tạ ơn Chúa.
Khi còn đang sung sức, mạnh khoẻ, chúng ta cố gắng làm việc tốt. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi ngày đều có sự thay đổi và cuộc sống đời này thật mong manh. Sự sống, sự chết cận kề. Chúng ta không biết được việc gì sẽ xảy ra ngày mai. Chúa Giêsu cảnh báo: "Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến." (Lc 12,40). Chẳng ai học được chữ ngờ. Cái gì cũng có thể xảy ra. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế chuẩn bị. Chuẩn bị về mọi khía cạnh của cuộc sống. Sự chuẩn bị sẽ giúp chúng ta sống an bình và vui vẻ hơn. Không còn giận hờn, ghen ghét. Không chôn giữ những sự báo thù trong lòng. Bỏ qua, tha thứ cho nhau. Tạo bầu khí thân thiện. Giữ tâm hồn hồn thanh thản. Không mắc nợ nhau điều gì. Sống giao hoà với Thiên Chúa và anh chị em. Sống an vui tự tại và thanh thản. Nhắm chính hướng đi về cùng đích và nhận ra mục đích của cuộc đời. Khởi đi từ đất thấp, kết thúc nơi trời cao.
Chúa ban cho mỗi người một kho tàng riêng biệt, có kẻ hơn người kém. Mỗi người đều có bổn phận và trách nhiệm về những khả năng đã lãnh nhận. Dùng vốn liếng đúng nơi, đúng lúc và sinh hoa kết trái đúng mùa. Chúng ta không cần phải so sánh số vốn liếng với người khác. Chúa cho ai nhiều thì sẽ đòi lại nhiều: "Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn." (Lc 12,48). Tránh đi sự tự phụ và kiêu căng. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều là hồng ân Chúa ban. Nếu có khoe khoang, chúng ta hãy khoe về sự yếu đuối và bất toàn của mình. Sự thành công của chúng ta cũng lệ thuộc rất nhiều vào tha nhân. Hãy luôn nhớ rằng yếu tố của thành công là do thiên thời, địa lợi và nhân hoà.
Lạy Chúa, các Tổ phụ xưa đã bước đi trong đêm tối của niềm tin. Các ngài đã đi đến cùng đường và nêu gương đức tin kiên vững cho mọi thế hệ. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chúng con sẽ được an nghỉ trong tình yêu của Chúa vì Chúa có lời ban sự sống đời đời.
4. Tỉnh thức trong đêm tối - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Anh em hãy sẵn sàng"
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay nói "để đợi chủ về". Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ sốt sắng và xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức.
II. Gợi ý sám hối
Nếu Chúa bảo chúng ta phải chết ngay hôm nay thì chắc chúng ta không kịp chuẩn bị, và do đó số phận đời đời của chúng ta rất đáng sợ.
Nếu bây giờ Chúa như vị Thanh tra đến kiểm tra những việc bổn phận của chúng ta, Ngài có hài lòng không?
Chúa Giêsu đã dạy: "Hãy bán tài sản đời này để sắm lấy kho tàng không bao giơ hư nát trên trời". Chúng ta có làm theo Lời Chúa không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 18, 6-9)
Việc được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập luôn là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do Thái mọi thời và mọi nơi. Bởi vậy người Do Thái sống ở diaspora vào thế kỷ I trước công nguyên vẫn luôn tưởng nhớ đêm giải phóng ấy. Trong đoạn trích này, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy luôn sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách luôn tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này thuộc loại Tv minh triết, ca tụng sự quan phòng và những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong quá khứ.
3. Tin Mừng (Lc 12, 32-48)
Từ chìa khóa của đoạn Tin Mừng này là "Tỉnh thức". Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức:
a/ Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở Do Thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy "thắt lưng cho gọn" (tư thế sẵn sàng làm việc), và "thắp đền cho sẵn" (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thi dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
- Tỉnh thức để làm gì? Dụ ngôn nói "để đợi chủ về". Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
b/ Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ "quản lý" để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16, 1. 3. 8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người ấy sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
4. Bài đọc II (Dt 11, 1-2. 8-19) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn trích này, tác giả thư Do Thái ca tụng đức tin của tổ phụ Abraham: do tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê hương xứ sở ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu; do đức tin, ông đã dám đem đứa con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già để giết làm lễ vật dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Sống với sự bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chi dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100 %, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
* 2. Chuẩn bị thế nào?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi "Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?" Vị tu sĩ trả lời "Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong".
Làm tốt việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: "Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?" Và chính ông trả lời: "Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi". Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: "Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui".
Cách đây vài năm, một thầy dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, Thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho Thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng Thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình. (FM)
* 3. Ngày mai không bao giờ đến (Lc 12,32-48)
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
***
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
Tin mừng hôm nay nhắc họ hãy "tỉnh thức và sẵn sàng". Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín đợi chủ về, như người khôn ngoan canh chừng tên đạo tặc; sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Tỉnh thức không phải là tỉnh ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức.
Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm theo ý chủ trong khi đợi chờ.
Tỉnh thức không phải là nôn nao sốt ruột, ma glắng nghe tiếng gõ cửa với đèn sáng trong tay.
Chính khi nhận ra mình đang mê muội, tức là lúc bắt đầu tỉnh thức. Các thánh thường nhận mình mỏng dòn yếu đuối, nên các ngài luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Có một điều làm cho người ta rất đỗi hoang mang, là Chúa sẽ đến thật bất ngờ: "Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Lc 12,40). Người sẽ đến "bất ngờ như kẻ trộm". Kẻ trộm đến không bao giờ gửi thư báo trước, vì vũ khí của anh ta là sự bất ngờ. Chúa không có ý chơi xấu chúng ta, cũng không lợi dụng lúc chúng ta lơ là thì người đến. Thật ra, Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta hãy luôn tỉnh thức. Đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh. Đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc Nước Trời.
Nói cho cùng, việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng chứ đâu phải là bất hạnh. Chỉ bất hạnh cho những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành với bổn phận. Còn đối với những ai tỉnh thức và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ lại là một "bất ngờ thú vị".
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có một ảo tưởng hết sức nguy hiểm này, đó là nghĩ mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn "ngày mai" để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng là "ngày mai" ấy không bao giờ đến.
***
Lạy Chúa, xin dậy chúng con trở nên những đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để chúng con không phải bàng hoàng khi Chúa bất ngờ đến gõ cửa. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Hành trình trong đức tin
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuôc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc. (FM)
* 5. Chuyện minh họa
a/ Được chọn cách chết
Một tên hề kia chuyên làm trò cho nhà vua vui. Nhưng một hôm hắn lở nói một câu xúc phạm khiến nhà vua nổi giận truyền xử tử hắn. Tuy nhiên vì những công lao bấy lâu nay của hắn nên nhà vua cho hắn được chọn cách chết. Sau một hồi suy nghĩ, hắn tâu: "Xin cho hạ thần được chết già!"
Lời bàn: Tên hề này là một người may mắn vì được chọn cách chết và lúc chết của mình. Chúng ta không được may mắn như hắn đâu. Cho nên phải luôn sẵn sàng.
b/ Ở với con
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ: "Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé!" Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện: "Lạy Chúa, xin giúp son sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời: "Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé!"
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành làm tròn mọi bổn phận đối với Chúa và tha nhân là phương thế tốt nhất để đón chờ Chúa trở lại trong vinh quang. Với quyết tâm luôn tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình tỉnh thức và cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu luôn luôn tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng.
2. Trong đời sống thường ngày / có lắm người sống như mình không bao giờ chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / cái chết không buông tha bất cứ một ai / và nhiều khi xảy đến hết sức bất ngờ.
3. Tận tụy phục vụ tha nhân / là một trong những cách tỉnh thức đón mừng Chúa đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết hết lòng phục vụ Chúa nơi những người đói khổ nghèo nàn.
4. Siêng năng lãnh nhận các bí tích / và tích cực sống lời Chúa dạy trong Tin mừng / là sẵn sàng / là tỉnh thức như Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn chuẩn bị thật tất tâm hồn / để khi Chúa gọi trở về với Chúa / không ai bị Người khiển trách bất cứ điều gì.
Chủ tế: Lạy Chúa, giữa bao sóng gió của cuộc đời, chúng con dễ ngã lòng nản chí và lơ là trong việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Chúa là vị Thẩm phán công minh. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc những lời "Xin Cha tha nợ chúng con", chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội chúng ta không chu toàn bổn phận hằng ngày như một người đầy tớ trung thành.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ tệ hại là chết khi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đàng sống được bình an..."
VII. Giải tán
Cuộc đời chúng ta đầy những bổn phận: bổn phận với Chúa, bổn phận với Giáo Hội, bổn phận với xã hội, bổn phận với gia đình v. v. Trong tuần này chúng ta hãy cố gắng chu toàn tất cả mọi bổn phận ấy một cách vui vẻ và trong tâm tình yêu mến.
5. Tỉnh thức để đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
1/ Tại sao phải tỉnh thức:
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.
Khi con người bị say đắm vào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú... Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân - Thiện - Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người.
Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không "đụng hàng" dành cho những đại gia "đỏ", một địa vị tại trần thế..., đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa? Đối với những người sống đức tin thì không! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:
2/ Tỉnh thức để đón Chúa:
Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến. Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha. Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta. Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày? Khó lắm! Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian, quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.
Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả..., thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.
Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.
Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:
"Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa". Amen.
6. Gìn giữ tâm hồn
Hồi đầu thế kỷ 20, thì két sắt là nơi cất giữ tiền bạc một cách chắc chắn nhất, nhờ một hệ thống khoá bằng số mà chỉ một mình người đặt các số ấy hay là người biết những số ấy mới mở được mà thôi.
Quân đội của một nước kia đã sử dụng một chiếc két sắt như thế để cất giấu số tiền lớn. Chiếc két sắt này được đem đến một địa điểm để phát lương cho lính, thế nhưng trên đường di chuyển, khi đi ngang qua một khu rừng đã bị một bọn cướp lấy mất. Bọn cướp hì hục nhưng không sao mở được. Chúng lấy búa đập vào két hy vọng rằng két sẽ bung ra nhưng chiếc két sắt vẫn cứ trơ trơ. Chúng cho vào lửa và đốt nhưng chiếc két sắt vẫn cứ y nguyên. Chúng khiêng chiếc két lên núi rồi đẩy xuống, nhưng cánh cửa vẫn không chịu bung ra. Sau cùng, bọn cướp gài chất nổ với hy vọng sẽ phá được chiếc két nhưng nó vẫn không hề suy suyển sau tiếng nổ kinh hoàng. Quá bực tức, bọn cướp đã quăng chiếc két xuống biển. Được tin này, quân đội cho người đến nơi trục chiếc két sắt lên và khi mở ra, sồ tiền trong két vẫn còn y nguyên.
Tâm hồn chúng ta cũng là như một chiếc két sắt, chỉ một mình chúng ta mới biết những con số để mở cửa cõi lòng chúng ta ma thôi. Nếu chúng ta không chịu mở thì ma quỷ dù tài ba đến đâu cũng không thể làm gì được. Bình thường thì những thất bại của chúng ta đối với ma quỷ, không phải vì những cám dỗ bên ngoài, mà vì những điều nằm trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
Chỉ khi nào chúng ta bỏ ngỏ, chỉ khi nào chúng ta mở cửa thì ma quỷ mới có thể hoạt động và làm hại chúng ta được mà thôi. Ma quỷ có thể tấn công chúng ta mọi mặt, nhưng nếu chúng ta không tiếp tay với chúng, thì những cố gắng của chúng cũng chỉ là luống công vô ích mà thôi.
Cuộc đời chúng ta thì vắn vỏi, hơn thế nữa cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào, chết ở đâu và chết trong tình trạng ra sao. Cái chết có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa đã phán dạy chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách từng giây từng phút trong cuộc sống, hãy ra sức bảo vệ tâm hồn trước những đợt tấn công, những cám dỗ của ma quỷ, để rồi bất kỳ lúc nào Chúa đến viếng thăm, Ngài cũng sẽ thấy được nơi chúng ta một tâm hồn trong sạch và đôi tay đầy công nghiệp. Đúng thế, tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp sẽ là như tấm hộ chiếu để chúng ta được bước vào nơi quê hương Nước Trời.
7. Cho đi
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.
Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói:
- Xin bà thương cho cháu một đôi giày vì chân cháu lạnh cóng.
Bà ấy hứa cho cô bé một đôi vào chiều ngày lễ Chúa giáng sinh. Thế rồi bà ấy quên khuấy đi mất. Đúng hẹn, cô bé tìm hỏi và bà ấy chỉ biết mỉm cười xin lỗi rồi bước vào trong nhà thờ. Ngồi tham dự thánh lễ mà bà cảm thấy chẳng được an tâm chút nào. Thế là bà ấy đứng lên ra ngoài để gặp cô bé và rồi bà ấy đã nói với cô bé:
- Này nhé! chúng ta hãy trao đổi giày cho nhau. Em sẽ đi giày của tôi, còn tôi thì sẽ đi giày của em. Cô bé ngập ngừng trong giây lát rồi mới chấp nhận. Trên đường về nhà, đôi giày của cô bé làm cho đôi bàn chân của bà ấy vừa lạnh cóng vừa trầy xát vì đôi giày quá nhỏ. Thế nhưng, vừa về tới nhà thì một người đàn ông đang chờ bà. Ông này là thân nhân của một người bệnh mà bà từng chăm sóc; ông ta nói mấy lời cám ơn và trao cho bà một quà tặng và bảo:
- Đây là món quà tượng trưng nhân dịp lễ Giáng sinh để tỏ lòng biết ơn chị, đã vất vả chăm sóc cho mẹ tôi.
Món quà ấy là một đôi giày mới, rất hợp với đôi bàn chân của bà ấy. Xỏ thử đôi giàu mới này, bà ấy nhớ tới lời Chúa:
- Hãy cho thì sẽ được cho lại.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay và chúng ta nhận thấy lý luận của Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại với lý luận của loài người, như lời Kinh Thánh đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng vào đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường ích kỷ, càng chiếm hữu, càng thâu lượm được bao nhiêu, hay bấy nhiêu. Nền kinh tế loài người được đặt trên căn bản của sự tích luỹ. Càng tích luỹ càng trở nên giàu có. Trong khi đó, nền kinh tế của Thiên Chúa lại đặt cơ sở trên sự cho đi, với một nguyên tắc hoàn toàn khác hẳn: Càng cho đi thì càng trở nên giàu có, càng chia sẻ thì càng dư dật, bởi vì điều chúng ta cho đi, điều chúng ta chia sẻ chính là cái chúng ta giữ được cho mình ở nơi Thiên Chúa.
Nói chung, chúng ta thường có khuynh hướng sống theo cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo đáp ứng những nhu cầu của riêng mình. Chẳng hạn, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn này ơn nọ cho bản thân. Thế nhưng cách nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác hẳn: Hãy chia sẻ, hãy bố thí tất cả những gì chúng ta có cho người khác.
Dĩ nhiên để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta phải có một tình yêu thương dạt dào. Tình yêu thương dạt dào ấy chúng ta phải tập luyện hằng ngày. Và đó chính là bổn phận, là ơn gọicủa mỗi người Kitô hữu chúng ta. Bởi vì chúng ta được mời gọi để sống mối dây liên hệ yêu thương với Thiên Chúa và với những người chung quanh.
8. Chủ về
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ. Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya. Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giờ nào. Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về. Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ. Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình, nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên, mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ. Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ. Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ.
Đức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai. Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ. Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức. Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Đức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm, nhưng Ngài không phải là Đấng thích gieo tai ương. Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ. Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình, sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ. Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian, Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành. Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ. Người quản gia được cử làm đại diện cho ông để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Đức Kitô. Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa, nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân. Đánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về: đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
"Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?"
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt. Tông đồ là người đã biết ý chủ nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc. Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ. Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu! Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những cái chết được báo trước và được chuẩn bị kỹ càng. Nhưng cũng có nhiều cái chết bất ngờ, gây bàng hoàng cho mọi người. Theo ý bạn, có nên chuẩn bị cho cái chết của mình không? Tại sao?
Đức Giêsu cho thấy khuôn mặt một Thiên Chúa cúi xuống phục vụ như tôi tớ. Bạn ao ước gì nơi vị lãnh đạo Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho; tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN
Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2. Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
Là người quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
Là quản lý không ngoan, ta phải biết nhìn xa. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.
Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ. Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực sự không phải là của bạn không?
2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa chưa?
3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn ngoan?
4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?
10. Ngày mai không bao giờ đến – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc họ hãy “tỉnh thức và sẵn sàng”. Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín đợi chủ về, như người khôn ngoan canh chừng tên đạo tặc; sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong thức tỉnh.
Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm theo ý chủ trong khi đợi chờ.
Tỉnh thức không phải là nôn nao sốt ruột, mà lắng nghe tiếng gõ cửa với đèn sáng trong tay.
Chính khi nhận ra mình đang mê muội, tức là lúc bắt đầu tỉnh thức. Các thánh thường nhận mình mỏng dòn yếu đuối, nên các ngài luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Có một điều làm cho người ta rất đỗi hoang mang, là Chúa sẽ đến thật bất ngờ: “Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40). Người sẽ đến “bất ngờ như kẻ trộm”. Kẻ trộm đến không bao giờ gửi thư báo trước, vì vũ khí của anh ta là sự bất ngờ. Chúa không có ý chơi xấu chúng ta, cũng không lợi dụng lúc chúng ta lơ là thì Người đến. Thật ra, Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta hãy luôn tỉnh thức. Đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh. Đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc Nước Trời.
Nói cho cùng, việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng chứ đâu phải là bất hạnh. Chỉ bất hạnh cho những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành với bổn phận. Còn đối với những ai tỉnh thức và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ lại là một ‘bất ngờ thú vị’.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có một ảo tưởng hết sức nguy hiểm này, đó là nghĩ rằng mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn ‘ngày mai’ để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng là “ngày mai” ấy không bao giờ đến.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con trở nên những đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để chúng con không phải bàng hoàng khi Chúa bất ngờ đến gõ cửa. Amen.
11. Là người môn đệ – An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 19 thường niên C là những lời giáo huấn cụ thể để làm người môn đệ đích thực, đó là bán những của cải hiện có mà bố thí, luôn luôn tỉnh thức, nhận ra và thi hành ý của chủ mình là Thiên Chúa. Người môn đệ trung tín và khôn ngoan luôn luôn chu toàn trách nhiệm của mình, dù có chủ hay vắng chủ. Người đó thi hành trọn vẹn trách nhiệm trong tình yêu mến ông chủ. Những lời giáo huấn cụ thể này áp dụng cho người tín hữu, giúp họ sống trọn vẹn ý nghĩa cuộc đời mình.
"Hỡi đoàn con bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con..." là lời trấn an của Chúa Giêsu cho mọi kitô hữu. Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta. Người muốn chúng ta được hạnh phúc và sống có ý nghĩa. Người ban Nước Trời - nước công chính, bình an, hoan lạc trong Thánh Thần - như một phần thưởng cho những môn đệ đích thực.
Để trở nên môn đệ đích thực, chúng ta cần lắng nghe những lời mời gọi của Chúa Giêu. Người muốn chúng ta hãy tích trữ kho tàng trên trời, vì đó là kho tàng không hư nát, mối mọt không làm hại được, và trộm cướp không lấy mất được. Kho tàng đó chỉ có được khi rộng lòng và rộng tay cho đi. Cho đi là nhận được. Người càng tích trữ kho tàng dưới đất là của cải vật chất mà không tích trữ kho tàng trên trời là những việc tốt lành, đạo đức, là người thiếu khôn ngoan.
Hơn nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý hay tôi tớ, chứ không phải là những người chủ. Đã không là người chủ, chúng ta cần luôn tỉnh thức để đón chờ và phục vụ chủ của mình là Thiên Chúa. Những yêu cầu của người chủ cần được thực hiện trọn vẹn. Là người kitô hữu, chúng ta đón chờ Đức Giêsu trở lại, đồng thời phục vụ tức là chia sẻ cơm áo cho những người nghèo: ai cho người nghèo khổ, bé mọn dù chỉ một ly nước, là làm cho chính Chúa...
Chúa Giêsu nói đến phần thưởng của người tôi tớ tỉnh thức là "chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng". Đây là hình ảnh bữa tiệc Nước Trời mà ông chủ là Thiên Chúa sẽ khoản đãi những người tôi tớ đích thực vào ngày cánh chung. Theo lẽ thông thường, người tôi tớ phải phục vụ chủ, nhưng ở đây, chính ông chủ phục vụ người tôi tớ. Mọi trật tự thông thường bị đảo lộn. Đây là điều khó hiểu và không thể chấp nhận theo lý lẽ thường tình. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa đối với tạo vật của Người vượt quá mọi giới hạn, mọi trật tự thông thường. Thiên Chúa làm tất cả như Ngài muốn. "Tình yêu chỉ biết một chiều kích, và đó là chiều kích vượt quá mọi chiều kích" (thánh Bênađô). Là những tôi tớ, chúng ta không có quyền đòi hỏi bất cứ gì. Chúng ta chỉ trông chờ vào lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Phần thưởng thứ hai của người tôi tớ trung tín và khôn ngoan là "chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản của mình". Được tin tưởng và trao phó trách nhiệm cai quản là phần thưởng cao quí. Đây là hình ảnh áp dụng cho những người có trách nhiệm: Các vị lãnh đạo trách nhiệm về những người thuộc quyền mình, cha mẹ trách nhiệm về con cái, nhà giáo dục trách nhiệm về người môn sinh... Điều kiện trước tiên của người có trách nhiệm là cần trung tín và khôn ngoan. Trung tín và khôn ngoan để phục vụ những người được giao phó cho mình. Phục vụ là một công việc đòi hỏi nhiệt tâm và lòng mến cao độ.
Phải chăng chúng ta là những người tôi tớ đích thực của Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta là những người trung tín và khôn ngoan.
Lạy Chúa,
có quảng đại cho đi, con mới lãnh nhận được dồi dào.
Xin cho con luôn biết chia sẻ những lời an ủi,
tấm lòng nhân ái, tâm tình cảm thông.
Xin cho con biết hiến dâng cả
thời giờ, sức khỏe và của cải cho anh em con.
Xin cho con không ngừng yêu mến và phục vụ anh em
như con đang yêu mến và phục vụ chính Chúa. Amen.
12. Tỉnh thức là một biểu hiện của tình yêu
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay mai. Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường mới quét. Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi. Vào mỗi bữa ăn, chị lại đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh. Chị làm tất cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.
Trong khi đó, người láng giềng của Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang chạ với nhiều người đàn ông khác.
Đôi khi lương tâm Phượng cũng lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về... vội gì... cứ hưởng đời đi, hưởng tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích... bao giờ chồng gần về sẽ tính.
Tương tự như câu chuyện trong Phúc Âm "người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay" (câu 36), chị Hồng là người vợ trung thành luôn sẵn sàng chờ đợi người chồng thân yêu của mình trở về. Những người Đó là trường hợp được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc.
Trong khi đó, chị Phượng được ví như người đầy tớ xấu, cứ nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa..."
Và số phận của người đó sẽ là: "chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín". (câu 46)
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình!
Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang họa lại nếp sống của Hồng hay của Phượng? Trong tương quan với Chúa, chúng ta mang tâm trạng, thái độ của ai trong hai phụ nữ trên đây?
Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ thích chọn nếp sống của Phượng. Họ nghĩ rằng còn lâu mình mới chết; còn lâu Chúa mới tới gõ cửa nhà mình. Thế thì hãy lợi dụng quảng thời gian 'vắng Chúa' để chơi bời cho thoả thích. Chờ khi tuổi đã về chiều, sức tàn lực kiệt... rồi mới tu tỉnh lại đón Chúa sau. Chứ hôm nay thì... cứ sống như không có Chúa!
Nếu thế thì hãy tự hỏi lòng mình: Phượng có xứng đáng với tình yêu của chồng không? Có xứng đáng chung sống với chồng trong ngày đoàn tụ không?
Và tôi, người học theo sách của Phượng, tôi có xứng đáng 'vác mặt' ra chào đón Chúa trong ngày Ngài đến gõ cửa nhà mình không? Tôi có xứng đáng được Ngài đón rước vào Ngôi Nhà hoan lạc mà Ngài đã dành sẵn cho tôi trên quê trời không?
Hôm nay, Chúa Giê-su lại kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, nhưng tỉnh thức không chỉ có nghĩa là coi chừng giờ chết đến, không chỉ có nghĩa là dọn mình cho sẵn sàng để khi chết khỏi sa hoả ngục, hay đợi chờ ngày Chúa quang lâm mà ai cũng nghĩ là còn xa tít mù khơi... nhưng đúng hơn, đó là sẵn sàng mở cửa lòng ngay hôm nay để đón Chúa, đón mọi anh chị em là hiện thân của Chúa đang đến với mình hằng ngày, trong tư thế sẵn sàng và tâm trạng đầy ắp yêu thương như Hồng.
Tỉnh thức như thế là một biểu hiện của tấm lòng dạt dào yêu thương. Có tỉnh thức như thế mai sau mới đáng được đón nhận vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.
13. Tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800, nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển, toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau, đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.
Cái chết bất ngờ của cô người mẫu nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.
Quả thực, Kinh Thánh và giáo lý cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, bởi vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy đến cho mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày chết, còn hầu hết đều không biết trước. Chúng ta không biết trước ngày giờ mình chết, chẳng ai có thể phỏng định được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời, và cũng chẳng ai biết mình sẽ chết thế nào: chết từ từ hay chết bất thình lình, chết vì bệnh tật hay tai nạn, chết ở đâu: trên cạn hay dưới nước, ở nhà hay ngoài đường, chết trong tình trạng ơn nghĩa hay tội lỗi, mê man hay tỉnh táo, có kịp chịu các phép sau cùng hay không. Tóm lại, Chúa có thể đến gọi chúng ta khi chúng ta đang làm việc, đang khi chúng ta ngon giấc hay trong lúc chúng ta đang vui chơi giải trí… chúng ta hoàn toàn không hay biết gì về ngày giờ Chúa đến và Chúa gọi chúng ta ở chỗ nào.
Chính tính cách bất ngờ đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn sẵn sàng và do đó luôn cố gắng sống tốt lành. Cũng vậy, tính cách bất ngờ ấy cũng là điều tốt cho chúng ta, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác, chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng, hoặc tệ hại hơn, tự ru ngủ mình để rồi tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng. Chính vì tính cách bất ngờ ấy mà nhiều lần Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay, Chúa bảo chúng ta: bao lâu sống ở đời này, tư thế của chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng giống như người đầy tớ trung tín chờ đợi chủ về. Chủ có thể về bất cứ lúc nào, điều làm cho chủ hài lòng là khi trở về thấy người đầy tớ hoàn toàn sẵn sàng, khi ông gõ cửa là mở ngay. Rồi Chúa còn đưa ra một thí dụ nữa để nhấn mạnh thêm về sự khẩn trương phải sẵn sàng, cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến viếng nhà mình, nên ông luôn canh chừng để khỏi mất mát. Thì việc Chúa đến cũng bất ngờ như vậy, nên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này, dù có bất ngờ và đột ngột, chúng ta vẫn không lo sợ. Trái lại, chỉ những ai không tỉnh thức và không sẵn sàng mới đáng lo sợ mà thôi. Nói khác đi, sự chết bất ngờ như vậy có thể là hoàn toàn tự nhiên, bình thường, không phải là số mệnh, không phải Chúa định, cũng không phải Chúa có ý chơi xấu chúng ta, chỉ nhằm nhè lúc chúng ta lơ là thì Ngài đến. Thật ra tính cách bất ngờ đó có lợi cho chúng ta: đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh, đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc nước trời.
Vậy tỉnh thức là thế nào? Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức, tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường và trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa, nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tranh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hằng ngày, vẫn liên đới với mọi người, nhưng sống và làm việc một cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
14. Sống là chuẩn bị chết
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người bi quan bảo rằng: "sống là chuẩn bị chết". Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh - bệnh - lão - tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22,000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích... Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Đừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Đừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.
15. Hãy tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
“Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3, 3)
Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Nước Trời:" Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là có phúc cho họ." Tỉnh Thức có nghĩa là nhận biết chính mình, không mê muội, ảo tưởng về bản thân và các giá trị cuộc đời. Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng giữa thực tại và mộng tưởng mơ hồ, nhưng là người nhận biết bản thân mình và sống thực với mọi hoàn cảnh. Người sống tỉnh thức là người sống có lý tưởng và hành động trong sự khôn ngoan. Sách Khôn Ngoan có viết:
“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi,
và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất...”
Thật vậy, người sống tỉnh thức là người sống khôn ngoan dưới ánh sáng Lời Chúa. Họ sẵn sàng tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục và của cải thế gian. Họ là người có phúc vì họ đã sống tỉnh thức. Khi ta nhận thức được điều này, thì lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ càng có ý cho mỗi người chúng ta hôm nay, Ngài nói: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó."
Cũng như người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, và hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Ngài đưa ra một quy luật quá khó khăn đối với anh ta. Nghe thấy thế, anh ta buồn rầu và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Nếu ngày hôm nay Chúa bảo chúng ta làm như anh nhà giàu này, thì chúng ta cũng bỏ đi ngay. Bằng chứng là có nhiều người ngày nay, họ bỏ Chúa, xa lìa Giáo Hội để chạy theo của cải thế gian hơn là đi tìm chân lý và tích lũy kho tàng trên trời. Sự thực, chúng ta cũng không hơn gì anh nhà giàu trong Tin Mừng. Anh ta là kiểu mẫu cho nhân loại thời nay. Lòng người thì hẹp và ngắn hơn tình thương và ân phúc Chúa ban tặng cho chúng ta mỗi ngày.
Với hình thức giữ đạo thì rất tốt, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu tinh thần sống đạo và chia sẻ cho nhau theo giá trị Tin Mừng, đó cũng là lý do tại sao Chúa Giê-su nói: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Người nghèo thì chết đói kẻ giàu thì phình da. Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ sững sờ, ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay, họ sẽ nghĩ gì?. Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền của để được vinh thăng cuộc đời.
Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!”. Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ, như thánh Phêrô nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa.? Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta mang được gì ra khỏi thế gian này!. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, đi nhiều nơi, nhưng chỉ có một con đường mà tất cả chúng ta đều phải đi chung, đó là con đường sự chết, đi vào nấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có tiền tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm được gì, chẳng mang theo được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay và lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái và yêu thương đọng lại trong những người thân yêu, và những người yêu thương chúng ta. Tất cả là của Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa rất nhiều thứ, nhưng khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta không có quyền để chọn lựa cho số phận của mình. Chính Thiên Chúa quyết định số phận cho chúng ta.
Có thể, Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng đây chính là chân lý mà Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài và tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. "Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ thì Con Người sẽ đến." Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo khó theo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói các con cứ sống nghèo túng, đau khổ khi chết thì ta sẽ được cứu độ và lên thiên đàng. Nhưng, Chúa Giêsu nói: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ." Cái nghèo ở đây chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và sống khó nghèo. Cái nghèo nơi mẹ Teresa Calcutta là hy sinh, phục vụ cho những mãnh đời bất hạnh, họ cần được tình thương, quan tâm và chăm sóc của chúng ta khi họ lìa đời. Đó là sống giá trị tinh thần nghèo khó theo Phúc Âm. Sự quan tâm yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ tha nhân là giới răn: “Kính Chúa yêu người”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức để chon lựa đúng giá trị cuộc sống hiện tại, và xin cho chúng con biết khôn ngoan sáng suốt để nhận thức chân lý của Chúa. Nhờ đó, chúng con có thể dùng của cải thế gian này để mua lấy Nước Trời mai sau. Amen.
16. Đừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé! – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
Qua suốt cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã theo hình thức thăm hỏi của người Do Thái mà thói quen thời đó vẫn dùng: “Bình an cho các con”, đó là một cách để nói: “Chào anh, anh có khỏe không?”. Sau cái chết và sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã chuyển đạt lời chào này thành một đặc ân an toàn giữa những bấp bênh của đời sống này. Khi Chúa Giêsu chào đón các môn đệ của Ngài sau cái chết và sự Phục Sinh, Ngài nói: “Bình an cho các con”, những lời của Ngài đã trở thành sự bảo đảm cho mọi sự nên tốt. Chúa Giêsu đã hiến tặng sự bình an bởi vì Ngài đã chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta đó là tội lỗi và sự chết.
Chúa Giêsu đã hiến tặng cho chúng ta cùng một sự bảo đảm như cho các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm ngày hôm nay: “Hỡi đàn chiên nhỏ, đừng sống trong sợ hãi”. Sợ hãi là một phần của đời sống. Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong bài diễn văn của mình vào ngày 4-3-1933 đã nói với dân chúng Mỹ rằng: “… điều duy nhất chúng ta phải sợ hãi chính là cơn sợ. Nước Mỹ thời gian đó đang chìm trong khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà chúng ta chưa hề thấy trước đó bao giờ, những doanh nhân giàu có đã đi bán những đồng xu bên đường phố, những người đàn bà đã phải đi tìm chỗ ở bởi vì không có chỗ để sống. Một hệ thống kinh tế điên rồ trong quá khứ đã đem lại một hiện tại khủng khiếp và hứa hẹn một tương lai bấp bênh. Mặc dù có sự bảo đảm của tổng thống, nhiều người Mỹ vẫn sợ hãi.
Còn đối với chúng ta thì sao? Đức tin của chúng ta vào lời của Chúa Giêsu có làm cho những cơn sợ hãi của chúng ta nên bình an, không phải về kinh tế nhưng là nguồn mạch lớn lao về sự sống và sự chết không? Thư Do Thái trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hôm nay đã nói với chúng ta rằng;”Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng là bằng chứng cho những gì chúng ta không thấy”. Đức tin của chúng ta trong tương lai đặt nền tảng trên những điều gì? Và nguồn mạch bằng chứng của chúng ta là gì? Đó là quá khứ.
Vào năm 1933, quá khứ đã phát sinh sợ hãi trong lòng người dân Mỹ. Đối với chúng ta quá khứ sẽ làm mạnh cho đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Hãy suy nghĩ về những tổ phụ lớn lao của đức tin như: Abraham và Sara, Isaac và Giacop và tất cả những người sốt sắng trong Cựu Ước. Họ đã đi tìm quê hương của mình. Họ đã tìm thấy nó không phải trên mặt đất này nhưng là trên thiên đàng. Cuối cùng họ khám phá ra rằng không có gì phải sợ hãi. Số phận của họ sẽ làm cho tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng.
Khi chúng ta nhìn về kỷ nguyên mà Chúa Giêsu đang còn trên mặt đất này, chúng ta sẽ thấy gì? Bằng cái chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại của Ngài, Ngài đã phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy bởi thánh giá và sự Phục Sinh Ngài đã giải thoát chúng ta, Ngài là Đấng cứu độ thế giới.
Sau “kinh Lạy Cha”, chúng ta cầu xin ơn bình an: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban bình an cho ngày sống của chúng con”. Và trước khi hiệp lễ, vì linh mục cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, xin đừng nhìn tội lỗi chúng con nhưng hãy nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an và hiệp nhất của Nước Chúa”. Khi chúng ta đã chúc bình an cho nhau, chúng ta thông dự vào việc hiến tặng bình an mà Đức Kitô đã ban cho các môn đệ của Ngài.
Đức tin của chúng ta được đặt nền tảng trên thực tại của tất cả những gì Thiên Chúa đã làm, đầu tiên là những biến cố trong Cựu Ước và đặc biệt là trong sự chết và sự Phục Sinh của Con Người. Điều độc nhất mà chúng ta phải sợ hãi, không phải là chính cái sợ nhưng là sự thiếu đức tin.
17. Thức tỉnh – Như Hạ, OP
Làm sao con người có thể tránh hấp lực vật chất? Của cải đã chi phối sâu xa cuộc sống con người. Không tiền bạc không thể làm được việc gì có giá trị. Vật chất đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá mọi thực tại và tương quan. Bởi thế, làm sao người ta có thể tưởng tượng có một thứ tiêu chuẩn nào khác ngoài vật chất? Thế nhưng, Ðức Giêsu muốn đưa ra một thực tại siêu việt, ngược với vật chất. Thực tại đó là Nước Trời, một thách đố lớn lao đối với những ai chỉ tin vào vật chất.
TIN ÐỨC KITÔ: MỘT LỰA CHỌN
Trước thực tại siêu nhiên, của cải vật chất vẫn có một chỗ đứng. Ðức Giêsu không hề phủ nhận những giá trị vật chất. Nhưng Người đã vạch ra một chiều hướng lớn lao cho những thực tại trần thế. Quả thực, Ðức Giêsu gọi người phú hộ là "đồ ngốc" vì chỉ "biết thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa." (Lc 12:21) Khác với người phú hộ chỉ lo "tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình," (Lc 12:18) người môn đệ Chúa Kitô phải "bán tài sản của mình đi mà bố thí" và "sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời." (Lc 12:33) Bỏ qua những thực tại trần thế để đuổi theo những thực tại "trên trời", phải chăng đó là thái độ khôn ngoan?
Chúa Giêsu quả quyết đó là thái độ khôn ngoan. Tại sao? Cái nhìn của Chúa về của cải rất chính xác. Người không bi quan về của cải. Nhưng Người đề nghị cách dùng của cải sao cho ích lợi nhất. Muốn thế, phải tìm được một hướng đi và ý thức rõ ràng về vị trí của mình trên những thực tại trần gian. Con người có thể tạo ra của cải. Của cải tạo ra cảm tưởng an toàn cho con người. Nhưng thực tế, của cải bị đủ thứ đe dọa: cũ rách, hao hụt trộm cướp, mối mọt, bão lụt, chiến tranh v.v. Con người cứ tưởng mình có thể làm chủ tất cả những gì mình có và làm tất cả những gì mình muốn. Nhưng của cải trần thế không đủ sức giúp con người làm chủ thời gian. Chính thời gian sẽ là câu trả lời cho con người biết vị trị của mình trước những thực tại trần thế đó. Khi người phú hộ tưởng có thể ăn chơi "nhiều năm", thì Thiên Chúa lại cảnh cáo: "Nội đêm nay." (Lc 12:19.20) Chính thời gian sẽ bắt buộc con người phải buông tất cả. Hơn nữa, có ai biết được giờ phút từ giã cuộc đời. Bởi vậy, Ðức Giêsu cảnh giác: "Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến." (Lc 12: 40) Cuộc đời rất vắn vỏi và kết thúc bất ngờ. Vì không thể làm chủ thời gian, vai trò làm chủ của cải của con người trở thành tương đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ tuyệt đối trên mọi tài sản. Sống trên trần gian, con người giống như người đầy tớ "đợi chủ đi ăn cưới về." (Lc 12:35) Hay như người quản gia, con người phải khéo léo vận dụng tất cả tài năng quản trị và phải báo cáo với chủ về tất cả những tài sản và công việc mình làm.
Nếu thế, vấn đề không phải là có bao nhiêu tài sản, nhưng là làm cách nào quản trị những tài sản đó. Người quản gia phải hai thái độ: chuẩn bị sẵn sàng và làm theo ý chủ. Thái độ sẵn sàng đòi hỏi người đầy tớ hay quản gia phải "tỉnh thức" (Lc 12:37) Nếu không, họ sẽ đánh mất phần thưởng dễ dàng. Phần thưởng chắc chắn sẽ có, nhưng chẳng biết bao nhiêu. Ông chủ chắc chắn sẽ trở về, nhưng không biết lúc nào. Bổn phận người quản gia là "cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc" (Lc 12:42) đúng người và đúng nơi. Nếu phung phí tiền của vào những nơi đàng điếm, "chè chén say sưa" (Lc 12:45) người quản gia sẽ "phải chung số phận với những tên thất tín." (Lc 12:46) Ðó là thái độ của một quản gia vô ý thức, cứ tưởng "còn lâu chủ ta mới về." (Lc 12:45) Chính sự lầm tưởng ấy đã dẫn anh đến thái độ hống hách, "đánh đập tôi trai tớ gái" (Lc 12:45) y như một ông chủ hách dịch.
Nếu lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi chủ về, các người đầy tớ sẽ chứng kiến một cảnh ngược đời. "Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ." (Lc 12:37) Chưa thấy một ông chủ nào lạ lùng như vậy! Ông đã quên hẳn địa vị để phục vụ người đầy tớ. Ðó phải chăng là cách diễn tả "vai trò phục vụ của Ðức Giêsu, xuyên suốt trong toàn thể sứ vụ và giáo huấn của Người, giờ đây được trình bày trong một khung cảnh cánh chung." (Fahey 1994:535) Chính Ðức Giêsu đã hé mở thái độ như thế khi sống giữa các môn đệ: "Thày sống giữa anh em như một người phục vụ." (Lc 22:27) Thật là một vinh dự và phần thưởng lớn lao! Chẳng cần đợi tới ngày cánh chung, nhưng ngay khi sống giữa các môn đệ, Ðức Giêsu đã cho các ngài nếm trước tình yêu êm dịu nơi thái độ phục vụ đó. Bởi vậy, các môn đệ là những người có phúc và được khen tặng là những "người quản gia trung tín, khôn ngoan," (Lc 12:42) bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin và hi vọng nơi Ðức Giêsu. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều hệ tại thái độ chờ "đợi chủ đi ăn cưới về." (Lc 12:36)
Niềm hi vọng đó cũng là nét đặc trưng của toàn thể dân Chúa thời xa xưa. "Dân Chúa đã trông đợi đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù," (Kn 18:7) sau bao nhiêu thế hệ mong Chúa thực hiện lời hứa. Vì "Chúa là niềm hi vọng của con." (Tv 71:5) Nhưng làm sao hi vọng được, nếu không tin? Quả thực "đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy." (Dt 11:1) Chính "những điều không thấy" có giá trị gấp ngàn lần "những điều trông thấy mà đau đớn lòng." (Truyện Kiều) " Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12:15) Càng nhiều của cải vật chất càng đâm lo. Bao nhiêu đe dọa và hiểm nguy vây bọc chung quanh. Có thể tiêu tan và mất mát bất cứ lúc nào. Giữa những hoang mang lo lắng đó, Ðức Giêsu khích lệ các môn đệ: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em." (Lc 12:32) Nước Người tràn ngập bình an.
Chỉ có Nước Chúa mới là nơi an toàn tuyệt đối. Vào được Nước Trời sẽ thấy Chúa khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn và chăm sóc tận tình. Con người sẽ hoàn toàn hạnh phúc, vì "Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Ðức Kitô Giêsu." (Pl 4:19) Ðó là lý do tại sao nhiều người "bán tài sản của mình đi mà bố thí." (Lc 12:33) Không những bán tài sản, nhưng họ còn liều mạng vì Nước Chúa nữa. Chính tổ phụ Abraham đã đi tiên phong trong niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa. "Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Ðất Hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng," (Dt 11:8.9.10) tức là Nước Chúa, nơi tràn ngập "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần," (Rm 14:17) vì Ðức Giêsu Phục sinh sẽ là "Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh," (Kh 7:27) chan hòa niềm vui.
