Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
16/06 Chúa Giêsu mặc khải Ba Ngôi
- Viết bởi Ga 16, 12-15
Chúa Giêsu mặc khải Ba Ngôi.
Chúa Nhật 11 Thường Niên năm C. CHÚA BA NGÔI. Lễ Trọng.
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy; Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm C 2019
Lời Chúa: Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15
1. Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời tổng thống Nixon, có viết một cuốn sách trong đó ghi lại biến cố xảy ra đêm 7.8.1974, đêm cuối cùng trước khi tổng thống Nixon từ chức. Lúc đó vào khoảng 9 giờ tối, chuông điện thoại vang lên, tổng thống gọi ông đến toà Bạch Ốc ngay lập tức. Khi đến ông thấy tổng thống đang ngồi uể oải trong chiếc ghế màu nâu. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn nhỏ dùng để đọc sách hắt xuống nền nhà. Hai người trao dổi với nhau về nhiều vấn đề. Tổng thống tiễn ông đến tận chân cầu thang. Thình lình tổng thống dừng lại và yêu cầu ông cùng quỳ gối cầu nguyện. Kissinger cho hay rằng mình không biết là có quỳ xuống hay không, nhưng ông nhớ rất rõ là lúc ấy ông cảm thấy lo sợ và không biết phải cầu xin điều gì.
Hình ảnh Kissinger sợ hãi quỳ xuống trong bóng đêm và không biết phải cầu xin điều gì khiến chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hôm nay. Thực vậy, giống như Kissinger, chúng ta cũng có cảm giác đầy lo âu, nhưng chúng ta lại không biết phải cầu xin gì với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải áp dụng mầu nhiệm này vào cuộc sống thường nhật ra làm sao?
Các tu sĩ thường coi ba lời khấn của mình là cách thế thuận tiện giúp họ tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Với đức khó nghèo, họ tận hiến cho Chúa Cha vì qua đó họ biểu lộ lòng phó thác vào sự quan phòng của Ngài: Các con đừng lo mình sẽ ăn gì mặc gì. Cha trên trời biết rõ các con cần đến những thứ ấy. Với đức khiết tịnh, họ tận hiến cho Chúa Con, bởi vì Đức Kitô đã sống độc thân như họ. Người đã tự cho mình thuộc về mọi người chứ không thuộc riêng về một ai. Và sau cùng với đức vâng lời, họ tận hiến cho Chúa Thánh Thần. Họ muốn lắng nghe sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài.
Với chúng ta cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể áp dụng ba nhân đức trên vào cuộc sống chúng ta để tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, trước một tình hình kinh tế đầy biến động, mỗi người chúng ta, nhất là những người già cả và thất nghiệp, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa Cha, như chim trời hay như cánh hoa ngoài đồng nội. Tiếp đến, trước một thế giới đầy tham lam ích kỷ, chúng ta cần noi gương Chúa Giêsu Đấng đã đến để phục vụ và Ngài đã truyền cho chúng ta: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Và sau cùng, trước một xã hội bùng nổ về thông tin, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần dẫn lối để luôn đi đúng con đường phải đi.
Và như thế, mặc dù không tuyên hứa, nhưng chúng ta vẫn có thể áp dụng tinh thần ba nhân đức ấy vào cuộc sống thường ngày. Thực vậy, hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Hãy thực thi giới luật yêu thương của Chúa Con và hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
2. Ba Ngôi với con người - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đặc biệt tới con người.
Các tông đồ học với Đức Giêsu chỉ mới được gần ba năm, coi như trình độ lớp ba. Cho nên Người nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Đối với môn học đời, muốn biết được những điều căn bản phổ thông, phải học hết lớp mười hai; muốn biết sâu sắc tường tận một môn học phải học hết cử nhân, kỹ sư, luật sư, phó tiến sĩ. Muốn khám phá được điều mới, phải là tiến sĩ, bác học. Đó là tiến trình học vấn của loài người. Những mầu nhiệm cao siêu trên trời mênh mông vô cùng chỉ có kỳ công của Chúa Thánh Thần soi sáng, dậy dỗ được thôi: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dậy anh em tới chân lý toàn diện”.
I- Bây giờ các tông đồ mới biết được vài điều về Chúa Ba Ngôi.
Điều thứ nhất: Một Thiên Chúa có Ba Ngôi riêng biệt: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu” và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp trên Người. Nhờ thế, các ông biết được: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi, gọi theo tiếng loài người là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ví như trong một gia đình có cha, mẹ và con; hay một mặt trời có ánh sáng, sức nóng và lửa cháy; hay một hình tam giác đều có ba góc riêng biệt và bằng nhau.
Điều thứ hai: Ba ngôi bằng nhau về bản tính, uy tín và phép tắc vô cùng. Khi Đức Giêsu dậy: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt. 28, 19).
Chữ và chỉ ngang hàng nhau, không có ngôi nào hơn ngôi nào kém nhau. Ví như ta nói: Anh và tôi và ông ấy, cả ba nhân vị đều là người cùng bản tính như nhau, cùng phẩm giá như nhau, và ba người đều có những cơ năng: Trí khôn, ý chí, tình cảm, tinh thần và vật chất. Mỗi khi ta làm dấu Thánh giá, nhắc nhở ta đã được Rửa tội nhân danh Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời ta được chia sẻ đời sống hạnh phúc vinh quang của Người.
II- Ba Ngôi với con người: Ba Ngôi đặc biệt trực tiếp thương yêu ta
Theo giáo lý “Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta”. Tuy nhiên, Ba Ngôi luôn luôn hợp nhất với nhau nên một để cứu độ ta như Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Thánh Thần lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy, của Cha là của Con và cũng là của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã giải thích cho Giám mục Titô về công việc Ba Ngôi thực hiện ơn cứu độ cho ta như thế này: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại. Không phải tự sức chúng ta đã làm nên việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt. 3, 4-6). Như vậy, chúng ta có thể nói: Của trời đất vô tận Chúa Cha đã dựng nên, Chúa Con hy sinh làm lụng vất vả, cực khổ đến chết để thâu góp lương thực vào kho cho ta, và Chúa Thánh Thần lấy lương thực đó ra ban phát cho ta. Hay Ngôi Cha như một bác học, sáng chế đủ mọi thứ thuốc, Ngôi Con như một bác sĩ toàn năng đến sống lăn lộn với chúng ta, khám bệnh, ra toa cho ta, Ngôi Thánh Thần như một dược sĩ coi toa phát thuốc cứu chữa ta. Thánh Phaolô cảm thấy ơn phúc Chúa Ba Ngôi làm cho ta vô cùng trọng đại, nên Ngài luôn luôn nhập đề các thơ gởi cho các giáo đoàn bằng những lời chào: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1, 3) và khi kết thúc, Phaolô thường dâng lời cầu chúc cho các giáo đoàn bằng câu: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr. 13, 13)
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay còn giúp ta nhận ra sâu sắc hơn ơn Chúa Ba Ngôi làm cho ta:
Bài I kể ra công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Ngài đã dựng nên đức khôn ngoan được áp dụng vào Đức Kitô. Thực vậy, “Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống”. Con Một đã sinh ra từ đời đời như tác phẩm đầu tay và Người lấy làm vui thú đến ở giữa phàm nhân. Rồi Chúa Cha dựng nên cõi trời, làm ra mặt đất, vực thẳm, núi non, mạch nước và các nguyên tố vũ trụ. Sau là dựng nên phàm nhân được sống với đức khôn ngoan là nguồn vui của Chúa Cha.
Bài II kể đến công trình cứu độ của Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người làm cho ta nên công chính, mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, cho ta được trông đợi hưởng vinh quang Thiên Chúa, nên khi gặp gian truân, ta phải trung kiên chịu đựng, đừng thất vọng “vì Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, Nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta”.
Bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói đến công trình giáo dục, thánh hóa của Thánh Thần: Người sẽ dẫn ta đến chân lý toàn diện. “Người sẽ lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy “chỉ một mình Thánh Thần mới có thể hé mở cho ta thấy tình yêu của Chúa Ba Ngôi, dẫn dắt ta vào tình yêu của Ngài, và giúp ta sống sâu thẳm trong tình yêu chân thật của Thiên Chúa” (Charles Brethes; Feuillets liturgiques, Annec).
Lạy Ba Ngôi cực Thánh, qua phép rửa tội, chúng con đã được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con trọn đời trung thành với đức tin để Người thương đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng con. Amen.
3. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống tín hữu
"Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn". (Ga 1613)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 8,22-31)
Trích đoạn này trình bày Ngôi Hai như là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với loài người.
2. Đáp ca (Tv 8)
Đây là một bài ca tụng công trình tạo dựng của Thiên Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ thua kém thiên thần một chút.
3. Tin Mừng (Ga 16,12-15)
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự liên hệ giữa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tất cả những gì mà Chúa Con mặc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được dẫn đến sự thật toàn vẹn.
4. Bài đọc II (Rm 5,1-5)
Đoạn thư Phaolô này cũng nói đến vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu: Nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Sự thật toàn vẹn
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
2. "Khi tôi ngắm cõi trời"
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít, có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: "Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người."
3. Một cuộc sống đáng mơ ước
Chúng ta không sống cô độc một mình, nhưng cùng sống với những người khác: gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đoàn giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống chung ấy, chúng ta thường mơ ước:
Phải chi mọi người đều "trong suốt" với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ cho nhau hết mọi ý nghĩ của mình.
Phải chi mọi người đều hết lòng yêu thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một chút gì là ganh ghét, đố kỵ, e dè nhau
Phải chi mọi người đều hết sức hợp tác giúp nhau trong mọi công việc.
Phải chi mọi người đều chia xẻ tất cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó. Mơ ước này không phải chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa sẵn sàng thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
4. Vài suy nghĩ về Thiên Chúa là Cha
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại
Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
5. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
6. Ba Ngôi Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.(Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
7. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
8. Những hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta và cho toàn thể thế giới:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình yêu của Chúa dành cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội thánh / luôn hiệp nhất trong yêu thương và chân lý vẹn toàn.
2. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / nhận biết Chúa là Cha nhân hậu từ bi.
3. Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai thành tâm đi tìm Chúa / đều được hạnh phúc gặp Người.
4. Chúa Thánh thần là Đấng Thánh hóa nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người giúp chúng ta nên thánh trong bổn phận thường ngày.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Chúa Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Dã Quỳ
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là lễ trọng nhất và cao cả nhất trong đạo chúng ta. Thiên Chúa mà chúng ta tin kính thật kỳ diệu. Trong Người có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba ngôi hợp nhất và làm thành một. Chúng ta sẽ không thể hiểu thấu được Thiên Chúa bằng trí khôn của con người. Sự khẳng định về Thiên Chúa Ba Ngôi là một huyền diệu và là một món quà mầu nhiệm của Thiên Chúa mà ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin và với một trái tim đơn sơ của con thơ.
Chúng ta tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi bởi vì Thiên Chúa đã nói với chúng ta. Ngài đã vén mở cho chúng ta qua trung gian của Chúa Giêsu- Con Ngài. Người đã đến nhà chúng ta, ở cùng chúng ta và giảng dạy cho chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã nói cho ta biết mối tương quan tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có Đấng nào giữ gì cho riêng mình, nhưng tất cả đều được chia sẻ, hiệp thông, cho đi và đón nhận...Và tất cả được hợp nhất nên một " Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại...Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."(Ga 16, 13-14) Những mạc khải của Chúa Thánh Thần cũng luôn đồng nhất với những gì Chúa Giêsu đã loan báo. Bởi vì Chúa Con và Thánh Thần đều phát xuất từ Chúa Cha và qui hướng về Chúa Cha "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy... Thánh Thần lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."( Ga 16, 15)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không phải là bài toán khó hiểu và tối tăm mà chúng ta không biết phải nghĩ gì, nhưng là một thực tại phong phú, rất sâu thẳm và rất sáng láng làm chúng ta thán phục. Muốn cảm nhận được cách sống động Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải trở về với nội tâm của mình, đón nhận trong đức tin và tình yêu. Chúng ta cần đặt hết lòng tin tưởng vào Lời Chúa và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Hạnh phúc cho chúng ta khi tin rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Bạn của ta, Chúa Thánh Thần không ngừng thổi tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha và Chúa Con vào trong cuộc sống của chúng ta. Vâng, chúng ta thật hạnh phúc.
Cảm nhận mình thật hạnh phúc vì được dựng nên trong tình yêu và bằng tình yêu của Thiên Chúa bởi Người là Tình Yêu. Thiên Chúa làm ra chúng ta bằng chính bàn tay Người, được là tạo vật giống hình ảnh Người và vì thế, ta sẽ mãi ở trong tình yêu của Người khi Người khẳng định "Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở."(Gr 31,3) Thiên Chúa yêu chúng ta vì ta phát xuất từ con tim và từ tình yêu của Người, nên Thánh Gioan đã nói:"Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước."(1Ga 4, 19b)
Chúng ta còn hạnh phúc hơn nữa vì trong kế hoạch tình yêu kỳ diệu, Chúa Cha đã ban Ngôi Hai cho chúng ta. Vì yêu chúng ta cách tột cùng nên Chúa Giêsu nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa "Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô."(Ep 1, 5) Chính Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên và đưa chúng ta vào mối tình Cha con với Thiên Chúa. Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử ngay từ lúc ta lãnh nhận Phép Thanh Tẩy, nhờ muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa luôn theo ta suốt mọi ngày trong đời sống. Bởi vì ta là con, nên Cha yêu thương và chăm sóc chúng ta nhất là những đứa con yếu đuối bệnh tật. Chúng ta không thể sống trên trần gian này nếu không có ơn Thiên Chúa trợ giúp. Hết mọi ơn ta lãnh nhận đều đến từ tình yêu sống động của Người, như lời Thánh Giacôbê nhắn nhủ "Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú."( Gc 1,17) Vì thế ta vô cùng biết ơn Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Chúa Cha ban mọi ơn lành cho ta qua Chúa Con là Đấng trung gian và trong Chúa Thánh Thần mà mọi Bí Tích chúng ta cử hành luôn được Người thánh hóa và chứng nhận.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu luôn trào tràn trong Ba Ngôi và vì thế, Người thông ban nguồn tình yêu của Người cho chúng ta. Ba Ngôi Thiên Chúa luôn lo lắng cho chúng ta như người cha không bao giờ mệt mỏi. Người không chỉ quan phòng và bao bọc chúng ta nơi trần thế, nhưng Người còn chuẩn bị một gia tài ở trên trời dành cho tất cả những ai tin vào Người. (x. 1Pr 1, 3-5) Thiên Chúa dựng nên ta để đưa ta về trời với Người và hưởng vinh quang của Người. Chúng ta khởi đầu hành trình nơi trần gian bằng đức tin và ân sủng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhưng rồi một ngày ta sẽ bước tới thiên đàng với tình yêu. Thiên Chúa sẽ đưa ta vào trong Người và khi ấy ta sẽ hiểu biết Người hơn.
Trong tâm tình mừng lễ, chúng ta cầu xin:"Nguyện xin ân sủng Chúa Giêsu Kitô, Tình yêu của Chúa Cha và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta."( x. 2Cr 13,13) Đồng thời chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết sống, biểu lộ và làm vinh danh Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống của ta. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, ta tuyên xưng: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trên thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, ta cũng biết ý thức để sống xứng đáng ơn gọi là con Thiên Chúa và là chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời bằng cuộc sống hiệp nhất với Chúa và với nhau; bằng đời sống yêu thương và chia sẻ như mẫu gương của Chúa Ba Ngôi. Và ước gì chúng ta biết nhân danh Chúa trong mọi tư tưởng, lời nói, hành động của ta và sống sâu xa nền tảng đức tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa muôn đời: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
5. Thiên Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Thánh Gioan ghi nhận: Đức Giêsu trong diễn từ ly biệt đã khảng định: Người muốn nói với các môn đệ nhiều điều, và toàn là những nội dung tối quan trọng, có điều các ông hoàn toàn chưa sẵn sàng đón nghe: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi.” Tôi vẫn hay thắc mắc: điều gì mà có tầm quan trọng vượt bậc đến thế, để mà Đức Kitô gọi nó là: ‘sự thật toàn vẹn’?
Giáo hội chọn bản văn Gio-an chương 16 cho lễ Chúa Ba Ngôi năm C quả là có ý nghĩa, chính vì đoạn Tin Mừng này hé mở cho thấy nội dung đích thực của cái thực tế vẫn thường được mệnh danh là mầu nhiệm ‘Chúa Ba Ngôi’. Điều này, tôi thiết nghĩ: các môn đệ cũng như các tín hữu tiên khởi chắc chắn đã nắm bắt rất rõ, trước cả khi nó được diễn đạt bằng công thức ‘Một Chúa Ba Ngôi – Sancta Trinitas ’.
Sự thật toàn vẹn Người đề cập tới trước hết bắt đầu bằng chính con người Đức Kitô Giêsu: “Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”. Đức Giêsu đã lặp lại câu nói trên tới hai lần, điều này cho thấy: chỉ khi nào ta khởi đi từ Giêsu, ta mới có thể hiểu biết cách chính xác, Thiên Chúa thật sự là ai.
Trước mắt các môn đệ là: một ông Giêsu xuất thân từ làng quê Na-da-rét; ông là một bậc thầy đang rao giảng một học thuyết rất kì lạ; còn hơn thế nữa, ông đã có một đời sống và một cái chết không ai hiểu nổi. Ông khảng định rằng: đó là cuộc sống và cái chết trọn vẹn hiến dâng và trao ban, không chỉ cho người tốt mà cả cho kẻ xấu. Nhưng nếu chỉ là cá nhân ông như thế thì dầu có anh hùng và đáng khâm phục thật, nhưng cũng chỉ cá lẻ một mình ông mà thôi. Đàng này ông lại không ngừng tuyên bố rằng: con người và cuộc sống (nhất là cái chết Thập Giá) của ông là biểu lộ trung thực nhất về Thiên Chúa, Đấng mà ông không những gọi là Cha của mình, mà còn tự đồng hóa mình với Ngài. Và Đấng đó, khác với suy nghĩ thông thường của người Do Thái, kể cả các thầy tiến sĩ thông luật thời đó, cũng là Thiên Chúa - Cha đầy nhân ái của hết thảy mọi người, cách riêng những người tội lỗi nhất; sau này qua việc ông được cho chỗi dậy từ cõi chết, những lời khảng định trên của ông trở nên có sức thuyết phục không ai cưỡng lại được.
Nhận biết được điều này mới là nhận biết Giêsu cách đích thực, đồng thời cũng là nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình” (Ga 13:31-32). Tuy nhiên qua phát biểu của một số môn đệ thâm tín nhất như Tô-ma (xem Ga 14:5-7) Phi-lip-phê (xem Ga 14:8-11) Giu-đa không phải It-ca-ri-ốt (xem Ga 14:22-24)…, ta biết: điều này xem ra không dễ dàng được chấp nhận. Tin rằng ‘Thiên Chúa là Cha đầy nhân ái, yêu thương và tự hiến mình cho con người tội lỗi’ còn khó hơn cả tin ‘ba là một hay một là ba’. Điều sau này mới chỉ là một nghịch lý về mặt suy luận toán học, còn điều kia mới thực là nghịch lý làm đảo lộn mọi tương quan trời đất cố hữu. Cần phải chính Chúa Cha trong Đức Kitô gởi một nhân vật bí nhiệm là Thánh Thần - Đấng Bảo Trợ đến mới đưa nổi các tín hữu tới sự hiểu biết và tin thác vào tình yêu vĩ đại này.
Như vậy công việc chính yếu của Chúa Thánh Thần là: làm cho Kitô hữu chúng ta nhận biết Đức Giêsu Thập Giá là Lời tình yêu vô song của Chúa Cha. Thánh Thần chính là đức tin đối thần của tín hữu chúng ta, là Đấng Sáng Soi cho phép ta tiếp cận, hiểu biết và chấp nhận điều mà lẽ thường ta ‘không có sức chịu nổi’; là Đấng dẫn ta ‘tới sự thật toàn vẹn’, vì chính sự thật này mới làm cho ta được sống và sống dồi dào. Vì thế Thánh Thần chính là Hồng Ân tình yêu vĩ đại nhất mà Chúa Cha nhân ái trong Đức Giêsu Kitô có thể ban, để ta tiến vào tình yêu sinh động và phong phú nhất của Người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là khởi nguồn và cùng đích của niềm tin Kitô hữu. Mầu nhiệm đó không hệ tại ở việc, nó quá bí nhiệm tới nỗi không ai kham nỗi, nhưng chính yếu hệ tại: nó quá phong phú, quá sinh động tới độ làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người chúng ta. Mầu nhiệm đó chính là cốt lõi của Tin Mừng. Quả thực kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ Đức Giêsu, mọi Kitô hữu sẽ không ngừng “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19) như một tuyên tín về tình yêu nhân ái vô biên của Thiên Chúa. Và bất cứ ai ngưng tuyên xưng khối tình yêu vĩ đại này như căn nguyên và sức sống của đời mình thì sẽ lập tức không còn là Kitô hữu đích thực nữa. Chúa Ba Ngôi quả thật là mầu nhiệm của các mầu nhiệm, nhưng không phải để hiểu biết mà là để sống!
Lạy Chúa, lẽ ra con đã phải cảm tạ khôn nguôi về niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, lẽ ra mỗi lần thốt lên ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ lòng con đã phải tràn ngập vui sướng. Nhưng tiếc thay thực tế đã không được như thế, chỉ vì con cứ ngắm nhìn Thiên Chúa như một Đấng quyền uy cao sang, nên nhiều khi con cảm thấy khó chịu về mầu nhiệm khó hiểu và khô khan này; nhiều khi con chỉ lạnh lùng thốt lên ‘nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần’ cách máy móc vội vàng, như một công thức vô bổ. Xin Thánh Thần tích cực tác động trong con, để dạy con điều con không thể kham nỗi, là nhận biết tình yêu nhân ái bao la của Thiên Chúa Cha, biểu lộ qua Thập Giá của Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết không ngừng ca ngợi Ba Ngôi từ ái. Amen.
6. Hy vọng đã vươn lên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hy vọng là động lực sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi, nếu không còn niềm hy vọng. Nhưng làm cách nào nuôi niềm hy vọng trong tâm hồn? Đó là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin nào đem lại hy vọng, mới có giá trị và tồn tại.
NGUỒN HY VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động. Niềm hy vọng luôn bị đe dọa khi gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng cũng huyền nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do tại sao phải tìm hiểu niềm hy vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta!
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hy vọng cho chúng ta. Vì niềm hy vọng bắt nguồn từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hy vọng, vì chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình yêu, chẳng có một giá trị nào hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa đã đặt nền tảng niềm hy vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm hy vọng ngoài tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa yêu thương chúng ta mãnh liệt và sâu đậm, nên niềm hy vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn lao và bền vững hơn bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ! Thiên Chúa muốn niềm hy vọng phải đặt vào đúng chỗ. Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi thế, Đức Giêsu mới hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người! Không thấy được sự thật toàn vẹn, con người không thể được giải thoát. Không được giải thoát, không có tình yêu và niềm hy vọng đích thực. Thánh Linh đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu không có Thánh Linh soi sáng, làm sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và phục sinh của Đức Kitô?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho thấy ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh Linh “luôn hiện diện với Thiên Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley 1994:384) Người# luôn hoạt động để tạo dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng không chỉ xảy ra trong vũ trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ hoạt động trong thời gian viết Thánh Kinh! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo hội qua dòng thời gian nữa! Muốn bảo vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu hứng hay tình cảm cá nhân!
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là giao hòa con người với Thiên Chúa và anh em. Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không biết hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình? Không có gì khó bằng khám phá chính mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và Thiên Chúa cũng như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong tương quan này, con người sẽ tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong tương quan với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản chất, Thiên Chúa là một tương quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi trong một Thiên Chúa. Trong các tương quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được tình yêu thắm thiết của Ba Ngôi. Càng chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của niềm tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn vẹn là “được nên công chính nhờ đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan hòa bình an! Không biết được sự thật toàn vẹn đó, cuộc sống sẽ tràn ngập đau khổ. Trái lại, nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ “còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay phủ nhận đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân phận làm người. Nhưng họ quan niệm đau khổ là một thử thách cần phải vượt qua. Cuộc vượt qua thử thách đó không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng được giải thoát. Càng được giải thoát, càng vui tươi và bình an. Chính Thánh Linh cảm thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc khải: “Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31) Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn. Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hy vọng lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui tràn ngập tuổi trẻ đầy hy vọng. Hơn nữa, càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hy vọng và niềm vui. Do đó, có một tương quan sâu xa giữa niềm hy vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hy vọng. Chính thánh Phaolô quả quyết: “Còn chúng tôi thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.” (Gl 5:5) Khi đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, con người có thể tìm được niềm hy vọng vững chắc, vì Thiên Chúa hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm hy vọng ngay tự đời này dù đầy những bất trắc. Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm 5:3-4) “Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hy vọng đạt tới vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hy vọng. Đó là niềm hy vọng có nền tảng, chứ không phải chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386) Niềm hy vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hy vọng, không ai còn hứng khởi để vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã vượt qua những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hy vọng. Nhưng sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua thử thách, nếu không phải là Thánh Linh? Có vượt qua thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hy vọng khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi người. Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi thế, ai trung kiên mới có quyền hy vọng!
Niềm hy vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hy vọng cứu độ vì phát xuất từ Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13) Thánh Linh loan báo một tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.” (NIB 1995:773) Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai. Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có thể đo lường được tầm quan trọng và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với thực tế. Họ có thể đoán trước tương lai trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773) Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố lòng tin trước bất cứ thử thách bất ngờ nào. Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời Chúa cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con. Thật vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa vinh danh Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho phép các môn đệ hiểu tất cả những gì Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi được! Chính Chúa đã nói rõ điều đó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng trình tự thời gian. Người cũng không thể đi trước thời gian hay giẫm chân lên Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục công cuộc mạc khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà nắm chắc nguồn hy vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới mức nào trong tương lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng tỏ Thánh Linh đã làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt đầu với cánh cửa Giáo hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II, Giáo hội không còn tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng đại kết đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như thành phần thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo hội không còn chỉ thấy Chúa hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi thức phụng vụ, “nhưng cả trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn giáo khác nữa.” (Heim 1998:14) Nhờ Thánh Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa trong hoàn cảnh của người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và các giáo hội Kitô giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn trong tất cả những thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.” (Faley 1994:388) Khi đã thoát khỏi tình trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội có nhiều ảnh hưởng và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã bắt gặp nhiều cách diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo khác và các anh em Tin Lành. Thánh Linh đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong những giới hạn nhân gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không được xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu xa về liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không dựa nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm Alexandre de Rhodes, Nobili, Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo đòi phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết, hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải “chú ý tới tôn giáo phổ quát, thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn giáo đa nguyên.” (Heim 1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn Giáo hội khi mở ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin rằng “ý thức đức tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý để đánh giá về hình thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hy vọng trong lòng Giáo hội, niềm hy vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội những chiều hướng mới đi vào một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ.
7. Lễ Chúa Ba Ngôi - Lm. Vũ Đình Tường
Tường thuật trong Cựu Ước về lịch sử hình thành vũ trụ, sách Sáng Thế Kí, các chương đầu tiên, ghi lại công trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không và đặt loài người vào trong vũ trụ đó để loài người thay Ngài làm chủ vũ trụ. Vì là chủ nên trách nhiệm coi sóc, bảo vệ và giữ gìn; đồng thời cũng hưởng hoa trái do đất nước sinh sôi. Đất cung cấp thực phẩm nuôi thân, nước uống và cung cấp ngay cả phong cảnh tuyệt vời cho con người thưởng lãm. Nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ vũ trụ là nhiệm vụ chung của cả nhân loại. Thường con người chỉ lo chăm sóc những gì thuộc riêng mình như vườn rau trước ngõ, ao cá sau nhà mà lơ đi những thứ khác. Là chủ vũ trụ loài người có trách nhiệm bảo vệ môi sinh, bờ biển và rong biển; cánh rừng và thú rừng; bầu trời và chim muông; sa mạc và cây gai trong đó; băng giá và tuyết rơi, bầu khí quyển và các vì sao như thế mới làm tròn bổn phận người chủ có trách nhiệm.
Không may loài người với bản tính ích kỉ nghĩ về mình, cho mình nhiều hơn, cộng thêm nhẹ dạ, tin nghe lời manh rãnh, gian tà xúi bẩy của ma quỷ. Loài người dại dột đã làm sai ý Chúa, không làm tròn nhiệm vụ chủ nhân trái đất, trái lại tàn phá vũ trụ không thương tiếc và làm hại đến bản thân.
Mặc dù loài người lầm lỗi gây hại cho vũ trụ và tạo đau khổ cho chính thân mình như thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, không đành tâm để mặc loài người phải hư đi, đau khổ quằn quại kéo lê cuộc sống. Chúa Cha sai con một mình, Đức Kitô xuống thế, nhận thân phận con người để cứu loài người và sửa lại những gì đã hư mất, đồng thời ban thêm ơn để loài người nhận lại tình thương đặc biệt Thiên Chúa trao ban.
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.'(Gn 3,17).
TÂN ƯỚC
Đức Kitô xuống thế làm người bình thường như chúng ta nên một phần nhân loại từ chối nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Cho là Ngài quá tầm thường và từ chối lắng nghe giáo lí Ngài giảng dậy. Tìm kiếm chân lí là nhu cầu sống, vì từ chối Thiên Chúa chân thật nên con người tìm chân lí nơi loài thụ tạo, họ ca tụng, tôn vinh lẫn nhau, kẻ thờ tài, người thờ tiền, kẻ khác thờ sắc đẹp. Lối sống này nguy hại. Hoặc là dẫn đến kêu ngạo khi thành công; hai là tuyệt vọng khi vinh quang xụp đổ. Vì sao? Vì
Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất (Gn 5,44).
CON ĐƯỜNG SỐNG
Những ai thành tâm, tin nhận Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế sẽ được sống bình an, hoan lạc phát xuất từ nội tâm. Một bình an thực sự mà chính Đức Kitô xác định thế giới không có để cho. Họ tìm được tình yêu thực sự vì chính Thiên Chúa là tình yêu vì ai ở trong Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị hư mất, nếu có chết cũng được sự sống mới. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa xác nhận:
'Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sự sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết'. (Gn 6,40).
'Con không tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; và điều Chúa Cha làm người Con cũng làm như vậy'. (Gn 5,19).
Con đường sống là con đường liên kết với Thiên Chúa vì có sự liên kết, hợp nhất mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Kitô không tự ý làm gì (5,30; 8,28) nói gì (7,16-17; 12,49;14,10) Người không tự ý đến thế gian (7,28; 8,24) Chúa Cha cho Người thấy mọi điều mình làm nên điều gì Chúa Cha làm, Chúa Kitô cũng làm như vậy nên ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha và được Chúa Thánh Thần kết hợp.
CHÚA THÁNH THẦN
Món quà Chúa Con luôn hứa ban cho nhân loại đó là Chúa Thánh Thần được sai đến thời hậu Phục Sinh chính là thời đại của chúng ta đang sống. Thánh Thần Chúa đến đổi mới và canh tân bộ mặt trái đất. Thánh Thần đến làm rõ nghĩa những gì Chúa Kitô đã rao giảng. Tạo vật mới, trời mới đất mới do Chúa Kitô tái tạo được trao cho vào tay loài người làm chủ và coi sóc. Trong Cựu Ước loài người đã thất bại; Tân Ước loài người không phải một mình coi sóc vũ trụ vì Chúa Kitô hứa gởi Đấng Bảo Trợ đến soi sáng, hướng dẫn để loài người không rơi vào vết xưa cũ của tội lỗi.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Gn 14,26).
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết (Gn 16,13)
Nhân loài có Thánh Thần Chúa kề bên chỉ bảo, hướng dẫn. Người thiện tâm nhận được sự thật toàn vẹn.Thời hậu Phục Sinh là thời sung mãn nhất vì được Ngôi Ba Thiên Chúa soi sáng. Tình yêu Chúa hướng dẫn cuộc sống, tình yêu Chúa giúp sáng tạo, tình yêu Chúa giúp kết hợp gắn bó.
Ngày nay các khoa học gia la hoảng về vũ trụ bị nóng, băng đá bắc và nam cực đang tan, băng tuyết đỉnh Hymã lạpsơn rơi lã chã, mưa rơi không đều, khí hậu bất thường. Họ đâu biết là nhân loại vẫn vô tình, vô tâm và ngay cả kêu ngạo tin vào khoa học, tin vào tài sức mình, không tin Ngôi Ba nên vũ trụ rơi vào tình trạng thời Cựu Ước, bị tàn phá, hủy diệt.
Từ chối Chúa Thánh Thần loài người có trí khôn hơn cả nên sẽ chịu đau khổ nhiều hơn cả.
Chúng ta tin có một Thiên Chúa, Ngài có Ba Ngôi. Mỗi Ngôi vị mang một trọng trách riêng. Ngôi Cha sáng tạo, Ngôi Hai cứu chuộc và Ngôi Ba thánh hoá và hoàn thiện.
8. Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm... nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
9. Sống đời sống Thiên Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Năm 1961, sau khi người cộng sản Liên-xô phóng được lên không trung phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì chính phủ Liên-xô đã ra một thông cáo với lời lẽ phạm thánh như thế này: Người Nga chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa, nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có! Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói rọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong Bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây 3 ngàn năm, có một dân Israen, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp loè sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu ra đời, Ngài hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm khác: Thiên Chúa là một nhưng lại có ba Ngôi. Ngài mạc khải cho chúng ta chính đời sống nội tâm của Thiên Chúa. Ngài nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Ngài và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Ngài với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài nói lời của Chúa Cha cũng như Ngài hứa ban Thánh Thần. Ngài hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Ngài dạy ai muốn theo Ngài phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu hết được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà ba, một Chúa nhưng có ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng có 3 giai đoạn: trẻ, trung niên và già – ba giai đoạn nhưng một cuộc đời; linh hồn có 3 cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận – ba cơ năng một linh hồn; nước là một, nhưng có 3 hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới 3 hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái-Nhĩ-Lan là một chiếc lá với 3 khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có ba Ngôi.
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản nội tâm của Thiên Chúa. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi vậy.
10. Sống niềm tin vào Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể nói được là "mầu nhiệm nguồn" của mọi mầu nhiệm. Và con người biết được mầu nhiệm Ba Ngôi là nhờ Chúa Giêsu mạc khải, chứ không phải do nổ lực suy lý của mình. Có điều Chúa Giêsu không bao giờ trình bày mầu nhiệm lớn lao này bằng khái niệm "kỷ thuật số": "3 ngôi" - ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai, ngôi thứ ba.... Ngài chỉ nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhưng cũng là mầu nhiệm mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày, qua Dấu Thánh Giá, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính.... Tuy nhiên, đó không phải là mầu nhiệm để tuyên xưng hay để hiểu mà thôi, nhưng còn là để sống. Nói cách khác, tuyên xưng niềm tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi thì phải sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi cụ thể là sống thế nào?
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là sống tâm tình cảm mến tri ân:
Cảm mến tri ân vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm quá đổi lớn lao này. Cảm mến tri ân vì Ba Ngôi mà lại chỉ một Chúa. Đây là nguyên lý của sự hiệp nhất và bền vững của thế giới tạo thành. Có người thắc mắc tại sao không hiểu Ba Ngôi là ba Chúa cho đơn giản mà lại dạy Ba Ngôi một Chúa cho phức tạp, khó hiểu, mệt cái đầu? Thiết nghĩ nếu Ba Ngôi mà ba Chúa có lẽ số phận của con người và vũ trụ này sẽ bất hạnh biết chừng nào, bởi vì cứ tưởng tượng một nhà ba chủ, một nước ba vua, một giáo hội ba giáo hoàng,.. thì sẽ ra sao chúng ta biết rồi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa thứ đến là sống tinh thần hiệp nhất yêu thương:
Tự bản tính, Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu hiệp nhất Cha Con và Thánh thần. Chỉ trong tương quan tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu phần nào Ba Ngôi mà lại một Chúa: "Ta và Cha Ta là một, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta". Nói cách khác, chỉ có tình yêu mới khả dĩ cắt nghĩa được khía cạnh ngôi hiệp trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế mà những người đang yêu hiểu khái niệm "ngôi hiệp" một cách dễ dàng hơn, như lời họ bộc bạch trong một bài hát: "Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hoá ra thành một".
Tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa luôn yêu thương hiệp nhất như là bản chất của các Ngài, thì ta cũng phải sống tinh thần hiệp nhất yêu thương như các Ngài vẫn sống. Mọi hình thức chia rẽ, hận thù, ly giáo, đoạn tuyệt... đều đi ngược với niềm tin mà ta tuyên xưng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa sau nữa còn là sống tinh thần hy sinh phục vụ:
Ba Ngôi Thiên Chúa không giữ lại tình yêu cho riêng mình mà chia sẻ tình yêu ấy cho mọi thụ tạo, đặc biệt là con người qua tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người qua mầu nhiệm nhập thể để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Do vậy không thể tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi mà lại sống ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến mình, lo cho mình mà thôi.
Khi nghiên cứu vết máu trên tấm khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã xác định được Chúa Giêsu thuộc nhóm máu B. Là con cái của Thiên Chúa Ba Ngôi và là anh em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta cùng huyết thống với Ngài, cùng nhóm máu với Ngài, nhóm máu B. "B" là bác ái, "B" là bao dung, "B" cũng là bình an. Bác ái với mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh. Bao dung với những người lầm lỗi, những người đã xúc phạm đến ta hay làm ta tổn thương. Có như thế thì ta mới có được sự bình an của Chúa Ba Ngôi nơi tâm hồn mình được.
Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh". Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
11. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các Ngài.
12. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (cf. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng thực ra Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu điều này thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, ta phải làm gì?
13. Duy nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn Ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ: "Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất." (Cn 8,22). Sự Khôn Ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Dothái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu. Sự Khôn Ngoan được nhân cách hoá trong cách diễn tả: "Khi chưa có các vực thẳm, khi chưa có mạch nước tràn đầy, ta đã được sinh ra." (Cn 8,24).
Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: "Tôi và Chúa Cha là một." (Ga 10,30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha: "Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." (Ga 14,7). Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: "Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con." (Lc 3,22). Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các Tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần." (Mt 28,19).
Giáo Hội tin kính Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, Thánh Tôma Tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi." Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.
Giáo Hội đã suy tư rất nhiều qua sự đóng góp của các Thánh Giáo phụ và các vị tiền bối như Origen, Tertullian, Arius, Thánh Basil, Thánh Gregory of Nyssa, Thánh Gregory of Nazienzen và Thánh Augustinô… Đã mất khoảng hơn 300 năm để suy tư tìm tòi, bàn cãi tranh luận và đôi khi là nguyên cớ gây tù đày, phân rẽ và hành khổ nhau. Cho tới khi các giáo phụ họp Công đồng Nicea 325 để định nghĩa về sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Rồi chờ đợi cho tới hơn nửa thế kỷ sau, Công đồng Constantinople mới định nghĩa về Ngôi Thánh Thần. Thánh Augustinô tóm gọn ý nghĩa mầu nhiệm: Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúa Cha không phải là Chúa Con. Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha, chỉ duy nhất có một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi riêng biệt nhưng kết hợp làm một Chúa. Thiên Chúa của tình yêu.
Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây Thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu Thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu; trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan toả như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.
Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ: Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài tiếp tục hoạt động canh tân Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập. Qua mọi thời, nguồn ơn Chúa Thánh Thần luôn tràn đổ trong tâm hồn các tín hữu. Luôn có những nhân chứng đích thực giữa dòng đời để chấn hưng, cải đổi và thắp niềm hy vọng cho mọi người trên đường lữ hành. Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô dạy: "Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa." (Rm 8,14).
Qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ: "Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17). Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Chúng ta không thể sống dựa, ăn nhờ, ở bám hay tùy thuộc vào người khác. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn màu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám rễ niềm tin sự sống vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô Thập Giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả quy về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại. Thánh Gioan viết: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến." (Ga 16,13).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
14. Thiên đàng dương thế - Lm. Minh Vận, CRM.
Thánh Phanxicô Salesiô có một người bạn rất thân là Đức Cha Camus. Đức Cha Camus đến nghỉ hè với Thánh Nhân một thời gian khá lâu. Lúc về nhà vị Giám Mục đã phát biểu: "Trước đây, tôi nghe Đức Cha Phanxicô Salesiô hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa, như thể Chúa luôn luôn hiện diện bên ngài, nhưng tôi vẫn chưa tin. tiện dịp, tôi xin đến nghỉ hè tại nhà ngài, để chính mình có dịp kiểm chứng. Nhờ được ở một phòng kế cận phòng ngài, ngày đêm tôi quan sát mọi thái độ, mọi cử chỉ của ngài qua một khe hở, lúc làm việc cũng như lúc ngủ nghỉ, lúc viết lách cũng như lúc cầu nguyện... Nay tôi xin xác nhận rằng: Ngài hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa. Ngài ở một mình, nhưng có Chúa hiện diện bên ngài luôn".
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội, sốt sắng dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trọng nhất trong Kitô Giáo. Nhờ mầu nhiệm cực trọng này, Chúa ban cho chúng ta một ơn rất cao trọng là cho chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh và được tận hưởng tình yêu thâm sâu của chính Chúa Ba Ngôi, khi chúng ta được diễm phúc trở nên con Chúa qua việc lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, hồn xác chúng ta trở thành Đền Thờ sống động nơi Chúa Ba Ngôi ẩn ngự; hay nói cách khác, chúng ta là người chiếm hữu được Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi an vui hạnh phúc, là tất cả mọi sự, là gia nghiệp đời đời, là Thiên Đàng của chúng ta ngay trên trần gian này.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu và xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm và thưởng nếm được ơn rất rọng đại này.
I. XÁC TÍN NIỀM TIN CHÚA HIỆN DIỆN
Thánh Gioan Tông Đồ đã viết: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (I Jn 4:16). Mà bản tính tình yêu là thông ban. Vậy Ba Ngôi Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhau theo bản tính, trong đời sống tự tại, thâm sâu, kỳ diệu và hoàn toàn được mãn nguyện từ đời đời. Nhưng chính nhờ tình yêu sung mãn kỳ diệu đó, Thiên Chúa cũng muốn thông ban cho các loài thụ sinh, bằng cách cho chúng được tham dự sự hiện hữu của Ngài; đặc biệt Chúa tạo dựng loài người chúng ta giống hình ảnh Ngài, như một thụ sinh siêu việt được Ngài rất mực yêu thương. Như một người Cha đầy tình phụ tử, Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong lòng chúng ta, để săn sóc hướng dẫn, chỉ dạy chúng ta trong mọi chi tiết dù rất nhỏ mọn, suốt cả cuộc sống, bằng ơn quan phòng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài.