Niềm vui ấy chính ông Abraham đã nếm trước. Quả thực, "dù đã nhận lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một" (Dt 11:17) là Isaac. Vì "ông Abraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng" (Dt 11:19) cho Ðức Giêsu Phục Sinh. Sau khi phục sinh, Ðức Giêsu đã trở thành "Chúa các chúa, Vua các vua." (Kh 17:14) Người đích thực là ông chủ sẽ trở về vào lúc bất ngờ để đem lại niềm vui bùng vỡ cho các đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Niềm vui lớn nhất là họ sẽ được Chúa "đặt lên coi sóc tất cả tài sản của mình." (Lc 12:44) Làm sao những tài sản trần gian có thể so sánh với tài sản muôn đời đó? Cuộc trao đổi thật lạ lùng! Cho đi cái tương đối để lấy cái tuyệt đối. Hi sinh cái hữu hạn để đổi lấy cái vô hạn. Làm sao hi sinh nếu không tin? Nhưng nếu Ðức Giêsu không phục sinh, làm sao củng cố niềm tin đó? Ðức tin sẽ cho ta thấy phải làm gì "để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay." (Lc 12:36) Chính đức tin sẽ giúp ta tỉnh thức. Nhưng "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết."(Gc 2:17)
Chỉ có "bố thí" mới đánh thức nổi đức tin. Vì chính khi giúp đỡ những anh em nghèo khó, chúng ta sống hết lòng với Chúa, như Chúa đã nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." (Mt 25:40) Thực tế, càng bố thí càng thanh thoát, vì "kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó," (Lc 12:34) vì chính Ðức Giêsu đã giải thoát nhân loại khỏi mọi nô lệ và tội lỗi. Ðức Giêsu chính là kho tàng Thiên Chúa đặt giữa trần gian. Người đã tự đồng hóa với người nghèo. Bởi vậy, người nghèo chính là kho tàng cho mọi người ký thác tài sản.
TỈNH THỨC TRONG ÐỜI SỐNG HÔM NAY.
Nhờ đức tin, nhiều người khôn ngoan đã ký thác tiền của vào những kho tàng đó. Họ có thể là tỷ phú hay triệu phú một mình xây dựng học đường, bệnh viện, viện dưỡng lão, cô nhi, phong cùi v.v. Họ cũng có thể là nhiều công nhân hay nông dân nghèo phải gom tiền mới tài trợ nổi những người di cư và các nạn nhân chiến tranh, bão lụt v.v. Họ hành động như một thái độ tỉnh thức mong chờ Chúa đến. Họ không giống người phú hộ ngốc nghếch, chỉ biết thu tích của cải cho mình. Họ là những "quản gia trung tín, khôn ngoan" biết chia sẻ với những người nghèo và bất hạnh.
Trong khi đó, biết bao người đầy quyền lực, tiền của và tri thức đang lâm vào tình trạng u mê của tên phú hộ ngốc nghếch. Làm cách nào chống lại những người đang nhân danh quyền làm người để giết chết con người? Họ đang đổ tiền của vào việc nghiên cứu tế bào gốc để tìm cách chữa trị những bệnh như Parkinson. Dưới cái nhìn của họ, tế bào gốc không phải là bào thai, nên có quyền thí nghiệm hay hủy diệt tự do. Thực tế, "theo tiến sĩ Dianne Irving, hiện là một nhà luân lý sinh học lừng danh thế giới, cái gọi là?tế bào gốc của bào thai? thực sự là chính bào thai." (CWNews 10/8/2001) Như thế, hủy diệt tế bào gốc là giết người. Không luân lý nào cho phép giết người để cứu người cả. Nhiều người còn dùng quyền lực và tiền bạc áp đặt những biện pháp phá thai, tạo sinh vô tính. Chẳng hạn "chính phủ Trung Cộng đã ra lệnh cho một tỉnh nghèo nàn và hẻo lánh phải thực hiện 20,000 vụ phá thai vào cuối năm sau khi biết chính sách mỗi gia đình một con bị dân chúng coi thường." (CWNews 10/8/2001) Làm sao chống cưỡng được một lệnh giết trẻ em vô tội tàn bạo như thế? Nhiều nhà khoa học đang gầm thét đòi quyền tự do theo đuổi những chủ trương tạo sinh vô tính. Tiến sĩ Severino Antinori chủ trương "quyền làm người cho phép ông nghiên cứu việc tạo sinh vô tính." (CWNews 10/8/2001) "Ông gọi ÐGH Gioan Phaolô II và Tổng thống Mỹ George W. Bush là tội phạm? vì chống lại việc tạo sinh vô tính." (CWNews 10/8/2001)
Tất cả những thái độ chống lại con người như thế phải chăng phát xuất từ những con người đầy ý thức? Ngày nay con người không phải chỉ muốn làm chủ của cải, nhưng cả vận mệnh mình nữa? Thực ra, con người chỉ là đầy tớ hay quản gia trên mặt đất thôi. Muốn đạt tới hạnh phúc đích thực và sâu xa, con người cần phải tìm hiểu cho "biết ý chủ" và "làm theo ý chủ" (Lc 12:47) Người Chủ duy nhất đó chính là Thiên Chúa, Ðấng Tạo thành vũ trụ và là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.
18. Sẵn sàng chờ đợi Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền.
Nhà vua gọi anh hề lại và nói:
- “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó”.
Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:
- “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”.
- “Nhà vua đi tận đâu lận?”, anh hề hỏi.
- “Ta chẳng biết nữa”.
- “Nhà vua đi có lâu không?”.
- “Đi hoài và không trở về đây nữa”.
- “Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?”
- “Chưa hề”.
Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:
- “Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi”.
Anh chị em thân mến.
“Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.
Chết là đi về sự sống vĩnh cửu, là về với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Thế mà sao chúng ta vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói rắng chúng ta sợ có thể không gặp được Chúa? Chúa luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta. Phải chăng lo âu sợ hãi là dấu hiệu nói rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng khi Chúa đến, là tâm hồn chúng ta còn ngổn ngang, còn tội lỗi và những đam mê, quyến luyến…
Triết gia Platon nói rất đúng: “Ai không bao giờ nghĩ đến sự chết thì không thể biết cách sống”. Điều nầy càng đúng với đời sống của người Kitô hữu. Làm sao một Kitô hữu có thể sống trong thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nếu những chân lý về đời sống vĩnh cửu, về ngày Chúa trở lại… chỉ là những điều xa xôi, mờ ảo, phi thực trước những cơn sốt của cuộc sống thực tiễn mỗi ngày. Đức tin chỉ cho người tín hữu thấy mình phải đi tới đâu và không cho phép người tín hữu hy sinh vận mạng vĩnh cửu vì những lợi ích ngắn hạn. Người Kitô hữu phải thấy được tất cả chiều dài con đường mình phải đi.
Vì vậy, người Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, “kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp”.
Trông chờ Chúa đến là điều kiện để sống một cuộc đời Kitô hữu đích thực. “Lạy Chúa, xin Chúa mau đến!” đó là lời cầu nguyện khẩn thiết và niềm tin mạnh mẽ của các tín hữu buổi đầu. Chính vì thế mà Giáo Hội sơ khai đã là một Giáo Hội sốt mến, luôn cầu nguyện và bẻ bánh, sống trong tình huynh đệ, để của chung, chia sẻ của cải với anh em nghèo túng.
Còn chúng ta ngày nay thì sao? Thưa anh chị em,
Ưu tư hàng đầu của đông đảo tín hữu hôm nay là gì? Có còn là lòng khao khát Chúa đến nữa không? Chính tâm tình khao khát đợi chờ nầy sẽ chi phối tất cả cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi, thắt lưng, cầm đèn sáng trong tay. Đó là thái độ của người khao khát đợi chờ Chúa đến. Những lời khuyến cáo nầy chẳng những ám chỉ những việc cụ thể người Kitô hữu phải làm để chuẩn bị đón Chúa, mà còn chỉ cho thấy ý nghĩa bao quát, đích thực của đời Kitô hữu. Tất cả đời Kitô hữu là một cuộc chuẩn bị và một sự chờ đợi kiên trì. Nó hướng tới sự hoàn tất cánh chung, tới sự thực hiện chung cuộc các Lời Hứa. Vì thế, tất cả đời Kitô hữu cũng như toàn thể lịch sử loài người là một Mùa Vọng kéo dài, một Mùa Vọng trường kỳ, trong đó tâm tình tiêu biểunhât1 là lòng khao khát Thiên Chúa và niềm hy vọng vui tươi sẽ gặp được Ngài.
Tuy nhiên, niềm hy vọng cánh chung – đợi chờ ngày Chúa đến – không làm giảm giá trị cuộc đời trần thế hiện tại. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn có một cuộc dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, giữa niềm hy vọng cánh chung và việc dấn thân vào đời. Có căng thẳng, dằn co, chứ không có mâu thuẫn. Căng thẳng vì mỗi chiều kích có những đòi hỏi riêng của nó, và người Kitô hữu phải đáp ứng cả hai. Không được chọn bên nầy mà bỏ bên kia: không được dấn thân vào đời mà quên đích điểm là ngày Chúa đến; cũng không vì đợi chờ ngày Chúa đến mà xao lãng bổn phận dấn thân vào đời để xây dựng trần thế nầy. Có dằn có, căng thẳng giữa hai chiều kích, nhưng không mâu thuẫn, vì cả hai đều nhằm thực hiện ơn gọi cuối cùng và toàn diện của con người.
Anh chị em thân mến,
Hy vọng cánh chung chẳng những không miễn trừ các trách nhiệm trần thế mà còn là một động lực thúc đẩy chúng ta chu toàn các trách nhiệm đó một cách tận tụy và chu đáo như người quản gia khôn ngoan và trung tín, biết quản lý và phân phát của cải cho các gia nhân, tôi tớ. “Ai được giao cho nhiều thì phải phân phát nhiều”. “Phúc cho người quản gia nào khi chủ trở về mà gặp thấy đang làm như vậy”. Chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng là một cách tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Vì mọi công trình tốt đẹp thực hiện trong cuộc đời hiện tại sẽ được giữ lại làm chất liệu kiến tạo Nước Trời mai sau.
Mỗi lần cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu – Ngài đã chết và đã sống lại – đồng thời trông đợi Ngài lại đến. Xin cho niềm khát khao Chúa đến sẽ làm chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, nhờ đó ta sẽ đón nhận Chúa cách trọn vẹn trong mọi thời điểm bất ngờ nhất của cuộc đời.
19. Những đầy tớ tỉnh thức - McCarthy
Suy Niệm 1. NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG TÍN
Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng –nó theo sát chúng ta trong gang tấc. Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.
Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại. Một ngày nọ, một tu sĩ đang quét sàn nhà trong tu viện thì có người hỏi ông, ông sẽ làm gì nếu ông sẽ chết trong vòng một giờ nữa. “Tôi sẽ tiếp tục công việc quét nhà”, ông đáp. Nói cách khác, ông muốn tiếp tục đi theo bổn phận của mình trong lúc đó.
Nhiều người tin rằng hạnh phúc gắn liền với việc không có sự gì để cam kết, không có người nào để đáp lại và không bao giờ để cho nhu cầu hoặc những vấn đề của người khác trói buộc mình. Nhưng không phải thế. Thật ra, trái lại mới đúng. Hạnh phúc và sự viên mãn của một con người không nằm trong tự do, nhưng trong sự chấp nhận của bổn phận. Người ta chấp nhận bổn phận này không phải một cách khắc nghiệt nhưng với lòng yêu thương.
Bất cứ ai chỉ làm tròn bổn phận của mình, thì không làm hết bổn phận ấy. Chúng ta càng hiến dâng tình yêu cho nhiệm vụ khó khăn hơn, thì nó cũng làm cho chúng ta cao quý hơn. Ân sủng cao cả nhất, tự do cao cả nhất trong đời sống là khi điều chúng ta phải làm cũng chính là điều chúng ta thích làm. “Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và thấy đời sống là bổn phận. Tôi hành động và thấy bổn phận là niềm vui”. (Tagore).
Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thuỵ Điển: “Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ?”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông: “Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy là niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
Đẹp biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai hoạ mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Mấy năm trước đây ở Mỹ, có một tu sĩ dòng Phanxicô hoạt động giúp đỡ các trẻ em mồ côi, ông tham gia vào một cuộc chạy đua xe đạp để gây quỹ bảo trợ. Trong lúc chạy ông đã bị một xe hơi đâm vào và kết quả là ông đã chết. Đúng là một cái chết không đẹp. Tuy nhiên từ một quan điểm Kitô giáo đó là một cái chết rất đẹp. Ông chết trong lúc làm việc cho Chúa. Ông giống như người đầy tớ trung tín mà Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng.
Đời sống rất quý giá, nhưng chúng ta không vui hưởng thế gian này mãi mãi. Phúc cho những người có ý thức về bổn phận. Sự cao cả của họ gắn liền với ý thức trách nhiệm. Mẹ Têrêxa nói: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chỉ để sống trung thành”.
Suy Niệm 2. HÀNH TRÌNH TRONG ĐỨC TIN
Trong một bài viết cho tạp chí The Tablet (tháng 4-2000) Mục sư Ignotos nói rằng có hai cách tiếp cận đời sống: cách tiếp cận của một người đặt kế hoạch và của một người hành hương. Người đặt kế hoạch thích làm chủ toàn bộ đời sống mình và có thể đặt kế hoạch cho mỗi giai đoạn tuỳ theo những mục tiêu đã định trước. Người đặt kế hoạch theo sự gợi ý của xã hội về những điều mà xã hội cho là thành công, và dành phần lớn thời gian để sống phù hợp với phong cách sống và các giá trị của những người khác. Họ thất vọng đắng cay nếu thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu ấy.
Trái lại, người hành hương là người chấp nhận đời sống như một gói quà mà người ấy mở ra khi sống đời sống đó, vì dù có cố gắng đến đâu, chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn làm chủ sự viẹc xảy ra. Người ấy không để cho thất bại và chán nản làm nhụt chí, nhưng xem chúng như cơ hội cho sự trưởng thành tâm linh. Không giống như người đặt kế hoạch, người hành hương không bao giờ cảm tháy hoàn toàn thoải mái, dễ chịu vớinhưng4 giá trị của xã hội.
Người đặt kế hoạch từ chối sống với đức tin. Trái lại, người hành hương sống bằng đức tin. Dù biết rằng đời sống đầy nguy hiểm, người hành hương vẫn khẳng định nó. Dù ý thức sự bấp bênh hoàn toàn của thân phận con người, người ấy vẫn hoan hỉ. Đó là cốt lõi của đức tin. Người ấy đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, và do đó mở rộng tâm hồn mình cho Ơn Chúa chở che. Người ấy cử hành giây phút hiện tại và do đó có thể sống cuộc đời đến mức cao nhất.
Ápraham là một gương mẫu cao cả của đức tin trong Cựu Ước (Bài đọc 2). Ông là một người hành hương tinh tuyền. Theo lời của Thiên Chúa ông tự làm mình mất gốc, rời bỏ gia đình và dân tộc của ông, và bắt đầu lên đường đến một vùng đất mà Thiên Chúa đã hứa sẽ chỉ cho ông; ở đó ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc to lớn. Đó là một cuộc hành trình đi vào một xứ sở chưa biết. La bàn duy nhất mà ông có chính là đức tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta là những con cháu tinh thần của Ápraham. Chúng ta chứng tỏ mình là những con cháu chân chính của Ápraham bằng việc bắt chước đức tin của ông. Đời sống thì đầy dẫy những điều bấp bênh. Giống như Ápraham, chúng ta hành trình vài nơi không biết. Nói cho cùng chúng ta không biết điều gì nằm sau khúc quanh kế tiếp trên đường đời. Tuy nhiên, bất chấp nhưng đế chế và thất bại, chúng ta vẫn tiếp tục hành trình như là những người hành hương nhớ nhung quê nhà nơi mà những hy vọng của chúng ta được thực hiện và đời sống thật của chúng ta sẽ bắt đầu.
Với trọn vẹn đức tin, Ápraham đã chết mà không nhìn thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Là những Kitô hữu chúng ta dành cả cuộc đời của mình để hành trình về vùng đất hứa trên trời. Nhưng khi chúng ta chết vẫn chưa đạt được. Cũng giống như Ápraham, chúng ta lữ hành trong đức tin và chết trong hy vọng.
Đặc biệt trong lúc chết, chúng ta được mời gọi noi gương đức tin của Ápraham. Lúc chết chúng ta phải để mọi sự lại đằng sau, và bắt đầu ra đi đến một vùng đất xa lạ. Nhưng nếu chúng ta đã sống bởi đức tin thì bước cuối cùng trong cuộc hành trình ấy sẽ không khó khăn hơn bất cứ những bước nào trước đó.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng ta còn non yếu.
Đồng thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêxa: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công nhưng chỉ để sống trung thành.”
20. Những người có trách vụ siêu nhiên
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Kho tàng làm nảy sinh trong tâm trí một cực thu hút. Tất cả những khuynh hướng nội tâm là ý nghĩ, ước vọng, hoạt-động-tính, tự nhiên đều xoay vào điều gì lợi nhất cho mình. Đức Kitô phán: Chớ đặt quyền lợi các ngươi trong những sự gì thuộc về thế gian chóng hư nát, mà phải đặt trong những thực tại siêu nhiên lâu bền. Có những quyền lợi vật chất thật sự xấu, gây bất công, hoặc làm cho tâm hồn sa đọa, chúng không tránh được sự trừng phạt của Thiên Chúa. Một số quyền lợi vất chất khác thật sự tốt, là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Chúng được chúng ta nêu trong kinh nguyện: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Tuy nhiên không được vì lo lắng những quyền lợi vật chất chính đáng nhất mà sao lãng mối quan tâm trước tiên về định mệnh siêu nhiên của mình. Ở điểm này, Phúc Âm nêu ra cả một tập hợp những câu hỏi không thể giải đáp ngoài phạm vi những viễn ảnh đức tin sống động. Muốn có giải đáp theo chủ trương Đức Kitô, phải thật sự dốc lòng tin vào Đức Kitô. Chúng ta có thể áp dụng Lời Chúa cho xã hội, cho chính chúng ta.
1) Xã hội không tin mấy vào Đức Kitô, vậy mà Chúa nói với chính xã hội, với bất cứ cá nhân nào. Chúng ta quan sát cái xã hội mệnh danh là xã hội tiêu thụ. Người ta rất quan tâm đến của cải vật chất, lợi nhuận, đầu tư, đến những kho tàng, theo Lời Chúa, dễ bị trộm cắp lai vãng, dễ bị tiêu tan. Người ta chú tâm nhiều vào việc khéo xoay sở để khỏi phải nhịn mua sắm mà vẫn thăng bằng được ngân sách gia đình hàng tháng. Kho tàng ở đâu, lòng người ở đó - ở chiếc xe hơi lộng lẫy, ở thời trang tối tân, v.v… Trong cái xã hội hưởng thụ ấy, Kitô hữu phải có thái độ nào? Kitô hữu sử dụng của cải thế gian mà không tham lam vô độ, biết đặt lên trên hết những giá trị nhân bản và siêu nhiên là sự công bằng, sự thờ phụng Thiên Chúa, tình liên kết với anh em vì yêu mến Thiên Chúa, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tình cảm.
2) Lời Đức Kitô áp dụng cho Kitô hữu như cho kẻ tôi tớ, sống giữa thế gian mà luôn thức tỉnh về phạm vi siêu nhiên. Trong cộng đồng nhân loại, Kitô hữu được Thầy cắt cử làm ‘quản lý’, có nghĩa vụ sinh lợi những thực tại siêu nhiên. Kitô hữu nào ngủ mệt, nghĩa là đua đòi mọi người chạy theo vật chất, mải mê lo việc đời này, kẻ ấy lúc tỉnh dậy dễ gặp nguy hiểm khủng khiếp. Kẻ tôi tớ nào ham mê ăn uống say sưa, ông chủ sẽ tới vào ngày giờ kẻ ấy không ngờ, ông chủ nghiêm trị, đuổi đi. Trái lại, kẻ tôi tới tỉnh thức sẽ được khen thưởng. Kitô hữu nhận được nhiều do ân huệ đức tin, cho nên sẽ bị đòi nhiều. Lại có giời Kitô hữu nhận được nhiều hơn nữa vì được ơn gọi sống làm chứng cho Phúc âm bằng thiên chức mình. Giới được ưu đãi này sẽ bị đòi nhiều hơn nữa. Dẫu sao, bất cứ Kitô hữu nào cũng phải cảnh giác để trả lời một câu hỏi hai vế: Trong đời sống nghề nghiệp chức vụ, tức là trong phạm vi sản xuất – trong đời sống bình thường, tức là trong phạm vi tiêu thụ, mình có triệt để thực thi san sẻ bắt buộc phải làm vì đức công bằng, vì lòng mến Chúa không?
21. Phải luôn sẵn sàng
“Các con hãy sẵn sàng”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta về một điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời: ấy là phải luôn luôn sẵn sàng. Sẵn sàng như người đầy tớ trung tín đợi chủ, như người khôn ngoan trông chừng tên đạo tặc, như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Như vậy, bài Phúc Âm được nối kết bởi một dụ ngôn riêng rẽ (theo Mátthêu và Marcô), nhưng được gom góp lại dưới một chủ đề theo lối văn pháp thường quen của Luca.
Muốn vào Nước Trời “hãy tỉnh thức và sẵn sàng”.
Xưa nay, nhiều cuộc thất bại đắng cay trong lịch sử cá nhân, gia đình, xã hội đều do một nguyên do là không chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng.
Đại tướng Mac Arthur sau đệ nhị thế chiến có nói: Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể gồm tóm trong hai chữ: ‘quá muộn’. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Trong phạm vi thiêng liêng, đi chinh phục Nước Trời, ơn cứu rỗi cũng vậy. Để giải thích, Chúa đưa ra ba dụ ngôn. Dụ ngôn người giúp việc luôn tỉnh thức đợi chủ về. “Thầy bảo thật, chủ sẽ thắt lưng đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng”.
Dụ ngôn về tên ăn trộm, ăn trộm thì có bao giờ báo trước. Vậy hãy tỉnh thức, “giờ nào các ông không ngờ thì Con Người sẽ đến”.
Dụ ngôn người quản lý trung tín luôn làm theo ý chủ, chủ tín nhiệm trao cho quyền trông coi tất cả gia sản.
Tóm lại, muốn được cứu rỗi, phải luôn luôn sẵn sàng: Tỉnh thức, cầu nguyện, hành động và chiến đấu với ma quỷ, với chước cám dỗ.
Một nhà văn hào kể một câu chuyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận về phương thức chiếm đoạt các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỷ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỷ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: ‘Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!’
Bao nhiêu linh hồn hư mất không sẵn sàng.
Lạy Chúa, xin cho con biết luôn cầm đèn sáng trong tay.
22. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tỉnh thức là để làm gì? Đối với người Ki-tô hữu, tỉnh thức kiểu nào là hữu hiệu nhất, đẹp ý Chúa nhất?
2. Trong đời sống giáo dân, có thể cầu nguyện khi làm bất cứ việc gì không? Có cách nào biến tất cả mọi việc ta làm thành lời cầu nguyện không?
Suy tư gợi ý:
1. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…
Đức Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Từ nhỏ tôi đã nghe cha linh hướng của tôi kể câu chuyện về ông thánh còn rất trẻ tuổi Đaminh Saviô. Đó là câu chuyện tôi rất thích và ảnh hưởng đến đời sống của tôi rất nhiều. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi:
– «Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?»
– «Con vẫn tiếp tục chơi!»
– «Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?»
– «Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!» …
Khi kể câu chuyện ấy xong, cha linh hướng bảo rằng: «Nếu vào giờ chơi luật tu viện buộc phải chơi, mà các con vào nhà thờ cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Chúa đâu! Vả lại, chính khi các con chơi để đẹp lòng Chúa, vì Chúa muốn giờ đó các con chơi, thì lúc ấy chơi chính là cầu nguyện, mặc dù các con chẳng có vẻ gì là cầu nguyện, hay chẳng có ý hướng cầu nguyện gì lúc ấy cả». Từ khi nghe cha linh hướng nói như thế, tôi bắt đầu có ý nghĩ đến hình thức cầu nguyện bằng hành động hay bằng việc làm, và làm việc trong cầu nguyện.
2. Tỉnh thức theo kiểu … cầu nguyện bằng hành động
Tỉnh thức kiểu của Saviô trên có vẻ như không tỉnh thức, nhưng đích thực là luôn luôn tỉnh thức, có vẻ như không cầu nguyện, nhưng đích thực là luôn luôn cầu nguyện.
Tôi cũng thích câu chuyện 2 người ghiền hút thuốc hỏi cha linh hướng. Một người hỏi: «Thưa cha, vừa cầu nguyện vừa hút thuốc có được không?» Cha nói: «Không được!». Còn người kia hỏi: «Vừa hút thuốc vừa cầu nguyện có nên chăng?» Cha đáp: «Tốt lắm! Nên lắm!» Hai câu trả lời ấy rất đúng nhưng lại làm cho hai người có hai thái độ cầu nguyện khác nhau: một người bỏ hút thuốc để cầu nguyện, và một người vẫn cứ hút, nhưng có thói quen hễ bắt đầu hút thuốc là bắt đầu cầu nguyện.
Thì ra không nên làm gì khác trong khi cầu nguyện, nhưng lại có thể cầu nguyện khi làm bất cứ điều gì. Thế là từ đấy về sau, nhất là trong đời sống giáo dân của tôi vốn không thể dành nhiều giờ để cầu nguyện, tôi thường tập cầu nguyện và kết hiệp với Chúa khi làm bất cứ điều gì. Vì thế, công việc tôi làm thường được chìm trong ý hướng tỉnh thức và cầu nguyện. Nhờ đó, tôi dễ làm tốt đẹp công việc của mình, với ý hướng siêu nhiên. Và khẩu hiệu của tôi là «biến mọi hành động, mọi công việc thành cầu nguyện». Đời sống nội tâm của tôi nhờ thế phát triển hơn, mà có vẻ như rất ít khi cầu nguyện.
Tuy nhiên, tôi vẫn dành ra mỗi ngày vài lần, mỗi lần ít phút để cầu nguyện «nghiêm túc», nghĩa là trong những phút cầu nguyện ấy tôi không làm gì khác. Chính nhờ những giây phút «cầu nguyện kiểu thuần túy» ấy, tôi mới trung thành được với thói quen vừa làm mọi việc vừa cầu nguyện.
3. Cầu nguyện bằng hành động cũng là cách cầu nguyện tuyệt vời
Cầu nguyện là nói với Chúa. Nhưng quả thật, trong đời sống con người, lời nói không phải luôn luôn đi đôi với hành động. Biết bao người khi cầu nguyện, họ nói với Chúa một đằng, còn trong đời sống thực tế họ lại hành động một đằng khác. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn «hai người con» trong Tin Mừng (Mt 21,28-32): nói rất hay mà làm rất dở. Đây cũng là một căn bệnh của thời đại, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên, có những người không nói, hoặc nói ít, nhưng hành động thật sự. Họ không nói hay tuyên bố là họ yêu ai cả, nhưng hành động và cách xử sự của họ chứng tỏ họ yêu thương mọi người thật sự.
Xét điều ấy, ta thấy hành động cũng là một cách nói rất có giá trị. Nói tôi yêu bạn, hoặc biểu lộ tình yêu bằng hy sinh thật sự cho bạn, thì cách nào nói lên tình yêu nhiều hơn và chân thật hơn? Nếu hy sinh thật sự có giá trị hơn lời nói, thì cầu nguyện bằng hành động là một cách cầu nguyện tuyệt vời, chắc chắn có giá trị hơn hẳn trước mặt Thiên Chúa. Đó cũng là kết hợp với Chúa qua ý chí và hành động. Nếu chỉ cầu nguyện bằng lời nói xuông, không có hành động kèm theo bảo chứng cho những lời nói ấy, thì hóa ra lời cầu nguyện của ta chỉ toàn là nói «sạo», hoặc hứa hão với Chúa! Đức Giêsu cũng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi» (Mt 7,21). Như vậy, những Ki-tô hữu nào không thể dành nhiều thì giờ để «cầu nguyện kiểu thuần túy», vẫn có thể cầu nguyện khi làm tất cả mọi việc, hoặc biến tất cả mọi việc ấy thành cầu nguyện. Thiết tưởng đó là một cách tỉnh thức rất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lúc nào con cũng có thể hành động trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha, và làm theo cách Cha mong muốn con làm. Nghĩa là con phải làm cách nào hoàn chỉnh nhất, hợp lý nhất, đem lại ích lợi và hạnh phúc cho nhiều người nhất. Con muốn hiệp nhất ý của con với ý của Cha trong từng hành động một. Và con nghĩ đó là cách cầu nguyện bằng hành động, hay biến hành động thành cầu nguyện. Xin cho con đủ tình yêu để thực hiện được điều ấy. Amen.
23. Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
“Maranatha” có nghĩa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến!” Đây là từ cuối cùng của Thánh Kinh, đây là lời nguyện tha thiết của những Kitô hữu đầu tiên. Từ này lại trở nên lời nguyện của một số Kitô hữu ngày nay, nhất là trong những cộng đoàn đặc sủng. Lời này đáng được suy niệm.
Maranatha kêu gọi ngày tận thế, cái ngày kinh khủng là ngày mà Chúa Kitô xuất hiện trong vinh quang khởi đầu cuộc sống mới của con người tràn đầy sinh khí của Chúa. Bởi vì như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta chính Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta vào hưởng sự vui vẻ của Ngài: “Ngài sẽ cho các ngươi ngồi vào bàn và lần lượt phục vụ các ngươi.”
Nhưng mặc dầu kỳ diệu và tràn đầy tình yêu đến thế, cái kết cục vĩ đại này có lẽ không ngày đêm ám ảnh chúng ta lắm. Chúng ta ít hiểu điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm khi nói với chúng ta: “Hãy sống như những người đang chờ đợi”. Và khi chúng ta ngoan ngoãn lặp lại theo Ngài: “Lạy Cha, xin cho Nước Cha trị đến”. Điều này không làm lòng chúng ta hướng về ngày cánh chung, trong khi đó ý nghĩa đầy đủ là: “Xin cho thế giới chung cuộc nơi mà Cha sẽ trị vì mau đến”.
Thế giới đó đã đến. Chúng ta đi đến sự viên mãn nhưng thế giới đó đến trong sự khởi đầu của chúng ta. Thời kỳ cánh chung (nghĩa là những mục tiêu cuối cùng) là một bình minh xa xăm soi sáng sự tiến triển của nhân loại (tổng kết, như một nhà chính trị nổi tiếng đã nói, đó là một sự tiến triển) hướng về các mặt trời vĩnh cửu.
Cho nên sự chờ đợi Kitô giáo không có tính cách tĩnh tại và giải phóng. Nó là ý thức (có thể không sống động lắm) về một sự sản sinh vĩ đại.
Nền linh đạo chắc chắn nhất mà người ta luôn dạy chúng ta thì rõ ràng: phải sống tràn đầy ngày hôm nay. Nhưng đó là “ngày hôm nay của Chúa, tràn đầy Chúa và tràn đầy sự chờ đợi Ngài.
Liều lượng giữa hoạt động tức thì và sự chờ đợi thì rất tế nhị. Nó thay đổi theo các thời đại hoặc thậm chí theo mỗi tâm trạng. Sẽ có cho tới cùng những người miệt mài với thế gian và những người mơ ước trời cao. Tuy vậy, nói đến liều lượng tức phải có cả hai, và có nơi mỗi người trong lòng chúng ta: sự chờ đợi, vâng, nhưng trong một sự nhẫn nại rất tích cực. Biện chứng giữa ngày hôm nay và ngày mai là luôn luôn phải tỉnh thức. Biện chứng này suýt bị sai lệch ngày từ khi Kitô giáo mới ra đời. Các tín hữu Thessalonica của thánh Phaolô bị Maranatha tác động đến nỗi họ không còn làm gì nữa cả. Thánh Phaolô phải nói với họ: “Không, ngày của Chúa chưa đến! Phải sống, phải làm việc” (2Ts)
Chúng ta đã ghi nhận rất tốt bài học bởi vì ngày hôm nay của chúng ta hết sức bận dịu đến độ không tin vào thời kì cánh chung. “Những mục tiêu cuối cùng sao? Để rồi xem!” Ngay cả nơi những người Kitô hữu, người ta nhượng bộ hai cách sống (thường chỉ là hai gian đoạn của một cuộc sống) dưới trần thế này vì Maranatha: cái tôi bất cần và cái lịch sống cuồng sống vội.
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta có cuộc sống tỉnh thức: “Hãy là những người đang chờ đợi”, hãy ý thức việc ngày tháng qua đi và chấm dứt. Nhưng “theo kiểu người quản lý trung thành và khôn ngoan”. Một người quản lý “bận bịu” lắng nghe trong tiếng động của những ngày đang đi qua tiếng của Ngày tận thế đang tới. Cho nên Maranatha không phải là một lời nguyện giả hình, kêu xin Chúa cho ngày tận thế “đến” mà không muốn Ngài đến. Chúng ta có thể nói với Ngài “Xin hãy đến” bởi vì Ngài đang đến và để Ngài đến nhiều hơn nữa, ngày từ bây giờ, thấm nhuần những ngày hôm nay của chúng ta những giá trị cho ngày mai. Maranatha thông truyền cái vĩ đại vào trong điều gì có nguy cơ nhỏ nhặt, tẻ nhạt hoặc lệch lạc. Đó là những ngày lê thê hoặc chạy theo thời gian, những ngày khổ hình bị giết chết bằng những liều thuốc an thần. Nếu trong tất cả những điều đó tôi mất đi sự chờ đợi cơ bản của tôi, Maranatha của tôi, thì tôi chỉ còn là một kẻ chia nhỏ thời gian mà thôi, tôi không xây dựng gì cả, tôi không tự chuẩn bị cho gì cả.
Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin hãy thâm nhập những ngày cuối cùng. Qua việc Ngài đến dần dần, xin hãy chuẩn bị việc Ngài đến tràn đầy nơi chúng con và nơi thế giới. Ánh sáng Mừng vui, Ánh sáng vĩnh cửu của Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô Thánh thiện và Hạnh phúc.
24. Linh đạo lữ hành – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần?
Những người đang trên đường
Đức Giêsu nói: “Đừng tích trữ những gì có thể mục nát hay trộm cướp có thể lấy đi được, nhưng hãy tích trữ những gì không hư nát và không thể bị đánh cắp”. Cái mình cho là quý, mình luôn bận tâm và hướng lòng về đó. Cái mình cho là quý, có thực sự là những điều trường tồn? Tiêu chuẩn nào giúp mình nhận ra cái có giá trị thực sự? Cái chết giúp con người nhận ra, mình chỉ là lữ khách.
Cái chết đến với mình lúc nào mình đâu có biết! Một tai nạn giao thông có thể xảy ra ai lường trước được. Mình đâu có thể mang tài sản vật chất đi với mình được. Cuộc đời này qua mau. Ai hành động như thể sống vĩnh viễn trên cõi đời này, là người không khôn ngoan. Giờ chết đến, tôi sẽ ra đi tay trắng, và chỉ mang theo chính mình, ngay cả thân xác này cũng không thể mang theo được.
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ chờ chủ về để dạy thái độ phải có khi sống trên dương thế này. “Sẵn sàng”. Phải tỉnh thức vì không biết giờ nào chủ về đến. Cái chết là chung cho tất cả mọi người, cho cả các tông đồ và dân chúng. Cách đối xử của Thiên Chúa với mọi người đều như nhau, dù ở bất cứ địa vị hay bậc sống nào. Sự trung thành không hệ tại ở chức vụ nhưng qua cuộc sống, nơi việc làm.
Đức tin giúp sống linh đạo lữ hành
Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn còn phải tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Vì tin mà bao nhiêu người đã dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa.
Nếu không có đức tin, Noê, Abraham, và các anh hùng tử đạo đã không hành xử như vậy. Nếu không có đức tin, các tín hữu đã chẳng sống nghèo và giúp đỡ những người khốn khổ. Nếu không có đức tin, chắc người ta đã sống phóng đãng và bất chấp tất cả, cốt sao để được lợi trước mắt.
Đức tin giúp con người hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, chấp nhận những điều không vừa ý một cách can đảm và anh hùng, cũng như giúp con người sống hạnh phúc trong những điều kiện mà người ta tưởng rằng không có thể.
Linh đạo lữ hành
Khi coi cuộc sống trần gian như cuộc lữ hành, không có nghĩa, coi thường cuộc sống trần thế, nhưng muốn nói, cuộc sống trần thế là thời gian dẫn ta tới sự sống vĩnh cửu.
Cuộc sống trần thế này rất quan trọng, nếu ta không tận dụng hoặc không sống nó một cách trọn vẹn, ta không thể dễ dàng tới đích ở cuối đường đời. Cuộc đời chóng qua, nhưng rất quan trọng. Cũng tương tự dùng máy bay để đi tới một nơi nào đó, tuy dù chỉ bay trong mấy giờ nhưng rất quan trọng, nếu không dùng thời giờ đó một cách đúng đắn nghiêm chỉnh, người ta không đi được tới nơi người ta muốn. Đời tạm dẫn ta về quê trời, nếu không sống trọn vẹn đời tạm, e rằng khó đạt đến quê trời.
Đức tin giúp người ta nhận biết đúng thực tại, và Thiên Chúa luôn luôn ban ơn giúp người ta sống với Ngài ngay trong cuộc sống đời tạm này. Thiên Chúa làm tất cả cho ta. Hãy tin tưởng và vui sống, ngay cả trong “biển đời” này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là nét đẹp của cuộc đời này?
2. Thiên Chúa muốn bạn làm gì trong suốt đời bạn?
3. Điều gì ngăn cản bạn sống hạnh phúc trong cuộc sống này?
25. Tất cả các bạn
Tin mừng lớn lao nhất đã chấn động trong lịch sử của loài người đó là Tin Mừng về Tình Yêu của Chúa. Một Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và còn tiếp tục bảo tồn chúng ta toàn vẹn trong cuộc sống. Chúng ta cùng nhau vui sướng tán dương tình yêu của Chúa cho chúng ta và mong muốn chúng ta trở nên hoàn mỹ và trọn vẹn.
Một buổi sáng, sau khi bà mẹ đã chuẩn bị điểm tâm sáng xong thì sai hai người con gái của bà chạy lên lầu nói với ông bố xuống dùng. Người con gái lớn chạy nhanh hơn nên đã lên lầu trước, và cô nũng nịu chạy vô lòng bố và nói, "Mời bố xuống dùng điểm tâm." Người con thứ hai cũng đến, và cô bị người chị lớn chọc, "Chị đã chiếm hết tình thương của bố rồi!" Thế nhưng ông bố lại nhìn người con thứ hai với ánh mắt trìu mến và cũng đưa cánh tay kia ra để ôm lấy cô. Người con thứ hai quay sang chị nó nói, "Có lẽ chị đã chiếm hết tình thương của bố, nhưng bố lại chiếm hết tình yêu của em!" (You may have all there is of daddy, but daddy's got all there is of me!)
Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng nên chúng ta thì Ngài cũng muốn chúng ta thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn biết chọn Ngài làm kho tàng, Ngài sẽ chiếm hết con người của các bạn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em...Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể nào hao hụt ở trên trời... Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó" (Lc 12:32-34).
Đôi lúc, đó là một điều khó để tìm lời mà diễn tả cái cảm nghiệm sâu xa về con người nói chung. Thí dụ ai trong chúng ta có thể diển tả nổi cái kho tàng lớn lao nhất: Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn bạn, hoặc cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nền tảng đức tin, nền tảng tôn giáo chân chính, nền tảng của sự cảm nghiệm lòng sốt sắng chúng ta là những gì mà Cựu Ước gọi là "yêu Chúa hết lòng", và Tân Ước thì gọi là "Ơn thánh của Chúa." Điều đó có nghĩa là cho dù chúng ta có nghĩ hoặc cảm thấy điều gì về Thiên Chúa, hoặc là thần học có dạy cho chúng ta điều gì đi nữa, thì điểm cốt yếu của đức tin chúng ta vẫn là Thiên Chúa là cùng đích của chúng ta. Thiên Chúa yêu thương săn sóc cho chúng ta. Nếu điều đó được chúng ta cất giữ và suy niệm trong tận đáy thâm tâm của mình thì chúng ta sẽ được biến đổi. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô luôn luôn bắt đầu thư của Ngài bằng lời chào "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta chúc lành cho anh em." Ngài có ý làm như vậy là để cho chúng ta phải biết biến đổi ý tưởng trước khi lắng nghe lời ngài bởi vì đó là tâm điểm của đức tin.
Đó là do ơn thánh của Chúa mà Ngài đã đến với chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô, và trở nên một với chúng ta hầu chỉ cho chúng ta biết sống thế nào cho phải lẽ.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà Ngài đã trở nên một trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần, và làm cho chúng ta lớn lên.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta được gọi để hiệp nhất trong tình yêu của Ngài, điều mà Chúa Giêsu gọi là tối hảo cần thiết của con người.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta đón nhận món quà sự sống và hy vọng trong tương lai và sức mạnh để yêu thương kẻ khác với đức ái.
Trong ngày Chúa Nhật hôm nay, khi chúng ta tụ họp lại nơi đây để lắng nghe Lời Chúa, không phải chỉ là nghe lại, nhưng tôi xin các bạn hãy nghe và hãy suy nghĩ với lòng chân thành và giữ trong lòng chúng ta.
Một điều quan trọng chúng ta cần phải hỏi mình: chúng ta có ôm ấp Tin Mừng của Chúa ở tận đáy tâm hồn của mình nơi mà chúng ta thường hay làm những quyết định cho những gì chúng ta muốn làm? Chúng ta có đứng vững trên nền đá của đức tin hay trên nền cát?
Nếu một người đến Hoa Kỳ từ một nước khác, họ thật ngạc nhiên khi nhìn thấy đủ loại thực phẩm ở các cửa hàng: sữa bột, chỉ cần pha với nước là có sữa, nước cam bột, chỉ cần pha với nước là có một ly nước cam, rồi fast food (đồ ăn liền), xe đủ loại, máy điện toán... Chúng ta có thể kể ra đủ mọi thứ loại hàng mà chúng ta có thể nhìn thấy. Thế nhưng nếu cuộc sống của chúng ta chỉ để tâm đến những thứ này thì là một điều đáng tiếc.
Tôi cầm thử những thứ thế gian, ôi chúng chỉ là kho tàng chóng qua, chúng có lợi ích gì? Tôi cầm thử những thứ thuộc về tôi, lạy Chúa, xin cho con cầm lấy thật chặt tất cả những gì thuộc về Ngài.
Khi các bạn biết chọn Chúa Giêsu làm kho tàng, Ngài sẽ là phần thưởng cho các bạn.
26. Thức tỉnh chờ đón cuộc sống thật
Ai trong chúng ta cũng công nhận cuộc sống của con người trên trần gian này chỉ là tạm bợ và chóng qua. Dù muốn dù không một ngày nào đó tất cả con người chúng ta cũng phải lìa bỏ cuộc sống trần gian này. Cho dù người ta có giàu sang hay nghèo khó, sinh sống nơi thành thị hay vùng thôn quê hẻo lành, có quyền cao chức trọng hay chẳng có địa vị nào trong xã hội thì tất cả đều phải chấp nhận sự thật này. Sự thật là sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ còn có một cuộc sống thật bền vững và chắc chắn nếu chúng ta biết sống thức tỉnh.
Tuần trước Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15). Vì con người chúng ta thường dễ bị cám dỗ để gắn bó quá nhiều với những gì thuộc thế giới này - vào của cải vật chất. Thế nhưng, những của cải vật chất đó không thể bảo đảm cho chúng ta cuộc sống thật mai sau.
Cũng trong những lời nhắc nhở đó, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy sống thức tỉnh như thái độ của người đầy tớ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón chủ đi ăn cưới về. "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. (Lc 12, 35 - 37)
Mỗi người chúng ta từ Thiên Chúa mà đến. Vì "lá rụng về cội" nên chúng ta đ ược kêu mời sống làm sao để được trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Trở về với Thiên Chúa để được hưởng lại cuộc sống thật do tội nguyên tổ đã đánh mất. Điều đáng nói là không biết ngày giờ nào hay lúc nào Chúa mời gọi chúng ta trở về.
Nếu thật sự tin vào cuộc sống thật sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ sống rất tích cực và lạc quan. Ngược lại, chắc hẳn chúng ta sẽ sống rất uể oải và không chút hy vọng gì vào tương lai. Nếu như vậy thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên hết sức vô nghĩa, chẳng có giá trị gì.
Như vậy, sống thức tỉnh trong hy vọng vào cuộc sống thật mời gọi chúng ta phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa. Phó thác trọn vẹn cho Chúa bằng cách gắn bó với Người qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích. Đồng thời, hằng ngày chúng ta biết chu toàn tốt bổn phận của mình - bổn phận trong gia đình, trong Giáo hội hay ngoài xã hội.
27. Tin là sống - Lm. Bùi Quang Tuấn
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay" (Lc 12,35).
Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai... Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát. Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra như vụ nổ bom toà đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya, vụ tàn sát tập thể tại Nam Tư, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt tại Trung quốc, sóng thần tại New Guinea, đất động tại Ấn độ.
Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian. Nhưng thử hỏi: "Rời thế gian để đi đâu?" Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm? Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác? Hay chết là hết?
Nếu nói chết rồi sẽ đi đầu thai kiếp khác thì e rằng người ta chẳng cần phải quan tâm lo lắng về đời sống ăn ngay ở lành làm gì. Vì có kẻ cho rằng: "Tại sao không ăn chơi hưởng thụ cho thoải mái để bù lấp những ngày cơ cực. Nếu không may sau này có bị đầu thai làm kiếp trâu bò lừa ngựa, thì cũng không thành vấn đề, bởi vì hiện nay cũng từng phải vất vả quần quật, ‘cày bừa’ tối ngày nên có kinh nghiệm rồi." Có người còn tâm sự: Ở Việt nam còn được sinh ra trong tuổi con rồng, con gà hay con rắn..., chứ qua bên Mỹ, dường như ai cũng cầm tinh giống nhau: tinh con trâu. Vì ai cũng phải đi cày tối ngày. Thế nên nếu có đầu thai làm kiếp trâu bò, tưởng cũng không đáng ngại ngùng.
Thành ra nếu chết rồi đi đầu thai kiếp khác thì không công bằng và đáp ứng xứng hợp với nhân phẩm cao cả của con người chút nào. Với lại thú vật thì đâu có tri thức để phân biệt đúng sai, lành dữ, và như thế làm sao chúng có dịp chọn lựa hay từ khước, lập công hay phạm tội? Làm sao có cơ may để đi đến một kiếp tốt hơn hay xấu hơn?
Còn nếu nói chết là hết thì càng bất công và xúc phạm đến phẩm giá con người cách khủng khiếp. Chính chủ nghĩa vô thần, những triết thuyết cộng sản và chủ nghĩa hưởng thụ đã đưa con người đến với khái niệm chết là hết đầy bất nhân kia.
Nếu chết là tận tuyệt thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái? Nếu chết là hết thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật cho vất vả?
Nếu chết là hết thì đúng là con người đang sống trước một ngõ cụt vô cùng bất công. Bởi vì rồi đây người lành kẻ ác cũng như nhau, người dấn thân phục vụ yêu thương nhân loại cũng chẳng hơn gì kẻ gây tang thương khốn khổ cho bao người.
Nếu chết là hết thì tôi phải tỉnh thức làm chi, ngày Chúa đến hay không nào có quan hệ gì.
Nhưng không. Ngàn lần không! Chết không phải là hết. Niềm tin Kitô giáo xác quyết chết là bước vào một cuộc sống mới và đời đời. Trong cuộc sống đó tôi sẽ khổ đau ngàn thu hay hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào cung cách sống niềm tin hiện nay của tôi. Như thế tôi cần phải tự vấn: niềm tin của mình đang ngủ vùi, chìm đắm, hay tỉnh thức hoạt động? Nó đang sống hay đã chết tiệt rồi?
Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.
Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.
Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.
Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: "Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết".
Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: "Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi khi nào thì các ngón tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’" Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: "Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi."
Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: "Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta."
Tôi tự hỏi: Do đâu mà một chàng thanh niên đầy bất hạnh lại có thể nói lên được những lời đầy khích lệ, yêu thương và tha thứ như vậy? Nhờ đâu mà cha mẹ anh Joe có thể can đảm cảm thông và gánh vác nổi đau khổ của đời mình và đời con như vậy? Tựa vào đâu mà họ có được sức mạnh để yêu thương và duy trì sự sống chứ không tận diệt hay khước từ như vậy?
Câu trả lời duy nhất chính là nhờ vào đức tin—một đức tin tỉnh thức và sống động, một đức tin được tôi luyện qua năm tháng và những bước thăng trầm trong cuộc đời. Những câu nói của ba con người trên kia đã xác quyết điều đó.
Thế giới, gia đình và lương tâm của nhiều người đang ngủ vùi trong hận thù, chôn sâu trong chiến tranh, sa đoạ trong các đam mê hưởng thụ trần tục. Chính vì sự hưởng thụ thiếu ý thức và vô trách nhiệm của người tài xế kia đã gây nên bao khổ đau cho người khác, nhưng chính nhờ niềm tin vào chân lý yêu thương mà người ta đã tồn tại để xoa dịu bao nhiêu u sầu và đem lại hạnh phúc cho nhiều tâm hồn.
Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức như vậy chắc chắn không bị chấm dứt với cái chết, không bị đi vào hư không trống rỗng, cũng chẳng phải đầu thai kiếp này hay kiếp khác, nhưng sẽ tồn tại đến muôn đời trong tình yêu cua Thiên Chúa.
28. Ngạc nhiên – Lm Vũ Đình Tường
Cuộc đời có lắm ngạc nhiên và những ngạc nhiên này tô điểm cho đời thêm thú vị. Không ngạc nhiên đời nhàm chán. Ngạc nhiên đến từ những sinh hoạt hàng ngày ta dành cho người và người dành cho ta. Không ai có khả năng chuẩn bị để đón ngạc nhiên bởi vì chúng đến bất thình lình, không thể tiên đoán. Nếu tiên đoán được đâu còn là ngạc nhiên.
Sống thoải mái, bình thường, trung thành làm công việc hàng ngày, làm với một tâm tình vui, thoải mái, chân thành. Như thế là chuẩn bị chu đáo đón ngạc nhiên. Ai có thể đoán được buổi nói chuyện với người kia cuộc đời mình thay đổi. Ai đoán được đứa con mình sau này xóm làng ai cũng mến. Ai tiên đoán được sách dậy Bảo vệ Hạnh Phúc Gia Đình làm cho gia đình hàng xóm chia lià. Cũng là đoạn Kinh Thánh đó năm nào cũng nghe nhưng sao lần này tôi cảm thấy rất gần gũi. Quả là ngạc nhiên trước khi vào thánh đường lòng rối tơ vò, tâm động thác lũ mà chỉ sau ít phút bình an trở lại, tâm hồn yên lặng. Rồi cũng có lần đầu lễ sốt sắng, nửa sau lo ra, bồn chồn chỉ muốn ra về sớm.
Có những ngạc nhiên ta vui mừng đón nhận và chia sẻ với người lại cũng có những ngạc nhiên ta từ chối, dẫy nảy nhưng nó vẫn bám theo, không tài nào dứt ra. Không ngạc nhiên sao giữ gìn sức khoẻ đến thế mà lại bệnh sớm hơn mọi người. Không ngạc nhiên sao mặc dù chuẩn bị mọi thứ nhưng khi đến việc vẫn thấy bồn chồn, lo lắng.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta một ngạc nhiên lớn trong đời. Ngạc nhiên ở chỗ ông chủ khen người đầy tớ trung thành sẵn sàng đợi chủ về. Người đầy tớ không làm điều gì to, cũng chẳng làm việc bất thường. Tất cả những gì anh ta làm mọi người đều có thể làm. Anh trung thành, vui vẻ trong công việc. Sẵn sàng đón chủ về bất cứ khi nào, sáng trưa, chiều tối, và ngay cả đêm khuya. Lúc nào anh cũng sẵn sàng chu toàn công việc. Chính điểm này mà chủ khen là người đầy tớ khôn ngoan, trung thành và giao cho trách nhiệm lớn, quan trọng hơn.
Là môn đệ Đức Kitô chúng ta cũng cần có tâm tình đó, luôn sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô, luôn sẵn sàng chia sẻ tình yêu Chúa cho tha nhân. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta làm công việc vĩ đại, không cần phải chuyển núi dời non, không cần phải xây cất lâu đài đồ sộ. Ngài kêu gọi chúng ta chia sẻ tâm tình của mình với mọi người. Ngài kêu gọi chúng ta sống khiêm nhường và trung thành với công việc hàng ngày. Ngài mong chúng ta sống vui mỗi ngày, hoàn thành công việc trong tinh thần vui vẻ đón nhận tất cả, sẵn sàng làm những gì cần làm trong ngày, dù là bếp núc hay vườn tược, dù là kinh doanh hay chăn nuôi. Hãy hoàn thành công việc với tâm tình yêu mến, khiêm nhu. Đây là khuôn mẫu của người đầy tớ khôn ngoan. Bạn sẽ ngạc nhiên nhận được lời ông chủ khen tặng là người khôn ngoan, trung thành. Bạn sẽ được những người khác coi là thân hữu và luôn kính trọng.
Có lẽ ngạc nhiên lớn nhất trong đời là ngạc nhiên sau những năm tháng phục vụ cuối đời bạn nhìn lại thấy không hối tiếc việc đã làm nhưng hài lòng vì đã sống một đời sống thành nhân. Người thành nhân là người yêu người quí mình với tất cả tấm lòng. Ai chân thành yêu mến người thì cũng chân thành yêu mến Thiên Chúa.
29. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường
Tỉnh thức rất cần cho cuộc sống về cả hai phương diện tri thức và tâm thức.
Tỉnh thức khác với canh thức. Trong lúc canh thức có trường hợp ngủ gà, ngủ vịt, mơ màng. Tỉnh thức đòi hỏi một mức độ cao hơn lúc nào cũng phải tỉnh táo đề phòng trong tư thế sẵn sàng.
Ngoài ra tỉnh thức đòi hỏi tinh thần sáng suốt giúp mau chóng nhận định sự việc và giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp hầu tránh được những đáng tiếc xảy ra. Tỉnh thức như thế có nghĩa là sẵn sàng đối phó mau lẹ đáp ứng với tình thế mới khi biến cố ập đến. Tỉnh thức giúp tránh hầu hết sai lầm trong việc nhận định sự việc. Nếu có sai lầm cũng không trầm trọng và sai lầm có thể kịp thời sửa chữa, bổ sung vì tỉnh thức giúp sớm nhận ra sai lầm.
Biến cố trong cuộc sống liên kết với nhau như sợi giây xích, như chiếc đồng hồ hoạt động. Một bộ phận dù nhỏ cũng đủ gây cho đồng hồ chạy sai hay ngưng chạy và người ta sớm nhận ra để sửa chữa kịp thời. Tương tự như trên người tỉnh thức có khả năng sớm nhận điều sai lầm, kịp thời sửa sai mà không cần mất thời gian hoặc có người mách bảo.
Tỉnh thức về phương diện tâm linh đòi hỏi cố gắng cao hơn. Tỉnh thức để nhận biết mình đang phục vụ Chúa qua anh em, nhận biết mình đang trung thành với Chúa và nhận biết Chúa qua mọi biến cố của cuộc sống. Tỉnh thức về tâm linh giúp nhận ra sai lầm, nhận ra tội ngay trước khi phạm tội để tránh. Tránh được hay không lại là vấn đề khác nhưng người tỉnh thức có khả năng nhận biết đúng sai, phải trái, tội phúc trước khi người đó bắt tay vào việc. Tiếng nói lương tâm ngăn cản đóng một phần trong việc giúp người tỉnh thức nhận biết việc nên làm và điều nên tránh.
SẴN SÀNG
Tỉnh thức và sẵn sàng đi chung với nhau, có thể nói người sẵn sàng là người tỉnh thức và ngược lại. Tỉnh thức và sẵn sàng có chung mục đích.
Tỉnh thức trong Phúc Âm một là sẵn sàng ra đón khi chủ về, khi chủ mời gọi như bài đọc hôm nay xác định. Không để cho chủ đợi ta nhưng chính ta sẵn sàng đợi chủ về.
Tỉnh thức còn một mục đích nữa là tránh được cơn cám dỗ. Điều này có thể thực hiện được khi tỉnh thức và cầu nguyện đi chung với nhau. Trên vườn Cây Dầu Chúa kêu gọi các tông đồ. Hãy tỉnh thức cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ vì hồn thì sẵn sàng nhưng xác thì yếu đuối.
Thiếu tỉnh thức con người có thể bị mê hoặc bởi các thú vui trần thế mà quên đi nhiệm vụ hoặc ngay cả giữ đạo một cách cứng nhắc đưa đến việc bất đồng với anh chị em khác, phê bình người khác kẻ cấp tiến, người lạc đạo. Chống lại cả việc Chúa Thánh Thần âm thầm làm việc đổi mới tâm hồn. Ma quỷ thường dùng bùa mê ru ngủ con người và dẫn đưa họ vào con đường phạm tội. Một khi đã mê ngủ thì không còn tỉnh táo để nhận định, quyết định, ngay cả việc sai trái kẻ mê ngủ cũng không nhận ra. Chính vì thế mà lọt tròng kẻ lập mưu tính kế. Họ dụ dỗ bằng lời nói ngon, nói ngọt đưa người đó đến chỗ thích thú và nhập cuộc rồi bị sai khiến, hướng dẫn làm điều sai trái.
30. Hãy tỉnh thức sẵn sàng
1. Cách đây ít lâu, tôi nhận được tin một linh mục ngủ vào ban tối và sau đó ngài không còn thức dậy nữa, khi người ta phát hiện thì ngài đã qua đời từ lúc nào không ai hay biết! Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, biết bao tin tức về cái chết của người nầy người kia được loan đi, cá nhân có, tập thể có, với nhiều lý do khác nhau; nhưng có khi nào chúng ta nghĩ về sự ra đi về thế giới bên kia của mình hay không? Có ai ngờ rằng cứ một phút trôi qua, bình quân gần 200 người trên trần gian nầy phải lìa thế? Mang thân phận con người, có sinh ắt có tử, thế nhưng có những người sống như không bao giờ phải chết. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng, bởi vì không biết lúc nào chúng ta sẽ phải trình diện trước mặt Chúa.
2. Với dụ ngôn thứ nhất, về "Người Đầy Tớ Tỉnh Thức" (x. Lc 12,35-38), Đức Giêsu dạy ta bài học tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh chờ, như người đầy tớ canh chờ ông chủ đi ăn cưới trở về. Với dụ ngôn thứ hai, về "Chủ Nhà Tỉnh Thức" (x. Lc 12,39-40), Ngài dạy chúng ta tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh phòng. Dụ ngôn nầy không nhằm so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến cũng bất ngờ như kẻ trộm. Như ông chủ từ tiệc cưới trở về cách bất ngờ hay như kẻ trộm lúc nào đột nhập vào nhà để trộm cướp không thể biết trước được, cũng vậy không ai trong chúng ta biết ngày giờ nào ta phải ra trước toà Chúa phán xét hay là khi nào Chúa sẽ trở lại trong vinh quang, vì thế cách tốt nhất mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta là hãy luôn có thái độ canh chờ và canh phòng.
3. Nếu thái độ tỉnh thức sẵn sàng bằng cách ngồi nhưng không thì rất phí thời gian. Thậm chí không làm gì thì dễ sinh ngủ gục, chừng đó không đón được chủ trở về đúng lúc, cũng như không thể canh phòng được kẻ trộm! Vì thế Đức Giêsu muốn dạy ta cách tích cực hơn trong việc canh chờ và canh phòng đó là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó. Điều nầy được minh hoạ qua dụ ngôn thứ ba, về "Người Quản Gia Trung Thành"(x. Lc 12,41-48). Cái quý của người quản gia nầy là không dùng chức vụ được giao để tư lợi cho bản thân, mà để phục vụ theo ý chủ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy tỉnh thức bằng cách chu toàn tốt nhất nhiệm vụ được giao phó. Nhờ ơn Chúa giúp, người Kitô hữu cố gắng dùng những khả năng mà Thiên Chúa ban cho để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Đó chính là thái độ tỉnh thức sẵn sàng, có như thế thì dù chúng ta trở về cùng Ngài lúc nào, ta cũng vẫn có thể bình an thanh thản ra đi.
4. Trong cuộc sống, có nhiều điều làm cho chúng ta mãi mê chìm đắm mà thiếu tỉnh thức sẵn sàng, nhất là trong thời đại con người có khuynh hướng hưởng thụ, những lợi ích trước mắt được coi trọng mà xem nhẹ những giá trị tinh thần. Vì thế có những người đắm chìm trong sắc dục, rượu chè, cờ bạc mà không lo nghĩ đến sự sống đời sau. Có những người lo học hành, công danh mà không nghĩ gì đến việc thiêng liêng, hay chỉ xem đó là thứ yếu. Có những người lo làm giàu trước mắt mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa... Cũng có những người chỉ lo cho bản thân mà thiếu quan tâm chăm sóc cho những người mình có trách nhiệm về vật chất và tâm linh. Có những người rất mật thiết với Chúa nhưng lại xa cách anh em, hay ngược lại có những người tích cực trong công việc xã hội nhưng dửng dưng với niềm tin vào Thiên Chúa... Tuy những cách sống khác nhau như thế, nhưng tựu chung lại đều là thiếu tỉnh thức sẵn sàng, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với Chúa, tha nhân và ngay cả bản thân, điều nầy không thể chấp nhận nơi người Kitô hữu.
5. Những người không biết Thiên Chúa và lời dạy của Ngài, nếu có làm điều sai trái, họ có thể được khoan hồng hơn khi ra trước toà Chúa phán xét. Bởi họ không được giao phó, hoặc giao phó ít thì họ sẽ được đòi hỏi ít. Còn những ai được danh dự làm con Chúa, được giao phó nhiều mà không cố gắng sống tốt thì sẽ đáng trách hơn (x. Lc 12,47-48).
Đừng chần chừ gì nữa mà ngay từ bây giờ, hãy tỉnh thức sẵn sàng như lời Đức Giêsu mời gọi. Chúng ta thường muốn làm vui lòng những ông chủ trần gian, tại sao chúng ta không cố gắng để làm vui lòng ông chủ thật là Thiên Chúa? Chúng ta thường canh giữ cẩn mật không để thất thoát những đồ vật xem ra quý giá hay tiền bạc dù những thứ đó chỉ là tạm bợ, mà lại dửng dưng với mạng sống thật, đó là linh hồn (x. Mc 8,36)? Chúng ta thường cố gắng chu toàn bổn phận nhiệm vụ trần thế, tại sao chúng ta không cố gắng chu toàn bổn phận công dân Nước Trời?
Hãy tỉnh thức sẵn sàng bằng cách sống hết mình cho Thiên Chúa và tha nhân (x. Lc 10,27), chính là phương cách dẫn đưa ta đến sự sống đời đời vậy.
31. Tỉnh thức – Sẵn sàng
Cha đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em
Hãy bán tài sản của mình mà bố thí
Như người đợi chủ đi ăn cưới về. Phúc cho... chủ sẽ thắt lưng đưa họ vào bàn ăn và phục vụ từng người.
Nếu chủ nhà biết giờ nào trộm đến... Anh em hãy sẵn sàng vì lúc không ngờ thì Con Người đến. Người quản gia trung tín, khôn ngoan... thật là phúc. Chủ sẽ đặt lên coi sóc tất cả tài sản mình. Trái lại, chủ sẽ bắt phải chịu số phận của kẻ bất trung.
Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều.
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều.
Là dụ ngôn, phải hiểu theo nghiã ẩn dụ. Nói về giờ của mỗi người, giờ quyết định cho số phận vĩnh viển của mỗi người. Một lần cho mãi mãi. Vì không hiểu đúng nên bị coi thường, bị bỏ qua. Nghe rồi bỏ. Lười học Lời Chúa sẽ thiệt thòi đấy. Không học, không biết- khỏi làm. Làm bậy không có tội (vì không biết không có tội). Người ta thích vậy.
Thiên Chúa yêu thương, nhân hậu vô cùng - là ban cho mỗi người - đủ thời gian và phương tiện dồi dào - để đủ khả năng bảo đảm lo được cho phần rỗi đời đời của mình. Mọi người đều bảo đảm có đủ như vậy. Đó là lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa. Vậy đó! Chứ không phai là cho làm xấu thả ga mà không bắt tội, tội bao nhiêu cứ tha hết, cho Nước Chúa hết. Mới là thương vô cùng.!
Thiên Chúa cho thời gian ba năm "đã ba năm ta tìm trái nơi cây vả nầy". Xin cho nó thêm một năm nữa. Tôi sẽ bón phân thêm...sang năm ông hãy đốn. Vậy là chờ thêm một năm. Nhưng một năm thôi nhé! Sang năm đốn đấy! Không có thêm nữa đâu! Đừng đợi. Đừng nói Chúa khoan nhân vô cùng thì phải cho thêm và thêm vô cùng. Đừng lợi dụng quá đáng. Đừng coi Chúa như trẻ con muốn lợi dụng cỡ nào cũng được, theo ý xấu của ta. Thiên Chúa cho tự do là nhân hậu đó. Tôn trọng tự do của ta là Thiên Chúa nhân hậu đó. Quá nhân hậu rồi đó.
Thiên Chúa không bắt bí ta, không bắt ta bất ngờ nhưng vì ta không chịu ngờ rồi cho là bất ngờ. Không hề có bất ngờ, ngay cả trong thiên nhiên. Tại vì ta không biết thôi. Một sợi tóc trên đầu ta cũng không rụng xuống mà không có sự sắp đặt của Thiên Chúa, Thiên Chúa chờ đợi và chờ đợi đủ rồi thì mới đến. Bất ngờ là phía con ngừời. Là con người quá đáng.
Lời của Đức Giêsu: Làm việc và phần thuởng/phạt. Con người có cả cuộc đời trước mặt Chúa chứ không chỉ là trong giây phút Chúa dến. Không chỉ chờ giây phút Chúa đến giờ chết. Tới đó hẳn lo! Phải có cả một cuộc đời sẳn sàng.
Nguời đầy tớ - bổn phận là thức đợi chủ đi ăn cưới về - bất cứ lúc nào - ban ngày thì thức rồ - ban đêm cũng phải thức - dù canh hai canh ba. Chủ sẽ thưởng: chủ thắc lưng- đặt người đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ. Lạ đời! Là dụ ngôn Nước Trời. Thiên Chúa sẽ thết tiệc khao thưởng các dầy tớ trung thành. Người thết tiệc là phuc vụ. Người đến để phục vụ. Người thắt lưng cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người ăn tiệc là người ngồi bàn. Phần thưởng thật là lớn! Kinh ngạc!
Nhưng thức chờ đợi không phải là không ngủ. Không phải là ngồi yên mở mắt. Mà là làm người quản gia trung thành và khôn ngoan. Làm tốt bổn phận mình từng giây từng phút. Chủ về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho đầy tớ ấy. Chủ sẽ tin tưởng mà dặt nó cai quản mọi tài sản mình. Trái lại, nếu nó nghĩ là chủ về muộn nên sai sưa rồi đánh đập tớ trai tớ gái trong nhà như mình là chủ. Chủ sẽ về lúc nó không ngờ vào giờ nó không biết, sẽ loại trừ nó và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung.
Chưa mà. Hôm qua chưa mà, Hôm nay cũng chưa. Ngày mai, ngày kia cũng chưa. Sang năm......cũng chưa. Hầu hết đều nghĩ như vậy. Bỏ Phục sinh, khuyên lo đi. Cha để con từ từ mà. Cứ thế từ từ năm nầy rồi năm nữa rồi chết vẫn chưa. Ôi!
Chúa muốn gặp ta đang làm việc thế nào chứ không phải tính sổ hay phán xét gi cả: Làm việc đẹp lòng Chúa, theo ý Chúa, đúng ý Chúa. Dominico Savio đang chơi ngoài sân với các bạn. Cha linh hướng hỏi: nếu 15 phút nữa con chết thì con làm gì? Con tiếp tuc chơi vì chơi là bổn phận lúc nầy. Làm bổn phận cho tốt là ý Chúa , đẹp lòng Chúa. Là sẳn sàng.
Làm tốt bổn phận. Khi chủ về - bất cứ lúc nào - cũng không bị bất ngờ. Phải trung thành mọi phút giây. Không xao lãng giây phút nào. Đó Là tình thức - sẳn sàng cụ thể. Là điều cốt yếu nhất nói lên sự trung thành xứng đáng hưởng phần thưởng lớn lao Nước Trời. Phần thưởng lón lao thì đòi hỏi một mức độ xứng đáng nào đó là hợp lý thôi. Càng lớn lao đòi hỏi càng cao. Sự liên tục trung thành bù đắp cho sự bất cân xứng giữa việc làm của ta và phần thưởng của Chúa. Người ta thường muốn làm ít mà được thưởng nhiều. Thậm chí muốn làm "toàn bậy" mà được thưởng Nước Trời lớn lao vô cùng. Hợp lý không? Chúng ta muốn làm cho Thiên Chúa là một Thiên Chúa không hợp lý sao! Mà không hợp lý là loạn cả.
Xin Chúa tha thứ? Rước cha. Cha tha cho. Chỉ cần cha nói "cha tha tội cho con" thì sạch hết. Dể ịu! Không gặp cha thì xin chuông tử, xin lễ an táng, xin đưa đón, làm phép huyệt, xin cầu lễ...... Cũng như tham nhũng có chết thằng tây con tàu nào đâu thì có ngu mới không à. Dại gì mà tỉnh mà thức mà chờ mà đợi. Dại gì mà không chè chén say sưa, không đánh đập tớ trai tớ gái cho oai ra phết! Có khoản nào Chúa Giêsu đã ám chỉ như vậy không? Đừng có mơ!
Rất rõ ràng. Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều hơn. Có đạo, đạo dòng, là tu sĩ, linh mục........sẽ bị phán xét nghiêm ngặt hơn (không phải dễ dàng hơn).
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. Phần thưởng sẽ lớn nhưng phạt cũng nặng. Giao cho nhiều phải sinh lợi nhiều, được hưởng nhiều và trái lại.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp chúng con hiểu thấu Lời Chúa và biết áp dụng cho có lợi để được phần thưởng Nước Cha mà Cha đã vui lòng ban cho.
32. Các con hãy sẵn sàng- Lm. Nguyễn Tiến Huân
"Các con hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Lc 12, 40). Đó là lời Chúa Giêsu khuyên dạy và cảnh tỉnh chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Thiên Chúa như một ông chủ đã sắm sẵn cho chúng ta, những tôi tớ Người, một gia sản rất lớn mua bằng giá Máu Cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô: "Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12,32). Chúng ta sẽ hưởng gia tài đó hay sẽ bị mất: điều đó sẽ được định đoạt dứt khoát vào giờ chúng ta chết. Sự định đoạt này lại hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống lành thánh hay bê tha của chúng ta hãy lo làm việc lành phúc đức: hãy lo sắm cho mình những kho tàng trên trời", "hãy lo thắt lưng" hãy biết hy sinh chịu khó tuân giữ luật Chúa, "hãy cầm đèn sáng", hãy giơ cao ngọn nến Đức Tin ấy chiếu sáng và chỉ lối cho mọi hành động của cuộc sống. Sau hết, điều quan trọng nhất là hãy cứ sống như vậy trong tư thế sẵn sàng "chờ ngày Chúa đến" vì: "phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức... chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình" (Lc 12, 36-44). Cái hồi hộp, cái nguy cơ là chúng ta không biết "Chúa đến lúc nào?" Canh hai hay canh ba? vào giờ chúng ta không ngờ". Vậy luôn luôn phải sẵn sàng như sách Gương Phúc dạy: "Trong mọi hành động, mọi ý nghĩ bạn hãy xử sự như thể bạn sẽ chết hôm nay. Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không? Sáng thức dậy, bạn nên nghĩ, bạn sẽ không sống đến sáng mai. Vậy hãy sẵn sàng luôn, hãy sống thế nào để giờ chết khỏi đến lúc bạn chưa sẵn sàng. Hạnh phúc người luôn để giờ chết trước mặt và ngày dọn mình sẵn sàng luôn" (Gp 23)
Những chân lý ai trong chúng ta cũng đã biết và nó còn được chứng minh cụ thể bằng những cái chết bất ưng của nhiều người quanh chúng ta trên báo chí, trên tin tức TV hàng ngày. Bây giờ thì đến lượt chúng ta hãy nghĩ tới chính mình kẻo có thể là đã quá trễ.
Lạy Chúa, tuần này con quyết dành ít giây phút tối sớm để xét mình sẵn sàng như Chúa dạy chưa? và nếu chưa thì con phải làm gì để sẵn sàng?
33. Sống tỉnh thức – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người kể rằng: Nghe ai đó quảng cáo “nấm tróc ăn ngon lắm”, bạn tôi liền trổ tài đầu bếp. Trong ngày sinh nhật của mình, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon.
Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi.” Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy sắm sẵn cho mình một gia tài trên trời, là nơi không có mối mọt, không có trộm cắp. Gia tài đó được xây dựng trên việc lành phúc đức khi mà chúng ta biết cho đi. Cho đi tiền bạc, thời giờ để phục vụ, để yêu thương. Cuộc sống con người tựa như một quản gia của Thiên Chúa. Thiên Chúa rộng rãi ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành hồn xác, không phải để ta thoả mãn bản thân mà để ta có điều kiện phục vụ mọi người. Ngày Chúa đến. Chúa không hỏi gia tài Chúa ban còn hay mất mà Chúa hỏi chúng ta đã làm gì với nén bạc Chúa trao? Đã tiêu xài cho bản thân hay sinh lời cho Chúa?
Thế nhưng, khi nhìn vào cuộc sống hôm nay, người ta chỉ thấy bon chen, ích kỷ. Con người sống giành giật nhau, “cá lớn nuốt cá bé”. Cuộc sống như một chiến trường mà con người luôn phải tỉnh thức để chiến đấu, để tồn tại trong thế giới lắm thị phi. Con người dường như không có giờ để nghĩ tới đời sau vì cái ăn, cái mặc và cả cái tính đua đòi đã làm con người không còn thời giờ nghĩ tới đời sau. Con người bước vào trần thế như đang lâm vào một thế trận luôn phải chiến đấu để tồn tại, để thắng hơn người. Con người đã “tối mày tối mặt” bởi những chuyện trần gian mà quên tìm kiếm Nước Trời.
Con người sống như thể chỉ có đời này. Họ vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn cưới vợ gả chồng... Cuộc đời tưởng chừng chỉ đi loanh quanh trong vòng luẩn quẩn đấy đã dẫn dắt con người như lạc trong một mê hồn trận của danh lợi thú trần gian. Con người chỉ lo tích trữ tiền cho đời này mà quên còn phải tích đức cho đời sau. Con người nhiều khi dám đánh đổi cả mạng sống mình vì tiền nhưng họ lại ngại hy sinh, ngại tích đức cho đời sau!
Cuộc đời là phù vân. Nếu con người biết cuộc đời này chẳng là gì so với sự sống đời đời sẽ giúp con người biết dùng đời này để mua lấy đời sau. Chúa không bảo chúng ta bỏ đời này, chê ghét đời này, mà Chúa bảo chúng ta phải biết dùng đời này để tích góp sự sống đời sau. Đời nà sẽ qua đi nhưng chúng ta sẽ được gì ở đời sau? Hãy biết dùng đời này để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đừng vì mải mê trong danh lạc thú mà đi ngược đường về trời.
Xin cho chúng ta luôn biết tỉnh thức để chiến thắng những mê muội trần gian. Xin đừng vì những danh lợi thú mau qua mà đánh mất gia tài trên trời. Amen.
34. Chúa đang đi tìm ta, Người sẽ đến
(Suy niệm của Lm. Đỗ Bá Công)
Người ta kể rằng, khi thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương khó của Chúa Giêsu, và được nghe nói rằng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã trải qua cuộc khổ nạn ấy. Têrêxa đâm đầu chạy, cứ chạy mà không biết mình chạy đi đâu. Chạy được một quảng đường xa, thì gặp một cậu bé trai cùng tuổi chận lại. Cậu ấy hỏi Têrêxa:
- Cô đi tìm ai? Và cô là ai?
- Tôi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Và Têrêxa hỏi ngay lại rằng:
- Còn cậu, cậu là ai mà lại hỏi tên tôi?
- Ta là Giêsu Hài Đồng của Têrêxa.
Thì ra, khi Têrêxa đi tìm Chúa, chính Chúa lại đến tìm Têrêxa.
Cuộc đời của người tín hữu chúng ta là cuộc đời lên đường đến với Chúa. Thật vậy, ít nữa là trên nguyên tắc, thế nên:
1- Người tín hữu cần phải tìm kiếm Thiên Chúa.
2- Và phải ý thức rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ.
Chúng ta cần phải đi tìm kiếm Thiên Chúa: Cũng như Abraham trong bài đọc II và thánh nữ Têrêxa trong câu chuyện kể trên, họ đã lên đường “ra đi mà không biết mình đi đâu”, nhưng cả hai đều biết “vì ai mà mình đã ra đi”. Như thế, tương tự Abraham và Têrêxa, chúng ta biết, chúng ta đang đi tìm Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài vừa là một con người vừa là một vị Thiên Chúa, đến thế gian để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Không có Ngài thì không có ơn cứu rỗi.
Charles de Foucauld đã đi tìm Chúa trong sa mạc Sahara và qua những cuộc thám hiểm rừng núi ở Phi châu, một cuộc tìm kiếm khắc khoải và bồn chồn, nhưng những quanh cảnh bao la hùng vĩ ấy lại nói cho ngài có Thiên Chúa, và ngài quyết đi tìm, và ngài đã tìm được Chúa trong cảnh bao la hùng vĩ ấy. Và sự kiện ấy bắt đầu ngài phải dấn thân. Ngài đã thốt lên câu nói lịch sử đáng ghi nhớ: “Thà tôi không biết Thiên Chúa thì thôi, nhưng một khi tôi đã biết và tôi đã tin, tôi đã yêu, thì tôi không thể không sống cho Ngài.”
Bài Tin Mừng cho chúng ta hay: Người biết ý chủ mình mà không chịu làm theo ý chủ, thì khi gặp chủ, những người ấy phải bị trận đòn khủng khiếp. Còn những người không biết ý chủ mà làm những điều xằng bậy, khi chủ về sẽ lãnh những trận đòn ít thôi (x Lc 12: 47-48).
Đến đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm: chúng ta biết Chúa, chúng ta đã tìm Chúa và đã gặp Chúa. Gặp Ngài ta mới ngồi trước mặt Ngài đây. Nhưng thử hỏi chúng ta đã dấn thân chưa, như một Charles de Foucauld, một Têrêxa vừa mới nêu trên?
Thiên Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ: Đúng vậy, Thiên Chúa đang đi tìm ta. Chúng ta đừng tưởng Chúa ngồi một nơi nào đó rồi chờ đón chúng ta đến với Ngài. Không. Chính Ngài đã đi tìm chúng ta. Câu chuyện của thánh nữ Têrêxa trong phần mở đầu làm chứng điều ấy: “Chính Thiên Chúa đã kêu gọi Abraham, chính Thiên Chúa thúc giục Môisen, rồi chính Thiên Chúa đến với chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Lời của Ngài, tức là chính Ngài, vẫn đang trên đường đến với tâm hồn chúng ta”. Đành rằng lắm khi chúng ta đã dựng lên biết bao rào chắn ngăn cách, chẳng hạn những bận rộn, những nỗi lo âu, những chuyện lo lắng vu vơ, những thú vui luôn thay đổi, tiền tài danh vọng... Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm kiếm tâm hồn chúng ta. Ngài đến tìm chúng ta qua làn gió nhẹ, qua tiếng chuông chiều thánh thót, qua giọt sương mai, và có khi qua những tiếng gió bão bùng, như tiếng quở trách của chủ nhà về lúc đêm khuya trên các tôi tớ đắc tội. “Mỗi hoàn cảnh, mỗi cuộc gặp gỡ là mỗi dịp Chúa đến với chúng ta. Ngài đến với chúng ta mang theo những băn khoăn gieo vào lòng chúng ta, cùng với những đòi hỏi đặt ra cho chúng ta”. Vậy, chúng ta đi tìm Chúa qua những công trình vĩ đại Ngài làm chung quanh chúng ta, qua những biến cố tay Ngài tạo ra để cảnh tỉnh, đánh thức chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy nêu lên chính hình ảnh chúng ta trên con đường đi về nhà Chúa: đôi mắt chúng ta hãy nhìn thẳng trước mặt, đôi chân ta phải bước thoăn thoắt, và đôi tay ta, một bên ngả ra để đón nhận từng hồng ân phải đón nhận, và tay kia biết nắm lại để khước từ từng cám dỗ phải từ khước và vừa đi vừa tin vững chắc rằng từ phía bên kia Thiên Chúa đang đến đón ta.
35. Hãy sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Chúng tôi vừa tiễn đưa một cha già về nơi an nghỉ đời đời. Việc cha ra đi từ giã cõi đời nầy là một việc bình thường không ai tránh khỏi được.
Nhưng trước mắt những người chung quanh thì có người cho đây là một việc hết sức bất ngờ, vì mới tiếp xúc với cha trước đó chừng vài giờ, cha còn rất tỉnh, còn ngồi được, còn đi được, không có vẻ gì là yếu đuối. Đối với một số người hiểu biết hơn về căn bệnh của cha, thì dường như cũng không ngờ là nhanh đến thế. Còn đối với cha, dường như không có gì là bất ngờ, cha đã chuẩn bị xong tất cả những gì cần thiết, ngay cả những lời xin tha thứ. Đó là những gì thuộc khía cạnh con người với nhau mà cha còn chuẩn bị chu đáo đến thế. Tôi thiết nghĩ, cha chuẩn bị hết sức chu đáo cho đời sống vĩnh cửu, cho việc bước vào đời sống mới, đời sống của một công dân nước trời. Đối với cha, tất cả mọi việc đã sẵn sàng.
Các con hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ thì Con Người sẽ đến.
Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, nhắc mọi người luôn sẵn sàng chuẩn bị cho ngày trọng đại của cuộc đời. Các môn đệ ngỡ rằng, Chúa Giêsu chỉ nói những điều đó cho người đời, còn các ông thì ngoại lệ. Không, Ngài không bảo thế. Mỗi người có một trách nhiệm và Thiên Chúa đòi hỏi mọi người chu toàn trách nhiệm đã được trao phó một cách tốt đẹp. Trách nhiệm càng cao thì đòi hỏi càng nặng. Đã trao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn. Tất cả mọi người đều chuẩn bị, luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, nếu lơ đểnh thì hối tiếc không kiệp, vì không biết giờ nào, chủ sẽ đòi để trình bày về trách nhiệm đã được trao cho.
Nhìn vào trào lưu xã hội, mọi người đang tìm cái vĩnh cửu nơi cái bất toàn của cuộc sống trần gian nầy. Mọi người đang cố bám lấy những gì mà nó có thể rời khỏi tầm tay con người bất cứ giờ phút nào. Mọi người cũng dường như không bao giờ nghĩ đến cái chết, hay đúng hơn là không dám nghĩ đến nó.
Chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu, những môn đệ của thời đại mới, những người đã từng nghe từng biết rất nhiều về những lời giảng dạy, những việc làm của Ngài. Những người đã từng được chỉ dạy về nước trời. Chúng ta cũng từng tự hào, mình biết rất nhiều về đời sống đạo và cũng chỉ dạy rất nhiều người. Thế thì nghe lời Chúa ngày hôm nay, chúng ta có dám hỏi như Phêrô: Thầy nói những điều đó về chúng con hay về người khác. Nếu dám hỏi như thế, thì chúng ta cũng sẽ có câu trả lời để suy nghĩ.
Mỗi người nhìn vào đời sống của chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua và trong hiện tại:
Là một người công giáo, nhưng trách nhiệm đối Chúa, nhiều khi còn rất là lếu láo, chúng ta chỉ cho Chúa những thời gian dư thừa. Vậy mà trong thời gian dư thừa đó, chúng ta còn xén bớt, còn ăn gian Chúa nữa. Cứ nhìn xem, những lần đến nhà thờ, những lần đọc kinh, những lần làm việc đạo đức, chúng ta cảm thấy khó khăn và tìm mọi cách cho thoải mái hết sức có thể. Chúng ta tính toán với Chúa từng giây từng phút. Dường như nhà thờ là nơi để chúng ta tìm sự yên tịnh, để dể dàng tính toán cho công việc làm ăn tiếp sau đó. Như vậy trong một giờ ngồi trong nhà thờ, chúng ta để trọn vẹn cho Chúa được bao nhiêu?
Còn về cách sống của một người công giáo trong trách nhiệm ở đời, giữa người với người. Thiên Chúa đã đặt để mỗi người một hoàn cảnh. Trách nhiệm đó Ngài sẽ đòi mỗi người trả lời. Nếu giờ nầy Ngài đến, Ngài nhìn thấy gì nơi mỗi người? Ngài nhìn thấy những người quản lý trung thành của Ngài đang chu toàn trách nhiệm hết sức tốt đẹp, hay Ngài nhìn thấy họ đang tìm cách hưởng thụ cho sung sướng bản thân, mà làm khổ những người tôi tớ khác của Ngài. Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang kêu than vì bị chúng ta hành hạ cách này hay cách khác không? Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang phàn nàn vì chúng ta lôi thôi trong trách nhiệm của mình không? Thế thì chúng ta đã chuẩn bị ra đi như cha già đã ra đi trong tuần qua như thế nào?