1. Hiện Diện Bằng Quyền Năng: Là một thụ tạo đã được tác thành, chúng ta cũng như mọi thụ tạo khác, đều được Chúa hiển ngự và thấu nhập trong trót bản thân và cả cuộc sống, bằng quyền quan phòng toàn năng của Đấng Tạo Hóa, hằng luôn săn sóc, nuôi dưỡng và bảo tồn.
2. Hiện Diện Bằng Ơn Thánh: Nhờ Nhiệm Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, trở nên con Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn các loài thụ tạo khác, là được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, như lời Chúa Kitô đã tuyên bố với các Môn Đệ: "Ai yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Thầy, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu thương; lại được Chúa Cha cùng với Thầy và Chúa Thánh Linh hiển ngự trong lòng họ" (xem Jn 14:23). Sự hiện diện thần linh này sẽ tồn tại luôn mãi trong tâm hồn, bao lâu chúng ta còn sống trong sủng trạng, với tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa thánh không vướng mắc trọng tội.
3. Hiện Diện Thực Tại Sống Động: Đặc biệt hơn nữa, mỗi khi chúng ta có đủ điều kiện đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào tâm hồn, chúng ta được diễm phúc hơn các Thần Thánh trên trời, là được Chúa Kitô ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Người ngự trong cung lòng trong sạch Đức Trinh Nữ Maria, thời gian chín tháng Me cưu mang Chúa. Lúc đó, Chúa hiện diện trong chúng ta một cách thực tại sống động, bằng cả thân xác, linh hồn và thiên tính của Ngôi Hai Thiên Chúa.
II. CHÚA BA NGÔI NGỰ TRONG TÂM HỒN
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, bao lâu chúng ta sống trong sủng trạng, có ơn nghĩa thánh như những con ngoan thảo hằng làm đẹp lòng Chúa. Tại nơi đây cũng như trên nơi vĩnh phúc, đời sống thần linh kỳ diệu của Chúa Ba Ngôi hằng tiếp diễn một cách sống động và thâm sâu nơi chính bản thể nội tại của Người.
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương thông ban chính mình cho nhau một cách tự tại và hoàn toàn sung mãn: Chúa Cha được hoàn toàn thỏa lòng nơi chính bản thể nội tại mình, nhiệm xuất Ngôi Con; Chúa Cha và Chúa Con yêu mến nhau nhiệm sinh Ngôi Ba là Thánh Linh Tình Ái.
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta và hằng thông ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người bằng tất cả tình yêu thương nồng thắm.
1. Như Cha Nhân Từ: Vì công nghiệp Chúa Cứu Thế, chúng ta từ thân phận thụ tạo nô lệ, cũng như tội nhân và kẻ phản bội, được trở nên con Chúa, được phúc tôn xưng Chúa là Cha, khi chúng ta kêu cầu: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời!" (Mt 6:9) Quả thật, Chúa là Cha hằng yêu thương săn sóc chúng ta bằng tất cả tấm lòng nhân từ âu yếm, nồng thắm trong cả cuộc sống dù những điều cực nhỏ mọn (xem Mt 5:45). Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn để mạc khải cho chúng ta chân lý Chúa là Cha chúng ta. Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tấm lòng con ngoan thảo, luôn làm hài lòng Cha, như chính Chúa Giêsu đã làm gương, để chúng ta được Chúa Cha mãn nguyện tuyên phán với chúng ta: "Con là con Cha yêu dấu, con hằng làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 3:17).
2. Như Bạn Tâm Phúc: Vì yêu thương, Chúa còn hạ xuống ngang hàng với chúng ta, khi gọi chúng ta là Bạn Tâm Phúc: "Thầy không còn gọi chúng con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi chúng con là Bạn Tâm Phúc, vì tất cả những điều Thầy đã nghe biết nơi Cha, thì Thầy đều đã tỏ cho chúng con biết" (Jn 15:15). Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tâm tình người bạn tri âm, tri kỷ, người tình, người yêu của Chúa.
3. Như Đấng Thánh Hóa: Theo lời Thánh Phaolô, chúng ta là Đền Thờ Chúa Thánh Linh (I Cor 3:16). Thánh Linh là Đấng đã được Chúa Kitô hứa ban, Người hiển ngự trong tâm hồn chúng ta với sứ mạng là Đấng Thánh Hóa, Đấng An Ủi, Thầy Dạy Chân Lý, Đấng Soi Dẫn các tâm hồn trên đường thánh thiện. Chính Chúa Kitô đã phán dạy: "Thánh Linh là Đấng Chúa Cha phái đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy dỗ các con mọi điều và nhắc lại cho các con mọi sự Thầy đã phán dạy các con trước" (Jn 14:26). Để đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện, Chúa muốn chúng ta chân thành thú nhận sự bất lực của mình, chúng ta không thể làm nổi việc gì, nếu không có ơn Chúa trợ giúp (Jn 15:15), nhưng nhờ Đấng Thánh Hóa, chúng ta có thể quả quyết đuợc như Thánh Phaolô: "Nhờ Đấng ban sức mạng cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
III. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
Đức Tin dạy cho biết: Nếu chúng ta sống trong sủng trạng, có nghĩa với Chúa, chúng ta được diễm phúc có Chúa Ba Ngôi hiển ngự trong tâm hồn. Nhờ đặc ân cao trọng này, chúng ta được trở nên Đền Thờ Sống Động của Chúa, được mệnh danh là người mang Thiên Chúa trong lòng, người chiếm hữu được Thiên Chúa làm của riêng mình, Chúa là Đấng gồm tóm mọi Chân, Thiện, Mỹ, là nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Vậy để đền đáp một trong muôn phần những hồng ân cao cả Chúa ban, chúng ta cần chu toàn ba nghĩa vụ khẩn thiết sau đây:
1. Tôn Thờ: Cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, vì không những chúng ta là một thụ tạo của Đấng Tạo Hóa, một thần dân của Vua cao cả, một người con trong Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta còn là những linh hồn được tuyển chọn, hiến dâng đời mình để phục vụ cho vinh danh Chúa, với nghĩa vụ là Người Tôn Thờ Thiên Chúa.
Để cho toàn nghĩa vụ khẩn thiết này, chúng ta hãy hiến tế bản thân và cuộc đời chúng ta, hiệp với Lễ Hiến Tế cực trọng của Chúa Cứu Thế, hằng hiến dâng nơi các bàn thờ đêm ngày trên khắp thế giới, để tôn thờ, ngợi khen, chúng tụng Chúa.
2. Yêu Mến: Là con cái, chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa là Cha, như những người con ngoan hiền thảo hiếu, hằng tìm mọi cách làm vui lòng Cha. Hãy qui hướng tất cả mọi tư tưởng, lời nói, việc làm vì Chúa và nỗ lực chu toàn mọi bổn phận to nhỏ hằng ngày vì lòng yêu mến Người. Gắng biến đổi mọi ánh nhìn, mọi hơi thở, mọi nhịp rung động của trái tim, trở thành những tác động yêu đương dâng lên Chúa, với chủ đích làm vinh danh Chúa, để Chúa được tôn vinh, yêu mến và bản thân chúng ta được thánh hóa.
3. Tri Ân: Là người thụ ân, chúng ta hãy không ngừng dâng lên niềm tri ân lên Chúa bằng tất cả tấm lòng trìu mến, vì biết bao hồng ân Chúa ban: Ơn được tạo dựng làm người, được cứu chuộc khỏi án phạt đời đời, được phục hồi ơn làm con Chúa. Ngoài ra, còn biết bao ơn phúc khác hằng bao phủ hồn xác chúng ta trong trót cuộc sống, trong mọi lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên; nhất là ơn được Chúa Ba Ngôi hằng hiển ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người nơi dương thế này. Chúng ta hãy sống niềm tri ân bằng cách giữ tâm hồn trong sạch, luôn làm hài lòng Chúa, biến cuộc đời chúng ta thành bài ca tri ân không ngừng dâng lên Chúa.
Kết Luận
Làm thế nào chúng ta có thể chu toàn được ba nghĩa vụ khẩn thiết trên đây?
* Là Kitô Hữu, nhờ lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Chúa, là người thuộc về Chúa Kitô, người chiếm hữu được Thiên Chúa, người được mang Thiên Chúa trong tâm hồn; chúng ta hãy ý thức giá trị của ơn cao trọng này và cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu diễm phúc đó.
* Hơn nữa, chúng ta còn là những người được tuyển chọn làm tông đồ vinh danh Chúa, qua các tác vụ khác nhau trong mỗi đoàn thể chúng ta tham dự, như những thừa tác viên chinh phục tha nhân về với Chúa; chúng ta hãy sống như những chứng nhân đích thực của Chúa; để chớ gì khi chúng ta giao tiếp với những ai, họ sẽ nhận ra Chúa hiện diện nơi chúng ta, như họ đã từng thấy Chúa nơi các Thánh.
Xin Mẹ Maria ban ơn trợ giúp, giữ gìn chúng ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để chúng ta có thể chu toàn được những nghĩa vụ phải có đối với Chúa, như những con ngoan hiền thảo hiếu được Chúa hài lòng.
15. Tình yêu kỳ diệu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành tinh". Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa "cho chúng ta".
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
- Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
- Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật..." Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính. Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một(Ga 17, 21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác "Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần". Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
16. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
17. Toàn bộ sự thật.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi."
Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Đức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (c.15) Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
18. Mọi sự của Cha là của Thầy
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm được Đức Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và được Cha sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc, nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có: "Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự mình mà nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã chẳng tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo ra khuôn mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng vừa duy nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha... Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở thành cớ chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên trần thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi ta.
"Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23), "Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em" (Ga 14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao: Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai." Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất chính mình?
Một em bé nói: "Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người mẹ." Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
19. Sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu Nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Gia đình Thiên Chúa" hiệp nhất trong yêu thương: ba Ngôi nên một.
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia đình" ba Ngôi (xin tạm dùng cụm từ ‘Gia đình’ để diễn tả sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba Ngôi Thiên Chúa). "Gia đình" nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt (Vị / Ngôi đồng nghĩa với nhau): Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần, tuy vậy ba Vị chỉ là một Thiên Chúa. (sách bổn cũ ghi: Thiên Chúa nhất Thể tam Vị).
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha" và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh tin kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình hiệp thông khắng khít giữa Người với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: "Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: "Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3,35). Rồi "Con yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy" (Ga 14, 31) cho dù phải "vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập giá" (Phi 2,8).
Như thế, trong "Gia đình" nầy, tình yêu thương đậm đà thắm thiết giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Thiên Chúa kiến tạo các gia đình nhân loại theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Thế rồi, Thiên Chúa đã chọn "Gia đình ba Ngôi" như một khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình Ađam- Evà. Kinh thánh cho biết: "Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy gồm hai ngôi vị khác nhau nhưng cũng chỉ là một.
Để trình bày tính cách 'hai mà một' nầy, kinh thánh mô tả cách thi vị như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn bà đến với ông. Bấy giờ A-đam nói: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Bởi đó, “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2, 24).
Qua Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định với mọi người rằng trong hôn nhân, hai vợ chồng “không còn là hai nhưng chỉ là một xương một thịt” nên không bao giờ được chia lìa. (Mt 19,6).
Thiên Chúa kiến tạo Hội Thánh theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng chọn "Gia đình" Ba Ngôi làm khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều là đại Gia đình Hội Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích thánh tẩy để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể.) Thánh Phao-lô dạy:"Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Ki-tô không còn là nhiều nhưng đã hiệp thông nên một: một nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải bền chặt như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha".(Ga 17, 21)
* * *
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm chọn “Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình Thiên Chúa ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.”
20. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ, để "kính nhi viễn chi" mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá quen với cụm từ "mac ke no", tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
21. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta - Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa:
1) Người sẽ tôn vinh Ta.
Câu này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại, Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa. Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận xét sơ lược: Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị giam hãm trong một lao tù.
2) Để thông báo cho các ngươi.
Chúng ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý niệm: Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu, cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay ít.
22. Hiệp nhất trong Tình Yêu Ba Ngôi
(Suy niệm của Huệ Minh)
Nhớ lại vừa mới bắt đầu Thánh Lể, lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay : "Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Dẫu rằng mừng Lễ Ba Ngôi nhưng các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thật vậy, nhìn lại ta thấy hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đang khi đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Hẳn ta còn nhớ thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Tin Mừng, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời điểm giảng Tin Mừng là thời điểm của Chúa Con và thời này là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Ngài mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao.
Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Ðức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Chuyện xảy đến nơi tâm tư của thánh Augustinô khi Ngài suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Quả thật, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa.
Đúng như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Khởi sự từ ý tưởng của Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và ta thấy Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Ngài cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Ðây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái mà Ba Ngôi Thiên Chúa mời gọi.
23. Dâng lời chúc tụng Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông:”Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
24. Tình yêu hiệp nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: “tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “bạn có tin mặt trời không?”. Kẻ hoài nghi trả lời: “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng... nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta”(1 Ga 4,12). Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
25. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: “Thiên Chúa ăn mặc như thế nào?”.
“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.
“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.
“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về điều mầu nhiệm ”. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói: “Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”.
26. Sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa Thánh Thần
Là con người có nhiều giới hạn, chắc hẳn chúng ta phải công nhận là chúng ta không thể nào hiểu hết tất cả mọi sự trên thế gian này. Huống chi đối với những điều cao siêu mầu nhiệm. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Ðó là mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị.
Làm sao chúng ta có thể hiểu thấu mầu nhiệm này cũng như sống mầu nhiệm này được nếu không được hướng dẫn bởi ơn trên. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ng ười sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn " (Ga 16, 13). Sự thật toàn vẹn ấy là chúng ta đang sống trong tình yêu của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðồng thời, trong Chúa Thánh Thần chúng ta cũng được kêu mời sống mầu nhiệm ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta đã được học giáo lý: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Có vẻ như Ba Ngôi làm việc riêng lẽ, nhưng nhờ mạc khải của Chúa Giêsu dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần chúng ta biết được trong Cha có Con, trong Con có Cha và Thánh Thần chính là tình yêu giữa Cha và Con.
Do đó, mỗi người chúng ta đang được may mắn sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu ấy đưa con người lên địa vị làm con trong Chúa Con. Qua Bí tích Rửa tội chúng ta được đón nhận ơn vô cùng cao quý ấy. Rồi qua Bí tích Hòa giải chúng ta lấy lại được ơn ấy do tội lỗi mà chúng ta đánh mất.
Ba Ngôi cùng một uy quyền, cùng một bản thể và cùng một mục tiêu duy nhất. Mục tiêu đó làđem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Là con của Chúa chúng ta hãy hết sức hãnh diện về điều ấy.
Ðể rồi với niềm hãnh diện đó, mỗi ngày chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm này cho thật tốt trong cuộc sống hằng ngày. Ðây là mầu nhiệm độc đáo của người con Chúa. Càng sống yêu thương nhau bao nhiêu chúng ta càng làm cho mầu nhiệm ấy được sáng tỏ bấy nhiêu.
Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ở cùng chúng ta và xin Người ban thêm sức mạnh để chúng ta biết sống mầu nhiệm cao cả này cho thật tốt trong cuộc sống.
27. Mầu nhiệm Tình Yêu
Là người Công giáo chắc hẳn ai cũng biết và thuộc nằm lòng ba mầu nhiệm chính trong đạo. Một trong ba mầu nhiệm chính đó là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm mà Giáo hội cho chúng ta mừng cách trọng thể hôm nay. Đây là mầu nhiệm căn bản và nền tảng cho đức tin cho mọi tín hữu.
Chúng ta biết, mầu nhiệm là cái gì đó vượt quá trí khôn con người. Cho nên với sức tự nhiên, chúng ta không thể hiểu nổi. Dầu vậy, với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có thể hiểu được phần nào khi dựa vào những gì Chúa Giêsu đã mạc khải. Hơn nữa, dựa vào kinh nghiệm tình yêu chúng ta sẽ nhận biết mầu nhiệm này một cách dễ dàng.
Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng luôn hiệp nhất, yêu thương và nên một với nhau. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã biết: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Thông thường chúng ta nghĩ Ba Ngôi tách biệt nhau và hành động riêng lẽ. Thế nhưng dựa vào mạc khải chúng ta thấy Ba Ngôi luôn hành động cùng nhau.
Ngay từ trang đầu của Sách Sáng thế đã cho thấy: " Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước " (St 1, 1- 2). Như vậy, lúc sáng tạo thì Ba Ngôi đã cùng hoạt động rồi. Thiên Chúa phán: " Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta " (St 1, 26). Hình ảnh của Thiên Chúa chính là yêu thương nhau. Mà Chúa có một ngôi thì làm sao nói là yêu thương nhau được.
Mạc khải ấy được nên trọn vẹn hơn vào thời Tân ước. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì cùng lúc ấy có tiếng Chúa Cha phán cũng như có Chúa Thánh Thần hiện diện với hình chim bồ câu (Mc 1, 9 - 11). Đặc biệt, chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. Người đã trả lời cho ông Philipphê: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 9 - 11)
Từ những điều trên, chúng ta thấy vì tình yêu Ba Ngôi đã đi đến mức tuyệt đỉnh nên không còn là Ba nhưng là Một. Chúng ta có thể lấy hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa. Khi anh thanh niên yêu cô gái và ngược lại thì cả hai luôn muốn nên một với nhau về mọi phương diện. Dù là hai cá nhân riêng biệt nhưng họ không muốn là hai nữa nhưng chỉ là một. Cả hai mong ước trao hiến trọn vẹn cho nhau đến nổi không còn tha thiết giữ lại gì riêng cho mình. Trong tình yêu con người với nhau đã là vậy huống chi là với tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì tình yêu của con người luôn là phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta luôn được ở trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi lãnh Bí tích Rửa tội, vị đại diện Giáo hội đã nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi đón nhận ta vào cộng đoàn Giáo hội. Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá, Giáo hội muốn chúng ta vừa tuyên xưng vừa tự nhắc mình đang sống trong tình yêu cao đẹp ấy. Đồng thời Chúa và Giáo hội cũng muốn mỗi người chúng ta làm sao cho tình yêu ấy luôn được triển nở qua cách sống của mình. Đó là cách sống vị tha, quảng đại và hiệp nhất với nhau. Xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi thương chúc lành cho mỗi người chúng ta.
28. Mầu nhiệm đức tin
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
- Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô, người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta rằng:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện, của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
- Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
29. Ba Ngôi yêu thương hiệp nhất
1. Ngày hôm nay cho dù khoa tâm lý học rất phát triển nhưng không phải đơn giản để có thể hiểu được một con người. Cho nên câu nói của người xưa vẫn không kém giá trị:"Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người". Vâng đúng thế, vì sự hiểu biết của con người giới hạn, cho nên con người không hiểu nổi chính mình, hay tha nhân, thì làm sao có thể hiểu biết đối với Đấng dựng nên con người. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, là một trong những đoạn Đức Giêsu mạc khải về Một Thiên Chúa, nhưng có Ba Ngôi riêng biệt, đây là mầu nhiệm chính yếu, nền tảng đối với người Kitô hữu.
2. Như người thầy không thể dạy cho các em học trò cấp lớp nhỏ về phép khai căn của một con số, mà chỉ dạy điều nầy ở cấp cao hơn khi các em đủ sức tiếp thu. Cũng vậy, trong Cựu Ước dân Do thái luôn sống gần gũi với những dân ngoại, với niềm tin đa thần... Vì vậy mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi có thể làm cho người Do thái lầm tưởng là có ba Chúa, thay vì Thiên Chúa duy nhất! Có lẽ vì thế trong Cựu Ước mới ám chỉ, chứ chưa nói về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn trong sách Sáng Thế, khi nói về tạo dựng, Thiên Chúa được dùng ở số nhiều, tức hơn một ngôi vị, để nói về mình: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống chúng ta" (St 1,26). Sách Sáng thế cũng trình bày về việc "Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước", và Thiên Chúa dùng "Lời" của mình, "Thiên Chúa phán", để tạo dựng vũ trụ vạn vật (x. St 1).
3. Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, mạc khải cách rõ ràng về Chúa Ba Ngôi, như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có thể tóm tắt như sau: Tất cả những gì Chúa Con mạc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con dạy. Hay trước khi về trời, qua lệnh truyền của Đức Giêsu, Người nói rất rõ về Thiên Chúa Ba Ngôi: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi xem ra khô khan, vượt quá sự hiểu biết của con người! Suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi có liên hệ gì đến đời sống ta hay không? Thưa có, tuy Ba Ngôi là Thiên Chúa cao vời, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của chúng ta, chẳng hạn như:
- Đời sống của chúng ta trong sự liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta, đó là giáo lý mà ai trong chúng ta cũng nằm lòng.
- Nhìn vào Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy mỗi Ngôi có phận vụ riêng, nhưng luôn gắn bó với nhau. Điều nầy cho chúng ta suy nghĩ nơi cộng đoàn, nơi gia đình mỗi người trong khả năng của mình cố gắng đảm nhận phần trách nhiệm riêng, nhưng trong tinh thần liên kết, nâng đỡ nhau để chu toàn bổn phận cách tốt nhất.
- "Ba Ngôi Một Chúa" cũng làm cho chúng ta suy nghĩ đến cộng đoàn mẫu về yêu thương hiệp nhất. Nơi Ba Ngôi tình yêu chia sẻ, trao ban: "Người (Chúa Thánh Thần) sẽ tôn vinh Thầy" (Ga 16,14), hay "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15), Ngôi nầy hướng đến Ngôi kia, cho nên tuy ba mà thành một. Nếu đời sống cộng đoàn, gia đình theo gương Ba Ngôi chắc hẳn sẽ tạo nên cộng đoàn, gia đình yêu thương hiệp nhất. Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là thế giới nầy sẽ yêu thương nhau bớt hận thù, chiến tranh; bớt chênh lệnh kiến thức, giàu-nghèo, nếu chúng ta biết chia sẻ những giá trị tinh thần, của cải vật chất cho nhau.
5. Tin tưởng, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi thực ra không khó, nhưng cái khó là noi gương Ba Ngôi để sống, vậy mọi người hãy nhìn lại đời sống của mình:
- Chúng ta có sống trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, cứu chuộc và luôn ban ơn nâng đỡ ta mọi giây phút trong cuộc sống?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi để dám nhận lãnh trách nhiệm và cố gắng chu toàn bổn phận của mình cách tốt nhất đối với Giáo Hội, gia đình...?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi sống yêu thương hiệp nhất? Đẩy lui hẹp hòi ích kỷ, thay vào đó biết chia sẻ những giá trị tinh thần, vật chất với nhau không? Hãy lắng nghe thánh Phaolô căn dặn: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em" (2Cr 13,11).
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho chúng ta biết sống tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân thực sự, nhờ đó chúng ta có được sự bình an hạnh phúc đời nầy và nhất là được hưởng niềm vui mãi mãi với Ba Ngôi mai sau. Amen.
30. Thiên Chúa là Cha – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Tháng năm có ngày của Mẹ, tháng sáu có ngày của Cha. Cha Mẹ sinh con ra, qua bao tháng năm nhọc nhằn nuôi con khôn lớn. Ôi tình cha nghĩa mẹ bao là thiết tha.
Người công giáo gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng trong bóng dáng của người cha đó, vẫn đong đầy tình mẹ chứa chan. Thiên Chúa là Phụ tử và Ngài cũng là Mẫu tử. Lễ Chúa Ba Ngôi diễn tả một cách tròn đầy một Thiên Chúa duy nhất nhưng phong phú trong đa dạng: Ngài là Cha-Con-Thánh Thần. Nơi Ngài vừa là tình yêu của một người Cha, nhưng không hề thiếu vắng tấm lòng bao la của một người Mẹ.
Như ánh mặt trời cùng lúc cho vạn vật ánh sáng, sức nóng dù nó cách chúng ta đến 150 triệu cây số. Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động và mang lại ân sủng cho con người. Chúa Cha tác thành vạn vật, Ngài sai Người Con nhập thể để cứu vạn chúng sinh. Chúa Thánh Thần được Chúa Giê-su sai đến để soi sáng và thánh hóa con người. Thật vậy, từ đầu lịch sử của công trình sáng tạo, Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng hoạt động, với nhau, cho nhau và vì nhau. Mặc dù trong cựu ước, chưa có một sự quả quyết rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi lẽ, não trạng của dân Do Thái là niềm tin độc thần. Hãy tưởng tượng người nhạc sỹ sáng tác một bản nhạc, anh ta viết ở cung đô trưởng, muốn đánh hợp âm đô trưởng cùng một lúc người ta phải kết hợp một loạt ba note: đô-mi-sol. Ba note tạo thành một hợp âm đô trưởng, khi hát lên bản nhạc nghe du dương vô cùng. Niềm tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi do chính Đức Giê-su truyền dạy. Giáo Hội qua rất nhiều công đồng đã khẳng định một cách xác tín về điều này. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439. Dùng lý lẽ hạn hẹp của mình để đào sâu chân lý về Thiên Chúa là điều khó khả thi, nhất là những ai có ý định đem khoa học để giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa thì quả là một điều khó hơn “ mò kim đáy biển”. Cũng giống như một người muốn ôm hết biển cả vào lòng, nhưng khi nhảy vào đại dương và bơi vào trong biển khơi thì ngày càng mịt mù ngăn cách. Chỉ trong niềm tin và tình yêu, chúng ta mới có thể thấy Thiên Chúa không đơn độc, ở Ngài tình yêu làm phát sinh muôn điều thiện hảo, và điều thiện hảo lớn lao quá đỗi là khi Thiên Chúa đã ban chính con một mình cho chúng ta. Tình yêu có Ngôi vị của Ngài là nguồn cảm hứng dạt dào để Thiên Chúa như một họa sỹ tài ba, đã vẽ nên một bức tranh tuyệt vời là vũ trụ và con người, nó không ở thể tĩnh mà luôn động. Một khi đặt con người vào trong vũ trụ, Thiên Chúa muốn bộc bạch cho con người thấy, nơi Ngài, tình yêu chính là điểm phát xuất Mầu Nhiệm Ba Ngôi.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi là nét đẹp của hiệp nhất trong những khác biệt. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
31. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Chúng ta biết do kinh nghiệm cụ thể rằng khi một em bé chào đời trong một gia đình nào đó, thì điều trước tiên em cảm nghiệm chung quanh em là: một tình yêu, một bầu khí âu yếm lan tỏa. Chỉ từ từ em mới gọi tình yêu bao bọc quanh em là ba, là má, là anh, là chị. Tôi nghĩ chúng ta là Kito6 hữu thì cũng phải đi theo một hành trình tương tự đó vào huyền nhiệm Ba Ngôi. Ta cũng được một tình yêu được một bầu khí âu yếm bao bọc. Một tình yêu, một bầu khí lan tỏa nhưng không tên. Nhưng dần dần trong tình yêu đó ta phân biệt được những khuôn mặt để rồi ta bập bẹ gọi tên là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là huyền nhiệm Ba Ngôi một tình yêu qúa phong phú đến độ ta sẽ không bao giờ biết hết được, có kinh nghiệm trọn vẹn được. Cho dù có ai nghiên cứu Kinh Thánh thì có thể khám ra trong đó những giai đoạn lớn của mặc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây chính là cuộc khám phá lớn nhất trong mọi thời đại, mỗi thế hệ Kitô hữu theo một qúa trình thực hiện riêng. Ngày xưa người ta thích nói nhất thể tam vị. Một Thiên Chúa Ba Ngôi nghĩa là người ta muốn nói đến Thiên Chúa thoat ra ngoai định nghĩa, người vượt các định luật toán học. Thánh Augustinô , người đã viết rất nhiều về Chúa Ba Ngôi mà cuối cùng phải thốt lên rằng: Khi người ta nói về Ba Ngôi hẳn là không phải để nói một điều gì đó hơn là để khỏi phải thinh lặng.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt Kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à?". Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương..., có thể nói được rằng: "đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau" hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực tại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng ba ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy, bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kỳ trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một người Con.
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với "Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "quy hướng về Đấng khác".
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tin về mầu nhiệm Ba Ngôi để con không nhưng tin mà còn sống và loan báo mầu nhiệm đó cho những người khác. Amen.
32. Chúa Ba Ngôi
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
33. Mầu nhiệm
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Cha Ta và Ta là một”. “Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết: Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và muốn. Ba giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được, như có người đã nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”, phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
34. Ba Ngôi: mầu nhiệm
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu nổi. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, Biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, Gió đừng rung cây.
Nhưng tất cả mọi điều khó hiểu trong cuộc sống con người có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất. Vâng, chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực, qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa như vậy nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm vậy.
Nhưng tình yêu ấy có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà ngày hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta. Như sách giáo lý của Giáo Hội khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta” “.
Vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây đó là phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào.
Khi nói đến mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, có người thì chấp nhận một cách thụ động, coi như một sự thật hiển nhiên không cần tìm hiểu thêm, người khác thì cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để so sánh chân lý cao siêu này hầu dễ được tin nhận hơn như ngọn lửa của que diêm, cả ba đặc tính: sáng, nóng và cháy xuất hiện cùng một lúc và không thể tách rời nhau, hoặc với một tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau. Nhưng tốt hơn hết, chúng ta tuyên xưng: đây là mầu nhiệm đức tin, nghĩa là chúng ta đón nhận trọn vẹn chân lý ấy nhờ tin vào mạc khải của Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bởi vì nếu không có Thiên Chúa mạc khải, thì chúng ta không biết gì về Ba Ngôi, việc nhập thể của Con Thiên Chúa hay sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Như thánh Gioan tông đồ vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu mới định nghĩa được “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là tình yêu tức là tự chính nơi Thiên Chúa là yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình yêu.
Vâng, chính vì tình yêu mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con; đã trao cho Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình, như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Đức Giêsu khẳng định rõ ràng: “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Và Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi luôn ở trong Chúa Con, hiệp thông làm một với Chúa Con. Nên khi tông đồ Philipphê tha thiết muốn được xem thấy Chúa Cha, Đức Giêsu đã trả lời ngay: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Và chính sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là luồng tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến Chúa Cha, là sức mạnh tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, trong Ba Ngôi luôn có một sự đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu vĩnh cửu trong một Thiên Chúa duy nhất.
Quả thực, tình yêu nào cũng muốn bộc lộ, muốn hiệp thông, muốn trao hiến, người yêu nào cũng muốn tỏ tình thì đối với tình yêu Thiên Chúa chúng ta còn mạnh mẽ gấp bội. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa muốn vũ trụ vạn vật và con người hiệp thông với Ngài để đón nhận tình yêu và sự sống. Ngay cả khi con người sa ngã, chối từ lòng thương ấy thì Thiên Chúa “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” nên “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”. Người Con Một ấy chính là Đức Giêsu. Qua Đức Giêsu mà chúng ta thấy được bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Qua kiếp sống làm người, qua cái chết đau thương, Ngài muốn tỏ ra cho nhân loại thấy rằng Ba Ngôi Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta. Đặc biệt qua biến cố Phục sinh của Đức Giêsu chính Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông vừa nối kết Đức Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Đức Giêsu làm một với Chúa Cha vừa nối kết nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Và vì yêu thương cho đến cùng, nên Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha, được Chúa Con thiết lập, được nuôi dưỡng và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần để qua sự hiện diện của Giáo Hội như một dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn mãi.
Đối với Giáo Hội, qua bao thời đại vẫn không ngừng thể hiện căn tính của mình cho nhân loại thấy mình vừa là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vừa hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, đặc biệt qua đời sống phụng vụ, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội đã trích lại câu mấu chốt của thánh Cyprianô rằng: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nhận thấy nếu Thiên Chúa là tình yêu và con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa thì một cách tất yếu phẩm giá của con người đã được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, ai chối bỏ tình yêu, gieo rắc hận thù thì người đó đã chối bỏ con người và do đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”.
Hôm nay Thiên Chúa Ba Ngôi đang dùng tiếng nói của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống hiệp thông trong tình yêu của Ngài hơn nữa. Cụ thể là thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta xem đã hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi để đón nhận và thể hiện tình yêu của Ngài như thế nào? Rồi, giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa anh chị em với nhau đã thực sự yêu thương nhau góp phần làm cho gia đình mình trở nên dấu chỉ và hình ảnh sống động của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu nơi trần gian hay chưa?
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tôn thờ là nguồn mạch tình yêu đã trao ban tình yêu qua chương trình cứu độ và sẵn sàng đón nhận mọi người hiệp thông với Ngài, thì Ngài cũng đang mong chờ thái độ đáp trả của chúng ta, một thái độ biết đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu với Ngài và với anh em đồng loại.
Trong thánh lễ này chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông luôn hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, giúp chúng ta biết lắng nghe và thực hành lời của Chúa Giêsu để cùng với việc can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi như qua việc làm dấu thánh giá, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, chúng ta biết sống bác ái yêu thương trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn của mình, để xứng đáng là những nghĩa tử của Chúa Cha và luôn được sống hiệp thông trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
35. Lễ Chúa Ba Ngôi
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Dịp này cũng giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Khi chiêm ngắm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có những cảm nghiệm về tình yêu của Ngài như sau.
Thứ nhất: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sách giáo lý Công giáo dạy rằng: "Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo và đời sống Kitô giáo. Đó là nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin. Đó là giáo huấn căn bản nhât và chủ yếu nhất trong "Phẩm trật các chân lý của đức tin" (GLCG 134). Thật thế, Ngài là một thực tại giống như không khí chúng ta đang hít thở để bảo tồn sự sống. Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm gống như mầu nhiệm của sự sống. Bất kỳ sự sống nào không liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa đều vô nghĩa. Và trống rỗng. (Ga 15, 4; 1Cr 13,1-3). Do đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang hiện hữu, điều khiển và nâng đỡ từng giây phút của mọi sinh hoạt vạn vật và nhân sinh trên vũ trụ.
Thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi là một liên hệ yêu thương. Lịch sử cứu rỗi nhân loại là cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Tân Ước, các Tông Đồ mới gặp gỡ Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài là một Con Người tuyệt hảo, đầy thu hút. Họ đem lòng yêu mến, "un coup de foudre" bỏ mọi sự bước theo Ngài (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22). Dần dần qua sự liên hệ thân mật giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ, Ngài cho họ biết những điều bí mật về Thiên Chúa Cha, về chính Ngài là Thiên Chúa Con, và về Đức Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 6). Và sự liên hệ là: "Ta và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30).
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả cuộc sống Kitô hữulà sự liên đới và hiệp thông với mỗi ngôi vị của Ba Ngôi, mỗi người Kitô hữu là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị: " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Nên chúng ta cần bày tỏ sự kính trọng và yêu thương đối với mọi người chúng ta gặp gỡ. Sự kính trọng và yêu thương như những cơn mưa tưới nước xuống vườn hoa. Khi mưa rơi trên những cây hoa, nó sẽ nở bông, khi con người được cư xử với sự kính trọng và yêu thương, họ cũng sẽ nở hoa, vì có ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi họ.
Thứ ba là Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Sự Thật. Thiên Chúa Ba Ngôi chính là sự thật mà mỗi người phải dựa trên đó để sống có ý nghĩa và được cứu rỗi. Yêu mến Thiên Chúa là sống trong sự thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát đuợc con người (Ga 8, 32). Chúa Giêsu đã nói: "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14, 6). Đức Chúa Cha đã sai Chúa Con đến để dẫn đưa con người về với sự thật của ơn cứu rỗi mà Ađam và Eva đã bị ma quỷ lừa dối (Rm1, 20; Ep 1, 3). Và chính Đức Chúa Giêsu đã gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật: "Khi nào Thần Khí Sự Thật đến,Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 13; 14, 17; 15, 26)
Khi chúng ta xum họp nơi đây để chúc tụng và Tôn vinh Chúa Ba Ngôi, chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật, vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đón nhận, tin, vì Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi là ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta là con cái của Người nên chúng ta đi trong đường lối của Người, tín thác hoàn toàn và yêu thương như Ngài đã yêu.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con biết yêu thương và sống chứng nhân về tình yêu mà Ngài dành cho chúng con. Amen.
36. Ba Ngôi: Ý nghĩa
Đức tin không phải là một thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ con người chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng toàn mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở nơi bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con, mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”.
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hòa nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, xâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta qui phục nhưng không bị mất chính mình.
37. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đnh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù!
Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
38. Lãnh nhận một cái mền!
Các thánh ký Phúc Âm đã có một cảm nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Vô Cùng giầu sang, hoàn mỹ, và uy quyền mà không một chữ, hoặc một hình ảnh nào có thể diễn tả được. Cần phải là ba để diễn tả cách đầy đủ sự sung mãn và phong phú của Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình cho chúng ta. Một Chúa, chứ không phải ba Chúa. Tín điều Chúa Ba Ngôi, sự cảm nhận được Ba Ngôi Thiên Chúa, hay là bất cứ cái gì đi nữa, đều qui về một Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất! Sự cảm nghiệm về Thiên Chúa bằng cách này đã là nguồn sức sống cho các tín hữu thời sơ khai. Do cái cảm nghiệm này đã làm cho họ có sức mạnh để nhận biết Tình yêu mà họ chưa từng có bao giờ biết từ trước. Cái cảm nghiệm này là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của họ, và cuộc sống của chúng ta nữa.
Chuyện đã xảy ra thời Tân Ước đó là Chúa Giêsu đã đến giữa họ, và họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa trong một cái nhìn mới mẻ đầy sửng sốt mà không thể nào giữ trong lòng nổi. Họ phải loan truyền Tin Mừng này ra cho toàn thể thế giới. Điều họ đã nhận ra là Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng, hiện diện trong Người Con, và Người Con đã hiện thân ở giữa họ. Thiên Chúa, trong Người Con, đã hiện diện ở giữa họ như là một thần tượng tuyệt hảo trong cuộc sống của con người.
Chúng ta tụ tập nơi đây bởi vì chúng ta muốn biết làm sao để sống một cuộc đời Kitô giáo. Đây là một mẫu gương cho chúng ta. Đây không phải là những cảm nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa mà chúng ta không thể nào nắm được. Thiên Chúa đang hiện diện như là một người giữa chúng ta. Như các Kitô hữu thời sơ khai đã cảm nghiệm được sự mặc xác của Thiên Chúa và đã sống qua những biến cố của Quyền Năng Phục Sinh, họ nhận ra trong một cách mới mẻ Thiên Chúa yêu thương họ biết bao.
Hơn thế nữa, họ còn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bằng một cách khác, một điều mới xảy ra. Họ diễn tả cái đó giống như là ngọn gió thổi qua. Họ nói đó là những ngọn lửa sống động, ấm áp, và linh thiêng. Họ khám phá ra cái cảm nghiệm này của sự hiện diện Thiên Chúa ở trong họ, và nó làm cho họ được sống động. Họ nhận ra rằng họ được tẩy rửa. Cái mặc cảm tội lỗi trong người của họ đã được tẩy xoá và được tăng thêm sức mạnh. Họ đã có thể đứng lên trước công chúng, vua chúa, và rao giảng Tin Mừng. Bởi Chúa Thánh Thần quá tuyệt hảo, các thánh ký đã nhắc đến Ngài hơn 350 lần bằng nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Thần Chân Lý, Đấng Ban Phát Ơn Phúc, Ánh Sáng của Tâm Hồn, Đấng Ban Sức Mạnh, Đấng An Ủi.
Vào một buổi sáng ngày Chúa nhật, một bà mẹ đã nói với người con cả rằng, "Billy, hôm nay mẹ không thấy khỏe để đi lễ được, con đi lễ đi." Và Billy đã đi Lễ. Lễ song, khi Billy về nhà, mẹ chàng hỏi, "Hôm nay con ngồi ở đâu?" "Thì con vẫn ngồi ở chỗ cũ," Billy trả lời mẹ. Câu trả lời đó đã làm cho mẹ cậu nghi ngờ, bà liền tiếp, "Thế hôm nay bài Phúc Âm nói về cái gì?" Billy ngẫm nghĩ và trả lời cách ngập ngừng, "Ờ...để xem coi, hình như hôm nay có cái gì đó liên quan đến vấn đề lãnh nhận một cái mền." Thế là xong! Mẹ cậu liền gọi cho cha xứ và hỏi cha hôm nay bài Phúc Âm nói gì, cha liền trả lời, "Hãy kiên nhẫn, các con sẽ nhận lãnh sức mạnh..."
"Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh" Chúa Giêsu phán, "khi Thần Chân Lý đến trên các con" Đó là sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh biến đổi. Đây không phải là điều gì mới mẻ cả. Các bạn đã biết cả rồi. Tuy nhiên, có khi nào bạn để ý để mà suy nghĩ và đem ra thực hành không? Những hàng chữ chỉ là những chữ chết nếu không được đem ra thi hành.
Các thánh ký Phúc âm đã nghĩ đến việc chúng ta thành thật trước mặt Chúa về con người của chúng ta; về những cái đưa đẩy tranh chấp trong cuộc sống của mình; về những cái chống đối và địch thù khi thi hành đức ái của Chúa Giêsu trong cuộc sống; về cách thức chúng ta làm cho người khác đau khổ; về những cái khác biệt khinh thị người này người nọ; về cách thức chúng ta che đậy hoặc bào chữa những lỗi lầm của mình. Các thánh ký hằng luôn kêu gọi chúng ta hãy đối diện với hiện thực về chính con người của mình trước mặt Chúa.
Khi chúng ta thống hối, thành thật, và khi chúng ta biết phá đi những cái cản trở trong cuộc sống, thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm được cuộc sống của Chúa trong chúng ta. Các bạn sẽ trở thành con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng từ ban đầu. Một con người yêu thương. Các bạn sẽ có cái nhìn mới mẻ về những người thân trong gia đình.
Thần Khí Chân Lý đang chờ đợi bạn để dẫn dắt và cảm hóa bạn với những điều tuyệt diệu sau: Tôi đi tìm linh hồn của mình, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Chúa, mà Chúa ẩn náu ở đâu. Tôi đi tìm người anh em, và tôi gặp ở đó cả ba.
39. Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Sau biến cố Đức Giêsu phục sinh, chắc các tông đồ đã từng hỏi nhau: “Thầy mình là ai?”. Và rồi nhờ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các ngài mỗi ngày một nhận biết về Đức Giêsu hơn. Với biến cố Đức Giêsu lên trời, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.16, 19), nghĩa là, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Vào ngày lễ ngũ tuần, các tông đồ đã nhận biết quyền năng Thánh Thần (Cv.2, 1-17). Nhờ nhớ lại những giáo huấn của Đức Giêsu, các tông đồ cũng nhận biết Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp được Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh gởi tới với con người (Ga.14, 16; 15, 26).
Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Kitô hữu đã nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Cha (Ga.15, 26). Tín hữu nhận ra Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần có một tương quan rất đặc biệt với nhau và với con người. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corinthô viết “nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Thánh Thần ở cùng anh chị em” (2Cor.13, 13). Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần là ba “ngôi vị” (persona, prosopon, hypotases) luôn yêu thương con người.
Nếu hiểu một Thiên Chúa Ba Ngôi là một bản tính Thiên Chúa có ba ngôi vị, như một bản tính người nhưng có ba ngôi vị người khác nhau, thì sai lầm; vì lúc đó, là ba Chúa chứ không phải là một Thiên Chúa nữa. Hiểu như vậy rất sai trái với điều đã được mặc khải nơi Cựu Ước: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất, ngươi phải phụng thờ Người với hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi” (Đnl.6, 4). Một số người muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa nên đã giải thích: chỉ có một Thiên Chúa, nên lúc thì Ngài là Cha, lúc thì Ngài là Con nhập thể, lúc thì Ngài là Thánh Thần. Hiểu như vậy cũng là sai lầm, vì Cha vẫn luôn là Cha, Con vẫn là Con, và Thánh Thần vẫn là Thánh Thần; Cha, Con, và Thánh Thần tuy là một với nhau, nhưng vẫn là từng ngôi vị phân biệt, Cha không lẫn lộn với Con hoặc Thánh Thần. Một số khác cũng muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa, nên giải thích: Đức Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa nhưng không hoàn toàn là Thiên Chúa, Ngài kém Thiên Chúa một chút. Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Kitô Giáo, của Công Giáo.
Cha, Con, và Thánh Thần là ba ngôi vị phân biệt nhưng là một trong tất cả. Cha chỉ là Cha khi có Con; không có Con cũng chẳng có Cha; Cha sinh Con từ thuở muôn đời; Thánh Thần nhiệm xuất từ Cha và Con, cũng như tình yêu là tương quan giữa Cha và Con. Tuy dù Cha là nguồn gốc tất cả, Con sinh bởi Cha, và Thánh Thần nhiệm xuất bởi Cha qua Con, nhưng Ba Ngôi, nói theo Ba Ngôi nội tại, đều có cùng một quyền năng và là một trong tất cả trừ tương quan ngôi vị. Có người đã trích dẫn “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28) và “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13, 32) để khẳng định rằng Thiên Chúa Cha, xét theo bản chất, cao trọng hơn Đức Giêsu Kitô. Để hiểu đúng hai câu này, phải hiểu nó trong nhiệm cục cứu độ; vì là người trọn vẹn nên Đức Giêsu không biết tất cả; vì là người, nên Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của Ngài, nên Chúa Cha cao trọng hơn Ngài.
Trong Cựu Ước, nơi sách Châm Ngôn, người ta đã biết Đức Khôn Ngoan đã được sinh ra trước tất cả; Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa và là niềm vui của Thiên Chúa; Đức Khôn Ngoan đã đùa vui với con cái loài người (Cn.8, 31). Nhưng chỉ với Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi và nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng khi biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể: Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Cha là một (Ga.10, 30.33), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62).
“Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy… Thánh Thần sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga.16, 13.15). Nơi Chúa Cha, Thánh Thần, và Đức Giêsu, tất cả là chung đến độ là một trong tất cả. Tuy là một, nhưng vẫn là Cha, Con, và Thánh Thần phân biệt; Ba Ngôi không lẫn lộn với nhau. Chính nhờ nhiệm cục cứu độ, mà người ta nhận biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị: Cha khởi đầu với sáng kiến, Con thực hiện, và Thánh Thần làm hoàn tất trong dòng lịch sử. Cha, Con, và Thánh Thần có thể được phân biệt nhưng không thể tách biệt khỏi nhau, không thể độc lập với nhau vì là một Thiên Chúa. Cha chỉ là Cha trong tương quan với Con, và Thánh Thần bởi Cha và Con mà ra; có thể phân biệt các ngôi vị nhưng không thể tách biệt như những thực tại độc lập, bởi vì Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa.
Cha sáng tạo vũ trụ và con người qua Con trong Thánh Thần. Chính Cha đã sai Con giáng trần để cứu độ con người dưới tác động quyền năng của Thánh Thần; và một khi Con hoàn tất cuộc sống dương thế, Thánh Thần được sai tới để hoàn tất công trình cứu độ con người. Hiện tại, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện với mỗi người chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga.20, 22). Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi để sống với Thiên Chúa, để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng mình. Mỗi người đều được mời gọi để đi vào tương quan tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Mỗi người đều được mời gọi để sống hạnh phúc với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chỉ nhờ nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Bạn có đồng ý với khẳng định đó không? Tại sao?
2. Bạn có năng ý thức Thiên Chúa Ba Ngôi đang hiện diện với bạn không? Theo bạn, một khi ý thức Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần đang hiện diện với bạn, thì bạn được gì?
40. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất” (Đnl.6, 4). Nhờ Đức Giêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”, cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”, như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý thức Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn với Ngài như thế nào?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?
41. Suy niệm của Lm. Thu Băng
Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong đoạn Tông thư Thánh phaolô có lời cầu chúc: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em" là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đình đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng...". Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: "Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đng"
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
- Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
- Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
- Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
- Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. "Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi" và ngài đã kết luận "Thiên Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời". Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em" (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội... tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng... gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau.... Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.
42. Ba bộ mặt
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao - dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: "Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?"
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
43. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa đều đã được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, và không còn gì để nói về Thiên Chúa ngoài những mạc khải ấy?
2. Theo Đức Kitô, “khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thần Khí sự thật đã đến chưa, và Ngài đã mạc khải sự thật về Thiên Chúa như thế nào?
3. Có thể có nhiều cách nhìn khác nhau nhau về Thiên Chúa không? Các cách nhìn ấy có thể mỗi cách đều có giá trị riêng của nó không? Tại sao?
4. Ba Ngôi Thiên Chúa có khác biệt nhau không? Sự khác biệt ấy làm cho Ba Ngôi hợp nhất hay chia rẽ? Sự khác biệt giữa mọi loài, mọi vật, mọi tôn giáo trên thế giới, có nằm trong ý muốn của Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý
1. Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra.
Đức Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!
“Không có sức chịu nổi”, vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khải
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giêsu đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước: “Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
3. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diện
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho trần gian.
44. Suy niệm của GP. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Giờ phút này đây, chúng ta đang bắt đầu một ngày mới. Ánh bình minh đã từ từ ló dạng.
Đó là một việc rất bình thường cho con người. Có khi nào lúc màn đêm buông xuống, khi lên giường chợp mắt, chúng ta chợt giật mình suy nghĩ: nếu ngày mai không có ánh mặt trời, và mãi mãi mặt trời sẽ biến mất, chúng ta không biết mình sẽ ra sao. Nhưng rất may đều đó đã không xảy ra. Sau một đêm dài nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta lại được chào đón ánh bình minh tươi đẹp, với vầng mặt trời từ từ hiện đến, mang những tia nắng ấm áp cùng với ánh sáng chan hòa bao phủ trần gian. Mỗi ngày mặt trời vẫn trung thành xuất hiện, vẫn tỏa sáng và mang hơi ấm đến cho con người. Nếu người nào biết tận hưởng, thì đây là điều rất hữu ích. Còn nếu ai quá lạm dụng, thì cho dù có tầng ozone bao bọc, họ cũng không tránh khỏi hậu quả tai hại do sự lạm dụng quá đáng.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta vừa nghe lại những Lời quý báu Chúa Giêsu nói:
"Khi Thần Chân Lý đến Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật" Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con "Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy".
Chúa Giêsu muốn tỏ cho loài người biết về mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng hợp nhất không bao giờ chia rẽ, cho đến nỗi Ba Ngôi mà chỉ có một.
Mầu nhiệm cao cả nầy, chúng ta biết từ rất lâu, nhưng hiểu không được bao nhiêu. Như một đứa trẻ, nó biết cha mẹ yêu thương, nhưng không biết được tình yêu thương đó như thế nào. Nhưng chúng ta thử lấy tâm tình của một trẻ thơ mà tìm hiểu Chúa Ba Ngôi theo những gì mình hiểu biết.
Chúng ta thử ví Thiên Chúa Cha như vầng mặt trời,
Chúa Giêsu như ánh sáng được chiếu tỏa từ mặt trời,
Chúa Thánh Thần là sức nóng từ vầng mặt trời có ánh sáng phát ra.
Mặt trời vẫn trung thành với trái đất như thế nào, Thiên Chúa cũng trung thành với loài người như thế, và còn hơn thế nữa, vì mặt trời thì dường như vô tri, còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương loài người, tất cả những gì Ngài thực hiện đều phát xuất từ lòng yêu thương. Không thể có một khối mặt trời mà không có ánh sáng và sức nóng. Cũng thế Thiên Chúa hiện hữu trong một bản tính duy nhất nhưng Ba Ngôi Vị riêng biệt.
Thiên Chúa Ba Ngôi còn hiện hữu qua con người của chúng ta. Con người chúng ta được mang hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tạo dựng của Thiên chúa Cha. Con người được cứu chuộc để được tỏa sáng, được trong sạch. Đó là công trình cứu chuộc của Ngôi Hai. Con người được ban cho sức mạnh để những việc làm đạt kết quả tốt đẹp. Đó là sức nóng của Chúa Thánh Thần nung đốt
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn lại hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, một hình ảnh đã bị biến dạng. Chúng ta đã dùng những chất bẩn của tiền bạc, của lợi lộc cá nhân, những chất bẩn của sự ích kỷ, của sự tranh chấp, lừa lọc để bôi nhọ hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mỗi người. Vì sự bôi nhọ đó mà ngay cả chính mình không nhận ra, thì làm sao người khác có thể nhận ra được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chúng ta được.
Chúng ta biết chờ đón ánh bình minh trong đêm tối. Thế mà trong những lúc thất vọng, chúng ta đã quên mất Thiên Chúa của mình. Chúng ta không còn biết có một Thiên Chúa vẫn trung thành và yêu thương luôn chờ đón mình. Vậy mỗi người đã xử dụng mặt trời như thế nào? - Chúng ta chỉ biết phiền trách vì ánh nắng chói chan, vì cơn nóng gay gắt. Hay chúng ta biết tận dụng được những gì từ ánh mặt trời ban cho.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng biết nhìn thấy được hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong đời sống, để biết sống cho xứng đáng.
45. Sự thật toàn vẹn - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá.
Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.
Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
46. Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: "Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi".
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: " Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian" (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: " Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống yêu thương để chúng con luôn thấy Chúa hầu chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
47. Hiệp nhất
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm còn ẩn dấu rất sâu kín và rất khó hiểu, chính vì thế muốn trình bày để cho người khác hiểu, cho dù các nhà tiến sĩ lừng danh của Hội Thánh đi nữa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Khi học ở đại chủng viện, môn học về Chúa Ba ngôi: De Deo uno, De Trinite, là môn học khó nuốt nhất cho các thầy chủng viện nhất. Câu chuyện của Thánh Augustinô gặp thiên thần dùng vỏ nghêu định múc cả nước dưới biển để đổ vào cái vũng nhỏ mà thiên thần đào bằng tay, chính là để nhắc nhở cho chúng ta.... Dù vậy, với ơn Chúa, chúng sẽ hiểu được phần nào mầu nhiệm này. Chính Hội thánh cũng không dám tự phụ mình hiểu rõ về TC Ba Ngôi...
a. Trước hết, ta nên nói chút ít về Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi TC vì là Ba Ngôi vị riêng biệt, nên ta gọi là Ba Ngôi. Vì Ba Ngôi hiệp thông mật thiết đến nỗi trở thành duy nhất, "trở nên là một" nên ta gọi là một Chúa duy nhất. Chúng ta gọi một Chúa, không phải vì Ba Ngôi là 3 ý tưởng, là 3 khái niệm trong một Chúa duy nhất; nhưng vì Ba Ngôi là Ba Ngôi vị riêng biệt, do sự hiệp thông chặt chẻ với nhau trong cùng một tình yêu và một ước muốn duy nhất như nhau, nên ta mới gọi là một Thiên Chúa duy nhất. Điểm này không bao giờ có ở nơi con người trần gian, vì con người là sinh vật bất toàn, nên sự hiệp thông của nó cũng bị giới hạn, không bao giờ trở nên là một; dù ngay trong tình yêu đôi bạn, vợ chồng là hình ảnh tiêu biểu nhất cũng vậy.
b. mầu nhiệm của Ba Ngôi Thiên Chúa chính là mầu nhiệm của Tình yêu Hiệp thông: Mấy lời Chúa Giêsu nói trên đây về Chúa Ba Ngôi tuy rất ngắn, nhưng nói lên rất nhiều về Thiên Chúa Ba ngôi, về mầu nhiệm hiệp thông nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Sở dĩ Ba Ngôi kết hiệp mật thiết đến trở nên là một, chính vì Ba Ngôi TC là Đấng toàn thánh, ngàn lần chí thánh. Hơn nữa, vì tình yêu chân thật và thánh thiện thì có đặc tính hiệp thông và chia sẻ, nên mới có khả năng trở nên là một như thế.
Người ta nói tình yêu chân thật là một thứ nam châm, có sức hút người ta gần lại với nhau, nên hai người không thể nào, và cũng không muốn rời xa nhau. Khi yêu nhau chân thật, người ta muốn ở bên nhau, muốn hiến trao cho nhau. Hai khía cạnh của Tình yêu chân chính là: bên nhau - nên một. Một hình ảnh rất mờ nhạt của Tình Yêu Thiên Chúa Ba ngôi chính là bộ ba mà TC dựng nên trên trần gian: cha - mẹ - con cái. Đúng vậy, nếu bộ ba này sống tình yêu trọn vẹn, sẽ có nhiều nét rất giống Tình Yêu của Ba Ngôi, vì thực ra chính hình ảnh này là do Thiên Chúa dựng nên kia mà... Vì thế, người ta có thể nói, Tình Yêu nơi con người bất toàn bao nhiêu, thì Tình Yêu nơi Ba Ngôi thiên Chúa lại trọn vẹn và hảo bấy nhiêu... Ba Ngôi Thiên Chúa càng yêu thương nhau, các Ngài muốn gần nhau, nên một với nhau bấy nhiêu, Ba Ngôi càng không muốn điều gì là của riêng mình nữa, mà chỉ muốn nên một mà thôi.... Như trên đã nói, điều này chỉ có nơi Thiên Chúa, nơi con người không thể đạt được mức độ thành toàn như vậy...
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi chính là để nhắc nhở ta sống mầu nhiệm Tình Yêu Hiệp thông đó.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu đã nói: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Mình..." Tình Yêu của Thiên Chúa là thế, dù yêu nhân loại là thụ tạo bất toàn, nhưng Người vẫn dành cho một tình yêu cao cả thần thánh như vậy. Còn phần thì sao? Khi hiểu được như vậy, ta có sẵn sàng đáp lại cho tình yêu của TC không? Ta có cố gắng yêu mến Chúa như ý Chúa muốn, yêu mến Chúa qua mọi người chung quanh ta, nhất là những người nghèo khổ, không ai nhìn tới, những người bị xã hội bỏ rơi, ruồng bỏ không?
48. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
VÀI SUY NGHĨ VỀ THIÊN CHÚA LÀ CHA
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại. Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có: Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con: Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ. Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con: Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
49. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
BA NGÔI THIÊN CHÚA, MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
50. Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong các bổn phận chính mà người Kitô hữu phải làm, việc trước tiên là tin những gì Thiên Chúa truyền và Giáo Hội thay mặt Chúa dạy. Trong những điều phải tin, quan trọng hơn cả là các sự Mầu nhiệm, trong đó có Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Trong bài suy niệm này, xin được gởi mở mấy điểm sau đây: Mầu nhiệm là gì? Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? Ta có bổn phận nào đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
1. Mầu nhiệm là gì?
Mầu nhiệm, là những sự thật siêu nhiên vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Nhìn nhận có những mầu nhiệm không phải là phủ nhận trí khôn của con người, nhưng trái lại là chấp nhận trí khôn của con người thua kém sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Dừng lại quan sát em bé hồi lâu, Thánh nhân liền đến hỏi:
- Bé ơi! bé đang làm gì đó?
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
- Cháu không thể làm như vậy được đâu!
- Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?
Một là trong Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau. Hai là mỗi một ngôi cũng là Thiên Chúa. Ba là ba ngôi đều bằng nhau. Bốn là ba ngôi chỉ làm thành một Thiên Chúa.
Vì là mầu nhiệm nên chúng ta không thể hiểu. Tuy không hiểu, nhưng chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
3. Chính Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi?
Thời Cựu Ước, khi nhân loại chưa sẵn sàng đón nhận, nên Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chưa được tỏ bày một cách rõ rệt, có chăng thì cũng chỉ tỏ bày một cách mờ nhạt. Chẳng hạn, tiên tri Isaia nghe được tiếng các Thiên thần ca tụng Thiên Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh...Chúa là Thiên Chúa các đạo binh” (x. Is 6,3). Trong sách Sáng Thế cũng tường thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người rằng: “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta...” (St 1,26). Cụm từ “Chúng ta” ở số nhiều, có ý chỉ về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sang thời Tân Ước, khi nhận thấy con người đã sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu đã mạc khải Mầu nhiệm này một cách rõ ràng, có khi mặc khải từng ngôi vị, có khi mạc khải hai ngôi vị, có khi mạc khải cả ba ngôi vị.
Mạc khải từng ngôi một:
Hai dẫn chứng tiêu biểu sau đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26); “Lạy Cha, sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (x. Ga 17,1; 3).
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Con, khi Ngài xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,13-18). Ngài còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa và ngang bằng với Thiên Chúa (Ga 10, 22-39).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết có một Đấng Bảo Trợ khác đó là Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,5-10), Ngài được sai đến để trợ giúp và thánh hoá chúng ta (x. Ga 16,13-15).
Mạc khải cả ba ngôi Thiên Chúa:
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3,21-22).
Ngày Chúa Giêsu lên trời, Ngài dạy các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
4. Người Kitô hữu phải có bổn phận gì đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
Chúa Cha đã dựng nên chúng ta, Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta và Chúa Thánh Thần thánh hoá chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều mang ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn cần đến Ngài. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
Thứ nhất, luôn giục lòng tin có Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta, luôn cầu nguyện và kết hiệp với Ngài, sống đúng với lương tâm ngay thẳng, xa tránh các tội lỗi, làm nhiều việc lành…Để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Thứ hai, hãy năng làm dấu Thánh giá, làm một cách cung kính: Làm dấu Thánh giá trước khi đi ngủ, khi vừa mới thức dậy; Làm dấu Thánh giá trước và sau khi ăn cơm, trước và sau các giờ kinh nguyện; Đặc biệt khi gặp sự khốn khó, khi bị cám dỗ về đàng trái…Hãy làm dấu thánh giá để kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi phù trợ và gìn giữ chúng ta. Thánh Antôn lần kia đang cầu nguyện thì bị cám dỗ về đàng trái, Ngài lấy lòng sốt sắng vạch hình thánh giá trên nền nhà thờ, lập tức hình thánh giá in đậm trên nền nhà thờ và ma quỷ bỏ chạy, còn Ngài được thoát khỏi cơn cám dỗ.
Thứ ba, hãy bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi sống hiệp nhất yêu thương. Tuy Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá. Nhưng trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá đều có sự hiện diện của Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã từng nói: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30); "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15); “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10). Trước khi về trời, Ngài khẩn thiết cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ và những người theo Ngài được hiệp nhất nên một với nhau (x. Ga 17, 21-23). Vậy, chúng ta hãy noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi biết sống hiệp nhất yêu thương: Hiệp nhất nên một giữa vợ chồng; Hiệp nhất giữa các thành viên trong gia đình: "Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6); Hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn; Hiệp nhất giữa mọi thành phần trong Hội Thánh. Thánh Phaolô dạy: "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 27-28). Trong bài giảng sáng ngày 12-5 vừa qua, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô, của gia đình Kitô, là một lời chứng cho sự thật rằng Chúa Cha đã gởi Con mình đến thế gian”.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin cho chúng con luôn biết tin kính và yêu mến Chúa. Xin cho moi thành phần trong Hội Thánh luôn biết cộng tác với nhau, sống hiệp nhất yêu thương để càng ngày càng diễn tả rõ nét hình ảnh hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Amen.
51. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
52. Những hình ảnh của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa: Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
53. Thiên Chúa Ba Ngôi
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…
54. Lễ Chúa Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”
Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ nào.
Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Kitô.
Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.”
- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
55. Sống đời sống Thiên Chúa
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi.
56. Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dậy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất, hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Đnl 4:39). Đó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.
Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh thiêng liêng cho loài người, thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh Thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Ta có thể dùng hình tam giác cân để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá tam diệp thể (shamrock) để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu lá tam diệp thể. Họ trả lời một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticaanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá Trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi là hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở dĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như kiềng ba chân.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin người công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành Bí tích Giải Tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba Ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Đấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Đấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho ăn chắc, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Đấng. Con xin Ba Đấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân...
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả, vô ý thức?
Lời cầu nguyện: xin cho được biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.
Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!
Con thờ lậy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.
Con cảm tạ Chúa đã tạo thành nên con.
Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.
Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,
kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
57. Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi.
Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1. Lòng thương xót của Chúa Cha trong lịch sử cứu độ
Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
2. Lòng thương xót của Đức Giêsu nơi công trình cứu chuộc
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời... nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây nên.
Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người...”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột... nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác... Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội...
Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương...
Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.
3. Lòng thương xót của Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa
Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc..., trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu...
Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng..., để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
4. Tin Thiên Chúa là làm cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy... nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công...; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay...
Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.
58. Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong đời sống đức tin của chúng ta, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác. Nói cách khác, đây chính là mầu nhiệm mẹ của các mầu nhiệm. Đã là mầu nhiệm, với sự hiểu biết của con người, chúng ta không thể biết nếu không được mặc khải. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Nhất Thể mà lại Tam Vị quả thật là một mầu nhiệm vượt lên trên trí hiểu của con người. Chúng ta chỉ có thể biết được phần nào qua sự mặc khải của chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, và cũng là một trong Ba Ngôi Vị đó.
1. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa
Đức Giêsu là "Logos - Lời" của Thiên Chúa Cha. Lời quyền năng của Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa đã được tỏ hiện nơi các mặc khải của Đức Giêsu qua việc cho người mù được sáng mắt; kẻ què được đi; người phong hủi được sạch; và người điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại; người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng (x. Mt 11,4-5; Lc 7,22). Đức Giêsu cũng được ví như hạt giống; cửa sự sống; cây nho; là cử đàn chiên... (x. Mt 7,13-14; Ga 12,24; Ga 10,7-9; 14,6; Ga 15,1-2; Ga 10,11; Lc 15,4-7).
Như vậy, Đức Giêsu chính là "Lời" của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Hiện hữu giữa trần gian là để mặc khải về Nước Thiên Chúa, về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại về với Cha trong ý định ban đầu của Người. Nhưng trước hết, không những chỉ biểu lộ chính mình, Đức Giêsu còn biểu lộ Chúa Cha là Đấng Đồng Nhất với Ngài.
2. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha
Mặc khải đầu tiên được khởi đi qua biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan xong, các tầng trời mở ra và có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu, đồng thời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con Ta yêu dấu." (Mt 1,11).
Tiếp theo, Thiên Chúa Cha được mặc khải như là tình Phụ Tử trong sứ điệp của Đức Giêsu: trong các sách Tin Mừng, Thiên Chúa được gọi là Cha trên 170 lần. Điều mới mẻ nơi Đức Giêsu là không những Ngài đã giảng về lòng từ phụ của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn gọi Thiên Chúa bằng tiếng "Abba" trong lời kinh của Ngài. Tiếng "Abba" thì chỉ một mình Marcô ghi lại (x. Mc 14,36), nhưng cách gọi Thiên Chúa là Cha thì rất nhiều: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha... vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn."(Mt 11,25). Hay: "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha." (Lc 23,46; x. Ga 17,1.5.11.21.25). Đức Giêsu thường xuyên gọi Thiên Chúa như thế. Sự kiện ấy nói lên tương quan đặc biệt giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, một kinh nghiệm thân ái độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu nhận được trong lời kinh của Ngài. Giữa Ngài và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt đến nỗi "không ai biết được Con trừ phi có Cha, và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con mặc khải ra cho" (Mt 11,27). Mạc khải về Chúa Cha còn phát xuất từ kinh nghiệm, lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất" (Mt 11,25), nghĩa là của toàn vũ trụ. Đức Giêsu cũng đã dạy các môn đệ đọc lời kinh "Lạy Cha" (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Chính tương quan độc đáo ấy đã giúp cho các Tông đồ sau biến cố phục sinh nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu được mặc khải về Chúa Cha qua hình ảnh của một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân từ (x. Mt 5,45; x. Lc 6,35); là Đấng giàu lòng thương xót (x. Lc 15,7); là Đấng Quan Phòng (x. Mt 6,27). Người theo dõi đến cả số phận những con vật nhỏ bé phải "rơi xuống đất" (x. Mt 6,29).
Kế đến, chúng ta sẽ được biết về Chúa Thánh Thần qua mặc khải của Ngài.
3. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Thánh Thần
Khởi đầu Mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria (x. Lc 1,35). Tiếp theo sau là vai trò của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa dưới hình chim bồ câu (x. Lc 3,22). Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu "vào hoang địa bốn mươi ngày" (x. Lc 4,1-2). Rồi chính Đức Giêsu đã nói về sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời và sứ mạng của Ngài: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó...". Khi trừ Quỷ, Đức Giêsu đã khẳng định quyền năng của Ngài khi nói: "Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông." (Mt 12,28). Đức Giêsu đã đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc từ chối hay đón nhận: "Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau." (Mt 12,31-32). Hay nói về Chúa Thánh Thần như một món quà cao quý mà Thiên Chúa trao ban cho con người: "Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?" (Lc 11,11-13). Và khi nói đến sự liên kết giữa việc yêu mến và giữ lời, Đức Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật." (Ga 14,15-17). Biết mình sắp từ giã các Tông đồ, Ngài đã mặc khải cho các ông biết về vai trò và sứ mạng của Chúa Thánh Thần: "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật xuất phát từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." (Ga 15,26-27; x. 16,13). Khi bị treo trên Thập giá, trước lúc tắt thở, Ngài đã thốt lên: "Thế là đã hoàn tất!". Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí (x. Ga 19,29-30). Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trao bình an và sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, đồng thời cũng ban quyền tha tội cho các ông:"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.". Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23).
Tắt một lời, nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thật vậy,"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Nhờ mặc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như phần rỗi của con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng Trung Gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn mạc khải." (x. Dei Verbum, số 1, 2).
4. Sống tinh thần mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan cá nhân
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên thụ tạo mới, được mang danh là người Kitô hữu, được trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô thì, nhờ Bí tích, chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần; chúng ta được Thiên Chúa yêu thương: "Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta." (2 Cr 6,15).
Vì vậy, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Sống khiêm tốn, thánh thiện là điều kiện để xứng đáng trở nên đền thờ của Thiên Chúa ngự. Đồng thời chúng ta hãy sống thân tình với Chúa như Cha với con. Hãy học lấy tâm tình của Đức Giêsu khi Ngài thưa chuyện với Cha Ngài. Bởi vì Thiên Chúa ở trong cung lòng của ta, Người sẵn sàng nghe lời ta nói.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan gia đình
Đã nói đến gia đình là nói đến sự hiệp nhất. Nếu không hiệp nhất thì không thể nào đón nhận nhau trong cùng một ngôi nhà, cùng một mâm cơm... Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi phải được coi như là mẫu mực tuyệt đối của sự yêu thương và hiệp nhất: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga,15.26). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm toát lên điều đó: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như Chúng Ta." (Ga 17,11).
Trong đời sống gia đình, mỗi thành viên hãy biết yêu thương nhau. Luôn biết hướng tha để đùm bọc nhau. Hạnh phúc của người khác là điều chúng ta cần quan tâm hơn. Hãy noi theo hành động xuất ngoại của Thiên Chúa khi ngôi này vì ngôi kia và ngược lại nhưng vẫn chỉ là một Chúa duy nhất. Được như thế, thì dù gia đình chúng ta có đông người nhưng cũng chỉ là một. Tuy nhiên duy nhất, nhưng vẫn phải trung thành với những bổn phận riêng biệt của mình trong vai trò là chồng, là vợ, là con cái... Mỗi người phải sống đúng với địa vị và vai trò của mình. Vợ chồng biết tôn trọng lẫn nhau. Cha mẹ sống đúng với vai trò của cha mẹ, luôn làm gương sáng cho con cái bằng chính đời sống tiết độ, công chính của mình. Con cái phải biết vâng phục cha mẹ trong tâm tình yêu mến và thảo hiếu, như Đức Giêsu luôn vâng phục Chúa Cha (x. Ga 4,34; Dt 5,8-9).
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là mỗi lần chúng ta xác tín vào Chúa Ba Ngôi. Một Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và quan phòng. Một Thiên Chúa luôn làm chủ vũ trụ và con người trong vai trò thánh hoá và biến đổi. Đồng thời, mỗi khi mừng lễ, chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa và sống yêu thương nhau nhiều hơn. Mặt khác, chúng ta hãy hãnh diện tuyên xưng về sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày qua việc thành kính tuyên xưng Chúa Ba Ngôi mỗi khi làm dấu Thánh giá.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con tin Chúa, phó thác, yêu mến Chúa. Xin cũng cho chúng con biết yêu thương nhau và sống đúng vai trò của mình trong cuộc sống hằng ngày theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
59. Ba Ngôi nhưng là một Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).
Theo thánh Grégoire de Nazianze (329 – 390) : Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị : Ngôi Cha “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo ; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con ; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh và Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa ...
Theo Grégoire de Nysse (331 ? – 394) : Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.
Theo thánh Augustinô (354 – 430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất : “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).
Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Tin Mừng mà chúng ta công bố hôm nay cho thấy: Chúa Con nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất hoàn hảo : “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”, và Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Chúa Giêsu nói : “Vì thế Thầy đã nói : Người sẽ lãnh nhận từ nới Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Và trong một đoạn văn khác, Chúa Giêsu cũng nói tương tự: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con. Người là Thần Chân Lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy"(Ga 15, 26).
Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Và Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn dắt chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần : chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những "công dân" Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.
60. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật tiếp theo lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành và tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Giáo hội giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Quả thật, Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta”. (Ca nhập lễ)
Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể mô tả đủ hay hiểu biết về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu đức tin của người kitô hữu chúng ta, một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm...Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thân ta, thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời khắc giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
- Mùa Phục Sinh chỉ cho chúng ta rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
- Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi khi làm Dấu Thánh Giá trên mình.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá là tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhặc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta: Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “ Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần “. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta, chính là về Trời. Như các thánh, đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân“.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: điều đó ngụ ý rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Chúng ta muốn nói rằng trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa“.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
61. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
THIÊN CHÚA BA NGÔI BAO TRÙM ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU
Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Một bản thể duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa không phải là Ðấng đơn độc nhưng là Ðấng thông hiệp trọn vẹn. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa luôn tràn đầy tình yêu, là món quà thân yêu được ban tặng cho mỗi người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ba Ngôi bao trùm cả đời sống chúng ta và tôn thờ Ngài.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên : Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này : một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi...
Lớn lên tôi mới hiểu đây là Một trong Ba Mầu Nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là :
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng ?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi : Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con : Ngôi Ba là Thánh Thần.
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng ?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng ?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong Ba Ngôi Vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
“Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể : thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một”.
Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 266-267).
Ba Ngôi trong đời sống người tín hữu
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Câu hỏi sẽ là:
- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?
- Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha… ?
- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần… ? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có.”
Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.
Vậy, nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu” (GLHTCG số 265). Amen.
62. Thần Khí Sự Thật – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:
- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
a) Dẫn nhập (13,31-38),
b) Phân đoạn 1 (14,1-14),
c) Phân đoạn 2 (14,15-24),
d) Phân đoạn 3 (14,25-31).
- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
a) Phân đoạn 1 (15,1-17),
b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,
c) Phân đoạn 3:
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
a) Phân đoạn 1 (17,1-8),
b) Phân đoạn 2 (17,9-19),
c) Phân đoạn 3 (17,20-26).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).
3.- Vài điểm chú giải
- không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).
- Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
- Người sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc khải.
- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban cho loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp (12)
Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại họ.
Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.
+ Kết luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha và Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người. Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi, sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu kỹ càng hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là Chúa Cha và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm gì mà không có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên sự hiệp thông trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi Thánh.
2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả các bí mật của Người (Ga 15,15), các ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp thích ứng mà Thánh Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần không phải là một vị thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo huấn của vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ nhắc lại mạc khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26). Thánh Thần cũng giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn được các xử sự tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người ta khám phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ mạng của Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.
3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững vàng”, “sự bền bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của người tín hữu là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức Giêsu và luôn liên kết với Người.
4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người môn đệ của Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp nhận và đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không xóa mất sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được dấu ấn của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực: không phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường phục vụ những ai cần được yêu thương.
5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này sẽ mở mắt và giúp ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề với chúng ta hơn cả chính chúng ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình yêu Thiên Chúa không ngừng đổ tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để các vị giảng thuyết tìm kiếm những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay không phải để nói về từ ngữ hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng đang cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng. Nếu muốn biết thêm về những mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của Giáo Hội và giáo lý này tiến triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm trong sách vở (Siciliano).
63. Chú giải của Noel Quesson
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr 2, 4.1). Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 - 5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu": Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là "Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." “Tôi không thể mất đức tin..."
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức tin" đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để "hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi cao": Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là một "Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của "vòng tròn hoàn hảo" , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra" và “thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi... nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước vào mối tương quan với họ.
Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17) "Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp thông các ngôi vị "nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một "chóp đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người "hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!
Chúa Giêsu mặc khải Ba Ngôi.
Chúa Nhật 11 Thường Niên năm C. CHÚA BA NGÔI. Lễ Trọng.
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy; Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm C 2019
Lời Chúa: Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15
1. Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời tổng thống Nixon, có viết một cuốn sách trong đó ghi lại biến cố xảy ra đêm 7.8.1974, đêm cuối cùng trước khi tổng thống Nixon từ chức. Lúc đó vào khoảng 9 giờ tối, chuông điện thoại vang lên, tổng thống gọi ông đến toà Bạch Ốc ngay lập tức. Khi đến ông thấy tổng thống đang ngồi uể oải trong chiếc ghế màu nâu. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn nhỏ dùng để đọc sách hắt xuống nền nhà. Hai người trao dổi với nhau về nhiều vấn đề. Tổng thống tiễn ông đến tận chân cầu thang. Thình lình tổng thống dừng lại và yêu cầu ông cùng quỳ gối cầu nguyện. Kissinger cho hay rằng mình không biết là có quỳ xuống hay không, nhưng ông nhớ rất rõ là lúc ấy ông cảm thấy lo sợ và không biết phải cầu xin điều gì.
Hình ảnh Kissinger sợ hãi quỳ xuống trong bóng đêm và không biết phải cầu xin điều gì khiến chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hôm nay. Thực vậy, giống như Kissinger, chúng ta cũng có cảm giác đầy lo âu, nhưng chúng ta lại không biết phải cầu xin gì với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải áp dụng mầu nhiệm này vào cuộc sống thường nhật ra làm sao?
Các tu sĩ thường coi ba lời khấn của mình là cách thế thuận tiện giúp họ tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Với đức khó nghèo, họ tận hiến cho Chúa Cha vì qua đó họ biểu lộ lòng phó thác vào sự quan phòng của Ngài: Các con đừng lo mình sẽ ăn gì mặc gì. Cha trên trời biết rõ các con cần đến những thứ ấy. Với đức khiết tịnh, họ tận hiến cho Chúa Con, bởi vì Đức Kitô đã sống độc thân như họ. Người đã tự cho mình thuộc về mọi người chứ không thuộc riêng về một ai. Và sau cùng với đức vâng lời, họ tận hiến cho Chúa Thánh Thần. Họ muốn lắng nghe sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài.
Với chúng ta cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể áp dụng ba nhân đức trên vào cuộc sống chúng ta để tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, trước một tình hình kinh tế đầy biến động, mỗi người chúng ta, nhất là những người già cả và thất nghiệp, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa Cha, như chim trời hay như cánh hoa ngoài đồng nội. Tiếp đến, trước một thế giới đầy tham lam ích kỷ, chúng ta cần noi gương Chúa Giêsu Đấng đã đến để phục vụ và Ngài đã truyền cho chúng ta: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Và sau cùng, trước một xã hội bùng nổ về thông tin, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần dẫn lối để luôn đi đúng con đường phải đi.
Và như thế, mặc dù không tuyên hứa, nhưng chúng ta vẫn có thể áp dụng tinh thần ba nhân đức ấy vào cuộc sống thường ngày. Thực vậy, hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Hãy thực thi giới luật yêu thương của Chúa Con và hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
2. Ba Ngôi với con người - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đặc biệt tới con người.
Các tông đồ học với Đức Giêsu chỉ mới được gần ba năm, coi như trình độ lớp ba. Cho nên Người nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Đối với môn học đời, muốn biết được những điều căn bản phổ thông, phải học hết lớp mười hai; muốn biết sâu sắc tường tận một môn học phải học hết cử nhân, kỹ sư, luật sư, phó tiến sĩ. Muốn khám phá được điều mới, phải là tiến sĩ, bác học. Đó là tiến trình học vấn của loài người. Những mầu nhiệm cao siêu trên trời mênh mông vô cùng chỉ có kỳ công của Chúa Thánh Thần soi sáng, dậy dỗ được thôi: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dậy anh em tới chân lý toàn diện”.
I- Bây giờ các tông đồ mới biết được vài điều về Chúa Ba Ngôi.
Điều thứ nhất: Một Thiên Chúa có Ba Ngôi riêng biệt: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu” và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp trên Người. Nhờ thế, các ông biết được: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi, gọi theo tiếng loài người là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ví như trong một gia đình có cha, mẹ và con; hay một mặt trời có ánh sáng, sức nóng và lửa cháy; hay một hình tam giác đều có ba góc riêng biệt và bằng nhau.
Điều thứ hai: Ba ngôi bằng nhau về bản tính, uy tín và phép tắc vô cùng. Khi Đức Giêsu dậy: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt. 28, 19).
Chữ và chỉ ngang hàng nhau, không có ngôi nào hơn ngôi nào kém nhau. Ví như ta nói: Anh và tôi và ông ấy, cả ba nhân vị đều là người cùng bản tính như nhau, cùng phẩm giá như nhau, và ba người đều có những cơ năng: Trí khôn, ý chí, tình cảm, tinh thần và vật chất. Mỗi khi ta làm dấu Thánh giá, nhắc nhở ta đã được Rửa tội nhân danh Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời ta được chia sẻ đời sống hạnh phúc vinh quang của Người.
II- Ba Ngôi với con người: Ba Ngôi đặc biệt trực tiếp thương yêu ta
Theo giáo lý “Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta”. Tuy nhiên, Ba Ngôi luôn luôn hợp nhất với nhau nên một để cứu độ ta như Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Thánh Thần lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy, của Cha là của Con và cũng là của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã giải thích cho Giám mục Titô về công việc Ba Ngôi thực hiện ơn cứu độ cho ta như thế này: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại. Không phải tự sức chúng ta đã làm nên việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt. 3, 4-6). Như vậy, chúng ta có thể nói: Của trời đất vô tận Chúa Cha đã dựng nên, Chúa Con hy sinh làm lụng vất vả, cực khổ đến chết để thâu góp lương thực vào kho cho ta, và Chúa Thánh Thần lấy lương thực đó ra ban phát cho ta. Hay Ngôi Cha như một bác học, sáng chế đủ mọi thứ thuốc, Ngôi Con như một bác sĩ toàn năng đến sống lăn lộn với chúng ta, khám bệnh, ra toa cho ta, Ngôi Thánh Thần như một dược sĩ coi toa phát thuốc cứu chữa ta. Thánh Phaolô cảm thấy ơn phúc Chúa Ba Ngôi làm cho ta vô cùng trọng đại, nên Ngài luôn luôn nhập đề các thơ gởi cho các giáo đoàn bằng những lời chào: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1, 3) và khi kết thúc, Phaolô thường dâng lời cầu chúc cho các giáo đoàn bằng câu: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr. 13, 13)
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay còn giúp ta nhận ra sâu sắc hơn ơn Chúa Ba Ngôi làm cho ta:
Bài I kể ra công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Ngài đã dựng nên đức khôn ngoan được áp dụng vào Đức Kitô. Thực vậy, “Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống”. Con Một đã sinh ra từ đời đời như tác phẩm đầu tay và Người lấy làm vui thú đến ở giữa phàm nhân. Rồi Chúa Cha dựng nên cõi trời, làm ra mặt đất, vực thẳm, núi non, mạch nước và các nguyên tố vũ trụ. Sau là dựng nên phàm nhân được sống với đức khôn ngoan là nguồn vui của Chúa Cha.
Bài II kể đến công trình cứu độ của Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người làm cho ta nên công chính, mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, cho ta được trông đợi hưởng vinh quang Thiên Chúa, nên khi gặp gian truân, ta phải trung kiên chịu đựng, đừng thất vọng “vì Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, Nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta”.
Bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói đến công trình giáo dục, thánh hóa của Thánh Thần: Người sẽ dẫn ta đến chân lý toàn diện. “Người sẽ lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy “chỉ một mình Thánh Thần mới có thể hé mở cho ta thấy tình yêu của Chúa Ba Ngôi, dẫn dắt ta vào tình yêu của Ngài, và giúp ta sống sâu thẳm trong tình yêu chân thật của Thiên Chúa” (Charles Brethes; Feuillets liturgiques, Annec).
Lạy Ba Ngôi cực Thánh, qua phép rửa tội, chúng con đã được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con trọn đời trung thành với đức tin để Người thương đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng con. Amen.
3. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống tín hữu
"Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn". (Ga 1613)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 8,22-31)
Trích đoạn này trình bày Ngôi Hai như là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với loài người.
2. Đáp ca (Tv 8)
Đây là một bài ca tụng công trình tạo dựng của Thiên Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ thua kém thiên thần một chút.
3. Tin Mừng (Ga 16,12-15)
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự liên hệ giữa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tất cả những gì mà Chúa Con mặc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được dẫn đến sự thật toàn vẹn.
4. Bài đọc II (Rm 5,1-5)
Đoạn thư Phaolô này cũng nói đến vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu: Nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Sự thật toàn vẹn
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
2. "Khi tôi ngắm cõi trời"
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít, có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: "Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người."