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết luôn sẵn sàng chờ đón Chúa cách tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
36. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh
“HÃY THẮT LƯNG VÀ THẮP ĐÈN LÊN SẴN SÀNG”
Bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 12 cho Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh hôm nay chính thức chỉ có 5 câu, từ 35 đến 40. Tuy nhiên, nếu muốn, Giáo Hội cũng cho phép đọc bài Phúc Âm dài hơn, gồm 16 câu, từ câu 32 đến 48. Tất nhiên, ý tưởng chính của bài Phúc Âm sẽ nằm ở trong 5 câu buộc phải đọc cho Chúa Nhật hôm nay. Như tuần trước đã đề cập đến, ý nghĩa phụng vụ của bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh tuần này chính là lời Chúa Kitô khuyên dạy nằm ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Thế nhưng, “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì? Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? Thành phần nào cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
1. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì?
Trước hết, nếu để ý chúng ta thấy rằng, Chúa Giêsu không khuyên dạy chỉ “thắt lưng” hay chỉ “thắp đèn lên”, mà là cả hai, “thắt lưng” trước và “thắp đèn lên” sau. Vậy ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên này cũng liên quan đến cả thứ tự của lời khuyên nhất cử lưỡng động này. Theo tôi, một trong những ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” đây là “hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, như Người đã nói thẳng ra cho các môn đệ biết trong vườn Cây Dầu ngay trước giây phút Người tự trao nộp cho giáo quyền Do Thái, một lời nói đã được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 26 câu 41. Theo thứ tự “tỉnh thức” trước và “cầu nguyện” sau này, “tỉnh thức” là điều kiện tiên quyết và tối cần để có thể “cầu nguyện”, hay ngược lại, muốn “cầu nguyện” cần phải hoàn toàn “tỉnh thức”, bằng không, không thể nào cầu nguyện được, điển hình nhất là trường hợp của ba vị tông đồ thân cận của Chúa Giêsu, theo đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu trên đây thuật lại, buồn ngủ đến nỗi Vị Thày đang “buồn sầu đến nỗi chết được” của các vị đã phải lắc đầu than lên: “Các con không thể thức nổi với Thày dù chỉ một giờ đồng hồ hay sao?”. Thật thế, về phương diện thể lý, một khi con người ăn no thường dễ buồn ngủ và khó tỉnh táo thế nào, thì về phương diện tâm linh cũng vậy, một khi con người không “giữ mình khỏi mọi tham lam” theo lời Chúa Kitô khuyên dạy ở bài Phúc Âm tuần trước, nghĩa là chỉ biết sống hưởng thụ, họ cũng rất dễ bị mù tối như vậy, nhất là mù tối trước những cùng quẫn của anh em mình, như trường hợp Chúa Giêsu nêu lên ở dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 16, câu 19-20, một tình trạng mù tối về phương diện tâm linh đến nỗi, theo lời Chúa Giêsu diễn tả, “có một người ăn xin tên Lazarô mình đầy ghẻ lở nằm ngay trước cổng nhà mình” mà “nhà phú hộ ăn mặc lụa là và yến tiệc linh đình hằng ngày” cũng không hay biết gì cho đến khi cả hai qua đi. Giá người phú hộ này biết “thắt lưng” buộc bụng, nghĩa là biết “giữ mình khỏi mọi tham lam”, thì cây đèn đức tin đầy dầu đức cậy của ông đã sáng lên đức mến rồi vậy, nhờ việc ông biết “thắp đèn lên”, một tác động biểu hiệu cho đời sống liên lỉ “cầu nguyện” của ông,
2. Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”?
Lý do tại sao Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, theo cùng bài Phúc Âm cho biết đó là vì sự vắng mặt của chủ, ở chỗ, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm cho biết là “chủ đi ăn cưới”. Nếu vậy thì khi chủ có mặt thì chẳng lẽ những người trong nhà không phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” hay sao? Đúng thế, vì, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 15, khi trả lời cho các môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô khi họ hạch Người về vấn đề chay tịnh của môn đệ Người, chính Chúa Giêsu đã đích thân xác quyết rằng: “Làm sao các khách dự tiệc cưới lại ưu buồn trong khi chàng rể còn ở với họ chứ. Đến ngày nào chàng rể bị mang đi khỏi họ bấy giờ họ mới chay tịnh”. Chàng rễ đây là ai, nếu không phải là chính Chúa Giêsu, “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14). Tình trạng không cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” chẳng những ở vào thời gian Chúa Giêsu còn tại thế, mà cả vào thời điểm cánh chung nữa, như Sách Khải Huyền diễn tả ở đoạn 21 câu 23: “Thành không cần mặt trời hay mặt trăng, vì vinh quang của Thiên Chúa chiếu soi nó, và đèn của nó là Con Chiên”. Như thế, sau thời gian Chúa Giêsu không còn trên thế gian như “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm Người ở cùng Giáo Hội, “Tân Đô Giêrusalem là Thành Thánh từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống”, như Thánh Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền ở đoạn 21 câu 2, thì chính là thời gian vắng mặt chủ hay thời gian chủ đi vắng, do đó, cũng là thời gian Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Đó là lý do, để trả lời cho câu tông đồ Phêrô hỏi trong bài Phúc Âm hôm nay trong phần không buộc đọc: “Lạy Chúa, Chúa ám chỉ dụ ngôn này vào chúng con hay Thày có ý nói cho cả thế giới nữa”, Chúa Giêsu đã gợi ý để vị trưởng tông đồ tự nghĩ về bản thân của mình và chức phận của mình như sau: “Theo ý con thì ai là người quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình để phân phát phần lúa thóc cho họ”. Qua câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được thêm một ý nghĩa nữa về hành động “thắt lưng” và “thắp đèn lên” nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô là biểu hiệu cho thái độ của họ cần phải “trung thành” và “khôn ngoan”, một nhất cử lưỡng động liên quan đến chức phận “quản lý” là để phục vụ nhau, như những gì đã được chia sẻ ở cuối vấn đề thứ hai trên đây về dụ ngôn người phú hộ và Lazarô.
3. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
Nếu lý do cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” là vì chủ vắng nhà, thì mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động này là, như Chúa Giêsu đã rõ ràng nói đến trong bài Phúc Âm: “Để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nghĩa là, làm gì thì làm, lúc nào cũng thế, thành phần “quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình” đều làm với mục đích để sửa soạn mọi sự cho chủ, để trông mong chủ về. Ở đây chúng ta thấy có hai điều rất lạ như sau: thứ nhất là việc chủ mà không có chìa khóa để tự động mở cửa vô nhà của mình, đến nỗi cần phải gõ cửa để viên quản lý của mình mở cửa cho mới vô được; và thứ hai là việc chủ mà lại “thắt lưng, đặt họ vào bàn mà hầu hạ họ” khi “chủ về thấy họ còn tỉnh thức”.
Trước hết, cái lạ đầu tiên là việc chủ mà không có chìa khóa để có thể tự động vô nhà trong dụ ngôn này không phải là vì ông bỏ quên chìa khóa ở nhà, mà là vì ông đã hoàn toàn tin tưởng và tuyệt đối tín nhiệm thành phần “quản lý” của mình, đến nỗi, như Chúa Giêsu phán cùng tông đồ Phêrô trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 16 câu 19 như sau: “Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời. Những gì con tuyên bố cầm buộc dưới thế cũng bị cầm buộc trên trời; những gì con tuyên bố tháo cởi dưới đất cũng được tháo cởi trên trời”. Nếu dưới đất cầm buộc hay tháo cởi thì trên trời cũng cầm buộc hay tháo cởi như thế, thì không phải là chỉ có một quyền bính tối thượng, một chìa khóa duy nhất đã được trao vào tay vị đại diện của Người trên thế gian này sao? Và chiếc chìa khóa quyền linh này còn được các vị thừa tác viên thánh chức của Người dùng để mở cửa chuồng chiên là Chúa Kitô ra mà nuôi dưỡng chiên của Người (xem Jn 10:7, 9), bằng các phép bí tích Người lập.
Sau nữa, cái lạ thứ hai là việc chủ trở thành đầy tớ để hầu hạ thành phần gia nhân đã cố gắng tỉnh thức chờ ông về, không phải là vì ông cảm thấy nợ nần họ, ở chỗ, trong khi ông đi ăn cưới vui vẻ thì họ phải vất vả thay ông coi nhà, hay ông cần phải nịnh bợ họ, để lần sau họ tiếp tục giữ nhà cho ông một cách “trung thành” và “khôn ngoan”, kẻo ông bị thiệt hại cách nào. Trái lại, ông “thắt lưng” phục vụ họ hoàn toàn là vì yêu thương trọng kính họ và muốn họ cũng được dự phần làm chủ với ông, như Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ của Người trước Bữa Tiệc Ly trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 13, từ câu 3 đến câu 5: “Biết rằng mình đã từ Thiên Chúa mà đến và phải trở về cùng Thiên Chúa là Cha, Đấng đã trao ban mọi sự cho mình, Chúa Giêsu chỗi dậy khỏi bàn ăn và cởi áo choàng của mình ra. Người lấy tấm khăn quấn quanh mình. Đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn quấn bên mình mà lau chân cho họ”.
Như thế, mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động “thắt lưng” và “thắp đèn lên”, của thành phần môn đệ Chúa Kitô nói chung và của các vị thừa tác viên thay mặt Người nói riêng, còn là để nhờ đó họ được Người làm cho họ xứng đáng hiệp thông với Người, như Người dứt khoát với riêng tông đồ Phêrô trước khi rửa chân cho ngài: “Nếu Thày không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thày”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Ý nghĩa câu “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, như Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay, có thể được hiểu theo hai ý nghĩa: thứ nhất, đó là hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”, và thứ hai, đó là hãy “trung thành và khôn ngoan”. Tuy nhiên, dầu sao hai ý nghĩa thực hành này cũng mới chỉ là nguyên tắc hướng dẫn mà thôi. Tức là, Kitô hữu chúng ta phải làm sao biết áp dụng hai ý nghĩa của nguyên tắc hướng dẫn này vào đời sống hằng ngày của chúng ta nữa mới được. Chẳng hạn, là một người chồng và cha, hay là một người vợ và mẹ, hoặc là một người con và cháu, hay là một tu sĩ, giáo sĩ, hoặc là một sinh viên, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, cán sự xã hội, chuyên viên tâm lý v.v. chúng ta cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” như thế nào?
37. Làm giàu
Giả sử như bây giờ, có mấy chục ngàn đồng trong túi, tôi có thể rủ bè bạn vào tiệm ăn, làm một chầu nhậu. Giả sử như được cha mẹ để lại một số tiền lớn, tôi có thể mua nhà và mua xe, sắm TV và sắm tủ lạnh, để rồi sẽ sống một cuộc sống tiện nghi và an nhàn.
Chính vì thế, người xưa đã bảo:
- Có tiền mua tiên cũng được.
Còn ngày nay, người ta thường nói:
- Tiền là tiên là phật.
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Đúng thế, tiền bạc không phải chỉ mua được cơm ăn và áo mặc, mà trong rất nhiều trường hợp, nó còn mua được cả tình nghĩa và bè bạn, cả công lý và lẽ phải, cả danh vọng và địa vị, như tục ngữ cũng đã bảo:
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
- Hạt tiêu nó bé nó cay,
Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền.
- Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Bởi đó, thiên hạ thường ra sức tìm tiền kiếm bạc, ngày cũng như đêm, với ước mơ được giàu sang phú quí. Người thì tìm kiếm một cách chính đáng bằng sức lao động của mình. Kẻ thì tìm kiếm một cách bất chính bằng gian tham lừa đảo, chẳng hạn như ăn trộm, ăn cắp, ăn hối lộ…miễn sao vơ vét vào cho đầy cái túi tham của mình.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy làm giàu về phương diện vật chất, tuy cần thiết, nhưng lại không quan trọng, bởi vì đứng trước cái chết, tất cả chúng ta chỉ là những lữ khách cô đơn mà thôi, vì chúng ta không thể đem bất cứ của cải hay tiền bạc nào sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Vì thế, điều cần thiết đó là phải biết làm giàu về phương diện thiêng liêng, phải biết sắm sẵn cho mình một kho tàng, không bị ai cướp mất và có thể chuyển về đời sau.
Cách thức làm giàu về phương diện thiêng liêng, theo tôi nghĩ, không gì bằng là ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo túng. Sự giúp đỡ ấy có thể là tiền bạc vật chất, có thể là một lời nói ủi an, một ánh mắt khích lệ hay một nụ cười cảm thông. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể và phải làm được.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy đây cũng là điều kiện Chúa đòi buộc những người muốn bước theo Ngài:
- Con hãy về, bán hết tài sản, làm phúc bố thí cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Sở dĩ những hành động bác ái yêu thương có được một giá trị to lớn vì khi làm những hành động ấy cho người khác là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
Vào một ngày mùa đông giá rét, thánh Martinô, bấy giờ còn là một sĩ quan, thấy một người ăn xin đang run rẩy bên vệ đường. Xúc động trước cảnh tượng ấy, thánh nhân liền dừng ngựa và nói:
- Tiền bạc tôi không có.
Nói đoạn, thánh nhân tuốt gươm, xẻ dọc chiếc áo choàng ra làm hai và cho người ăn xin một nửa.
Ban đêm,trong một giấc mơ, thánh nhân thấy Chúa Giêsu hiện ra, mặc một nửa tấm áo choàng và ngỏ lời cám ơn thánh nhân.
Hẳn chúng ta còn nhớ về hoạt cảnh ngày phán xét, Chúa Giêsu đã nói với những người lành như sau:
- Hãy vào hưởng niềm hạnh phúc đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và rồi Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Bởi đó, ngay từ giờ chúng ta hãy ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì đó là cách thức chúng ta tích lũy cho mình một kho tàng quí giá chẳng hề mục nát, đó là cách thức chúng ta làm giàu về phương diện thiêng liêng trước mặt Chúa và đó cũng là cách thức chuyển tài sản của mình về đời sau.
Chúng ta nên nhớ rằng: những gì chúng ta tích lũy hôm nay thì ngày mai sẽ thuộc về người khác, những gì chúng ta mua sắm hôm nay thì ngày mai người khác sẽ hưởng dùng, chỉ những gì chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng ta mãi mãi mà thôi.
38. Tỉnh thức
Tin mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một vài nét đặc biệt về cuộc sống đức tin của người Kitô. Người Kitô là kẻ sống trên trần gian này, sống với và giữa những thực tại trần gian, nhưng với một tâm hồn tỉnh thức lúc nào cũng hướng về trời, về sự sống đời đời, bên kia cuộc sống trần gian tạm bợ này, vừa đồng thời dấn thân trọn vẹn, chu toàn những sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó cho.
Nữ tu Angelica, người hiện nổi tiếng trong dư luận Hoa Kỳ và Quốc Tế, vì đã thành công trong việc thiết lập hệ thống truyền thanh và truyền hình để phổ biến Lời Chúa. Một hôm, bất ngờ nữ tu gặp một luật sư giàu có, được hưởng mọi tiện nghi vật chất trên đời, có gia đình, con cái hoàn toàn sum họp và vị luật sư này khoe với nữ Angelica là không có gì trên đời này mà ông không hưởng được, nếu ông muốn, vì phương tiện vật chất, tiền của không bao giờ thiếu với ông. Nhưng nữ tu Angelica chỉ hỏi lại ông có một câu:
Ông có sống hạnh phúc hoàn toàn không?
Câu hỏi bất ngờ này đánh động đúng vào niềm thao thức sâu xa của ông, ông thú thật với nữ tu Angelica là tuy có đầy đủ mọi tiện nghi vật chất, nhưng ông không cảm thấy được an vui hạnh phúc thực sự trong tâm hồn, vì lúc nào tâm hồn ông cũng cảm thấy trống rỗng. Ông hỏi nữ tu Angelica bí quyết để sống hạnh phúc thật.
Câu trả lời của nữ tu Angelica cho vị luật sư giàu có này lặp lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa phải làm sao để được sống đời đời. Nữ tu Angelica khuyên ông ta: “Sống đừng chỉ nghĩ đến sự sống siêu việt thần thiêng, hãy nghĩ đến sự sống đời đời, hãy lo tích trữ cho mình những sự đời đời”.
“Con hãy về bán tất cả mọi gia tài con có, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Đó là bí quyết được Chúa Giêsu mạc khải cho chàng thanh niên giàu có, và cách nào đó không ngừng được thông truyền qua các thế hệ cho những người tin Chúa. Người Kitô sống đức tin của mình không nên chỉ nghĩ đến của cải vật chất trên trần gian, mà còn và nhất là phải nghĩ đến của cải thiêng liêng trên trời. Tâm hồn người Kitô sống giữa trần gian nhưng phải luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn hướng về trời, hướng về ngày Chúa đến gặp ta. Và để hướng về trời dễ dàng thì phải chấp nhận bán đi những của cải: “Của cải chúng con ở đâu thì lòng trí chúng con ở đó”.
Người Kitô hướng về trời nhưng không sống thụ động giữa những bổn phận trần gian. Sự tỉnh thức đợi chờ Thiên Chúa ngự đến không phải là cớ để người Kitô, để người đồ đệ của Chúa ngồi không, sống một cách thụ động. Cần phải có một thái độ chờ đợi tích cực với hết sức dấn thân, chu toàn công việc mà Thiên Chúa muốn chúng ta chu toàn trên trần gian này, như những người tôi tớ được Chúa Giêsu kể lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
Trong khi chờ đợi chủ mình về, những người tôi tớ đó phải chu toàn những bổn phận được chủ trao phó cho. Những người tôi tớ trong dụ ngôn chờ đợi ông chủ về trong tư thế làm việc, ăn mặc gọn ghẽ, cầm đèn cháy sáng trong tay. Họ chờ đợi trong khi chu toàn việc bổn phận họ phải làm, chứ không ở trong tư thế ngủ để mà chờ.
Chi tiết cầm đèn cháy sáng trong tay nhắc chúng ta nhớ đến dụ ngôn Chúa Giêsu nói về các cô khờ dại và các cô khôn ngoan. Các cô khôn ngoan đến với Chúa Giêsu với đèn cháy sáng trên tay, với những công việc tốt lành đã thực hiện. Các đầy tớ đợi chờ chủ về với đèn cháy sáng trong tay, với những công việc chu toàn đúng theo ý chủ. Người Kitô chúng ta cũng phải chờ đợi Chúa đến với những công việc tốt lành để phục vụ cho những nhu cầu của anh chị em xung quanh
Hơn nữa, một khi có tâm hồn luôn hướng về trời, hướng về Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải sử dụng những của cải trần gian Thiên Chúa ban cho như thế nào để phục vụ anh chị em, để chờ đợi Chúa đến. Ai có thể tin rằng, chúng ta sống hướng tâm hồn về Chúa, chờ đợi Chúa đến, nếu chúng ta ngày đêm chỉ lo nghĩ đến của cải, chỉ bám víu với những của cải vật chất và đóng kín tâm hồn trước những người anh chị em cần được trợ giúp.
39. Các con hãy sẵn sàng – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Tin Mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần trước chúng ta được nghe Chúa Giêsu nhắc nhở là đừng quá lo lắng thu tích của cải vật chất, nhưng phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Bài tin mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần này Chúa Giêsu lại nói đến “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”. Xem ra Chúa Giêsu cho chúng ta đi dần đến viễn cảnh đích thực của đời sống Kitô hữu, đó là Nước Trời vĩnh cửu mai sau.
Mặc dầu đời này là cuộc lữ hành để ta tiến đến nước trời vĩnh cửu đó, nhưng là một cuộc đời đã được chúc phúc và đầy ân sủng. Vì đã được Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đến ở cùng chúng ta và đồng hành với chúng ta, một cuộc đời đẹp đẽ biết bao, đáng sống biết bao. Tuy nhiên, nó chỉ là cuộc lữ hành, chúng ta cần phải nhắm tới phía trước và thẳng tiến.
Tỉnh thức và sẵn sàng, đó là thái độ tích cực để mỗi người hoàn tất cái hiện tại tiến đến tương lai trong bình an. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay vừa nói đến giờ Chúa đến bất ngờ, vừa nói sự thưởng phạt công minh. Ai cũng thấy ngờ ngợ lo lắng và chúng ta cũng có ít là một lần kinh nghiệm bàng hoàng khi nghe tin một người thân qua đời đột ngột
Tôi cũng vậy, cách đây khoảng một tháng tôi nghe tin người quen đã từng lái xe chở tôi đi đây đó đã bị bắn chết mới 24 tuổi; thật không ngờ. Cách đây hai tuần, một em theo mẹ đi lễ, tung tăng vui vẻ cuối nhà thờ, gặp tôi em còn lễ phép cúi chào, vậy mà tối về đã trượt cầu thang, té từ trên lầu xuống, bị chấn thương sọ não và đã chết trên đường đến bệnh viện cấp cứu, em mới có 5 tuổi; thật không ngờ. Và cách đây mấy ngày, một cha già mới viết thư cho tôi vào lễ thánh Đaminh (mồng 8 tháng 8) thì ngày hôm sau (9.8) tôi đã nghe tin ngài qua đời đột ngột vì một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 74 tuổi; thật không ngờ.
Những cái không ngờ đó giúp chúng ta sống tỉnh thức hơn, nhưng cuộc sống của chúng ta không phải là bi quan, thụ động để ngồi chờ cái chết. Chắc chắn không ai muốn điều đó, nhưng cũng không phải vô tư để hưởng thụ cho tận kiệt cái sống đời này, mặc kệ tương lai.
Trái lại, chúng ta ý thức cuộc sống là một hồng ân Chúa ban, nên nó thật quí giá, thật đáng sống. Vì thế chúng ta sống và hưởng dùng như một người quản lý trung tín và khôn ngoan. Chúng ta sống trọn ý nghĩa đời này là một con người, con người Kitô hữu có niềm tin và hy vọng.
Lời của một bài hát nào đó cách đây 20 năm mà bất cứ một người trẻ thanh niên xung phong nào cũng biết, đó là: “Đời ta chỉ sống có một lần thôi, cho nên cuộc sống quí giá vô cùng. Phải sống sao cho xứng để chết đi không còn oán than gì. Chỉ thấy sung sướng khi đời mình cống hiến cho anh em”. Lời nhạc đã nói lên một thái độ biết sống, sống tích cực và sống khôn ngoan.
Tỉnh thức và sẵn sàng mà bài tin Mừng đề cập đã được làm rõ nghĩa khi bài đọc I sách Khôn Ngoan nói đến đến mà Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với dân Do Thái. Và càng làm rõ nghĩa hơn nữa trong bài đọc II thư Do Thái khi nói một kinh nghiệm hành trình đức tin của tổ phụ Abraham, đó cũng chính là cuộc hành trình của một đời chúng ta đang sống hiện tại và đang tiến về tương lại.
Cuộc hành trình trong đức tin Kitô hữu, một hành trình mà mỗi người chúng ta đang tiến về, nhưng đức tin sẽ không cứu sống chúng ta, nếu chúng ta không sống đức tin đó. Thánh Giacôbê đã chứng minh điều này trong thơ của ngài khi nói đến đức tin phải có hành động, nếu không chỉ là đức tin chết và ngài còn nói rõ chính tổ phụ Abraham đã trở nên công chính là vì đức tin của ông có hành động. Vì thế, nhờ Đức tin cho phép chúng ta sống tích cực hơn, sống yêu đời hơn, đồng thời cũng nhờ đức tin chúng ta sống có hy vọng hơn vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Chính đức tin đó mà giờ đây mỗi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng.
40. Đèn sáng trong tay – G. Nguyễn Cao Luật.
Thiên Chúa và người ăn trộm
Thời đại ngày nay đang sống trong nỗi ám ảnh về những tên ăn trộm. Sự bất an làm gia tăng nỗi sợ hãi. Lúc nào người ta cũng phải đề phòng, phải cảnh giác trước những bất ngờ có thể xảy đến, những bất ngờ gây ra những mất mát, những thiệt hại. Báo chí vẫn nhan nhản những tin như thế. Đề phòng rất cẩn thận, mà vẫn có những bất ngờ. Chỉ sơ hở một chút, đã phải gánh lấy những hậu quả đau lòng.
Vậy mà Đức Giêsu tự đồng hoá với tên trộm. Người muốn lấy của chúng ta cái gì? hay Người muốn bắt chộp lấy chúng ta?
Có thể nói, Chúa của chúng ta cũng giống như người ăn trộm. Chúng ta không thể đóng khung Đức Ki-tô trong một hình ảnh nhất định với đầy đủ tiện nghi. Đức Ki-tô không phải là người mà chúng ta có thể nhận ra ngay tức khắc, không chút lầm lẫn. Người không đến trên chiếc xe lộng lẫy với trống kèn thổi vang. Người là ông chủ của vương quốc đã trao phó của cải cho các đầy tớ, nhưng cũng là ông chủ yêu mến những ai trông đợi Người; Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để hiến mình, để phục vụ và làm cho người khác được vui mừng.
Chúa của ánh sáng không chỉ là Đấng chiếu soi, Đấng rạng ngời vào buổi sáng Phục Sinh, Người cũng là Chúa của những cuộc gặp gỡ âm thầm, những bước đi êm dịu, bất ngờ, những cuộc trượt dài trong đêm tối đầy nghi ngờ và sợ hãi. Người không phải là vị Thiên Chúa muốn áp đặt, nhưng là Đấng đến gõ cửa căn nhà ít chờ đợi, vào lúc bất ngờ nhất.
Tỉnh thức suốt cả đời
Trước một vị Thiên Chúa như thế, trước những điều không ngờ, người ta sẽ làm gì? Đức Giêsu nhắn nhủ là phải tỉnh thức, phải sẵn sàng. Nhưng tỉnh thức theo tinh thần của bài Tin Mừng là gì? Chắc chắn không phải là "không được ngủ". Vẫn có những đêm không ngủ, nhưng là để làm một điều gì khác, có thể là để vui chơi, có thể là làm việc... Những đêm đó đâu phải là tỉnh thức. Điều Chúa muốn nói chính là một thái độ, một tình trạng tỉnh thức, nghĩa là luôn biết cảnh giác trước mọi biến chuyển, biết nhận ra các dấu chỉ, và nhất là, biết đọc, biết lý giải ý nghĩa, thông điệp do các dấu chỉ ấy đem lại.
Trong xã hội, người ta hơn nhau ở chỗ có nhiều kinh nghiệm trường đời. Một nhà kinh doanh biết phải ứng phó ra sao trước một tình thế có lợi hay bất lợi cho công cuộc làm ăn. Một nhà chính trị cũng cần quyết định sao cho phù hợp với các chuyển biến của thế giới. Tỉnh táo, sáng suốt, chuẩn xác, nhẫn nại, đó là bí quyết thành công; ngược lại, là những hậu quả thê thảm, thân bại danh liệt.
Còn hơn cả người làm kinh tế, làm chính trị. Ki-tô hữu có trách nhiệm đối với sự sống còn, với hạnh phúc mai sau của mình. Giá trị đó không gì sánh được hay thay thế được. Bởi vậy họ phải luôn cảnh giác, tỉnh thức.
Trước hết, họ phải tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện đầy sinh động của Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống. Người Ki-tô hữu tỉnh thức không phải chỉ để đợi chờ Thiên Chúa vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng là nhận ra Người vẫn đang đến, vẫn hoạt động, vẫn cứu độ trong từng giây phút, từng biến cố. Người Ki-tô hữu tỉnh thức là người đọc được ý nghĩa của biến cố, của sự việc; họ coi đó là những dấu chỉ về sự hiện diện sâu xa của Thiên Chúa; họ coi đó là bề mặt của một bề sâu rất dầy, rất thâm trầm, và họ hiểu được chiều sâu ấy (ít ra là một phần nào). Như thế, trước mắt người Ki-tô hữu, bất cứ điều gì cũng cho thấy những ý nghĩa lớn lao, những chiều kích sâu xa, bởi vì họ nhìn những điều đó bằng con mắt đức tin, bằng ánh mắt đợi chờ, bằng tấm lòng sẵn sàng.
Đàng khác, người Ki-tô hữu tỉnh thức để khỏi tìm cách an phận thủ thường trong cuộc đời này, trong những cảnh giàu sang, thừa mứa vật chất, bởi vì khi tìm những thứ đó, họ đã vô tình đặt lòng mình trên một thứ nền tảng không vững chắc. Những thứ ấy chỉ là cát bụi, sẽ bị trôi giạt khi có mưa giông, nước lũ. Phải cảnh giác để không dễ dàng bị mê hoặc, bị ru ngủ vì những hứa hẹn của các giá trị phàm tục; sức mạnh của khoa học kỹ thuật và ngay cả những thành công, những kết quả trong công tác mục vụ tông đổ. Đó là những cơn cám dỗ khủng khiếp có nguy cơ làm cho con người đặt hết tin tưởng, hy vọng và yêu mến vào đó, thay vì vào một Đấng Cao Cả đã sáng tạo và bảo vệ những thành quả ấy.
Người Ki-tô hữu phải tỉnh thức, không phải chỉ vì mạng sống của mình, nhưng còn vì sự sống của cả nhân loại. Họ phải bén nhạy để phát hiện ra những mưu mô, hầu tránh cho mình và cho xã hội loài người thảm hoạ "thờ bò vàng kiểu mới". Họ phải nhìn thấy trước và loan báo cho nhân loại những hiểm hoạ đang đe doạ, đang rình rập, và nhất là họ phải bày tỏ cho nhân loại sự có mặt cách vô hình của ông chủ đầy quyền năng và yêu thương. Họ phải dũng cảm nêu gương sáng của người tôi trung, lúc nào cũng tỉnh thức chờ đợi chủ về, để bất cứ giây phút nào, vừa nghe tiếng chủ gọi, họ mau mắn mở rộng cửa đón Người.
Nói cách khác, Ki-tô hữu phải là con chiên có mắt sáng, có tai thính, không vì hám ăn hám sống mà mất cảnh giác với thú dữ, với các hiểm hoạ chung quanh có thể bất ngờ xảy ra, và nhất là không bao giờ rời mắt theo dõi bóng dáng của Mục Tử kính yêu, luôn bước đi trên đường của Người, và không bao giờ làm ngơ trước tiếng Người kêu gọi, để nhanh chân chạy đến với Người, bất chấp mọi thử thách, mọi cản trở.
Tỉnh thức và chờ đợi
Tỉnh thức đi liền với chờ đợi. Ý tưởng chờ đợi gợi lên hình ảnh một người không làm gì cả, hết đứng lại ngồi, đi qua đi lại, mong sao người hẹn mình, hoặc giờ hẹn mau đến. Tâm trạng bổn chổn làm cho người ta không thực hiện được một công việc nào.
Thực ra, trong Ki-tô giáo, chờ đợi không có nghĩa là ngổi yên, là trông mong, nhưng hoàn toàn có ý nghĩa tích cực. Đang khi chờ đợi ông chủ của mình, người Ki-tô hữu vẫn hăng say làm việc, họ "thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Họ làm tất cả những gì có thể làm được để cho cuộc trở về được tốt đẹp, và hơn nữa, còn làm cho ngày ấy mau đến. Chính trong khi làm việc, họ nhận ra những dấu hiệu của ông chủ, họ thấy Người đang trở về. Thiên Chúa không xuất hiện với những con người không biết kiếm tìm, không biết chuẩn bị, bởi vì cuộc xuất hiện của Người không theo cách thế của loài người, và có khi, Người xuất hiện mà người ta không biết, vì thiếu chuẩn bị, thiếu để ý.
Người Ki-tô hữu là tôi tớ: họ không chờ đón Thiên Chúa theo cách thế, theo suy nghĩ của mình, nhưng là theo cách thế của ông chủ, chuẩn bị những gì chủ mong muốn. Điều đó thực là khó khăn với con người, vì họ phải vượt ra khỏi chính mình để đón tiếp Thiên Chúa theo cách thế Người mong muốn. Người ta không thể bắt Thiên Chúa theo những chương trình của mình, nhưng là sẵn sàng để bước đi theo Thiên Chúa, là mở rộng tâm hổn đón luổng gió tình yêu. Đó mới thực là tỉnh thức và chờ đợi.
Tỉnh thức và kho tàng
Theo những dụ ngôn của Tin Mừng, ông chủ ra đi và trao lại cho đầy tớ những nén bạc để sinh lợi. Đến khi chủ trở về, ai sinh lợi thêm sẽ được thưởng, còn người đem cất những nén bạc rổi trao lại y nguyên, sẽ bị phạt. Người tỉnh thức và chờ đợi đúng cách nhất là sử dụng những gì mình đang nắm giữ để sinh lợi nhiều hơn. Đành rằng "kho tàng ở đâu thì lòng ở đấy", nhưng nếu chỉ ngổi đó mà canh chừng thì nào có ích gì. Kho tàng là kết quả của một thời gian làm việc; có thể là tiền bạc, có thể là kiến thức... Bảo vệ ư? Đóng kín để khỏi mất mát ư? Những điều ấy chẳng giúp ích gì cả. Đó là một kho tàng, một vốn chết vì không được luân chuyển, không nuôi dưỡng sự sống. Phải bỏ nhiều công sức để tạo được một kho tàng, nhưng còn phải bỏ nhiều công sức hơn nữa để làm cho kho tàng ấy được phát triển thêm.
Một khi kho tàng được luân chuyển, nó sẽ làm tăng thêm của cải, cho mình và cho mọi người; nó sẽ tạo nên sự hiệp thông, sẽ lưu truyền sự sống. Hình ảnh dễ thấy nhất là trái tim: Máu được chuyển về tim để rồi lại từ tim đi ra, làm cho cơ thể sống động. Nếu máu chỉ ở tim mà không đi ra, các chi thể không còn hoạt động, con người sẽ chết.
Như thế, khi sự sống được lan truyền, chẳng có gì đáng sợ. Những người nào thực sự hiệp thông và trao đỗi, chẳng những đã tạo cho mình một kho tàng vững chắc, nhưng hơn thế, họ chẳng lo sợ gì khi Chúa đến bất ngờ. Họ sẽ sẵn sàng để Chúa nhập cuộc: Người không đến để tính sổ, nhưng là để chia sẻ với người có tinh thần hiệp thông và phục vụ. Ngược lại, ai không có tinh thần này, thì sự xuất hiện của Chúa rõ ràng là một tai hoạ, một cuộc đánh cắp, một cuộc phá vỡ.
Thiên Chúa đã đến, sẽ đến và đang đến. Đối với người không tỉnh thức, thì sự xuất hiện của Người thật là bất ngờ, và cũng thật đáng sợ. Còn đối với chúng ta, những người "cầm đèn sáng trong tay", thì sự xuất hiện của Người là một niềm vui mừng lớn lao, vì chúng ta vẫn chờ đợi, và Người chính là kho tàng của chúng ta, chúng ta sẵn sàng đánh đỗi tất cả để có được sự hiện diện của Người.
* * *
Hãy kêu lên Chúa vào ban đêm,
để đến bình minh, Người đánh thức bạn dậy.
hãy kêu lên Thiên Chúa như kẻ đang giao chiến trong đêm tối,
để Đấng-không-bao-giờ-biết-sợ
sẽ đặt tay của Người trên bạn,
xoá tan mọi âu lo.
Như một người điên dại, hãy kêu lên Thiên Chúa,
bởi vì những "điều điên cuồng" của Người,
sẽ đưa tới Khôn Ngoan.
Hãy kêu lên Thiên Chúa, hãy xé toang bộ mặt của bạn,
để sự Trong Sáng Vĩnh Cửu được lộ ra.
Nhưng bạn đừng ngỡ ngàng,
khi giấc ngủ
chỉ đưa bạn đến Sự Thật.
theo F. Cockenpot.
41. Vĩnh cửu
“Hãy nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà thôi”.
Nhà thơ Du Tử Lê đã suy tư về một chân lý ngàn đời vẫn tái diễn chung quanh chúng ta, đó là một chân lý về thân phận tro bụi của con người, mọi người cùng có một mẫu số chung: có sinh có tử, tro bụi trở về tro bụi. Và trong Tin Mừng hôm nay thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta chuẩn bị, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến đưa vào sự sống vĩnh cửu.
Có thể nói với các bạn đầu tư cho một tương lai sau cái chết khi tuổi các bạn còn trẻ, sức khỏe tràn đầy, có lẽ các bạn cho rằng: nói chuyện không thực tế, sao không đầu tư cuộc sống này để được hạnh phúc, được giầu có, được danh vọng… mà lại đầu tư cho vĩnh cửu xa vời.
Vâng, cuộc sống hiện tại lo cho cuộc sống hiện tại là điều dĩ nhiên, thế nhưng các bạn vẫn biết cuộc sống này không bền lâu, như ngay sự sống con người, ai cũng luôn chăm sóc, bảo vệ cho mình, thậm chí dùng cả gia tài để đổi lấy mạng sống. Vậy mà, con người rồi ai cũng phải chết, chết một cách bất ngờ, huống chi vật chất, một đời ta ba đời nó. “Rồi sẽ có một ngày giã từ cuộc sống, nhan sắc là gì, danh vọng, tiền tài là chi, sẽ lấy được gì ngoài chiếc sọ khô”.
Ngay trong cuộc sống, khi nói đến cái chết ai cũng sợ hãi, không thích ai hăm dọa mình phải chết. Một bệnh nhân đứng trước cơn bệnh nguy hiểm đến tánh mạng, thì họ luôn lo lắng, cầu xin cho được gặp được thầy gặp thuốc, chạy đến bác sĩ này bác sĩ nọ mong cho thoát cái chết. Ngay cả chúng ta đây ngày nào cũng trau chuốt sắc đẹp để mong trẻ đẹp mãi, hay khi phát hiện trên đầu có vài cọng tóc bạc thì lo lắng, than rằng tôi già rồi. Đó là cái gì? Có phải khi nói đến già là xấu đi, già là sẽ chết phải không? Đó chính là các bạn đang mong muốn cho mình sự vĩnh cửu, sống mãi trường sinh bất tử. Vậy sự sống vĩnh cửu luôn có giá trị, và nó là niềm hạnh phúc, là điều các bạn mong ước.
Nếu các bạn hay tất cả mọi người ai cũng nghiêm chỉnh tự đặt cho mình những câu hỏi: Con người bởi đâu mà có? Con người sống đạo đức, thánh thiện,… ở đời này để làm gì? Đâu là hạnh phúc đích thực mà con người luôn khao khát tìm kiếm? Rồi tại sao những người giàu có họ cũng phải khóc? Và cuối cùng con người sẽ đi về đâu sau cái chết? Thì chắc chắn rằng ai cũng đặt niềm tin vào sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa vào Chúa Giêsu, và sẵn sàng tích lũy kho tàng trên trời để chờ đợi ngày Chúa đến. Như Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống một tình yêu thương phục vụ tha nhân, luôn đem hạnh phúc cho những con người nghèo, con người bất hạnh, và mẹ đã được hàng ngàn trái tim bạn trẻ trên toàn thế giới yêu mến, và xem mẹ là một bậc vĩ nhân, một vị thánh sống.
Chính vì thế, Kitô hữu chúng ta tin rằng chết không phải là một dấu chấm hết, nhưng là một cuộc đi đường xa nay trở về với mái ấm gia đình, nơi đây được bình an, thoải mái, hạnh phúc, không có cô đơn, không có thăng trầm của thời gian, mà chỉ có yêu thương, một tình yêu mạnh hơn sự chết, mà chính Thiên Chúa là Cha đã ban cho chúng ta tình yêu này, và đồng thời tình yêu này làm người chết được sống lại và sống lại với Ngài ở trên trời. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Hỡi các bạn trẻ, đừng sợ, vì Cha các bạn đã vui lòng ban Nước Trời cho các bạn”; như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với cô marta nhân cái chết của Lagiarô: “Chính Thầy là sự sống lại; ai tin vào Thầy dù đã chết cũng được sống lại”. Và Tin Mừng thánh Gioan cũng cho chúng ta thấy Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại sau ba ngày đã chết, để cho chúng ta hiểu rằng Ngài là ai đối với con người và Ngài có được điều quí giá nhất mà con người mơ ước: đó là sự sống, sự sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin ở đây là một sự kiện hết sức nghiêm chỉnh, hết sức quan trọng, vì niềm tin là điểm tựa cho đời sống các bạn, là nền tảng vững chắc cho đầu tư vào vĩnh cửu.
Thật vậy, không có thành công nào mà lại thiếu hay chẳng có niềm tin, cũng như: học sinh, sinh viên muốn mình học giỏi thi đậu mà lại không đặt niềm tin thầy cô của mình, hay một bệnh nhân muốn hết bệnh thì phải theo sự hướng dẫn của bác sĩ, hay trong bài đọc I sách Khởi Nguyên – cho chúng ta thấy dân Do thái đặt niềm tin vào Giavê Thiên Chúa cứu họ khỏi vòng nô lệ Ai cập, và Giavê Thiên Chúa đã giải phóng cho họ khỏi ách nô lệ trong đêm vượt qua; và bài đọc II cho thấy ông Nôe thoát chết trong trận Đại Hồng thủy, vì ông có niềm tin, và lòng kính sợ Thiên Chúa.
Vẫn biết cuộc sống vĩnh cửu có giá trị. Vậy mà vẫn có một số bạn trẻ Kitô hữu đang sống trong xã hội ngày nay vì miếng cơm manh áo họ có thể chà đạp phẩm giá của mình, có thể tối mặt, chối bỏ luân thường đạo lý, dám làm tất cả dù trái lương tâm mình, và họ chối bỏ cả giáo lý của Chúa: công bằng, bác ái, yêu thương, không còn biết quên mình để nâng đỡ, chia sẻ cho những ai đang sống trong túng thiếu, nghèo khó, đang sống trong đau khổ của bệnh tật. Còn khi không thành công được trong tìm kiếm miếng cơm manh áo, thì họ xem đó như là một định mệnh của Thiên Chúa giáng xuống trên đầu họ, họ oán trách Thiên Chúa, và như thế họ chấp nhận sống trong bóng tối của tội lỗi, trong tuyệt vọng.
Còn một số bạn khác cho rằng tôi còn trẻ, đời còn dài thôi hưởng thụ cái đã, kẻo phải hoang phí tuổi trẻ, mai mốt về già ăn chay cầu nguyện cũng còn kịp chán, người trộm lành còn hốt được nước trời vào phút chót huống chi là tôi.
Những suy nghĩ này trong Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu đã quở trách: “Đồ ngốc nội đêm nay người ta sẽ lấy mạng ngươi”. Và chắc hẳn các bạn từng nghe, từng chứng kiến những cái của người già người trẻ, giàu nghèo, hiền ác, cái chết đã không buông tha ai như có câu thơ: “Lá vàng đeo đẳng trên cây. Lá xanh rụng xuống trời chăng hay trời”. Cái chết đến thật bất ngờ. Niềm tin như thế có đầu tư được cái gì cho vĩnh cửu hay không?
Trong kinh doanh người ta thường nói đầu tư càng nhiều thì thu lợi nhuận càng nhiều, và thánh Phaolô cũng đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Chính vì thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức dùng cuộc sống đời này làm vốn đầu tư cho vĩnh cửu: “Hãy bán của cải của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy kho tàng trên trời”, đồng thời: “Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để biết nhạy cảm nhanh lẹ, sang suốt khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho cuộc sống chúng ta, để chúng ta can đảm, nghị lực để khi mưu cầu chén cơm manh áo, chúng ta có đủ khả năng biết khước từ mọi hành động bất chính, mọi sự lừa đảo gian trá, vượt qua những cám dỗ tình thương của con người, từ đó biết vươn lên khỏi miếng cơm manh áo: đó là tình thương, lòng bác ái, khoan dung, tha thứ phục vụ người khác.
Nhờ đó chúng ta mới có thể chôn vùi những sự ích kỷ, nhỏ nhen, mở rộng trái tim với đôi bàn tay, để chia sẻ với mọi người, nhất là những người đau khổ vì miếng cơm manh áo…, chúng ta xem đó như là một cuộc tập dượt, luyện tập để dành được kho tàng Nước trời. “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ”. Như abraham trong bài đọc II, Thánh Phaolô xem là tấm gương: Abraham tin vào lời hứa của Thiên Chúa ban cho ông một vùng đất chảy đầy mật, sữa, và một dòng dõi tuyển chọn đông như sao trên trời, mà ông dấn thân nhập cuộc với Thiên Chúa là từ bỏ cuộc sống sung sướng ở quê hương, sống tình trạng bấp bênh đi tìm đất hứa, và dâng hiến cho Chúa người con duy nhất khi tuổi ông và vợ ông đã già, mặc dù Chúa chỉ thử lòng ông, và như người đầy tớ trung tín trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc đến.
42. Tỉnh thức
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, không vì mắt chủ mà vì trách nhiệm, Ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng. Thái độ của ông thực là thái độ Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có khi làm việc cho Ngài. Trong huấn dụ về sự tỉnh thức Chúa đã dạy chúng ta trong bài Tin Mừng: “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Nếu canh hai canh ba chủ trở về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho các đầy tớ ấy”.
Lời dạy của Chúa chúng ta đã nghe nhiều, nghe đi nghe lại, nhưng có lẽ nó chưa rơi vào óc, chưa thấm vào tim chúng ta. Chúa bảo chúng ta cầm đèn cháy sáng, nhưng đèn chúng ta lại không dầu, chúng ta lại ngủ vùi trong đam mê. Chúa bảo chúng ta đợi Ngài, nhưng chúng ta lại đợi những gì khác Ngài… Vậy nếu canh hai canh ba Ngài về thì phúc cho chúng ta hay họa cho chúng ta? Linh hồn và thân xác chúng ta là tòa lâu đài Chúa trao, vườn hoa chính là nhân đức Chúa đã gieo trồng, rồi ủy thác cho chúng ta chăm sóc. Hôm nay nhìn lại, tòa lâu đài còn xứng đáng với danh xưng của nó hay đã biến thành nhà hoang, nhà điếm hoặc hang trộm cướp? Vườn hoa nhân đức giờ này còn khởi sắc hay chỉ phơi bày sự úa tàn? Trong hoàn cảnh này, nếu Chúa trở về, Ngài sẽ buồn hay vui? Vui buồn của Ngài cũng là quyết định cho khổ đau hay hạnh phúc của chúng ta.
Suy nghĩ và nhận ra những thiếu sót của mình, chúng ta hãy tức thời tu sửa. Thời gian của vũ trụ thì con dài, nhưng thời gian của đời mình thì thật ngắn ngủi. Sự chấm dứt chẳng biết lúc nào. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Ông Lã Phụng Tiên kể một câu chuyện ngụ ngôn: có một cụ già kia đang cuốc đất trồng cây, có ba chàng thanh niên tình cờ đi qua, thấy vậy các cậu nói: “Cụ ơi, cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây. Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa”. Cụ già vui vẻ ân cần trả lời: “Chắc gì lão chết trước. Chắc gì các cháu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rày có phân biệt trẻ hay già đâu. Trẻ hay già có khác chi nhau về phương diện đó. Các cháu cứ lo làm cho đàng hoàng công việc của các cháu đi”. Một thời gian sau, cụ già lần lượt được tin ba chàng thanh niên, vì công việc đều chết cả: người thì chết vì tai nạn xe hơi, người thì chết trận, người thì bị đắm tàu trong một chuyến kinh doanh. Cụ già được tin buồn, khóc thương ba chàng trai trẻ đó.
Giả sử chúng ta cho là mình còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn lâu mới chết cũng được đi. Nhưng Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải quan tâm và chấp hành nghiêm chỉnh. Tỉnh thức không phải là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tránh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hàng ngày, vẫn liên đới với mọi người… sống và làm việc cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng là chúng ta đang sống thế nào? Đang tỉnh thức hay ngủ mê? Nếu chúng ta đang sống tốt đẹp, chúng ta cứ vui sống. Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm, một số trẻ em đang vui chơi, một giáo sư đi tới hỏi các em: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các con sẽ làm gì?”. Nghe hỏi thế, em thì nói: “Con vào nhà thờ cầu nguyện”. Em khác thưa: “Con đi xưng tội”. Có một em hồn hiên trả lời: “Phần con vẫn vui chơi như thường”. Vị giáo sư hỏi: “Tại sao con lại vui chơi như thường?”. Em trả lời: “Vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có gì phải lo sợ”. Em bé đó chính là thánh trẻ Bec-man.
Khi đời chúng ta luôn sẵn sàng, khi lương tâm chúng ta không trách cứ chúng ta điều gì, khi mọi nợ nần của chúng ta với Chúa và anh em đều sòng phẳng, chúng ta không có gì phải lo sợ, chúng ta cứ vui sống.
43. Tin là sẵn sàng
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dạy chúng ta đừng quá dính bén với của cải vật chất đời này. Người kêu gọi chúng ta hãy biết làm giàu trước mặt Chúa. Đó là một trong những điều quan trọng trong đời sống của người kitô hữu. Nếu không tin vào Chúa, không tin vào sự sống đời sau chắc hẳn chúng ta sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này của Chúa Giêsu. Cũng trong cái nhìn ấy, Chúa nhật hôm nay Người kêu gọi chúng ta hãy biết thức tỉnh và sẵn sàng. Thức tỉnh và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến.
Sẵn sàng luôn luôn là một thái độ chủ động tích cực. Người có thái độ sẵn sàng là người luôn sống trong tâm trạng bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được của mình cái gì. Đây là một thái độ khôn ngoan nhất. Với cái nhìn đức tin, đây là người biết sống đẹp lòng Chúa. Vì họ đã nhận ra được tình thương của Chúa dành cho mình. Cho nên, bất cứ lúc nào Chúa gọi họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng như 10 trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị sẵn dầu để đón chàng rễ. (Mt 25, 1 - 13)
Có lẽ, khi nhắc đến Thánh Đaminh Saviô thì không ai trong chúng ta có thể quên một sự kiện đặc biệt về ngài. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với những bạn ngoài sân. Cha Gioan Boscô mới gọi thánh nhân ra và hỏi: "... Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?"
"... Con vẫn tiếp tục chơi!"
"... Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?"
"... Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!..."
Câu trả lời của Saviô đã làm cho nhiều bạn và cho cả Cha Gioan Boscô hết sức ngạc nhiên. Quả thật, đấy mới là một thái độ sẵn sàng đúng nghĩa. Thánh nhân đã tin vào Chúa một cách vững mạnh.
Ngược lại, đó là thái độ của một người luôn bê trễ, ù lì. Thái độ của người đầy tớ xấu nghĩ rằng: " Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa". Cũng giống như 10 cô trinh nữ dại khờ không biết chuẩn bị dầu đèn để đón chàng rễ. (Mt 25, 1-13)
Do đó, khi chúng ta biết chu toàn bổn phận của mình trong từng giây phút của cuộc đời là chúng ta đang sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người chồng, người cha trong gia đình.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người vợ, người mẹ trong gia đình.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một con trong gia đình...
Và trên hết hãy chu toàn tốt bổn phận của một người tín hữu, một người con Chúa trong niềm tin yêu phó thác.
44. Bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100/o, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng. Vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Làm việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: “Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?” Và chính ông trả lời: “Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi”. Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui”.
Cách đây vài năm, một thày dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình.
45. "Một nơi chưa bao giờ đến"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về một nơi mà trước đây chúng ta chưa bao giờ đến: "Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12, 32).
Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa rằng Thiên Chúa Cha, Đấng luôn yêu thương, sẽ ban tặng cho chúng ta với điều kiện chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài bằng cách: "Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó" (Lc 12, 33-34). Vậy Nước Trời ở đâu?
Sách Giáo Lý Công Giáo đã dạy (số 2816- 2820) và Thánh Phaolô để diễn tả: "Nước Thiên Chúa là công chính, an bình và vui vẻ trong Chúa Thánh Thần" (Rm 14, 17)
Trong bài đọc thứ hai (Dt 11, 1-2; 8- 19) chúng ta nghe lại câu chuyện của tổ phụ Abraham, cha của những người có lòng tin. Qua đức tin, Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để ra đi đến "một nơi chưa bao giờ đến" để được lãnh nhận làm gia nghiệp. Ông đã lên đường theo tiếng Chúa phán. Abraham có đức tin vào Đấng đã ban lời hứa. Ông tin vào lời Thiên Chúa hứa và biết rằng Thiên Chúa đồng hành với mình trên đường về đất hứa. Cuộc hành trình của Abraham là một cuộc hành trình đức tin (Dt 11,12-16). Giống như Abraham, cuộc đời của chúng ta cũng là một cuộc hành trình của niềm tin đi về Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa hôm nay: "Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12, 32). Ngài đòi hỏi chúng ta phải tin, phải lên đường ngay. Phải có đối tượng và mục đích rõ ràng. Phải dự trù hành trang cần thiết cho cuộc hành trình dài. Hành trang phải thật nhẹ nhàng. Từ bỏ của cải vật chất là điều kiện cần thiết (1 Pr 1,17), "Hãy bán những của các con có mà bố thí. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó" (Lc 12, 33-34). Tuy nhiên, con người thời đại đã làm ngược lại với Lời Chúa dạy hôm nay (Pl 3, 19). Họ tin vào của cải, trương mục ngân hàng, vốn đầu tư, công ăn việc làm, chế độ bảo hiểm, hưu dưỡng, đất đai, nhà cửa. Khi đặt trọn vẹn tin tưởng vào của cải vật chất thì hãy coi chừng kẻo sẽ bị mất tất cả, mất hết của cải đời này lẫn hạnh phúc đời sau (Gc 4, 4).
Tiền của vật chất đã không làm con người dễ dàng hướng về Nước Trời được (Mt 19, 23). Và nó cũng không làm con người biết sẵn sàng chờ đợi giờ phút "Con Người" đến nữa.
Hành trình đức tin về Nước Trời phải từ bỏ của cải vật chất và thế gian để giúp ta sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn (2 Ga 4, 6-8). Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của người ăn mặc sẵn sàng lúc làm việc: "Các con hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Lc 12, 35-40)
Thánh Augustino là một con người tội lỗi, sau này lại trở thành một Giám Mục, là thánh tiến sĩ của Giáo Hội. Mẹ của ngài, bà thánh Monica đã cầu nguyện kiên trì để ngài bỏ đường tội lỗi để phục vụ Chúa Giêsu Kitô, nhưng Augustino vẫn chứng nào tật nấy. Cho đến một hôm, đang khi kể chuyện cuộc đời mình cho một anh bạn nghe, Augustinô đã bật khóc nức nở khi nghe có tiếng thôi thúc: "Hãy cầm lên mà đọc; hãy cầm lên mà đọc". Sau này, Augusttinô đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau:
"Ngay lúc đó tôi liền ngưng khóc, tôi bước đi lấy cuốn Thánh Kinh, mở ra và đọc đoạn đầu tiên đã được biểu tỏ cho tôi, vì tôi nghĩ rằng đây là lệnh từ trời. Rồi nhanh chóng, tôi trở lại chiếc ghế dài nơi bạn tôi, Alypius đang ngồi, và đặt cuốn Thánh Kinh xuống ghế. Thình lình tôi lại chộp lấy nó, mở ra, và trong thinh lặng tôi đọc đoạn Thánh Kinh in ngay vào mắt tôi: "Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng" (Rm 13,13-14). Tôi không muốn đọc thêm nữa, cũng chẳng cần phải đọc thêm. Ngay lập tức, khi câu cuối cùng vừa kết thúc, giống như luồng ánh sáng của sự thật rót vào trong tim tôi. Và tất cả bóng tối của nghi ngờ đã biến mất."
Nếu "Con Người" đã đến trước cái ngày định mệnh này thì Augustinô đã bị bắt quả tang chưa sẵn sàng chuẩn bị gì cả. Có lẽ ngài đã còn đang ngủ. Tuy nhiên từ lúc đó trở đi, Augustino đã sửa soạn sẵn sàng Ngài đã cảnh giác và thức tỉnh khỏi tội lỗi.
Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau:
Để nhận ra giá trị của một năm: Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng: Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần: Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày: Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ: Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút: Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe buýt.
Để nhận ra giá trị của một giây: Hãy hỏi người vừa thoát khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao: Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng, để nhận ra gía trị của một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn.
Vì thế, chúng ta cần thay đổi thái độ sống chưa xứng hợp với vai trò là người Công Giáo. Chúng ta hãy đặt Chúa lên trên hết, để mọi việc việc làm của chúng ta đều hướng về Chúa, nghe theo tiếng Chúa gọi mời là "tìm kiếm Nước Thiên Chúa".
Áp dụng Lời Chúa hôm nay, tôi xin đề nghị đối với các bậc làm cha mẹ: Bởi vì Thiên Chúa đã trao trách nhiệm cho các cha mẹ nên chúng ta hãy biết cách giáo dục, nuôi nấng, hướng dẫn, sửa dạy và chịu trách nhiệm về con cái.
Trên hết, cha mẹ hãy làm gương lành cho chúng và phải chỉ dạy cho chúng. Hãy tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các bí tích. Đừng say sưa, cờ bạc; tránh cãi vã, và những việc không tốt thường con em sẽ theo vết chân bạn.
Gia đình cùng quây quần đọc kinh hôm, kinh mai với nhau ngay từ khi con cái còn nhỏ. Đọc Lời Chúa và lần chuỗi. Bên cạnh đó, Cha mẹ nên đọc gương thánh nhân cho con cái nghe để khuyến khích chúng bắt chước những đức tính tốt ấy
Mặt khác, để giáo dục con cái thì Cha mẹ nên làm gương cho chúng nó: Biết lắng nghe con cái, hãy cho con cái có dịp trình bày hoàn cảnh của chúng. Thông cảm, sẵn sàng dành thời gian chia sẻ, dạy dỗ và tỏ ra quan tâm đối với những khó khăn mà chúng gặp phải khi tiếp xúc với xã hội, tập cho chúng nó biết quan sát, nhận định và phán đoán theo lề luật của Chúa và Giáo hội. Cha mẹ dạy cho chúng nó biết quý trọng những giá trị Nước Trời, không ham mê của cải, không ăn trộm cắp, biết giữ giới răn của Chúa. Cha mẹ nên tránh nói những câu: "Đồ khùng, đồ ngu, im đi...".
Ngoài ra, hãy hy sinh chú ý tới những cái con cái thích. Khen thưởng để khích lệ, tha thứ để khích lệ và sửa sai cho chúng nó.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết qúy trọng những giá trị Nước Trời, để chúng con luôn biết sống theo Lời Chúa chỉ dạy ngay từ hôm nay, biết sống tỉnh thức và chu toàn bổn phận của công dân Nước Trời bởi vì quê hương của chúng con là Nước Trời.
46. Hành trình
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những người khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuộc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc.
47. Tỉnh thức - R. Gutzwiller
Tránh xa nguy hiểm mà thôi chưa đủ, còn phải sẵn sàng tỉnh thức.
Mọi người đều phải có đức tính này, nhưng nhất là những môn đệ mang sứ mạng của Chúa
1. Tất cả phải tỉnh thức.
Chúng ta dễ dàng thấy được ý nghĩa của dụ ngôn. Người chủ đi dự tiệc cưới. Các gia nhân ở nhà không biết lúc nào ông về: đêm hay ngày. Tuy vậy, họ vẫn thức, chong đèn và mặc quần áo làm việc, hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng. Dụ ngôn cho thấy người chủ ngạc nhiên, khi trở về. Gia nhân càng cất công chờ đợi lâu, niềm vui của người chủ càng mãnh liệt đến ông làm một việc khác thường: đảo ngược công việc chủ tớ, mời gia nhân ngồi ăn tiệc, và đích thân hầu hạ họ.
Dụ ngôn thứ hai một lần nữa đề cao ý tưởng tỉnh thức. Một gia chủ biết thế nào cũng có lúc trộm đạo đến viếng nhà mình. Nhưng ông không biết đến khi nào nên phải canh chừng luôn, để khỏi bị mất trộm lúc chẳng ngờ.
Người ta không biết rõ ngày giờ chết của mình. Nhân loại không biết được khi nào xẩy ra cuộc Tái lâm, tức là ngày Chúa trở lại. Cho nên phải mở rộng tâm hồn và tỉnh thức trong tinh thần. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa có thể bất ngờ xuất hiện vào lúc người ta chưa chuẩn bị và dùng ân sủng kêu mời, khuyến dụ, thúc bách và bổ sung con người. Nói theo kiểu cách đạo đức, kẻ nào còn sống trong mơ màng, mải mê sự đời, thì không chú tâm vào việc Chúa đến, và như vậy đã đánh mất đi kho tàng ân sủng.
Tâm hồn sẵn sàng và tinh thần tỉnh thức hoàn toàn hữu ích cho quyết định dấn thân nghiêm chỉnh trong công việc bổn phận, vì tương phản với tính biếng nhác, chúng chứng tỏ có sự liên kết với Thiên Chúa.
2. Môn đệ được sai đi phải tỉnh thức.
Phêrô thưa với Chúa xem dụ ngôn này có ám chỉ về các môn đệ không, Đức Giêsu trả lời không do dự. Vì trong dụ ngôn sau, Ngài nói đến mấy gia nhân được chủ trao cho một sứ mạng đặc biệt và được nhiều quyền hành. Có người lợi dụng lúc chủ vắng nhà đánh đập các gia nhân khác, ăn uống say sưa, và chỉ nghĩ đến tư lợi.
Trái lại, có người nhân lúc đó, làm hết những công việc còn lại với cả tâm tình. Khi người chủ trở về, họ sẽ thấy hậu quả đến với họ. Những kẻ bất trung sẽ bị gia phạt theo thói luật thời đó. Trái lại, các gia nhân khác được khen thưởng, được củng cố quyền hành và khen thưởng với lòng tín nhiệm.
Trong Nước Thiên Chúa, ở bậc linh mục cũng như các bậc khác, hẳn phải có sứ mệnh đặc biệt: trách nhiệm lo cho tha nhân, cho nên các Ngài càng phải sẵn sàng hơn. Lời đòi hỏi của Chúa nhắm vào các vị nhiều hơn. Càng cao danh phận thì càng nhiều trách nhiệm, có chức vụ tất nhiên sẽ có bổn phận. Ai được cất nhắc lên một chức vụ nào để phục vụ Giáo Hội, người đó sẽ có nhiều khó nhọc hơn trong cuộc sống, và phải luôn hướng về Thiên Chúa.
Ai cũng phải có đức tính đó, nhất là những ai vì phục vụ Chúa Kitô mà phải chia sẻ gánh nặng với anh em. Kitô hữu là người hướng về tương lai và việc Chúa Tái lâm. Họ biết mình phải ‘phục vụ’, dấn thân, phải trả lẽ. Ý hướng đó đã làm cho công việc của họ có một giá trị đặc biệt: Vì ‘người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều: vì đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn’.
Mỗi chức vụ trong Giáo Hội đều mang một trách vụ đối với các linh hồn.
48. Đừng sợ
Bài Phúc Âm hôm nay là một phần bài diễn văn rất dài của Chúa Giêsu, có ý để cho các môn đệ đừng để mình bị lo lắng bởi những công việc trần thế, nhưng trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều dụ ngôn. Chúa đã dùng những lúc, những nơi khác nhau được đặt gần lại nhau nhằm cùng hướng về một đề tài như đã nói trên. Đầu tiên Chúa ban Nước Trời nhưng nước Ngài là kho tàng qúy giá hơn mọi thứ của cải vật chất ở đời này, vì thế đòi người ta phải mộ mến hơn và phải bỏ của cải để dễ dàng xứng đáng lãnh nhận. Nước Chúa sẽ được ban cho ta một cách hoàn toàn và như một phần thưởng khi Đức Kitô quang lâm, vì thế trong khi chờ đợi ta phải sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Thiếu sự tỉnh thức này thì thật là tai hại.
Đức Giêsu đã sánh ví các môn đệ của Ngài với đoàn chiên nhỏ bé bị đe dọa bởi sói rừng. Ngài biết trước và Ngài cũng đã loan báo rồi đây họ sẽ gặp nhiều nỗi khốn khổ vì Ngài. Ngài thông cảm nỗi lo lắng sợ hãi của họ. Để an ủi khích lệ họ Ngài đã tuyên bố: "Đừng sợ hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các người hứa ban nước của Người cho các ngươi". Như thế Ngài muốn bảo các ông rằng không được sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù. Một số ít người không phải là dấu hiệu của sự bại trận, Cha đã dành cho vương quốc mà kẻ thù không đủ sức cản trở đâu. Đó là ơn cứu độ, là sự giải thoát, là vinh dự và là hạnh phúc. Những của cải trần gian là thứ sẽ hư hỏng, hao mòn và bị hủy diệt nữa, mối mọt có thể gặm... chỉ có Nước Chúa là kho tàng vĩnh cữu. Vì thế tinh thần siêu thoát là điều cần phải có. Hơn nữa sự từ bỏ của cải là cách tốt nhất để đạt được Nước Trời, vì chính Chúa Giêsu đã trả lời cho người hỏi Ngài: phải làm thế nào đễ được vào Nước Trời. Ngài đã trả lời cách khẳng định: "hãy bán đi và bố thí cho kẻ khó rồi đến mà theo Ta". Để đạt được Nước Trời không phải chỉ từ bỏ là đủ, nhưng đòi hỏi người môn đệ phải biết trung tín như người đầy tớ đợi chủ về. mà biết tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi chủ. Đó chính là nỗ lực mà mọi người đều có thể đạt được, nếu chúng ta đủ lòng mộ mến. Chính Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi những áp bức của kẻ thù, Ngài chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta đừng quên cùng đích của cuộc đời, và phải dùng hết cách để đạt tới Nước Trời như Ngài đã sẵn sàng ban cho
Thường thì vào những giờ phút gay go nhất của cuộc đời, chúng ta thường hay rơi vào ngõ bí, hoặc rơi vào giếng sâu như Giêrêmia, thì Chúa gần chúng ta nhất và chờ đợi lòng tin cậy nơi chúng ta để ra tay hành động. Chúng ta đừng để mất lòng tin cây nơi Chúa, Đấng có thể cứu chúng ta, giải thoát chúng ta, chữa lành chúng ta. Hạy nhìn thẳng tới đích mà chúng ta phải đến là Nước Trời. Nói khác đi là Nước Chúa,hay đúng hơn là chính Cháu vì ngài là hạnh phúc đời đời của ta. Tất cả những gì cản trở cho cuộc hành trình này chúng ta phải dẹp bỏ, kể cả những gì thân thiết nhất của ta cũng vậy. Tinh thần siêu thoát rất cần thiết cho cuộc hành trình được dễ dàng thêm.
Hãy mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chúa một cách tin tưởng phó thác. Có nhiều điều Chúa muốn lại là cái ta không thấy, không hiểu lúc bây giờ. Tất cả những ơn gọi đều có những khó khăn và bấp bênh, những cái không dự đoán trước được. Cũng có khi cũng giống như Apraham, chúng ta đi nhưng không biết Chúa muốn dẫn mình đi đâu. Chính những yếu tố đó sẽ đánh giá niềm Tin - Cây - của chúng ta và cho ta dịp theo Chúa thật sự.
Những thất bại tạm thời của ta không được làm chúng ta nãn lòng. Chúng ta còn nhớ mẻ cá lớn tiếp theo một đêm vất vả mà chăng được gì. Cho nên chúng ta đừng ngại hãy thả một lần nữa với một lòng trông cậy vào sự can thiệp của Chúa. Đức tin đoì hỏi ở người tín hữu nhiều hy sinh lắm.
Sự chết của Đức Kitô mà chúng ta tưởng niệm bắng cách cử hành bí tích thánh thề nhắc cho chúng ta sự can thiệp cứu độ đặc biệt của Thiên Chúa, tình yêu của Ngài, khiến chúng ta phải tạ ơn và thêm tin tưởng cậy trông. Dự tiệc bàn thánh ở đời này chúng ta nỗ lực làm những gì Chúa muốn để được dự tiệc vĩnh viễn với Ngài trên trời. Amen.
49. Chú giải của Fiches Dominicales
GIÁO HỘI, MỘT DÂN TỘC TỈNH THỨC CHỜ CHÚA TRỞ LẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một con tim gắn liền với một giá trị duy nhất...
Đang trên đường lên Giêrusalem, có người cầu khẩn Đức Giêsu phân xử một cuộc tranh chấp về gia tài. Nhân dịp này, Người cảnh báo đám đông thính giả, khuyên họ giữ mình khỏi: "mọi thứ tham lam", và lập tức Người minh họa bằng dụ ngôn người giàu có khờ dại (12, 16-21) để đi đến kết luận: "Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Rồi quay sang các môn đệ mà Người thường gọi là "đoàn chiên nhỏ bé", Đức Giêsu kêu gọi hãy biết từ bỏ. Chúa Cha đã cho họ tất cả, đến lượt họ, tại sao họ lại không thể cho đi tất cả? Người nói với họ: "Hãy bán của cải mình đi mà bố thí".
H. Cousin bình luận: "Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giàu trước mặt Chúa (12,21), là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời dời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biên cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất. (Tin Mừng theo thánh Lc. Centurion, trg 184)
2. Tích cực đón chờ Đức Giêsu trở lại.
Tiếp tục câu chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đề cập đến một đề tài mới: tỉnh thức và trung tín. Người đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ được "đưa lên cao"; bởi vậy Người cần chuẩn bị cho các bạn hữu của mình sống trong một hoàn cảnh mới mà họ sẽ biết sau cuộc Phục Sinh của Người: Chúa của họ sẽ vắng mặt về thể lý, họ sẽ phải đón chờ Người trở lại trong vinh quang.
Ba dụ ngôn sẽ minh họa cho giáo huấn của Đức Giêsu: Trước hết là dụ ngôn những người đầy tớ sẵn sàng trong bộ đồ phục vụ, nghĩa là thắt lưng gọn gàng, vạt áo được săn lên và xiết chặt bằng dây thắt lưng như mọi người thường làm trong bữa tiệc vượt qua mà bài đọc thứ nhất đã thuật lại. Họ còn thắp đèn sẵn đợi chủ về. Họ tỉnh thức.
Cũng như những người đầy tớ trong dụ ngôn, các môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng đón chờ ngày trở lại của Thầy mình, và họ sẽ kinh ngạc khi thấy Đấng họ trông đợi ‘thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ’.
Liền sau đó là dụ ngôn ông chủ nhà tỉnh thức, biết đề phòng kẻ trộm đến bất ngờ.
Cũng vậy, các môn đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng vì Chúa trở lại thật bất ngờ.
- Dụ ngôn viên quản lý trung tín và viên quản lý bất trung kết thúc toàn bộ đoạn Tin Mừng này. Qua câu hỏi của Phêrô, dụ ngôn này giúp nhận rõ Chúa muốn nói với ai: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?"
Trong khi hai dụ ngôn trước nhắm đến tất cả các môn đệ, thì dụ ngôn thứ ba nhắm đến những ai có trách nhiệm riêng trong cộng đoàn và vì trách nhiệm này, họ phải xử sự như những đầy tớ của Đức Kitô và như những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
H. Cousin kết luận: "Câu hỏi của Phêrô khiến Đức Giêsu phải đề cập đến một điểm đặc biệt. Sau khi cảnh báo tất cả mọi Kitô hữu qua các câu 36-40, thì ở đây, Người đòi hỏi thái độ trung tín nơi một số các môn đệ là những người thi hành trách nhiệm mục vụ trên các anh em khác trong cộng đoàn. Vì những phận vụ được trao phó trước mặt mọi người, họ phải luôn sẵn sàng hơn những Kitô hữu khác để trả lời trước mặt Thầy mình, về những thái độ xử sự của họ khi Người bất ngờ đến (sđd, tr. 187).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước tiến”.
Nói đến hiện hữu của người Kitô hữu là nói đến đức tin. Đức tin hướng về quá khứ, dựa vào một lời nói, chỉ một lời, một lời hứa.
Đức tin cũng hoàn toàn hướng về tương lai, vì chờ đợi lời hứa được thực hiện dù lời hứa ấy chỉ được bảo đảm bằng một lời nói. Người tín hữu tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện điều Ngài đã nói nhưng đức tin là tiến bước từ lời hứa này đến lời hứa khác mà không nắm giữ hoặc chiếm hữu điều gì.
Trong giây phút hiện tại, đức tin là một cuộc lữ hành, một bước đi, giống như Abraham và các tổ phụ là những di dân, khách lữ hành và những người rày đây mai đó.
Như vậy, phải chăng chúng ta bị kết án là chẳng có gì, chúng nắm giữ được gì? Đây chính là điều nghịch lý của đức tin: đức tin là "phương tiện giúp chiếm hữu được điều chúng ta mong đợi."
Sự chờ đợi đã có đầy tràn tương lai rồi. Đức Kitô, Đấng sẽ đến, Đấng chúng ta đón chờ, đã hiện diện rồi. Người ở giữa chúng ta qua những ai phục vụ. Như vậy, công việc của đức tin là loại trừ khỏi chúng ta những gì chúng ta tin là đã nắm vững và đặt trong tay chúng ta giá trị duy nhất của tương lai. Chúng ta tiến về giá trị đó và trông đợi nó: giá trị đó là phục vụ và chia sẻ. Đó là cách thế tốt để đón chờ, để tỉnh thức trong đức tin.
2. "Hãy thắt lưng sẵn sàng phục vụ”
Thiên Chúa gõ cửa nhà tôi. Người tỏ lộ qua các biến cố và lời khẩn nài của mọi người. Người còn tỏ lộ cho tôi qua lời kêu gọi của những người chung quanh và bè bạn. Người ước mong được ở với tôi. Và tôi có nguy cơ không quan tâm đến những ước muốn của Người. Người gọi tôi nhưng tôi không có mặt để trả lời. Tôi thuộc loại những kẻ thuê bao vắng mặt.
Đúng, từ lâu lắm, có thể nói là suốt cả cuộc đời, tôi đã là loại người như thế? Thiên Chúa không ngừng đi qua nhà tôi để chỉ thấy nơi tôi sự trống vắng và bóng tối.
Phải chăng chúng ta đã đánh mất sở thích chờ đợi và ước ao? Chúng ta muốn tất cả mọi sự và muốn chúng phải có ngay lập tức. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được hoạch định.
Điều bất ngờ khó có chỗ đứng.
Chính Thiên Chúa ước ao đến nhà chúng ta. Vào bất cứ giờ nào. Ngay cả buổi tối khi chúng ta đã chuẩn bị lên giường. Hoặc thậm chí ban đêm khi chúng ta muốn được yên ắng nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc.
Thiên Chúa không để ý đến giờ giấc. Người luôn hiện diện. Người can thiệp thường xuyên, bất cứ lúc nào. Khi thấy chúng ta tỉnh thức và chờ đợi, Người sẽ sung sướng và vui mừng chia sẻ của ăn và những phương diện tết đẹp nhất trong đời sống của chúng ta.
Nếu thấy chúng ta vì ao ước mà săn sàng. Người sẽ "đốt lên” trong ta ngọn lửa sự sống. Người sẽ trao cho chúng ta Lời của Người. Người sẽ liên kết chúng ta với sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa của Người.
Chúng ta phải thắt lưng sẵn sàng, đó là thái độ của người sẵn sàng tham dự. Không phải một giờ mỗi tuần. Cũng không phải vài phút mỗi ngày, nhưng luôn luôn, thường xuyên. Đến nỗi Chúa đến bất cứ giờ phút nào cũng không bao giờ có thể làm chúng ta bất ngờ. Người sẽ thấy chúng ta luôn thắt lưng sẵn sàng. Và ngọn đèn của chúng ta luôn thắp sáng để nhận ra Đấng đang đến mà đón tiếp Người, mọi lúc. Một thái độ như vậy không có nghĩa là chúng ta không bao giờ kịp thở. Không có nghĩa là chúng ta không ngừng lại, không nghỉ ngơi. Nhưng có nghĩa là đôi mắt chúng ta luôn dò xét đôi tai luôn lắng nghe. Con tim luôn sẵn sàng. Tinh thần luôn tỉnh thức.
50. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ SỰ TỈNH THỨC
Tiếp tục trò chuyện riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu bàn về một đề tài mới, sự tỉnh thức và lòng trung thành. Trên đường hướng về Giêrusalem nơi mà Ngài sắp thực hiện cuộc xuất hành của mình, Ngài phải chuẩn bị cho các người thân thuộc sống trong tình trạng mà sau ngày Phục Sinh họ phải sống: trông đợi Chúa của họ Đấng sẽ vắng mặt. Trình thuật về cuộc thăng thiên (Cv 1,9-11) ý nghĩa đặc biệt rằng thời kỳ của Giáo Hội là giai đoạn vắng bóng Chúa Kitô, Đấng mà người ta kêu cầu:”Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!”. Trong thời kỳ này, mọi tín hữu phải sẵn sàng (cc.35-40); nhưng các môn đệ, được gọi để thi hành nhiệm vụ đặc biệt của những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn được mời gọi cách đặc biệt phải sống trung thành (cc.41-48). Để được vậy, Chúa Giêsu sắp kể những dụ ngôn để tức thời trao ban cho một thái độ mà họ phải bắt chước.
1. Những đầy tớ tỉnh thức.
Người chủ nhà tỉnh thức (12,35-40)
Chúa Giêsu bắt đầu mời gọi các môn đệ trong tư thế đang làm việc; sau ngày thăng thiên, chính trong lúc không ngừng lo lắng thi hành nhiệm vụ mà họ phải đợi chờ giây phút mở cửa cho Chúa của họ (c.35). Họ được so sánh (cc. 36-38) với các đầy tớ mà ông chủ đi ăn cưới có thể trở về bất cứ lúc nào trong đêm; như thế việc áp dụng dụ ngôn thứ nhất lại được nói trước dụ ngôn (đây không phải là điều thường xảy ra). Hai lần Chúa Giêsu tuyên bố phúc cho những đầy tớ mà chủ thấy tỉnh thức: họ sẽ được ngồi ăn với ông. Việc ám chỉ bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa đã dự kiến cho dân Ngài (x.Is 25,6-8) sẽ được sáng tỏ với 13, 29 và, rõ hơn nữa, với 22,30 nơi đó Chúa Kitô loan báo rằng những kẻ thuộc về Ngài sẽ ăn uống với Ngài trong Vương Quốc của Ngài. Hơn nữa, phần thưởng được diễn tả trong việc đảo ngược các vai trò: chính ông chủ sẽ phục vụ để tiếp đãi họ. Ở đây nữa, một lời của Chúa Giêsu mang đến ánh sáng cần thiết: Ngài ở giữa họ như một người phục vụ (22,27).
Để minh hoạ cũng đề tài tỉnh thức này, dụ ngôn thứ hai nhắc lại rằng một ông chủ nhà không bao giờ biết được khi nào kẻ trộm đến. Không thể tỉnh dậy đúng lúc! Bài học được rút ra từ đó –phải không ngừng canh gác- lần này rõ ràng được áp dụng cho những thành viên của Giáo Hội trong việc họ chờ đợi ngày Quang lâm, ngày Con Người đến lần cuối cùng. Nếu ở đây Chúa Giêsu tự xưng mình bằng tước hiệu này chứ không dùng tước hiệu Chúa chẳng hạn, chính là để nhấn mạnh đến vai trò thẩm phán hoàn vũ của Ngài (x.21-36) và nhấn mạnh đến tính chất hoàn toàn bất ngờ của việc Ngài đến (x.17,23-26).
2. Người quản gia trung thành (12,41-48)
Một câu hỏi của Phêrô làm cho việc áp dụng dụ ngôn được tinh tế hơn: dụ ngôn này được nói cho ai? Cho mọi người –kể cả đám đông dân chúng- hảy chỉ nói cho các môn đệ (c.41)? Bằng một cách thức có ý nghĩa, Luca ghi chú rằng chính Chúa, người chủ của Giáo Hội, sẽ trả lời bằng dụ ngôn thứ ba. Tình trạng mà dụ ngôn nêu ra rõ rằng là ở vào sau ngày Phục Sinh: các động từ ở thì tương lai, đặc biệt động từ kể lại việc đặt định của người quản qua. Những câu 42-44 nhắc lại một phần các câu 36-38: Chúa Giêsu đưa vào hoạt cảnh một người đầy tớ mà khi trở về ông chủ gặp thấy đang làm việc và Ngài tuyên bố phúc cho anh ta. Nhưng có điều mới ở đây: đó là một đầy tớ-quản gia có nhiệm vụ cung cấp lương thực cho kẻ ăn người ở. Thi hành đúng mức nhiệm vụ này đó là trung thành đáng tin cậy và khôn ngoan – biết rằng đời sống vĩnh cửu có liên quan tới công việc hằng ngày. Để thưởng công, người đầy tớ này được giao phó một nhiệm vụ đáng kể hơn, coi sóc tất cả tài sản của chủ mình.
Khi phác hoạ một trường hợp ngược lại, các câu 45-46 nêu lên một chi tiết khá rõ. Nghĩ bụng rằng chủ về muộn, người đầy tớ quản gia lợi dụng cơ hội để hống hách. Đó là một ám chỉ khá rõ về thời hạn, trong Giáo Hội, kéo dài từ ngày Chúa thăng thiên đến khi Chúa quang lâm, khi Chúa đến vào thời cuối cùng (x.Cv 1,6-8; 2Pr 3,8tt). Không những không thi hành nhiệm vụ –anh ta chè chén say sưa- anh ta lại còn hành hạ tôi trai tớ gái những kẻ mà anh ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng. Sau khi nhắc lại việc trở về bất ngờ, là đến hình phạt: ông chủ cách chức anh ta và bắt phải chung số phận với những kẻ bất trung, trường hợp của một sự chểnh mảng cố ý; một sự bất tuân phục như thế sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Còn kẻ nào chểnh mảng, vô tình, vô ý, vì thiếu khả năng, sẽ bị phạt ít hơn (c.48a).
Như thế câu hỏi của Phêrô đã khiến Chúa Giêsu bàn đến một điểm riêng biệt. Sau lời cảnh cáo các câu 36-40 nói cho tất cả mọi tín hữu, ở đây Ngài đòi hỏi một thái độ trung thành nơi một số môn đệ, những người có trách nhiệm mục vụ đối với những anh em khác trong cộng đoàn. Tuy nhiên ta đừng quên rằng ở đây Chúa Kitô nói bằng dụ ngôn: tất cả mọi chi tiết đều được coi là phóng dụ, chẳng hạn việc đánh đòn (cc.47-48a). tuy nhiên giáo huấn không vì thế mà kém phần trong sáng: Chúa Kitô trông đợi rất nhiều ở các vị lãnh đạo cộng đoàn, điều đó được biểu lộ qua câu châm ngôn bình dân mà Người đưa ra (c.48b). vì được Thiên Chúa trao phó những chức vụ ở giữa dân Ngài, họ phải luôn luôn, hơn tất cả các tín hữu khác, sẵn sàng trả lẽ, bằng cách hành xử của họ, với vị Tôn Sư khi Ngài đến bất ngờ.
51. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em".
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà chúng ta cùng đi theo: từ mấy Chúa nhật qua. Đức Giêsu tiến lên cái chết của Người, sự "xuất phát" của Người (Lc 9,51). Không cần phải là một thầy bói để đoán trước tương lai. Trong một số trường hợp, người ta biết rất rõ điều gì sẽ xảy ra. Đối với Đức Giêsu và các bạn hữu Người, trong những tuần lễ cuối cùng trước lễ Vượt qua, điều đó rõ ràng và đáng ngại: Người sắp đối đầu với sự thù nghịch cứng rắn và không nao núng của những vị đứng đầu tôn giáo... giữa sự ác cảm của quần chúng không còn chút quan tâm đến con người đã từ khước trở thành Đấng Mêsia "của họ", Đấng Mêsia công thành danh toại và chiến thắng tất cả. Cứ bề ngoài mà xét, thất bại chung cuộc đang đến gần: Một dự án thất bại, một cuộc đời thất bại.
Vả lại chính trong bối cảnh đó mà Đức Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!". Thật vậy, nhóm các môn đệ ít ỏi ấy nhỏ bé và mong manh làm sao! Đức Giêsu cố động viên họ khi gọi họ bằng từ thân ái ấy: "Đoàn chiên bé nhỏ".
Nhưng từ ngữ ấy cũng là một cách diễn tả của Thánh Kinh mang một ý nghĩa thần học. "Đoàn chiên" có "chủ chiên" dẫn dắt, hình ảnh này muốn nói rằng Thiên Chúa yêu mến và bảo vệ dân được chọn của Người (St 48,15; Gr 31,10; Ed 34). “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ" (Tv 22).
Thế là một lần nữa, chính miệng con người Giêsu Nadarét đưa ra một khẳng định đầy táo bạo: Nhóm nhỏ này, yếu ớt và nghèo khổ, không quyền thế, không văn hóa, không chỗ dựa, không có lòng can đảm là "Israel mới", dân mới của Thiên Chúa. Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!
Ngày nay, Đức Giêsu nói với tôi cũng lời đó, trong những lúc tôi gặp thử thách. Ngày nay, Đức Giêsu nói lại điều đó với Giáo Hội hiện nay, trong những lúc Giáo Hội gặp khủng hoảng.
Tôi lắng nghe. Tôi lắng nghe.
Theo Đức Giêsu vì sao chúng ta phải xua tan sự sợ hãi? "Bởi vì Cha anh em coi việc ban cho anh em Nước của Người là điều tốt lành". Đời sống anh em có một ý nghĩa trong Thiên Chúa, cho dù vì lý do này hay lý do khác, đời sống ấy có một bề ngoài thất bại, cho dù bạn bè bỏ rơi anh em, kẻ thù đè bẹp anh em, mọi người không hiểu anh em, cho dù anh em đến phải nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Chúa con, tại sao Chúa lại bỏ con? Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu công bố rằng Thiên Chúa ban Nước của Người cho những "người nghèo khó", cho những người khốn khổ, sa cơ thất thế. Cả người làm kinh doanh đã phá sản, cả người chồng bị ly dị hoặc bị tổn thương trong tình yêu, cả gái giang hồ đã tàn phai hương sắc, cả phạm nhân bị kết án tử hình, cả người tội lỗi đã chối bỏ thầy mình, cả nhưng Người đã bỏ rơi Thầy vì một lý do nào đó. Tất cả đều có thể vượt qua nỗi tuyệt vọng trong Đức Giêsu. Nước của Thiên Chúa không phải là một cuộc chinh phục đang thắng lợi nhưng là một ơn của Chúa Cha. Khi đổ đầy ơn ấy cho anh em Chúa Cha thấy điều đó là tốt lành.
“Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thế hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó".
Đây là kết luận đơn giản của tất cả những gì chúng ta vừa nghe. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ông, phú hộ mà chúng ta đã nghe Chúa nhật vừa qua. Đối với người đã đặt mọi sự an toàn trong Thiên Chúa, các "của cải trần gian" không quan trọng gì mấy! Vậy thì, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho và hãy yêu thương không đòi đáp lại, dù chịu thiệt. Bạn hãy bố thí bằng tấm lòng thời gian và tài sản của bạn. Tất cả đều là hư vô, không có gì thật trừ tình yêu?
Trái tim của bạn ở đâu? Bạn có yêu không?.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay".
Tách rời khỏi những giá trị và những thành công ảo tưởng, lòng chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của nó, xua đuổi mọi sợ hãi, trở thành sung sướng Vậy bí quyết của sự triển nở đích thực ấy là gì dù trong những hoàn cảnh bất lợi nhất? Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một Người đang đến. Thiên Chúa "đến". Người tới gần. Người ở đây rồi.
Đức Giêsu đã loan báo Người sẽ trở lại vào thời sau rốt, trong ngày Quang Lâm. "Maranatha" "Xin Chúa hãy đến" Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được xem như cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Đấng Chí ái: "Chính vì thế mà thánh nữ Têrêxa Avila nghĩ đến giây phút cuối cùng của đời bà như lúc mà "dải lụa của cuộc gặp gỡ êm dịu ấy được tháo tung". Nhưng Thiên Chúa, dưới dải lụa: "trong bóng đêm" ẩn giấu, không ngừng đi đến. Vậy, trang Tin Mừng này nói về vô số lần Thiên Chúa đến mà chúng ta thường lỡ hẹn, bởi vì chúng ta ở chỗ khác và chúng ta không "tỉnh thức".
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy thì thật là phúc cho họ!"
Thêm một mối phúc thật nữa: “Phúc cho những ai tỉnh thức" "Thật là phúc cho họ!"
Trái tim của chúng ta được tạo ra là vì Chúa. Làm sao chúng ta lại ngạc nhiên nếu chỉ mình Chúa, sau cùng mới có thể làm cho tim ta no thỏa? Trái tim này rất lớn! Bạn không thể chỉ làm đầy nó bằng các tình yêu trần thế. Chỗ trũng ước vọng của bạn lớn như Thiên Chúa. Hãy yêu thương! Hãy yêu thương? Bạn chớ bao giờ ngừng yêu thương? Bạn sẽ không bao giờ hết yêu thương bởi vì thanh Thiên Chúa muốn đổ đầy cho bạn. Dĩ nhiên, bạn phải sống những yêu thương nơi gian trần với sự mạnh mẽ như một biểu tượng và sự thực hiện ban đầu của tình yêu cao cả.
"Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, và người làm vợ, hãy yêu thương chồng mình… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh" (Ep 5,32). Hôn nhân là một "bí tích", một "dấu chỉ": Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Nếu bạn có may mắn yêu thương và được yêu thương, bạn hãy sung sướng và không ngừng sống tình yêu thương của bạn "trong Chúa". Nhưng cả khi bạn có cảm tưởng làm hỏng tình yêu thương ấy; Bạn hãy đặt tình yêu thương ấy "trong Chúa". Bạn được "mời gọi đến bàn ăn của Thiên Chúa". Chính Người muốn phục vụ bạn? làm cho bạn no thỏa. "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và: mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Có người gõ cửa! Chúng ta hãy ra mở nhanh lên, chính là Người.
Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Hình ảnh mới lạ này, hình ảnh kẻ trộm rất táo bạo và đúng kiểu của Đức Giêsu. Giờ đây khi nói về: giờ kẻ trộm đến, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh hoàn toàn bất ngờ, làm hoang mang, thoạt đầu không thể hiểu được nhiều lần Người đến. Đức Giêsu cũng gợi ý rằng chúng ta thật sự "lâm nguy", nếu chúng ta không tỉnh thức: Phải lay động sự đờ đẫn, sự ngủ thiếp của chúng ta. Lúc đang chờ đợi lâu dài, trong đêm tối, ngọn gió gay gắt của buồn chán như muốn dập tắt ngọn lửa trong lòng chúng ta. Tôi đang "ngủ quên" hoặc đang "tỉnh thức".
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?". Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ, đúng lúc? Khi chủ, về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình".
Vậy là ở đây trên cùng một chủ đề về sự tỉnh thức là một dụ ngôn mới, lần này gởi cho những người có trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu; họ là những người "quản lý" họ không phải là những "ông chủ”. Họ phải có hai đức tính: Sự trung tín và lương tri! Họ chỉ có một vai trò duy nhất: nuôi sống mỗi người! Tôi muốn cầu nguyện cho họ, xuất phát từ đoạn Tin Mừng này. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở đấy một định nghĩa tốt về mọi người "có trách nhiệm" trong tất cả các lãnh vực.
Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đây tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên thất tín”.
Như trong ba dụ ngôn khác nói về sự mong đợi, Đức Giêsu nêu lên sự chậm trễ và sự bất ngờ. Ong chủ lâu về quá ông trễ nải. Có lẽ ông ấy sẽ không bao giờ về? Có lẽ việc Thiên Chúa đến là một ảo tưởng? Thế thì, chúng ta cứ ăn, cứ uống, cứ vui chơi; cho dù điều đó có dẫn chúng ta đến chỗ đàn áp, thống trị và đánh đập ngược đãi những người khác. Cơn cám dỗ ấy của "người có trách nhiệm", chúng ta hãy ghi nhận điều này, có thể: là của Phêrô và các Tông đồ. Chúng ta đã được cảnh báo rõ ràng. Các nghệ sĩ thời Trung cổ không ngần ngại chạm hình các giám mục và các Giáo hoàng xếp hàng cùng với đoàn người bị kết án trong ngày phán xét trên mặt dựng của các nhà thờ. Và sau này, các họa sĩ cũng làm như thế trong các bục họa. Điệu nhảy tư thần. Lời lảnh báo đáng sợ cho tất cả mọi người: Không ai có đặc quyền trước mặt Thiên Chúa.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Luôn luôn là chủ đề về trách nhiệm. Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và hiểu biết mà người ta có. Trách nhiệm của chúng ta có thể chỉ là một phần. Đức Giêsu đã nói như thế với biết bao tinh tế! Khi áp dụng nguyên tắc này chúng ta thường phải phán xét người khác với lòng khoan dung và phán xét chính mình với sự thật.
52. Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long
TỈNH THỨC ĐỂ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Cuộc hành trình lên Giêrusalem đang tiếp diễn. Đến Lc 12,22, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các môn đệ trong đám đông. Đề tài của những lời Người nói nhắm đến các của cải trần thế (12,22-32). Có thể nói phân đoạn 12,22-32 là bài bình luận Dụ ngôn Ông phú hộ. Bản văn Phụng vụ đọc hôm nay giữ lại c. 32: ta thấy Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé” và trấn an họ. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống hiệp nhất với nhau.
Lời khuyến khích ngỏ với các môn đệ lại được tiếp nối bằng mộtlời khuyên triệt để về cách sử dụng của cải trần thế hầu có được một kho báu trên trời (12,33-34).
Sau đó, trong bản văn Lc, Đức Giêsu thay đổi đề tài. Từ mối quan tâm đến các của cải trần thế, Người chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và trung thành (12,35-46). Sự tỉnh thức và trung thành liên hệ với kho báu trên trời và ý nghĩa của cuộc sống ở chỗ chính những thái độ này giúp đạt tới kho báu ấy. Để nêu bật đề tài sự tín nhiệm và trung thành, Đức Giêsu lại nói đến biện pháp được đề ra để xử những tôi tớ không chu toàn nhiệm vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34);
2) Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (12,35-48):
a) Dụ ngôn 1 (cc. 35-38),
c) Dụ ngôn 2 (cc. 39-40),
d) Dụ ngôn 3 (cc. 41-48).
3.- Vài điểm chú giải
- đoàn chiên nhỏ bé (32): Hình ảnh này có thể là mộtgợi ý tới Is 41,14 LXX. Ở c. 32, có mộtsự đối lập giữa cộng đoàn nhỏ bé gồm các môn đệ Đức Giêsu và ân huệ lớn nhất Thiên Chúa hứa ban cho họ (“Nước của Người”).
- Hãy bán tài sản của mình đi (33): Xem Lc 18,22; Mt 19,21. Lý do của hành vi này được diễn tả ở 12,21, hầu trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa”.
- bố thí (33): Xem Lc 11,41; Tb 4,7-11; Hc 35,2.
- một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời (33): Xem Lc 16,9c; 18,22e.
- Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó (34): Câu này có nghĩa là: Nếu anh em đặt kho tàng của anh em trên trời, thì lòng (trái tim) của anh em cũng sẽ hướng về những sự trên trời.
- Anh em hãy thắt lưng cho gọn (35): Lời huấn thị này có thể gợi tới lệnh được ban cho con cái Israel khi cử hành lễ Vượt Qua đầu tiên (Xh 12,11.22-23). Nhưng sau này, ở trong Cựu Ước, công thức trở thành một lời huấn dụ quen thuộc về sự sẵn sàng hoặc về việc phục vụ (x. 1 V 18,46; 2 V 4,29; 9,1; G 38,3; 40,7).
- thắp đèn cho sẵn (35): Xem Lc 8,16; 11,33. Hình ảnh các đèn cháy sáng nói lên sự tỉnh thức.
- canh hai hoặc canh ba (38): Đây là cách chia thời gian của đêm (từ 6g chiều đến 6g sáng) theo người Rôma: thành bốn khoảng (“canh”, phylakai) đều nhau (6-9, 9-12, 12-3, 3-6); mà cũng có thể là cách chia của người Hy-lạp và Do-thái: thành ba canh (6-10, 10-2, 2-6). Theo Cv, tác giả Lc dường như xác định bốn canh (Cv 12,4).
- khoét vách nhà mình (39): Các vách nhà Paléttina được trét đất, nên trộm có thể khoét thủng.
- ông sẽ loại hắn ra (46): dịch sát là “ông sẽ xẻ đôi hắn ra” (dichotomeô, “xẻ đôi, cắt đôi; trừng phạt dữ tợn”). Có lẽ sự trừng phạt này liên hệ đến hai đòi hỏi nơi người quản lý, “trung tín và khôn ngoan”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34)
Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé”. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống liên kết và hiệp nhất. Đức Giêsu trấn an họ: “Đừng sợ!”, cho dù họ chỉ là mộtnhóm bé nhỏ. Điều này khiến độc giả nhớ lại những đoạn tóm rất lý tưởng về đời sống của cộng đoàn tiên khởi trong sách Cv (2,42-47; 4,32-35).
Sau đó, Đức Giêsu nêu ra mộtcách sử dụng triệt để các của cải vật chất. Các môn đệ phải “bán” chúng đi và cho đi như “của bố thí”. Chỉ bằng cách đó, họ mới sắm được cho mình “những túi tiền” không hề cũ rách và tích lũy được “một kho tàng” không thể hao hụt ở trên trời. Đức Giêsu sẽ trở lại với đề tài này ở 16,13.
Trong bài Lc 12,13-21, chúng ta đọc truyện Nhà phú hộ. Ông này phạm hai sai lầm: ông đã không làm giàu cho mình “trước mắt Thiên Chúa” và ông để cho cái chết bắt chợt ông. Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ cách trở nên giàu có trước mắt Thiên Chúa: chia sẻ những gì mình có với những người kém may mắn hơn. Còn để tránh bị cái chết bắt chợt, Người kể ba câu truyện (cc. 35-38; cc. 39-40; cc. 41-48).
* Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (35-48)
Sự ẩn mình và vẻ bề ngoài vắng mặt hoàn toàn của Thiên Chúa luôn luôn là mộtgánh nặng và mộtthử thách cho các tín hữu. Thiên Chúa có vẻ xa vời và yếu đuối. Từ đó, chúng ta sống buông thả, vô trách nhiệm. Với các dụ ngôn sau đây, Đức Giêsu gây ý thức cho các môn đệ về những mối nguy đang rình rập họ, và cho thấy là Người vẫn đang có đó, Người biết và Người sẽ ban thưởng.
Yếu tố chung của các dụ ngôn là sự vắng mặt của ông chủ. Các bản văn này dạy các tôi tớ biết phải làm gì khi ông chủ đi vắng. Bổn phận dầu tiên của họ là tỉnh thức và sẵn sàng. Theo phong tục thời ấy, ai đã tháo dây lưng và cởi áo khoác, là ngưng làm việc để đi nghỉ. Còn ai thắt áo khoác bằng dây lưng thì sẵn sàng làm việc hoặc sẵn sàng lên đường. Với ngọn đèn cháy sáng, người ta có thể làm mộtcông việc đột xuất ngay ban đêm. Như thế, người ta được yêu cầu là phải sẵn sàng mọi giờ. Đoạn văn kế tiếp so sánh chuyện Chúa đến cũng đột xuất và bất ngờ như là việc trọm đến; nghĩa là không có lúc nào mà ta không phải sẵn sàng tính sổ với Người.
Các dụ ngôn đặc biệt cho thấy rằng giữa người đi vắng và những người có mặt có mộttương quan bậc trên – lệ thuộc. Những người hiện diện không phải là những chủ nhân tự do của chính mình. Họ phải điều chỉnh cách sống và cư xử theo ý của ông chủ. Để cho quan hệ giữa ông chủ và các tôi tớ không bị buông lỏng, các dụ ngôn yêu cầu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là luôn ra sức quy hướng về Chúa. Cho dù Người có xa cách theo tầm nhìn, Người vẫn phải luôn ở trong tim các tôi tớ.
Bản văn lại cho thấy phản ứng lạ lùng của ông chủ khi trở về mà thấy các tôi tớ sống như vậy. Ông sẽ thế chỗ họ. Ông đảm nhận nhiệm vụ tôi tớ và xử với họ như với các ông chủ: cho họ ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ. Cách xử sự của ông chủ khiến các môn đệ Đức Giêsu hiểu rằng ông chủ đánh giá cao cách sống của họ, ông thât sự vui mừng và ông diễn tả ra lòng biết ơn đối với họ. Dĩ nhiên ông vẫn là ông chủ – nhưng chính vì thế, việc phục dịch của ông mới đáng kể – và họ vẫn là các tôi tớ – nhưng chính vì thế, vinh dự ông chủ ban cho họ thật là to lớn. Nhưng ta thấy rằng tương quan chủ–nô này không có gì là bất nhân và phi ngã cả. Ông chủ ước mong các tôi tớ của ông liên kết bền vững với ông theo cách riêng tư và thân tình và ông biết đánh giá cách sống này theo cách rất riêng tư. Các tôi tớ phải luôn mang ông chủ vắng mặt trong tim và phải để cho ý muốn của ông luôn hướng dẫn mình. Nhưng họ cũng có thể tin chắc rằng ông chủ cũng dành trái tim cho họ.
Tất cả các tôi tớ đều phải tỉnh thức khi ông chủ trở về. Nhưng sau câu hỏi của Phêrô, ta thấy có những tôi tớ có mộttrách nhiệm đặc biệt. Ông chủ đã giao cho những người này mộtnhiệm vụ điều hành và lãnh đạo các tôi tớ khác. Điều này hàm chứa mộtnguy cơ đặc biệt và do đó, họ có trách nhiệm đặc biệt. Họ chỉ là những người quản lý, chứ không phải là những lãnh đạo theo đúng lý. Họ phải trung thành làm theo những bố trí của ông chủ và phải tỏ ra bén nhạy. Họ phải coi sóc và phục vụ các tôi tớ khác. Họ không được tìm cách thoát ra khỏi dây liên kết với ông chủ vắng mặt, nhưng phải sống dây liên kết này mộtcách đặc biệt mạnh mẽ. Nếu họ lạm dụng địa vị và cư xử với các bạn cách độc tài, họ sẽ bị trừng phạt đặc biệt (“xẻ đôi”); còn nếu họ tỏ ra trung tín, ông chủ sẽ bày tỏ lòng biết ơn và sự tín nhiệm của ông đối với họ.
+ Kết luận
Chính vì Chúa Cha đã sẵn sàng ban sự sống đời đời (Nước Ngài) cho chúng ta, chúng ta phải biết cách sống theo chiều hướng đó. Vì thế Đức Giêsu dạy chúng ta vừa phải biết sử dụng của cải vừa phải biết điều hành cuộc sống của chúng ta theo chiều hướng đó. Đức Giêsu chính là Đấng đến bày tỏ cho chúng ta biết ý muốn đó của Thiên Chúa và giúp chúng ta thi hành. Rồi ngày nào đó, Người sẽ thay mặt Thiên Chúa đến kiểm chứng về cách sống của chúng ta. Đến đây chúng ta phải ghi khắc rằng không thể nào phủ nhận dây liên kết với Đức Giêsu và sự trung thành phải có đối với nhiệm vụ Người đã giao phó. Các đòi hỏi trong các dụ ngôn thật ra không phải là những mệnh lệnh độc đoán. Chúng cho thấy những điều dứt khoát phải làm, phải sống, để chuẩn bị đón Chúa đến và sống với Người, để đi vào hiệp thông trọn vẹn với Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mãi mãi Giáo Hội của Đức Kitô là một “đoàn chiên bé nhỏ”. Do đó, Giáo Hội phải luôn tin tưởng vào Vị Mục Tử của mình là Đức Kitô cũng như vào Chúa Cha. Sự tin tưởng đó phải được diễn tả ra bằng việc kiên trì sử dụng của cải vật chất mà tậu cho mình kho tàng đích thực trên trời.
2. Những con người, những tương quan, những sức mạnh thiên nhiên, các bệnh tật, các biến cố trong lịch sử… can thiệp dứt khoát vào cuộc sống của chúng ta và tìm cách chế ngự chúng ta. Đứng trước những sức mạnh và thế lực mà chúng ta cảm nhận rất rõ ấy, Thiên Chúa dường như ở xa và lại yếu đuối nữa. Chúng ta dám có thể cảm thấy mệt mỏi; dây liên kết chúng ta với Ngài ngày càng nên mong manh hơn, ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống chúng ta hơn. Chúng ta rất có thể để sang mộtbên nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ta và xử sự vô trách nhiệm theo tính ngẫu hứng. Hôm nay, Đức Giêsu lưu ý về những mối nguy ấy và cho biết Người sẽ ban gì cho những ai tỉnh thức và trung thành.
3. Tục ngữ có câu: “Xa mặt, cách lòng”. Chúng ta luôn cần có sự hiện diện của người khác, cần liên tục gặp gỡ người khác, để có mộttương quan bền chặt và sống động với người ấy. Để sống trong tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta phải luôn hướng về Người bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Cuộc sống của chúng ta phải luôn là mộtnỗ lực quy hướng về Người. Người có “xa mặt”, nhưng Người vẫn ở với “lòng” chúng ta; trái tim chúng ta phải “đầy” Người.
4. Hôm nay, bằng nhiều cách, Chúa Giêsu vẫn hiện diện: trong bánh và rượu là Mình và Máu Người; trong Lời Người; trong những người túng quẫn (x. Mt 25,31-46); trong mọi con người mà Người đã nắn đúc nên theo hình ảnh Người, mà càng ngày họ càng nên như thế do gặp gỡ sống động với Người. Chúng ta có thể và phải sống gắn bó mật thiết với Người. Khi đó, chúng ta đang tỉnh thức và sẵn sàng.
5. Chúa Giêsu không bắt chúng ta gắn bó với Người như những tên nô lệ, dù tư cách chúng ta đúng là như thế. Sự gắn bó với Người sẽ đưa tới niềm vui và hạnh phúc Người ban cho sau này. Người muốn chúng ta sống theo ý Người chỉ là để ban cho chúng ta tất cả.
6. Các thủ lãnh của cộng đoàn cũng được mời gọi suy nghĩ về cách mình đang chu toàn trách nhiệm. Các ngài phải “trung tín và khôn ngoan” trong khi thi hành bổn phận: Chúa Giêsu đã đặt các ngài lên coi sóc những người ở dưới quyền của Chúa để phục vụ họ. Đây là mộttrách nhiệm nặng nề vì đòi hỏi luôn luôn đúng giờ và trung tín; nếu họ lạm quyền, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Chúng ta cầu nguyện nhiều cho các ngài.
53. Hãy sẵn sàng - William Barclay
Qua dụ ngôn phú nông khờ dại Chúa cảnh cáo các môn đệ đừng để cho tâm trí bận bịu với việc lo làm giàu cách ích kỷ, rồi phải đặt niềm tin nơi Chúa quan phòng mà quên đi lo âu về cơm ăn áo mặc hàng ngày, nhưng phải quan tâm hết sức về Nước Thiên Chúa sẽ hiện ra khi gặp Ngài trở lại.
Về những biến cố trước khi Ngài trở lại, cùng những tình hình và hậu quả của sự trở lại ấy, Ngài sẽ dạy họ rõ ràng hơn trước khi Ngài qua đời; ở đây Ngài chỉ dạy họ giữ thái độ canh thức, ngụ ý rằng nếu lúc nào tâm trí họ cũng hướng về sự trở lại của Chúa, thì họ sẽ ở ngoài vòng cương tỏa của trần thế, của lo âu, để cần mẫn phục vụ Ngài.
Ngài minh họa thái độ canh thức ấy bằng dụ ngôn ông chủ trở về và kẻ trộm đến. Trong dụ ngôn đầu: ông chủ đi dự tiệc cưới, tôi tớ ở nhà ăn mặc tươm tất, chong đèn thức đợi, sẵn sàng đợi ông chủ về. Về đến nhà, ông hân hoan thấy họ kiên tâm như vậy, ông biểu lộ niềm vui bằng cách cho họ đồng bàn trong bữa tiệc họ đã dọn cho ông.
Dụ ngôn thứ hai biểu lộ chân lý việc đến bất ngờ của kẻ trộm. Trộm đến không bao giờ báo trước, nên chỉ còn một cách là lúc nào cũng rình chờ hắn đến. Chúa thêm: “Cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Tại đây cũng như nhiều chỗ khác, Chúa cho biết còn lâu nữa Ngài mới trở lại. Thời gian Ngài vắng mặt sẽ như một đêm dài, còn nhiều điều cần phải được biểu lộ, còn nhiều điều cần thiết trước khi Ngài trở lại. Thế nhưng họ không phải chờ đợi trong bồn chồn lo âu, hoặc ngày Ngài đến đã gần kề, nhưng chỉ cần họ đứng tại vị trí của bổn phận, trung thành thi hành công việc đã được trao phó cho.
Chúng ta có thể dựa vào thái độ canh thức, chú tâm đến sự trở lại của Chúa, mà đón định tư cách của các giáo sư và những người lãnh đạo Giáo Hội. Đó là động lực khiến Phêrô đưa ra câu hỏi. Ông hỏi rằng mọi người sẽ cùng hưởng phước hạnh về sự của Chúa ngang nhau hay những người như các tông đồ, đã phục vụ Chúa nhiều hơn sẽ lãnh phần thưởng lớn hơn. Chúa trả lời cho thấy đặc quyền lớn bao nhiêu thì thử thách lớn về trách nhiệm nặng hơn.
Như vậy đoạn Kinh Thánh này có hai ý nghĩa: nghĩa hẹp chỉ sự trở lại của Chúa vào ngày thế mạt, nghĩa rộng chỉ về thời điểm mà mỗi người chúng ta được gọi trình diện Thiên Chúa. Có lời khen ngợi là dành cho người đầy tớ biết sẵn sàng. Chiếc áo dài lướt thướt của Đông phương gây trở ngại khi làm việc. Vì thế để làm việc, người ta vén áo cao lên, buộc vào thắt lưng để hoạt động thoải mái. Chiếc đèn ở Đông phương chỉ là một sợi tim (bấc) thả trên một đĩa dầu. Tim đèn phải luôn luôn được cắt tỉa và đèn phải luôn luôn đầy dầu, nếu không đèn sẽ tắt. Không ai có thể nói ngày giờ nào cõi đời đời sẽ xâm nhập vào thời gian và khi nào tiếng gọi của Chúa sẽ đến.
Vậy chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta trong tình trạng thế nào?
1. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta lúc đã chu toàn bổn phận của mình.
Biết bao người trong chúng ta có đời sống dở dang, có những việc chưa làm và những việc mới làm một nửa. Có những việc bỏ bê và có những việc chưa bắt đầu. Các bậc vĩ nhân bao giờ cũng nghĩ đến bổn phận phải làm trọn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Con đã làm xong công việc mà Cha đã trao ban cho con”. (Ga 17,4). Không ai được coi thường, bỏ bê công tác mà mình phải chu toàn, hay có thể hoàn tất trước khi đêm đến.
2. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang sống hòa thuận cùng mọi người.
Thật đáng sợ nếu ta lìa khỏi thế gian này mà lòng còn cay đắng với một người nào. Không ai được để cho mặt trời lặn trên cơn giận của mình (Ep 4,26), nhất là khi mặt trời lặn lần cuối cùng trong đời mình, và ai có thể biết được ngày nào mình nhìn thấy mặt trời lặn lần cuối.
3. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang bình an với chính Ngài.
Trong giờ cuối cùng, chúng ta cảm thấy mình sắp phải gặp một người xa lạ, một kẻ thù, hay sắp được nằm yên trong vòng tay êm ái của Cha lành, đó là tất cả sự khác biệt.
Trong phần thứ hai của đoạn Kinh Thánh này, Chúa Giêsu cho biết thế nào là người quản gia khôn ngoan và không khôn ngoan. Bên Đông phương, người quản gia có quyền hạn rất rộng. Bản thân là nô lệ, nhưng anh ta có quyền điều khiển các nô lệ khác. Một quản gia tín nhiệm được coi sóc mọi việc trong nhà và điều hành gia tài của mình. Người quản gia không khôn ngoan đã phạm hai lỗi lầm:
1. Anh ta nói: “Ta sẽ làm theo ý thích của ta trong khi chủ ta đi vắng”, vì anh ta quên rằng ngày tính sổ phải đến. Chúng ta thường chia đời sống ra nhiều phần. Trong phần này của đời sống thì chúng ta nhớ Chúa hiện diện, trong phần khác thì chúng ta chẳng nghĩ đến Chúa chút nào. Chúng ta có khuynh hướng vạch một đường ranh giới giữa những hoạt động thiêng liêng và những hoạt động thế tục. Nhưng nếu hiểu rõ Kitô giáo là gì? Chúng ta hẳn biết rằng không có phần nào trong đời sống chúng ta khuất mắt của Chúa được. Chúng ta đang làm việc và sống động mãi dưới cái nhìn thấu suốt của Chủ Lớn của chúng ta.
2. Anh ta nói: “Ta có đủ thời giờ sắp xếp mọi công việc trước khi chủ đến”. Không có gì nguy hiểm cho bằng cảm tưởng là chúng ta có đủ thời giờ. Chính Chúa Giêsu phán: “Ta phải làm công việc của Đấng đã sai Ta đang khi còn ban ngày, đêm đến thì không ai còn làm việc được nữa” (Ga 9,4). Một trong những chữ rất nguy hiểm trong đời sống con người là chữ “ngày mai”.
Đoạn Kinh Thánh chấm dứt với lời cảnh cáo rằng sự nguy hiểu biết và đặc ân bao giờ cũng mang theo trách nhiệm. Tội trở nên nặng gấp đôi cho người nào hiểu biết mà cứ phạm. Thất bại sẽ đáng trách gấp đôi cho người nào có điều kiện để thành công mà lại không chịu lợi dụng các điều kiện ấy.
54. Muốn được cứu độ: “Hãy tỉnh thức!”
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Ngày 21/07/2013 vừa qua, giới ca sĩ và những người hâm mộ ca nhạc đã cảm thấy bàng hoàng sau cái chết của chàng trai ca sĩ Wanbi Tuấn Anh. Nhiều người đã bày tỏ cảm xúc tiếc thương cho số phận xấu số của anh. Anh ra đi vĩnh viễn ở tuổi ươm mơ dệt mộng khi mới 26 tuổi đời.
Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự, sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.
Như vậy, sự sống sự chết của mình không ai biết trước được. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, khi nhà thơ Nguyễn Khuyến nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng”; hay nói cách khác, muốn được sống: hãy học cách chết.
1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc” vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình; đồng thời ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời, thì Chúa Nhật này, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.
Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.
Còn hình ảnh “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khua là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.
Thật thế, ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi “hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta
“Hãy thắt lưng”; “hãy cầm đèn trong tay” là thái độ sẵn sàng để đón Chúa đến của mỗi người chúng ta. Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một Quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức như sau: gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã! Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… họ viện vào lý do là mình còn trẻ, vẫn khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân…Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng của mỗi người… Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.
Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật... Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương, là sám hối, canh tân, là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành. Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. “Maranatha: Xin Chúa hãy đến” phải là niềm mong đợi cho những ai có sự sẵn sàng. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với ta bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui thanh thoát vì đã chuẩn bị.
Được như thế, là chúng ta đang trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến với ta bất cứ lúc nào. Và, cái chết đến với ta như một “cõi đi về” trong hãnh diện: “Còn tôi, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi người” (2 Tm 4,6-8).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.
55. Trung tín và tỉnh thức – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào phóng và nhân ái.
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Phùng Huyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn, được ơn nghĩa với dân chúng.
1. Trung tín
Trong bài Phúc Âm hôm nay nói đến dụ ngôn người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau này (16,1-10).
Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản.
Trung tín từ việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tải sản khi chủ thấy người này đã trung tín với việc trước.
Khôn ngoan, người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc” và được cắt đặt coi sóc gia sản của chủ nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.
Người quản lý bất trung với hai khía cạnh tiêu biểu là đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống say sưa hay vì phân phát phần thực phẩm cho gia nhân. Người quản lý này bị chủ cho nghỉ việc vì đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.
Khi khen người quản lý khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Chúng ta chỉ là những người quản lý của Thiên Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng thôi. Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ rồi công lao dưỡng dục mỗi ngày “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Lớn lên, tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta.Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan. Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng.
2. Tỉnh thức
Chúa Giêsu lưu ý về của cải đích thực các môn đệ cần thu tích. Đó là của cải “chẳng bao giờ cũ rách” và “chẳng thể hao hụt”. Của cải trên trời, kho tàng trên trời hoàn toàn khác với của cải nơi trần gian. Của cải trần thế càng nhiều, lòng người càng nặng trĩu. Nặng trĩu lo âu. Kho tàng trên trời càng nhiều, lòng người càng thanh thoát. Bởi kho tàng trên trời là chính Chúa. Càng đến gần Chúa, được Chúa ở cùng, con người càng thoát khỏi những trói buộc của trần gian,trở nên nhẹ bổng, tự do.Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian. Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Càng nuôi lòng khao khát, lòng dạ hướng về kho tàng của Chúa nên tâm hồn phong phú bởi chính của cải tràn trề chất đầy kho tàng. Đó là của cải tình yêu như Chúa đã nói: “Kho tàng anh em em ở đâu, lòng anh em cũng ở đó”.
Để luôn hướng lòng về Chúa là kho tàng đích thực, con người phải tỉnh thức luôn. Chúa Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về. Người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về không thể biết đích xác giờ phút của chủ. Thời giờ hoàn toàn tùy thuộc chủ. Tôi tớ không can dự việc riêng của chủ. Phận tôi tớ là làm theo ý chủ. Người chủ muốn tôi tớ trung thành. Lòng trung thành thể hiện qua sự trung tín trong mọi việc được chủ trao phó. Trung thành chờ đợi giờ phút chủ trở về nên luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
Thứ bảy tuần 18 thường niên – THÁNH LÔRENXÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. Lễ kính.
"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Phó tế Lôrenxô chịu tử đạo tại Rôma ngày 10 tháng 8 năm 258, sau đức Xít-tô II bốn ngày. Chuyện kể rằng người phải chịu cực hình lửa thiêu trên một chiếc giường sắt sau khi người đã phân phát cho người nghèo tài sản của cộng đoàn. Ngay từ thế kỷ IV, lòng tôn kính người đã phổ biến trong Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 12, 24-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tài sản của Giáo Hội
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô.
Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...
Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.
Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...
Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Hy Sinh Và Phục Vụ
Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, vì kẹt quá nên đành phải làm như vậy”. Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà mà không có người cho thì không giá trị.
- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.
- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Laurensô vì tình yêu Chúa.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con Lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Vì công nghiệp của thánh Laurentio tử đạo, xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Laurensô
Ca nhập lễ, lễ thánh Laurensô viết rằng: “Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”.
Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh. Thời GiáoHội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dậy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”(Ga 12,26)
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Lm. Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 4: Thánh Laurensô (+258)
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt.
Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.
(‘Hạnh Tích Các Thánh’)
SUY NIỆM 5: Mang nhiều hoa trái (Thánh Laurensô, phó tế tử đạo)
Suy niệm:
Khi nghĩ đến cái chết sắp đến của mình,
Đức Giêsu lại nghĩ đến thân phận hạt lúa mì.
Ngài nói một điều mà ai cũng biết như một định luật tự nhiên,
một điều chẳng làm ai ngỡ ngàng kinh ngạc.
Nếu một hạt lúa rơi xuống đất và không chết đi, nó trơ trọi một mình;
nhưng nếu nó chết đi, nó mới mang nhiều hoa trái” (c. 24).
Đức Giêsu ví mình như hạt lúa đem gieo.
Điều kiện để đời Ngài đơm bông kết trái, đó là cái chết.
Không chấp nhận chết đi, hạt lúa vẫn chỉ là hạt lúa trơ trọi.
Đức Giêsu không muốn mình là thứ hạt lúa ấy,
được bao bọc vững chắc bởi lớp vỏ, cố giữ cho mình được nguyên vẹn,
vì thế cũng chẳng chịu vươn ra khỏi mình,
chẳng dám đánh mất chính mình để nảy mầm sinh hạt.
Đức Giêsu đã đón lấy cái chết như con đường để sự sống sinh sôi.
Cái chết của Ngài trên thập giá có khả năng kéo được mọi người lên (Ga 12, 32),
và thu hút cả vũ trụ về với Thiên Chúa.
Có một hạt lúa mang tên Giêsu.
Hạt lúa ấy đã chấp nhận chịu mục nát,
để cả thế giới trở thành đồng lúa thơm trĩu hạt.
Mỗi Kitô hữu cũng là một hạt lúa, được mời gọi để sống như hạt lúa Giêsu.
“Ai yêu mạng sống của mình, thì sẽ mất nó;
còn ai ghét mạng sống của mình ở trần gian này,
thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (c. 25).
Vấn đề là yêu hay ghét cuộc sống ở đời này.
Kitô hữu không phải là những kẻ chán đời hay khinh rẻ cuộc đời tại thế.
Ghét mạng sống ở đây chỉ có nghĩa là không đặt nó lên chỗ cao nhất,
không để nó chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Chính khi nhận ra giá trị tương đối của cuộc đời trần thế này,
chúng ta mới có hy vọng giữ được nó mãi mãi.
Ngược lại, thái độ bám chặt vào đời này, gắn bó với nó một cách lệch lạc,
lại dẫn đến việc đánh mất hạnh phúc, cả đời này lẫn đời sau.
Thánh Laurensô đã bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt,
sau khi ngài đã phân phát tài sản của cộng đoàn cho người nghèo.
Thầy phó tế Laurensô đã sống như người phục vụ cho Đức Kitô (c. 26)
bằng cuộc sống và cái chết tử đạo năm 258.
Được ở bên Thầy Giêsu mãi mãi và được Cha Thầy quý trọng,
đó là điều Laurensô được hưởng và cũng là hy vọng của chúng ta.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người,
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
09/08 Theo Chúa, hãy vác thập giá
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Theo Chúa, hãy vác thập giá.
Thứ sáu tuần 18 thường niên.
"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".
Lời Chúa: Mt 16, 24-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Giá Trị Của Khổ Ðau
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.
Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà thôi.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cần Phải Yêu Tôi
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt. 16, 24-26)
Đây là vấn đề lớn được Đức Kitô nói với mỗi người chúng ta! Bạn có yêu tôi không? Bạn có yêu tôi hơn những người kia không? tình yêu của bạn đối với tôi tới mức nào? bạn yêu tôi thì hiến trọn vẹn tình yêu của bạn, ai yêu như thế thì không còn là mình nữa, nhưng hoàn toàn là người mình yêu!
Yêu…
Bạn thấy không: Đức Kitô yêu chúng ta trọn vẹn. Người hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và hỏi chúng ta có yêu Người trọn vẹn không? chúng ta hãy hiến dâng mình để sống được cảm nghiệm được tình yêu biết yêu mến độc nhất ấy! Hãy hỏi mình xem đã yêu bao nhiêu. Có giống Người không? có yêu đến cực điểm của con người mình không? có như Người yêu chúng ta đến giọt máu cuối cùng không?
Không phải chúng ta đã làm Đức Kitô chết, nhưng chính Người đã tự hiến mạng sống Người cho mỗi người chúng ta. Và Người có quyền hỏi chúng ta bằng câu cốt yếu độc nhất này: bạn có yêu tôi không?
Dù ở hoàn cảnh nào, nghề nghiệp nào, Đức Giêsu đều hỏi: bạn có yêu tôi không?
Không có thể so sánh với người khác. Đây là câu hỏi cho chính bản thân mình, mỗi cá nhân hãy tự hỏi và tự trả lời một cách tự do, một câu trả lời hợp với khả năng yêu mến của mình.
Ngày nay.
Phải nói rằng Thiên Chúa gần chúng ta một cách kỳ lạ, hằng ngày trong đời sống chúng ta, kích thích từng tiếng nói của chúng ta để lời Ngài 2000 năm được hiện tại hóa vào nếp sống con người chúng ta ngày nay.
Tình yêu không biên giới, không già, khắc phục mọi xa cách không gian và thời gian!
“Thiên Chúa của tôi nói với tôi,
Con ơi! cần phải yêu Cha…” (Verlaine)
J.M
SUY NIỆM 3: TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐI THEO CHÚA (Mt 16, 24-28)
Xem lại CN 22 TN A.
Ngày nay, khi đi phỏng vấn để xin việc, người ta thường đòi hỏi những điều kiện về sức khỏe và chuyên môn, đồng thời tùy một số công việc đặc thù, cần phải có sự thỏa thuận cụ thể hơn. Cũng vậy, khi được gọi để trở thành môn đệ, Đức Giêsu cũng đòi hỏi người môn sinh phải hội đủ những điều kiện cần thiết để chu toàn bổn phận của người thừa sai, hầu những ai được gọi và chọn thì đều cảm thấy hạnh phúc khi thi hành sứ vụ của người sai đi.
Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu đòi hỏi những người Ngài muốn gọi và chọn để ra đi thi hành sứ vụ cần phải “từ bỏ mình và vác thập giá theo Ngài”.
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Tuy nhiên, nhìn dưới khía cạnh của Kinh Thánh, thì sự đòi hỏi này của Đức Giêsu mang tính tự do cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. Tức là tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, hay ăn trên ngồi trước, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi và niềm vui của kẻ khác.
Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo, tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường hẹp. Con đường của hy sinh, thiệt thòi. Con đường của tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Thật vậy, từ bỏ chính mình quả là điều khó nhất, bởi vì: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). Nhưng nhiều người lại có suy nghĩ là: bỏ tất cả, nhưng từ bỏ mình thì nhất quyết không, bởi vì họ từ bỏ cái tôi thì phải chăng họ không còn là họ nữa!
Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết an vui khi chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Từ bỏ chính mình
Suy niệm:
Con đường của người môn đệ Thầy Giêsu là con đường không êm ả.
Ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần đầu về số phận sắp đến của mình,
Ngài đã nói đến số phận của các môn đệ (cc. 24-28).
Họ được mời chia sẻ cùng một thân phận với Thầy và như Thầy.
Thầy trò sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết.
Nhưng cuối cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21).
Phục sinh, sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng.
Chiến thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện.
Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này.
Đây thật là một liều lĩnh của đức tin,
vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng.
Cuộc đời này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng.
Nhưng lắm khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn,
cho Đấng là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị.
Cái tôi của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi.
Chẳng có hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa.
Cùng với cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác…
Chúa còn ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ,
và cả một thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em.
Cái tôi là món quà quý nhất Chúa ban cho tôi.
Cái tôi cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa.
Nhiều tôn giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã.
Đức Giêsu cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình,
không phải vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét,
nhưng chỉ vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó.
Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm,
và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.
Thầy Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế.
Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Cha sai.
Lạ thay, chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không,
thì Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9).
Trong Kitô giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ.
Cái tôi ấy cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan.
“Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25).
Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn.
Chẳng thể nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình.
Có khi từ bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng,
cũng khó như một hy sinh mạng sống.
Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày,
vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.
Thầy Giêsu đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết.
Vì Thầy là Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống,
nên chúng ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
08/08 Vác Thập giá theo Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Vác Thập giá theo Chúa.
Thứ năm tuần 18 thường niên – Thánh Đaminh, linh mục. Lễ nhớ.
"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha.
Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Lời Chúa: Mt 16, 13-23
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: "Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô".
Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Trưởng Thành Trong Ðức Tin
Chúng ta hãy chú ý đến thái độ sống của hai nhân vật nổi bật trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô. Trước khi mạc khải rõ ràng hơn về vận mệnh phải chịu đau khổ của mình, Chúa Giêsu khơi dậy lòng tin của các môn đệ đã từng sống với Ngài, nghe lời Ngài giảng dạy, thấy những việc lạ Ngài làm qua câu hỏi: "Dân chúng nghĩ Con Người là ai? Và các con, thì các con nghĩ như thế nào?". Sau lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Giêsu nói về quyền đứng đầu của Phêrô, về sự đau khổ Chúa sẽ phải chịu tại Giêrusalem để các môn đệ đừng có những hy vọng không đâu. Sai lầm! Cần khám phá ra thực thể của Chúa để theo Chúa cách trọn vẹn. Mạc khải của Chúa không hòa hợp được với quan niệm còn trần tục, chưa được thanh tẩy của Phêrô. Vì thế, ông đã căn ngăn Chúa: "Thưa Thầy, làm sao như vậy được. Xin cho chuyện khổ này đừng xảy ra cho Thầy". Và Phêrô đã bị khiển trách: "Satan, hãy lui ra khỏi mắt Ta". Trước đó không lâu, Phêrô được khen, nhưng liền sau đó là bị khiển trách vì ông chưa được thanh luyện. Dĩ nhiên, vào thời điểm này, tông đồ Phêrô và những tông đồ khác còn cần ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để tin trọn vẹn vào một Vị Thiên Chúa chấp nhận khổ đau, chịu chết cách nhục nhã rồi sẽ sống lại. Phêrô và các môn đệ còn cần ơn Chúa Thánh Thần để được ơn Chúa dẫn đến sự thật trọn vẹn và làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương giúp con được trưởng thành trong đức tin. Xin cho con được biết đúng và chấp nhận Chúa cách trọn vẹn. Xin cho con được theo Chúa đến cùng.