3. Một cuộc sống đáng mơ ước
Chúng ta không sống cô độc một mình, nhưng cùng sống với những người khác: gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đoàn giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống chung ấy, chúng ta thường mơ ước:
Phải chi mọi người đều "trong suốt" với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ cho nhau hết mọi ý nghĩ của mình.
Phải chi mọi người đều hết lòng yêu thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một chút gì là ganh ghét, đố kỵ, e dè nhau
Phải chi mọi người đều hết sức hợp tác giúp nhau trong mọi công việc.
Phải chi mọi người đều chia xẻ tất cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó. Mơ ước này không phải chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa sẵn sàng thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
4. Vài suy nghĩ về Thiên Chúa là Cha
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại
Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
5. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
6. Ba Ngôi Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.(Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
7. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
8. Những hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta và cho toàn thể thế giới:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình yêu của Chúa dành cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội thánh / luôn hiệp nhất trong yêu thương và chân lý vẹn toàn.
2. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / nhận biết Chúa là Cha nhân hậu từ bi.
3. Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai thành tâm đi tìm Chúa / đều được hạnh phúc gặp Người.
4. Chúa Thánh thần là Đấng Thánh hóa nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người giúp chúng ta nên thánh trong bổn phận thường ngày.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Chúa Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Dã Quỳ
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là lễ trọng nhất và cao cả nhất trong đạo chúng ta. Thiên Chúa mà chúng ta tin kính thật kỳ diệu. Trong Người có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba ngôi hợp nhất và làm thành một. Chúng ta sẽ không thể hiểu thấu được Thiên Chúa bằng trí khôn của con người. Sự khẳng định về Thiên Chúa Ba Ngôi là một huyền diệu và là một món quà mầu nhiệm của Thiên Chúa mà ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin và với một trái tim đơn sơ của con thơ.
Chúng ta tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi bởi vì Thiên Chúa đã nói với chúng ta. Ngài đã vén mở cho chúng ta qua trung gian của Chúa Giêsu- Con Ngài. Người đã đến nhà chúng ta, ở cùng chúng ta và giảng dạy cho chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã nói cho ta biết mối tương quan tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có Đấng nào giữ gì cho riêng mình, nhưng tất cả đều được chia sẻ, hiệp thông, cho đi và đón nhận...Và tất cả được hợp nhất nên một " Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại...Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."(Ga 16, 13-14) Những mạc khải của Chúa Thánh Thần cũng luôn đồng nhất với những gì Chúa Giêsu đã loan báo. Bởi vì Chúa Con và Thánh Thần đều phát xuất từ Chúa Cha và qui hướng về Chúa Cha "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy... Thánh Thần lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."( Ga 16, 15)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không phải là bài toán khó hiểu và tối tăm mà chúng ta không biết phải nghĩ gì, nhưng là một thực tại phong phú, rất sâu thẳm và rất sáng láng làm chúng ta thán phục. Muốn cảm nhận được cách sống động Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải trở về với nội tâm của mình, đón nhận trong đức tin và tình yêu. Chúng ta cần đặt hết lòng tin tưởng vào Lời Chúa và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Hạnh phúc cho chúng ta khi tin rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Bạn của ta, Chúa Thánh Thần không ngừng thổi tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha và Chúa Con vào trong cuộc sống của chúng ta. Vâng, chúng ta thật hạnh phúc.
Cảm nhận mình thật hạnh phúc vì được dựng nên trong tình yêu và bằng tình yêu của Thiên Chúa bởi Người là Tình Yêu. Thiên Chúa làm ra chúng ta bằng chính bàn tay Người, được là tạo vật giống hình ảnh Người và vì thế, ta sẽ mãi ở trong tình yêu của Người khi Người khẳng định "Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở."(Gr 31,3) Thiên Chúa yêu chúng ta vì ta phát xuất từ con tim và từ tình yêu của Người, nên Thánh Gioan đã nói:"Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước."(1Ga 4, 19b)
Chúng ta còn hạnh phúc hơn nữa vì trong kế hoạch tình yêu kỳ diệu, Chúa Cha đã ban Ngôi Hai cho chúng ta. Vì yêu chúng ta cách tột cùng nên Chúa Giêsu nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa "Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô."(Ep 1, 5) Chính Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên và đưa chúng ta vào mối tình Cha con với Thiên Chúa. Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử ngay từ lúc ta lãnh nhận Phép Thanh Tẩy, nhờ muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa luôn theo ta suốt mọi ngày trong đời sống. Bởi vì ta là con, nên Cha yêu thương và chăm sóc chúng ta nhất là những đứa con yếu đuối bệnh tật. Chúng ta không thể sống trên trần gian này nếu không có ơn Thiên Chúa trợ giúp. Hết mọi ơn ta lãnh nhận đều đến từ tình yêu sống động của Người, như lời Thánh Giacôbê nhắn nhủ "Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú."( Gc 1,17) Vì thế ta vô cùng biết ơn Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Chúa Cha ban mọi ơn lành cho ta qua Chúa Con là Đấng trung gian và trong Chúa Thánh Thần mà mọi Bí Tích chúng ta cử hành luôn được Người thánh hóa và chứng nhận.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu luôn trào tràn trong Ba Ngôi và vì thế, Người thông ban nguồn tình yêu của Người cho chúng ta. Ba Ngôi Thiên Chúa luôn lo lắng cho chúng ta như người cha không bao giờ mệt mỏi. Người không chỉ quan phòng và bao bọc chúng ta nơi trần thế, nhưng Người còn chuẩn bị một gia tài ở trên trời dành cho tất cả những ai tin vào Người. (x. 1Pr 1, 3-5) Thiên Chúa dựng nên ta để đưa ta về trời với Người và hưởng vinh quang của Người. Chúng ta khởi đầu hành trình nơi trần gian bằng đức tin và ân sủng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhưng rồi một ngày ta sẽ bước tới thiên đàng với tình yêu. Thiên Chúa sẽ đưa ta vào trong Người và khi ấy ta sẽ hiểu biết Người hơn.
Trong tâm tình mừng lễ, chúng ta cầu xin:"Nguyện xin ân sủng Chúa Giêsu Kitô, Tình yêu của Chúa Cha và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta."( x. 2Cr 13,13) Đồng thời chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết sống, biểu lộ và làm vinh danh Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống của ta. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, ta tuyên xưng: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trên thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, ta cũng biết ý thức để sống xứng đáng ơn gọi là con Thiên Chúa và là chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời bằng cuộc sống hiệp nhất với Chúa và với nhau; bằng đời sống yêu thương và chia sẻ như mẫu gương của Chúa Ba Ngôi. Và ước gì chúng ta biết nhân danh Chúa trong mọi tư tưởng, lời nói, hành động của ta và sống sâu xa nền tảng đức tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa muôn đời: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
5. Thiên Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Thánh Gioan ghi nhận: Đức Giêsu trong diễn từ ly biệt đã khảng định: Người muốn nói với các môn đệ nhiều điều, và toàn là những nội dung tối quan trọng, có điều các ông hoàn toàn chưa sẵn sàng đón nghe: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi.” Tôi vẫn hay thắc mắc: điều gì mà có tầm quan trọng vượt bậc đến thế, để mà Đức Kitô gọi nó là: ‘sự thật toàn vẹn’?
Giáo hội chọn bản văn Gio-an chương 16 cho lễ Chúa Ba Ngôi năm C quả là có ý nghĩa, chính vì đoạn Tin Mừng này hé mở cho thấy nội dung đích thực của cái thực tế vẫn thường được mệnh danh là mầu nhiệm ‘Chúa Ba Ngôi’. Điều này, tôi thiết nghĩ: các môn đệ cũng như các tín hữu tiên khởi chắc chắn đã nắm bắt rất rõ, trước cả khi nó được diễn đạt bằng công thức ‘Một Chúa Ba Ngôi – Sancta Trinitas ’.
Sự thật toàn vẹn Người đề cập tới trước hết bắt đầu bằng chính con người Đức Kitô Giêsu: “Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”. Đức Giêsu đã lặp lại câu nói trên tới hai lần, điều này cho thấy: chỉ khi nào ta khởi đi từ Giêsu, ta mới có thể hiểu biết cách chính xác, Thiên Chúa thật sự là ai.
Trước mắt các môn đệ là: một ông Giêsu xuất thân từ làng quê Na-da-rét; ông là một bậc thầy đang rao giảng một học thuyết rất kì lạ; còn hơn thế nữa, ông đã có một đời sống và một cái chết không ai hiểu nổi. Ông khảng định rằng: đó là cuộc sống và cái chết trọn vẹn hiến dâng và trao ban, không chỉ cho người tốt mà cả cho kẻ xấu. Nhưng nếu chỉ là cá nhân ông như thế thì dầu có anh hùng và đáng khâm phục thật, nhưng cũng chỉ cá lẻ một mình ông mà thôi. Đàng này ông lại không ngừng tuyên bố rằng: con người và cuộc sống (nhất là cái chết Thập Giá) của ông là biểu lộ trung thực nhất về Thiên Chúa, Đấng mà ông không những gọi là Cha của mình, mà còn tự đồng hóa mình với Ngài. Và Đấng đó, khác với suy nghĩ thông thường của người Do Thái, kể cả các thầy tiến sĩ thông luật thời đó, cũng là Thiên Chúa - Cha đầy nhân ái của hết thảy mọi người, cách riêng những người tội lỗi nhất; sau này qua việc ông được cho chỗi dậy từ cõi chết, những lời khảng định trên của ông trở nên có sức thuyết phục không ai cưỡng lại được.
Nhận biết được điều này mới là nhận biết Giêsu cách đích thực, đồng thời cũng là nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình” (Ga 13:31-32). Tuy nhiên qua phát biểu của một số môn đệ thâm tín nhất như Tô-ma (xem Ga 14:5-7) Phi-lip-phê (xem Ga 14:8-11) Giu-đa không phải It-ca-ri-ốt (xem Ga 14:22-24)…, ta biết: điều này xem ra không dễ dàng được chấp nhận. Tin rằng ‘Thiên Chúa là Cha đầy nhân ái, yêu thương và tự hiến mình cho con người tội lỗi’ còn khó hơn cả tin ‘ba là một hay một là ba’. Điều sau này mới chỉ là một nghịch lý về mặt suy luận toán học, còn điều kia mới thực là nghịch lý làm đảo lộn mọi tương quan trời đất cố hữu. Cần phải chính Chúa Cha trong Đức Kitô gởi một nhân vật bí nhiệm là Thánh Thần - Đấng Bảo Trợ đến mới đưa nổi các tín hữu tới sự hiểu biết và tin thác vào tình yêu vĩ đại này.
Như vậy công việc chính yếu của Chúa Thánh Thần là: làm cho Kitô hữu chúng ta nhận biết Đức Giêsu Thập Giá là Lời tình yêu vô song của Chúa Cha. Thánh Thần chính là đức tin đối thần của tín hữu chúng ta, là Đấng Sáng Soi cho phép ta tiếp cận, hiểu biết và chấp nhận điều mà lẽ thường ta ‘không có sức chịu nổi’; là Đấng dẫn ta ‘tới sự thật toàn vẹn’, vì chính sự thật này mới làm cho ta được sống và sống dồi dào. Vì thế Thánh Thần chính là Hồng Ân tình yêu vĩ đại nhất mà Chúa Cha nhân ái trong Đức Giêsu Kitô có thể ban, để ta tiến vào tình yêu sinh động và phong phú nhất của Người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là khởi nguồn và cùng đích của niềm tin Kitô hữu. Mầu nhiệm đó không hệ tại ở việc, nó quá bí nhiệm tới nỗi không ai kham nỗi, nhưng chính yếu hệ tại: nó quá phong phú, quá sinh động tới độ làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người chúng ta. Mầu nhiệm đó chính là cốt lõi của Tin Mừng. Quả thực kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ Đức Giêsu, mọi Kitô hữu sẽ không ngừng “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19) như một tuyên tín về tình yêu nhân ái vô biên của Thiên Chúa. Và bất cứ ai ngưng tuyên xưng khối tình yêu vĩ đại này như căn nguyên và sức sống của đời mình thì sẽ lập tức không còn là Kitô hữu đích thực nữa. Chúa Ba Ngôi quả thật là mầu nhiệm của các mầu nhiệm, nhưng không phải để hiểu biết mà là để sống!
Lạy Chúa, lẽ ra con đã phải cảm tạ khôn nguôi về niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, lẽ ra mỗi lần thốt lên ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ lòng con đã phải tràn ngập vui sướng. Nhưng tiếc thay thực tế đã không được như thế, chỉ vì con cứ ngắm nhìn Thiên Chúa như một Đấng quyền uy cao sang, nên nhiều khi con cảm thấy khó chịu về mầu nhiệm khó hiểu và khô khan này; nhiều khi con chỉ lạnh lùng thốt lên ‘nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần’ cách máy móc vội vàng, như một công thức vô bổ. Xin Thánh Thần tích cực tác động trong con, để dạy con điều con không thể kham nỗi, là nhận biết tình yêu nhân ái bao la của Thiên Chúa Cha, biểu lộ qua Thập Giá của Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết không ngừng ca ngợi Ba Ngôi từ ái. Amen.
6. Hy vọng đã vươn lên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hy vọng là động lực sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi, nếu không còn niềm hy vọng. Nhưng làm cách nào nuôi niềm hy vọng trong tâm hồn? Đó là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin nào đem lại hy vọng, mới có giá trị và tồn tại.
NGUỒN HY VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động. Niềm hy vọng luôn bị đe dọa khi gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng cũng huyền nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do tại sao phải tìm hiểu niềm hy vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta!
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hy vọng cho chúng ta. Vì niềm hy vọng bắt nguồn từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hy vọng, vì chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình yêu, chẳng có một giá trị nào hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa đã đặt nền tảng niềm hy vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm hy vọng ngoài tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa yêu thương chúng ta mãnh liệt và sâu đậm, nên niềm hy vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn lao và bền vững hơn bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ! Thiên Chúa muốn niềm hy vọng phải đặt vào đúng chỗ. Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi thế, Đức Giêsu mới hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người! Không thấy được sự thật toàn vẹn, con người không thể được giải thoát. Không được giải thoát, không có tình yêu và niềm hy vọng đích thực. Thánh Linh đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu không có Thánh Linh soi sáng, làm sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và phục sinh của Đức Kitô?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho thấy ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh Linh “luôn hiện diện với Thiên Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley 1994:384) Người# luôn hoạt động để tạo dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng không chỉ xảy ra trong vũ trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ hoạt động trong thời gian viết Thánh Kinh! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo hội qua dòng thời gian nữa! Muốn bảo vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu hứng hay tình cảm cá nhân!
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là giao hòa con người với Thiên Chúa và anh em. Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không biết hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình? Không có gì khó bằng khám phá chính mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và Thiên Chúa cũng như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong tương quan này, con người sẽ tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong tương quan với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản chất, Thiên Chúa là một tương quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi trong một Thiên Chúa. Trong các tương quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được tình yêu thắm thiết của Ba Ngôi. Càng chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của niềm tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn vẹn là “được nên công chính nhờ đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan hòa bình an! Không biết được sự thật toàn vẹn đó, cuộc sống sẽ tràn ngập đau khổ. Trái lại, nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ “còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay phủ nhận đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân phận làm người. Nhưng họ quan niệm đau khổ là một thử thách cần phải vượt qua. Cuộc vượt qua thử thách đó không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng được giải thoát. Càng được giải thoát, càng vui tươi và bình an. Chính Thánh Linh cảm thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc khải: “Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31) Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn. Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hy vọng lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui tràn ngập tuổi trẻ đầy hy vọng. Hơn nữa, càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hy vọng và niềm vui. Do đó, có một tương quan sâu xa giữa niềm hy vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hy vọng. Chính thánh Phaolô quả quyết: “Còn chúng tôi thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.” (Gl 5:5) Khi đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, con người có thể tìm được niềm hy vọng vững chắc, vì Thiên Chúa hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm hy vọng ngay tự đời này dù đầy những bất trắc. Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm 5:3-4) “Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hy vọng đạt tới vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hy vọng. Đó là niềm hy vọng có nền tảng, chứ không phải chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386) Niềm hy vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hy vọng, không ai còn hứng khởi để vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã vượt qua những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hy vọng. Nhưng sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua thử thách, nếu không phải là Thánh Linh? Có vượt qua thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hy vọng khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi người. Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi thế, ai trung kiên mới có quyền hy vọng!
Niềm hy vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hy vọng cứu độ vì phát xuất từ Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13) Thánh Linh loan báo một tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.” (NIB 1995:773) Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai. Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có thể đo lường được tầm quan trọng và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với thực tế. Họ có thể đoán trước tương lai trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773) Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố lòng tin trước bất cứ thử thách bất ngờ nào. Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời Chúa cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con. Thật vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa vinh danh Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho phép các môn đệ hiểu tất cả những gì Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi được! Chính Chúa đã nói rõ điều đó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng trình tự thời gian. Người cũng không thể đi trước thời gian hay giẫm chân lên Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục công cuộc mạc khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà nắm chắc nguồn hy vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới mức nào trong tương lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng tỏ Thánh Linh đã làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt đầu với cánh cửa Giáo hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II, Giáo hội không còn tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng đại kết đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như thành phần thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo hội không còn chỉ thấy Chúa hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi thức phụng vụ, “nhưng cả trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn giáo khác nữa.” (Heim 1998:14) Nhờ Thánh Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa trong hoàn cảnh của người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và các giáo hội Kitô giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn trong tất cả những thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.” (Faley 1994:388) Khi đã thoát khỏi tình trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội có nhiều ảnh hưởng và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã bắt gặp nhiều cách diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo khác và các anh em Tin Lành. Thánh Linh đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong những giới hạn nhân gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không được xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu xa về liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không dựa nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm Alexandre de Rhodes, Nobili, Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo đòi phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết, hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải “chú ý tới tôn giáo phổ quát, thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn giáo đa nguyên.” (Heim 1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn Giáo hội khi mở ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin rằng “ý thức đức tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý để đánh giá về hình thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hy vọng trong lòng Giáo hội, niềm hy vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội những chiều hướng mới đi vào một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ.
7. Lễ Chúa Ba Ngôi - Lm. Vũ Đình Tường
Tường thuật trong Cựu Ước về lịch sử hình thành vũ trụ, sách Sáng Thế Kí, các chương đầu tiên, ghi lại công trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không và đặt loài người vào trong vũ trụ đó để loài người thay Ngài làm chủ vũ trụ. Vì là chủ nên trách nhiệm coi sóc, bảo vệ và giữ gìn; đồng thời cũng hưởng hoa trái do đất nước sinh sôi. Đất cung cấp thực phẩm nuôi thân, nước uống và cung cấp ngay cả phong cảnh tuyệt vời cho con người thưởng lãm. Nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ vũ trụ là nhiệm vụ chung của cả nhân loại. Thường con người chỉ lo chăm sóc những gì thuộc riêng mình như vườn rau trước ngõ, ao cá sau nhà mà lơ đi những thứ khác. Là chủ vũ trụ loài người có trách nhiệm bảo vệ môi sinh, bờ biển và rong biển; cánh rừng và thú rừng; bầu trời và chim muông; sa mạc và cây gai trong đó; băng giá và tuyết rơi, bầu khí quyển và các vì sao như thế mới làm tròn bổn phận người chủ có trách nhiệm.
Không may loài người với bản tính ích kỉ nghĩ về mình, cho mình nhiều hơn, cộng thêm nhẹ dạ, tin nghe lời manh rãnh, gian tà xúi bẩy của ma quỷ. Loài người dại dột đã làm sai ý Chúa, không làm tròn nhiệm vụ chủ nhân trái đất, trái lại tàn phá vũ trụ không thương tiếc và làm hại đến bản thân.
Mặc dù loài người lầm lỗi gây hại cho vũ trụ và tạo đau khổ cho chính thân mình như thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, không đành tâm để mặc loài người phải hư đi, đau khổ quằn quại kéo lê cuộc sống. Chúa Cha sai con một mình, Đức Kitô xuống thế, nhận thân phận con người để cứu loài người và sửa lại những gì đã hư mất, đồng thời ban thêm ơn để loài người nhận lại tình thương đặc biệt Thiên Chúa trao ban.
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.'(Gn 3,17).
TÂN ƯỚC
Đức Kitô xuống thế làm người bình thường như chúng ta nên một phần nhân loại từ chối nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Cho là Ngài quá tầm thường và từ chối lắng nghe giáo lí Ngài giảng dậy. Tìm kiếm chân lí là nhu cầu sống, vì từ chối Thiên Chúa chân thật nên con người tìm chân lí nơi loài thụ tạo, họ ca tụng, tôn vinh lẫn nhau, kẻ thờ tài, người thờ tiền, kẻ khác thờ sắc đẹp. Lối sống này nguy hại. Hoặc là dẫn đến kêu ngạo khi thành công; hai là tuyệt vọng khi vinh quang xụp đổ. Vì sao? Vì
Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất (Gn 5,44).
CON ĐƯỜNG SỐNG
Những ai thành tâm, tin nhận Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế sẽ được sống bình an, hoan lạc phát xuất từ nội tâm. Một bình an thực sự mà chính Đức Kitô xác định thế giới không có để cho. Họ tìm được tình yêu thực sự vì chính Thiên Chúa là tình yêu vì ai ở trong Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị hư mất, nếu có chết cũng được sự sống mới. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa xác nhận:
'Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sự sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết'. (Gn 6,40).
'Con không tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; và điều Chúa Cha làm người Con cũng làm như vậy'. (Gn 5,19).
Con đường sống là con đường liên kết với Thiên Chúa vì có sự liên kết, hợp nhất mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Kitô không tự ý làm gì (5,30; 8,28) nói gì (7,16-17; 12,49;14,10) Người không tự ý đến thế gian (7,28; 8,24) Chúa Cha cho Người thấy mọi điều mình làm nên điều gì Chúa Cha làm, Chúa Kitô cũng làm như vậy nên ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha và được Chúa Thánh Thần kết hợp.
CHÚA THÁNH THẦN
Món quà Chúa Con luôn hứa ban cho nhân loại đó là Chúa Thánh Thần được sai đến thời hậu Phục Sinh chính là thời đại của chúng ta đang sống. Thánh Thần Chúa đến đổi mới và canh tân bộ mặt trái đất. Thánh Thần đến làm rõ nghĩa những gì Chúa Kitô đã rao giảng. Tạo vật mới, trời mới đất mới do Chúa Kitô tái tạo được trao cho vào tay loài người làm chủ và coi sóc. Trong Cựu Ước loài người đã thất bại; Tân Ước loài người không phải một mình coi sóc vũ trụ vì Chúa Kitô hứa gởi Đấng Bảo Trợ đến soi sáng, hướng dẫn để loài người không rơi vào vết xưa cũ của tội lỗi.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Gn 14,26).
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết (Gn 16,13)
Nhân loài có Thánh Thần Chúa kề bên chỉ bảo, hướng dẫn. Người thiện tâm nhận được sự thật toàn vẹn.Thời hậu Phục Sinh là thời sung mãn nhất vì được Ngôi Ba Thiên Chúa soi sáng. Tình yêu Chúa hướng dẫn cuộc sống, tình yêu Chúa giúp sáng tạo, tình yêu Chúa giúp kết hợp gắn bó.
Ngày nay các khoa học gia la hoảng về vũ trụ bị nóng, băng đá bắc và nam cực đang tan, băng tuyết đỉnh Hymã lạpsơn rơi lã chã, mưa rơi không đều, khí hậu bất thường. Họ đâu biết là nhân loại vẫn vô tình, vô tâm và ngay cả kêu ngạo tin vào khoa học, tin vào tài sức mình, không tin Ngôi Ba nên vũ trụ rơi vào tình trạng thời Cựu Ước, bị tàn phá, hủy diệt.
Từ chối Chúa Thánh Thần loài người có trí khôn hơn cả nên sẽ chịu đau khổ nhiều hơn cả.
Chúng ta tin có một Thiên Chúa, Ngài có Ba Ngôi. Mỗi Ngôi vị mang một trọng trách riêng. Ngôi Cha sáng tạo, Ngôi Hai cứu chuộc và Ngôi Ba thánh hoá và hoàn thiện.
8. Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm... nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
9. Sống đời sống Thiên Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Năm 1961, sau khi người cộng sản Liên-xô phóng được lên không trung phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì chính phủ Liên-xô đã ra một thông cáo với lời lẽ phạm thánh như thế này: Người Nga chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa, nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có! Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói rọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong Bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây 3 ngàn năm, có một dân Israen, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp loè sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu ra đời, Ngài hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm khác: Thiên Chúa là một nhưng lại có ba Ngôi. Ngài mạc khải cho chúng ta chính đời sống nội tâm của Thiên Chúa. Ngài nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Ngài và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Ngài với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài nói lời của Chúa Cha cũng như Ngài hứa ban Thánh Thần. Ngài hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Ngài dạy ai muốn theo Ngài phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu hết được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà ba, một Chúa nhưng có ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng có 3 giai đoạn: trẻ, trung niên và già – ba giai đoạn nhưng một cuộc đời; linh hồn có 3 cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận – ba cơ năng một linh hồn; nước là một, nhưng có 3 hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới 3 hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái-Nhĩ-Lan là một chiếc lá với 3 khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có ba Ngôi.
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản nội tâm của Thiên Chúa. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi vậy.
10. Sống niềm tin vào Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể nói được là "mầu nhiệm nguồn" của mọi mầu nhiệm. Và con người biết được mầu nhiệm Ba Ngôi là nhờ Chúa Giêsu mạc khải, chứ không phải do nổ lực suy lý của mình. Có điều Chúa Giêsu không bao giờ trình bày mầu nhiệm lớn lao này bằng khái niệm "kỷ thuật số": "3 ngôi" - ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai, ngôi thứ ba.... Ngài chỉ nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhưng cũng là mầu nhiệm mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày, qua Dấu Thánh Giá, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính.... Tuy nhiên, đó không phải là mầu nhiệm để tuyên xưng hay để hiểu mà thôi, nhưng còn là để sống. Nói cách khác, tuyên xưng niềm tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi thì phải sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi cụ thể là sống thế nào?
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là sống tâm tình cảm mến tri ân:
Cảm mến tri ân vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm quá đổi lớn lao này. Cảm mến tri ân vì Ba Ngôi mà lại chỉ một Chúa. Đây là nguyên lý của sự hiệp nhất và bền vững của thế giới tạo thành. Có người thắc mắc tại sao không hiểu Ba Ngôi là ba Chúa cho đơn giản mà lại dạy Ba Ngôi một Chúa cho phức tạp, khó hiểu, mệt cái đầu? Thiết nghĩ nếu Ba Ngôi mà ba Chúa có lẽ số phận của con người và vũ trụ này sẽ bất hạnh biết chừng nào, bởi vì cứ tưởng tượng một nhà ba chủ, một nước ba vua, một giáo hội ba giáo hoàng,.. thì sẽ ra sao chúng ta biết rồi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa thứ đến là sống tinh thần hiệp nhất yêu thương:
Tự bản tính, Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu hiệp nhất Cha Con và Thánh thần. Chỉ trong tương quan tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu phần nào Ba Ngôi mà lại một Chúa: "Ta và Cha Ta là một, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta". Nói cách khác, chỉ có tình yêu mới khả dĩ cắt nghĩa được khía cạnh ngôi hiệp trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế mà những người đang yêu hiểu khái niệm "ngôi hiệp" một cách dễ dàng hơn, như lời họ bộc bạch trong một bài hát: "Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hoá ra thành một".
Tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa luôn yêu thương hiệp nhất như là bản chất của các Ngài, thì ta cũng phải sống tinh thần hiệp nhất yêu thương như các Ngài vẫn sống. Mọi hình thức chia rẽ, hận thù, ly giáo, đoạn tuyệt... đều đi ngược với niềm tin mà ta tuyên xưng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa sau nữa còn là sống tinh thần hy sinh phục vụ:
Ba Ngôi Thiên Chúa không giữ lại tình yêu cho riêng mình mà chia sẻ tình yêu ấy cho mọi thụ tạo, đặc biệt là con người qua tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người qua mầu nhiệm nhập thể để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Do vậy không thể tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi mà lại sống ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến mình, lo cho mình mà thôi.
Khi nghiên cứu vết máu trên tấm khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã xác định được Chúa Giêsu thuộc nhóm máu B. Là con cái của Thiên Chúa Ba Ngôi và là anh em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta cùng huyết thống với Ngài, cùng nhóm máu với Ngài, nhóm máu B. "B" là bác ái, "B" là bao dung, "B" cũng là bình an. Bác ái với mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh. Bao dung với những người lầm lỗi, những người đã xúc phạm đến ta hay làm ta tổn thương. Có như thế thì ta mới có được sự bình an của Chúa Ba Ngôi nơi tâm hồn mình được.
Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh". Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
11. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các Ngài.
12. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (cf. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng thực ra Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu điều này thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, ta phải làm gì?
13. Duy nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn Ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ: "Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất." (Cn 8,22). Sự Khôn Ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Dothái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu. Sự Khôn Ngoan được nhân cách hoá trong cách diễn tả: "Khi chưa có các vực thẳm, khi chưa có mạch nước tràn đầy, ta đã được sinh ra." (Cn 8,24).
Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: "Tôi và Chúa Cha là một." (Ga 10,30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha: "Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." (Ga 14,7). Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: "Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con." (Lc 3,22). Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các Tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần." (Mt 28,19).
Giáo Hội tin kính Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, Thánh Tôma Tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi." Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.
Giáo Hội đã suy tư rất nhiều qua sự đóng góp của các Thánh Giáo phụ và các vị tiền bối như Origen, Tertullian, Arius, Thánh Basil, Thánh Gregory of Nyssa, Thánh Gregory of Nazienzen và Thánh Augustinô… Đã mất khoảng hơn 300 năm để suy tư tìm tòi, bàn cãi tranh luận và đôi khi là nguyên cớ gây tù đày, phân rẽ và hành khổ nhau. Cho tới khi các giáo phụ họp Công đồng Nicea 325 để định nghĩa về sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Rồi chờ đợi cho tới hơn nửa thế kỷ sau, Công đồng Constantinople mới định nghĩa về Ngôi Thánh Thần. Thánh Augustinô tóm gọn ý nghĩa mầu nhiệm: Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúa Cha không phải là Chúa Con. Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha, chỉ duy nhất có một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi riêng biệt nhưng kết hợp làm một Chúa. Thiên Chúa của tình yêu.
Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây Thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu Thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu; trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan toả như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.
Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ: Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài tiếp tục hoạt động canh tân Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập. Qua mọi thời, nguồn ơn Chúa Thánh Thần luôn tràn đổ trong tâm hồn các tín hữu. Luôn có những nhân chứng đích thực giữa dòng đời để chấn hưng, cải đổi và thắp niềm hy vọng cho mọi người trên đường lữ hành. Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô dạy: "Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa." (Rm 8,14).
Qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ: "Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17). Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Chúng ta không thể sống dựa, ăn nhờ, ở bám hay tùy thuộc vào người khác. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn màu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám rễ niềm tin sự sống vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô Thập Giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả quy về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại. Thánh Gioan viết: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến." (Ga 16,13).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
14. Thiên đàng dương thế - Lm. Minh Vận, CRM.
Thánh Phanxicô Salesiô có một người bạn rất thân là Đức Cha Camus. Đức Cha Camus đến nghỉ hè với Thánh Nhân một thời gian khá lâu. Lúc về nhà vị Giám Mục đã phát biểu: "Trước đây, tôi nghe Đức Cha Phanxicô Salesiô hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa, như thể Chúa luôn luôn hiện diện bên ngài, nhưng tôi vẫn chưa tin. tiện dịp, tôi xin đến nghỉ hè tại nhà ngài, để chính mình có dịp kiểm chứng. Nhờ được ở một phòng kế cận phòng ngài, ngày đêm tôi quan sát mọi thái độ, mọi cử chỉ của ngài qua một khe hở, lúc làm việc cũng như lúc ngủ nghỉ, lúc viết lách cũng như lúc cầu nguyện... Nay tôi xin xác nhận rằng: Ngài hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa. Ngài ở một mình, nhưng có Chúa hiện diện bên ngài luôn".
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội, sốt sắng dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trọng nhất trong Kitô Giáo. Nhờ mầu nhiệm cực trọng này, Chúa ban cho chúng ta một ơn rất cao trọng là cho chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh và được tận hưởng tình yêu thâm sâu của chính Chúa Ba Ngôi, khi chúng ta được diễm phúc trở nên con Chúa qua việc lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, hồn xác chúng ta trở thành Đền Thờ sống động nơi Chúa Ba Ngôi ẩn ngự; hay nói cách khác, chúng ta là người chiếm hữu được Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi an vui hạnh phúc, là tất cả mọi sự, là gia nghiệp đời đời, là Thiên Đàng của chúng ta ngay trên trần gian này.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu và xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm và thưởng nếm được ơn rất rọng đại này.
I. XÁC TÍN NIỀM TIN CHÚA HIỆN DIỆN
Thánh Gioan Tông Đồ đã viết: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (I Jn 4:16). Mà bản tính tình yêu là thông ban. Vậy Ba Ngôi Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhau theo bản tính, trong đời sống tự tại, thâm sâu, kỳ diệu và hoàn toàn được mãn nguyện từ đời đời. Nhưng chính nhờ tình yêu sung mãn kỳ diệu đó, Thiên Chúa cũng muốn thông ban cho các loài thụ sinh, bằng cách cho chúng được tham dự sự hiện hữu của Ngài; đặc biệt Chúa tạo dựng loài người chúng ta giống hình ảnh Ngài, như một thụ sinh siêu việt được Ngài rất mực yêu thương. Như một người Cha đầy tình phụ tử, Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong lòng chúng ta, để săn sóc hướng dẫn, chỉ dạy chúng ta trong mọi chi tiết dù rất nhỏ mọn, suốt cả cuộc sống, bằng ơn quan phòng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài.
1. Hiện Diện Bằng Quyền Năng: Là một thụ tạo đã được tác thành, chúng ta cũng như mọi thụ tạo khác, đều được Chúa hiển ngự và thấu nhập trong trót bản thân và cả cuộc sống, bằng quyền quan phòng toàn năng của Đấng Tạo Hóa, hằng luôn săn sóc, nuôi dưỡng và bảo tồn.
2. Hiện Diện Bằng Ơn Thánh: Nhờ Nhiệm Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, trở nên con Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn các loài thụ tạo khác, là được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, như lời Chúa Kitô đã tuyên bố với các Môn Đệ: "Ai yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Thầy, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu thương; lại được Chúa Cha cùng với Thầy và Chúa Thánh Linh hiển ngự trong lòng họ" (xem Jn 14:23). Sự hiện diện thần linh này sẽ tồn tại luôn mãi trong tâm hồn, bao lâu chúng ta còn sống trong sủng trạng, với tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa thánh không vướng mắc trọng tội.
3. Hiện Diện Thực Tại Sống Động: Đặc biệt hơn nữa, mỗi khi chúng ta có đủ điều kiện đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào tâm hồn, chúng ta được diễm phúc hơn các Thần Thánh trên trời, là được Chúa Kitô ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Người ngự trong cung lòng trong sạch Đức Trinh Nữ Maria, thời gian chín tháng Me cưu mang Chúa. Lúc đó, Chúa hiện diện trong chúng ta một cách thực tại sống động, bằng cả thân xác, linh hồn và thiên tính của Ngôi Hai Thiên Chúa.
II. CHÚA BA NGÔI NGỰ TRONG TÂM HỒN
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, bao lâu chúng ta sống trong sủng trạng, có ơn nghĩa thánh như những con ngoan thảo hằng làm đẹp lòng Chúa. Tại nơi đây cũng như trên nơi vĩnh phúc, đời sống thần linh kỳ diệu của Chúa Ba Ngôi hằng tiếp diễn một cách sống động và thâm sâu nơi chính bản thể nội tại của Người.
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương thông ban chính mình cho nhau một cách tự tại và hoàn toàn sung mãn: Chúa Cha được hoàn toàn thỏa lòng nơi chính bản thể nội tại mình, nhiệm xuất Ngôi Con; Chúa Cha và Chúa Con yêu mến nhau nhiệm sinh Ngôi Ba là Thánh Linh Tình Ái.
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta và hằng thông ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người bằng tất cả tình yêu thương nồng thắm.
1. Như Cha Nhân Từ: Vì công nghiệp Chúa Cứu Thế, chúng ta từ thân phận thụ tạo nô lệ, cũng như tội nhân và kẻ phản bội, được trở nên con Chúa, được phúc tôn xưng Chúa là Cha, khi chúng ta kêu cầu: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời!" (Mt 6:9) Quả thật, Chúa là Cha hằng yêu thương săn sóc chúng ta bằng tất cả tấm lòng nhân từ âu yếm, nồng thắm trong cả cuộc sống dù những điều cực nhỏ mọn (xem Mt 5:45). Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn để mạc khải cho chúng ta chân lý Chúa là Cha chúng ta. Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tấm lòng con ngoan thảo, luôn làm hài lòng Cha, như chính Chúa Giêsu đã làm gương, để chúng ta được Chúa Cha mãn nguyện tuyên phán với chúng ta: "Con là con Cha yêu dấu, con hằng làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 3:17).
2. Như Bạn Tâm Phúc: Vì yêu thương, Chúa còn hạ xuống ngang hàng với chúng ta, khi gọi chúng ta là Bạn Tâm Phúc: "Thầy không còn gọi chúng con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi chúng con là Bạn Tâm Phúc, vì tất cả những điều Thầy đã nghe biết nơi Cha, thì Thầy đều đã tỏ cho chúng con biết" (Jn 15:15). Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tâm tình người bạn tri âm, tri kỷ, người tình, người yêu của Chúa.
3. Như Đấng Thánh Hóa: Theo lời Thánh Phaolô, chúng ta là Đền Thờ Chúa Thánh Linh (I Cor 3:16). Thánh Linh là Đấng đã được Chúa Kitô hứa ban, Người hiển ngự trong tâm hồn chúng ta với sứ mạng là Đấng Thánh Hóa, Đấng An Ủi, Thầy Dạy Chân Lý, Đấng Soi Dẫn các tâm hồn trên đường thánh thiện. Chính Chúa Kitô đã phán dạy: "Thánh Linh là Đấng Chúa Cha phái đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy dỗ các con mọi điều và nhắc lại cho các con mọi sự Thầy đã phán dạy các con trước" (Jn 14:26). Để đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện, Chúa muốn chúng ta chân thành thú nhận sự bất lực của mình, chúng ta không thể làm nổi việc gì, nếu không có ơn Chúa trợ giúp (Jn 15:15), nhưng nhờ Đấng Thánh Hóa, chúng ta có thể quả quyết đuợc như Thánh Phaolô: "Nhờ Đấng ban sức mạng cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
III. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
Đức Tin dạy cho biết: Nếu chúng ta sống trong sủng trạng, có nghĩa với Chúa, chúng ta được diễm phúc có Chúa Ba Ngôi hiển ngự trong tâm hồn. Nhờ đặc ân cao trọng này, chúng ta được trở nên Đền Thờ Sống Động của Chúa, được mệnh danh là người mang Thiên Chúa trong lòng, người chiếm hữu được Thiên Chúa làm của riêng mình, Chúa là Đấng gồm tóm mọi Chân, Thiện, Mỹ, là nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Vậy để đền đáp một trong muôn phần những hồng ân cao cả Chúa ban, chúng ta cần chu toàn ba nghĩa vụ khẩn thiết sau đây:
1. Tôn Thờ: Cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, vì không những chúng ta là một thụ tạo của Đấng Tạo Hóa, một thần dân của Vua cao cả, một người con trong Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta còn là những linh hồn được tuyển chọn, hiến dâng đời mình để phục vụ cho vinh danh Chúa, với nghĩa vụ là Người Tôn Thờ Thiên Chúa.
Để cho toàn nghĩa vụ khẩn thiết này, chúng ta hãy hiến tế bản thân và cuộc đời chúng ta, hiệp với Lễ Hiến Tế cực trọng của Chúa Cứu Thế, hằng hiến dâng nơi các bàn thờ đêm ngày trên khắp thế giới, để tôn thờ, ngợi khen, chúng tụng Chúa.
2. Yêu Mến: Là con cái, chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa là Cha, như những người con ngoan hiền thảo hiếu, hằng tìm mọi cách làm vui lòng Cha. Hãy qui hướng tất cả mọi tư tưởng, lời nói, việc làm vì Chúa và nỗ lực chu toàn mọi bổn phận to nhỏ hằng ngày vì lòng yêu mến Người. Gắng biến đổi mọi ánh nhìn, mọi hơi thở, mọi nhịp rung động của trái tim, trở thành những tác động yêu đương dâng lên Chúa, với chủ đích làm vinh danh Chúa, để Chúa được tôn vinh, yêu mến và bản thân chúng ta được thánh hóa.
3. Tri Ân: Là người thụ ân, chúng ta hãy không ngừng dâng lên niềm tri ân lên Chúa bằng tất cả tấm lòng trìu mến, vì biết bao hồng ân Chúa ban: Ơn được tạo dựng làm người, được cứu chuộc khỏi án phạt đời đời, được phục hồi ơn làm con Chúa. Ngoài ra, còn biết bao ơn phúc khác hằng bao phủ hồn xác chúng ta trong trót cuộc sống, trong mọi lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên; nhất là ơn được Chúa Ba Ngôi hằng hiển ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người nơi dương thế này. Chúng ta hãy sống niềm tri ân bằng cách giữ tâm hồn trong sạch, luôn làm hài lòng Chúa, biến cuộc đời chúng ta thành bài ca tri ân không ngừng dâng lên Chúa.
Kết Luận
Làm thế nào chúng ta có thể chu toàn được ba nghĩa vụ khẩn thiết trên đây?
* Là Kitô Hữu, nhờ lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Chúa, là người thuộc về Chúa Kitô, người chiếm hữu được Thiên Chúa, người được mang Thiên Chúa trong tâm hồn; chúng ta hãy ý thức giá trị của ơn cao trọng này và cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu diễm phúc đó.
* Hơn nữa, chúng ta còn là những người được tuyển chọn làm tông đồ vinh danh Chúa, qua các tác vụ khác nhau trong mỗi đoàn thể chúng ta tham dự, như những thừa tác viên chinh phục tha nhân về với Chúa; chúng ta hãy sống như những chứng nhân đích thực của Chúa; để chớ gì khi chúng ta giao tiếp với những ai, họ sẽ nhận ra Chúa hiện diện nơi chúng ta, như họ đã từng thấy Chúa nơi các Thánh.