SUY NIỆM 3: Phêrô Của Đức Giêsu
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, thì trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt. 16, 15-19)
Sự tuyên xưng đức tin của Phê-rô, Đức Giêsu chọn Phê-rô đứng đầu Giáo Hội Người, sự trao đổi giữa Phê-rô và Đức Giêsu, điều đó rất rõ, người ta viết nhiều về điều đó! điều đáng chú ý nữa là bạn thâm sâu và trưởng thành cũng như lòng tin cậy giữa Phê-rô và Đức Kitô luôn bền vững.
Phê-rô.
Phê-rô được Đức Giêsu chọn đứng đầu. Người ta thấy luôn luôn gần gũi Đức Giêsu như một nhân vật giữ gìn chìa khóa. Đức Giêsu luôn quan tâm đến giây phút cuối cùng, Phê-rô có nhiều lầm lỗi, tuyên bố quá đáng, phản kháng mạnh mẽ, những vui vẻ chất phát hào phóng và có thiện cảm kỳ lạ. Ông yêu mến Đức Giêsu! Cảm phục Người không chút dè dặt. Đức Giêsu yêu mến ông vì sức mạnh mẽ tự nhiên này, Người hoàn toàn tín nhiệm ông. Chính ông là nền tảng Đức Giêsu xây đá Hội Thánh, chính ông được Đức Giêsu trao chìa khóa Nước Trời, khi Đức Kitô nói với các môn đệ, Phê-rô đã tự mình làm xướng ngôn viên, ông đã phát biểu: “Thầy là Con Thiên Chúa Hằng Sống” chính ông hiểu ra ông sẽ là người đầu tiên bước theo gót của Thầy.
Không có những ủy mị hào phóng.
Thật ngồ ngộ, vui vui, và thật cảm động! khi Đức Kitô loan báo về việc khổ nạn và cái chết của Người, Phê-rô phản đối Người! Chớ dại, sao lại đi nộp mình vào tay quân thù!
Đức Giêsu và Phê-rô được các môn đệ và đám đông vây quanh. Hai người không bước đồng hành với nhau, nhưng tháp tùng nhau, hai người sát cánh nhau đến cùng!
Đức Giêsu đến lượt Người phải quay lại khiển trách Phê-rô. Người quở mắng thẳng thừng bạn đồng hành thứ nhất của mình, bạn tri ân, bạn đáng tin cậy nhất của mình.
Một tình bạn không chịu cho người khác hòa giải, cũng không ủy mị hào nhoáng. Nếu người ta muốn biết quy tắc của tình bạn, chúng ta chỉ mở Tin Mừng ra và đồng hành với Đức Giêsu và Thánh Phê-rô đã sống làm bạn với nhau là quá đủ.
J.M
SUY NIỆM 4: CẦN TUYÊN XƯNG ĐỂ ĐÓN NHẬN SỨ VỤ (Mt 16, 13-23)
Xem lại CN 21 TN A,
lễ kính Toà Thánh Phê-rô 22/2, lễ thánh Phê-rô và Phao-lô 29/6
"Người ta bảo Con Người là ai?".
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Ngài và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê, đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn nhau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias - thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống các tiên tri mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó, nên đã hỏi trực tiếp các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô đã thay mặt anh em lên tiếng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống ”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin và không hiểu biết gì về Người Trao.
Vì vậy, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”, đồng thời, Ngài cũng đặt gánh nặng lên vai Simon Phêrô: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” và “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".
Khi nói Phêrô là “Đá Tảng”, Đức Giêsu cho biết, đây là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi.
Thứ ba, khi đặt Phêrô làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội, Đức Giêsu muốn chúng ta tin rằng:
Giáo Hội được Ngài thiết lập trên “Đá Tảng” là Phêrô, và chúng ta là người được ở trong tòa nhà đó, hẳn chúng ta phải xác tín rằng: “quyền lực tử thần sẽ không phá nổi”.
Thật vậy, trải qua biết bao thế kỷ, Giáo Hội luôn đứng vững trước sự công phá của ma quỷ, không những thế, Giáo Hội còn giải thoát con người khỏi ách của tội lỗi... và sự chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Đức Kitô, vì “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”. Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa Giải. Vâng phục, yêu mến đấng thay mặt Chúa, kế vị Thánh Phêrô là Đức Giáo Hoàng. Đồng thời luôn biết thể hiện tinh thần hiệp thông để xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này, hầu cho nhiều người nhận biết “Ðức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Anh là tảng đá
Suy niệm :
Chúng ta đã quen cầu nguyện cho Đức giáo hoàng với bài hát:
“Này con là đá, trên viên đá này Ta xây Giáo hội…”
Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),
Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.
Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:
“Anh là Petros (Phêrô), và trên petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”
Rất có thể Ngài đã nói với Simon bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:
“Anh là Kêpha, và trên kêpha này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”
Người Do Thái hầu như không có thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.
Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.
Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).
Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội, là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.
Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),
một con người bình thường, một ngư phủ ít học.
Làm sao Giáo hội có thể xây nền trên một con người yếu đuối như thế?
Kêpha vững như bàn thạch không nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.
Quyền lực của Tử thần, của Ác thần không thắng được cộng đoàn này.
Bất chấp những tấn công trong ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,
Giáo hội vẫn đứng vững trên nền đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,
đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),
và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.
Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối của mình.
Khi Thầy Giêsu loan báo về con đường khổ nạn và cái chết sắp đến,
Phêrô không thể chấp nhận được con đường hẹp này.
Dù đã được Cha mặc khải để biết Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
nhưng Phêrô lại chưa thể hình dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).
Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.
Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững chắc (kêpha, petra)
Phêrô trở thành viên đá làm cho Thầy vấp phạm (scandalon),
trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy đến từ Satan (c. 23).
Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.
“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).
Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí đi sau của người môn đệ.
Cần có thời gian Phêrô mới hiểu được con đường Thầy đã đi.
và tự nguyện đón lấy cái chết thập giá mà chính Thầy đã chịu.
Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo
là cám dỗ muôn thuở mà Thầy Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,
cũng là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.
Làm thế nào để chúng ta nghĩ như Thiên Chúa, chứ không như thế gian,
chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa trên khắp hoàn cầu,
Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất nhiều tình yêu.
Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà thờ, cần chủ chăn,
những đồng lúa chín vàng chờ người gặt.
Xin nhìn đến những thánh đường vắng bóng giáo dân,
những chủng viện và tập viện phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.
Xin thương những kitô hữu đang bị bách hại ở nhiều nơi,
và bao người trẻ mất đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng gió bên ngoài và bên trong.
Xin cho Hội Thánh biết không ngừng canh tân nhờ Thánh Thần,
để có thể đồng hành và đối thoại với con người hôm nay.
Xin cho các kitô hữu sống thánh thiện như Cha trên trời.
để những khiếm khuyết của chúng con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.
Cuối cùng, xin Chúa cho Hội Thánh chúng con những vị thánh mới,
tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ như Chúa,
để cuộc sống ngát hương của họ khiến Hội Thánh đáng tin hơn,
và chinh phục được những tâm hồn chưa biết Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
07/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lòng tin bà mẹ ngoại giáo.
Thứ tư tuần 18 thường niên.
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
Lời Chúa: Mt 15, 21-28
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sống Niềm Tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tâm Hồn Khiêm Tốn (Mt 15,21-28)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
SUY NIỆM 3: Một Con Chó Biết Ơn.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
SUY NIỆM 4: NHỜ NIỀM TIN CỦA MẸ MÀ CON ĐƯỢC CỨU SỐNG
Xem lại CN 20 TN A.
Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!
Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.
Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.
Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???
Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác...
Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm... như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Lòng tin của bà lớn thật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
06/08 Chúa biến hình trên núi Ta-bo
- Viết bởi Lc 9, 28b-36
Chúa biến hình trên núi Ta-bo.
06/08 – Thứ ba tuần 18 thường niên – CHÚA HIỂN DUNG năm C. Lễ Kính.
"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Lc 9, 28b-36
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người.
Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu.
Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa biến hình
(Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Câu truyện Chúa Giêsu biến hình đã được phụng vụ nhắc tới trong ngày Chúa nhật II mùa Chay đề hướng lòng tín hữu về mầu nhiệm Phục sinh hầu biết đi con dường chay tịnh khổ gía của Người. Hôm nay phụng vụ nhắc lại câu truyện ấy có lẽ vì ngày 6 tháng 8 kỷ niệm cung hiến Đền thờ Chúa biến hình trên núi Taibor.
Câu truyện lịch sử
Cả ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố này. Sách Tin Mừng Gioan ám chỉ đến trong đoạn kể có một số người Hy lạp bấy giờ muốn được trông thấy Đức Yêsu (12,20-32). Người liền nói: Giờ đã đến cho Con Người được tôn vinh. Và lập tức có tiếng từ trời đến: "Ta đã tôn vinh Danh Ta và Ta sẽ lại tôn vinh". Còn chính thánh Phêrô, một trong ba môn đệ đã được chứng kiến cảnh biến hình, thì đã kể lại một cách vắn tắt như ta đọc thấy trong bài thư hôm nay. Riêng các thư Phaolô không bao giờ trực tiếp nói đến câu truyện này. Nhưng ánh sáng của Chúa Giêsu phủ xuống người trên đường Đama không phải là vinh quang của Đấng đã có lần biến hình sao? Và chắc chắn câu truyện Chúa biến hình đã giúp Phaolô nhiều lắm khi người nói với các tín hữu về việc phải đổi mới và biến dạng sang Chúa Giêsu Kitô. Nói tóm lại, việc Chúa Giêsu biến hình là một biến cố lịch sử trong cuộc đời của Người, đã được nhiều nơi trong các sách Tân Ước hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp mô tả và gợi lên, để chúng ta thấy rõ đây là một mầu nhiệm quan trọng.
Vậy biến cố ấy đã xảy ra như thế nào ?
Bài Tin Mừng Matthêu chúng ta vừa nghe đọc bắt đầu bằng những chữ: "6 ngày sau". Và đọc lên chúng ta thấy đó là 6 ngày sau hôm đức Giêsu lần đầu tiên nói cho môn đệ biết Người sẽ bị nộp, bị bắt, bị đánh. Bị xử, bị giết, nhưng sẽ sống lại ngày thứ ba. Lời tuyên bố ấy khiến môn đệ ngỡ ngàng, chẳng hiểu gì cả và nhất là quả quyết không thể xảy ra. Đức Giêsu không những khẳng định lại mà còn tuyên bố thêm: chính các môn đệ và những ai muốn theo Người cũng phải vác thập giá mình mà đi theo.
Thật là một mạc khải lạ lùng làm cho nhiều người suy nghĩ và có thể bắt đầu buồn phiền. Thấy họ chưa hiểu hết ý của Người vì không phải Người chỉ nói thập giá mà còn khẳng định sẽ Phục sinh. Và thấy họ vì thế đâm ra buồn phiền, Đức Giêsu đã hứa cho họ được xem thấy vinh quang và quyền năng của Người. Nói đúng hơn, Người chỉ hứa như vậy cho một số người trong bọn họ thôi. Và thế là 6 ngày sau, ba môn đệ được đưa lên núi để xem thấy vinh quang của Người trong lúc biến hình.
Chúng ta hãy khoan quả quyết việc biến hình này kí ý thực hiện lời hứa cách đây 6 hôm. Chúng ta chỉ tạm ghi nhận việc ấy xảy ra 6 hôm sau ngày Đức Kitô tuyên bố lần đầu tiên về cuộc khổ nạn của Người.
Vậy Người đã đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi. Không biết núi nào. Chỉ biết khi ở trên núi, Người đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Người chói như mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Rồi có Elia và Môsê hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ Phêrô lên tiếng xin làm ba lều. Nhưng có tiếng từ một đám mây sáng vừa đến bọc lấy các Ngài át đi. tiếng ấy nghe rõ mồn một : "Ngài là Con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ các ngươi hãy nghe Ngài". Ba môn đệ liền sấp mặt xuống đất. Nhưng Đức Kitô đã cúi xuống nâng họ dậy. Khi ngẩng lên, họ chỉ còn thấy Đức Giêsu là một người y như mọi khi.
Câu truyện biến hình chỉ có như vậy. Lâu chừng nào ? Chẳng ai biết. Nhưng ý nghiã của nó thì thật thâm sâu.
B. Ý nghĩa của câu truyện
Ý nghĩa đầu tiên, chúng ta đã đoán được. Đức Giêsu muốn phấn chấn lòng các môn đệ sau một tuần lễ sống nặng nề trong viễn tượng Con Người sẽ bị nộp, bị giết và các môn đệ cũng phải vác thập giá. Chính vì vậy mà Phụng vụ đã nhắc lại câu truyện Chúa biến hình ở đầu mùa Chay. Chúa cho các môn đệ thấy vinh quang của Người để họ không mất niềm tin khi thấy Người bị khổ nhục.
Nhưng theo cách tường thuật của các bản Tin Mừng thì Chúa biến hình sẽ không giống lắm với Chúa phục sinh. Sau khi Người sống lại, các môn đệ sẽ không thấy Người mặt chói như mặt trời, áo trắng như ánh sáng. Ho cũng sẽ không thấy ai tháp tùng Người khi hiện ra và sẽ chẳng nghe thấy tiếng nào phát ra tự một đám mây sáng... Tức là khi thuật lại việc Chúa biến hình, tác giả các sách Tin Mừng không tựa vào những điều đã xem thấy nơi Chúa Giêsu Phục sinh. Thế nên có thể nói khi biến hình, Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cho môn đệ được phấn chấn; và có lẽ Người đã không muốn trực tiếp tiên báo việc phục sinh. Có những ý nghĩa ấy, nhưng không phải là những ý nghĩa duy nhất. Còn có thể có những ý nghĩa sâu xa hơn. Hay ít ra phải hiểu các ý nghĩa kia sâu xa hơn nữa.
Chúng ta có thể nói được rằng Đức Giêsu đã muốn phấn chấn lòng các môn đệ thật, nhưng bằng cách mạc khải cho họ hiểu hơn về con người của Ngài hơn là chỉ cho họ thấy trước một điều gì chưa xảy đến ở nơi Ngài và cho Ngài. Cao điểm của câu truyện này là tiếng phán ra từ trong đám mây: Ngài là con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài! Rõ ràng Chúa Cha muốn tuyên bố: Đức Giêsu là Con Một, là Tôi tớ được sủng mộ và là Tiên tri của Người. Cách đây 6 ngày Ngài tuyên bố Ngài sẽ bị nộp, bị giết khiến môn đồ sa sầm nét mặt, tưởng kết cục Ngài sẽ chỉ là người Tôi tớ bị treo trên Thập giá. Nay chính Thiên Chúa công khai mạc khải Ngài là Con Chí ái và người ta phải nghe Ngài. Chúa Cha phán như vậy để công nhận việc tự hạ của Đức Giêsu và nâng Ngài lên; nhưng nhất là để môn đệ luôn luôn tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Tiếp theo Chúa Cha còn nói: Đức Giêsu là kẻ được Người sủng mộ. Và điều này cũng rất quan trọng. Nó gợi lên hình ảnh Người Tôi tớ trong sách Isaia, và là Người Tôi tớ làm thỏa mãn Thiên Chúa (Ys 42,1). Nó nhấn mạnh đến việc "làm mãn nguyện lòng Thiên Chúa" hơn là đến tư cách là Tôi tớ. Nghĩa là Chúa Cha tỏ ra hài lòng về lối làm việc của Đức Giêsu, về việc Ngài cứu thế bằng đau khổ, về thái độ khiêm cung nhẫn nhục của Ngài trong mầu nhiệm thánh giá.
Thế nên Đức Giêsu thật là Vị Tiên tri của Thiên Chúa, là Đấng đem sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Sứ điệp này nằm trong mầu nhiệm thánh giá như chúng ta vừa thấy. Mọi người phải nhận lấy, kẻo bị gạt khỏi Nước Trời.
Trước nhưng mạc khải như vậy, môn đệ không có cách nào khác hơn là sấp mặt xuống đất vì kinh sợ. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Thiên Chúa không để con người ở trạng thái đó đâu; nếu không, mạc khải của Người chỉ đè bẹp mà không thăng tiến người ta. Kính sợ Chúa chỉ là đầu sự khôn ngoan. Đó là điều kiện để nhận được chính sự khôn ngoan cũng là chính sự cứu độ và hạnh phúc. Khi thấy các môn đệ đã có thái độ ấy, Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc con người, đã đến gần, động vào họ, cho họ ngẩng lên và được an thái.
Ho thật có phúc. Ho đã được mạc khải về Con Người, được sống đầy đủ ơn lành của mạc khải đó, dù trong chốc lát. Thánh Phêrô sau này có thể bỏ rơi mọi yếu tố kỳ diệu của quang cảnh hôm nay. Và trong đoạn thư của người chúng ta vừa nghe đọc, người như không cần nhắc lại nhiều chi tiết. Nhưng nội dung cốt yếu của sự việc thì người đã thuật lại cách rõ ràng. Người nói chính chúng tôi đã được phúc cung chiêm sự uy nghi lẫm liệt của Ngài. Và đó mới thật là ý nghĩa sâu xa của câu truyện Biến hình, để chúng ta thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa rất đẹp lòng Người, nên ai muốn đẹp lòng Thiên Chúa, phải biết nghe lời Ngài, tức là sống theo Ngài.
Và để làm nổi bật lời mạc khải ấy, tác giả các sách Tin Mừng còn bao bọc câu truyện biến hình bằng nhiều chi tiết ý nghĩa.
Như chúng ta đã nói, cuộc biến hình không được mô tả theo khuôn mẫu của các lần Chúa sống lại hiện ra. Vì mục đích của những lần hiện ra này không phải để cho môn đệ nhìn thấy vinh quang của Con Người, mà chỉ cốt. cho họ tin Đấng đã chết bây giờ đang sống. Còn việc Đức Giêsu biến hình có ý nghĩa sâu xa như chúng ta đã trình bày, để môn đệ thấy Người uy nghi lẫm liệt. Do đó tác giả các sách Tin Mừng đã dùng lối văn khải huyền, giống như đoạn sách Đaniel ở bài đọc I.
Nhà tiên tri nhìn thấy một con người được tham dự vinh quang của Thiên Chúa. Đó là Đức Kitô trong ngày được tôn vinh khi thời gian đã mãn, theo lời giải thích của thánh Gioan trong sách Khải huyền. Đó cũng là Đức Giêsu trong mầu nhiệm biến hình vì Con Người mà ba môn đệ nhìn thấy uy nghi lẫm liệt hôm nay, mọi người sẽ được cung chiêm khi lên Núi Thánh.
Các sách không nói Chúa Giêsu đã biến hình trên núi nào. Không phải trên núi Sion. Nhưng trên một núi "rất cao". Và như vậy để nói lên tính cách xuất thế của nơi cao vời chốn thiên cung mà Đức Giêsu sẽ đi vào.
Và cũng chính vì thế mà sắc diện của Chúa Giêsu chói như mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Đó là những màu sắc vinh hiển của các người công chính ở trong Nước Chúa, theo như các tiên tri thường nói (Đn 12,3). Và điều này làm chứng thêm mục đích của việc biến hình muốn mạc khải thần tính của Đức Giêsu và sự sống của Người nơi vinh quang Thiên chúa, hơn là muốn báo trước sự phục sinh của Người.
Hai nhân vật Môsê và Êlya có thể được coi như hiện thân của Luật pháp và Tiên tri đến chứng tỏ cho uy thế của Đức Giêsu. Nhưng đúng hơn có lẽ nên coi Môsê là là tiên tri uy tín nhất đến nhường chỗ lại cho Vị Tiên tri mới thành Nazarét ; và Êlya theo truyền thống là con người phải trở lại khi Đấng Thiên sai đến. Cả hai nói lên địa vị ưu việt của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ vào thời gian sung mãn.
Như vậy Phêrô có lý khi bày tỏ hạnh phúc được tham dự mạc khải cao quý này. Ông chỉ hơi ngây ngô lúc muốn xin làm ba lều. Chắc không phải vì đang sống trong tuần "Lễ Lều" của người Do thái nên ông nghĩ đến điều đó. Ông chỉ muốn được ở mãi trong sự chiêm ngưỡng kia. Ông quên mất rằng mới chỉ có ba môn đệ được thấy. Còn cả nhân loại nữa chứ ! Thiên Chúa muốn rằng tất cả chúng ta sẽ được đưa vào trong vinh quang của Người.
Kìa một áng mây sáng đến bao trùm lấy họ, và giữa đám mây ấy là Đức Giêsu Kitô đang được Chúa Cha tôn vinh bằng những lời cao cả: "Ngài là Con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài". Áng mây và tiếng nói cũng làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa đến dạy bảo chúng ta. Phải, chúng ta hãy nghe lời Đức Giêsu Kitô để có ngày được đưa vào vinh hiền của Thiên Chúa, như các môn đệ trong cuộc biến hình hôm nay. Và cho được như vậy, chúng ta hãy rút ra những bài học cụ thể của câu truyện này.
C. Những bài học cụ thể
Cho dù việc Chúa Giêsu biến hình không trực tiếp muốn tiên báo việc Người phục sinh, nó vẫn muốn phấn chấn lòng các môn đệ để họ tin vào Người hơn. Và điều này Chúa cũng muốn làm cho chúng ta, đặc biệt trong các thánh lễ Chúa nhật. Ở đây cũng có mầu nhiệm biến hình. Hoa màu ruộng đất và lao công vất vả của con người đã biến nên bánh rượu, để rồi qua Lời toàn năng biến thành Thịt Máu Chúa. Không những Chúa nên lương thực nuôi chúng ta, mà lao công vất vả cùng đời sống chúng ta, tuy nhạt như giọt nước, cũng sẽ được hòa vào với rượu để trở nên Máu Thánh.
Chúng ta được đưa vào mầu nhiệm, sâu sắc hơn cả ba môn đệ khi được đưa vào áng mây trên núi biến hình. Vậy nếu Phêrô đã phấn khởi và suốt đời không thể nào quên được diễm phúc ở trên Núi thánh, thì vì sao chúng ta lại không cảm thấy được phấn chấn và khích lệ khi tham dự thánh lễ ? Mầu nhiệm biến hình mạc khải cho môn đệ biết nhìn Đức Giêsu là Con Chí ái của Thiên Chúa là đường lối cứu thế của Người đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Thánh lễ không cho chúng ta thấy danh tính đích thực của chúng ta và của anh em hơn hay sao ? Chúng ta và mọi người, bề ngoài cũng chỉ như "con bác thợ mộc thành Nazarét"; nhưng nhờ việc kết hợp với Thiên Chúa, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu, những Kitô hữu phản ánh khuôn mặt Đức Kitô.
Chúng ta đã nhắc đến truyện Saulô trên đường đi Đama. Ông đã được bọc trong ánh sáng của Đức Kitô vinh hiển; và từ trong ánh sáng ấy ông đã được nghe biết mọi Kitô hữu là con chí ái của Ngài. Và Phaolô đã thay đổi hẳn thái độ đối với các tín hữu: thay vì bách hại, từ đó ông chỉ biết phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Đó là điều không đáng ao ước cho chúng ta hay sao ?
Rồi cũng trong thánh lễ, chúng ta được học biết đường lối của Chúa Cứu thế. Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang. Chúng ta muốn được đưa vào vinh quang của Người cũng phải sẵn sàng phấn đấu chống dục vọng và ích kỷ để lột bỏ con người cũ và biến sang con người mới.
Nói tóm lại, ở đây khi cử hành thánh lễ, chúng ta như được đem lên Núi thánh để tham dự vào mầu nhiệm biến hình của Chúa. Người trở thành lương thực cho chúng ta để kết hiệp với chúng ta sâu xa hơn ở trong "lều" như Phêrô đã xin. Và khi biến mình nên lương thực như thế, Người muốn chúng ta đổi mới cái nhìn về anh em. Mọi người rước lấy Mình Thánh Chúa được đưa vào Thân thể mầu nhiệm vinh hiển của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta luôn phải nhìn anh em trong mầu nhiệm Nước Trời và phải có tinh thần phục vụ mọi người. Chính trong viễn tượng ấy, chúng ta tự thấy cũng phải biến mình đi; trở nên tốt hơn cho xứng đáng với vinh dự là con Thiên Chúa.
Cầu xin cho chúng ta được niềm tin sâu xa như thế và hân hoan sống niềm tin ấy trong cuộc đời hiện nay.
Suy Niệm 2: Chúa biến hình
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các môn đệ, như một dấu hiệu loan báo trước về vinh quang phục sinh của Ngài. Để được phục sinh với Chúa Giêsu, chúng ta phải biến đổi cuộc sống từng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi ngày Chúa nhật, Giáo Hội long trọng cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết và phục sinh. Ngày Chúa nhật cũng giúp con tìm lại ý nghĩa của cuộc đời mình: Chúa đã sáng tạo nên con để con dự phần vinh quang với Chúa. Con đang sống và chờ đợi toàn diện con người con – cả thân xác và linh hồn– được phục sinh với Chúa. Và suốt cả quãng đời này, Chúa vẫn hiện diện và đồng hành với con.
Lạy Chúa Giêsu, vinh quang biến hình không làm quên lãng khổ nạn trên đồi Can-vê. Khuôn mặt sáng chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” nữa… và áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia! Vì thế, con cũng cần chấp nhận những hy sinh, trái ý trong đời sống như một thanh luyện để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biến hình trên núi như một khởi điểm cho sự biến đổi cả đời sống con. Con phải kiên nhẫn hằng ngày trong ý thức tự thanh luyện chính mình. Xin Chúa giúp con biến đổi tâm hồn bằng thái độ đến với Chúa, bằng tâm tình thống hối ăn năn, và nhất là gia tăng đời sống kết hợp với Chúa trong tình con thảo. Xin Chúa biến đổi thân xác và tâm hồn con nên đồng hình, đồng dạng với Chúa. Amen.
Ghi nhớ :"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
Suy Niệm 3: Chúa biến hình
(http://www.giaophanhunghoa.org // Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)
“Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Người ta không thể leo nhanh lên ngọn núi Thabor được, và chính Thabor cũng chỉ là một điểm dừng ngắn ngủi trên chặng đường đến với Thiên Chúa. Mỗi một ngày sống là một chặng đường mà chúng ta cần phải vượt qua. Nhờ vào những gì mà các tông đồ đã sống, chúng ta có thể hiểu rõ hơn chặng đường mà chúng ta cần vượt qua để đến gần với cõi vĩnh hằng hơn.
Và hôm nay trên núi Thabor chúng ta chứng kiến cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Tại sao Ngài lại chỉ đem theo 3 Tông đồ, mà lại không đem theo thêm những người khác?
Chúng ta, là những người tin Chúa, Chúa mời gọi chúng ta tin vào Người. Tại sao Chúa lại chỉ gọi chúng ta là những người tin Chúa, mà trong khi đó biết bao người đã không tin? Chúng ta cũng là những người Chúa chọn, cũng là những người đặc tuyển leo lên núi Thabor để chứng kiến việc Chúa biến hình. Chúng ta hãy hãnh diện về ơn gọi của chúng ta và sống làm sao để đáp trả ơn gọi đó.
Ba tông đồ đã vượt qua thung lũng và đã được Chúa cho thấy vinh quang của Người trên núi Thabor. Và các ông chỉ muốn thời gian đó kéo dài, đến nỗi Phêrô đã thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”.
Chúng ta cũng vậy! Có những khoảnh khắc, chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, hạnh phúc và bình yên, làm ăn phát đạt. Thế giới chung quanh và trong tâm hồn chứa đầy vẻ hài hoà. Rất có thể đó là lúc ngắm cảnh mặt trời lặn hoặc đứng trên núi chứng kiến vẻ hùng vĩ của thiên nhiên; cũng có thể là lúc rung động do một vần thơ, một giọng ca truyền cảm; cũng có thể là một cuộc gặp gỡ tình cờ,… Trong những hoàn cảnh đó chúng ta có thể thốt lên như Phêrô: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Nhưng dựa vào kinh nghiệm bản thân chúng ta biết rằng: không có tiệc vui nào mà lại không có lúc tàn. Có khi kéo dài dăm ba ngày, có khi chỉ trong khoảnh khắc. Sau đó tất cả lại trở về cuộc sống thường nhật.
Có lẽ những kinh nghiệm đó giúp chúng ta hiểu rõ những gì bài Tin Mừng hôm nay tường thuật. Tác giả mô tả những giây phút quí báu nhất của cuộc đời 3 môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ và Người hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảnh khắc các ông có thể cảm nhận sâu xa Đấng Cứu Thế là ai và dung nhan của Đấng Phục sinh như thế nào. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn bỗng chốc buột khỏi tầm tay tất cả. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba lều.
Giây phút thần tiên thường hiếm có và ngắn ngủi! Thoáng chốc, Phêrô phải từ chín tầng mây trở về với cuộc sống muôn ngàn sóng gió. Ông phải học để biết rằng: những giây phút này là quà tặng của Thiên Chúa, không ai có thể giữ lấy bo bo cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn phải đương đầu!
Quả thật, cuộc sống con người đầy thăng trầm, và dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày, sương mù dày đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa và tẻ nhạt!…Cũng có những giây phút con người không được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối với công việc. Việc này chưa xong, thì việc khác đã đứng chực ngoài cửa.
Đời sống đạo và đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Cũng chính vì vậy mà người ta thất vọng, xao nhãng công việc của cộng đoàn, bỏ luôn cả kinh hạt lễ lạy. Họ nghĩ rằng lễ lạy và kinh hạt cũng thế thôi. Làm ban hành giáo có được gì đâu, mà chỉ thấy kinh tế gia đình mình càng sa sút.
Trong hoàn cảnh này điều cần thiết nhất là nhớ đến những phút giây thiêng thánh nhất trong đời. Đó là những ngày tĩnh tâm, những giờ chầu Mình Thánh, những giây phút chìm lắng trong thinh lặng giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống ơn gọi làm người, ơn gọi tu trì: một cuộc sống sung mãn, hạnh phúc thành công. Chúng ta cần những giây phút thần tiên ấy để giữ gìn cái nhìn toàn diện về cuộc sống. Thiên Chúa hứa đồng hành với chúng ta, đứng về phía chúng ta khi thành công cũng như lúc thất bại, khi vui cũng như lúc buồn tủi.
Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đàng tại thế. Thabor trước tiên không phải là một nơi chốn, nhưng là sự kiện có thể xẩy ra bất cứ ở đâu trong hoàn cảnh nào. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảnh khắc yên tĩnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ, một sự dấn thân cho họ đạo, một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện. Những lúc chúng ta cảm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quí báu hơn, chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì như những kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái dù phải gặp hoạn nạn éo le. Nhờ đó chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta tới đích điểm tốt đẹp, là Thiên Đàng, là Thabor Vĩnh Cửu!
Suy Niệm 4: Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần (Lc 9, 28b-36)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 6 tháng 8 trong năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại là biến cố Biến Hình của Chúa Giêsu. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương trong việc lắng nghe lời Đức Giêsu và để Chúa Thánh Thần biến đổi. Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?
2. Tại sao Môsê và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?Suy
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng chừng năm ngàn người ăn no (Lc 9, 14), loan báo cuộc thương khó lần thứ I (Lc 9, 22). Tám ngày sau (Lc 9, 28), Matthêu và Marcô (Mt 17, 1-9) và (Mc 9, 1-9) thì sáu ngày sau. Chúa đưa Phêrô, Gioan và Giacôbê lên một ngọn núi và biến hình trước mặt các ông. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi Tabore (Lc 9, 33). Và như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá. Chúa biến hình để củng cố niềm tin của các ông trước cuộc khổ nạn.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn là vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô của Thiên Chúa” và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20,22) ông giữ lời và đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môsê và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Ngài. Có kẻ cho rằng Ngài là Đấng Kitô, kẻ khác cho là Môsê hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (Lc 9,19). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu Kitô là người vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó không thuộc về Đức Giêsu, vinh quang của Thiên Chúa Cha. Họ thường nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16). Và chỗ khác họ nói : “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33). Đức Giêsu muốn chỉ cho mọi người biết, vì ghen tương mà họ gán cho Chúa hai tội danh ấy. Khi Ngài biến hình đàm đạo với hai nhân vật là Môsê và Êlia, Ngài khẳng định mình còn hơn cả Môsê và Êlia nữa. Môi-sen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Đức Giêsu, Đức Giêsu dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong Biến Cố Chúa Biến Hình." Biến cố Chúa Biến Hình trên núi Tabor là như hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Trong biến cố Biến Hình, Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Lc 9, 35). Trong ánh sáng vinh quang của Người, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa Biến Hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa, mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, nhưng chúng ta còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa được gởi đến chúng ta. Ngoài Lời Lề Luật nơi Ông Môsê và Lời Tiên Tri nơi Sứ Ngôn Elia, còn vang lên Lời của Thiên Chúa Cha hướng chúng ta đến Con Thiên Chúa. Khi chỉ cho chúng ta biết “Con Yêu Dấu của Ngài”, và Thiên Chúa Cha mời gọi chúng ta hãy lắng nghe Con Ngài “các người hãy nghe lời Người” (Lc 9, …).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, đó là những con đường dẩn dắt chúng ta lên Núi Thánh trên đó Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con. Trong Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, Cha phước Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta. Mượn lời thánh Gioan Damasceno chúng ta thưa: “Lạy Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng cách làm cho con ao ước Chúa, và Chúa đã biến đổi con bằng tình yêu của Chúa. Xin hãy dùng lửa linh thánh thiêu đốt hết mọi tội lỗi con, và xin thương ban cho con được tràn đầy sự dịu dàng của Chúa, ngõ hầu được đầy tràn niềm vui, con cất lời chúc tụng những thể hiện vinh quang Chúa.” Amen.
Suy Niệm 5: Chúa biến hình
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Chúng ta vừa nghe một bài Tin mừng tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chuá biến hình trên một ngọn núi cao. Đây là một câu chuyện rất đặc biệt cho nên đã được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Mathêô, Marco và Luca đã thuật lại. Nếu đọc lại và so sánh thì chúng ta sẽ thấy cả ba tường thuật lại câu chuyện này theo một bối cảnh chung xuất phát từ truyền thống có trước.
Đại cương thì sự việc diễn tiến như sau:
Phêrô tuyên xưng đức tin,
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người lần thứ nhất
Chúa đưa ra những điều kiện để được theo Chúa
Chúa biến hình.
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh lần của Người lần thứ hai.
Chúa lên Jêrusalem để chịu tử nạn và sau đó Chúa phục sinh.
Câu chuyện biến hình của Chuá xẩy ra vào giữa những biến cố rất quan trọng vào cuối cuộc đời của Chúa. Như vậy nó phải mang một ý nghĩa nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
B. Chúng ta tự hỏi: Chúa Biến Hình để làm gì?
Mục đích của việc Đức Giêsu biến hình hay hiển dung trên núi trước mặt ba môn đệ không phải là để cho các ông dựng lều ở lại ngay trên đó. Nhưng là để giúp các môn đệ nhận ra thiên tính của một Con Người mà họ đang cùng đồng hành và nói chuyện với họ. Con Người đó không phải chỉ là người nhưng còn là Con Thiên Chúa. Lần thứ nhất Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài bên sông Gio-đan. Và đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài trên núi cao. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ bởi vâng lời Thánh ý của Thiên Chúa Cha đến đổ máu chết trên thập giá. Núi Tabor nơi Chúa biến hình tỏ vinh quang của Ngài là dấu báo trước chuẩn bị cho cảnh hy sinh trên núi Can-vê.
Sau khi chứng kiến Chúa biến hình thì các môn đệ đã có cơ hội biết rõ hơn Thầy của họ thực sự là ai, và họ được hưởng nếm trước cái vinh quang và hạnh phúc đang chờ đón họ bởi việc đi theo Ngài. Đây cũng là sự chuẩn bị tinh thần cho họ để khi Thầy của họ bị xỉ nhục bắt bớ thì họ không bị mất niềm tin mà thất vọng.
Thực ra, thoạt đầu khi bước theo Đức Giêsu cả ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như các môn đệ khác đã không biết cái giá họ phải trả khi theo Chúa như thế nào. Chính vì thế mà khi được chứng kiến dung nhan vinh quang của Đức Giêsu trên núi, họ đã sung sướng ngất ngây và muốn ở lại luôn trên đó. Nhưng chương trình của Đức Giêsu và của Thiên Chúa không như thế. Ngài đã dẫn họ xuống núi trở lại và ngăn cấm không cho họ nói với ai về những gì họ đã thấy cho đến khi "Con Người từ cõi chết sống lại."(Mt 17,9) Ngài đã trích dẫn lời chép về Ngài , "Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ."(Mt 16,21) Nhưng họ vẫn không hiểu và hỏi nhau, "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
C. Qua việc tường thuật là biến có Chúa biến hình hôm nay Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta điều gì? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội muốn cho chúng ta hãy nghe Lời Đức Kitô.
Trách nhiệm của người Kitô hữu chúng ta là mở tai, mở lòng và mở trí để đón nhận những gì Đức Giêsu giảng dạy và làm gương bằng cuộc sống của Ngài. Lắng nghe lời Ngài không có nghĩa là chỉ nghe những gì Ngài nói, nhưng còn phải chú ý đến những gì Ngài đã làm; đi theo con đường Ngài đã đi; bắt chước cách Ngài đã làm trong việc xử sự với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài không phải chỉ bằng việc ca hát tôn vinh, xin ơn và tạ ơn. Nhưng còn bằng việc dốc tâm dấn bước sống theo gương của Ngài. Chúng ta đi theo Ngài lên núi để cảm nghiệm niềm hạnh phúc vinh quang để rồi lại cùng Ngài xuống núi trở về với những phận vụ hằng ngày, đi vào vườn cây dầu để đổ mồ hôi máu, hành trình trên khắp nẻo đường để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện. Sau cùng tiến thẳng lên Giêrusalem, nhận lấy bản án, vác thập giá, và tiến lên đồi Can-vê để chịu chết.
Con đường Đức Kitô đi đã thay đổi lịch sử nhân loại.
Con đường Đức Kitô đi đã mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Con đường Đức Kitô đi đã làm thỏa lòng Thiên Chúa Cha.
Con đường Đức Kitô đi đã hấp dẫn nhiều tâm hồn.
Đó cũng là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo.
Việc nghe Chúa, đi theo Chúa dứt khoát phải làm cho chúng ta biế đổi. Biến đổi như thế nào thì thánh Phaolô đã gợi ý: “Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”.
Xin đan cử một thí dụ để minh họa.
Một nhóm doanh nhân đi dự một buổi họp ở Chicago. Họ đã dặn vợ con ở nhà là sẽ trở về nhà để kịp bữa tối. Nhưng rồi cứ hết việc này lại giây sang việc kia khiến cho cuộc họp kéo dài hơn dự định. Sau khi kết thúc họ đã vội vàng chạy ra phi trường cho kịp chuyến bay. Khi họ hấp tấp chạy tới cổng phi trường thì không may một người trong họ đụng vào một chiếc bàn có để một rổ táo của một cô bé đang đứng bán. Tất cả đã không dừng lại, cứ cúi đầu chạy thẳng để kịp chuyến bay. Khi đến nơi họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi một người trong nhóm đã ý thức được mình phải làm gì để cảm thông với cô bé bán táo kia. Anh đã giơ tay ra chào các bạn và quay trở lại. Anh thấy vui vì đã làm như thế. Anh nhận ra cô bé bán táo là một cô gái mù. Anh đã thu lượm các trái táo đổ lăn trên trên lối đi. Anh nhận ra có một số trái táo đã bị dập bể. Anh liền móc túi lấy bóp ra và nói với cô bé bán táo mù đó rằng, "Đây xin cô cầm lấy 10 dollars để đền bù cho thiệt hại chúng tôi đã gây ra. Tôi hy vọng cô không buồn."
Khi người thanh niên vừa quay bước đi thì cô bé mù đó sửng sốt hỏi: "Thưa ông! Ông có phải là Chúa Giêsu không?"
Câu hỏi đó đã làm cho người doanh nhân suy nghĩ.
Bạn và tôi, chúng ta có phải là Giêsu không? Chúng ta có đi con đường Giêsu đã đi không? Chúng ta có hành xử như Giêsu đã hành xử không?
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen. (Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm 6: Hiển dung : soi sáng ý nghĩa cuộc đời
(HTMV Khóa 10 - ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn)
Đn 7,9-10.13-14 ; 2Pr 1,16-19 ; Lc 9,28b-36
Vào thời Trung cổ, một tín hữu kitô nọ lên đường đi hành hương đến một nhà thờ được xem là cổ kính nhất trong nước của mình. Sau vài ngày đi đường, người đó lạc vào trong một vùng núi đá nắng cháy khô cằn và hiểm trở. Ông ta thấy ở đó những người thợ đục đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn vuông vắn.
Người khách hành hương đi mon men đến gần một người thợ. Mồ hôi chảy đầm đìa trên tấm thân gầy của người thợ đục đá khiến cho người khách hành hương càng thương cảm. Nhưng khi người khách hỏi truyện, người thợ đục đá liền trả lời một cách nhát gừng : "Ông không thấy tôi đang lao nhọc vất vả hay sao mà còn hỏi ?"
Người khách tìm đến một người thứ hai. Người nầy lại càng có dáng vẻ mệt nhọc hơn. Được hỏi tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ nầy chỉ trả lời : "Người ta thuê tôi làm việc. Tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà tôi đổ mồ hôi xót con mắt là để có cơm bánh cho vợ con tôi mà thôi, còn công trình xây dựng gì thì tôi không cần biết !"
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi, ông lại gặp một người thợ đục đá khác, người nầy cũng có dáng vẻ mệt nhọc và tiều tụy không kém những người kia. Nhưng nhìn vào ánh mắt của người thợ đục đá nầy, khách hành hương thấy toát lên một vẻ thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Tiến lại, người khách lên tiếng hỏi :
- Ông đang làm gì đó ?
Người đàn ông nhìn ngài mĩm cười và hãnh diện đáp :
- Ông không biết sao ? Tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường.
Nói rồi người thợ đục đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng nơi đó người khách nhận ra một công trình đang được thi công, từng viên đá đang được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của ngôi thánh đường.
Biết được ý nghĩa của cuộc sống là điều quan trọng nhất đối với con người. Nếu không biết tại sao mình sống, sống mà không biết sống để làm gì, sống mà không biết đi về đâu là điều bất hạnh hơn cả. Cuộc sống của chúng ta có lẽ cũng giống như những người thợ đục đá để góp phần vào công trình xây dựng một ngôi thánh đường. Những nỗi vất vả lao nhọc, chán nản, buồn tẻ dệt nên đời thường của mỗi người chúng ta nhiều lúc che khuất hướng đi và ý nghĩa của cuộc đời. Những mất mát, thất bại và khổ đau lại càng làm cho chúng ta choáng ngợp, hụt hẫng giữa giòng đời.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian để giúp chúng ta nhìn ra ý nghĩa của cuộc sống và sống một cách sung mãn cuộc sống tại thế nầy. Ngài đã sống trọn từng thực tế của kiếp sống con người. Ngài đón nhận tất cả mọi biến cố trong cuộc sống nhu hồng 6an của Thiên Chúa. Cả đến đau khổ và cái chết Chúa Giêsu cũng đón nhận để xuyên qua đó con người có thể nhìn ra ý nghĩa của cuộc sống.
Quả thực, trong ánh sáng hiển dung của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để nhận ra ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Tin Mừng lễ Chúa Hiển Dung hôm nay cho chúng ta thấy : ngay sau khi các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo như các ông quan niệm, bắt đầu tan biến để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các ông. Vì thế, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Thầy đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì ! Rồi giờ đây, trong lúc ngây ngất chiêm ngưỡng dung nhan sáng chói rực rỡ của Thầy, thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại luôn trên núi nầy, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng đến lúc mở mắt ra, ông chỉ còn thấy một mình Thầy trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã biến mất. Và Thầy còn giục các ông xuống núi, đi về Giêrusalem để Thầy chịu tử nạn như Thầy đã báo trước. Thế là Phêrô đã vỡ mộng ! Chính trong giờ phút hiển dung rực rỡ vừa rồi, ông Môisê và Êlia cũng đã xuất hiện để đàm đạo với Chúa Giêsu về "cái chết" mà Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và Chúa Cha cũng đã xác nhận : "Đây là Con Ta yêu dấu, anh em hãy nghe lời Ngài". Lời đó là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và rồi đây Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy, qua con đường đau khổ mới đến vinh quang.
Đau khổ và sự chết tự nó không phải là một giá trị. Thiên Chúa không tạo ra sự dữ để đày đọa con người. Do tội lỗi của mình, con người đã tạo ra đau khổ cho chính mình. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và khôn ngoan đã biến đau khổ và sự chết thành nguồn ơn cứu thoát cho con người. Qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, cũng như mọi khổ đau, thất bại trong cuộc sống không phải là ngõ cụt mà là nẻo đường dẫn đến vinh quang và sự sống. Đó là cái nhìn mới mẻ mà Chúa Giêsu hiển dung đã soi sáng cho chúng ta. Từ nay chúng ta được mời gọi đón nhận tất cả mọi biến cố trong cuộc sống như hồng ân của Thiên Chúa và như dịp may được cộng tác vào công trình cứu chuộc và tái tạo của Ngài.
Như thế, vinh quang của Chúa hiển dung hôm nay chưa phải là vinh quang trọn vẹn của Thiên Chúa. Đó chỉ là một thoáng vinh quang báo trước vinh quang của ngày phục sinh mà thôi. Cũng vậy, trên núi Chúa hiển dung chưa phải là nơi định cư vĩnh viễn của những người đi theo Chúa Giêsu. Đừng để mình rơi vào cơn cám dỗ của Phêrô : đừng vội cắm lều ! Vì đây chỉ là nơi dừng chân để lấy sức tiến về Trời Mới Đất Mới. Trong cuộc hành trình về vĩnh cửu có những bóng mát cho đời và chúng ta được phép dừng chân lấy sức để rồi lại tiếp tục ra đi. Nếu cắm lều ở lại, sẽ chẳng bao giờ tới đích.
Sống mà không biết tại sao mình sống, sống mà không biết sống để làm gì, sống mà không biết mình sẽ đi về đâu, đó là điều bất hạnh nhất. Chúa hiển dung hôm nay đã soi sáng cho chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Ngài là ánh sáng, trong ánh sáng ấy chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc sống. Trong cuộc hành trình gian khổ trên trần thế, hãy cứ tin tưởng, vì đã có Chúa Giêsu vừa là người chỉ đạo, vừa là người bạn đồng hành của chúng ta. Vẫn biết rằng con đường Ngài dẫn chúng ta đi là con đường hẹp, đường thập giá, nhưng lại chính là đường sự sống, đường ánh sáng và "những đau khổ đời nầy không đáng là gì so với vinh quang dành để cho chúng ta mai sau trên trời". (Rm 8,18)
Chúa biến hình trên núi Ta-bo.
06/08 – Thứ ba tuần 18 thường niên – CHÚA HIỂN DUNG năm C. Lễ Kính.
"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Lc 9, 28b-36
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người.
Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu.
Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa biến hình
(Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Câu truyện Chúa Giêsu biến hình đã được phụng vụ nhắc tới trong ngày Chúa nhật II mùa Chay đề hướng lòng tín hữu về mầu nhiệm Phục sinh hầu biết đi con dường chay tịnh khổ gía của Người. Hôm nay phụng vụ nhắc lại câu truyện ấy có lẽ vì ngày 6 tháng 8 kỷ niệm cung hiến Đền thờ Chúa biến hình trên núi Taibor.
Câu truyện lịch sử
Cả ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố này. Sách Tin Mừng Gioan ám chỉ đến trong đoạn kể có một số người Hy lạp bấy giờ muốn được trông thấy Đức Yêsu (12,20-32). Người liền nói: Giờ đã đến cho Con Người được tôn vinh. Và lập tức có tiếng từ trời đến: "Ta đã tôn vinh Danh Ta và Ta sẽ lại tôn vinh". Còn chính thánh Phêrô, một trong ba môn đệ đã được chứng kiến cảnh biến hình, thì đã kể lại một cách vắn tắt như ta đọc thấy trong bài thư hôm nay. Riêng các thư Phaolô không bao giờ trực tiếp nói đến câu truyện này. Nhưng ánh sáng của Chúa Giêsu phủ xuống người trên đường Đama không phải là vinh quang của Đấng đã có lần biến hình sao? Và chắc chắn câu truyện Chúa biến hình đã giúp Phaolô nhiều lắm khi người nói với các tín hữu về việc phải đổi mới và biến dạng sang Chúa Giêsu Kitô. Nói tóm lại, việc Chúa Giêsu biến hình là một biến cố lịch sử trong cuộc đời của Người, đã được nhiều nơi trong các sách Tân Ước hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp mô tả và gợi lên, để chúng ta thấy rõ đây là một mầu nhiệm quan trọng.
Vậy biến cố ấy đã xảy ra như thế nào ?
Bài Tin Mừng Matthêu chúng ta vừa nghe đọc bắt đầu bằng những chữ: "6 ngày sau". Và đọc lên chúng ta thấy đó là 6 ngày sau hôm đức Giêsu lần đầu tiên nói cho môn đệ biết Người sẽ bị nộp, bị bắt, bị đánh. Bị xử, bị giết, nhưng sẽ sống lại ngày thứ ba. Lời tuyên bố ấy khiến môn đệ ngỡ ngàng, chẳng hiểu gì cả và nhất là quả quyết không thể xảy ra. Đức Giêsu không những khẳng định lại mà còn tuyên bố thêm: chính các môn đệ và những ai muốn theo Người cũng phải vác thập giá mình mà đi theo.
Thật là một mạc khải lạ lùng làm cho nhiều người suy nghĩ và có thể bắt đầu buồn phiền. Thấy họ chưa hiểu hết ý của Người vì không phải Người chỉ nói thập giá mà còn khẳng định sẽ Phục sinh. Và thấy họ vì thế đâm ra buồn phiền, Đức Giêsu đã hứa cho họ được xem thấy vinh quang và quyền năng của Người. Nói đúng hơn, Người chỉ hứa như vậy cho một số người trong bọn họ thôi. Và thế là 6 ngày sau, ba môn đệ được đưa lên núi để xem thấy vinh quang của Người trong lúc biến hình.
Chúng ta hãy khoan quả quyết việc biến hình này kí ý thực hiện lời hứa cách đây 6 hôm. Chúng ta chỉ tạm ghi nhận việc ấy xảy ra 6 hôm sau ngày Đức Kitô tuyên bố lần đầu tiên về cuộc khổ nạn của Người.
Vậy Người đã đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi. Không biết núi nào. Chỉ biết khi ở trên núi, Người đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Người chói như mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Rồi có Elia và Môsê hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ Phêrô lên tiếng xin làm ba lều. Nhưng có tiếng từ một đám mây sáng vừa đến bọc lấy các Ngài át đi. tiếng ấy nghe rõ mồn một : "Ngài là Con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ các ngươi hãy nghe Ngài". Ba môn đệ liền sấp mặt xuống đất. Nhưng Đức Kitô đã cúi xuống nâng họ dậy. Khi ngẩng lên, họ chỉ còn thấy Đức Giêsu là một người y như mọi khi.
Câu truyện biến hình chỉ có như vậy. Lâu chừng nào ? Chẳng ai biết. Nhưng ý nghiã của nó thì thật thâm sâu.
B. Ý nghĩa của câu truyện
Ý nghĩa đầu tiên, chúng ta đã đoán được. Đức Giêsu muốn phấn chấn lòng các môn đệ sau một tuần lễ sống nặng nề trong viễn tượng Con Người sẽ bị nộp, bị giết và các môn đệ cũng phải vác thập giá. Chính vì vậy mà Phụng vụ đã nhắc lại câu truyện Chúa biến hình ở đầu mùa Chay. Chúa cho các môn đệ thấy vinh quang của Người để họ không mất niềm tin khi thấy Người bị khổ nhục.
Nhưng theo cách tường thuật của các bản Tin Mừng thì Chúa biến hình sẽ không giống lắm với Chúa phục sinh. Sau khi Người sống lại, các môn đệ sẽ không thấy Người mặt chói như mặt trời, áo trắng như ánh sáng. Ho cũng sẽ không thấy ai tháp tùng Người khi hiện ra và sẽ chẳng nghe thấy tiếng nào phát ra tự một đám mây sáng... Tức là khi thuật lại việc Chúa biến hình, tác giả các sách Tin Mừng không tựa vào những điều đã xem thấy nơi Chúa Giêsu Phục sinh. Thế nên có thể nói khi biến hình, Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cho môn đệ được phấn chấn; và có lẽ Người đã không muốn trực tiếp tiên báo việc phục sinh. Có những ý nghĩa ấy, nhưng không phải là những ý nghĩa duy nhất. Còn có thể có những ý nghĩa sâu xa hơn. Hay ít ra phải hiểu các ý nghĩa kia sâu xa hơn nữa.
Chúng ta có thể nói được rằng Đức Giêsu đã muốn phấn chấn lòng các môn đệ thật, nhưng bằng cách mạc khải cho họ hiểu hơn về con người của Ngài hơn là chỉ cho họ thấy trước một điều gì chưa xảy đến ở nơi Ngài và cho Ngài. Cao điểm của câu truyện này là tiếng phán ra từ trong đám mây: Ngài là con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài! Rõ ràng Chúa Cha muốn tuyên bố: Đức Giêsu là Con Một, là Tôi tớ được sủng mộ và là Tiên tri của Người. Cách đây 6 ngày Ngài tuyên bố Ngài sẽ bị nộp, bị giết khiến môn đồ sa sầm nét mặt, tưởng kết cục Ngài sẽ chỉ là người Tôi tớ bị treo trên Thập giá. Nay chính Thiên Chúa công khai mạc khải Ngài là Con Chí ái và người ta phải nghe Ngài. Chúa Cha phán như vậy để công nhận việc tự hạ của Đức Giêsu và nâng Ngài lên; nhưng nhất là để môn đệ luôn luôn tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Tiếp theo Chúa Cha còn nói: Đức Giêsu là kẻ được Người sủng mộ. Và điều này cũng rất quan trọng. Nó gợi lên hình ảnh Người Tôi tớ trong sách Isaia, và là Người Tôi tớ làm thỏa mãn Thiên Chúa (Ys 42,1). Nó nhấn mạnh đến việc "làm mãn nguyện lòng Thiên Chúa" hơn là đến tư cách là Tôi tớ. Nghĩa là Chúa Cha tỏ ra hài lòng về lối làm việc của Đức Giêsu, về việc Ngài cứu thế bằng đau khổ, về thái độ khiêm cung nhẫn nhục của Ngài trong mầu nhiệm thánh giá.
Thế nên Đức Giêsu thật là Vị Tiên tri của Thiên Chúa, là Đấng đem sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Sứ điệp này nằm trong mầu nhiệm thánh giá như chúng ta vừa thấy. Mọi người phải nhận lấy, kẻo bị gạt khỏi Nước Trời.
Trước nhưng mạc khải như vậy, môn đệ không có cách nào khác hơn là sấp mặt xuống đất vì kinh sợ. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Thiên Chúa không để con người ở trạng thái đó đâu; nếu không, mạc khải của Người chỉ đè bẹp mà không thăng tiến người ta. Kính sợ Chúa chỉ là đầu sự khôn ngoan. Đó là điều kiện để nhận được chính sự khôn ngoan cũng là chính sự cứu độ và hạnh phúc. Khi thấy các môn đệ đã có thái độ ấy, Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc con người, đã đến gần, động vào họ, cho họ ngẩng lên và được an thái.
Ho thật có phúc. Ho đã được mạc khải về Con Người, được sống đầy đủ ơn lành của mạc khải đó, dù trong chốc lát. Thánh Phêrô sau này có thể bỏ rơi mọi yếu tố kỳ diệu của quang cảnh hôm nay. Và trong đoạn thư của người chúng ta vừa nghe đọc, người như không cần nhắc lại nhiều chi tiết. Nhưng nội dung cốt yếu của sự việc thì người đã thuật lại cách rõ ràng. Người nói chính chúng tôi đã được phúc cung chiêm sự uy nghi lẫm liệt của Ngài. Và đó mới thật là ý nghĩa sâu xa của câu truyện Biến hình, để chúng ta thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa rất đẹp lòng Người, nên ai muốn đẹp lòng Thiên Chúa, phải biết nghe lời Ngài, tức là sống theo Ngài.
Và để làm nổi bật lời mạc khải ấy, tác giả các sách Tin Mừng còn bao bọc câu truyện biến hình bằng nhiều chi tiết ý nghĩa.
Như chúng ta đã nói, cuộc biến hình không được mô tả theo khuôn mẫu của các lần Chúa sống lại hiện ra. Vì mục đích của những lần hiện ra này không phải để cho môn đệ nhìn thấy vinh quang của Con Người, mà chỉ cốt. cho họ tin Đấng đã chết bây giờ đang sống. Còn việc Đức Giêsu biến hình có ý nghĩa sâu xa như chúng ta đã trình bày, để môn đệ thấy Người uy nghi lẫm liệt. Do đó tác giả các sách Tin Mừng đã dùng lối văn khải huyền, giống như đoạn sách Đaniel ở bài đọc I.
Nhà tiên tri nhìn thấy một con người được tham dự vinh quang của Thiên Chúa. Đó là Đức Kitô trong ngày được tôn vinh khi thời gian đã mãn, theo lời giải thích của thánh Gioan trong sách Khải huyền. Đó cũng là Đức Giêsu trong mầu nhiệm biến hình vì Con Người mà ba môn đệ nhìn thấy uy nghi lẫm liệt hôm nay, mọi người sẽ được cung chiêm khi lên Núi Thánh.
Các sách không nói Chúa Giêsu đã biến hình trên núi nào. Không phải trên núi Sion. Nhưng trên một núi "rất cao". Và như vậy để nói lên tính cách xuất thế của nơi cao vời chốn thiên cung mà Đức Giêsu sẽ đi vào.
Và cũng chính vì thế mà sắc diện của Chúa Giêsu chói như mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Đó là những màu sắc vinh hiển của các người công chính ở trong Nước Chúa, theo như các tiên tri thường nói (Đn 12,3). Và điều này làm chứng thêm mục đích của việc biến hình muốn mạc khải thần tính của Đức Giêsu và sự sống của Người nơi vinh quang Thiên chúa, hơn là muốn báo trước sự phục sinh của Người.
Hai nhân vật Môsê và Êlya có thể được coi như hiện thân của Luật pháp và Tiên tri đến chứng tỏ cho uy thế của Đức Giêsu. Nhưng đúng hơn có lẽ nên coi Môsê là là tiên tri uy tín nhất đến nhường chỗ lại cho Vị Tiên tri mới thành Nazarét ; và Êlya theo truyền thống là con người phải trở lại khi Đấng Thiên sai đến. Cả hai nói lên địa vị ưu việt của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ vào thời gian sung mãn.
Như vậy Phêrô có lý khi bày tỏ hạnh phúc được tham dự mạc khải cao quý này. Ông chỉ hơi ngây ngô lúc muốn xin làm ba lều. Chắc không phải vì đang sống trong tuần "Lễ Lều" của người Do thái nên ông nghĩ đến điều đó. Ông chỉ muốn được ở mãi trong sự chiêm ngưỡng kia. Ông quên mất rằng mới chỉ có ba môn đệ được thấy. Còn cả nhân loại nữa chứ ! Thiên Chúa muốn rằng tất cả chúng ta sẽ được đưa vào trong vinh quang của Người.
Kìa một áng mây sáng đến bao trùm lấy họ, và giữa đám mây ấy là Đức Giêsu Kitô đang được Chúa Cha tôn vinh bằng những lời cao cả: "Ngài là Con Chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài". Áng mây và tiếng nói cũng làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa đến dạy bảo chúng ta. Phải, chúng ta hãy nghe lời Đức Giêsu Kitô để có ngày được đưa vào vinh hiền của Thiên Chúa, như các môn đệ trong cuộc biến hình hôm nay. Và cho được như vậy, chúng ta hãy rút ra những bài học cụ thể của câu truyện này.
C. Những bài học cụ thể
Cho dù việc Chúa Giêsu biến hình không trực tiếp muốn tiên báo việc Người phục sinh, nó vẫn muốn phấn chấn lòng các môn đệ để họ tin vào Người hơn. Và điều này Chúa cũng muốn làm cho chúng ta, đặc biệt trong các thánh lễ Chúa nhật. Ở đây cũng có mầu nhiệm biến hình. Hoa màu ruộng đất và lao công vất vả của con người đã biến nên bánh rượu, để rồi qua Lời toàn năng biến thành Thịt Máu Chúa. Không những Chúa nên lương thực nuôi chúng ta, mà lao công vất vả cùng đời sống chúng ta, tuy nhạt như giọt nước, cũng sẽ được hòa vào với rượu để trở nên Máu Thánh.
Chúng ta được đưa vào mầu nhiệm, sâu sắc hơn cả ba môn đệ khi được đưa vào áng mây trên núi biến hình. Vậy nếu Phêrô đã phấn khởi và suốt đời không thể nào quên được diễm phúc ở trên Núi thánh, thì vì sao chúng ta lại không cảm thấy được phấn chấn và khích lệ khi tham dự thánh lễ ? Mầu nhiệm biến hình mạc khải cho môn đệ biết nhìn Đức Giêsu là Con Chí ái của Thiên Chúa là đường lối cứu thế của Người đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Thánh lễ không cho chúng ta thấy danh tính đích thực của chúng ta và của anh em hơn hay sao ? Chúng ta và mọi người, bề ngoài cũng chỉ như "con bác thợ mộc thành Nazarét"; nhưng nhờ việc kết hợp với Thiên Chúa, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu, những Kitô hữu phản ánh khuôn mặt Đức Kitô.
Chúng ta đã nhắc đến truyện Saulô trên đường đi Đama. Ông đã được bọc trong ánh sáng của Đức Kitô vinh hiển; và từ trong ánh sáng ấy ông đã được nghe biết mọi Kitô hữu là con chí ái của Ngài. Và Phaolô đã thay đổi hẳn thái độ đối với các tín hữu: thay vì bách hại, từ đó ông chỉ biết phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Đó là điều không đáng ao ước cho chúng ta hay sao ?
Rồi cũng trong thánh lễ, chúng ta được học biết đường lối của Chúa Cứu thế. Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang. Chúng ta muốn được đưa vào vinh quang của Người cũng phải sẵn sàng phấn đấu chống dục vọng và ích kỷ để lột bỏ con người cũ và biến sang con người mới.
Nói tóm lại, ở đây khi cử hành thánh lễ, chúng ta như được đem lên Núi thánh để tham dự vào mầu nhiệm biến hình của Chúa. Người trở thành lương thực cho chúng ta để kết hiệp với chúng ta sâu xa hơn ở trong "lều" như Phêrô đã xin. Và khi biến mình nên lương thực như thế, Người muốn chúng ta đổi mới cái nhìn về anh em. Mọi người rước lấy Mình Thánh Chúa được đưa vào Thân thể mầu nhiệm vinh hiển của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta luôn phải nhìn anh em trong mầu nhiệm Nước Trời và phải có tinh thần phục vụ mọi người. Chính trong viễn tượng ấy, chúng ta tự thấy cũng phải biến mình đi; trở nên tốt hơn cho xứng đáng với vinh dự là con Thiên Chúa.
Cầu xin cho chúng ta được niềm tin sâu xa như thế và hân hoan sống niềm tin ấy trong cuộc đời hiện nay.
Suy Niệm 2: Chúa biến hình
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các môn đệ, như một dấu hiệu loan báo trước về vinh quang phục sinh của Ngài. Để được phục sinh với Chúa Giêsu, chúng ta phải biến đổi cuộc sống từng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi ngày Chúa nhật, Giáo Hội long trọng cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết và phục sinh. Ngày Chúa nhật cũng giúp con tìm lại ý nghĩa của cuộc đời mình: Chúa đã sáng tạo nên con để con dự phần vinh quang với Chúa. Con đang sống và chờ đợi toàn diện con người con – cả thân xác và linh hồn– được phục sinh với Chúa. Và suốt cả quãng đời này, Chúa vẫn hiện diện và đồng hành với con.
Lạy Chúa Giêsu, vinh quang biến hình không làm quên lãng khổ nạn trên đồi Can-vê. Khuôn mặt sáng chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” nữa… và áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia! Vì thế, con cũng cần chấp nhận những hy sinh, trái ý trong đời sống như một thanh luyện để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biến hình trên núi như một khởi điểm cho sự biến đổi cả đời sống con. Con phải kiên nhẫn hằng ngày trong ý thức tự thanh luyện chính mình. Xin Chúa giúp con biến đổi tâm hồn bằng thái độ đến với Chúa, bằng tâm tình thống hối ăn năn, và nhất là gia tăng đời sống kết hợp với Chúa trong tình con thảo. Xin Chúa biến đổi thân xác và tâm hồn con nên đồng hình, đồng dạng với Chúa. Amen.
Ghi nhớ :"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
Suy Niệm 3: Chúa biến hình
(http://www.giaophanhunghoa.org // Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)
“Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Người ta không thể leo nhanh lên ngọn núi Thabor được, và chính Thabor cũng chỉ là một điểm dừng ngắn ngủi trên chặng đường đến với Thiên Chúa. Mỗi một ngày sống là một chặng đường mà chúng ta cần phải vượt qua. Nhờ vào những gì mà các tông đồ đã sống, chúng ta có thể hiểu rõ hơn chặng đường mà chúng ta cần vượt qua để đến gần với cõi vĩnh hằng hơn.
Và hôm nay trên núi Thabor chúng ta chứng kiến cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Tại sao Ngài lại chỉ đem theo 3 Tông đồ, mà lại không đem theo thêm những người khác?
Chúng ta, là những người tin Chúa, Chúa mời gọi chúng ta tin vào Người. Tại sao Chúa lại chỉ gọi chúng ta là những người tin Chúa, mà trong khi đó biết bao người đã không tin? Chúng ta cũng là những người Chúa chọn, cũng là những người đặc tuyển leo lên núi Thabor để chứng kiến việc Chúa biến hình. Chúng ta hãy hãnh diện về ơn gọi của chúng ta và sống làm sao để đáp trả ơn gọi đó.
Ba tông đồ đã vượt qua thung lũng và đã được Chúa cho thấy vinh quang của Người trên núi Thabor. Và các ông chỉ muốn thời gian đó kéo dài, đến nỗi Phêrô đã thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”.
Chúng ta cũng vậy! Có những khoảnh khắc, chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, hạnh phúc và bình yên, làm ăn phát đạt. Thế giới chung quanh và trong tâm hồn chứa đầy vẻ hài hoà. Rất có thể đó là lúc ngắm cảnh mặt trời lặn hoặc đứng trên núi chứng kiến vẻ hùng vĩ của thiên nhiên; cũng có thể là lúc rung động do một vần thơ, một giọng ca truyền cảm; cũng có thể là một cuộc gặp gỡ tình cờ,… Trong những hoàn cảnh đó chúng ta có thể thốt lên như Phêrô: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Nhưng dựa vào kinh nghiệm bản thân chúng ta biết rằng: không có tiệc vui nào mà lại không có lúc tàn. Có khi kéo dài dăm ba ngày, có khi chỉ trong khoảnh khắc. Sau đó tất cả lại trở về cuộc sống thường nhật.
Có lẽ những kinh nghiệm đó giúp chúng ta hiểu rõ những gì bài Tin Mừng hôm nay tường thuật. Tác giả mô tả những giây phút quí báu nhất của cuộc đời 3 môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ và Người hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảnh khắc các ông có thể cảm nhận sâu xa Đấng Cứu Thế là ai và dung nhan của Đấng Phục sinh như thế nào. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn bỗng chốc buột khỏi tầm tay tất cả. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba lều.
Giây phút thần tiên thường hiếm có và ngắn ngủi! Thoáng chốc, Phêrô phải từ chín tầng mây trở về với cuộc sống muôn ngàn sóng gió. Ông phải học để biết rằng: những giây phút này là quà tặng của Thiên Chúa, không ai có thể giữ lấy bo bo cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn phải đương đầu!
Quả thật, cuộc sống con người đầy thăng trầm, và dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày, sương mù dày đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa và tẻ nhạt!…Cũng có những giây phút con người không được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối với công việc. Việc này chưa xong, thì việc khác đã đứng chực ngoài cửa.
Đời sống đạo và đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Cũng chính vì vậy mà người ta thất vọng, xao nhãng công việc của cộng đoàn, bỏ luôn cả kinh hạt lễ lạy. Họ nghĩ rằng lễ lạy và kinh hạt cũng thế thôi. Làm ban hành giáo có được gì đâu, mà chỉ thấy kinh tế gia đình mình càng sa sút.
Trong hoàn cảnh này điều cần thiết nhất là nhớ đến những phút giây thiêng thánh nhất trong đời. Đó là những ngày tĩnh tâm, những giờ chầu Mình Thánh, những giây phút chìm lắng trong thinh lặng giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống ơn gọi làm người, ơn gọi tu trì: một cuộc sống sung mãn, hạnh phúc thành công. Chúng ta cần những giây phút thần tiên ấy để giữ gìn cái nhìn toàn diện về cuộc sống. Thiên Chúa hứa đồng hành với chúng ta, đứng về phía chúng ta khi thành công cũng như lúc thất bại, khi vui cũng như lúc buồn tủi.
Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đàng tại thế. Thabor trước tiên không phải là một nơi chốn, nhưng là sự kiện có thể xẩy ra bất cứ ở đâu trong hoàn cảnh nào. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảnh khắc yên tĩnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ, một sự dấn thân cho họ đạo, một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện. Những lúc chúng ta cảm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quí báu hơn, chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì như những kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái dù phải gặp hoạn nạn éo le. Nhờ đó chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta tới đích điểm tốt đẹp, là Thiên Đàng, là Thabor Vĩnh Cửu!
Suy Niệm 4: Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần (Lc 9, 28b-36)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 6 tháng 8 trong năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại là biến cố Biến Hình của Chúa Giêsu. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương trong việc lắng nghe lời Đức Giêsu và để Chúa Thánh Thần biến đổi. Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?
2. Tại sao Môsê và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?Suy
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng chừng năm ngàn người ăn no (Lc 9, 14), loan báo cuộc thương khó lần thứ I (Lc 9, 22). Tám ngày sau (Lc 9, 28), Matthêu và Marcô (Mt 17, 1-9) và (Mc 9, 1-9) thì sáu ngày sau. Chúa đưa Phêrô, Gioan và Giacôbê lên một ngọn núi và biến hình trước mặt các ông. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi Tabore (Lc 9, 33). Và như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá. Chúa biến hình để củng cố niềm tin của các ông trước cuộc khổ nạn.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn là vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô của Thiên Chúa” và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20,22) ông giữ lời và đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môsê và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Ngài. Có kẻ cho rằng Ngài là Đấng Kitô, kẻ khác cho là Môsê hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (Lc 9,19). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu Kitô là người vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó không thuộc về Đức Giêsu, vinh quang của Thiên Chúa Cha. Họ thường nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16). Và chỗ khác họ nói : “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33). Đức Giêsu muốn chỉ cho mọi người biết, vì ghen tương mà họ gán cho Chúa hai tội danh ấy. Khi Ngài biến hình đàm đạo với hai nhân vật là Môsê và Êlia, Ngài khẳng định mình còn hơn cả Môsê và Êlia nữa. Môi-sen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Đức Giêsu, Đức Giêsu dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong Biến Cố Chúa Biến Hình." Biến cố Chúa Biến Hình trên núi Tabor là như hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Trong biến cố Biến Hình, Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Lc 9, 35). Trong ánh sáng vinh quang của Người, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa Biến Hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa, mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, nhưng chúng ta còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa được gởi đến chúng ta. Ngoài Lời Lề Luật nơi Ông Môsê và Lời Tiên Tri nơi Sứ Ngôn Elia, còn vang lên Lời của Thiên Chúa Cha hướng chúng ta đến Con Thiên Chúa. Khi chỉ cho chúng ta biết “Con Yêu Dấu của Ngài”, và Thiên Chúa Cha mời gọi chúng ta hãy lắng nghe Con Ngài “các người hãy nghe lời Người” (Lc 9, …).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, đó là những con đường dẩn dắt chúng ta lên Núi Thánh trên đó Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con. Trong Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, Cha phước Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta. Mượn lời thánh Gioan Damasceno chúng ta thưa: “Lạy Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng cách làm cho con ao ước Chúa, và Chúa đã biến đổi con bằng tình yêu của Chúa. Xin hãy dùng lửa linh thánh thiêu đốt hết mọi tội lỗi con, và xin thương ban cho con được tràn đầy sự dịu dàng của Chúa, ngõ hầu được đầy tràn niềm vui, con cất lời chúc tụng những thể hiện vinh quang Chúa.” Amen.
Suy Niệm 5: Chúa biến hình
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Chúng ta vừa nghe một bài Tin mừng tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chuá biến hình trên một ngọn núi cao. Đây là một câu chuyện rất đặc biệt cho nên đã được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Mathêô, Marco và Luca đã thuật lại. Nếu đọc lại và so sánh thì chúng ta sẽ thấy cả ba tường thuật lại câu chuyện này theo một bối cảnh chung xuất phát từ truyền thống có trước.
Đại cương thì sự việc diễn tiến như sau:
Phêrô tuyên xưng đức tin,
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người lần thứ nhất
Chúa đưa ra những điều kiện để được theo Chúa
Chúa biến hình.
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh lần của Người lần thứ hai.
Chúa lên Jêrusalem để chịu tử nạn và sau đó Chúa phục sinh.
Câu chuyện biến hình của Chuá xẩy ra vào giữa những biến cố rất quan trọng vào cuối cuộc đời của Chúa. Như vậy nó phải mang một ý nghĩa nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
B. Chúng ta tự hỏi: Chúa Biến Hình để làm gì?
Mục đích của việc Đức Giêsu biến hình hay hiển dung trên núi trước mặt ba môn đệ không phải là để cho các ông dựng lều ở lại ngay trên đó. Nhưng là để giúp các môn đệ nhận ra thiên tính của một Con Người mà họ đang cùng đồng hành và nói chuyện với họ. Con Người đó không phải chỉ là người nhưng còn là Con Thiên Chúa. Lần thứ nhất Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài bên sông Gio-đan. Và đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài trên núi cao. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ bởi vâng lời Thánh ý của Thiên Chúa Cha đến đổ máu chết trên thập giá. Núi Tabor nơi Chúa biến hình tỏ vinh quang của Ngài là dấu báo trước chuẩn bị cho cảnh hy sinh trên núi Can-vê.
Sau khi chứng kiến Chúa biến hình thì các môn đệ đã có cơ hội biết rõ hơn Thầy của họ thực sự là ai, và họ được hưởng nếm trước cái vinh quang và hạnh phúc đang chờ đón họ bởi việc đi theo Ngài. Đây cũng là sự chuẩn bị tinh thần cho họ để khi Thầy của họ bị xỉ nhục bắt bớ thì họ không bị mất niềm tin mà thất vọng.
Thực ra, thoạt đầu khi bước theo Đức Giêsu cả ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như các môn đệ khác đã không biết cái giá họ phải trả khi theo Chúa như thế nào. Chính vì thế mà khi được chứng kiến dung nhan vinh quang của Đức Giêsu trên núi, họ đã sung sướng ngất ngây và muốn ở lại luôn trên đó. Nhưng chương trình của Đức Giêsu và của Thiên Chúa không như thế. Ngài đã dẫn họ xuống núi trở lại và ngăn cấm không cho họ nói với ai về những gì họ đã thấy cho đến khi "Con Người từ cõi chết sống lại."(Mt 17,9) Ngài đã trích dẫn lời chép về Ngài , "Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ."(Mt 16,21) Nhưng họ vẫn không hiểu và hỏi nhau, "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
C. Qua việc tường thuật là biến có Chúa biến hình hôm nay Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta điều gì? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội muốn cho chúng ta hãy nghe Lời Đức Kitô.
Trách nhiệm của người Kitô hữu chúng ta là mở tai, mở lòng và mở trí để đón nhận những gì Đức Giêsu giảng dạy và làm gương bằng cuộc sống của Ngài. Lắng nghe lời Ngài không có nghĩa là chỉ nghe những gì Ngài nói, nhưng còn phải chú ý đến những gì Ngài đã làm; đi theo con đường Ngài đã đi; bắt chước cách Ngài đã làm trong việc xử sự với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài không phải chỉ bằng việc ca hát tôn vinh, xin ơn và tạ ơn. Nhưng còn bằng việc dốc tâm dấn bước sống theo gương của Ngài. Chúng ta đi theo Ngài lên núi để cảm nghiệm niềm hạnh phúc vinh quang để rồi lại cùng Ngài xuống núi trở về với những phận vụ hằng ngày, đi vào vườn cây dầu để đổ mồ hôi máu, hành trình trên khắp nẻo đường để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện. Sau cùng tiến thẳng lên Giêrusalem, nhận lấy bản án, vác thập giá, và tiến lên đồi Can-vê để chịu chết.
Con đường Đức Kitô đi đã thay đổi lịch sử nhân loại.
Con đường Đức Kitô đi đã mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Con đường Đức Kitô đi đã làm thỏa lòng Thiên Chúa Cha.
Con đường Đức Kitô đi đã hấp dẫn nhiều tâm hồn.
Đó cũng là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo.
Việc nghe Chúa, đi theo Chúa dứt khoát phải làm cho chúng ta biế đổi. Biến đổi như thế nào thì thánh Phaolô đã gợi ý: “Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”.
Xin đan cử một thí dụ để minh họa.
Một nhóm doanh nhân đi dự một buổi họp ở Chicago. Họ đã dặn vợ con ở nhà là sẽ trở về nhà để kịp bữa tối. Nhưng rồi cứ hết việc này lại giây sang việc kia khiến cho cuộc họp kéo dài hơn dự định. Sau khi kết thúc họ đã vội vàng chạy ra phi trường cho kịp chuyến bay. Khi họ hấp tấp chạy tới cổng phi trường thì không may một người trong họ đụng vào một chiếc bàn có để một rổ táo của một cô bé đang đứng bán. Tất cả đã không dừng lại, cứ cúi đầu chạy thẳng để kịp chuyến bay. Khi đến nơi họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi một người trong nhóm đã ý thức được mình phải làm gì để cảm thông với cô bé bán táo kia. Anh đã giơ tay ra chào các bạn và quay trở lại. Anh thấy vui vì đã làm như thế. Anh nhận ra cô bé bán táo là một cô gái mù. Anh đã thu lượm các trái táo đổ lăn trên trên lối đi. Anh nhận ra có một số trái táo đã bị dập bể. Anh liền móc túi lấy bóp ra và nói với cô bé bán táo mù đó rằng, "Đây xin cô cầm lấy 10 dollars để đền bù cho thiệt hại chúng tôi đã gây ra. Tôi hy vọng cô không buồn."
Khi người thanh niên vừa quay bước đi thì cô bé mù đó sửng sốt hỏi: "Thưa ông! Ông có phải là Chúa Giêsu không?"
Câu hỏi đó đã làm cho người doanh nhân suy nghĩ.
Bạn và tôi, chúng ta có phải là Giêsu không? Chúng ta có đi con đường Giêsu đã đi không? Chúng ta có hành xử như Giêsu đã hành xử không?
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen. (Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm 6: Hiển dung : soi sáng ý nghĩa cuộc đời
(HTMV Khóa 10 - ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn)
Đn 7,9-10.13-14 ; 2Pr 1,16-19 ; Lc 9,28b-36
Vào thời Trung cổ, một tín hữu kitô nọ lên đường đi hành hương đến một nhà thờ được xem là cổ kính nhất trong nước của mình. Sau vài ngày đi đường, người đó lạc vào trong một vùng núi đá nắng cháy khô cằn và hiểm trở. Ông ta thấy ở đó những người thợ đục đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn vuông vắn.
Người khách hành hương đi mon men đến gần một người thợ. Mồ hôi chảy đầm đìa trên tấm thân gầy của người thợ đục đá khiến cho người khách hành hương càng thương cảm. Nhưng khi người khách hỏi truyện, người thợ đục đá liền trả lời một cách nhát gừng : "Ông không thấy tôi đang lao nhọc vất vả hay sao mà còn hỏi ?"
Người khách tìm đến một người thứ hai. Người nầy lại càng có dáng vẻ mệt nhọc hơn. Được hỏi tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ nầy chỉ trả lời : "Người ta thuê tôi làm việc. Tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà tôi đổ mồ hôi xót con mắt là để có cơm bánh cho vợ con tôi mà thôi, còn công trình xây dựng gì thì tôi không cần biết !"
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi, ông lại gặp một người thợ đục đá khác, người nầy cũng có dáng vẻ mệt nhọc và tiều tụy không kém những người kia. Nhưng nhìn vào ánh mắt của người thợ đục đá nầy, khách hành hương thấy toát lên một vẻ thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Tiến lại, người khách lên tiếng hỏi :
- Ông đang làm gì đó ?
Người đàn ông nhìn ngài mĩm cười và hãnh diện đáp :
- Ông không biết sao ? Tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường.
Nói rồi người thợ đục đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng nơi đó người khách nhận ra một công trình đang được thi công, từng viên đá đang được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của ngôi thánh đường.
Biết được ý nghĩa của cuộc sống là điều quan trọng nhất đối với con người. Nếu không biết tại sao mình sống, sống mà không biết sống để làm gì, sống mà không biết đi về đâu là điều bất hạnh hơn cả. Cuộc sống của chúng ta có lẽ cũng giống như những người thợ đục đá để góp phần vào công trình xây dựng một ngôi thánh đường. Những nỗi vất vả lao nhọc, chán nản, buồn tẻ dệt nên đời thường của mỗi người chúng ta nhiều lúc che khuất hướng đi và ý nghĩa của cuộc đời. Những mất mát, thất bại và khổ đau lại càng làm cho chúng ta choáng ngợp, hụt hẫng giữa giòng đời.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian để giúp chúng ta nhìn ra ý nghĩa của cuộc sống và sống một cách sung mãn cuộc sống tại thế nầy. Ngài đã sống trọn từng thực tế của kiếp sống con người. Ngài đón nhận tất cả mọi biến cố trong cuộc sống nhu hồng 6an của Thiên Chúa. Cả đến đau khổ và cái chết Chúa Giêsu cũng đón nhận để xuyên qua đó con người có thể nhìn ra ý nghĩa của cuộc sống.
Quả thực, trong ánh sáng hiển dung của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để nhận ra ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Tin Mừng lễ Chúa Hiển Dung hôm nay cho chúng ta thấy : ngay sau khi các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo như các ông quan niệm, bắt đầu tan biến để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các ông. Vì thế, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Thầy đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì ! Rồi giờ đây, trong lúc ngây ngất chiêm ngưỡng dung nhan sáng chói rực rỡ của Thầy, thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại luôn trên núi nầy, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng đến lúc mở mắt ra, ông chỉ còn thấy một mình Thầy trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã biến mất. Và Thầy còn giục các ông xuống núi, đi về Giêrusalem để Thầy chịu tử nạn như Thầy đã báo trước. Thế là Phêrô đã vỡ mộng ! Chính trong giờ phút hiển dung rực rỡ vừa rồi, ông Môisê và Êlia cũng đã xuất hiện để đàm đạo với Chúa Giêsu về "cái chết" mà Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và Chúa Cha cũng đã xác nhận : "Đây là Con Ta yêu dấu, anh em hãy nghe lời Ngài". Lời đó là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và rồi đây Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy, qua con đường đau khổ mới đến vinh quang.
Đau khổ và sự chết tự nó không phải là một giá trị. Thiên Chúa không tạo ra sự dữ để đày đọa con người. Do tội lỗi của mình, con người đã tạo ra đau khổ cho chính mình. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và khôn ngoan đã biến đau khổ và sự chết thành nguồn ơn cứu thoát cho con người. Qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, cũng như mọi khổ đau, thất bại trong cuộc sống không phải là ngõ cụt mà là nẻo đường dẫn đến vinh quang và sự sống. Đó là cái nhìn mới mẻ mà Chúa Giêsu hiển dung đã soi sáng cho chúng ta. Từ nay chúng ta được mời gọi đón nhận tất cả mọi biến cố trong cuộc sống như hồng ân của Thiên Chúa và như dịp may được cộng tác vào công trình cứu chuộc và tái tạo của Ngài.
Như thế, vinh quang của Chúa hiển dung hôm nay chưa phải là vinh quang trọn vẹn của Thiên Chúa. Đó chỉ là một thoáng vinh quang báo trước vinh quang của ngày phục sinh mà thôi. Cũng vậy, trên núi Chúa hiển dung chưa phải là nơi định cư vĩnh viễn của những người đi theo Chúa Giêsu. Đừng để mình rơi vào cơn cám dỗ của Phêrô : đừng vội cắm lều ! Vì đây chỉ là nơi dừng chân để lấy sức tiến về Trời Mới Đất Mới. Trong cuộc hành trình về vĩnh cửu có những bóng mát cho đời và chúng ta được phép dừng chân lấy sức để rồi lại tiếp tục ra đi. Nếu cắm lều ở lại, sẽ chẳng bao giờ tới đích.
Sống mà không biết tại sao mình sống, sống mà không biết sống để làm gì, sống mà không biết mình sẽ đi về đâu, đó là điều bất hạnh nhất. Chúa hiển dung hôm nay đã soi sáng cho chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Ngài là ánh sáng, trong ánh sáng ấy chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc sống. Trong cuộc hành trình gian khổ trên trần thế, hãy cứ tin tưởng, vì đã có Chúa Giêsu vừa là người chỉ đạo, vừa là người bạn đồng hành của chúng ta. Vẫn biết rằng con đường Ngài dẫn chúng ta đi là con đường hẹp, đường thập giá, nhưng lại chính là đường sự sống, đường ánh sáng và "những đau khổ đời nầy không đáng là gì so với vinh quang dành để cho chúng ta mai sau trên trời". (Rm 8,18)