Xin Mẹ Maria ban ơn trợ giúp, giữ gìn chúng ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để chúng ta có thể chu toàn được những nghĩa vụ phải có đối với Chúa, như những con ngoan hiền thảo hiếu được Chúa hài lòng.
15. Tình yêu kỳ diệu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành tinh". Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa "cho chúng ta".
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
- Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
- Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật..." Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính. Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một(Ga 17, 21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác "Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần". Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
16. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
17. Toàn bộ sự thật.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi."
Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Đức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (c.15) Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
18. Mọi sự của Cha là của Thầy
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm được Đức Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và được Cha sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc, nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có: "Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự mình mà nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã chẳng tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo ra khuôn mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng vừa duy nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha... Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở thành cớ chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên trần thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi ta.
"Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23), "Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em" (Ga 14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao: Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai." Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất chính mình?
Một em bé nói: "Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người mẹ." Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
19. Sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu Nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Gia đình Thiên Chúa" hiệp nhất trong yêu thương: ba Ngôi nên một.
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia đình" ba Ngôi (xin tạm dùng cụm từ ‘Gia đình’ để diễn tả sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba Ngôi Thiên Chúa). "Gia đình" nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt (Vị / Ngôi đồng nghĩa với nhau): Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần, tuy vậy ba Vị chỉ là một Thiên Chúa. (sách bổn cũ ghi: Thiên Chúa nhất Thể tam Vị).
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha" và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh tin kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình hiệp thông khắng khít giữa Người với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: "Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: "Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3,35). Rồi "Con yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy" (Ga 14, 31) cho dù phải "vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập giá" (Phi 2,8).
Như thế, trong "Gia đình" nầy, tình yêu thương đậm đà thắm thiết giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Thiên Chúa kiến tạo các gia đình nhân loại theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Thế rồi, Thiên Chúa đã chọn "Gia đình ba Ngôi" như một khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình Ađam- Evà. Kinh thánh cho biết: "Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy gồm hai ngôi vị khác nhau nhưng cũng chỉ là một.
Để trình bày tính cách 'hai mà một' nầy, kinh thánh mô tả cách thi vị như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn bà đến với ông. Bấy giờ A-đam nói: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Bởi đó, “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2, 24).
Qua Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định với mọi người rằng trong hôn nhân, hai vợ chồng “không còn là hai nhưng chỉ là một xương một thịt” nên không bao giờ được chia lìa. (Mt 19,6).
Thiên Chúa kiến tạo Hội Thánh theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng chọn "Gia đình" Ba Ngôi làm khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều là đại Gia đình Hội Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích thánh tẩy để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể.) Thánh Phao-lô dạy:"Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Ki-tô không còn là nhiều nhưng đã hiệp thông nên một: một nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải bền chặt như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha".(Ga 17, 21)
* * *
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm chọn “Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình Thiên Chúa ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.”
20. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ, để "kính nhi viễn chi" mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá quen với cụm từ "mac ke no", tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
21. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta - Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa:
1) Người sẽ tôn vinh Ta.
Câu này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại, Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa. Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận xét sơ lược: Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị giam hãm trong một lao tù.
2) Để thông báo cho các ngươi.
Chúng ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý niệm: Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu, cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay ít.
22. Hiệp nhất trong Tình Yêu Ba Ngôi
(Suy niệm của Huệ Minh)
Nhớ lại vừa mới bắt đầu Thánh Lể, lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay : "Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Dẫu rằng mừng Lễ Ba Ngôi nhưng các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thật vậy, nhìn lại ta thấy hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đang khi đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Hẳn ta còn nhớ thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Tin Mừng, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời điểm giảng Tin Mừng là thời điểm của Chúa Con và thời này là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Ngài mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao.
Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Ðức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Chuyện xảy đến nơi tâm tư của thánh Augustinô khi Ngài suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Quả thật, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa.
Đúng như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Khởi sự từ ý tưởng của Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và ta thấy Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Ngài cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Ðây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái mà Ba Ngôi Thiên Chúa mời gọi.
23. Dâng lời chúc tụng Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông:”Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
24. Tình yêu hiệp nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: “tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “bạn có tin mặt trời không?”. Kẻ hoài nghi trả lời: “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng... nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta”(1 Ga 4,12). Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
25. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: “Thiên Chúa ăn mặc như thế nào?”.
“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.
“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.
“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về điều mầu nhiệm ”. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói: “Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”.
26. Sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa Thánh Thần
Là con người có nhiều giới hạn, chắc hẳn chúng ta phải công nhận là chúng ta không thể nào hiểu hết tất cả mọi sự trên thế gian này. Huống chi đối với những điều cao siêu mầu nhiệm. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Ðó là mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị.
Làm sao chúng ta có thể hiểu thấu mầu nhiệm này cũng như sống mầu nhiệm này được nếu không được hướng dẫn bởi ơn trên. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ng ười sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn " (Ga 16, 13). Sự thật toàn vẹn ấy là chúng ta đang sống trong tình yêu của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðồng thời, trong Chúa Thánh Thần chúng ta cũng được kêu mời sống mầu nhiệm ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta đã được học giáo lý: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Có vẻ như Ba Ngôi làm việc riêng lẽ, nhưng nhờ mạc khải của Chúa Giêsu dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần chúng ta biết được trong Cha có Con, trong Con có Cha và Thánh Thần chính là tình yêu giữa Cha và Con.
Do đó, mỗi người chúng ta đang được may mắn sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu ấy đưa con người lên địa vị làm con trong Chúa Con. Qua Bí tích Rửa tội chúng ta được đón nhận ơn vô cùng cao quý ấy. Rồi qua Bí tích Hòa giải chúng ta lấy lại được ơn ấy do tội lỗi mà chúng ta đánh mất.
Ba Ngôi cùng một uy quyền, cùng một bản thể và cùng một mục tiêu duy nhất. Mục tiêu đó làđem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Là con của Chúa chúng ta hãy hết sức hãnh diện về điều ấy.
Ðể rồi với niềm hãnh diện đó, mỗi ngày chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm này cho thật tốt trong cuộc sống hằng ngày. Ðây là mầu nhiệm độc đáo của người con Chúa. Càng sống yêu thương nhau bao nhiêu chúng ta càng làm cho mầu nhiệm ấy được sáng tỏ bấy nhiêu.
Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ở cùng chúng ta và xin Người ban thêm sức mạnh để chúng ta biết sống mầu nhiệm cao cả này cho thật tốt trong cuộc sống.
27. Mầu nhiệm Tình Yêu
Là người Công giáo chắc hẳn ai cũng biết và thuộc nằm lòng ba mầu nhiệm chính trong đạo. Một trong ba mầu nhiệm chính đó là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm mà Giáo hội cho chúng ta mừng cách trọng thể hôm nay. Đây là mầu nhiệm căn bản và nền tảng cho đức tin cho mọi tín hữu.
Chúng ta biết, mầu nhiệm là cái gì đó vượt quá trí khôn con người. Cho nên với sức tự nhiên, chúng ta không thể hiểu nổi. Dầu vậy, với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có thể hiểu được phần nào khi dựa vào những gì Chúa Giêsu đã mạc khải. Hơn nữa, dựa vào kinh nghiệm tình yêu chúng ta sẽ nhận biết mầu nhiệm này một cách dễ dàng.
Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng luôn hiệp nhất, yêu thương và nên một với nhau. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã biết: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Thông thường chúng ta nghĩ Ba Ngôi tách biệt nhau và hành động riêng lẽ. Thế nhưng dựa vào mạc khải chúng ta thấy Ba Ngôi luôn hành động cùng nhau.
Ngay từ trang đầu của Sách Sáng thế đã cho thấy: " Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước " (St 1, 1- 2). Như vậy, lúc sáng tạo thì Ba Ngôi đã cùng hoạt động rồi. Thiên Chúa phán: " Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta " (St 1, 26). Hình ảnh của Thiên Chúa chính là yêu thương nhau. Mà Chúa có một ngôi thì làm sao nói là yêu thương nhau được.
Mạc khải ấy được nên trọn vẹn hơn vào thời Tân ước. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì cùng lúc ấy có tiếng Chúa Cha phán cũng như có Chúa Thánh Thần hiện diện với hình chim bồ câu (Mc 1, 9 - 11). Đặc biệt, chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. Người đã trả lời cho ông Philipphê: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 9 - 11)
Từ những điều trên, chúng ta thấy vì tình yêu Ba Ngôi đã đi đến mức tuyệt đỉnh nên không còn là Ba nhưng là Một. Chúng ta có thể lấy hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa. Khi anh thanh niên yêu cô gái và ngược lại thì cả hai luôn muốn nên một với nhau về mọi phương diện. Dù là hai cá nhân riêng biệt nhưng họ không muốn là hai nữa nhưng chỉ là một. Cả hai mong ước trao hiến trọn vẹn cho nhau đến nổi không còn tha thiết giữ lại gì riêng cho mình. Trong tình yêu con người với nhau đã là vậy huống chi là với tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì tình yêu của con người luôn là phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta luôn được ở trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi lãnh Bí tích Rửa tội, vị đại diện Giáo hội đã nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi đón nhận ta vào cộng đoàn Giáo hội. Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá, Giáo hội muốn chúng ta vừa tuyên xưng vừa tự nhắc mình đang sống trong tình yêu cao đẹp ấy. Đồng thời Chúa và Giáo hội cũng muốn mỗi người chúng ta làm sao cho tình yêu ấy luôn được triển nở qua cách sống của mình. Đó là cách sống vị tha, quảng đại và hiệp nhất với nhau. Xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi thương chúc lành cho mỗi người chúng ta.
28. Mầu nhiệm đức tin
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
- Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô, người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta rằng:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện, của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
- Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
29. Ba Ngôi yêu thương hiệp nhất
1. Ngày hôm nay cho dù khoa tâm lý học rất phát triển nhưng không phải đơn giản để có thể hiểu được một con người. Cho nên câu nói của người xưa vẫn không kém giá trị:"Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người". Vâng đúng thế, vì sự hiểu biết của con người giới hạn, cho nên con người không hiểu nổi chính mình, hay tha nhân, thì làm sao có thể hiểu biết đối với Đấng dựng nên con người. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, là một trong những đoạn Đức Giêsu mạc khải về Một Thiên Chúa, nhưng có Ba Ngôi riêng biệt, đây là mầu nhiệm chính yếu, nền tảng đối với người Kitô hữu.
2. Như người thầy không thể dạy cho các em học trò cấp lớp nhỏ về phép khai căn của một con số, mà chỉ dạy điều nầy ở cấp cao hơn khi các em đủ sức tiếp thu. Cũng vậy, trong Cựu Ước dân Do thái luôn sống gần gũi với những dân ngoại, với niềm tin đa thần... Vì vậy mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi có thể làm cho người Do thái lầm tưởng là có ba Chúa, thay vì Thiên Chúa duy nhất! Có lẽ vì thế trong Cựu Ước mới ám chỉ, chứ chưa nói về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn trong sách Sáng Thế, khi nói về tạo dựng, Thiên Chúa được dùng ở số nhiều, tức hơn một ngôi vị, để nói về mình: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống chúng ta" (St 1,26). Sách Sáng thế cũng trình bày về việc "Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước", và Thiên Chúa dùng "Lời" của mình, "Thiên Chúa phán", để tạo dựng vũ trụ vạn vật (x. St 1).
3. Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, mạc khải cách rõ ràng về Chúa Ba Ngôi, như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có thể tóm tắt như sau: Tất cả những gì Chúa Con mạc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con dạy. Hay trước khi về trời, qua lệnh truyền của Đức Giêsu, Người nói rất rõ về Thiên Chúa Ba Ngôi: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi xem ra khô khan, vượt quá sự hiểu biết của con người! Suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi có liên hệ gì đến đời sống ta hay không? Thưa có, tuy Ba Ngôi là Thiên Chúa cao vời, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của chúng ta, chẳng hạn như:
- Đời sống của chúng ta trong sự liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta, đó là giáo lý mà ai trong chúng ta cũng nằm lòng.
- Nhìn vào Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy mỗi Ngôi có phận vụ riêng, nhưng luôn gắn bó với nhau. Điều nầy cho chúng ta suy nghĩ nơi cộng đoàn, nơi gia đình mỗi người trong khả năng của mình cố gắng đảm nhận phần trách nhiệm riêng, nhưng trong tinh thần liên kết, nâng đỡ nhau để chu toàn bổn phận cách tốt nhất.
- "Ba Ngôi Một Chúa" cũng làm cho chúng ta suy nghĩ đến cộng đoàn mẫu về yêu thương hiệp nhất. Nơi Ba Ngôi tình yêu chia sẻ, trao ban: "Người (Chúa Thánh Thần) sẽ tôn vinh Thầy" (Ga 16,14), hay "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15), Ngôi nầy hướng đến Ngôi kia, cho nên tuy ba mà thành một. Nếu đời sống cộng đoàn, gia đình theo gương Ba Ngôi chắc hẳn sẽ tạo nên cộng đoàn, gia đình yêu thương hiệp nhất. Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là thế giới nầy sẽ yêu thương nhau bớt hận thù, chiến tranh; bớt chênh lệnh kiến thức, giàu-nghèo, nếu chúng ta biết chia sẻ những giá trị tinh thần, của cải vật chất cho nhau.
5. Tin tưởng, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi thực ra không khó, nhưng cái khó là noi gương Ba Ngôi để sống, vậy mọi người hãy nhìn lại đời sống của mình:
- Chúng ta có sống trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, cứu chuộc và luôn ban ơn nâng đỡ ta mọi giây phút trong cuộc sống?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi để dám nhận lãnh trách nhiệm và cố gắng chu toàn bổn phận của mình cách tốt nhất đối với Giáo Hội, gia đình...?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi sống yêu thương hiệp nhất? Đẩy lui hẹp hòi ích kỷ, thay vào đó biết chia sẻ những giá trị tinh thần, vật chất với nhau không? Hãy lắng nghe thánh Phaolô căn dặn: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em" (2Cr 13,11).
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho chúng ta biết sống tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân thực sự, nhờ đó chúng ta có được sự bình an hạnh phúc đời nầy và nhất là được hưởng niềm vui mãi mãi với Ba Ngôi mai sau. Amen.
30. Thiên Chúa là Cha – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Tháng năm có ngày của Mẹ, tháng sáu có ngày của Cha. Cha Mẹ sinh con ra, qua bao tháng năm nhọc nhằn nuôi con khôn lớn. Ôi tình cha nghĩa mẹ bao là thiết tha.
Người công giáo gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng trong bóng dáng của người cha đó, vẫn đong đầy tình mẹ chứa chan. Thiên Chúa là Phụ tử và Ngài cũng là Mẫu tử. Lễ Chúa Ba Ngôi diễn tả một cách tròn đầy một Thiên Chúa duy nhất nhưng phong phú trong đa dạng: Ngài là Cha-Con-Thánh Thần. Nơi Ngài vừa là tình yêu của một người Cha, nhưng không hề thiếu vắng tấm lòng bao la của một người Mẹ.
Như ánh mặt trời cùng lúc cho vạn vật ánh sáng, sức nóng dù nó cách chúng ta đến 150 triệu cây số. Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động và mang lại ân sủng cho con người. Chúa Cha tác thành vạn vật, Ngài sai Người Con nhập thể để cứu vạn chúng sinh. Chúa Thánh Thần được Chúa Giê-su sai đến để soi sáng và thánh hóa con người. Thật vậy, từ đầu lịch sử của công trình sáng tạo, Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng hoạt động, với nhau, cho nhau và vì nhau. Mặc dù trong cựu ước, chưa có một sự quả quyết rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi lẽ, não trạng của dân Do Thái là niềm tin độc thần. Hãy tưởng tượng người nhạc sỹ sáng tác một bản nhạc, anh ta viết ở cung đô trưởng, muốn đánh hợp âm đô trưởng cùng một lúc người ta phải kết hợp một loạt ba note: đô-mi-sol. Ba note tạo thành một hợp âm đô trưởng, khi hát lên bản nhạc nghe du dương vô cùng. Niềm tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi do chính Đức Giê-su truyền dạy. Giáo Hội qua rất nhiều công đồng đã khẳng định một cách xác tín về điều này. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439. Dùng lý lẽ hạn hẹp của mình để đào sâu chân lý về Thiên Chúa là điều khó khả thi, nhất là những ai có ý định đem khoa học để giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa thì quả là một điều khó hơn “ mò kim đáy biển”. Cũng giống như một người muốn ôm hết biển cả vào lòng, nhưng khi nhảy vào đại dương và bơi vào trong biển khơi thì ngày càng mịt mù ngăn cách. Chỉ trong niềm tin và tình yêu, chúng ta mới có thể thấy Thiên Chúa không đơn độc, ở Ngài tình yêu làm phát sinh muôn điều thiện hảo, và điều thiện hảo lớn lao quá đỗi là khi Thiên Chúa đã ban chính con một mình cho chúng ta. Tình yêu có Ngôi vị của Ngài là nguồn cảm hứng dạt dào để Thiên Chúa như một họa sỹ tài ba, đã vẽ nên một bức tranh tuyệt vời là vũ trụ và con người, nó không ở thể tĩnh mà luôn động. Một khi đặt con người vào trong vũ trụ, Thiên Chúa muốn bộc bạch cho con người thấy, nơi Ngài, tình yêu chính là điểm phát xuất Mầu Nhiệm Ba Ngôi.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi là nét đẹp của hiệp nhất trong những khác biệt. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
31. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Chúng ta biết do kinh nghiệm cụ thể rằng khi một em bé chào đời trong một gia đình nào đó, thì điều trước tiên em cảm nghiệm chung quanh em là: một tình yêu, một bầu khí âu yếm lan tỏa. Chỉ từ từ em mới gọi tình yêu bao bọc quanh em là ba, là má, là anh, là chị. Tôi nghĩ chúng ta là Kito6 hữu thì cũng phải đi theo một hành trình tương tự đó vào huyền nhiệm Ba Ngôi. Ta cũng được một tình yêu được một bầu khí âu yếm bao bọc. Một tình yêu, một bầu khí lan tỏa nhưng không tên. Nhưng dần dần trong tình yêu đó ta phân biệt được những khuôn mặt để rồi ta bập bẹ gọi tên là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là huyền nhiệm Ba Ngôi một tình yêu qúa phong phú đến độ ta sẽ không bao giờ biết hết được, có kinh nghiệm trọn vẹn được. Cho dù có ai nghiên cứu Kinh Thánh thì có thể khám ra trong đó những giai đoạn lớn của mặc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây chính là cuộc khám phá lớn nhất trong mọi thời đại, mỗi thế hệ Kitô hữu theo một qúa trình thực hiện riêng. Ngày xưa người ta thích nói nhất thể tam vị. Một Thiên Chúa Ba Ngôi nghĩa là người ta muốn nói đến Thiên Chúa thoat ra ngoai định nghĩa, người vượt các định luật toán học. Thánh Augustinô , người đã viết rất nhiều về Chúa Ba Ngôi mà cuối cùng phải thốt lên rằng: Khi người ta nói về Ba Ngôi hẳn là không phải để nói một điều gì đó hơn là để khỏi phải thinh lặng.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt Kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à?". Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương..., có thể nói được rằng: "đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau" hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực tại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng ba ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy, bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kỳ trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một người Con.
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với "Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "quy hướng về Đấng khác".
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tin về mầu nhiệm Ba Ngôi để con không nhưng tin mà còn sống và loan báo mầu nhiệm đó cho những người khác. Amen.
32. Chúa Ba Ngôi
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
33. Mầu nhiệm
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Cha Ta và Ta là một”. “Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết: Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và muốn. Ba giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được, như có người đã nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”, phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
34. Ba Ngôi: mầu nhiệm
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu nổi. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, Biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, Gió đừng rung cây.
Nhưng tất cả mọi điều khó hiểu trong cuộc sống con người có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất. Vâng, chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực, qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa như vậy nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm vậy.
Nhưng tình yêu ấy có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà ngày hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta. Như sách giáo lý của Giáo Hội khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta” “.
Vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây đó là phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào.
Khi nói đến mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, có người thì chấp nhận một cách thụ động, coi như một sự thật hiển nhiên không cần tìm hiểu thêm, người khác thì cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để so sánh chân lý cao siêu này hầu dễ được tin nhận hơn như ngọn lửa của que diêm, cả ba đặc tính: sáng, nóng và cháy xuất hiện cùng một lúc và không thể tách rời nhau, hoặc với một tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau. Nhưng tốt hơn hết, chúng ta tuyên xưng: đây là mầu nhiệm đức tin, nghĩa là chúng ta đón nhận trọn vẹn chân lý ấy nhờ tin vào mạc khải của Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bởi vì nếu không có Thiên Chúa mạc khải, thì chúng ta không biết gì về Ba Ngôi, việc nhập thể của Con Thiên Chúa hay sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Như thánh Gioan tông đồ vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu mới định nghĩa được “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là tình yêu tức là tự chính nơi Thiên Chúa là yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình yêu.
Vâng, chính vì tình yêu mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con; đã trao cho Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình, như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Đức Giêsu khẳng định rõ ràng: “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Và Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi luôn ở trong Chúa Con, hiệp thông làm một với Chúa Con. Nên khi tông đồ Philipphê tha thiết muốn được xem thấy Chúa Cha, Đức Giêsu đã trả lời ngay: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Và chính sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là luồng tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến Chúa Cha, là sức mạnh tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, trong Ba Ngôi luôn có một sự đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu vĩnh cửu trong một Thiên Chúa duy nhất.
Quả thực, tình yêu nào cũng muốn bộc lộ, muốn hiệp thông, muốn trao hiến, người yêu nào cũng muốn tỏ tình thì đối với tình yêu Thiên Chúa chúng ta còn mạnh mẽ gấp bội. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa muốn vũ trụ vạn vật và con người hiệp thông với Ngài để đón nhận tình yêu và sự sống. Ngay cả khi con người sa ngã, chối từ lòng thương ấy thì Thiên Chúa “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” nên “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”. Người Con Một ấy chính là Đức Giêsu. Qua Đức Giêsu mà chúng ta thấy được bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Qua kiếp sống làm người, qua cái chết đau thương, Ngài muốn tỏ ra cho nhân loại thấy rằng Ba Ngôi Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta. Đặc biệt qua biến cố Phục sinh của Đức Giêsu chính Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông vừa nối kết Đức Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Đức Giêsu làm một với Chúa Cha vừa nối kết nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Và vì yêu thương cho đến cùng, nên Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha, được Chúa Con thiết lập, được nuôi dưỡng và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần để qua sự hiện diện của Giáo Hội như một dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn mãi.
Đối với Giáo Hội, qua bao thời đại vẫn không ngừng thể hiện căn tính của mình cho nhân loại thấy mình vừa là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vừa hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, đặc biệt qua đời sống phụng vụ, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội đã trích lại câu mấu chốt của thánh Cyprianô rằng: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nhận thấy nếu Thiên Chúa là tình yêu và con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa thì một cách tất yếu phẩm giá của con người đã được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, ai chối bỏ tình yêu, gieo rắc hận thù thì người đó đã chối bỏ con người và do đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”.
Hôm nay Thiên Chúa Ba Ngôi đang dùng tiếng nói của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống hiệp thông trong tình yêu của Ngài hơn nữa. Cụ thể là thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta xem đã hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi để đón nhận và thể hiện tình yêu của Ngài như thế nào? Rồi, giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa anh chị em với nhau đã thực sự yêu thương nhau góp phần làm cho gia đình mình trở nên dấu chỉ và hình ảnh sống động của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu nơi trần gian hay chưa?
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tôn thờ là nguồn mạch tình yêu đã trao ban tình yêu qua chương trình cứu độ và sẵn sàng đón nhận mọi người hiệp thông với Ngài, thì Ngài cũng đang mong chờ thái độ đáp trả của chúng ta, một thái độ biết đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu với Ngài và với anh em đồng loại.
Trong thánh lễ này chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông luôn hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, giúp chúng ta biết lắng nghe và thực hành lời của Chúa Giêsu để cùng với việc can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi như qua việc làm dấu thánh giá, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, chúng ta biết sống bác ái yêu thương trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn của mình, để xứng đáng là những nghĩa tử của Chúa Cha và luôn được sống hiệp thông trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
35. Lễ Chúa Ba Ngôi
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Dịp này cũng giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Khi chiêm ngắm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có những cảm nghiệm về tình yêu của Ngài như sau.
Thứ nhất: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sách giáo lý Công giáo dạy rằng: "Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo và đời sống Kitô giáo. Đó là nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin. Đó là giáo huấn căn bản nhât và chủ yếu nhất trong "Phẩm trật các chân lý của đức tin" (GLCG 134). Thật thế, Ngài là một thực tại giống như không khí chúng ta đang hít thở để bảo tồn sự sống. Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm gống như mầu nhiệm của sự sống. Bất kỳ sự sống nào không liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa đều vô nghĩa. Và trống rỗng. (Ga 15, 4; 1Cr 13,1-3). Do đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang hiện hữu, điều khiển và nâng đỡ từng giây phút của mọi sinh hoạt vạn vật và nhân sinh trên vũ trụ.
Thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi là một liên hệ yêu thương. Lịch sử cứu rỗi nhân loại là cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Tân Ước, các Tông Đồ mới gặp gỡ Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài là một Con Người tuyệt hảo, đầy thu hút. Họ đem lòng yêu mến, "un coup de foudre" bỏ mọi sự bước theo Ngài (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22). Dần dần qua sự liên hệ thân mật giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ, Ngài cho họ biết những điều bí mật về Thiên Chúa Cha, về chính Ngài là Thiên Chúa Con, và về Đức Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 6). Và sự liên hệ là: "Ta và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30).
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả cuộc sống Kitô hữulà sự liên đới và hiệp thông với mỗi ngôi vị của Ba Ngôi, mỗi người Kitô hữu là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị: " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Nên chúng ta cần bày tỏ sự kính trọng và yêu thương đối với mọi người chúng ta gặp gỡ. Sự kính trọng và yêu thương như những cơn mưa tưới nước xuống vườn hoa. Khi mưa rơi trên những cây hoa, nó sẽ nở bông, khi con người được cư xử với sự kính trọng và yêu thương, họ cũng sẽ nở hoa, vì có ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi họ.
Thứ ba là Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Sự Thật. Thiên Chúa Ba Ngôi chính là sự thật mà mỗi người phải dựa trên đó để sống có ý nghĩa và được cứu rỗi. Yêu mến Thiên Chúa là sống trong sự thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát đuợc con người (Ga 8, 32). Chúa Giêsu đã nói: "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14, 6). Đức Chúa Cha đã sai Chúa Con đến để dẫn đưa con người về với sự thật của ơn cứu rỗi mà Ađam và Eva đã bị ma quỷ lừa dối (Rm1, 20; Ep 1, 3). Và chính Đức Chúa Giêsu đã gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật: "Khi nào Thần Khí Sự Thật đến,Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 13; 14, 17; 15, 26)
Khi chúng ta xum họp nơi đây để chúc tụng và Tôn vinh Chúa Ba Ngôi, chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật, vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đón nhận, tin, vì Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi là ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta là con cái của Người nên chúng ta đi trong đường lối của Người, tín thác hoàn toàn và yêu thương như Ngài đã yêu.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con biết yêu thương và sống chứng nhân về tình yêu mà Ngài dành cho chúng con. Amen.
36. Ba Ngôi: Ý nghĩa
Đức tin không phải là một thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ con người chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng toàn mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở nơi bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con, mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”.
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hòa nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, xâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta qui phục nhưng không bị mất chính mình.
37. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đnh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù!
Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
38. Lãnh nhận một cái mền!
Các thánh ký Phúc Âm đã có một cảm nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Vô Cùng giầu sang, hoàn mỹ, và uy quyền mà không một chữ, hoặc một hình ảnh nào có thể diễn tả được. Cần phải là ba để diễn tả cách đầy đủ sự sung mãn và phong phú của Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình cho chúng ta. Một Chúa, chứ không phải ba Chúa. Tín điều Chúa Ba Ngôi, sự cảm nhận được Ba Ngôi Thiên Chúa, hay là bất cứ cái gì đi nữa, đều qui về một Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất! Sự cảm nghiệm về Thiên Chúa bằng cách này đã là nguồn sức sống cho các tín hữu thời sơ khai. Do cái cảm nghiệm này đã làm cho họ có sức mạnh để nhận biết Tình yêu mà họ chưa từng có bao giờ biết từ trước. Cái cảm nghiệm này là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của họ, và cuộc sống của chúng ta nữa.
Chuyện đã xảy ra thời Tân Ước đó là Chúa Giêsu đã đến giữa họ, và họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa trong một cái nhìn mới mẻ đầy sửng sốt mà không thể nào giữ trong lòng nổi. Họ phải loan truyền Tin Mừng này ra cho toàn thể thế giới. Điều họ đã nhận ra là Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng, hiện diện trong Người Con, và Người Con đã hiện thân ở giữa họ. Thiên Chúa, trong Người Con, đã hiện diện ở giữa họ như là một thần tượng tuyệt hảo trong cuộc sống của con người.
Chúng ta tụ tập nơi đây bởi vì chúng ta muốn biết làm sao để sống một cuộc đời Kitô giáo. Đây là một mẫu gương cho chúng ta. Đây không phải là những cảm nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa mà chúng ta không thể nào nắm được. Thiên Chúa đang hiện diện như là một người giữa chúng ta. Như các Kitô hữu thời sơ khai đã cảm nghiệm được sự mặc xác của Thiên Chúa và đã sống qua những biến cố của Quyền Năng Phục Sinh, họ nhận ra trong một cách mới mẻ Thiên Chúa yêu thương họ biết bao.
Hơn thế nữa, họ còn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bằng một cách khác, một điều mới xảy ra. Họ diễn tả cái đó giống như là ngọn gió thổi qua. Họ nói đó là những ngọn lửa sống động, ấm áp, và linh thiêng. Họ khám phá ra cái cảm nghiệm này của sự hiện diện Thiên Chúa ở trong họ, và nó làm cho họ được sống động. Họ nhận ra rằng họ được tẩy rửa. Cái mặc cảm tội lỗi trong người của họ đã được tẩy xoá và được tăng thêm sức mạnh. Họ đã có thể đứng lên trước công chúng, vua chúa, và rao giảng Tin Mừng. Bởi Chúa Thánh Thần quá tuyệt hảo, các thánh ký đã nhắc đến Ngài hơn 350 lần bằng nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Thần Chân Lý, Đấng Ban Phát Ơn Phúc, Ánh Sáng của Tâm Hồn, Đấng Ban Sức Mạnh, Đấng An Ủi.
Vào một buổi sáng ngày Chúa nhật, một bà mẹ đã nói với người con cả rằng, "Billy, hôm nay mẹ không thấy khỏe để đi lễ được, con đi lễ đi." Và Billy đã đi Lễ. Lễ song, khi Billy về nhà, mẹ chàng hỏi, "Hôm nay con ngồi ở đâu?" "Thì con vẫn ngồi ở chỗ cũ," Billy trả lời mẹ. Câu trả lời đó đã làm cho mẹ cậu nghi ngờ, bà liền tiếp, "Thế hôm nay bài Phúc Âm nói về cái gì?" Billy ngẫm nghĩ và trả lời cách ngập ngừng, "Ờ...để xem coi, hình như hôm nay có cái gì đó liên quan đến vấn đề lãnh nhận một cái mền." Thế là xong! Mẹ cậu liền gọi cho cha xứ và hỏi cha hôm nay bài Phúc Âm nói gì, cha liền trả lời, "Hãy kiên nhẫn, các con sẽ nhận lãnh sức mạnh..."
"Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh" Chúa Giêsu phán, "khi Thần Chân Lý đến trên các con" Đó là sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh biến đổi. Đây không phải là điều gì mới mẻ cả. Các bạn đã biết cả rồi. Tuy nhiên, có khi nào bạn để ý để mà suy nghĩ và đem ra thực hành không? Những hàng chữ chỉ là những chữ chết nếu không được đem ra thi hành.
Các thánh ký Phúc âm đã nghĩ đến việc chúng ta thành thật trước mặt Chúa về con người của chúng ta; về những cái đưa đẩy tranh chấp trong cuộc sống của mình; về những cái chống đối và địch thù khi thi hành đức ái của Chúa Giêsu trong cuộc sống; về cách thức chúng ta làm cho người khác đau khổ; về những cái khác biệt khinh thị người này người nọ; về cách thức chúng ta che đậy hoặc bào chữa những lỗi lầm của mình. Các thánh ký hằng luôn kêu gọi chúng ta hãy đối diện với hiện thực về chính con người của mình trước mặt Chúa.
Khi chúng ta thống hối, thành thật, và khi chúng ta biết phá đi những cái cản trở trong cuộc sống, thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm được cuộc sống của Chúa trong chúng ta. Các bạn sẽ trở thành con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng từ ban đầu. Một con người yêu thương. Các bạn sẽ có cái nhìn mới mẻ về những người thân trong gia đình.
Thần Khí Chân Lý đang chờ đợi bạn để dẫn dắt và cảm hóa bạn với những điều tuyệt diệu sau: Tôi đi tìm linh hồn của mình, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Chúa, mà Chúa ẩn náu ở đâu. Tôi đi tìm người anh em, và tôi gặp ở đó cả ba.
39. Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Sau biến cố Đức Giêsu phục sinh, chắc các tông đồ đã từng hỏi nhau: “Thầy mình là ai?”. Và rồi nhờ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các ngài mỗi ngày một nhận biết về Đức Giêsu hơn. Với biến cố Đức Giêsu lên trời, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.16, 19), nghĩa là, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Vào ngày lễ ngũ tuần, các tông đồ đã nhận biết quyền năng Thánh Thần (Cv.2, 1-17). Nhờ nhớ lại những giáo huấn của Đức Giêsu, các tông đồ cũng nhận biết Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp được Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh gởi tới với con người (Ga.14, 16; 15, 26).
Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Kitô hữu đã nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Cha (Ga.15, 26). Tín hữu nhận ra Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần có một tương quan rất đặc biệt với nhau và với con người. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corinthô viết “nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Thánh Thần ở cùng anh chị em” (2Cor.13, 13). Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần là ba “ngôi vị” (persona, prosopon, hypotases) luôn yêu thương con người.
Nếu hiểu một Thiên Chúa Ba Ngôi là một bản tính Thiên Chúa có ba ngôi vị, như một bản tính người nhưng có ba ngôi vị người khác nhau, thì sai lầm; vì lúc đó, là ba Chúa chứ không phải là một Thiên Chúa nữa. Hiểu như vậy rất sai trái với điều đã được mặc khải nơi Cựu Ước: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất, ngươi phải phụng thờ Người với hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi” (Đnl.6, 4). Một số người muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa nên đã giải thích: chỉ có một Thiên Chúa, nên lúc thì Ngài là Cha, lúc thì Ngài là Con nhập thể, lúc thì Ngài là Thánh Thần. Hiểu như vậy cũng là sai lầm, vì Cha vẫn luôn là Cha, Con vẫn là Con, và Thánh Thần vẫn là Thánh Thần; Cha, Con, và Thánh Thần tuy là một với nhau, nhưng vẫn là từng ngôi vị phân biệt, Cha không lẫn lộn với Con hoặc Thánh Thần. Một số khác cũng muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa, nên giải thích: Đức Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa nhưng không hoàn toàn là Thiên Chúa, Ngài kém Thiên Chúa một chút. Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Kitô Giáo, của Công Giáo.
Cha, Con, và Thánh Thần là ba ngôi vị phân biệt nhưng là một trong tất cả. Cha chỉ là Cha khi có Con; không có Con cũng chẳng có Cha; Cha sinh Con từ thuở muôn đời; Thánh Thần nhiệm xuất từ Cha và Con, cũng như tình yêu là tương quan giữa Cha và Con. Tuy dù Cha là nguồn gốc tất cả, Con sinh bởi Cha, và Thánh Thần nhiệm xuất bởi Cha qua Con, nhưng Ba Ngôi, nói theo Ba Ngôi nội tại, đều có cùng một quyền năng và là một trong tất cả trừ tương quan ngôi vị. Có người đã trích dẫn “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28) và “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13, 32) để khẳng định rằng Thiên Chúa Cha, xét theo bản chất, cao trọng hơn Đức Giêsu Kitô. Để hiểu đúng hai câu này, phải hiểu nó trong nhiệm cục cứu độ; vì là người trọn vẹn nên Đức Giêsu không biết tất cả; vì là người, nên Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của Ngài, nên Chúa Cha cao trọng hơn Ngài.
Trong Cựu Ước, nơi sách Châm Ngôn, người ta đã biết Đức Khôn Ngoan đã được sinh ra trước tất cả; Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa và là niềm vui của Thiên Chúa; Đức Khôn Ngoan đã đùa vui với con cái loài người (Cn.8, 31). Nhưng chỉ với Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi và nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng khi biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể: Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Cha là một (Ga.10, 30.33), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62).
“Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy… Thánh Thần sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga.16, 13.15). Nơi Chúa Cha, Thánh Thần, và Đức Giêsu, tất cả là chung đến độ là một trong tất cả. Tuy là một, nhưng vẫn là Cha, Con, và Thánh Thần phân biệt; Ba Ngôi không lẫn lộn với nhau. Chính nhờ nhiệm cục cứu độ, mà người ta nhận biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị: Cha khởi đầu với sáng kiến, Con thực hiện, và Thánh Thần làm hoàn tất trong dòng lịch sử. Cha, Con, và Thánh Thần có thể được phân biệt nhưng không thể tách biệt khỏi nhau, không thể độc lập với nhau vì là một Thiên Chúa. Cha chỉ là Cha trong tương quan với Con, và Thánh Thần bởi Cha và Con mà ra; có thể phân biệt các ngôi vị nhưng không thể tách biệt như những thực tại độc lập, bởi vì Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa.
Cha sáng tạo vũ trụ và con người qua Con trong Thánh Thần. Chính Cha đã sai Con giáng trần để cứu độ con người dưới tác động quyền năng của Thánh Thần; và một khi Con hoàn tất cuộc sống dương thế, Thánh Thần được sai tới để hoàn tất công trình cứu độ con người. Hiện tại, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện với mỗi người chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga.20, 22). Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi để sống với Thiên Chúa, để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng mình. Mỗi người đều được mời gọi để đi vào tương quan tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Mỗi người đều được mời gọi để sống hạnh phúc với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chỉ nhờ nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Bạn có đồng ý với khẳng định đó không? Tại sao?
2. Bạn có năng ý thức Thiên Chúa Ba Ngôi đang hiện diện với bạn không? Theo bạn, một khi ý thức Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần đang hiện diện với bạn, thì bạn được gì?
40. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất” (Đnl.6, 4). Nhờ Đức Giêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”, cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”, như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý thức Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn với Ngài như thế nào?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?
41. Suy niệm của Lm. Thu Băng
Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong đoạn Tông thư Thánh phaolô có lời cầu chúc: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em" là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đình đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng...". Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: "Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đng"
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
- Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
- Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
- Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
- Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. "Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi" và ngài đã kết luận "Thiên Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời". Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em" (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội... tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng... gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau.... Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.
42. Ba bộ mặt
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao - dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: "Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?"
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
43. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa đều đã được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, và không còn gì để nói về Thiên Chúa ngoài những mạc khải ấy?
2. Theo Đức Kitô, “khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thần Khí sự thật đã đến chưa, và Ngài đã mạc khải sự thật về Thiên Chúa như thế nào?
3. Có thể có nhiều cách nhìn khác nhau nhau về Thiên Chúa không? Các cách nhìn ấy có thể mỗi cách đều có giá trị riêng của nó không? Tại sao?
4. Ba Ngôi Thiên Chúa có khác biệt nhau không? Sự khác biệt ấy làm cho Ba Ngôi hợp nhất hay chia rẽ? Sự khác biệt giữa mọi loài, mọi vật, mọi tôn giáo trên thế giới, có nằm trong ý muốn của Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý
1. Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra.
Đức Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!
“Không có sức chịu nổi”, vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khải
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giêsu đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước: “Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
3. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diện
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho trần gian.
44. Suy niệm của GP. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Giờ phút này đây, chúng ta đang bắt đầu một ngày mới. Ánh bình minh đã từ từ ló dạng.
Đó là một việc rất bình thường cho con người. Có khi nào lúc màn đêm buông xuống, khi lên giường chợp mắt, chúng ta chợt giật mình suy nghĩ: nếu ngày mai không có ánh mặt trời, và mãi mãi mặt trời sẽ biến mất, chúng ta không biết mình sẽ ra sao. Nhưng rất may đều đó đã không xảy ra. Sau một đêm dài nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta lại được chào đón ánh bình minh tươi đẹp, với vầng mặt trời từ từ hiện đến, mang những tia nắng ấm áp cùng với ánh sáng chan hòa bao phủ trần gian. Mỗi ngày mặt trời vẫn trung thành xuất hiện, vẫn tỏa sáng và mang hơi ấm đến cho con người. Nếu người nào biết tận hưởng, thì đây là điều rất hữu ích. Còn nếu ai quá lạm dụng, thì cho dù có tầng ozone bao bọc, họ cũng không tránh khỏi hậu quả tai hại do sự lạm dụng quá đáng.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta vừa nghe lại những Lời quý báu Chúa Giêsu nói:
"Khi Thần Chân Lý đến Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật" Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con "Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy".
Chúa Giêsu muốn tỏ cho loài người biết về mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng hợp nhất không bao giờ chia rẽ, cho đến nỗi Ba Ngôi mà chỉ có một.
Mầu nhiệm cao cả nầy, chúng ta biết từ rất lâu, nhưng hiểu không được bao nhiêu. Như một đứa trẻ, nó biết cha mẹ yêu thương, nhưng không biết được tình yêu thương đó như thế nào. Nhưng chúng ta thử lấy tâm tình của một trẻ thơ mà tìm hiểu Chúa Ba Ngôi theo những gì mình hiểu biết.
Chúng ta thử ví Thiên Chúa Cha như vầng mặt trời,
Chúa Giêsu như ánh sáng được chiếu tỏa từ mặt trời,
Chúa Thánh Thần là sức nóng từ vầng mặt trời có ánh sáng phát ra.
Mặt trời vẫn trung thành với trái đất như thế nào, Thiên Chúa cũng trung thành với loài người như thế, và còn hơn thế nữa, vì mặt trời thì dường như vô tri, còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương loài người, tất cả những gì Ngài thực hiện đều phát xuất từ lòng yêu thương. Không thể có một khối mặt trời mà không có ánh sáng và sức nóng. Cũng thế Thiên Chúa hiện hữu trong một bản tính duy nhất nhưng Ba Ngôi Vị riêng biệt.
Thiên Chúa Ba Ngôi còn hiện hữu qua con người của chúng ta. Con người chúng ta được mang hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tạo dựng của Thiên chúa Cha. Con người được cứu chuộc để được tỏa sáng, được trong sạch. Đó là công trình cứu chuộc của Ngôi Hai. Con người được ban cho sức mạnh để những việc làm đạt kết quả tốt đẹp. Đó là sức nóng của Chúa Thánh Thần nung đốt
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn lại hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, một hình ảnh đã bị biến dạng. Chúng ta đã dùng những chất bẩn của tiền bạc, của lợi lộc cá nhân, những chất bẩn của sự ích kỷ, của sự tranh chấp, lừa lọc để bôi nhọ hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mỗi người. Vì sự bôi nhọ đó mà ngay cả chính mình không nhận ra, thì làm sao người khác có thể nhận ra được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chúng ta được.
Chúng ta biết chờ đón ánh bình minh trong đêm tối. Thế mà trong những lúc thất vọng, chúng ta đã quên mất Thiên Chúa của mình. Chúng ta không còn biết có một Thiên Chúa vẫn trung thành và yêu thương luôn chờ đón mình. Vậy mỗi người đã xử dụng mặt trời như thế nào? - Chúng ta chỉ biết phiền trách vì ánh nắng chói chan, vì cơn nóng gay gắt. Hay chúng ta biết tận dụng được những gì từ ánh mặt trời ban cho.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng biết nhìn thấy được hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong đời sống, để biết sống cho xứng đáng.
45. Sự thật toàn vẹn - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá.
Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.
Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
46. Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: "Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi".
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: " Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian" (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: " Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống yêu thương để chúng con luôn thấy Chúa hầu chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
47. Hiệp nhất
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm còn ẩn dấu rất sâu kín và rất khó hiểu, chính vì thế muốn trình bày để cho người khác hiểu, cho dù các nhà tiến sĩ lừng danh của Hội Thánh đi nữa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Khi học ở đại chủng viện, môn học về Chúa Ba ngôi: De Deo uno, De Trinite, là môn học khó nuốt nhất cho các thầy chủng viện nhất. Câu chuyện của Thánh Augustinô gặp thiên thần dùng vỏ nghêu định múc cả nước dưới biển để đổ vào cái vũng nhỏ mà thiên thần đào bằng tay, chính là để nhắc nhở cho chúng ta.... Dù vậy, với ơn Chúa, chúng sẽ hiểu được phần nào mầu nhiệm này. Chính Hội thánh cũng không dám tự phụ mình hiểu rõ về TC Ba Ngôi...
a. Trước hết, ta nên nói chút ít về Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi TC vì là Ba Ngôi vị riêng biệt, nên ta gọi là Ba Ngôi. Vì Ba Ngôi hiệp thông mật thiết đến nỗi trở thành duy nhất, "trở nên là một" nên ta gọi là một Chúa duy nhất. Chúng ta gọi một Chúa, không phải vì Ba Ngôi là 3 ý tưởng, là 3 khái niệm trong một Chúa duy nhất; nhưng vì Ba Ngôi là Ba Ngôi vị riêng biệt, do sự hiệp thông chặt chẻ với nhau trong cùng một tình yêu và một ước muốn duy nhất như nhau, nên ta mới gọi là một Thiên Chúa duy nhất. Điểm này không bao giờ có ở nơi con người trần gian, vì con người là sinh vật bất toàn, nên sự hiệp thông của nó cũng bị giới hạn, không bao giờ trở nên là một; dù ngay trong tình yêu đôi bạn, vợ chồng là hình ảnh tiêu biểu nhất cũng vậy.
b. mầu nhiệm của Ba Ngôi Thiên Chúa chính là mầu nhiệm của Tình yêu Hiệp thông: Mấy lời Chúa Giêsu nói trên đây về Chúa Ba Ngôi tuy rất ngắn, nhưng nói lên rất nhiều về Thiên Chúa Ba ngôi, về mầu nhiệm hiệp thông nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Sở dĩ Ba Ngôi kết hiệp mật thiết đến trở nên là một, chính vì Ba Ngôi TC là Đấng toàn thánh, ngàn lần chí thánh. Hơn nữa, vì tình yêu chân thật và thánh thiện thì có đặc tính hiệp thông và chia sẻ, nên mới có khả năng trở nên là một như thế.
Người ta nói tình yêu chân thật là một thứ nam châm, có sức hút người ta gần lại với nhau, nên hai người không thể nào, và cũng không muốn rời xa nhau. Khi yêu nhau chân thật, người ta muốn ở bên nhau, muốn hiến trao cho nhau. Hai khía cạnh của Tình yêu chân chính là: bên nhau - nên một. Một hình ảnh rất mờ nhạt của Tình Yêu Thiên Chúa Ba ngôi chính là bộ ba mà TC dựng nên trên trần gian: cha - mẹ - con cái. Đúng vậy, nếu bộ ba này sống tình yêu trọn vẹn, sẽ có nhiều nét rất giống Tình Yêu của Ba Ngôi, vì thực ra chính hình ảnh này là do Thiên Chúa dựng nên kia mà... Vì thế, người ta có thể nói, Tình Yêu nơi con người bất toàn bao nhiêu, thì Tình Yêu nơi Ba Ngôi thiên Chúa lại trọn vẹn và hảo bấy nhiêu... Ba Ngôi Thiên Chúa càng yêu thương nhau, các Ngài muốn gần nhau, nên một với nhau bấy nhiêu, Ba Ngôi càng không muốn điều gì là của riêng mình nữa, mà chỉ muốn nên một mà thôi.... Như trên đã nói, điều này chỉ có nơi Thiên Chúa, nơi con người không thể đạt được mức độ thành toàn như vậy...
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi chính là để nhắc nhở ta sống mầu nhiệm Tình Yêu Hiệp thông đó.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu đã nói: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Mình..." Tình Yêu của Thiên Chúa là thế, dù yêu nhân loại là thụ tạo bất toàn, nhưng Người vẫn dành cho một tình yêu cao cả thần thánh như vậy. Còn phần thì sao? Khi hiểu được như vậy, ta có sẵn sàng đáp lại cho tình yêu của TC không? Ta có cố gắng yêu mến Chúa như ý Chúa muốn, yêu mến Chúa qua mọi người chung quanh ta, nhất là những người nghèo khổ, không ai nhìn tới, những người bị xã hội bỏ rơi, ruồng bỏ không?
48. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
VÀI SUY NGHĨ VỀ THIÊN CHÚA LÀ CHA
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại. Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có: Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con: Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ. Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con: Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
49. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
BA NGÔI THIÊN CHÚA, MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
50. Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong các bổn phận chính mà người Kitô hữu phải làm, việc trước tiên là tin những gì Thiên Chúa truyền và Giáo Hội thay mặt Chúa dạy. Trong những điều phải tin, quan trọng hơn cả là các sự Mầu nhiệm, trong đó có Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Trong bài suy niệm này, xin được gởi mở mấy điểm sau đây: Mầu nhiệm là gì? Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? Ta có bổn phận nào đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
1. Mầu nhiệm là gì?
Mầu nhiệm, là những sự thật siêu nhiên vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Nhìn nhận có những mầu nhiệm không phải là phủ nhận trí khôn của con người, nhưng trái lại là chấp nhận trí khôn của con người thua kém sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Dừng lại quan sát em bé hồi lâu, Thánh nhân liền đến hỏi:
- Bé ơi! bé đang làm gì đó?
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
- Cháu không thể làm như vậy được đâu!
- Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?
Một là trong Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau. Hai là mỗi một ngôi cũng là Thiên Chúa. Ba là ba ngôi đều bằng nhau. Bốn là ba ngôi chỉ làm thành một Thiên Chúa.
Vì là mầu nhiệm nên chúng ta không thể hiểu. Tuy không hiểu, nhưng chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
3. Chính Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi?
Thời Cựu Ước, khi nhân loại chưa sẵn sàng đón nhận, nên Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chưa được tỏ bày một cách rõ rệt, có chăng thì cũng chỉ tỏ bày một cách mờ nhạt. Chẳng hạn, tiên tri Isaia nghe được tiếng các Thiên thần ca tụng Thiên Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh...Chúa là Thiên Chúa các đạo binh” (x. Is 6,3). Trong sách Sáng Thế cũng tường thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người rằng: “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta...” (St 1,26). Cụm từ “Chúng ta” ở số nhiều, có ý chỉ về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sang thời Tân Ước, khi nhận thấy con người đã sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu đã mạc khải Mầu nhiệm này một cách rõ ràng, có khi mặc khải từng ngôi vị, có khi mạc khải hai ngôi vị, có khi mạc khải cả ba ngôi vị.
Mạc khải từng ngôi một:
Hai dẫn chứng tiêu biểu sau đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26); “Lạy Cha, sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (x. Ga 17,1; 3).
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Con, khi Ngài xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,13-18). Ngài còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa và ngang bằng với Thiên Chúa (Ga 10, 22-39).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết có một Đấng Bảo Trợ khác đó là Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,5-10), Ngài được sai đến để trợ giúp và thánh hoá chúng ta (x. Ga 16,13-15).
Mạc khải cả ba ngôi Thiên Chúa:
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3,21-22).
Ngày Chúa Giêsu lên trời, Ngài dạy các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
4. Người Kitô hữu phải có bổn phận gì đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
Chúa Cha đã dựng nên chúng ta, Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta và Chúa Thánh Thần thánh hoá chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều mang ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn cần đến Ngài. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
Thứ nhất, luôn giục lòng tin có Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta, luôn cầu nguyện và kết hiệp với Ngài, sống đúng với lương tâm ngay thẳng, xa tránh các tội lỗi, làm nhiều việc lành…Để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Thứ hai, hãy năng làm dấu Thánh giá, làm một cách cung kính: Làm dấu Thánh giá trước khi đi ngủ, khi vừa mới thức dậy; Làm dấu Thánh giá trước và sau khi ăn cơm, trước và sau các giờ kinh nguyện; Đặc biệt khi gặp sự khốn khó, khi bị cám dỗ về đàng trái…Hãy làm dấu thánh giá để kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi phù trợ và gìn giữ chúng ta. Thánh Antôn lần kia đang cầu nguyện thì bị cám dỗ về đàng trái, Ngài lấy lòng sốt sắng vạch hình thánh giá trên nền nhà thờ, lập tức hình thánh giá in đậm trên nền nhà thờ và ma quỷ bỏ chạy, còn Ngài được thoát khỏi cơn cám dỗ.
Thứ ba, hãy bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi sống hiệp nhất yêu thương. Tuy Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá. Nhưng trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá đều có sự hiện diện của Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã từng nói: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30); "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15); “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10). Trước khi về trời, Ngài khẩn thiết cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ và những người theo Ngài được hiệp nhất nên một với nhau (x. Ga 17, 21-23). Vậy, chúng ta hãy noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi biết sống hiệp nhất yêu thương: Hiệp nhất nên một giữa vợ chồng; Hiệp nhất giữa các thành viên trong gia đình: "Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6); Hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn; Hiệp nhất giữa mọi thành phần trong Hội Thánh. Thánh Phaolô dạy: "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 27-28). Trong bài giảng sáng ngày 12-5 vừa qua, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô, của gia đình Kitô, là một lời chứng cho sự thật rằng Chúa Cha đã gởi Con mình đến thế gian”.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin cho chúng con luôn biết tin kính và yêu mến Chúa. Xin cho moi thành phần trong Hội Thánh luôn biết cộng tác với nhau, sống hiệp nhất yêu thương để càng ngày càng diễn tả rõ nét hình ảnh hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Amen.
51. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
52. Những hình ảnh của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa: Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
53. Thiên Chúa Ba Ngôi
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…
54. Lễ Chúa Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”
Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ nào.
Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Kitô.
Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.”
- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
55. Sống đời sống Thiên Chúa
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi.
56. Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dậy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất, hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Đnl 4:39). Đó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.
Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh thiêng liêng cho loài người, thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh Thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Ta có thể dùng hình tam giác cân để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá tam diệp thể (shamrock) để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu lá tam diệp thể. Họ trả lời một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticaanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá Trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi là hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở dĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như kiềng ba chân.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin người công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành Bí tích Giải Tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba Ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Đấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Đấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho ăn chắc, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Đấng. Con xin Ba Đấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân...
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả, vô ý thức?
Lời cầu nguyện: xin cho được biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.
Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!
Con thờ lậy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.
Con cảm tạ Chúa đã tạo thành nên con.
Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.
Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,
kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
57. Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi.
Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1. Lòng thương xót của Chúa Cha trong lịch sử cứu độ
Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
2. Lòng thương xót của Đức Giêsu nơi công trình cứu chuộc
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời... nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây nên.
Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người...”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột... nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác... Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội...
Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương...
Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.
3. Lòng thương xót của Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa
Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc..., trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu...
Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng..., để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
4. Tin Thiên Chúa là làm cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy... nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công...; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay...
Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.
58. Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong đời sống đức tin của chúng ta, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác. Nói cách khác, đây chính là mầu nhiệm mẹ của các mầu nhiệm. Đã là mầu nhiệm, với sự hiểu biết của con người, chúng ta không thể biết nếu không được mặc khải. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Nhất Thể mà lại Tam Vị quả thật là một mầu nhiệm vượt lên trên trí hiểu của con người. Chúng ta chỉ có thể biết được phần nào qua sự mặc khải của chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, và cũng là một trong Ba Ngôi Vị đó.
1. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa
Đức Giêsu là "Logos - Lời" của Thiên Chúa Cha. Lời quyền năng của Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa đã được tỏ hiện nơi các mặc khải của Đức Giêsu qua việc cho người mù được sáng mắt; kẻ què được đi; người phong hủi được sạch; và người điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại; người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng (x. Mt 11,4-5; Lc 7,22). Đức Giêsu cũng được ví như hạt giống; cửa sự sống; cây nho; là cử đàn chiên... (x. Mt 7,13-14; Ga 12,24; Ga 10,7-9; 14,6; Ga 15,1-2; Ga 10,11; Lc 15,4-7).
Như vậy, Đức Giêsu chính là "Lời" của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Hiện hữu giữa trần gian là để mặc khải về Nước Thiên Chúa, về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại về với Cha trong ý định ban đầu của Người. Nhưng trước hết, không những chỉ biểu lộ chính mình, Đức Giêsu còn biểu lộ Chúa Cha là Đấng Đồng Nhất với Ngài.
2. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha
Mặc khải đầu tiên được khởi đi qua biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan xong, các tầng trời mở ra và có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu, đồng thời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con Ta yêu dấu." (Mt 1,11).
Tiếp theo, Thiên Chúa Cha được mặc khải như là tình Phụ Tử trong sứ điệp của Đức Giêsu: trong các sách Tin Mừng, Thiên Chúa được gọi là Cha trên 170 lần. Điều mới mẻ nơi Đức Giêsu là không những Ngài đã giảng về lòng từ phụ của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn gọi Thiên Chúa bằng tiếng "Abba" trong lời kinh của Ngài. Tiếng "Abba" thì chỉ một mình Marcô ghi lại (x. Mc 14,36), nhưng cách gọi Thiên Chúa là Cha thì rất nhiều: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha... vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn."(Mt 11,25). Hay: "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha." (Lc 23,46; x. Ga 17,1.5.11.21.25). Đức Giêsu thường xuyên gọi Thiên Chúa như thế. Sự kiện ấy nói lên tương quan đặc biệt giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, một kinh nghiệm thân ái độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu nhận được trong lời kinh của Ngài. Giữa Ngài và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt đến nỗi "không ai biết được Con trừ phi có Cha, và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con mặc khải ra cho" (Mt 11,27). Mạc khải về Chúa Cha còn phát xuất từ kinh nghiệm, lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất" (Mt 11,25), nghĩa là của toàn vũ trụ. Đức Giêsu cũng đã dạy các môn đệ đọc lời kinh "Lạy Cha" (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Chính tương quan độc đáo ấy đã giúp cho các Tông đồ sau biến cố phục sinh nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu được mặc khải về Chúa Cha qua hình ảnh của một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân từ (x. Mt 5,45; x. Lc 6,35); là Đấng giàu lòng thương xót (x. Lc 15,7); là Đấng Quan Phòng (x. Mt 6,27). Người theo dõi đến cả số phận những con vật nhỏ bé phải "rơi xuống đất" (x. Mt 6,29).
Kế đến, chúng ta sẽ được biết về Chúa Thánh Thần qua mặc khải của Ngài.
3. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Thánh Thần
Khởi đầu Mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria (x. Lc 1,35). Tiếp theo sau là vai trò của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa dưới hình chim bồ câu (x. Lc 3,22). Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu "vào hoang địa bốn mươi ngày" (x. Lc 4,1-2). Rồi chính Đức Giêsu đã nói về sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời và sứ mạng của Ngài: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó...". Khi trừ Quỷ, Đức Giêsu đã khẳng định quyền năng của Ngài khi nói: "Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông." (Mt 12,28). Đức Giêsu đã đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc từ chối hay đón nhận: "Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau." (Mt 12,31-32). Hay nói về Chúa Thánh Thần như một món quà cao quý mà Thiên Chúa trao ban cho con người: "Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?" (Lc 11,11-13). Và khi nói đến sự liên kết giữa việc yêu mến và giữ lời, Đức Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật." (Ga 14,15-17). Biết mình sắp từ giã các Tông đồ, Ngài đã mặc khải cho các ông biết về vai trò và sứ mạng của Chúa Thánh Thần: "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật xuất phát từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." (Ga 15,26-27; x. 16,13). Khi bị treo trên Thập giá, trước lúc tắt thở, Ngài đã thốt lên: "Thế là đã hoàn tất!". Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí (x. Ga 19,29-30). Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trao bình an và sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, đồng thời cũng ban quyền tha tội cho các ông:"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.". Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23).
Tắt một lời, nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thật vậy,"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Nhờ mặc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như phần rỗi của con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng Trung Gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn mạc khải." (x. Dei Verbum, số 1, 2).
4. Sống tinh thần mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan cá nhân
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên thụ tạo mới, được mang danh là người Kitô hữu, được trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô thì, nhờ Bí tích, chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần; chúng ta được Thiên Chúa yêu thương: "Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta." (2 Cr 6,15).
Vì vậy, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Sống khiêm tốn, thánh thiện là điều kiện để xứng đáng trở nên đền thờ của Thiên Chúa ngự. Đồng thời chúng ta hãy sống thân tình với Chúa như Cha với con. Hãy học lấy tâm tình của Đức Giêsu khi Ngài thưa chuyện với Cha Ngài. Bởi vì Thiên Chúa ở trong cung lòng của ta, Người sẵn sàng nghe lời ta nói.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan gia đình
Đã nói đến gia đình là nói đến sự hiệp nhất. Nếu không hiệp nhất thì không thể nào đón nhận nhau trong cùng một ngôi nhà, cùng một mâm cơm... Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi phải được coi như là mẫu mực tuyệt đối của sự yêu thương và hiệp nhất: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga,15.26). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm toát lên điều đó: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như Chúng Ta." (Ga 17,11).
Trong đời sống gia đình, mỗi thành viên hãy biết yêu thương nhau. Luôn biết hướng tha để đùm bọc nhau. Hạnh phúc của người khác là điều chúng ta cần quan tâm hơn. Hãy noi theo hành động xuất ngoại của Thiên Chúa khi ngôi này vì ngôi kia và ngược lại nhưng vẫn chỉ là một Chúa duy nhất. Được như thế, thì dù gia đình chúng ta có đông người nhưng cũng chỉ là một. Tuy nhiên duy nhất, nhưng vẫn phải trung thành với những bổn phận riêng biệt của mình trong vai trò là chồng, là vợ, là con cái... Mỗi người phải sống đúng với địa vị và vai trò của mình. Vợ chồng biết tôn trọng lẫn nhau. Cha mẹ sống đúng với vai trò của cha mẹ, luôn làm gương sáng cho con cái bằng chính đời sống tiết độ, công chính của mình. Con cái phải biết vâng phục cha mẹ trong tâm tình yêu mến và thảo hiếu, như Đức Giêsu luôn vâng phục Chúa Cha (x. Ga 4,34; Dt 5,8-9).
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là mỗi lần chúng ta xác tín vào Chúa Ba Ngôi. Một Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và quan phòng. Một Thiên Chúa luôn làm chủ vũ trụ và con người trong vai trò thánh hoá và biến đổi. Đồng thời, mỗi khi mừng lễ, chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa và sống yêu thương nhau nhiều hơn. Mặt khác, chúng ta hãy hãnh diện tuyên xưng về sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày qua việc thành kính tuyên xưng Chúa Ba Ngôi mỗi khi làm dấu Thánh giá.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con tin Chúa, phó thác, yêu mến Chúa. Xin cũng cho chúng con biết yêu thương nhau và sống đúng vai trò của mình trong cuộc sống hằng ngày theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
59. Ba Ngôi nhưng là một Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).
Theo thánh Grégoire de Nazianze (329 – 390) : Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị : Ngôi Cha “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo ; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con ; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh và Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa ...
Theo Grégoire de Nysse (331 ? – 394) : Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.
Theo thánh Augustinô (354 – 430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất : “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).
Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Tin Mừng mà chúng ta công bố hôm nay cho thấy: Chúa Con nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất hoàn hảo : “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”, và Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Chúa Giêsu nói : “Vì thế Thầy đã nói : Người sẽ lãnh nhận từ nới Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Và trong một đoạn văn khác, Chúa Giêsu cũng nói tương tự: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con. Người là Thần Chân Lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy"(Ga 15, 26).
Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Và Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn dắt chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần : chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những "công dân" Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.
60. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật tiếp theo lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành và tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Giáo hội giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Quả thật, Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta”. (Ca nhập lễ)
Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể mô tả đủ hay hiểu biết về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu đức tin của người kitô hữu chúng ta, một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm...Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thân ta, thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời khắc giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
- Mùa Phục Sinh chỉ cho chúng ta rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
- Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi khi làm Dấu Thánh Giá trên mình.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá là tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhặc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta: Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “ Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần “. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta, chính là về Trời. Như các thánh, đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân“.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: điều đó ngụ ý rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Chúng ta muốn nói rằng trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa“.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
61. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
THIÊN CHÚA BA NGÔI BAO TRÙM ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU
Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Một bản thể duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa không phải là Ðấng đơn độc nhưng là Ðấng thông hiệp trọn vẹn. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa luôn tràn đầy tình yêu, là món quà thân yêu được ban tặng cho mỗi người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ba Ngôi bao trùm cả đời sống chúng ta và tôn thờ Ngài.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên : Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này : một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi...
Lớn lên tôi mới hiểu đây là Một trong Ba Mầu Nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là :
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng ?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi : Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con : Ngôi Ba là Thánh Thần.
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
T. Phải.
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng ?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng ?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong Ba Ngôi Vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
“Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể : thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một”.
Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 266-267).
Ba Ngôi trong đời sống người tín hữu
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Câu hỏi sẽ là:
- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?
- Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha… ?
- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần… ? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có.”
Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.
Vậy, nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu” (GLHTCG số 265). Amen.
62. Thần Khí Sự Thật – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:
- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
a) Dẫn nhập (13,31-38),
b) Phân đoạn 1 (14,1-14),
c) Phân đoạn 2 (14,15-24),
d) Phân đoạn 3 (14,25-31).
- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
a) Phân đoạn 1 (15,1-17),
b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,
c) Phân đoạn 3:
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
a) Phân đoạn 1 (17,1-8),
b) Phân đoạn 2 (17,9-19),
c) Phân đoạn 3 (17,20-26).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).
3.- Vài điểm chú giải
- không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).
- Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
- Người sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc khải.
- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban cho loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp (12)
Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại họ.
Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.
+ Kết luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha và Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người. Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi, sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu kỹ càng hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là Chúa Cha và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm gì mà không có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên sự hiệp thông trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi Thánh.
2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả các bí mật của Người (Ga 15,15), các ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp thích ứng mà Thánh Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần không phải là một vị thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo huấn của vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ nhắc lại mạc khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26). Thánh Thần cũng giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn được các xử sự tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người ta khám phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ mạng của Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.
3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững vàng”, “sự bền bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của người tín hữu là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức Giêsu và luôn liên kết với Người.
4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người môn đệ của Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp nhận và đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không xóa mất sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được dấu ấn của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực: không phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường phục vụ những ai cần được yêu thương.
5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này sẽ mở mắt và giúp ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề với chúng ta hơn cả chính chúng ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình yêu Thiên Chúa không ngừng đổ tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để các vị giảng thuyết tìm kiếm những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay không phải để nói về từ ngữ hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng đang cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng. Nếu muốn biết thêm về những mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của Giáo Hội và giáo lý này tiến triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm trong sách vở (Siciliano).
63. Chú giải của Noel Quesson
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr 2, 4.1). Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 - 5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu": Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là "Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." “Tôi không thể mất đức tin..."
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức tin" đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để "hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi cao": Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là một "Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của "vòng tròn hoàn hảo" , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra" và “thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi... nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước vào mối tương quan với họ.
Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17) "Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp thông các ngôi vị "nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một "chóp đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người "hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!
15/06 Có thì nói có, không thì nói không
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Có thì nói có, không thì nói không.
Thứ Bảy tuần 10 thường niên.
"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".
Lời Chúa: Mt 5, 33-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được.
Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Có thì nói có
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.
Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.
Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo rằng ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu.
Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.
Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ai là người nói thật
Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (Mt. 5, 33-34)
Mọi người đều dối trá
Mỗi ngày ta đều có được những kinh nghiệm sống tuy nhỏ bé nhưng rất có ý nghĩa. Chẳng hạn mấy đứa con chúng ta cãi lộn nhau. Đứa này bảo đứa kia đã gây sự trước. Đứa kia cũng nói lại như vậy. Đứa nào đúng? Một tin lớn đăng tải trên trang đầu của tờ báo. Hôm sau lại nói ngược lại. Tin nào đúng? Chính quyền tỉnh cho công bố những bảng thống kê. Mười ngày sau chính quyền liên bang lại đưa ra bảng thống kê của mình. Phải tin ai đây?
Trong xã hội ta hôm nay, những thông tin quả là phong phú, những phương pháp truy cứu lại rất khoa học, những bản điều tra thật tường tận, vậy mà chúng ta vẫn luôn phải tự hỏi rằng: “Ai đúng?” Ta thường xuyên liên hệ với những người mà ta tin là liêm chính và ngay thẳng. Ta tin cậy họ, thậm chí có thể yêu mến họ. Nhưng biết bao lần ta phải tự hỏi: “Không biết lần này ông ta có nói đúng sự thật cho mình không?”. Ta có cảm tưởng như chung quanh ta mọi người đều dối trá cả
Cho đến giờ, ta đã chỉ nói đến những người nói dối ta. Thiết tưởng cũng nên nhìn vào mình một chút. Ai trong ta, xưa rày chỉ nói sự thật? Chúng ta chắc cũng không lạ gì với những cách nói nửa vời, những câu trả lời lấp lửng, những kiểu thêm thắt, bịa điều đặt chuyện, nói quanh co điều ta nghĩ và biết, chung quy gọi là dối trá, lươn lẹo.
Hãy vun trồng sự thật
Chúa Giêsu yêu cầu ta vun trồng sự thật. Nói “có” khi phải nói “có”, nói “không” khi phải nói “không”. Nói “có” hay “không” dều phải rõ ràng dứt khoát. Đạt được như vậy, không phải là chuyện đơn giản. Ta thường phải khó chịu, đôi khi phải nhượng bộ nữa. Để biết nói sự thật, tâm hồn ta phải thật trong sáng, ngay thẳng và trong một vài trường hợp, phải có nhiều can đảm. Thế nhưng ta phải tập cho quen biết nói sự thật, và phải tập ngay từ bây giờ, bằng không sẽ chẳng bao giờ biết nói sự thật cả.
Suy Niệm 3: KHÔNG ĐƯỢC THỀ! (Mt 5, 33-37)
Có những lần chúng ta đã nghe thấy những câu thề thốt đáng sợ như: "Tôi thề có đất trời chứng dám, sự việc xảy ra đúng như vậy, nếu không thì cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử”. Như vậy, theo quan niệm của con người, lời thề thông thường là nối liền với sự tự rủa bản thân mình để chứng thực điều quả quyết. Khi đã thề, đòi buộc người thề không được bội ước.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ rằng: “Đừng thề chi cả [...]. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Thực ra, thề có độc địa đến đâu, thì lời thề đó cũng khó có thể thành hiện thực. Như một lời nhắc nhở, Đức Giêsu cho biết, những lời thề đó là những điều phạm thánh, nếu cố tình vi phạm, không ăn năn hối cải sẽ bị Chúa phán xét nặng trong ngày diện kiến với Chúa.
Trên thực tế, con người ta có nhiều điều bất hảo. Thử hỏi có ai làm cho tóc hóa đen, hay kéo dài tuổi thọ của mình trên trần gian? Nếu điều đó cũng không làm được, thì nói chi đến những chuyện động địa như trong lời thề!
Hôm nay, Lời Chúa dạy cho chúng ta bài học về sự chân thật. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Chúng ta không được phép thêm bớt để rồi làm cho người khác bất hạnh. Hãy sống thật với lòng mình thì sẽ được Chúa chúc phúc. Đừng sống kiểu: “Khẩu Phật, tâm xà”; hay: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến với mỗi người chúng con, để chúng con biết sống ngay thẳng, công tâm, hầu xứng đáng là con cái Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Có thì nói có
Suy niệm:
Việc thề vẫn có trong các nền văn hóa nhân loại.
Người ta thề để người khác tin lời của mình hơn,
vì nếu không giữ lời thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa.
Người Do thái từ xa xưa cũng đã có thói quen thề.
Thề là nại đến Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói.
Hêrôđê Antipas đã thề hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7).
Lời thề của một người lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt.
Phêrô đã chối Thầy kèm theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74),
vì ông sợ người ta không tin lời ông nói.
Đức Giêsu biết chuyện Luật Môsê cấm bội thề,
và phải giữ trọn điều đã hứa với Đức Chúa (c. 33).
Nhưng quan điểm của Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả.
Không cần thề để xin Đức Chúa làm chứng cho lời ta nói,
vì mọi lời ta nói, Ngài đều biết và làm chứng.
Vì những sơ xuất trong việc giữ lời thề
có thể làm Thánh Danh Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề,
người Do thái thường thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22).
Tương tự như ở Việt Nam, họ dùng trời hay đất để thề.
Họ cũng thề nhân danh Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình
Đối với Đức Giêsu, điều đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào,
vì trời, đất, Đền Thờ, hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa.
Trời quan trọng vì là ngai của Thiên Chúa.
Đất quan trọng vì là bệ dưới chân Người.
Đền thờ quan trọng vì là thành của Đức Vua cao cả.
Đầu cũng chẳng thuộc quyền con người,
vì màu trắng hay đen của sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36).
Khi kêu gọi chúng ta đừng thề chi cả,
Đức Giêsu muốn lời nói của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật,
tự nó chắc chắn, đáng được mọi người tin cậy.
Thánh Giacôbê đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết:
“Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không,
như thế anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5, 12).
Mọi thêm thắt đều do ác thần (c. 37).
Giáo hội sơ khai đã giữ lệnh truyền này một cách nghiêm túc.
Nhưng từ đầu thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ.
Giáo sư trong các chủng viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ
trung thành giảng dạy giáo lý chính thống của Giáo hội.
Các lời khấn của tu sĩ cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu.
Dù sao chúng ta cũng là những con người mong manh, hay thay đổi.
Thề, hứa, khấn, tuyên thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người.
Trung tín với điều mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu.
Chỉ xin sự trung tín của Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/06 Quyết liệt xa tội
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Quyết liệt xa tội.
Thứ Sáu tuần 10 thường niên.
"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".
Lời Chúa: Mt 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.
"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chớ ngoại tình, đừng ly dị
Hôn nhân không phải là một sự phối hợp tạm thời để có thể dễ dàng phân ly vì sự thay đổi hoặc vì đam mê của con người. Chúa Giêsu lên án những phóng đãng luân lý, như sự bất trung, ngoại tình, ly dị do pháp luật cho phép.
Chống lại sự bất trung, Chúa Giêsu lên án cách nhìn ngắm không trong sạch của những ước muốn xác thịt, liều mình đi đến chỗ phạm tội trong tâm hồn. Cử chỉ này bị coi là đã thành tội, vì tội phát sinh bởi ý muốn thầm kín của tâm hồn. Với những lời gắt gao, Chúa nhắc lại việc cần phải dấn thân một cách nghiêm chỉnh và cương quyết chống lại những lạc hướng do ích kỷ, để cứu vãn và tăng cường tình yêu hôn nhân bằng mọi giá.
Chống lại việc ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Môsê cho phép ly dị trong một số trường hợp. Ðối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: "Phúc cho ai có tâm hồn trọng sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa"; muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Trong luật cũ có vẻ bao dung đối với nam giới và nghiêm khắc đối với nữ giới, thì Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc: Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình.
Theo giáo huấn của Chúa, việc phối hợp giữa người nam và người nữ là một biểu lộ của tình yêu, và tình yêu này đến từ Thiên Chúa, chứ không do tình dục ích kỷ. Tình yêu là một sự trao ban cho nhau, là cuộc gặp gỡ của tự do.
Xin Chúa cho chúng ta biết tiến lên theo Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta không chiều theo những ước muốn và hành động của xác thịt; trái lại biết sống trong tự do của Chúa, nhờ đó lề luật của Chúa sẽ trở nên nguồn an vui và sức mạnh của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Giải phóng tình yêu
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt. 5, 27-28)
Những lời nói cũ rích?
Có những người nói rằng thời đại ta là thời đại giải phóng tình dục và họ vỗ tay hoan hô. Những người khác nhìn thấy cảnh sống phóng túng tràn lan hầu như khắp nơi, thì lại chỉ buông lời trách móc. Ta nên xử trí thế nào cho phải. Cách ăn nết ở của đàn ông đàn bà cũng như của thanh thiếu niên nam nữ xưa đối với nhau có những mặt tốt và mặt xấu của nó. Xưa có những cách bày tỏ tình bằng hữu, cho đến cả tình yêu nữa, không phải luôn luôn hoàn hảo, xứng với con người hay hợp với tinh thần Kitô giáo đâu. Nhưng những cách cư xử mới của những người thời nay cũng không phải là hoàn toàn bảo đảm. Chắc chắn là chúng ta đã đạt tới những nếp sống phóng túng chẳng giúp gì cho việc khơi đậy và phát triển một tình yêu sâu xa giữa nam nữ cũng như giữa vợ chồng.
Trong bối cảnh hiện nay thì chắc chắn những lời Chúa phán kia có nguy cơ bị coi là lỗi thời. Không được thèm muốn vợ người khác, phải cương quyết để sống trung tín với người nam hay nữ mình yêu, người ta còn sẵn sàng thực hiện điều này không?
Yêu thương, khó đấy
Thế nhưng ta phải thực hiện yêu thương, sẽ phải luôn luôn thực hiện yêu thương, bởi lẽ không bao giờ một tình yêu muốn được coi là chân thật, bền bỉ và trung tín sẽ chịu dung dưỡng với những dễ dãi và thỏa hiệp.
Từ mấy thập niên qua, người ta dã tốn công nhiều để giải phóng người nam và người nữ khỏi một số những điều cấm kỵ vốn cản trở họ yêu nhau một cách hồn nhiên và được vui sướng. Nhưng giờ đây một trách vụ mới lại được đặt ra. Phải giải phóng tình yêu khỏi tất cả những gì làm thoái hóa, hư hỏng và bóp nghẹt tình yêu, làm cho tình yêu trở thành một thực phẩm không còn mùi vị gì nữa và không còn mời gọi vươn lên nữa.
Chúa Giêsu đã yêu thương đến độ đón nhận thập giá. Chẳng có tình yêu giữa hai vợ chồng khi tình yêu ấy không trải qua con đường này.
Suy Niệm 3: HÃY SỐNG TRONG SẠCH TỪ TƯ TƯỞNG (Mt 5, 27-32)
Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).
Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.
Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Ngoại tình trong lòng
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,
và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.
Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.
Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,
mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,
khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.
Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.
Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,
nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,
nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.
Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.
Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười:
chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).
Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt.
vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.
Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới.
Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.
Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.
Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế.
Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.
Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối.
Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.
Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.
Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.
Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.
Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.
Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,
thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời
còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,
vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.
Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn
mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.
Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế?
Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?
Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?
Cầu nguyện :
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/06 Phải sống công chính hơn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Phải sống công chính hơn.
Thứ Năm tuần 10 thường niên – Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô.
Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sự thánh thiện đích thực
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thái độ nửa vời
“Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)
Làm như mọi người
Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.
Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.
Làm hơn được chăng?
Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.
Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.
Suy Niệm 3: HÃY TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH HƠN (Mt 5, 20-26)
Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC
Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!
Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: "Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời" (Mt 5,20).
Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình... Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Chớ giết người
Suy niệm :
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.
Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa
qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).
Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.
Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.
Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.
Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng
và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,
cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.
Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.
Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,
và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,
thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.
Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.
Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh
mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,
rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật
khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?
Để đến được với người đang xích mích với mình,
cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.
Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,
đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.
Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay
trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,
một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,
những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.
Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.
Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.
“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.
Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,
những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.
Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.
Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?
Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,
trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động .
vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/06 Kiện toàn lề luật
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kiện toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 10 thường niên.
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Suy Niệm 3: GIỮ LUẬT THEO TINH THẦN CỦA CHÚA (Mt 10, 7-13; hoặc Mt 5, 17-19)
Xem lại CN 6 TN A, Thứ Tư tuần 3 MC
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?
Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: "Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Để kiện toàn
Suy niệm :
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/06 Người con có biệt tài khuyên nhủ
- Viết bởi Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
Người con có biệt tài khuyên nhủ.
Thứ Ba tuần 10 thường niên – Thánh Banaba, tông đồ. Lễ nhớ.
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 10, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.
“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người được sai đi
Suy niệm:
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY NIỆM 2: Người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi”.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Barnabas
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu.”
Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà “Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy.” Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.” Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người “đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa.” Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ “tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.”
(Trích trong ‘Gương Thánh Nhân’ – http://nguoitinhuu.com)
SUY NIỆM 4: Gợi ý từ ‘Hạt giống… Nảy mầm’ của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu.
- Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng đại: Hãy cho cách nhưng không, vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó.
- Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.
- Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp dưới ấy công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng trước mặt cả người do thái lẫn người lương tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm gương về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần đụng độ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là để Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng một hướng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng được đẩy mạnh hơn. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa được Marcô, Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trước khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó lời dặn đầu tiên là “Anh em hãy chữa lành” và lời dặn cuối cùng là “Đến đâu anh em hãy mang bình an tới đó”. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai điều này, Thánh Banaba đã thực hiện rõ nhất hai lời căn dặn này của Chúa:
- Ngài đã cứu chữa Phaolô khi đứng ra bảo lãnh Phaolô trước mặt các tông đồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài đã cứu chữa giáo đoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải được mối e ngại của Giêrusalem đối với những hoạt động truyền giáo của giáo đoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi dưỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ đối với giáo đoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo đoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo đoàn mẹ Giêrusalem, đem đồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc lương dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc lương dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi đụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ăn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm.
7. “Đừng sắm vàng bạc hay tiến đồng để giắt lưng. Đi đường đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh đồng Galilê.
Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng, bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì Nước Chúa.
Còn con… Con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc đẹp. Con muốn xỏ đôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền năng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
SUY NIỆM 5: Thánh Barnaba
Dù không phải là một trong số mười hai tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng thánh Barnaba được thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như tông đồ Phaolô, Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân là người gốc Dothái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi.”
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba đã bán tất cả những gì ngài có và đem tiền dâng cho các tông đồ. Thánh nhân là người tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất đặc biệt và ngài muốn thánh nhân có cơ hội để trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị tông đồ đã lên đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Sau đó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là tông đồ của đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã bị ném đá chết vào năm 61.
Thánh Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.
SUY NIỆM 6: Thánh Barnaba
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một người trong nhóm mười hai tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca coi ngài như vị tông đồ, vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản. Danh xưng này có nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.”
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại đạo. Sau đó, Barnaba được sai đi rao giảng ở Antiôkia để rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba đã xin Phaolô đến giúp sức cho mình. Cả hai đã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại nơi đây. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần đã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô để thực hiện một sứ vụ quan trọng, đó là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Do đó, hai ông đã khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên ở nước ngoài, trước hết là đến Síp và sau đó là đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã được Công đồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những người ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tương lai. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnaba đem Máccô đến đảo Síp. Sau này cả ba người là Phaolô, Barnaba và Máccô đã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhưng theo truyền thuyết thì thánh Barnaba đã được phúc tử đạo tại Síp vào năm 61. Đồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại đảo Síp. Bên cạnh đó, người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu gương về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, và là mẫu gương về một đời sống khiêm nhường, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi người chúng ta, để trong đời sống thường ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Pet. Hải Văn SDB
SUY NIỆM 7: Thánh Barnaba
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một người Do Thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem. Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục Thánh Kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài đã chép tay.
(tgpsaison.net)
SUY NIỆM 8: Thánh Barnaba
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng đồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng này, các Tông Đồ đã thống nhất quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở nơi người Do-thái lẫn nơi người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, người em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô đã đến thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo thông qua việc bị ném đá đến chết.
Một số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thư mang tên của Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi được coi như thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu Ước có tính bài Do-thái của mình, nên bức thư này không được công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tương truyền về việc Thánh Bác-na-ba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Theo đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi quyết định đó.
Theo tương truyền, vào năm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, người ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục của Giáo hội Sýp đã thuyết phục được nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp được thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này được cho là có khả năng chữa lành cũng như có khả năng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba đã được tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nước Ý, và tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
10/06 Phúc thay!!!
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Phúc thay!!!.
Thứ Hai tuần 10 thường niên – Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Lễ Nhớ.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
* Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là “Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn. Họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng “toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự công bố ngày 03/03/2018 khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô ấn định, “sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc”.
Lời Chúa: Mt. 5, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tám mối phúc thật
Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phúc thay!
Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt. 5, 1-4)
Những lời đầy hy vọng
Phúc thay, ai có tâm hồn nghèo khó! Phúc thay ai hiền lành! Phúc thay ai sầu khổ! Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính!
Người ta thuộc lòng những lời này. Đó là cốt lõi của Phúc âm. Có lẽ Chúa Giêsu đã không bao giờ nói lời đẹp hơn. Chưa có người nào trước Người đã nói những lời chứa chan hy vọng như thế cho những ai phải sống vất vả, chiến đấu, đau khổ, đi tìm sự thiện.
Quả là những lời đầy hy vọng! Một ngày nào đây tẩt cả những ai khốn khổ hằng tin cậy vào Chúa sẽ được hạnh phúc. Một ngày nào đây công bình sẽ được thực thi. Một ngày nào đây đau khổ sẽ biến mất, tiếng khóc sẽ đổi thành niềm vui cho những kẻ tin. Mọi sự sẽ đẹp, sẽ tốt, sẽ ngon lành. Những ai rồi đây sẽ phải vất vả, chiến đấu và đau khổ mà vẫn phó thác ngả mình vào vòng tay yêu thương của Chúa, sẽ hân hoan sống bên Người.
Những lời để sống ngay bây giờ
Nhưng hạnh phúc, phải chăng chỉ ngày mai mới có? Phải chăng đến tận cùng thời gian lời Chúa hứa cho ta hạnh phúc mới được thực hiện? Mà đã là người, ai lại chẳng ước mong khi chết rồi sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc? Chính ngay bây giờ, hôm nay, ngay lập tức mà chúng ta muốn được hạnh phúc.
Hạnh phúc dù phải vất vả, dù bị người ta hiểu lầm và giễu cợt, dù bị ốm đau, dù cuộc sống vất vưởng, có thể được chăng?
Chúa Giêsu trả lời: được chứ. Ngay bây giờ, chính những ai sống theo tinh thần của tám mối phúc, người ấy sẽ hạnh phúc. Nhưng mai ngày họ sẽ hạnh phúc hơn. Và niềm hy vọng này là nguồn vui cho những kẻ ấy ngay từ hôm nay.
Suy Niệm 3: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC (Mt 5, 1-12)
Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, Thứ Sáu tuần 23 TN, lễ Các Thánh 1/11.
Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc”. Chính vì thế, nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.
Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy, hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?
Hôm nay Đức Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó; hiền lành; chịu đau buồn vì Chúa; khao khát điều công chính và sẵn sàng chấp nhận bị bách hại vì điều công chính đó; hãy thương xót người; có lòng trong sạch; ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước Trời.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta đi trên con đường Chân Phúc đó để được cứu độ, hạnh phúc và bình an. Tuy nhiên, con đường đó chẳng mấy ai đi! Bởi vì nó là con đường “hẹp”, con đường của từ bỏ, của chông gai. Nhưng để đạt được niềm hạnh phúc thực sự, chúng ta không còn con đường nào khác là đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi, bởi lẽ đường rộng và lối thênh thang sẽ dẫn đến đau khổ, bất hạnh và diệt vong.
Lạy Chúa Giêsu, đã biết bao lần chúng con khước từ con đường Chúa vạch ra cho chúng con để được hạnh phúc. Ngược lại, chúng con lại lựa chọn con đường dễ dãi, thênh thang hầu thỏa mã tính xác thịt nơi mình, mà bán rẻ lương tâm, nhân phẩm của chúng con để rồi mất đi hạnh phúc thật.
Xin cho chúng con biết tìm về nguồn cội của hạnh phúc là chính Chúa, biết đi trên con đường “các mối phúc” để dẫn tới hạnh phúc đích thực. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Phúc thay
Suy niệm:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,
đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng phải do công sức của con người.
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
09/06 Hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
- Viết bởi Ga 20,19-23
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
MỤC LỤC
1. Hiệp nhất
2. Chúa Thánh Thần.
4. Thần Khí sự thật và sự thật toàn vẹn
5. Hãy nhận lấy Thánh Thần.
6. Người thổi hơi vào các ông.
7. Ý nghĩa cuộc sống.
8. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
9. Hoa trái Thánh Thần
10. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
11. Lửa Thánh Thần – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
12. Đấng đổi mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
13. Đấng ban Sự Sống – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
14. Suy niệm của ĐGM. Nguyễn Văn Khảm.
15. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
16. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
17. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần
18. Niềm vui bởi Chúa Thánh Thần – Achille Degeest.
19. Ngọn gió
20. Vai trò của Thần Khí – McCarthy
21. Hiện diện
22. Ngôn ngữ tình yêu.
23. Sức mạnh.
24. Ngôn ngữ toàn cầu
25. Chúa Thánh Thần sức mạnh nâng đỡ đức tin
26. Chú giải của Noel Quesson
27. “CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN”
28.THÁNH THẦN và ÁC THẦN
29.Chủ Nhật Lễ Hiện Xuống, Năm ABC
30.QUÀ TẶNG THÁNH THẦN
1. Hiệp nhất
Công đồng Vaticanô II đã trình bày Giáo Hội là như bí tích của sự hiệp nhất. Hay nói cách khác, Giáo Hội chính là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại. Giữa dấu chỉ và thực tại mà nó muốn diễn tả phải có sự tương đồng gần gũi, như nước và ơn thánh tẩy trong bí tích Rửa Tội, như dầu và ơn sức mạnh trong bí tích Thêm Sức. Vì thế, khi nói rằng Giáo Hội là dấu chỉ sự hiệp nhất, thì sự hiệp nhất ấy phải được thể hiện trước hết nơi cộng đoàn Giáo Hội.
Hơn thế nữa, Giáo Hội còn là khí cụ Thiên Chúa dùng để đưa tất cả nhân loại vào trong sự hiệp nhất với Ngài và với nhau. Càng sống trong một thế giới bị xâu xé vì chia rẽ và thù hận, sứ mạng đó càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Vai trò của Giáo Hội như dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất được thể hiện một cách tuyệt vời trong khung cảnh của ngày lễ Hiện Xuống.
Thực vậy, đám đông vây quanh các Tông đồ lúc ấy là những người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Họ cũng có những lai lịch và gốc gác khác nhau. Có người từ Rôma mà đến. Có người là Do Thái đạo gốc. Có người ngoại quốc theo đạo. Có người ở đảo Krephi, có người ở Ả rập… Thế nhưng, tất cả đã cùng hiệp nhất trong một ngôn ngữ, ngôn ngữ của đức tin, ngôn ngữ ấy loan báo những kỳ công của Thiên Chúa. Họ hiệp nhất với nhau trong và nhờ sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Thật khác xa khung cảnh xây tháp Babel thuở nào. Sự hiệp nhất ấy xảy ra ngay trong ngày lễ Hiện Xuống và còn phải được tiếp nối trong suốt chiều dài của lịch sử Giáo Hội.
Thực vậy, ngày hôm nay cũng thế. Chỉ nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể thực hiện được ý nghĩa là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất.
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ một cách cụ thể hơn. Thánh Gioan ghi nhận: Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì sợ người Do Thái. Người Việt Nam chúng ta diễn tả một tuyệt vời là nhà cửa. Đã làm nhà thì phải có cửa. Và hai chữ nhà cửa thường đi đôi với nhau. Cửa để đóng và để mở. Đóng để có được một không gian riêng tư và bảo đảm an ninh. Nhưng cũng phải có lúc mở, để người ở trong có thể đi ra và người ở ngoài có thể bước vào, tạo nên sự hiệp thông và gặp gỡ.
Thế nhưng, cửa nhà các môn đệ thì lại đóng suốt vì các ông sợ. Chúa Giêsu hiện ra và nói với các ông rằng: Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con. Đã sai thì phải đi, mà muốn đi, thì việc đầu tiên là phải mở cửa ra, phải phá đi những gì ngăn cản sự hiệp thông và gặp gỡ.
Hình ảnh ngôi nhà các môn đệ ở chính là hình ảnh của tâm hồn chúng ta và của Giáo Hội. Để trở thành dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất, thì điều kiện tiên quyết là phải mở ra, nhưng chúng ta lại đóng kín. Phải nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng ban nguồn sức sống mới, chúng ta khả dĩ có đủ can đảm mở ra đón nhận Chúa đến với mình và đến với tha nhân, nghĩa là sống đầy đủ ý nghĩa là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất với anh em đồng loại. [Mục Lục]
2. Chúa Thánh Thần
Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.
Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa… nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.
Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.
4. Thần Khí sự thật và sự thật toàn vẹn
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi vẫn thường thắc mắc về ý nghĩa hay nội dung đích thực của ‘sự thật toàn vẹn’. Nhiều bản văn Thánh Kinh Anh ngữ dùng các từ ‘all truth, whole truth, all the truth’ để dịch từ ‘aletheia pase’tiếng Hy Lạp. Đối với tôi, vấn đề chính ở đây là xác định được nội dung của ‘sự thật’ hay ‘chân lý’ mà Đức Giêsu nhiều lần đề cập tới, thậm chí có lúc còn tự đồng hóa mình với aletheia (xem Ga 14:6). Nói như thế vì tôn giáo nào cũng thường cho mình là dạy dỗ sự thật, hoặc mình thủ đắc chân lý duy nhất đúng, và đề ra cả một hệ thống thuyết giáo phức tạp để quảng diễn chân lý hay sự thật đó. Trong lãnh vực này, thiết tưởng đạo Công giáo chúng ta cũng không là ngoại lệ.
Thế nhưng nếu có thứ chân lý của hiểu biết, thì cũng có chân lý hay sự thật của cứu rỗi. Khi tuyên bố với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô rằng: ông đã rao giảng cho họ ‘tất cả ý định của Thiên Chúa’, Phao-lô chỉ đơn thuần khảng định rằng, ông rao truyền cho họ tất cả những hiểu biết cần thiết để tiến tới ơn cứu độ (Cv 20:17-35). Ông cũng nói với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu… mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì!” (1 Cr 13:2). Chính Đức Giêsu đã từng khảng định rằng: có sự thật giải thoát, có chân lý thánh hóa’ (Ga 4:22; 17:17-19). Trong cuộc đối đáp giữa Người với Phi-la-tô, thuật ngữ ‘sự thật’ đã được hai người hiểu rất khác nhau là thế. Rõ ràng ‘chân lý toàn vẹn’ không thể chỉ là hiểu biết, mà phải là ‘sự thật cứu rỗi’.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Có điều gì các môn đệ không chịu nổi hay chậm hiểu? Các lý luận thần học hay các tín lý trong đạo chăng? Đương nhiên là mấy ông môn đệ đó khó có thể hiểu nổi…, nhưng Đức Giêsu đâu có đòi điều này nơi những người bình dân chất phác như các ông. Không, tất cả các ông đều đang đi tìm sự cứu rỗi cho mình và cho toàn dân Ít-ra-en; tuy nhiên cũng như phần đa các người Do Thái khác, các ông cho rằng sự cứu rỗi rõ ràng hệ tại ở việc tuân giữ lề luật. Thực hiện Giao Ước với Gia-vê như thể con đường duy nhất dẫn tới giải thoát, cả về mặt chính trị lẫn thiêng liêng. Vấn đề ở đây là, làm sao các ông chịu hiểu ra rằng, sự cứu rỗi và giải thoát duy nhất phải tới từ Đức Ki-tô, từ cuộc tử nạn của Người, vì qua đó Thiên Chúa mới biểu lộ được trọn vẹn tình yêu và lòng nhân ái của Người?
Rõ ràng, khi giáo huấn các môn đệ bằng các dụ ngôn và lời giảng dạy, Đức Giêsu cố giải thích cho các ông hiểu nội dung cứu rỗi này. Người coi việc thực hiện trước mắt các ông nội dung này, qua việc chính các ông phải là những chứng nhân của cuộc tử nạn và thập giá Người chịu, là điều tối quan trọng. Tiếp theo, trong suốt thời gian sau khi sống lại, Người vẫn không ngừng giải thích cho các ông hiểu sự thật giải thoát này. Tuy nhiên xem ra các ông vẫn chưa thấm; đúng là các ông không có sức chịu nổi, và sẽ chẳng bao giờ chịu nổi, bao lâu còn bị truyền thống xã hội và tôn giáo ngàn năm bao vây. Do đó Đức Giêsu thấy cần phải “sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha… một Đấng Bảo Trợ”. Công việc chính của Đấng này là ‘làm chứng về Thầy’, là làm cho Đức Giêsu được nhận biết, nhất là qua cuộc tử nạn thập giá và phục sinh Người, như dấu chỉ chân thực nhất của mạc khải vĩ đại ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một Người…’ (Ga 3:16). Phải chăng ‘sự thật toàn vẹn – all truth – aletheia pase’ hệ tại chính ở điều này, đó là sự thật của cứu rỗi giải thoát, chứ không chỉ là sự thật của hiểu biết suy tư? Và sự thật này thì chỉ Thần Khí Chúa mới ‘dẫn’ tới được! Phao-lô từng khẳng định với các Ki-tô hữu gốc Do Thái đang sinh sống tại Rô-ma rằng: không có Thần Khí này, họ vẫn chỉ là ‘nô lệ và phải sợ sệt như xưa’, nhưng một khi lãnh nhận Thần Khí “Anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:14-17). Chính vì thế mà Đức Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là ‘Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha’ (Ga 15:26). Và công việc của Thánh Thần không chỉ là dạy dỗ các tín hữu biết mọi lẽ đạo, mà phải là ‘làm chứng về Thầy…’, và ‘cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu’.
Thần học hay giáo lý, chủ yếu vẫn là công việc của trí tuệ và hiểu biết của con người. Điều mà cá nhân tôi và mọi ki-tô hữu thực sự cần là ‘sự thật toàn vẹn’, có sức cứu rỗi và giải thoát. Vì thế sống Thánh Thần liên tục là điều kiện thiết yếu để tôi vun trồng niềm tin yêu vào Thiên Chúa cứu độ trong Đức Ki-tô Giêsu… và biến đời tôi thành nhân chứng sống động của tình yêu nhân hậu đó. Vì từng là một linh mục của thần học và trí tuệ, tôi càng có khuynh hướng coi sự thật chỉ là hiểu biết và lý luận; chính vì thế mà tôi càng cần xác tín về ‘sự thật cứu rỗi’ này và nhận ra sự cần thiết tuyệt đối của nó, nhất là cho chính mình.
Lạy Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa đang hiện diện nơi thẳm sâu cõi lòng con, xin không ngừng dẫn con tới ‘sự thật toàn vẹn’ mà rất nhiều khi con bị trí tuệ làm cho quên lãng. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giữa những thử thách yếu đuối và sa ngã, xin hãy cứ tiếp tục ‘rên siết khôn tả’ trong con (Rm 8:26), cho tới khi con dám chân thành mở miệng thốt lên từ đáy lòng mình: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ Amen. [Mục Lục]
5. Hãy nhận lấy Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: “Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?”. Họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới” (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
“Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
“Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.
6. Người thổi hơi vào các ông.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: “Gió muốn thổi đâu thì thổi… Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu” (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh.
Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần.
Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và lưu lại.
Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện, ăn chay và định hướng cuộc đời.
Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền năng của Thánh Thần (Lc 4,14).
Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân hoan trong Thánh Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).
Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự Ngài là người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần như hơi thở.
Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.
Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái tim bừng cháy.
Xin cho tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng nàn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
7. Ý nghĩa cuộc sống.
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chúng.
Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. [Mục Lục]
8. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giêsu chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” – Ông Phê-rô đáp: “Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần…”. Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cùng nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tại vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ rồi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bỏ dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi người một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
1) Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
2) Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh.
Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen. [Mục Lục]
9. Hoa trái Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Kính Thờ Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Thần, đặc biệt với việc kính nhớ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Thánh Tông Đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, chính thức khai sinh nên Hội Thánh. Thiên Chúa Ngôi Hai đã nhập thể, nhập thế. Chân dung của Người đã được lịch sử ghi nhận, cách riêng bốn Tin Mừng đã góp phần trình bày hình ảnh Chúa Ngôi Hai làm người cách rõ nét. Người ta cũng có thể dùng loại suy để hướng về Thiên Chúa Cha. Vì ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Còn Chúa Thánh Thần là Đấng mà chúng ta chỉ có thể nhận ra qua, hoa trái của Người theo dòng lịch sử và đặc biệt theo dòng lịch sử cứu độ. Chúa Kitô đã từng ví Người như là gió (x.Ga 3,8). Điều này không chỉ nói lên sự tự do của Thánh Thần mà còn giúp ta nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua các kết quả hành động của Người. Qua một vài hoa trái đặc trưng của Thánh Thần, chúng ta cũng có thể biết được cách thế hữu hiệu để trãi lòng mình ra đón nhận tác động của Người.
1. Ơn ngôn ngữ
Ngôn ngữ được biểu hiện dưới nhiều hình thái như chữ viết, ký hiệu… nhưng ở đây chỉ muốn đề cập đến tiếng nói. Tiếng nói là một trong những ưu phẩm của loài người trỗi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Nhờ có tiếng nói mà con người có thể truyền thông cho nhau tâm tư tình cảm và những nghĩ suy của mình. Nhờ có tiếng nói con người có thể hiệp thông với nhau cách đầy đủ và hiệu quả hơn, rộng rãi và sâu đậm hơn.
Đọc Thánh Kinh, nhất là đọc Tân Ước, chúng ta có thể chân nhận một trong những hoa trái của Thánh Thần là ơn ngôn ngữ. Khi Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các Tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, Người đã ban cho các ngài ơn được nói các thứ tiếng khác nhau (x. Cvtđ 2,1-13). Sách Công vụ tông đồ cũng tường thuật nhiểu trường hợp những người lãnh nhận ơn Thánh Thần thì được ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri (x. Cvtđ 10,45-46; 19,6-7). Chúa Giêsu an ủi động viên các tông đồ khi chịu bắt bớ thì Thánh Thần sẽ nói thay cho các ngài (x.Mt 10,20). Được Chúa Thánh Thần tác động chúng ta sẽ biết nói điều phải đạo, nói điều phải nói, nói lời tình yêu.
Các nhà y học cho ta hay một sự thật về những người vừa câm vừa điếc từ thưở mới sinh. Dân gian truyền tụng rằng vì người ta không nói được (bị câm bẩm sinh) nên trời cho luôn bệnh điếc để khỏi phải chịu nghe những lời chướng tai, phật ý. Vì nếu nghe được những lời phật ý, chướng tai mà không có thể nói lại được thì không ai có thể chịu nổi. Trái lại, theo y học thì chính vì bị tật bệnh điếc bẩm sinh nên người ta mới bị câm. Khả năng nói là một khả năng mà người ta học được nhờ bắt chước tha nhân. Không nghe được tiếng nói của tha nhân thì trẻ thơ không thể tập nói được và vì thế mất luôn kỷ năng nói. Như thế một trong những điều kiện tối cần để có thể nói là có khả năng nghe.
Từ dữ kiện ở bình diện thể lý tự nhiên trên đây chúng ta có thể diễn suy lên bình diện siêu nhiên. Để có thể nói lời phải đạo, lời đáng nói, cần nói và nên nói, để có thể nói lời chân lý, lời tình yêu, nghĩa là nói dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì tiên vàn chúng ta cần biết nghe. Dĩ nhiên là phải biết nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy, biết nghe Người phán dạy.
Trong phạm vi gia đình, ta thường nghe nhiều người bố mẹ than thở rằng con cái càng lớn khôn càng khó bảo, nghĩa là càng không biết nghe. Mở rộng ra ngoài xã hội, có chăng tình trạng khi chức càng cao, quyền càng lớn thì ta càng ít biết nghe. Cũng có thể vì điều kiện hoàn cảnh bên ngoài của các tổ chức xã hội, của trách vụ nắm giữ, làm ta xa rời quần chúng, nhưng cũng có thể vì tâm lý chủ quan cho mình luôn luôn đúng, không thể sai lầm, nên chẳng cần nghe, hoặc giả như cần nghe thì chỉ nghe một đôi người thân cận, những người hợp ý mình? Hy vọng rằng tình cảnh này sẽ không có trong đời sống Hội Thánh và giả như có thì mong sao đó chỉ là cá biệt hay đặc thù.
Biết nghe là một trong những cách thế tốt đẹp để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Xin hãy biết nghe bằng đời sống cầu nguyện chuyên chăm, bằng sự chiêm niệm sâu lắng. Xin hãy biết nghe lời chỉ dạy của mẹ Hội Thánh, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Xin hãy biết nghe những nhà lãnh đạo các quốc gia, đặc biệt trong lãnh vực công bình và ích chung. Xin hãy biết nghe, bằng việc tiếp xúc tha nhân, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ, kém phận. Xin hãy biết nghe những người không đồng thuận với chính kiến của ta, biết nghe cả những người trái ý ta…trong sự trân trọng và khiêm nhu chân thành.
Một khi ta biết sẵn sàng lắng nghe, lắng nghe để thuận theo những gì phải đạo, để ngăn ngừa và phòng tránh những gì sai lạc…là lúc ta đang sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần. Và khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ biết cách nói theo hướng dẫn của Đức Chúa Trời Ngôi Ba.
2. Ơn xây dựng sự hiệp nhất:
Ngày lễ Ngũ Tuần, khi hiện xuống trên các Tông đồ, Chúa Thánh Thần một cách nào đó thông ban ơn xây dựng sự hiệp nhất. Nhiều người thuộc nhiều quốc gia, dân tộc và tiếng nói có mặt lúc bấy giờ đã hiểu những lời rao giảng của các Tông đồ (x.Cvtđ 2,13). Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý của sự hiệp nhất. Người làm cho muôn dân nên một trong Đức Kitô.
Nói đến sự hiệp nhất là giả thiết phải nhìn nhận sự khác biệt. Có những sự khác biệt chính đáng vốn là tất yếu khách quan. Đó là sự khác nhau về màu da, chủng tộc hay ngôn ngữ. Đó là sự khác nhau về phận vị, nghề nghiệp do sự phân công, phân nhiệm của xã hội. Đó là sự khác nhau về tư tưởng, chính kiến hay quan niệm sống do bởi hoàn cảnh lịch sử hay nên văn hóa chi phối hoặc do ý thức tự chọn của mỗi người xét như một chủ thể có lý trí và ý chí tự do… Nếu không nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt chính đáng này thì chỉ có sự đơn nhất và đồng nhất trong bạo lực của độc tài, độc đoán, độc quyền. Và sự chia rẽ sẽ xuất hiện vì nhu cầu đấu tranh sinh tồn.
Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi ơn…nhưng tất cả là để phục vụ ích chung (x. 1Cor 12,4-6). Sự hiệp nhất ở đây được thể hiện nơi việc cùng huớng đến một mục đích: ích chung. Văn hào St Exupéry hình như cảm nhận chân lý này khi nói: “yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng”. Cùng với Đức Bênêđictô XVI qua bài diễn văn đọc tại Hội Đồng Lỉên Hiệp Quốc tháng 7/2008 vừa qua, chúng ta có thể nói rằng ích chung của nhân loại xét như là con người đó là nhân quyền. Những quyền lợi căn bản của con người (quyền sống, lao động, học tập, cư trú, đi lại, ngôn luận…) mà Liên Hiệp Quốc tuyên bố cách đây đúng 60 năm chính là một trong những mục đích chính yếu giúp ta hiệp nhất với nhau khi ta nỗ lực dệt xây.
Với những người tin vào Đức Kitô thì một trong những mục đích chính đó là “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (x.Mt 5,48). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Người anh cả Giêsu, chúng ta là anh chị em với nhau cùng một Cha trên trời. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Nên hoàn thiện như Cha trên trời không chỉ dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà phải tiến đến chỗ tích cực là hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn họ làm cho mình, vì đó là tất cả những gì được dạy trong lề luật và lời các ngôn sứ (x.Mt 7,12). Để cụ thể hóa thái độ sống này Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta là “hãy yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta” (x. Ga 13,34).
Cúi xuống phục vụ người mạnh khỏe cũng như người đau yếu, cúi xuống phục vụ người sang giàu cũng như người nghèo hèn, cúi xuống phục vụ người dễ thương cũng như người đáng ghét… là thái độ sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách rất tốt đẹp. Vũng đất càng sâu thì nước các nơi sẽ tuôn đổ về càng nhiều. Càng khiêm nhu, bỏ mình để yêu thương phục vụ vô vị lợi thì càng xây dựng tình đoàn kết hiệp nhất, vì khi ấy Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất đang tràn đầy trong chúng ta.
Mong sao người ta đừng đánh lận con đen giữa ích chung và ích riêng, ích riêng của cá nhân hay phe phái của mình. Mong sao hai từ phục vụ được thể hiện cách đích thực là việc làm của người tôi tớ. Cũng mong sao ngày càng hiếm dần và mất hẳn cái cảnh các “quan đầy tớ đạo đời” vinh thân phì da, miệng lưỡi gang thép, chỉ tay năm ngón…để cho đoàn đoàn lớp lớp ông chủ phải khom lưng chầu chực và cật lực hầu hạ.
Chúa Thánh Thần đã được ban cho nhân loại từ Trái Tim Cực Thánh của Chúa Kitô chịu đâm thâu trên thập giá (x. Ga 19,31-37). Chúa Thánh Thần đã được ban cho Hội Thánh cách đặc biệt ngày Lễ Ngũ Tuần. Mong sao khi “lửa cháy” và “gió lên” thì phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp, nhờ chúng ta biết sẵn sàng đón nhận, nếu không thì hậu quả sẽ là “tro và bụi” thật nguy hiểm và khó lường.
10. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong các Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản thân mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen. [Mục Lục]
11. Lửa Thánh Thần – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt?
2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?
3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó?
12. Đấng đổi mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv 2,1-11)
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
13. Đấng ban Sự Sống – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga 20,19-21)
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
14. Suy niệm của ĐGM. Nguyễn Văn Khảm.
“Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
15. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với con người. Ngài hiện diện cách sống động và xuyên suốt trong cuộc đời mỗi người nhưng nhiều khi danh Ngài không được nhắc đến với đầy đủ ý thức của con người. Qua giáo lý ta biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa. Đôi khi vô tình ta đóng khung Ngài trong 7 ơn mà ta lãnh nhận trong ngày chịu Bí tích Thêm sức. Trong các giờ kinh cũng thế, ta chỉ kêu cầu danh Ngài lúc khởi sự nhưng về sau thì không khi nào nhắc đến danh Ngài nữa. Nếu như ta chỉ nhớ và kêu cầu Chúa Thánh Thần cách vắn tắt ở đầu giờ kinh hay chỉ giới hạn hoạt động của Chúa Thánh Thần trong một vài Bí tích đó là điều vô cùng thiếu sót.
Chúa Thánh Thần đã xuất hiện ngay từ buổi đầu cuộc tạo dựng. Trong suốt lịch sử dân Chúa, Ngài luôn hiện diện, trong cuộc đời Chúa Giêsu Ngài luôn đồng hành, và nhất là trong hội thánh Ngài luôn hoạt động, dạy dỗ, ủi an, đổi mới con người. Bài Tông Đồ Công Vụ trình bày sự kiện Chúa Thánh Thần xuất hiện cách bất ngờ và biến đổi cuộc sống các tông đồ đến tận gốc rễ. Tiếng gió ùa mạnh vào cả căn nhà, những hình lưỡi lửa lần lượt đậu trên đầu các ông, ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Ngày nay mỏ dầu, mỏ than là nhưng nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng gió và lửa là nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ. Gió và lửa là biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, là ơn lành của Chúa Thánh Thần trao ban. Chúa Thánh Thần đến để làm mới lại bộ mặt trái đất. Đổi mới tâm hồn con người để họ rao truyền Nước Thiên Chúa. Hoạt động của Ngài liên lĩ không lúc nào gián đoạn, nghỉ ngơi.
Chúa Thánh Thần đổi mới ý chí các tông đồ.
Từ ngày Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, các tông đồ sống trong sợ hãi. Các ông đã chối thầy và đã trốn chạy. Cửa nhà lúc nào cũng khoá chặt, đóng kín. Chúa Thánh Thần xuất hiện, giờ đây các ông mạnh dạn mở toang cửa phòng, ra đi rao giảng Tin mừng Phục sinh cho hết mọi người. Bị bắt bớ, các ông không sợ. Bị đánh đòn các ông vẫn kiên trung. Sau cùng các ông đã dùng chính máu mình làm chứng cho nhưng lời rao giảng. Chúa Thánh Thần hoạt động thật lạ lùng nơi những con người yếu đuối.
Chúa Thánh Thần đổi mới những toan tính bất chính
Làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông đều ấp ủ cho riêng mình những ước mơ trần tục. Theo Chúa để được chức trọng quyền cao, theo Chúa để được ngồi bên tả, bên hữu. Ai cũng muốn là người lớn nhất, quan trọng nhất. Các ông theo thầy mà không yêu mến thầy, trái lại chỉ yêu chính bản thân mình. Từ khi được ơn Chúa Thánh Thần các ông đã không còn tranh giành hơn kém, cao thấp nữa. Từ nay các &ociocirc;ng hoạt động cho Thiên Chúa và sẵn sàng chết đi vì yêu mến Chúa. Chúa Thánh Thần đã hướng những ước mơ thấp hèn nơi các ông thành những ước mơ cao thượng. Biến đổi những trái tim chai đá thành trái tim bằng thịt. Biến đổi những trái tim chỉ biết yêu mình giờ đây biết yêu rung động yêu thương người khác.
Chúa Thánh Thần biến đổi trí khôn các tông đồ.
Các ông là những người chài lưới, ít học, một chữ cắn đôi cũng không biết. Suốt những năm theo thầy, các ông được dạy nhiều điều nhưng hiểu thì chẳng bao nhiêu. Chúa Thánh Thần hiện đến, trí khôn các ông như bừng tỉnh sau cơn mê kéo dài. Các ông hiểu biết về Chúa, hiểu biết về giáo lý của Chúa và có thể ra đi giảng dạy cho nhiều người thuộc mọi dân tộc khác nhau. Chúa Thánh Thần cho các ông có khả năng nói nhiều tiếng lạ. Các ông say sưa rao giảng đến nỗi nhiều người bảo “họ đầy rượu rồi”. Các ông không say rượu nhưng là đang say Chúa, đang say sưa rao giảng Tin mừng Nước Chúa. Người ta nghĩ các ông điên dại nhưng thực ra các ông đang tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến, Giáo hội được khai sinh từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội đã có một trang sử kéo dài đã 20 thế kỷ rồi. Giáo hội vẫn tiếp tục cần những luồng gió mạnh của Chúa Thánh Thần ùa đến, lùa vào để đổi mới mọi sự. Mỗi dịp mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một dịp khai sinh mới của Giáo hội. Qua làn hơi, Chúa Thánh Thần trao ban sự sống cho chúng ta. Qua hình lưỡi lửa Chúa Thánh Thần tẩy xoá tâm hồn ta khỏi mọi tội lỗi. Đồng thời Ngài ban sức mạnh để ta trở nên những chứng nhân của Chúa đến tận cùng trái đất.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và biến đổi không ngừng bộ mặt trái đất. Như xưa Ngài biến đổi các tông đồ thế nào, thì hôm nay Chúa Thánh Thần tiếp tục làm cho cuộc sống con người thêm mới bằng cách biến đổi cuộc sống từng người.
Các tông đồ từ chỗ không hiểu biết gì, Chúa Thánh Thần cho các Ngài hiểu biết tất cả. Chúa Thánh Thần cùng sẽ mở trí khôn để ta hiểu biết Lời Chúa, nhận biết thánh ý của Thiên Chúa.
Các tông đồ từ chỗ nhát đảm, sợ sệt, suốt ngày cửa đóng then cài. Khi Chúa Thánh Thần xuất hiện các Ngài đã mở tung cửa và đi rao giảng. Chúa Thánh Thần cũng sẽ thôi thúc ta thi hành điều tốt đẹp cho người khác, mạnh dạn làm chứng cho Chúa ở trần gian.
Các tông đồ từ một trái tim chỉ biết sống cho mình, Chúa Thánh Thần cho các tông đồ một trái tim biết sống cho Chúa và cho người khác. Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta luôn biết yêu thương, gắn kết với hết mọi người trong niềm vui, niềm hy vọng và sự cảm thông.
Anh chị em, cho dù ta muốn hay không muốn, tin hay không tin thì Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội và biến đổi từng người. Chớ chi ta biết mở mắt tâm hồn để nhận ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình. Biết mở rộng tâm hồn để sống theo ơn Ngài thôi thúc hầu cuộc sống được Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới trong yêu thương, sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa ở trần gian.
16. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Tạ Duy Tuyền)
Nhìn lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức, nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu giữa lòng Giáo hội. Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng thế gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ chở che Giáo hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời. Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop… Và còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương trình của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giáo hội biến chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa Giêsu Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ rằng Phêrô vụng về năm nào lại có thể mang về cho Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói: “Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín hữu”? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Vì thế, là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con người mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để nguyền rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm tay nhau đi chung một con đường có tên Giêsu. Con đường của Giêsu là con đường âm thầm, mục nát để đem lại sự sống cho đời. Con đường của Giêsu đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương trong lòng Giáo hội.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương”. Amen.
17. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến. (Ca tiếp liên)
Lời cầu nguyện trên đây được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Hồi tưởng lại thời điểm “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xảy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? “Chính lúc tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2, 4). Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới đã bắt đầu như thế. Chính Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho 11 Tông đồ khi yêu cầu các ngài hãy ở lại chung với nhau để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Và các ngài họp nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chờ biến cố Chúa đã hứa (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: “Nơi” mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Những “Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực” (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng “Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến “để ở với Giáo hội luôn mãi” (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: “Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: ” Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo “Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một “tinh thần”, thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!” Amen.
18. Niềm vui bởi Chúa Thánh Thần – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hôm nay chúng ta hãy dừng lại ở câu: “Các môn đệ được đầy tràn vui mừng”. Các ông vui mừng vì giữa lúc hoang mang lại thấy Chúa và việc ấy đã khiến các ông tìm lại niềm cậy trông. Các ông đã đặt niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu. Thập giá đã khiến các ông bàng hoàng kinh khiếp; và nay Chúa Giêsu lại hiện ra sống động. Niềm hy vọng của các ông được bảo toàn và củng cố. Vì thế niềm vui các ông bao la. Dịp này nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu ban là Thánh Thần của vui mừng.
1) Phúc Âm mở đầu bằng một mầu nhiệm vui mừng Chúa Thánh Thần, từ khởi đầu cuộc sống nh&acacirc;n loại của Chúa Giêsu tạo ra hai lần bộc lộ niềm vui: Isave, chị họ Đức Maria, thốt lên tiếng vui mừng vì mẹ Đấng Cứu Thế đến thăm bà; Đức Maria hát lên nỗi vui sướng của mình trong kinh Magnificat. Sau đó không lâu, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một Trẻ Thơ sinh ra, sẽ khiến cho toàn dân hân hoan… Thánh sử Gioan sau lại nói rằng cụ tổ Abraham đã nhảy mừng khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của Thánh Thần. Cụ đã thấy và đã vui mừng (Ga 8, 5-6). Chúng ta có vui mừng niềm vui của kinh Magnificat, vì Chúa Thánh Thần do đức tin vào Đức Kitô nảy sinh trong chúng ta hay không? Ngược lại, chúng ta thử tưởng tượng nỗi buồn và u uất vô cùng, nếu chẳng may thiếu mất lòng tin vào Đức Kitô.
2) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Làm như thế Ngài thực thi một lời hứa Ngài đã báo trước cho các môn đệ sẽ có một lúc các ông sẽ không còn thấy Ngài. Đó là thời thất vọng, khóc lóc và buồn sầu. Nhưng nỗi buồn sẽ mau biến thành niềm vui: Ta sẽ gặp lại các con, tâm hồn chúng con sẽ vui mừng, vì niềm vui các con lúc ấy không ai có thể lấy đi được (Ga 16,22). Có phải giới hạn ý nghĩa lời nói ấy của Chúa Giêsu vào giai đoạn gặp gỡ trong những lần hiện ra hay không? Không, Chúa nghĩ đến sự hiện diện liên tục của Ngài trong Giáo Hội nhờ tác động của Thánh Thần. Thời của Giáo Hội là thời của niềm vui mặc dù cũng là thời tiếp tục Thánh Giá. Chúng ta có vui mừng vì nghĩ rằng nhờ Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta hay không?
3) Thánh Phaolô nói về niềm vui từ Chúa Thánh Thần đến (1Tx 1,6). Niềm vui ấy là niềm vui của cậy trông và bác ái. Có thể trong cuộc sống riêng của chúng ta và trong cuộc sống với người khác, chúng ta mắc ảo tưởng, ít nhiều chán nản, thoái chí. Chúng ta cần sống trong Thánh Thần bác ái. Biết rằng mình được yêu mến, chúng ta hãy vui mừng. Quả thực tình yêu Thiên Chúa không bao giờ thất vọng vì chúng ta. Về phía chúng ta, đừng bao giờ nản chí yêu thương anh em chúng ta. Niềm cậy trông hoà hợp với đức bác ái trong lòng chúng ta khởi đầu một con sông hân hoan do Chúa Thánh Thần khơi nguồn. [Mục Lục]
19. Ngọn gió
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.
20. Vai trò của Thần Khí – McCarthy
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ
Chúng ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.
Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.
Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.
Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng góp của mặt trăng.
Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.
Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.
Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.
“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).
Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi mạnh vào sau lưng.
Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.
21. Hiện diện
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn thánh cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh Thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh Thần đã làm cho họ mạnh bạo, can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo… và hôm nay cả tỷ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành… và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v.v…
Ngoài ra, ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi ích cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và cho người khác. Chẳng hạn: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gửi gắm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắn sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú. [Mục Lục]
22. Ngôn ngữ tình yêu.
Tôi xin bắt đầu phần chia sẻ sáng hôm nay bằng câu chuyện về ngọn tháp Babel trong Cựu ước.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau:
– Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Đây chỉ là một hình ảnh tượng trưng nói lên tính kiêu căng và tình trạng chia rẽ của con người.
Thế nhưng, nhìn vào ngày lễ hôm nay, chúng ta thấy khác hẳn. Thực vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh.
Sách Tông đồ Công vụ kể lại:
Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình.
Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau:
– Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa.
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo kể từ thời ngọn tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Sở dĩ như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ, tôi nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần đã dùng để liên kết và tạo lấy sự cảm thông chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu.
Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài, hay nói đúng hơn, thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, xích lại gần nhau và cảm thông với nhau, để rồi hận thù sẽ bùng nổ.
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế, để mọi người có thể sử dụng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ và thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Sở dĩ như vậy vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tôi nghĩ rằng tình yêu chân chính, được coi như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, sẽ là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Nó không phải chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng, mà còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống ngập tràn tình bác ái của mình.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, hay một việc làm giúp đỡ. Thứ ngôn ngữ tình yêu này không phải chỉ giúp chúng ta hiểu được nhau, mà hơn thế nữa, còn giúp chúng ta hiểu được chính Thiên Chúa và tiến đến với Ngài. Vì Thiên Chúa là gì, nếu không phải là tình yêu như thánh Gioan đã định nghĩa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, của đấm đá. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, của nghi kị.
Nhưng hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, là thứ ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và là thứ ngôn ngữ bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa.
23. Sức mạnh.
Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi: “Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế, hay là có chuyện gì trục trặc?”. Các sứ giả đồng thanh đáp: “Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau… không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa”.
Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo hội, khi thấy có một số đông Kitô hữu tại nhiều nước Au Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Kitô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn? Phong trào “thời mới”, một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Au Châu xác tín rằng: kỷ nguyên Kitô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đã chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.
Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phải được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho họ. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục sinh.
Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng “khép kín” vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và “mở cửa” lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa… Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cách long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để họ trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những người chung quanh.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau… Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng: vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi…
Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng: Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.
24. Ngôn ngữ toàn cầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Câu chuyện Tháp Babel
Sách Sáng Thế 11,1-9 kể câu chuyện về Tháp Babel.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.
2. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất.
Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hội trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bài đọc 1, sách Công vụ kể: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa?
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau. Khi đó hận thù sẽ bùng nổ.
Chương 17, Tin mừng Gioan là lời cầu nguyện đẹp nhất trong toàn bộ Kinh thánh mà Phụng vụ Lời Chúa đọc trong tuần lễ này, trong đó Chúa Giêsu với tư cách là Thượng tế, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đã dâng Chúa Cha lời khấn nguyện. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cầu nguyện cho những ai tin vào Ngài được hiệp nhất trong yêu thương. Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người vào nguy cơ ỷ lại chính mình, kiêu căng tự mãn. Chúa Giêsu cũng không cầu xin cho họ có quyền lực vì quyền lực dễ đưa con người vào hố sâu tham vọng, tham vọng thống trị, tham vọng giàu sang và nhiều tham vọng khác. Khi cầu nguyện cho Giáo hội, Chúa Giêsu không xin cho Giáo hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật, gìn giữ Giáo hội trong tình thương, hiệp nhất Giáo hội trong Chân Lý và thánh hiến Giáo hội trong Sự Thật.
3. Ngôn ngữ tình yêu
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế. Ông ước mong mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Không đạt kết quả vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tình yêu chân chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Tình yêu không chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng. Tình yêu còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống đong đầy tình bác ái huynh đệ.
Một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một việc làm giúp đỡ, ngôn ngữ tình yêu dễ hiểu dễ gần nhau. Ngôn ngữ này giúp con người hiểu được nhau và hiểu được chính Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên ai yêu thương thì gặp được Thiên Chúa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa. Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Máy vi tính là phát minh hiện đại của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam… cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai cũng có, ai cũng biết. Đó là ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngữ tình yêu phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhạy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ tình yêu, mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái, con người với nhau trong đời sống.
Ngôn ngữ tình yêu không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập… cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Ngôn ngữ tình yêu từ bẩm sinh đã nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Ai ai cũng có chương trình ngôn ngữ đó và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Cần phải điều chỉnh lại cách sử dụng sao cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này sai lỗi là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ tình yêu. Khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình hoặc là muốn sử dụng sai của riêng mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, không hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm đó là do thiếu tình liên đới với nhau, do chỉ chú ý tìm quyền lợi riêng tư cho mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các thánh Tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho cả nhân loại. Ngôn ngữ tình yêu do Chúa Thánh Thần mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được Tin mừng ơn cứu độ của Chúa Giêsu và đến với nhau rồi cùng nhau tìm về với Thiên Chúa. Ngôn ngữ Thánh Thần kiến tạo một gia đình, mọi người là anh em con một Cha trên trời.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.
Kinh Thánh đã được dịch ra hơn hai ngàn ngôn ngữ. Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con luôn nói với nhau bằng ngôn ngữ của Ngài, ngôn ngữ yêu thương và hiệp nhất. Amen.
25.Chúa Thánh Thần sức mạnh nâng đỡ đức tin
Nếu sự kiện Chúa lên trời kết thúc Phúc âm theo thánh Luca, thì chính sự kiện này lại mở đầu sách Công vụ Tông đồ. Không phải ngẫu nhiên ma Luca làm thế. Trong Phúc âm của mình, Luca hé mở một phần suy nghĩ khi ghi lại câu nói của Chúa Giêsu ngay trước lúc Người lên trời: “Thầy sẽ gởi cho các con điều mà Cha Thầy đã hứa” (Lc 24, 49). Và trong Công vụ Tông đồ, điều mà Chúa Cha đã hứa trở nên hiệu lực: Chúa Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới. Như vậy điều quan trọng đối với thánh Luca, có lẽ không phải kết thúc hay mở đầu một quyển sách. Trên hết, ngài muốn nói với chúng ta rằng: Chúa lên trời kết thúc một giai đoạn lịch sử mà trong đó lời hứa cứu độ đã được thực hiện và mở ra một giai đoạn lịch sử mới, bao gồm các hoạt động của Chúa Thánh Thần. Một trong các hoạt động đó là nâng đỡ đức tin chúng ta.
1) Người nâng đỡ đức tin trong chính ý thức truyền giáo nơi mỗi người
Điều này rõ ràng qua thái độ của các tông đồ. Thánh Gioan kể lại: một buổi chiều Chúa nhật, các tông đồ tụ họp và “đóng kín” cửa lại. Ở đây hai từ “đóng kín” cần được nhấn mạnh. Vì các ngài không “đóng kín” để tránh sự ồn ào, không “đóng kín” để tạm quên đi những lo toan đời thường, không “đóng kín” vì gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Và bởi “sợ”, nên dù “đóng kín”, các thánh tông đồ vẫn ở trong tâm trạng rối bời.
Nhưng khi Chúa Thánh Thần ngự đến, tâm trạng rối bời này bị phá vỡ. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các tông đồ, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãnh ấy.
Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các thánh tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh… Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, dắt một cụ già qua đường, chào hỏi những người ta quen biết…
Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.
2. Chúa Thánh Thần nâng đỡ đức tin trong những hoàn cảnh khó khăn của đời sống
Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, nỗi bất hạnh? Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc… Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau… Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?
Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ cũng từng được tôi luyện như thế. Đức Giêsu, người mà Phêrô đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như “Đấng có uy quyền” trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Trong hoàn cảnh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụi dần.
Khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin các tông đồ trở nên mạnh mẽ. Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.
Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn ở với ta. Tôi có kinh nghiệm thế này: trong những hoàn cảnh xem ra bi đát nhất, tôi lại được ơn nâng đỡ nhiều nhất. Khi biến cố ấy qua rồi, tôi thường nhìn lại, và rất nhiều lần phải tự thốt lên: ôi tình yêu nhiệm mầu!
Tôi đồng cảm rất sâu với tư tưởng của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong bản góp ý cho tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu. Tư tưởng đó là: “Hội Thánh tại Á châu phải trở nên một Giáo Hội không quyền lực”. Nhìn vào Hội Thánh Việt nam, tôi thấy rất đúng! Nhưng cũng rất lạ lùng, vì một Hội Thánh như thế lại có sức sống căng tràn và đức tin vững vàng.
Cũng thế, chính tôi tận mắt hoặc nghe kể lại những cảnh đời rất bế tắc, nhưng niềm tin yêu lại sáng ngời. Có ai đã từng chứng kiến cảnh một cô gái trẻ bị bệnh ung thư sắp chết, an ủi người mẹ đang nứt nỡ chưa? Đó là một giáo lý viên. Thấy tôi đến thăm, cô nhờ tôi nói chuyện với mẹ cô để xoa dịu nỗi đau của bà. Cô hứa, trước tòa Chúa, cô sẽ cầu nguyện cho gia đình cô, cho cha sở, cho tôi và cho lớp giáo lý mà cô đang phụ trách. Trong tình cảnh đó, tôi chỉ còn biết im lặng đón nhận bài học về đức tin mà cô vừa giúp tôi nhận ra.
Bởi đâu một Giáo Hội còn trẻ trung, còn thiếu thốn nhiều mặt như Giáo Hội tại Việt Nam lại căng tràn sức sống? Bởi đâu nơi một cô gái yếu mềm lại ẩn chứa một đức tin can đảm đến thế? Chính Chúa Thánh Thần tạo nên tất cả. Đấng “Phù Trợ” mà Chúa Giêsu ban đang âm thầm nâng đỡ đức tin của Hội Thánh, của mỗi người. Chỉ cần biết mở lòng ra, chỉ cần khiêm tốn một tí, và đừng ở lỳ trong sự cứng cỏi, chúng ta sẽ khám phá ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần đang tác động nơi niềm tin của mình. Đành rằng ai cũng sợ đối đầu với đau khổ, nhưng đau khổ lại là phương thế rèn luyện đức tin. Tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ không để chúng ta chiến đấu một mình, Người nâng đỡ như đã từng nâng đỡ các thánh tông đồ khi xưa.
Lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: “Bình an cho anh em”. Xin Ngài ban ơn bình an đó cho chúng ta, vì ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo. Ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin chúng ta.
26.Chú giải của Noel Quesson
Chiều ngày thứ nhất trong tuần…
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người” trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ “đất sét” hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến ngày thứ nhất trong tuần khác…. từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần… sống nhịp theo những lần “hiện đến” của Đức Giêsu. Chúng ta không thích “nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật” một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! “Cần phải thở hít mà”? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó “gây khiếp sợ”.
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi “xảy ra biến cố Phục sinh”, là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi” mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ “đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: “Sự chết hoạt động nơi chúng tôi… Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới… Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là “Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống”. Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì “tinh thần” và “thân xác” liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người” cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến “đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người trở thành một “thân thể thiêng liêng”, một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa” (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị “nhốt kín”, giờ lại được “sai đi”.
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ “xí nghiệp” quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai” Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha”. Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: “Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí” (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: “Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hiện hành: đó là “Hơi thở” của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời nay không thích “nhận”: người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình “như thần thánh”. Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
“Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy”. Cần phải “nhận “lãnh” “Thân Thể”. Nên cũng cần phải “nhận lãnh” Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
– Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
– Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: “Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có “lãnh nhận” ơn tha thứ đó không? [Mục Lục]
27. “CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN”
Suy niệm của ĐGM. Nguyễn Văn Khảm
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
28.THÁNH THẦN và ÁC THẦN
Ga 20,19-23
Qua các phương tiện truyền thông như báo chí, Radio và truyền hình, chúng ta thấy thế giới nhân loại ngày nay không có một ngày nào hoàn toàn được an bình, không có một ngày nào mà không xảy ra những bạo hành và tội ác. Chưa lâu, bộ Nội Vụ CHLB Ðức đã công bố một danh sách dài của các tội phạm trong năm : trên 5 triệu hành vi phạm pháp đủ các loại đã được ghi nhận. Nghĩa là khoảng 7 giây đồng hồ lại xảy ra một tội phạm. Nếu tại một nước văn minh, giàu có và tiến bộ vào bậc nhất thế giới như CHLB Ðức mà còn xảy bao điều tiêu cực như vậy, thử hỏi tại các nước nghèo nàn lạc hậu mỗi ngày còn xảy ra biết bao tội ác, bao điều tồi tệ nữa !
Bởi vậy, nhiều người đâm ra hoài nghi tự hỏi : Phải chăng ác thần đã xâm nhập vào đời sống xã hội hôm nay của chúng ta ? Ðúng vậy, và chúng ta đang cố sức tìm kiếm các phương tiện và đường hướng để chống trả lại ác thần đó. Ðồng thời chúng ta cũng tìm kiếm sự quân bình, các đường hướng và sức mạnh của sự cứu rỗi và của sự hoàn thiện.
Trong khi đi tìm kiếm phương tiện và sức mạnh để chống trả ác thần như thế, chúng ta mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và được nghe nói đến một Thần Khí khác : Thánh Thần. Hoa trái của Thánh Thần đã được thánh Phaolô trình bày trong Thư gửi các tín hữu Ga-lát, là : «Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ » (5,22-23), nghĩa là tất cả những điều tích cực và thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta cũng như cho thế giới. Ở đâu có Thần Khí đó ngự trị, thì ở đó bộ mặt trái đất được đổi mới. Về Thần Khí của lòng nhân hậu và của sự cứu rỗi, Phúc Âm thánh Lu-ca đã viết : « Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người » (11,13). Tuy nhiên, Thánh Thần, Ðấng làm cho bộ mặt méo mó của trái đất trở thành xinh đẹp, sẽ không do con người tạo ra được. Tự khả năng nhân loại của mình, chúng ta không thể dàn xếp hay đặt kế hoạch trước về Người được. Ðiều chúng ta có thể làm và cần phải làm, là : Chúng ta hãy luôn thành khẩn cầu xin và hãy mở rộng tâm hồn mình đón nhận ân huệ đó của Thiên Chúa, vì nhận biết mình yếu hèn, giới hạn và bất toàn.
Ðồng thời chúng ta hãy để cho Thánh Thần Thiên Chúa dìu dắt hướng dẫn cuộc sống cũng như mọi hành động của mình, chứ không phải các tham vọng và ước muốn trần thế. Thánh Phaolô sau khi nêu lên những hoa trái của Thánh Thần, đã không quên nhắc lại điều kiện của những ai bước theo Thánh Thần : « Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê » (Gl 5,24). Cuộc sống theo Thánh Thần Thiên Chúa là một cuộc sống thanh thản và đầy an vui thánh thiện, tức : bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, …Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc sống dễ dãi, theo kiểu được sao hay chớ.
Những ai biết sống và hành động theo Thần Khí, những người đó sẽ được Chúa Cứu Thế chúc phúc. Những vị thánh nhân, như Ê-li-sa-bét Thü-ring-gen, Phan-xi-cô Át-xi-xi, Mác-xi-mi-li-ê Khôn-bê, Vin-xen-tê đệ Phaolô, v.v…là những người đã hoàn toàn trao phó đời mình cho Thần Khí hướng dẫn và dìu dắt ! Ngày nay vẫn còn tiếp tục có những thánh nhân biết sống theo Thánh Thần của Ðức Giêsu chăng ?
Trong số các thánh nhân đó, chúng ta có thể kể tên, như : Ðức Gioan XXIII, Ðức Gioan Phaolô II, hay như Mẹ Tê-rê-xa, vị Tông đồ của người nghèo ở Culcutta/Ấn Ðộ, hay rất có thể như Martin Luther King, người tranh đấu cho sự tự do và hoà bình giữa mọi người. Chính ông là người đã phát biểu những lời thời danh như sau : « Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, các con cái của những kẻ nô lệ và các con cái của những người chủ nô lệ xưa kia sẽ cùng nhau thân hữu ngồi vào một bàn ăn … Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, bốn đứa con của tôi đây sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng không bị đánh giá theo màu da, nhưng theo tư cách sống của chúng… » (Reden, die die Welt bewegten, nhà xuất bản Emil Vollmer, trang 590).
Nếu chúng ta để cho hai tiếng „tự do” của mỗi thành phố, của mỗi thôn xóm, của mỗi nhà nước, của mỗi thủ phủ mỗi miền vang dội lên, thì chúng ta đã thực sự làm cho xuất hiện được cái ngày tất cả mọi con cái Thiên Chúa, dù là da đen hay da trắng, dù Do-thái, Tin Lành, Công Giáo hay ngoại đạo, đều bắt tay nhau và cùng ca hát những lời của vị linh hướng người da đen già: „Thế là được tự do, lạy Thiên Chúa thượng trí toàn năng, thế là chúng con được tự do!” (Srephen B. Oates, Matin Luther King, 1982, tr. 3169).
Vâng, ở đâu sự tự do được thể hiện trong đoàn kết và sự đoàn kết được thể hiện trong tự do, ở đó có Thần Khí của Ðức Giêsu, tức Chúa Thánh Thần, ngự trị. Thánh Phaolô cũng đã viết: „Ở đâu có Thần Khí, ở đó có sự tự do” và „chúng ta đã nhờ Thần Khí mà trở nên một”.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có nghĩa là để cho Chúa Thánh Thần trở nên sức mạnh nội tâm của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do và sự đoàn kết, đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng cộng tác vào việc kiến tạo sự tự do và sự đoàn kết theo khả năng của chúng ta, hầu để cho: Một sự tự do không bị giới hạn và một sự đoàn kết không trùng nghĩa với một sự đồng điệu nhàm chán. (Trong thực tế, điều đó đối với Giáo Xứ của chúng ta ở.. . có nghĩa là là.. .) Con người ở trong Giáo Hội cũng như trong xã hội cần đến cả hai. Chúa Thánh Thần tác động và muốn cho cả hai cùng được hiện thực trong xã hội loài người chúng ta.
LM Nguyễn Hữu Thy
29.Chủ Nhật Lễ Hiện Xuống, Năm ABC
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Bài đọc: Acts 2:1-11; I Cor 12:3-7, 12-13; Jn 20:19-23.
1/ Bài đọc I: 1 Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.
3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.
4 Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.
5 Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về.
6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.
7 Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư?
8 Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?
9 Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây;
11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!”
2/ Bài đọc II: 3 Vì thế, tôi nói cho anh em biết: chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giê-su là đồ khốn kiếp!” cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giê-su là Chúa”, nếu người ấy không ở trong Thần Khí. 4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.
6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.
7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy.
13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
3/ Phúc Âm: Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các hoạt động của Thánh Thần.
Thánh Thần là Thiên Chúa bị bỏ quên. Để trắc nghiệm, chúng ta thử coi mình có nói về Thánh Thần được hơn 5 phút không! Thời đại của chúng ta, thời đại từ khi Chúa Giêsu về trời cho đến Ngày Tận Thế là thời đại của Thánh Thần; thế mà chúng ta lại biết rất ít về Ngài. May mắn cho chúng ta, Giáo Hội dùng ngày hôm nay để giúp chúng ta ôn lại giáo lý về Chúa Thánh Thần.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của Ngôi Ba Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật Thánh Thần hiện xuống và đậu lại trên mỗi Tông-đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đề cập đến những công việc của Thánh Thần làm nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo Hội. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, và một tình yêu; vì tất cả đều hoạt động trong cùng một Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc sở hữu bình an và quyền tha thứ cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.
1.1/ Lễ (Ngũ) Tuần: Việt-nam dịch không đúng, lẽ ra phải dịch Lễ Các Tuần hay Lễ Năm Mươi Ngày (Pentecost, 50 ngày, hay 7 tuần). Lễ Các Tuần là một trong 3 lễ trọng thể của người Do-thái, mà tất cả các người nam của họ, sống trong vòng 20 dặm của Jerusalem, phải về Jerusalem để dự lễ. Hai lễ trọng kia là Lễ Vượt Qua và Lễ Lều. Lễ Các Tuần xảy ra đúng 50 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua thường xảy ra vào trung tuần tháng Nissan (tháng tư); vì thế, Lễ Các Tuần rơi vào đầu tháng 6. Tháng 6 là tháng du hành vì thời tiết đã tốt đẹp hơn và thuận tiện cho việc đi lại. Đó là lý do tại sao trong trình thuật hôm nay có bao nhiêu sắc dân, những người theo Đạo Do-thái lên Jerusalem để mừng lễ. Lễ Các Tuần kỷ niệm hai biến cố quan trọng:
(1) Lịch sử: Mừng kỷ niệm Thiên Chúa ban Thập Giới cho Moses trên núi Sinai;
(2): Nông nghiệp: Hai ổ bánh làm bằng bột lúa miến được dâng lên Thiên Chúa để cám ơn Ngài đã cho gặt hái được mùa màng. Trong 3 ngày Lễ Trọng, mọi người phải tuân giữ luật ngày Sabbath.
1.2/ Những gì đã xảy ra trong ngày Lễ Các Tuần:
(1) Tiếng gió mạnh: “Khi đến ngày lễ Các Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.”
+ Từ ngữ: Trong tiếng Do-thái cũng như Hy-lạp, họ chỉ có một danh từ dùng cho cả Thánh Thần lẫn gió: ruah trong tiếng Do-thái, và pneuma trong tiếng Hy-lạp. Vì thế, Thánh Thần được đồng nhất với gió.
+ Thánh Thần là gió, Ngài ban cho con người hơi thở và sự sống: Trong Sách Sáng Thế, khi vũ trụ còn hỗn mang, Thánh Thần của Thiên Chúa bay là là trên mặt nước (Gen 1:2). Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa thổi hơi vào trong lỗ mũi của con người và họ được sống (Gen 2:7), khi Chúa rút hơi thở ra, con người trở về cát bụi (Psa 104:29). Trong cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và Nicodemus, Chúa Giêsu ví hoạt động của Thánh Thần trong con người như gió: “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thánh Thần sinh ra thì cũng vậy” (Jn 3:7-8).
+ Công dụng của gió: Gió có thể cuốn đi tất cả các rác rưởi và làm cho nơi đó được sạch. Chúng ta cứ nhìn những trận gió bão, sẽ biết sức mạnh của gió: Nó cuốn hết những gì trước mặt và hoàn toàn làm đổi mới nơi nào gió đi qua. Tương tự như thế cho hoạt động của Thánh Thần trong con người: Ngài có thể quét sạch những tật xấu trong con người, nếu chúng ta để cho Ngài hoạt động. Gió cũng có thể làm cho con người cảm thấy mát mẻ, dễ chịu, như cơn gió mùa hè, mùa Xuân. Thánh Thần cũng đem lại sự tươi trẻ cho tâm hồn con người.
(2) Hình lưỡi lửa: “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.” Sách Khải Huyền đồng hóa Thánh Thần với lửa (Rev 4:5). Matthew nói tới việc chịu Phép Rửa bởi Thánh Thần và lửa (Mt 3:11, Lk 3:16). Các công dụng của lửa:
+ Lửa dùng cho sự thanh luyện, như lửa dùng để luyện kim như thử vàng (I Pet 1:7). Thánh Thần cũng thanh luyện mọi bất toàn trong con người, và thánh hóa bằng cách làm cho con người trở nên hoàn thiện hơn (I Cor 3:12-15).
+ Lửa cũng dùng để nấu nướng, sưởi ấm, hay kích thích lòng người (Lk 12:49). Ca Tiếp Liên cho chúng ta thấy Thánh Thần có thể sưởi ấm chỗ lạnh lùng trong tâm hồn con người bằng cách ban tình yêu. Thánh Thần giúp tín hữu có lòng nhiệt thành để hăng say rao giảng và làm chứng cho Chúa.
+ Cột Lửa cũng dùng để soi sáng cho dân Israel biết đường đi (Exo 13:21). Thánh Thần soi sáng cho con người nhận ra sự thật, đường đi, và xua tan bóng đêm tội lỗi.
+ Lửa cũng dùng để thiêu rụi và tiêu diệt (Gen 19:24, Rev 8:7). Thị kiến của Moses về lửa cháy mà bụi gai không bị thiêu rụi (Exo 3:2) là hình ảnh của Thánh Thần tạo Ngôi Lời trong lòng Mẹ Maria mà Mẹ vẫn trinh khiết vẹn tuyền (Lk 1:35).
(3) Nói tiếng lạ: “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Lúc đó, tại Jerusalem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Galilee cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
+ Trong tiếng Hy-lạp, danh từ dùng để chỉ cái lưỡi (gnôssa) cũng được dùng để chỉ các ngôn ngữ khác nhau, nhưng chỉ dùng ở số nhiều (gnôssai). Khi dùng danh từ ở số nhiều, nó cũng có ý nghĩa là nói tiếng lạ.
+ Phaolô dành cả một chương 14 để bàn về việc nói tiếng lạ trong Thư I Corintô: Nói tiếng lạ là tiếng con người nói với Chúa khi con người trong trạng thái xuất thần. Để người khác có thể hiểu, cần có người thông dịch; ví dụ, để hiểu một người ngoại quốc nói, chúng ta cần có người thông dịch. Nếu không có người thông dịch, nói tiếng lạ cũng như không. Phaolô cho ơn gọi ngôn sứ cao hơn ơn gọi nói tiếng lạ, vì nó xây dựng Giáo Hội; trong khi người nói tiếng lạ chỉ xây dựng cho chính mình.
+ Biến cố Tháp Babel: là hậu trường để hiểu biến cố hôm nay. Trong biến cố Tháp Babel, Thiên Chúa phân tán con người đi khắp nơi bằng cách cho họ không hiểu ngôn ngữ của nhau. Trong biến cố hôm nay, Thánh Thần qui tụ con người lại bằng cách cho họ hiểu ngôn ngữ của các Tông-đồ đang nói.
+ Nói ngoại ngữ hay nói ngôn ngữ của trái tim? Nhiều tác giả cho các Tông-đồ không thực sự nói tiếng lạ, nhưng nói ngôn ngữ của trái tim. Điều này chỉ là suy đoán theo kiểu của mình rồi áp dụng cho Thiên Chúa. Họ quên đi quyền năng của Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể bắt họ nói các thứ tiếng khác nhau để phân tán họ đi, Ngài cũng có thể cho họ nói cùng một ngôn ngữ để hiệp nhất trở lại. Hơn nữa, nói bằng ngôn ngữ của trái tim, làm sao những người ngoại cuộc có thể hiểu được? Biến cố nói tiếng lạ hôm nay là do quyền lực của Thánh Thần. Ngài “phiên dịch” lời các ông nói trong trí óc khán giả, để chỉ một ngôn ngữ các ông nói ra bằng tiếng Aramaic, mọi người đều hiểu theo ngôn ngữ của họ. Họ nói: “chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa.”
2/ Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần.
2.1/ Công việc của Thánh Thần:
– Hướng dẫn nhận ra sự thật và tất cả mọi sự thật, vì Ngài là Thần Chân Lý. Sự thật trên hết mọi sự thật là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô quả quyết: “Chẳng có ai ở trong Thánh Thần của Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!” cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa,” nếu người ấy không ở trong Thánh Thần.”
– Thánh Thần ban cho mỗi tín hữu các đặc sủng khác nhau; nhưng tất cả các đặc sủng Thánh Thần ban là cho việc xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô là Giáo Hội: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” Đặc sủng cao trọng hơn cả mà mọi người cần có là tình yêu Thiên Chúa (I Cor 13).
– Thánh thần hiệp nhất và liên kết tất cả trong cùng một Phép Rửa, một đức tin, và một tình yêu: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất.”
2.2/ Làm sao để nhận ra Thánh Thần từ những thần khí sai lạc của thế gian? Thánh Gioan khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (I Jn 4:1).
– Thánh Thần và công việc của Ngài được Chúa Giêsu hứa trước, chứ không đột xuất và liên quan tới bất cứ điều gì như nhiều người lầm tưởng. Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:13-14). Vì thế, Lời Chúa là thước đo những gì Thánh Thần hướng dẫn.
– Một cách nhận ra công việc của Thánh Thần là xét xem kết quả có đem lại sự thật, yêu thương, và hiệp nhất; hay đưa đến sai lạc, ghen tị, và chia rẽ. Quà tặng khác nhau không tự nhiên mang lại hiệp nhất, nhưng có thể mang lại giận hờn, ghen tị, và chia rẽ trong cộng đoàn.
3/ Phúc Âm: Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
3.1/ Thánh Thần và bình an: Thánh Thần làm cho các môn đệ nhận ra tất cả sự thật liên quan tới Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Các Tông-đồ phải nhận ra tất cả sự thật này trước khi các ông có bình an. Đây mới là sự bình an thật sự, và không một quyền lực nào có thể lấy đi được, vì nó đến từ sự xác tín của niềm tin trong tâm hồn con người.
Trình thuật kể các Tông-đồ sợ sệt phải đóng kín cửa vì sợ người Do-thái; nhưng một khi các ông đã nhìn thấy Chúa toàn thắng tử thần và phục sinh vinh hiển, và được Thánh Thần giúp nhớ lại và hiểu biết những gì Chúa Giêsu đã nói trước, các ông mở tung cửa ra đi loan báo Tin Mừng, và can đảm đối chất với những người Do-thái trong Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần nhìn đời sống các Tông-đồ trước và sau biến cố Phục Sinh, chúng ta nhận ra sức mạnh của Thánh Thần hoạt động nới các Tông-đồ.
3.2/ Thánh Thần và tha thứ: Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Một sự nhìn lại 4 phần chính của Bí-tích Giải Tội cho chúng ta thấy vai trò của Thánh Thần trong việc tha thứ các tội của con người:
(1) Xét mình: Thánh Thần giúp cho con người nhận ra sự thật: những gì họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Nếu không ngang qua bước đầu quan trọng này, con người không thể ăn năn, xám hối: không nhận ra tội của mình, sẽ không cần thú tội. Thánh Phêrô trong Bài Giảng đầu tiên của Ngài cho người Do-thái tại Jerusalem là một ví dụ cho điều này (Acts 2:36-38).
(2) Ăn năn và dốc lòng chừa: Thánh Thần giúp hối nhân tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa: tội của họ có thể được tha thứ nếu họ thành tâm thống hối và thú tội với các Tông-đồ và linh mục, những người đại diện của Thiên Chúa.
(3) Xưng tội: Thánh Thần giúp hối nhân can đảm đến thú tội nơi tòa cáo giải. Trong Lời Xá Giải của linh mục đọc để tha tội, chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Thánh Thần trong Bí-tích Xá Giải: “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng đã hòa giải với thế gian qua cái chết và sự sống lại của Con Một Ngài, lại ban Thánh Thần để tha tội. Nhờ tác vụ của Giáo Hội, xin Chúa ban cho con ơn tha thứ và bình an. Giờ đây Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.”
(4) Đền tội và sửa chữa các khuyết điểm: Sau khi hối nhân nhận được ơn tha thứ, Thánh Thần giúp họ làm lại cuộc đời bằng việc ban các ân sủng cần thiết để họ làm lại cuộc đời và sống thánh thiện, xứng đáng như những người con cái Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn, như thánh Phaolô nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần;” và chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên với Ngài, nhất là những giờ phút nghi ngờ, do dự, và không biết quyết định làm sao.
– Chúng ta không thể hiểu biết và nhận ra sự thật của Thiên Chúa nếu không nhận được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện với Ngài trên đường đi tìm sự thật.
– Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách quét sạch những xấu xa, tội lỗi; và làm đầy tâm hồn bằng sự thật và ân sủng. Ngài cũng giúp chúng ta có sức mạnh và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa.
30.QUÀ TẶNG THÁNH THẦN
Lm. Jos. DĐH
Cô đơn, buồn chán là nỗi ám ảnh chung, ai cũng ngại khi phải nghĩ tới; phấn khởi, hân hoan, là dấu chỉ người khỏe mạnh, thành đạt; thư thái bình an là phong cách của người có đầy tràn sự tự tin. Khi nói đến tình yêu, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp, nét đẹp đáng yêu ấy vẫn chất chứa đầy bí ẩn, do đó ta khó mà diễn tả được hết ý, nhưng ai cũng trân trọng, dù là tình yêu đôi lứa hay tình yêu quê hương. Sức mạnh, ý chí luôn cần cho người đau yếu, người đang đối diện với những nghịch cảnh; bác sĩ thì luôn thiết thực cho mọi người mọi lúc, còn tình yêu lại hấp dẫn đối với mọi thành phần già, trẻ lớn bé.
Được tặng quà, được niềm vui, ít nhiều gì chúng ta cũng thấy hạnh phúc, dù chúng ta chưa hiểu hết ý nghĩa và giá trị của quà tặng. Sở dĩ chúng ta nói với nhau về quà tặng, về niềm vui, là do Chúa Thánh Thần chính là quà tặng, là trung tâm của mọi sinh hoạt nơi Giáo hội. Chúa Thánh Thần là ơn ban của Chúa Giêsu như Ngài đã hứa, nay đã được thông ban cho các tông đồ, các đấng đang tiếp tục sứ mạng Chúa trao.
Sách Công vụ hôm nay diễn tả “quà tặng Thánh Thần” được ban xuống và hiện diện trên mỗi tông đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô ghi nhận những công việc của Thánh Thần đang hoạt động nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo hội. Quà tặng Thánh Thần chính là sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một phép rửa, và một tình yêu; tất cả đều cho thấy sự sinh động : không ai có thể nói Đức Giêsu là Chúa nếu không ở trong Thần Khí. Có nhiều thứ ân sủng nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều thứ chức vụ nhưng chỉ có một Chúa.
Để nói lên một sự thật, minh chứng về tình yêu của mình không thể không trả giá cho hành động của mình. Chúa Giêsu chia sẻ cho nhân loại : Ngài chính là “Quà Tặng” của Thiên Chúa, Ngài chính là “Sự Thật” được ban cho con người, “Quà Tặng ấy, Sự thật ấy” Đức Giêsu đã diễn tả bằng “cuộc tử nạn và phục sinh”. Ngày hôm nay, các môn đệ, những ai theo Chúa, và tất cả chúng ta đây, nếu ý thức mình được “Quà tặng Giêsu”, tất nhiên tình yêu và quà tặng ấy, cũng được ơn ban thúc đẩy để chúng ta sống và minh chứng Đức Giêsu là ai.
Tục ngữ có câu : cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Ai cũng cần tình yêu, cần hạnh phúc, nhưng chúng ta cần phương tiện để bằng khối óc, con tim, để bằng đôi chân của mình chúng ta bước tới niềm vui hạnh phúc thật. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay, Ngài đến giữa các Tông đồ khi mà các ông đang lo sợ đủ điều, và Chúa Phục Sinh không ban thứ “vũ khí” nào khác hơn đó là “ơn bình an” là “quà tặng Thánh Thần”, và chỉ cho các ông biết sứ mạng tông đồ là gì, là tình yêu và ơn ban cần được chia sẻ.
Bóng dáng những tâm hồn yêu nhau không thể thiếu cụm từ xinh đẹp và hạnh phúc, xây dựng phát triển không thể thiếu những cố gắng, hy sinh và đặc biệt là tình yêu hiệp thông. Trăng tròn rồi trăng khuyết, tình đến rồi tình đi; chỉ có tình yêu và lòng trung thành là bền vững, là đẹp mãi trong sứ mạng theo Chúa làm tông đồ. Các Tông đồ nhờ “ơn ban Thánh Thần”, các ông mới hiểu “Quà tặng Giêsu” luôn ở trong tâm hồn và hành trình đức tin của các ông phải được chia sẻ.
Tâm tình mà Đấng Phục Sinh muốn đặt nơi các tông đồ, nơi chúng ta hôm nay, là hãy tin tưởng vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Thánh Thần ở trong Giáo hội cũng như trong tâm hồn mỗi người Kitô hữu. Sống ở đời này, ai ai cũng cần tình yêu, cần đến sự trợ giúp bổ túc cho nhau. Chúng ta tin Chúa Giêsu là “Quà tặng” Thiên Chúa ban, chúng ta cũng được mời gọi để đón nhận và sử dụng “món quà Giêsu” đúng với tinh thần người môn đệ : tin tưởng, cậy trông yêu thương và dấn thân chia sẻ.
Trong “Truyện hay Phương Tây”, người ta có chia sẻ : trên một chuyến xe buýt, có một ông già đăm chiêu với bó hoa hồng tươi thắm trên tay. Phía đối diện ông già là một cô gái trẻ, đang say sưa ngắm nhìn bó hồng ấy vẻ thích thú. Đã đến lúc ông già xuống xe. Như một sự việc bất ngờ, ông già trao tặng cho cô gái trẻ bó hoa và nói : Bác nghĩ cháu sẽ thích bó hoa này, và Bác nghĩ rằng vợ Bác cũng rất vui lòng khi biết Bác trao tặng bó hoa cho cháu.
Ngỡ ngàng vì món quà đến quá nhanh, cô gái trẻ chỉ biết nói lí nhí : cháu cảm ơn Bác, dõi theo ông già xuống xe, đúng là Bác đang bước vào nghĩa trang, và mọi người có thể đoán được là ông đi thăm ngôi mộ của vợ ông, chỉ đơn giản thế thôi, người bạn trăm năm của ông, tấm lòng của ông, quà tặng của ông sẽ nói lên thế nào là tình yêu.
Quà tặng Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho các tông đồ, và các ông đã biết trân trọng chia sẻ trong sứ mạng Chúa trao, nói cách khác là các ông được biến đổi để trở nên ngư phủ của Chúa Giêsu. Quà tặng Thánh Thần đã chỉ dẫn ông già tới thăm viếng ngôi mộ của vợ mình, “bó hoa hồng”, quà tặng ấy, nhất định sẽ thúc đẩy cô gái sống tình yêu thương mà cô đã hạnh phúc khi lãnh nhận. Quà tặng Thánh Thần sẽ còn được nói tới nhiều trong đời sống của từng người tin theo Chúa là chúng ta hôm nay. Hy vọng, mỗi chúng ta sẽ là chứng nhân, là Tin Mừng Phục Sinh, là hoa trái thánh thiện mà Chúa Thánh Thần đang hành động nơi cuộc sống này. Amen.
08/06 Làm chứng cho Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Làm chứng cho Chúa.
Thứ Bảy tuần 7 Phục Sinh.
"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".
Lời Chúa: Ga 21, 20-25
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi nhất là để suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô.
Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.
Chắc chắn, không phải tất cả chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Về thánh Gioan
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, suy niệm lâu dài mãi tới già.
Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống, niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ, đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.
Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.
Chúng ta không nên đợi những người khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Tôi”.
CG.
SUY NIỆM 3: Làm chứng tá cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: CẢM NGHIỆM VÀ LÀM CHỨNG (Ga 21, 20-25)
Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây đăng tin:
Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.
Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.
Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.
Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?
“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.
“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.
Thánh Gioan hôm nay hiện lên trên trang Tin Mừng như một người chứng về tất cả những gì ngài đã viết trong Tin Mừng của mình về Đức Giêsu. Ngài đã trở nên chứng nhân cho tất cả những gì đã viết là bởi vì ngài đã được ở với Đức Giêsu, được nghe lời dạy, và cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt mà Thầy đã dành cho mình. Như vậy, muốn hiểu phải yêu, và khi đã yêu thì phải làm chứng và lời chứng của người đó mới thật.
Như vậy, phụng vụ hôm nay muốn mời gọi chúng ta rằng: hãy yêu mến Chúa tha thiết, lắng nghe lời Ngài và hãy trở nên chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng trái đất.
Tuy nhiên, không có một mẫu số chung nào cho mọi người, vì thế, mỗi người mỗi cách, miễn sao cho Tin Mừng được loan báo và hợp với tinh thần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, để từ đó cũng sẵn sàng trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng cách sống động trong cuộc sống hiện tại của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Lời chứng xác thực
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa của đời con,
chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng định đầy bất an
khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen.
(Karl Rahner, S.J.)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
07/06 Cơ hội thứ hai
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cơ hội thứ hai.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 7 Phục Sinh.
“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”
Lời Chúa: Ga 21, 15-19
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cơ hội thứ hai.
Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai. Thật thế, trong Bữa Tiệc ly trước khi chịu khổ hình, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ: “Tất cả các con sẽ bị vấp ngã vì Ta trong đêm nay”. Nghe thế, Phêrô phản đối và quả quyết: “Cho dù tất cả vấp ngã vì Thày, con sẽ không vấp ngã bao giờ”, nhưng rồi chỉ vài giờ sau đó ông đã nhát đảm chối Thày đến ba lần. Giờ đây, sau khi Phục sinh. Chúa Giêsu đã gặp riêng Phêrô và cho ông cơ hội thứ hai. Chúa hỏi: “Simon, con của Giona, con có mến Ta hơn những người này không?. Phêrô không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: những giọt lệ thống hối chân thành sau khi chối Thày đã không đủ để minh chứng mình yêu mến Thày sao? Nhưng Phêrô đã học được bài học của quá khứ, nhất là bài học khiêm nhường cần thiết để lãnh nhận ơn cứu rỗi mà nhóm Biệt phái không thể lãnh nhận được vì tự cao tự đại. Phêrô đã thưa: “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày”. Ba lần hỏi dẫn đến ba câu trả lời cùng một nội dung, nhưng không phải là để bù đắp cho ba lần chối Thày trước đây, mà là một đòi hỏi tiên quyết là tuyên xưng lòng yêu mến. Sau đó, Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, Phêrô đã sống đến tận cùng cơ hội thứ hai và đã sẵn lòng chết vì niềm tin của mình.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá ra lòng nhân từ vô biên của Chúa, để chúng ta luôn khiêm nhường chỗi dậy sau mỗi lần sa ngã, và xin Chúa ban cho chúng ta trung thành với ơn Chúa cho đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Lãnh trọng trách
Mùa phục sinh sắp hoàn tất. Suốt mùa, chúng ta được Đức Kitô giáo huấn. Lời Người rao giảng cho chúng ta mỗi ngày giúp chúng ta gắn bó hơn với Người trong cuộc đời Kitô hữu đã rửa tội và được sống lại.
Sau phần giáo huấn của Đức Kitô, có lẽ chúng ta sẵn sàng gắn bó sâu hơn với Người. Nhận biết như Chúa là luôn luôn tiến sâu nữa. Hôm nay, chúng ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Đức Giêsu như thánh Phê-rô đã đáp lời Người: “Si-mon, con ông Gio-na, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Anh đã học biết Thầy, Thầy đã giới thiệu anh với Cha Thầy, bây giờ anh biết kế hoạch cứu độ loài người, Thầy yêu anh, Thầy đã tha thứ cho anh: vậy “Anh có mến Thầy không?”
“Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”, ba lần Phê-rô đã quyết hứa lòng mộ mến Thầy. Tuy nhiên, Đức Giêsu không dừng lại đây, Người nhấn mạnh Phê-rô phải lãnh trọng trách đối với những người khác: “Để chứng tỏ anh mến Thầy là anh phải yêu mến anh em”. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Ai quả quyết mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối?”.
Lãnh trọng trách còn đi xa hơn nữa: mỗi lần gắn bó với ai, luôn luôn hy sinh sức khỏe, tự ái, tự do của mình cho người ấy: “Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn đến”.
Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.
Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.
CG.
SUY NIỆM 3: Yêu thương vô điều kiện
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ như một người bình thường trên Biển Hồ Tiberia. Ngài giúp cho các môn đệ bắt được nhiều cá và sau khi ăn sáng xong với các môn đệ, Chúa Giêsu liền hỏi ông Phêrô: “Này anh Phêrô, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Chúa hỏi ông Phêrô đến ba lần, điều này khiến ông đau lòng vì nhắc ông nhớ tới việc đã công khai chối Thầy đến ba lần. Và trước mặt Chúa, Phêrô đã khẳng định với Ngài rằng ông yêu mến Ngài hơn các môn đệ khác. Chỉ trong lúc đó Phêrô mới hiểu rằng tình yêu của Thầy đổ tràn lên ông hơn là tình yêu của ông đối với Thầy. Trước đây, Phêrô đã từng hùng hồn tuyên xưng trước các môn đệ khác rằng: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. Nhưng sau kinh nghiệm cay đắng vì sự phản bội của mình, Phêrô ý thức về sự yếu đuối của mình để hiểu rằng ông phải hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa chứ không ở khả năng của mình, vì thế mà Phêrô đã thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Chúa Giêsu, trước khi giao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô chỉ đòi hỏi ở ông duy nhất một điều kiện, đó là tuyệt đối yêu mến Ngài. Chúa không đòi hỏi người môn đệ khả năng xuất chúng để lèo lái Giáo Hội, cũng như trí thông minh phi thường để đối phó với các thử thách mà Ngài chỉ đơn giản hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đã chọn ông Phêrô làm người đứng đầu Hội Thánh không phải vì ông yêu mến Chúa hơn các môn đệ khác, nhưng vì Chúa Giêsu đã đặt ông đứng đầu Hội Thánh nên ông phải yêu Chúa và yêu các môn đệ nhiều hơn cũng như cần phải trung thành nhiều hơn nữa.
Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện qua việc yêu mến tha nhân, và xin giúp cho chúng con yêu họ một cách cụ thể bằng việc quan tâm đến những niềm vui cũng như nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: CÓ YÊU THÌ MỚI CHU TOÀN (Ga 21, 15-19)
Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:
“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.
Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu”. Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao phó quyền chủ chăn cho Phêrô. Biết được vai trò, sứ mạng và những khó khăn mà ông sẽ đón nhận từ mình, nên Đức Giêsu đã cật vấn ông tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Có lẽ Đức Giêsu hỏi ông như thế là vì muốn ông từ nay phải trở nên người trưởng thành thực sự chứ không phải như những lần trước, vừa mới thề sống chết với Thầy, rồi sau đó lại chối Thầy vì sợ liên lụy. Ý thức được điều đó, nên ông đã tỏ ra buồn rầu và xấu hổ.
Tuy nhiên, sứ vụ mà ông sắp đón nhận là một cuộc hành trình đầy cam go, cần phải có tình yêu đủ lớn thì mới có thể chung chia sứ vụ với Thầy được.
Thật vậy, Phêrô đã ý thức điều đó, và ông đã tuyên xưng mạnh mẽ với đầy tràn tình yêu và Thần Khí Thiên Chúa trong mình: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Ngày nay, Chúa cũng trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài cho các mục tử trong Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài trở nên những mục tử “như lòng Chúa mong ước”. Trở nên những mục tử không chỉ “biết” mà còn “ngửi thấy mùi chiên”.
Bên cạnh đó, trong chức tư tế phổ quát, mỗi người chúng ta cũng đều là mục tử khi được tham dự vào chức tư tế độc nhất của Đức Giêsu qua Bí tích Rửa Tội, vì thế, chúng ta cũng không ngừng vươn tới mẫu gương của Đức Giêsu là mục tử nhân lành để noi theo và sống ơn gọi bằng cách chu toàn bổn phận của mình trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hết mọi thành phần dân Chúa, dù trong vai trò gì, cũng luôn biết lấy tình yêu làm lẽ sống, để qua đó, mỗi người sẽ được sống trong một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Hãy theo Thầy
Suy niệm :
Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ,
một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Ghennêxarét, hồ Tibêriát.
Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò.
Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên: Hãy theo Thầy.
Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước
để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.
Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này.
Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.
Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn,
nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.
Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo.
Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.
Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế,
nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy (Ga 18, 18. 25).
Bây giờ, cũng bên đống than hồng,
Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.
“Anh có yêu mến Thầy không ?”: ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế.
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”: ba lần Phêrô trả lời như thế.
Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.
Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ.
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”: ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế.
Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.
Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy.
Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.
Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,
nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy (cc. 18-19),
chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa (c. 19).
“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy”, sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).
Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu:
Con có mến Thầy không?
Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng,
vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.
Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư.
Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: Hãy theo Thầy.
Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên
bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 06/06 Sức mạnh của hiệp nhất
- 05/06 Xin Cha gìn giữ họ
- 04/06 Ngưỡng cửa vào sự sống
- 03/06 Cùng hiệp thông với Chúa
- 02/06 Chúa Giêsu lên trời
- 01/06 Đứng về phía Chúa
- 31/05 Nhận ra dấu chỉ của Chúa
- 30/05 Nỗi buồn sẽ thành niềm vui
- 29/05 Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh
- 28/05 Hoạt động của Thánh Thần